TÁC HẠI CỦA MA TÚY

  1. MA TÚY - HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

  2. MA TÚY - HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

  3. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện

  4. RỐI LOẠN TÂM THẦN DO BÓNG CƯỜI VÀ CÁC CHẤT BAY HƠI – DUNG MÔI HỮU CƠ

  5. TÁC HẠI CỦA CÁC CHẤT BAY HƠI, DUNG MÔI HỮU CƠ, BÓNG CƯỜI

  6. BIỂU HIỆN TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

  7. BIỂU HIỆN TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

  8. Cỏ Mỹ - Một loại ma túy cực nguy hiểm

  9. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

 10. DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY

 11. Phân loại ma túy: Các chất bay hơi - Dung môi hữu cơ - Bóng cười

 12. VTV24: Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá

 13. VTC14: Chơi ma túy đá, tàn phá cuộc đời

 14. VTC14 : Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường

 15. O2TV - Ma túy tổng hợp và những tác hại

 16. VTV2 - Tìm hiểu tác hại của ma túy đá - đập đá

 17. Phóng sự - ANTD - Ma túy - Hiểm họa từ thế giới ảo

 18. ANTV - Tác hại của ma túy đá

 19. VTC14 - Hiểm họa ma túy

 20. VTV2 - Hiểm họa ma túy đá

 21. RỐI LOẠN TÂM - SINH LÝ TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 22. TÁC HẠI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN (GÂY YÊN DỊU, GÂY NGỦ VÀ GIẢI LO ÂU)

 23. TÁC HẠI CỦA CÁC CHẤT BAY HƠI, DUNG MÔI HỮU CƠ, BÓNG CƯỜI

 24. TÁC HẠI MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG HOANG TƯỞNG - CẦN SA

 25. TÁC HẠI CỦA MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH - COCAINE

 26. Các biểu hiện tác hại của ma túy tổng hợp dạng kích thích

 27. TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

 28. TÁC HẠI CỦA MA TÚY DẠNG ĐÊ MÊ (THUỐC PHIỆN - MORPHIN - HEROIN)

 29. Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy

 30. MA TÚY - HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

 31. PHIM TÀI LIỆU: TÁC HẠI CỦA MA TÚY

 32. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY

MA TÚY – HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

MA TÚY - HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

TRẦN VIỆT TRUNG

Giám đốc Trung tâm

Nghiên cứu và Trợ giúp

cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS


Ma túy đang hàng ngày hủy hoại biết bao tâm hồn, giết chết nhiều nhân mạng và hơn thế nữa, phá vỡ cuộc sống bình yên của hàng vạn gia đình và đe dọa an ninh trật tự xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng minh ma quỷ của ma túy là bệnh tật và HIV/AIDS. Ngày 26/6 hàng năm là ngày Liên Hợp Quốc lấy làm ngày Quốc tế phòng, chống ma túy và đối với nước ta là ngày Toàn dân phòng, chống ma túy. Nhân ngày 26/6/2013, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Việt Trung-nguyên Phó cục trưởng Cục Phòng, chống Tệ nạn xã hội, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS thuộc Hội Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam.


Đứng trước hiểm họa to lớn mang tính toàn cầu của tệ nạn ma túy đối với từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung, cách đây trên 26 năm, bắt đầu từ năm 1987, Liên Hợp Quốc đã ra Nghị quyết lấy ngày 26 tháng 6 làm ngày Quốc tế phòng chống ma túy và từ đó, nhân ngày này hàng năm, Liên Hợp Quốc đưa ra các thông điệp với các chủ đề khác nhau, mang ý nghĩa như một lời kêu gọi các quốc gia trên thế giới cần tập trung các hoạt động phòng chống, kiểm soát ma túy theo định hướng về một vấn đề bức xúc, cấp thiết trong từng thời kỳ.


Hưởng ứng ngày Quốc tế phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc, từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã quyết định lấy ngày 26/6 hàng năm là ngày “Toàn dân phòng chống ma túy”. Như vậy, song song với việc hưởng ứng thông điệp và chủ đề phòng chống, kiểm soát ma túy của Liên Hợp Quốc, hàng năm Chính phủ phát động những tháng cao điểm phòng chống ma túy với nhiều hoạt động trên các lĩnh vực công tác phòng chống, kiểm soát ma túy, trong đó có chỉ đạo trọng tâm theo từng chủ đề của Liên Hợp Quốc đưa ra hàng năm.


Gần đây, việc xuất hiện các chất mới có tác dụng tâm thần (tên tiếng Anh viết tắt là NPS), có đặc tính dược lý và tác dụng tương tự như các loại chất đã được biết đến trước đó nhưng nằm ngoài danh mục các chất bị kiểm soát theo Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc và được mua bán một cách hợp pháp tại nhiều quốc gia đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng. Do đó, năm nay Liên Hợp Quốc đưa ra Thông điệp nhân ngày 26/6 kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy xây dựng một cuộc sống lành mạnh, đề cao việc rèn luyện sức khỏe để tránh xa ma túy: “Hãy bằng sức khỏe của bạn “thăng hoa” trong cuộc sống, không cần ma túy” (Tên gốc tiếng Anh: “Make health your “new high” in life, not drugs”).


1. SỰ TRỞ LẠI CỦA MỘT LOẠI TỆ NẠN:

Cho tới nay, không ai khẳng định được cây thuốc phiện (còn gọi là cây Anh túc) được đưa vào trồng ở Việt Nam bằng cách nào và từ bao giờ. Tuy nhiên, ta thấy trong các văn bản của Nhà Nguyễn để lại về các điều Luật và Hình phạt thì đã có nhiều nội dung.


Cho tới đầu thập kỷ 80 (giai đoạn 1984-1985), tệ trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta đã giải quyết được cơ bản và có thể nói hầu như đã bị xóa bỏ. Chỉ còn rải rác một số tỉnh miền núi cao phía Bắc trồng với sản lượng không đáng kể và chủ yếu là người già dân tộc thiểu số hút theo thói quen lâu đời khó bỏ. Ở miền Nam, dưới chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, tệ nạn ma túy bùng phát với phạm vi, quy mô lớn để phục vụ cho mưu đồ làm giàu cá nhân của những tướng lĩnh ngụy quân, chóp bu ngụy quyền Sài Gòn. Họ chuyển ma túy bằng tàu xe, quân đội, thậm chí lợi dụng chuyên cơ buôn bán ma túy từ Tam giác Vàng về Việt Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, chế độ cũ đã để lại hơn 170.000 người nghiện hút, chích ma túy (xì ke) cùng với những vấn đề phức tạp nhiều mặt về kinh tế-xã hội đất nước. Một lần nữa, chúng ta lại bắt tay vào giải quyết những hậu quả của chiến tranh, trong đó có một công việc nặng nề là chữa trị, giáo dục và cai nghiện cho những người nghiện ma túy ở phía Nam. Với sự nỗ lực của toàn dân, toàn xã hội, chúng ta đã cải tạo, hoàn lương hơn 100.000 người nghiện, đưa họ trở lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc như các công dân khác trong xã hội.


Kết quả, đầu những năm 80, theo số liệu của các cơ quan chức năng, cả nước chỉ còn khoảng 30.000 - 40.000 người nghiện ma túy.


Vào cuối những năm 80, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tệ nạn xã hội nói chung, tệ nghiện ma túy nói riêng lại hồi sinh, nảy nở và phát triển mau chóng. Sự mở cửa và những mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực tới một số lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nạn tái trồng cây thuốc phiện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc kéo theo tệ nghiện ma túy đã phục hồi và lây lan nhanh chóng nhiều nơi và trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt trong lứa tuổi thanh thiếu niên.


2. SỰ GIA TĂNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY.

Trong thời kỳ những năm 2000 - 2008, sự gia tăng nhanh chóng số lượng người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh một số người nghiện mới gia tăng, phần lớn là số người nghiện cũ nay mới được phát hiện hoặc tự khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện. Số liệu gia tăng người nghiện của thành phố Hồ Chí Minh là một biểu hiện rõ nét: vào cuối năm 2000 có 15.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2008 đã có hơn 32.000 người nghiện được cai tập trung tại 17 cơ sở cai nghiện của thành phố. Tại tỉnh Sơn La, một địa phương nghèo của miền núi phía Bắc, năm 2000 mới có khoảng 4.000 người nghiện có hồ sơ quản lý thì tới năm 2008 đã phát hiện trên 16.000 người nghiện và nếu kể cả số nghi nghiện thì con số trên lên tới 23.000 người! Tình hình ở nhiều địa phương khác cũng tương tự như vậy.


Những năm gần đây, mặc dù chúng ta đạt được nhiều thành tích, kết quả đáng mừng trong các hoạt động ngăn chặn và triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển và ổ nhóm tổ chức sử dụng ma túy, trong công tác cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai nghiện nhưng tình hình tệ nạn ma túy vẫn diễn biến phức tạp, số người nghiện giảm không đáng kể, thậm chí có nhiều địa bàn, nhiều địa phương số người nghiện còn gia tăng nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2012, số người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước là 171.000 người, giảm so với năm 2007 (178.000 người) nhưng lại tăng so với năm 2010 (132.000 người)


Thời gian qua, mặc dù các đường dây, ổ nhóm buôn bán, vận chuyển ma túy lớn ở trong nước và cả xuyên quốc gia bị truy quét, triệt phá mạnh nhưng bằng nhiều con đường, ma tuý vẫn thẩm lậu khá nhiều vào nước ta và hệ thống, mạng lưới bán lẻ ly ti ở khắp nơi vẫn chưa bị xóa bỏ cơ bản, vẫn là nguồn cung cấp ma túy dồi dào cho dân nghiện.


Điều nguy hiểm hơn là sự xuất hiện ngày càng nhiều ở một số địa phương, đặc biệt ở các thành phố lớn, các loại ma túy tổng hợp dạng kích thích (ATS, Estasy)… với mức độ độc hại rất cao, lại dễ vận chuyển, dễ bán lẻ trao tay, sử dụng bằng đường uống như các loại tân dược thông thường hoặc các dụng cụ hút hít đơn giản đang là nguy cơ làm gia tăng nhanh chóng số người nghiện ở nước ta, đặc biệt trong lứa tuổi trẻ. Gần đây, giới ăn chơi nhiều tiền trong thanh niên đang sử dụng loại ma túy mới được gọi là hàng “đá” (một dạng của Methammetamine) với cách hút, hít bằng các dụng cụ dễ tự chế. Đây là loại ma tuý hết sức nguy hiểm tới thần kinh và sức khỏe con người. Ma túy là kẻ đồng hành với tội phạm, bệnh tật và đại dịch HIV/AIDS. Khoảng trên 60% trong số trên 272.000 người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện cho tới nay còn sống bị lây truyền do qua con đường tiêm chích ma túy.


3. MỘT CUỘC CHIẾN GAY GO VÀ PHỨC TẠP:

Trước sự lây lan, phát triển nhanh chóng tệ nạn ma túy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối và chính sách kịp thời, kiên quyết về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Nghị quyết 06/CP ngày 29/1/1993 được mở đầu như hiệu lệnh cho một cuộc chiến mới với ma túy được chính thức phát động. Đồng thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng ban hành nhiều Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn sự lây lan, phát triển của tệ nạn ma túy, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.


Những nội dung công tác và cũng là nhiệm vụ chủ yếu được đặt ra là:

- Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân về tác hại, hiểm họa cả trước mắt và lâu dài của tệ nạn ma túy, về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và công tác phòng, chống tệ nạn ma túy để mọi người dân hiểu, đồng tình ủng hộtham gia cuộc đấu tranh chung; vận động, thuyết phục đồng bào miền núi không trồng cây thuốc phiện và chuyển sang trồng loại cây khác; tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề và tìm kiếm việc làm cho người nghiện ma túy; phát hiện và trừng trị nghiêm bọn tội phạm. Song song với sự ra đời các văn bản pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy từ cơ quan chỉ đạo, tham mưu giúp việc cho tới các cơ quan chuyên trách của các ngành chức năng được hình thành, củng cố.

- Công tác phòng, chống ma túy do Chính phủ phát động đã được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các Bộ, Ngành, Đoàn thể Trung ương, các địa phương và cơ sở cũng như của toàn dân và toàn xã hội.


Tuy nhiên, ma túy tựa con quái vật khổng lồ chặt đứt vòi này, lại mọc vòi khác. Cũng như tệ nạn mại dâm, tệ buôn ma túy đem lại những món lợi lớn cho những kẻ ham tiền liều mạng. Với lãi suất thông thường từ 5-7 lần cho tới hàng chục lần nếu bán tận tay người nghiện (thậm chí nếu trung chuyển được sang một số quốc gia khác có thể lên tới hàng trăm lần) thì bọn tội phạm không trừ một thủ đoạn nào, một mưu mô, phương kế hiểm độc nào để thực hiện những hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật.


Đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy ngày càng trở nên có quy mô, tổ chức lớn, phức tạp, từ những đường dây xuyên quốc gia, liên tỉnh cho tới mạng lưới bán lẻ với hàng vạn chiếc vòi nhỏ vươn tới từng ngõ hẻm, trường học, vườn hoa, nơi sinh hoạt công cộng… tại các đô thị, thành phố lớn đến tận những làng quê heo hút, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh với tệ nạn ma túy trên các lĩnh vực giảm cung giảm cầu đòi hỏi lòng quyết tâm, sự dũng cảm, tính kiên trì và linh hoạt của những người làm công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, trước hết là những người hàng ngày đối mặt trực tiếp với tệ nạn này. Cuộc chiến với ma túy vẫn đang là một mặt trận nóng bỏng, đầy hiểm nguy và đổ máu, hy sinh.


4. MỐI QUAN HỆ CUNG CẦU:

Trong cuộc đấu tranh này, cung và cầu về ma túy có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Nguồn cung bị chặt mạnh sẽ làm có tác động làm giảm cầu và ngược lại, giảm mạnh cầu có hiệu quả góp phần hạn chế cung. Một số địa phương tuy nghèo nhưng vì là vùng giáp biên hoặc nằm trên trục đường buôn bán, vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam nên có số người nghiện khá cao như Điện Biên, Sơn La, Lao Cai, Nghệ An…Mặt khác tại những thành phố lớn hoặc nơi tập trung dân cư, khu công nghiệp, du lịch v.v do các tệ nạn xã hội lây lan, phát triển mạnh đã kéo theo tệ buôn bán, tổ chức sử dụng ma túy trên nhiều địa bàn, trong nhiều lứa tuổi, dẫn tới gia tăng tệ nghiện hút, chích ma túy, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Không ít gia đình vừa có người nghiện ma túy vừa có người tham gia các tội phạm về buôn bán hoặc tổ chức sử dụng ma túy. Thực tế trên đòi hỏi trong cuộc đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn ma túy, không thể thiên về mặt nào và cũng không thể chỉ một Bộ, ngành nào đảm nhiệm, mà phải là sự đồng tâm, hiệp lực của toàn dân, toàn xã hội trong cuộc đấu tranh đầy gian khó, phức tạp này. Nếu không, mọi sự nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ chỉ là uổng công, vô nghĩa.

MA TÚY – HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

MA TÚY - HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

TRẦN VIỆT TRUNG

Giám đốc Trung tâm

Nghiên cứu và Trợ giúp

cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS


Ma túy đang hàng ngày hủy hoại biết bao tâm hồn, giết chết nhiều nhân mạng và hơn thế nữa, phá vỡ cuộc sống bình yên của hàng vạn gia đình và đe dọa an ninh trật tự xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng minh ma quỷ của ma túy là bệnh tật và HIV/AIDS. Ngày 26/6 hàng năm là ngày Liên Hợp Quốc lấy làm ngày Quốc tế phòng, chống ma túy và đối với nước ta là ngày Toàn dân phòng, chống ma túy. Nhân ngày 26/6/2013, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Việt Trung-nguyên Phó cục trưởng Cục Phòng, chống Tệ nạn xã hội, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS thuộc Hội Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam.


Đứng trước hiểm họa to lớn mang tính toàn cầu của tệ nạn ma túy đối với từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung, cách đây trên 26 năm, bắt đầu từ năm 1987, Liên Hợp Quốc đã ra Nghị quyết lấy ngày 26 tháng 6 làm ngày Quốc tế phòng chống ma túy và từ đó, nhân ngày này hàng năm, Liên Hợp Quốc đưa ra các thông điệp với các chủ đề khác nhau, mang ý nghĩa như một lời kêu gọi các quốc gia trên thế giới cần tập trung các hoạt động phòng chống, kiểm soát ma túy theo định hướng về một vấn đề bức xúc, cấp thiết trong từng thời kỳ.


Hưởng ứng ngày Quốc tế phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc, từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã quyết định lấy ngày 26/6 hàng năm là ngày “Toàn dân phòng chống ma túy”. Như vậy, song song với việc hưởng ứng thông điệp và chủ đề phòng chống, kiểm soát ma túy của Liên Hợp Quốc, hàng năm Chính phủ phát động những tháng cao điểm phòng chống ma túy với nhiều hoạt động trên các lĩnh vực công tác phòng chống, kiểm soát ma túy, trong đó có chỉ đạo trọng tâm theo từng chủ đề của Liên Hợp Quốc đưa ra hàng năm.


Gần đây, việc xuất hiện các chất mới có tác dụng tâm thần (tên tiếng Anh viết tắt là NPS), có đặc tính dược lý và tác dụng tương tự như các loại chất đã được biết đến trước đó nhưng nằm ngoài danh mục các chất bị kiểm soát theo Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc và được mua bán một cách hợp pháp tại nhiều quốc gia đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng. Do đó, năm nay Liên Hợp Quốc đưa ra Thông điệp nhân ngày 26/6 kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy xây dựng một cuộc sống lành mạnh, đề cao việc rèn luyện sức khỏe để tránh xa ma túy: “Hãy bằng sức khỏe của bạn “thăng hoa” trong cuộc sống, không cần ma túy” (Tên gốc tiếng Anh: “Make health your “new high” in life, not drugs”).


1. SỰ TRỞ LẠI CỦA MỘT LOẠI TỆ NẠN:

Cho tới nay, không ai khẳng định được cây thuốc phiện (còn gọi là cây Anh túc) được đưa vào trồng ở Việt Nam bằng cách nào và từ bao giờ. Tuy nhiên, ta thấy trong các văn bản của Nhà Nguyễn để lại về các điều Luật và Hình phạt thì đã có nhiều nội dung.


Cho tới đầu thập kỷ 80 (giai đoạn 1984-1985), tệ trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta đã giải quyết được cơ bản và có thể nói hầu như đã bị xóa bỏ. Chỉ còn rải rác một số tỉnh miền núi cao phía Bắc trồng với sản lượng không đáng kể và chủ yếu là người già dân tộc thiểu số hút theo thói quen lâu đời khó bỏ. Ở miền Nam, dưới chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, tệ nạn ma túy bùng phát với phạm vi, quy mô lớn để phục vụ cho mưu đồ làm giàu cá nhân của những tướng lĩnh ngụy quân, chóp bu ngụy quyền Sài Gòn. Họ chuyển ma túy bằng tàu xe, quân đội, thậm chí lợi dụng chuyên cơ buôn bán ma túy từ Tam giác Vàng về Việt Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, chế độ cũ đã để lại hơn 170.000 người nghiện hút, chích ma túy (xì ke) cùng với những vấn đề phức tạp nhiều mặt về kinh tế-xã hội đất nước. Một lần nữa, chúng ta lại bắt tay vào giải quyết những hậu quả của chiến tranh, trong đó có một công việc nặng nề là chữa trị, giáo dục và cai nghiện cho những người nghiện ma túy ở phía Nam. Với sự nỗ lực của toàn dân, toàn xã hội, chúng ta đã cải tạo, hoàn lương hơn 100.000 người nghiện, đưa họ trở lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc như các công dân khác trong xã hội.


Kết quả, đầu những năm 80, theo số liệu của các cơ quan chức năng, cả nước chỉ còn khoảng 30.000 - 40.000 người nghiện ma túy.


Vào cuối những năm 80, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tệ nạn xã hội nói chung, tệ nghiện ma túy nói riêng lại hồi sinh, nảy nở và phát triển mau chóng. Sự mở cửa và những mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực tới một số lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nạn tái trồng cây thuốc phiện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc kéo theo tệ nghiện ma túy đã phục hồi và lây lan nhanh chóng nhiều nơi và trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt trong lứa tuổi thanh thiếu niên.


2. SỰ GIA TĂNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY.

Trong thời kỳ những năm 2000 - 2008, sự gia tăng nhanh chóng số lượng người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh một số người nghiện mới gia tăng, phần lớn là số người nghiện cũ nay mới được phát hiện hoặc tự khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện. Số liệu gia tăng người nghiện của thành phố Hồ Chí Minh là một biểu hiện rõ nét: vào cuối năm 2000 có 15.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2008 đã có hơn 32.000 người nghiện được cai tập trung tại 17 cơ sở cai nghiện của thành phố. Tại tỉnh Sơn La, một địa phương nghèo của miền núi phía Bắc, năm 2000 mới có khoảng 4.000 người nghiện có hồ sơ quản lý thì tới năm 2008 đã phát hiện trên 16.000 người nghiện và nếu kể cả số nghi nghiện thì con số trên lên tới 23.000 người! Tình hình ở nhiều địa phương khác cũng tương tự như vậy.


Những năm gần đây, mặc dù chúng ta đạt được nhiều thành tích, kết quả đáng mừng trong các hoạt động ngăn chặn và triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển và ổ nhóm tổ chức sử dụng ma túy, trong công tác cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai nghiện nhưng tình hình tệ nạn ma túy vẫn diễn biến phức tạp, số người nghiện giảm không đáng kể, thậm chí có nhiều địa bàn, nhiều địa phương số người nghiện còn gia tăng nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2012, số người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước là 171.000 người, giảm so với năm 2007 (178.000 người) nhưng lại tăng so với năm 2010 (132.000 người)


Thời gian qua, mặc dù các đường dây, ổ nhóm buôn bán, vận chuyển ma túy lớn ở trong nước và cả xuyên quốc gia bị truy quét, triệt phá mạnh nhưng bằng nhiều con đường, ma tuý vẫn thẩm lậu khá nhiều vào nước ta và hệ thống, mạng lưới bán lẻ ly ti ở khắp nơi vẫn chưa bị xóa bỏ cơ bản, vẫn là nguồn cung cấp ma túy dồi dào cho dân nghiện.


Điều nguy hiểm hơn là sự xuất hiện ngày càng nhiều ở một số địa phương, đặc biệt ở các thành phố lớn, các loại ma túy tổng hợp dạng kích thích (ATS, Estasy)… với mức độ độc hại rất cao, lại dễ vận chuyển, dễ bán lẻ trao tay, sử dụng bằng đường uống như các loại tân dược thông thường hoặc các dụng cụ hút hít đơn giản đang là nguy cơ làm gia tăng nhanh chóng số người nghiện ở nước ta, đặc biệt trong lứa tuổi trẻ. Gần đây, giới ăn chơi nhiều tiền trong thanh niên đang sử dụng loại ma túy mới được gọi là hàng “đá” (một dạng của Methammetamine) với cách hút, hít bằng các dụng cụ dễ tự chế. Đây là loại ma tuý hết sức nguy hiểm tới thần kinh và sức khỏe con người. Ma túy là kẻ đồng hành với tội phạm, bệnh tật và đại dịch HIV/AIDS. Khoảng trên 60% trong số trên 272.000 người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện cho tới nay còn sống bị lây truyền do qua con đường tiêm chích ma túy.


3. MỘT CUỘC CHIẾN GAY GO VÀ PHỨC TẠP:

Trước sự lây lan, phát triển nhanh chóng tệ nạn ma túy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối và chính sách kịp thời, kiên quyết về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Nghị quyết 06/CP ngày 29/1/1993 được mở đầu như hiệu lệnh cho một cuộc chiến mới với ma túy được chính thức phát động. Đồng thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng ban hành nhiều Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn sự lây lan, phát triển của tệ nạn ma túy, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.


Những nội dung công tác và cũng là nhiệm vụ chủ yếu được đặt ra là:

- Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân về tác hại, hiểm họa cả trước mắt và lâu dài của tệ nạn ma túy, về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và công tác phòng, chống tệ nạn ma túy để mọi người dân hiểu, đồng tình ủng hộtham gia cuộc đấu tranh chung; vận động, thuyết phục đồng bào miền núi không trồng cây thuốc phiện và chuyển sang trồng loại cây khác; tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề và tìm kiếm việc làm cho người nghiện ma túy; phát hiện và trừng trị nghiêm bọn tội phạm. Song song với sự ra đời các văn bản pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy từ cơ quan chỉ đạo, tham mưu giúp việc cho tới các cơ quan chuyên trách của các ngành chức năng được hình thành, củng cố.

- Công tác phòng, chống ma túy do Chính phủ phát động đã được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các Bộ, Ngành, Đoàn thể Trung ương, các địa phương và cơ sở cũng như của toàn dân và toàn xã hội.


Tuy nhiên, ma túy tựa con quái vật khổng lồ chặt đứt vòi này, lại mọc vòi khác. Cũng như tệ nạn mại dâm, tệ buôn ma túy đem lại những món lợi lớn cho những kẻ ham tiền liều mạng. Với lãi suất thông thường từ 5-7 lần cho tới hàng chục lần nếu bán tận tay người nghiện (thậm chí nếu trung chuyển được sang một số quốc gia khác có thể lên tới hàng trăm lần) thì bọn tội phạm không trừ một thủ đoạn nào, một mưu mô, phương kế hiểm độc nào để thực hiện những hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật.


Đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy ngày càng trở nên có quy mô, tổ chức lớn, phức tạp, từ những đường dây xuyên quốc gia, liên tỉnh cho tới mạng lưới bán lẻ với hàng vạn chiếc vòi nhỏ vươn tới từng ngõ hẻm, trường học, vườn hoa, nơi sinh hoạt công cộng… tại các đô thị, thành phố lớn đến tận những làng quê heo hút, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh với tệ nạn ma túy trên các lĩnh vực giảm cung giảm cầu đòi hỏi lòng quyết tâm, sự dũng cảm, tính kiên trì và linh hoạt của những người làm công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, trước hết là những người hàng ngày đối mặt trực tiếp với tệ nạn này. Cuộc chiến với ma túy vẫn đang là một mặt trận nóng bỏng, đầy hiểm nguy và đổ máu, hy sinh.


4. MỐI QUAN HỆ CUNG CẦU:

Trong cuộc đấu tranh này, cung và cầu về ma túy có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Nguồn cung bị chặt mạnh sẽ làm có tác động làm giảm cầu và ngược lại, giảm mạnh cầu có hiệu quả góp phần hạn chế cung. Một số địa phương tuy nghèo nhưng vì là vùng giáp biên hoặc nằm trên trục đường buôn bán, vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam nên có số người nghiện khá cao như Điện Biên, Sơn La, Lao Cai, Nghệ An…Mặt khác tại những thành phố lớn hoặc nơi tập trung dân cư, khu công nghiệp, du lịch v.v do các tệ nạn xã hội lây lan, phát triển mạnh đã kéo theo tệ buôn bán, tổ chức sử dụng ma túy trên nhiều địa bàn, trong nhiều lứa tuổi, dẫn tới gia tăng tệ nghiện hút, chích ma túy, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Không ít gia đình vừa có người nghiện ma túy vừa có người tham gia các tội phạm về buôn bán hoặc tổ chức sử dụng ma túy. Thực tế trên đòi hỏi trong cuộc đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn ma túy, không thể thiên về mặt nào và cũng không thể chỉ một Bộ, ngành nào đảm nhiệm, mà phải là sự đồng tâm, hiệp lực của toàn dân, toàn xã hội trong cuộc đấu tranh đầy gian khó, phức tạp này. Nếu không, mọi sự nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ chỉ là uổng công, vô nghĩa.

Bài 1 – Ma túy và các chất gây nghiện

Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện


I. ĐỊNH NGHĨA:


*   Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đức: Ma túy là một từ Hán - Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đây ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu.

*   Ngày nay ma túy được định nghĩa một cách rộng hơn: ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động vào hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.


II. PHÂN LOẠI MA TÚY:


Tùy theo mục đích, có nhiều cách phân loại ma túy.

A. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:

1. MA TÚY HỢP PHÁP: rượu, cà phê, thuốc lá….Một số dược phẩm được sử dụng để chữa trị bệnh, nếu sử dụng quá liều, kéo dài sẽ xảy ra tình trạng nghiện: Benzodiazepines, Secobarbital, Morphine, Amphetamine, Pseudoephedrine, Cocaine...
2. MA TÚY BẤT HỢP PHÁP: Là những chất bị pháp luật quy định, liệt vào danh sách cấm sử dụng: thuốc phiện, Heroine, Estasy (MDMA).

B. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:

1. MA TÚY CÓ NGUỒN GỐC THIÊN NHIÊN: thuốc phiện, cần sa, Cocaine …
2. MA TÚY BÁN TỔNG HỢP: Heroine, codeine, LSD…
3. MA TÚY TỔNG HỢP: Methadone, Mépéridine, Amphetamine…

C. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ:

1. CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (Stupefiantes): ma túy nhóm OMH (Á phiện, Heroine, Morphine, Codéine…) và các chất tổng hợp (Methadone, Mépéridine, Pethidine, Pentanyl,...).
2.  CÁC CHẤT KÍCH THÍCH (Stimulantes): Cocaine, Amphetamine, Ecstasy,…
3. CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (Hallucinogens): LSD (D - Lysergic Acid Diethylamid), Cannabis, Phencyclidine, PCP, Mescaline,…
4. CÁC THUỐC GIẢI LO ÂU/ GÂY NGỦ (Anxiolytic/hypnotic): các loại Benzodiazépines, Barbiturates,…
5. CÁC CHẤT BAY HƠI - DUNG MÔI HỮU CƠ - BÓNG CƯỜI: toluene, acetone, benzene, trichloroethane, perchlorethylene,…

RỐI LOẠN TÂM THẦN DO BÓNG CƯỜI VÀ CÁC CHẤT BAY HƠI – DUNG MÔI HỮU CƠ

RỐI LOẠN TÂM THẦN DO BÓNG CƯỜI VÀ CÁC CHẤT BAY HƠI – DUNG MÔI HỮƯ CƠ

 

Sử dụng bóng cười, lạm dụng chất gây ảo giác lâu ngày sẽ rất dễ đi đến sử dụng ma túy - thuốc gây nghiện thật sự. Khi đã quen cảm giác “phê” với ảo giác, các bạn trẻ rất dễ tìm đến thứ tạo cảm giác”phê” mạnh hơn. Sử dụng chất và nghiện chất ma túy ở người trẻ, đặc biệt là vị thành niên, gây hệ lụy xấu tới sức khỏe tâm thần.

 

Trung tâm Cai nghiện ma túy Thanh Đa vừa tiếp nhận bệnh nhân T.N nữ 19 tuổi, với các triệu chứng hoang tưởng, rối loạn hành vi. T.N hút thuốc lá, sử dụng rượu bia từ khi hết học cấp 3. Hơn 1 năm trước, T.N bắt đầu sử dụng bóng cười. Thời gian đầu sử dụng, T.N cảm thấy vui vẻ hơn nên tăng dần tần suất, lúc đầu chỉ dùng bóng cười, sau có dùng thêm thuốc lắc. Ban đầu, bênh nhân sử dụng từ khoảng 2 - 3 lần/tháng sau tăng lên 2 - 3 lần/tuần.

 

Sau một thời gian sử dụng các chất trên, T.N xuất hiện ảo thanh, ảo giác kỳ lạ, nghe thấy những tiếng nói trong đầu, tiếng người khác chửi mắng. Bệnh nhân trở nên thường xuyên cáu gắt, đập phá đồ đạc, đêm hầu như không ngủ được và liên tục chửi mắng, đáp lại tiếng nói trong đầu.

 

Ngộ độc khí hơi – bóng cười

 

I/ BIỂU HIỆN LÂM SÀNG DO SỬ DỤNG BÓNG CƯỜI VÀ CÁC CHẤT BAY HƠI – DUNG MÔI HỮU CƠ

Các chất bay hơi thường được hít qua tẩu, ống hút, túi ni lông....hít qua đường mũi hoặc hơi của chúng qua đường miệng. Tác động chung của các chất bay hơi gây ức chế trên hệ thần kinh trung ương.

 

Các chất bay hơi hấp thụ nhanh ở phổi và nhanh chóng tác động lên não. Tác động xuất hiện trong vòng 5 phút và có thể kéo dài từ 30 phút tới vài giờ, phụ thuộc vào từng chất và liều lượng. Nồng độ của các chất này trong máu tăng lên khi sử dụng đồng thời rượu, có thể do cạnh tranh với các men gan. Mặc dù chỉ khoảng 1/5 có biểu hiện này

 

Với một liều nhỏ ban đầu, chất bay hơi có thể kích thích gây khoái cảm và cảm giác bồng bềnh thoải mái; các chất này được sử dụng vì các tác dụng nêu trên. Các biểu hiện tâm thần khác ở liều cao có thể bao gồm sợ hại, ảo tưởng, ảo thanh, ảo thị và biến hình bản thân. Các triệu chứng thần kinh có thể bao gồm nói líu lưỡi , nói chậm chạp và đi loạng choạng. Việc sử dụng quá dài có thể gây thêm các biểu hiện khác như dễ bị kích thích, cảm xúc không ổn định và suy giảm trí nhớ.

 

Hội chứng cai có thể xảy ra khi ngừng sử dụng các chất này, tuy không thường xuyên; nó có biểu hiện bằng rối loạn giấc ngủ, dễ bị kích thích, hốt hoảng, vã mồ hôi, buồn nôn, nôn, nhịp tim nhanh và đôi khi có hoang tưởng, ảo giác.

 

II/ TÁC HẠI CỦA BÓNG CƯỜI, CÁC CHẤT  BAY HƠI, DUNG MÔI HỮU CƠ

Các chất bay hơi thường gây ra nhiều tác dụng có hại nghiêm trọng. Tác dụng có hại nguy hiểm nhất là tử vong có thể suy hô hấp, mất nhịp tim, ngạt thở, hít phải chất nôn hoặc bị tai nạn, hay bị thương (ví dụ lái xe trong tình trạng nhiễm độc).

 

Các tác dụng có hại nghiêm trọng khác thường do sử dụng lâu dài các chất này bao gồm viên gan không phục hồi hoặc tổn thương thận và tổn thương cơ thường xuyên kết hợp với tiêu cơ vân. Sự kết hợp của các chất bay hơi này và nồng độ cao của đồng, kẽm và các kim loại nặng có thể gây ra teo não, động kinh thùy thái dương, giảm lưu lượng máu não, chỉ số IQ giảm và các thay đổi điện não  khác nhau.

 

Các tác động có hại ở người nghiện bao gồm các triệu chứng mạch vành và phổi (đau thắt ngực và co thắt phế quản), các triệu chứng tiêu hóa (đau, buồn nôn, nôn và xuất huyết) và các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh khác (viêm dây thần kinh ngoại biên, đau đầu, dị cảm, các dấu hiệu tổn thương tiểu não).

Dùng Bóng cười dẫn đến việc sử dụng đa chất ma túy (Hàng đá, Ketamin, cần sa…)

 

III/ TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NHIỄM ĐỘC CÁC CHẤT BAY HƠI:

  1. Sử dụng  cố tình mới đây hoặc trong một thời gian ngắn, tiếp xúc liều cao các chất bay hơi (loại trừ các khí gây mê, gây giãn mạch).
  2. Có những thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt (hung hăng, hành hung, thờ ơ, suy giảm lý lẽ, các chức năng nghề nghiệp, xã hội) xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hoặc tiếp xúc với các chất bay hơi.
  3. Có ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau, xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hay tiếp xúc với các chất bay hơi:
    1. Choáng váng
    2. Rung giật nhãn cầu
    3. Mất phối hợp động tác
    4. Nói líu lưỡi
    5. Dáng đi xiêu vẹo
    6. Ngủ lịm
    7. Phản xạ giảm
    8. Tâm thần vận động chậm chạp
    9. Run
    10. Yếu toàn bộ các cơ
    11. Nhìn mờ hoặc nhìn đôi
    12. Sững sờ hoặc nhân đôi khoái cảm
  4. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các bệnh tâm thần khác gây ra.
 

IV/ RỐI LOẠN THẦN DO BÓNG CƯỜI VÀ CÁC CHẤT BAY HƠI:

  • Các triệu chứng hoang tưởng, ảo giác chiếm ưu thế. Paranoid là hội chứng loạn thần chủ yếu trong khi bị nhiễm độc các chất bay hơi.
  • Xuất hiện các triệu chứng sa sút trí tuệ dai dẳng do các chất bay hơi.
  • Có thể là do tác động nhiễm độc thần kinh của các chất bay hơi, và của kim loại được dùng phổ biến trong hợp chất các chất bay hơi (chì) hoặc tác động của thiếu ô xy kéo dài hay thường xuyên. Sa sút trí tuệ do các chất hay hơi không phục hồi giống như các sa sút trí tuệ khác nhưng ở mức độ trung bình.
  • Rối loạn cảm xúc và lo âu do các chất bay hơi.
  • Trầm cảm là rối loạn cảm xúc phổ biến nhất trong sử dụng các chất bay hơi và rối loạn hoảng sợ và lo âu toàn thể là rối loạn lo âu phổ biến nhất.
 

Thạc sĩ Giáo dục Nguyễn Phan Minh, Phó Giám đốc Trung tâm cai nghiện ma túy Thanh Đa cho biết: người nghiện ma túy không đủ nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, lành mạnh, có kỹ năng làm việc. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với gia đình, xã hội …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị - phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.

Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


Tham khảo thêm

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY

BIỂU HIỆN TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

Ma túy là những chất tác động tâm thần, nếu lạm dụng sẽ gây ra cho mình sự lệ thuộc và gây những tổn thương trên hệ thống não bộ.
Tình trạng lệ thuộc ma túy đòi hỏi phải sử dụng ma túy đều đặn như một phương thức sống. Người lệ thuộc bị những biến đổi về khí sắc, cảm xúc cũng như nhận thức do những tổn thương hệ thống não bộ. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn ngay cả sau khi ngưng sử dụng các chất này.
Việc sử dụng ma túy bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: bản thân, gia đình, xã hội. Người nghiện từ sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma túy dẫn đến tình trạng nghiện, gây ra rất nhiều rối loạn về tâm thần, ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Việc điều trị, phục hồi nghiện ma túy bao gồm rất nhiều lĩnh vực y tế, tâm lý, giáo dục, quản lý, …
Người nghiện bị lệ thuộc tâm lý và lệ thuộc cơ thể đối với ma túy, nếu thiếu sẽ thèm muốn tột độ, đòi hỏi phải tái sử dụng để cảm thấy thoải mái.
Khi được cung cấp đủ ma túy – người nghiện ở trạng thái ngất ngây hoặc kích thích mạnh mẽ, giảm bớt đau đớn thân xác, tinh thần, cảm giác khỏe mạnh, yêu đời, …
Bởi tính chất ép buộc phải sử dụng ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh bằng mọi cách trong việc tìm kiếm cho có được ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.
Một phương thức sống như vậy sẽ làm xáo trộn và đảo lộn nhiều giá trị cá nhân cũng như gia đình, xã hội cùng những chức năng tâm sinh lý của bản thân.
Càng sử dụng ma túy càng lâu, hàm lượng càng tăng thì hậu quả càng nhiều và nặng nề bấy nhiêu. Mặt khác, những tác động của ma túy trên bộ não có thể gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn làm cho người nghiện suy giảm khả năng xử lý thông tin, rối loạn nhận thức cũng như thiếu khả năng hiểu biết của đối tượng trong việc hướng đến một cuộc sống lành mạnh
Xét về mặt hành vi, người nghiện đã phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu. Chính những hành vi ấy ngăn cản đối tượng hoà nhịp với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Người nghiện ma túy không còn đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, cũng như kỹ năng làm việc để sống bình ổn trong một xã hội trật tự. Nói chung, về mặt tinh thần, sức khoẻ, nghề nghiệp, gia đình, xã hội, …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị phục hồi cho đối tượng trở thành khó khăn.
Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.

BIỂU HIỆN TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

CÁC BỆNH TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

Ma túy là những chất tác động tâm thần, nếu lạm dụng sẽ gây ra cho mình sự lệ thuộc và gây những tổn thương trên hệ thống não bộ.
Tình trạng lệ thuộc ma túy đòi hỏi phải sử dụng ma túy đều đặn như một phương thức sống. Người lệ thuộc bị những biến đổi về khí sắc, cảm xúc cũng như nhận thức do những tổn thương hệ thống não bộ. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn ngay cả sau khi ngưng sử dụng các chất này.

Việc sử dụng ma túy bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: bản thân, gia đình, xã hội. Người nghiện từ sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma túy dẫn đến tình trạng nghiện, gây ra rất nhiều rối loạn về tâm thần, ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Việc điều trị, phục hồi nghiện ma túy bao gồm rất nhiều lĩnh vực y tế, tâm lý, giáo dục, quản lý, …
Người nghiện bị lệ thuộc tâm lý và lệ thuộc cơ thể đối với ma túy, nếu thiếu sẽ thèm muốn tột độ, đòi hỏi phải tái sử dụng để cảm thấy thoải mái.
Khi được cung cấp đủ ma túy - người nghiện ở trạng thái ngất ngây hoặc kích thích mạnh mẽ, giảm bớt đau đớn thân xác, tinh thần, cảm giác khỏe mạnh, yêu đời, …
Bởi tính chất ép buộc phải sử dụng ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh bằng mọi cách trong việc tìm kiếm cho có được ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.
Một phương thức sống như vậy sẽ làm xáo trộn và đảo lộn nhiều giá trị cá nhân cũng như gia đình, xã hội cùng những chức năng tâm sinh lý của bản thân.

Càng sử dụng ma túy càng lâu, hàm lượng càng tăng thì hậu quả càng nhiều và nặng nề bấy nhiêu. Mặt khác, những tác động của ma túy trên bộ não có thể gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn làm cho người nghiện suy giảm khả năng xử lý thông tin, rối loạn nhận thức cũng như thiếu khả năng hiểu biết của đối tượng trong việc hướng đến một cuộc sống lành mạnh.

Xét về mặt hành vi, người nghiện đã phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu. Chính những hành vi ấy ngăn cản đối tượng hoà nhịp với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Người nghiện ma túy không còn đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, cũng như kỹ năng làm việc để sống bình ổn trong một xã hội trật tự. Nói chung, về mặt tinh thần, sức khoẻ, nghề nghiệp, gia đình, xã hội, …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị phục hồi cho đối tượng trở thành khó khăn.
Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.



SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH NGHIỆN MA TÚY


Ngoài trạng thái lạm dụng và lệ thuộc, các hội chứng lâm sàng liên quan đến các chất ma túy có thể gây các phản ứng tâm lý và rối loạn tâm trí thực tổn sau:

I- CÁC PHẢN ỨNG TÂM LÝ:
Các phản ứng tâm lý do sử dụng các chất ma túy phụ thuộc vào:
- Loại ma túy sử dụng
- Liều lượng sử dụng
- Phương thức sử dụng (uống, hút, hít, chích, …)
- Mức độ tác hại còn gồm nhiều yếu tố như: phối hợp nhiều chất ma túy với nhau, ảnh hưởng tính chất sinh lý, nhân cách của người sử dụng ma túy và những tác động bởi bối cảnh gia đình, xã hội …

II- CÁC RỐI LOẠN TÂM TRÍ THỰC TỔN:
Các rối loạn gây ra do tác động của các chất ma túy trên hệ thần kinh trung ương. Đây là trạng thái nhiễm độc và các phản ứng loạn tâm thần do dùng ma túy.

1- TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC:
Thể hiện qua các hành vi như hung dữ, thay đổi phán đoán, biến loạn hoạt động xã hội, rối loạn về tri giác, sự chú ý, sự phán đoán, …

2- LÚ LẪN TÂM TRÍ:
Nặng hơn trạng thái nhiễm độc. Hội chứng lú lẫn hay mê sảng thể hiện bằng các rối loạn chú ý, tư duy, mất định hướng thời gian, không gian và các rối lọan tri giác. Các triệu chứng trên do dùng quá liều các chất ma túy.

3- HỘI CHỨNG HỒI TƯỞNG:
Các triệu chứng này xảy ra đột ngột ngay cả khi người nghiện không dùng ma túy và thường chỉ kéo dài vài giây hay vài phút. Chúng có thể tái diễn ít hay nhiều lần trong ngày. Các triệu chứng này luôn kèm theo phản ứng lo hãi, và có thể xuất hiện sau một lần dùng ma túy nhưng hay xảy ra sau khi dùng ma túy nhiều lần. Các triệu chứng thường gặp nhất là các rối loạn tri giác và nhiều về thị giác.

4- PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN:
Khi đối tượng nghiện nhìn thấy, nghe thấy những hình ảnh, âm thanh gợi nhớ đến những ngày tháng trước đây đã sử dụng ma túy như: rơi vào tâm trạng cũ, gặp bạn cũ, qua nơi hút chích cũ, gặp ống chích, kim chích, nghe bản nhạc cũ mà đã từng nghe trong những lần chơi ma túy…, tự nhiên đối tượng nghĩ đến những khoái cảm ngất ngây của ma túy và tìm mọi cách để sử dụng lại ma túy.

III- TRẠNG THÁI TRẦM NHƯỢC:
Trầm nhược do sử dụng các chất ma túy đã được nghiên cứu nhiều nhất.
Hầu hết những người nghiện ma túy đều bị trầm nhược và ngược lại người bị trầm nhược dễ bị dẫn đến nghiện ma túy.
Trầm nhược và sử dụng ma túy ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Các triệu chứng trầm nhược có thể dẫn đến sử dụng ma tuý, là tiên phát hoặc thứ phát. Trạng thái trầm nhược có thể làm nặng thêm tình trạng lạm dụng ma túy.

IV- TỰ SÁT VÀ CÁC Ý ĐỊNH TỰ SÁT:
Lạm dụng ma tuý đựơc công nhận là nguy cơ hàng đầu của các hành vi tự sát của thanh thiếu niên. Trong số 1824 đối tượng được gởi tới chữa bệnh vì lạm dụng ma tuý, 40,7% có ý tưởng tự sát thường xuyên - từ thấp lên cao (Harrison và Hoffiman, 1987).
Đa số các công trình có sự lên quan giữa tự sát, trầm nhược và lạm dụng ma túy đều đánh giá rằng: lạm dụng ma túy có thể làm trầm trọng thêm trầm nhược và làm cho dễ chuyển sang hành động tự sát.

V- CÁC RỐI LOẠN HÀNH VI:
- Ma tuý và rối loạn hành vi thường kết hợp với nhau.
- Các rối loạn hành vi thường gặp trong lạm dụng ma túy ở thanh thiếu niên, có khả năng dẫn đến giết người.
- Hundleby và ctv (1982) ghi nhận trên 100 thanh thiếu niên nam và 130 thanh thiếu niên nữ dùng ma tuý có hoạt động tình dục nhiều hơn, nhận thức về xã hội và học tập lệch lạc.
Các liên quan giữa rối loạn hành vi và dùng ma tuý rất phức tạp. Các rối loạn hành vi và sử dụng ma túy tác động lẫn nhau. Các rối loạn hành vi thường dẫn đến dùng ma túy và ngược lại.
Các nghiên cứu trên đã nhận thấy rằng thanh thiếu niên có khuynh hướng chống đối xã hội thường dẫn đến việc sử dụng các chất ma túy.
Dùng ma tuý có thể dẫn đến các rối loạn hành vi: tác động của chất ma túy giải ức chế và làm tăng hung tính tạo điều kiện cho việc chuyển thành hành vi chống đối xã hội. Do lệ thuộc ma túy đối tượng gây nên những hành vi phạm pháp để tìm cho được chất ma túy: ăn cắp, buôn bán ma túy và làm gái điếm thường kết hợp.
Phạm pháp và lạm dụng ma túy đều liên quan đến các điều kiện xã hội không lành mạnh, gia đình không êm ấm và các rối loạn xúc cảm của đối tượng. Thanh thiếu niên phạm pháp, nhất là khi chúng bị trầm nhược khai là sử dụng ma tuý hay các hoạt động bất hợp pháp để làm nhẹ nỗi buồn chán và ưu phiền của họ.

Trong nghiên cứu của Farrow French (1990), khảo sát trên 89 thanh thiếu niên phạm pháp khai có dùng ma túy trong đó 74% trường hợp là để làm giảm các cảm nghĩ buồn chán và ưu phiền, 39% để quên các vấn đề của họ, 42% để được yên tĩnh, 65% để được thích thú và 45% vì nhiều bạn của họ dùng ma túy.

VI- CÁC RỐI LOẠN TẬP TRUNG:
Trong 114 thanh thiếu niên phạm pháp, Halikas và ctv (1990) nhận thấy lạm dụng ma túy có trên 67% bị rối loạn tập trung, các rối loạn tập trung có hành vi hung bạo chiếm 61% trường hợp.

VII- CÁC RỐI LOẠN NHÂN CÁCH:
Lạm dụng ma túy liên quan đến một số rối loạn nhân cách.
Các rối loạn nhân cách bệnh lý và nghiện ma túy liên hệ và tác động với nhau. Các rối loạn nhân cách dễ dẫn đến sử dụng ma túy và ngược lại. Việc dùng ma túy làm tăng thêm các rối loạn về tâm lý, về quan hệ và sinh hoạt biểu hiện rõ nét nhân cách bệnh lý. Người bị rối loạn nhân cách thường bị:
- Tính xung động
- Các rối loạn về cảm xúc
- Các cảm nghĩ trống rỗng và buồn phiền

VIII- CÁC BIỂU HIỆN LO HÃI:
Người có tiền sử rối loạn lo hãi nhất là tuổi thanh thiếu niên dễ dẫn đến các nguy cơ lạm dụng hay lệ thuộc ma túy và ngược lại.

IX- CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:
Việc dùng các chất ma túy thường gây hậu quả là rối loạn tâm thần.
Ngược lại, các rối loạn tâm thần góp phần dẫn đến sử dụng ma túy, đồng thời có thể do cả hai yếu tố trên tác động lên nhau.
Sự phân biệt này khó xác định, một khi cùng xảy ra song song, việc sử dụng các chất ma túy và các rối loạn tâm thần sẽ tác động lẫn nhau làm trầm trọng thêm việc sử dụng ma túy.
Do đó cần phải phân biệt các rối loạn tâm thần tiên phát và thứ phát, có thể dẫn đến các hành vi nghiện ngập và có thể ảnh hưởng đến các quyết định điều trị.
Người nghiện có thể có những hành vi dễ bị kích động, hung dữ, nhận thức lệch lạc, rối loạn hoạt động, rối loạn tri giác, rối loạn tỉnh – thức, rối loạn tư duy, mất định hướng thời gian, không gian, có thể bị hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, có tư tưởng tự sát, tư tưởng bị ám hại dễ dẫn đến các hành vi hung bạo, chống đối xã hội – gia đình. Thậm chí giết người nhưng không ý thức được việc làm của mình.

X- TỶ LỆ CHẾT:
Việc sử dụng có thể gây chết người, các biến chứng cơ thể và một ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống tâm lý và quan hệ cũng như trên sự thích ứng xã hội.
Tỷ lệ chết cao ở thanh thiếu niên và thanh niên do các tai nạn giao thông, các tai nạn khác, tự sát và các hành vi hung bạo đánh giết lẫn nhau do ma túy. Các tai nạn giao thông chiếm 70% nguyên nhân chết của những người 16 -19 tuổi trong Cộng Đồng Châu Âu: Rượu và các chất ma túy là những nguyên nhân chủ yếu.
Trong một nghiên cứu nam giới từ 15-34 tuổi, chết do tai nạn giao thông: rượu được phát hiện trong 75% trường hợp, cần sa 37% và cocain 11%; trong đó kết hợp rượu và cần sa 85% trường hợp (Williams, 1985). Tác hại của ma túy ngoài các tai nạn và tự sát nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS qua tiêm chích tĩnh mạch các chất ma túy và quan hệ tình dục bừa bãi cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.

KẾT LUẬN:
Sử dụng các chất ma túy dẫn đến nhiều nguy cơ:
- Tăng liều lượng
- Chuyển sang các chất ma túy mạnh hơn
- Nhiễm trùng do các bệnh cơ hội HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B, C, …
- Thất bại trong hoà nhập xã hội
- Các bệnh tâm thần có thể dẫn đến tự sát, có hành vi hung bạo, giết người trong gia đình và xung quanh.
- Các tổn thương thể chất, tinh thần và dẫn đến cái chết
- Nếu đối tượng bị gạt ra bên lề xã hội do sử dụng ma túy thì nguy cơ tổn thương về thể chất dẫn đến cái chết có thể xảy ra sớm, do bệnh tật và thiếu sự chăm sóc.


 

Cỏ Mỹ – Một loại ma túy cực nguy hiểm

Cỏ Mỹ là một loại ma túy cực mạnh, nguy hiểm hơn cả cần sa. Do đó Bộ Y tế đã đưa cỏ Mỹ vào danh mục các chất ma túy từ ngày 1-2-2016.


Gọi là cỏ Mỹ bởi nó có xuất xứ từ nước Mỹ. Cỏ Mỹ vốn là một hỗn hợp thực vật được sao khô, cắt nhỏ, được tẩm ướp một số hoá chất cho cảm giác giống như cần sa. Loại hỗn hợp này được cuốn vào giấy rồi hút như hút thuốc lá.


Lâu nay, trên các phương tiện báo chí, trang mạng xã hội tràn ngập nhiều bài viết, hình ảnh về những kẻ ngáo đá. Có người leo lên mái nhà vì nghĩ mình là chim hay nằm giữa sân tập bơi bởi cho rằng mình là cá. Nguy hiểm hơn là những đối tượng ngáo đá ra tay giết người trong trạng thái loạn thần…

                           

Ảo giác do ma túy đá gây ra có thể biến một người hiền lành, thật thà thành con quỷ giết người trong nháy mắt. Loại ma túy mới có tên cỏ Mỹ cũng gây ra những tác hại tương tự ma túy đá, thậm chí mức độ ảnh hưởng còn nhanh và mạnh hơn. Sử dụng cỏ Mỹ là thú chơi vô cùng nguy hiểm nhưng nó lại đang rất hút một bộ phận giới trẻ.


Khủng khiếp hơn, các bạn trẻ còn có xu hướng sử dụng cùng một lúc nhiều loại ma túy tổng hợp để tăng cảm giác “phê”. Hành động này đồng nghĩa với việc họ đang tự đầu độc chính bản thân một cách nhanh và mạnh hơn.


Thạc sỹ Hoàng Văn Nghĩa – Giám đốc Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định - cho biết: Cỏ Mỹ có tác dụng giống như cần sa nhưng gây nghiện, gây hại gấp nhiều lần so với cần sa. Người sử dụng cỏ Mỹ, trước hết sẽ bị rối loạn tâm thần, tức là ý thức thoát ly thực tại xung quanh.


Thứ hai là bị rối loạn về cảm xúc, tức người bệnh có những lo lắng, căng thẳng, đặc biệt là có những ảo giác (nghe thấy tiếng nói xúi giục trong đầu, nghĩ mình bị ai đó theo dõi, truy sát...) gây nguy hại cho bản thân và mọi người xung quanh. Thứ nữa là gây hại về cơ thể như gây teo não, suy giảm khả năng miễn dịch, mắc nhiều bệnh, có thể bị ung thư.


Hiện nay, Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định đang điều trị cho 4 bệnh nhân bị ảo giác, hoang tưởng do sử dụng cỏ Mỹ. Có bệnh nhân đã được về nhà sau đợt điều trị. Tuy nhiên thời gian ngắn sau lại nhập viện, tiếp tục điều trị bởi những ảo giác vẫn xuất hiện trong đầu.


Có thể thấy, tác hại của ma túy tổng hợp, của cỏ Mỹ là cực kỳ khủng khiếp và rất khó để có thể trở lại minh mẫn như ban đầu. Một bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện đã kể với chúng tôi về cảm giác khi phê cỏ Mỹ: “Vừa hút cỏ Mỹ sau có 2 giây là em đã thấy đầu óc hưng phấn, không biết gì nữa, chỉ biết nhảy nhót, la hét theo tiếng nhạc thật to.


Lần ấy bọn em đã đập phá tan tành phòng hát, đập vỡ ti vi. Khi ấy nhìn cái gì cũng khác lắm, không biết sợ, trong đầu thì như có ai đó nói chuyện, xúi giục mình; chỉ nhìn người khác làm hành động bình thường thôi cũng nghĩ là họ đang truy sát mình rồi phản kháng lại".


Loạn thần, ảo giác gây hại cho bản thân và người khác, giãn đồng tử, kích động, căng thẳng, lo lắng, nhảy múa, gào thét điên loạn, không làm chủ được hành động, thậm chí là tử vong. Đó là triệu chứng của người sử dụng cỏ Mỹ. Hoạt chất có trong "cỏ Mỹ" là XLR-11 – đây là chất gây nghiện, gây ảo giác giống như cần sa nhưng tác dụng thì mạnh hơn cần sa nhiều lần.


Tác hại của cỏ Mỹ là cực kỳ khủng khiếp. Do đó, Nghị định 126/2015/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/2/2016 về ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất đã đưa cỏ Mỹ (XLR-11) vào danh mục các chất ma túy.


Nghị định 73/2018/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/5/2018 đưa cỏ Mỹ  vào danh mục các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội. Theo đó, mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng cỏ Mỹ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.


Số cỏ Mỹ này thu giữ trong vụ bắt Lại Thế Huề (đóng gói vào 150 túi nhỏ và cuộn thành 15 điếu thiếu)

Để ngăn chặn và phòng ngừa tệ nạn ma túy, lực lượng cảnh sát ĐTTP về ma túy toàn tỉnh luôn chủ động tham mưu, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội triển khai nhiều biện pháp; chủ động tổ chức các đợt ra quân, trấn áp quyết liệt tội phạm ma túy. Mỗi năm đều triệt xóa hàng trăm vụ việc; bắt giữ, xử phạt nghiêm theo quy định của pháp luật hàng trăm đối tượng phạm tội; thu giữ, tiêu hủy một lượng lớn tang vật ma túy các loại.


Tính riêng 12 ngày cao điểm ra quân hưởng ứng Tháng hành động phòng, chống ma tuý và Ngày quốc tế phòng, chống ma tuý (ngày 26-6), toàn tỉnh có 40 vụ, 42 đối tượng phạm tội về ma túy bị bắt giữ. Tang vật thu giữ tới 1 bánh, 10,5g heroin; 61,5g MTTH dạng đá; 1,2kg và 15 điếu cỏ Mỹ.


1,6 kg cỏ Mỹ này là tang vật trong vụ bắt đối tượng Lại Thế Huề, sinh 1995, trú tại xã Nghĩa Hải, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Số cỏ Mỹ này được Lại Thế Huề đóng gói vào 150 túi nhỏ và cuộn thành 15 điếu thuốc. Cũng theo Lại Thế Huề khai nhận, hiện nay, cỏ Mỹ đang rất được các bạn trẻ ưu chuộng sử dụng.


Vùi mình vào thứ ảo giác sinh ra từ ma túy, từ cỏ Mỹ, giới trẻ không ngờ rằng chính mình đang trở thành mầm mống cho các loại tội phạm nguy hiểm trong xã hội.


Nói đến ma túy và những tác hại của ma túy – hẳn ai trong chúng ta cũng từng chứng kiến những hình ảnh thảm thương vì nghiện hút, tiêm chích. Những nam thanh nữ tú, những con người giỏi giang, thật thà bỗng trở nên ngây dại với những hành động ngây ngô như leo mái nhà, leo cột điện, thậm chí tự cào cấu bản thân đến tóe máu.


Rồi giết người, cướp của, trộm tài sản. Rồi lây lan căn bệnh thế kỷ HIV… thậm chí là những án mạng thương tâm. Thấu hiểu tác hại khủng khiếp của ma túy, toàn nhân loại đã hiệp sức, hiệp trí cùng bài trừ. Pháp luật thì răn đe, xử phạt nghiêm khắc những kẻ dính líu tới ma túy. 

Nguồn: Báo An Ninh Hải Phòng

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN
(AMPHETAMIN VÀ AMPHETAMIN - LIKE)


Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy
GĐ. Trung tâm Điều Dưỡng & Cai Nghiện Ma Túy Thanh Đa


Nghiện là trạng thái lệ thuộc, thèm muốn bất thường, kéo dài, không kiểm soát được đối với chất gây nghiện mà người nghiện sử dụng để tìm kiếm sự khoái cảm, êm dịu hoặc hưng phấn, gây hậu quả nặng nề cho bản thân, gia đình và xã hội.


I. PHÂN LOẠI MA TÚY: Có nhiều cách phân loại


1. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:


Ma túy hợp phápbất hợp pháp


2. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:


    • Ma túy có nguồn gốc thiên nhiên: Thuốc phiện, Cần sa, Cocaine, …
    • Ma túy bán tổng hợp: Morphin, Heroin, Codeine…
    • Ma túy tổng hợp: Dolargan, Promedol, Amphetamine, Ecstasy …

3. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ LÂM SÀNG:

    • Ma túy êm dịu: Thuốc phiện, Morphine, Heroin…
    • Ma túy kích thích: Cocaine, Amphetamin, Ecstasy…
    • Ma túy gây ảo giác: LSD, Mescaline, Phencyclidine…
    • Thuốc giảm đau, gây ngủ: Bezodiazepine, Phénobarbital, Iménoctal …

II. AMPHETAMIN VÀ MỘT SỐ CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN:


Amphetamin và các chất giống amphetamin là chất ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích.


Các loại ma túy này chủ yếu là chất tổng hợp có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau và có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau lên hệ thần kinh trung ương. Dựa trên các cơ sở tác dụng dược lý điển hình ở liều thông thường, nhóm chất này bao gồm các chất kích thích hệ thần kinh trung ương như AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHYLPHNIDAT và các chất Entactogen còn gọi là các chất dạng “Ecstasy” như MDMA, MDA, và MDEA.



1.AMPHETAMIN CỔ ĐIỂN:


Là một chất thuộc nhóm ma túy tổng hợp lớn có tác dụng kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh trung ương. Các loại ma túy phổ biến nhất của nhóm này là AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHCATHINON.


Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ice” (methamphetamin), và “cat” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màu, dạng kết tinh (như “ice”), viên néndung dịch (như “methcathinon”).


Amphetamin thường sử dụng qua đường miệng, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.


Sở dĩ loại ma túy này được nhiều người ưa chuộng bởi nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, tâm trạng phấn khích, lâng lâng khoái cảm, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và làm việc trí não. Đây chính là nguyên nhân khiến amphetamin trở nên hết sức phổ biến đối với các đối tượng là sinh viên, vận động viên thể dục thể thao, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, binh lính...vv.

Ảnh hưởng đặc thù của amphetamin đối với cơ thể người dùng là khi sử dụng liều thấp nó sẽ làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết ápthân nhiệt, đổ mồ hôi, giãn đồng tử, ráo miệng, tiêu chảy, ăn kém ngon. Liều cao amphetamin làm cho tất cả các triệu chứng nói trên trở nên cường phát và dẫn đến hậu quả khiến người dùng trở nên lắm lời, hung hăng, táo tợn, mất ngủ và không còn khả năng suy xét.

Sử dụng amphetamin lâu ngày thường dẫn đến hậu quả thay đổi hành vi tâm tính, có hành động khác lạ, bồn chồn hiếu động, cảm giác khó chịu, trở nên hung hãn; đôi khi dẫn đến hoảng loạn, tâm thần hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốc hay dùng liều cao sẽ gây phản ứng xuất hiện hội chứng cai: buồn chán, u uất, cơ thể mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và hay mê sảng.


Ngay từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Sau đó có rất nhiều người phủ nhận tác dụng chữa bệnh của nó, bởi lẽ có quá nhiều bằng chứng hiển nhiên cho thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng.
Nhiều nước trên thế giới nhận thấy sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn phân phối hợp pháp.
Hiện nay, amphetamin và các chất liên quan chỉ được hạn chế sử dụng để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamin để làm thuốc biếng ăn chữa bệnh béo phì.


2. AMPHETAMIN MỚI:


2.1 MDMA/ THUỐC LẮC


Methylendioxymethylamphetamin, còn gọi là “ecstasy” là chất kích thích tổng hợp dòng amphetamin. Lần đầu tiên được tổng hợp năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng chưa bao giờ được công nhận là thuốc đã đăng k‎ý. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới.
MDMA bị quốc tế kiểm soát.

MDMA được chế tạo tại những địa điểm bí mật dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn. Liều dùng từ 75 đến 150 mg.


Ecstasy là một chất kích thích tuy có khác so với các chất kích thích dạng amphetamin cổ điển. Nó có tác dụng gây ảo giác nhẹ. Gây cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích, thích giao đãi, tiếp xúc trò chuyện.


MDMA liều thấp gây bồn chồn, lo lắng; khi dùng liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ. Nó cũng làm tăng huyết ápnhịp đập tim, gây buồn nôn, ói mửa. Dùng thường xuyên trong một thời gian dài gây nên những ảnh hưởng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.


Ít thấy các trường hợp ngộ độc cấp MDMA; tử vong do sử dụng ecstasy cũng rất hiếm. Tuy nhiên đã có báo cáo về các trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm; những trường hợp này xảy ra là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng.


2.2 MDA:


Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng amphetamin rất giống ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được tung ra thị trường như một loại thuốc hợp pháp. Tác dụng của nó đối với hành vi nhân cách đã được nghiên cứu vào thập niên 1960, và bắt đầu từ đó xuất hiện trên thị trường bất hợp pháp đầu tiên ở Mỹ rồi lan ra toàn thế giới.
Tác dụng giống như tác dụng của MDMA, tuy có hơi khác một chút. Nó gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMAcó thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 tiếng so với MDMA chỉ có 3 – 5 tiếng). MDA thường được chế tạo tại những địa điểm bí mật để thay thế cho MDMA và tung ra thị trường dưới dạng độc lập hay kết hợp với các loại ma túy khác.


2.3 MDEA:


Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này chưa bao giờ được công nhận là thuốc hợp pháp. Tiếng lóng gọi là “Eve”, MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, trốn tránh kiểm soát và buôn bán dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng chính của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. Để đối phó với dịch ecstasy ở Mỹ và Châu Âu, MDEA được liệt kê vào trong bảng xếp hạng các chất bị quốc tế kiểm soát.


III. DỊCH TỄ HỌC


Nghiện Amphetamin thấy ở mọi tầng lớp xã hội.

Phổ biến hơn ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng…


Lúc đầu, dùng APT để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện APT.


Ở Mỹ:

  • Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
  • Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo.
  • Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
  • Sử dụng ATS trong các cuộc chiến gần đây.
  • Binh lính được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
  • Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
  • 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.

Năm 1991: 7% dân số dùng APT ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất, nhóm 12- 17 có tỷ lệ nghiện đáng bao động (tỷ lệ tiêm chích chiếm 22%).


Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng nghiện APT và năm 1994: tăng đến 15,7%.


Ở Nhật:

Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25  nghiện APT và APT hiện vẫn là chất ma túy chủ yếu.


Năm 1994 – 1995: số người nghiện APT ở Thụy Sĩ là 8%., Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%. Australia 25% nam, 12% nữ tuổi từ 20 – 24 đã thử dùng APT...


5% sinh viên ở Sao Paolo, Brazil nghiện APT. Chi Lê 4,5% dân tuổi 12 – 64 nghiện APT...


Xuất hiện bất hợp pháp tại Việt Nam từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.


ATS được dùng phổ biến ở Việt NamMethamphetamineEctasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..


ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.


  • Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
  • Tại Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa, thống kê cho thấy số học viên sử dụng nhóm ATS như sau:

Thời gian

Số học viên sử dụng ATS

Số học viên

sử dụng ATS

 

 

          Tổng số  học viên nhập

Trung tâm

Số học viên được Bệnh viện Tâm thần điều trị

Số học viên

được Bệnh viện

Tâm thần

điều trị

 

Tổng

số  học viên

sử dụng ATS

2005

04

0,56%

00

0%

2006

05

0.9%

00

0%

2007

22

2.1%

00

0%

2008

43

2,93%

02

 

4.65%

 

2009

69

4.75%

04

 

5.79%

 

2010

140

9.7%

29

20.71%

2011

255

16.95 %

55

21.57%

2012

361

22,83%

67

18.56%

Kết quả trên cho thấy:

  • Số học viên sử dụng ma túy ATS tăng đều mỗi năm. Hiện nay khoảng 17% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy tại Trung tâm.
  • Số học viên có vấn đề tâm thần buộc điều trị từ 20 – 25 % trên tổng số học viên sử dụng ma túy nhóm ATS.

IV. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:


Tất cả các loại Amphetamin đều hấp thu nhanh qua đường uốngtác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy  ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.


  • Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.

  • Các loại amphetamine mới ( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điểngây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotoninức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.

  • MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …

V. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:

    1. VỀ CƠ THỂ:
  • Hiệu quả trên mạch máu não, tim, dạ dày và ruột là một trong những tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất khi sử dụng amphetamine.
  • Tình trạng đe dọa cuộc sống đặc trưng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu nãoviêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng amphetamine thường có hành vi tình dục không an toàn.
  • Các tác dụng không mong muốn ít đe dọa cuộc sống hơn bao gồm nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
  • Ở phụ nữ có thai lạm dụng amphetamine thường có thai nhi nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, đẻ non, thai chậm lớn.

    1. VỀ TÂM THẦN:

Tác dụng không mong muốn về tâm thần liên quan tới sử dụng amphetamin bao gồm bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, trở nên thù địch và lú lẫn. các triệu chứng của rối loạn lo âu như rối loạn lo âu toàn thể và rối loạn hoảng sợ có thể do amphetamin gây ra. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể do sử dụng amphetamin gây ra.

  • Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các tác dụng sau:

Hiệu quả ngắn hạn: cảm giác quan hệ với người khác, co cơ, nhịp tim nhanh, mất men răng, khô miệng, hay giật mình, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, run, đánh trống ngực, vã mồ hôi, dị cảm, khó tập trung, mất ngủ, có cơn nóng lạnh, tăng nhạy cảm với lạnh, choáng váng hoặc chóng mặt, ảo thị, nhìn mờ.

Hiệu quả trung hạn: tình trạng ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ hoặc mệt mỏi, cảm giác thân thiện với người khác, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), khó tập trung chú ý, đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh.


VI. CHẨN ĐOÁN NGHIỆN VÀ LẠM DỤNG APT:

  • tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ma túy chung của ICD-10.
  • Sử dụng APT (và giống APT) người nghiện không có sự lệ thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể nên có thể có vài ngày hay vài tuần không dùng thuốc.
  • Nghiện APT có thể gây giảm sút nhanh khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống.
  • Người nghiện APT luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác phê trước đó.

VII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.

  1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
  2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
    • Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
    • Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
    • Các hành vi có tính định hình
    • Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.

Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.

  1. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:

+       Giãn đồng tử

+       Tăng, giảm nhịp tim

+       Tăng, giảm huyết áp

+       Toát mồ hôi, rét run

+       Buồn nôn, nôn

 

+       Sút cân

+       Kích động, ức chế trung tâm vận động.

+       Đau ngực, ức chế hô hấp

+       Lú lẫn hay hôn mê

+       Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.


    Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.

VIII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:

(Amphetamine Inducd Psychosis)

  • Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
    • Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
    • Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
    • Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
  • Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
  • Tăng tình dục (hypersexuality)
  • Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
  • Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
  • Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.

IX. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:

  • Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
  • Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sauhết sau khoảng một tuần.
    • Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ‎ý tưởng và hành vi tự sát.

1.Chẩn đoán hội chứng cai (DSM - IV):

  • Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...)
  • rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
    • Mệt mỏi
    • Có những giấc mơ đáng sợ.
    • Mất ngủ hay ngủ nhiều.
    • Tăng cảm giác ngon miệng.
    • Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

2.  Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.


3.  Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.


X. ĐIỀU TRỊ: Phương pháp điều trị.

  • Điều trị hội chứng cai - giải độc - chống tái nghiện.
  • Các rối loạn loạn thần do Amphetamin
  • Trầm cảm, ủ rũ…LQ Amphetamin
  • Phương pháp dựa trên cộng đồng.

  1. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI - GIẢI ĐỘC - CHỐNG TÁI NGHIỆN:
  • Lệ thuộc về cơ thể ở nhiện APT không nặng như nghiện chất ma túy khác (Opiod…).
  • Việc tái nghiện vẫn rất phổ biến vì tác động trên tâm thần của thuốc rất mạnh tăng thêm sau mỗi lần dùng => “đói chất ma túy trường diễn” trong não.
  • Điều trị hội chứng cai và chống tái nghiện cần phải phối hợp nhiều liệu pháp: hóa dược, tâm l‎ý cá nhân, gia đình, nhóm, lao động, tái thích ứng cộng đồng…
  • Cần thiết lập tốt mối quan hệ điều trị sau cai để giúp giải quyết các rối loạn trầm cảm, nhân cách…kéo dài.
  • Điều trị bằng thuốc để giải độc có thể dùng:
  • Chất đồng vận hệ Dopamine như:
    • Amantadine 100mg x 2 lần/ngày…
    • Bromocriptine 2,5mg x 2 lần/ngày…
  • Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
  • Các thuốc chỉnh khí sắc; carbamazepine…

  1. ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
  • Các rối loạn, loạn thần sẽ thoái triển một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụng APT.
  • Rối loạn, loạn thần nặng có thể dùng các thuốc đặc hiệu: các ATK (Haloperiol, Phenothianol,…)
  • Thuốc giải lo âu: Benzodiazepine… thường cần sử dụng trong một thời gian ngắn (7 ngày).

  1. ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM, Ủ RŨ:

Cân nhắc chọn loại thuốc chống trầm cảm (có thể dùng chống trầm cảm 3 vòng).

  • Có thể dùng từ giai đoạn điều trị giải độc
  • Cân nhắc điều trị duy trì nếu kéo dài.

  1. PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN CỘNG ĐỒNG:

4.1. Các quy tắc giảm nguy cơ (tác hại):

  • Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”
  • Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.
  • Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

4.2. Giảm nguy cơ, các nấc thang mục tiêu:

  • Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:
    • Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).
    • Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).
    • Không tiêm chích ma túy
    • Nếu tiêm chích, không chích chung.
    • Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

4.3. Giảm nguy cơ/ giảm tác hại:


Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

  • Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).
  • Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).
  • Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

4.4. Các chiến lược giảm tác hại cụ thể:

  • Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:
    • Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).
    • Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).
    • Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).
  • Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:
    • Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.
    • Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.
    • Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

4.5.Chương trình giảm tác hại cho người sử dụng chất kích thích:

  • Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:
    • Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng đồng
    • Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp
  • Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại
    • Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích
  • Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấnxét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.
  • Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

4.6. Các giải pháp khác:

  • Khuyến nghị:
    • Củng cố luật pháp
    • Giải quyết bạo lực gia đình
    • Vấn đề y tế công cộng STD/HIV
    • Phúc lợi cho trẻ em
    • Các bệnh nhiễm trùng
    • Lạm dụng chất gây nghiện
    • Sức khỏe tâm thần
    • Đào tạo cán bộ điều trị
    • Giáo dục
    • Thông tin đại chúng

XI. TÓM TẮT

  • Sử dụng ATS theo đường nuốt là đường dùng phổ biến nhất tại Việt Nam và đang gia tăng
  • Hãy duy trì đường sử dụng như vậy
  • Can thiệp sớm và dự phòng
  • Nguy cơ tiêm chích có thể giảm nếu tiếp cận được các dụng cụ để hút (dự phòng Viêm gan B, C, HIV).
  • Giảm nguy cơ tình dục không an toàn
  • Dự phòng sử dụng gây loạn thần.

DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY

DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY


Sử dụng các chất ma túy dẫn đến nhiều nguy cơ: tăng liều lượngchuyển sang các chất ma túy mạnh hơn, rối loạn phát triển, thất bại trong hòa nhập xã hội, các tổn thương thể chất, tinh thần và dẫn đến cái chết. Nếu đối tượng bị gạt ra bên lề xã hội do sử dụng ma túy thì nguy cơ tổn thương về thể chất dẫn đến cái chết có thể xảy ra sớm, do bệnh tật và thiếu sự chăm sóc.


Tiến triển của việc dùng ma túy dẫn đến hậu quả:

  • Tăng tần suất và tăng liều lượng sử dụng
  • Chuyển từ hút hít qua chích
  • Sử dụng các loại ma túy mạnh hơn - phối hợp nhiều loại với nhau

​A. TIẾN TRIỂN CỦA SỰ TIÊU THỤ MA TÚY THEO TUỔI:

Đa số các nghiên cứu của nước ngoài ghi nhận sự sử dụng các chất ma túy phụ thuộc với tuổi.


Leselbaum (1984) quan sát thấy trong vòng 5 năm, việc sử dụng các chất ma túy tăng từ 3 đến 5%.


Choquet và ctv.(1985) thấy việc sử dụng ma túy khác nhau theo giới, đối với con trai từ 15 đến 20 tuổi: tăng từ 3 đến 23%, đối với con gái tăng không rõ rệt.


B. THEO SỰ LỰA CHỌN CHẤT MA TÚY.

Các nghiên cứu theo chiều dọc cho thấy đa số các trường hợp bước vào nghiện ngập theo một trình tự thường gặp: Tiêu thụ ma túy bắt đầu bằng rượu vang và bia, sau chuyển sang thuốc lá và rượu mạnh, tiếp đến là các chất ma túy bất hợp pháp khác. (Kandel và Faust, 1975. Donovan và Jessor, 1983, Kandel và Logan, 1984)


Các nghiên cứu này nhấn mạnh vai trò bắt đầu của rượu, thuốc lácần sa coi như giai đoạn có ảnh hưởng quan trọng đối với sự tiến triển đến các chất ma túy mạnh hơn. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng trình tự này không cho phép kết luận rằng dùng các thuốc lá, rượu, bia gây ra việc dùng các chất ma túy bất hợp pháp. Bước leo thang là một quá trình phức tạp có nhiều yếu tố bên trong bên ngoài can thiệp vào. (Fleming và ctv, 1989)


C. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NGHIỆN MA TÚY:

Thông thường đối tượng sử dụng ma túy tiến từ thử rồi cuối cùng bước vào nghiện ngập chất ma túy - có thể tiến dần từ ma túy nhẹ sang ma túy bất hợp pháp ngày càng mạnh.


Việc sử dụng ma túy của đối tượng tiến hành từ giai đoạn thử đến cuối cùng là giai đoạn nghiện như sau:

  • Giai đoạn thứ 1: là thử
  • Giai đoạn thứ 2: là sử dụng có lúc và để tiêu khiển trong đó thanh thiếu niên đi tìm hiệu quả gây khoái cảm của ma túy mà không nhận thức được các hậu quả tác hại của ma túy.
  • Giai đoạn thứ 3: dùng ma túy trở nên đều đặn. Việc tìm kiếm  khoái cảm do ma túy gây ra trở thành một băn khoăn thường xuyên trong óc. Độ dung nạp phát triển, sử dụng nhiều chất ma túy cùng một lúc. Đạo đức, tâm lý, xã hội bị suy thoái và có thể xuất hiện các hành vi chống đối xã hội
  • Giai đoạn thứ 4: sử dụng thường ngày, đối tượng đã mất tự chủ trong sử dụng chất ma túy. Đối tượng sử dụng chất ma túy để giảm cảm giác khó chịu và căng thẳng hơn là để có được trạng thái khoái cảm. Hoạt động tâm lý lúc đó thật sự bị hỗn loạn

​Oppenheimer (1987) nhận thấy có thể tránh được sự lạm dụng càng ngày càng nhiều đối với tất cả các loại ma túy và mọi người sử dụng ma túy. Những ai bắt đầu dùng ma túy đều có thể dừng lại mỗi giai đoạn. Thậm chí có thể ngăn lại cả việc sử dụng các chất ma túy dễ gây nghiện nhất.