VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975

16 April, 2019

- Nguyễn Mạnh Quang -

http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php


VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY

Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975


Đề  tài này được coi như là một phần của vấn nạn tham nhũng, cho nên đáng lý ra nó phải nằm trong Chương 90. Nhưng vì Chương 90 quá dài, chúng tôi phải tách riêng phần này ra làm chủ đề cho Chương 91. Phần lớn những dữ kiện được sử dụng trong đề tài này được căn cứ vào cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy, (New York:Harper Colophon Books,1972) và cuốn Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy (bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000).
Từ kép “ma túy” trong bài được sử dụng để nói chung cho thuốc phiện và tất cả các sản phẩm chế biến từ thuốc phiện (opium) hay những chất (substance) mà tiếng Anh gọi là “narcotic”, “morphin”, “heroin”, v.v… . Tác giả xin thỉnh ý quý vị nếu có một từ khác thích hợp hơn. Đa tạ.

Nguyễn Mạnh Quang


Ma túy hay thuốc phiện có tác dụng làm cho người hút dễ bị nghiền. Một khi đã trở thành nghiền rồi, người nghiện luốn luôn thèm khát, đòi hỏi phải hút đều đều và càng hút nhiều hơn càng cảm thấy lâng lâng cảm khoái. Tình trạng này làm cho tâm trí của họ lúc nào cũng nghĩ đến phương cách phải có thuốc đều đều. Cũng vì thế, đối với người nghiền ma túy, có bao nhiều tiền bạc cũng dành để mua thuốc phiện không cần biết đến tình trạng tài chánh hay hoàn cảnh túng thiếu của chính bản thân hay gia đình họ.

Hậu quả là:
1.- Gia đình họ bị  khánh kiệt.
2.- Vợ con của họ bị điêu đứng khốn khổ.
3.- Đói ăn vụng, túng làm liều. Khi cơn nghiền lên, không có tiền mua thuốc, họ có thể làm bất cứ chuyện gì (ăn cắp, ăn trộm, lừa đảo, giết người đoạt của, lường thày, phản bạn, bán nước, bán vợ, đợ con,  v.v…) để có tiền mua thuốc phiện.
4.- Nếu không có đủ thuốc hút để thỏa mãn sức mạnh đòi hỏi của cơn nghiền, cơ thể của người nghiền sẽ bị suy nhược, mất hết nghị lực sinh tồn, không còn nghĩ đến tương lai của bản thân, không còn nghĩ đến hạnh phúc của gia đình, bất cần đến những người xung quanh, nói chi đến quốc gia và dân tộc.
5.- Nếu quốc gia có quá nhiều người như vậy thì  dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh lệ thuộc nước ngoài.

Cũng vì thế mà cuối thập niên 1830, Đế Quốc Anh mới tiến hành chính sách sử dụng thuốc phiện làm băng họai tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Hoa và đã gây nên cuộc Chiến Tranh Nha  Phiến (1839-1842).

Đây là nguyên nhân TẠI SAO,  từ ngàn xưa, những người hút hay nghiện thuốc phiện bị coi như là phần tử không tốt cho xã hội, và mọi người đều muốn lánh xa. Cũng vì thế mà bất kỳ thế lực nào lên nắm chính quyền mà có lòng vì nước vì dân cũng đều phải ra lệnh triệt đế cấm lưu hành sản phẩm này.

Điều đau buồn là trong thời Thực dân Pháp đánh chiếm và thống trị nước ta 1858-1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954, ở những vùng Liên Minh Pháp –Vatican tạm chiếm và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết lập các cơ sở  chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyên khích mở các tiệm hút và tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buốn bán sản phẩm này.

Không ai chối cãi được rằng dã tâm của Liên Minh Pháp –Vatican  là  đem thuốc phiện vào Việt Nam để đầu độc và giảm bớt tiềm năng chiến đấu chống lại chúng, nhiên hậu, chúng sẽ dễ dàng thôn tính và thống trị  dân ta. Để đạt được mục đích này, chúng phải tạo điều kiện thuận lợi cho càng nhiều người càng tốt dễ dàng sử dụng sản phẩm này để cho họ  sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả cuộc đời và trở thành gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, và không còn quan tâm đến sự tồn vong của đất nước và dân tộc..

Tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, sách sử đều ghi nhận rằng, chủ trương của Thực dân Pháp trong việc nhập cảng, chế biên và phân phối thuốc phiện bán cho đại khối quần chúng là để vừa làm tiêu tan ý chí đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, vừa lấy tiền chi phí cho bộ máy cai trị tại Đông Dương.

Theo dõi vấn đề ma túy ở trên thế giới, người viết nhận thấy rằng, từ đầu thế kỳ 19 đến ngày nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng có vấn nạn buôn bán nha phiến. Thường thường, những kẻ chủ mưu nhập cảng, biến chế và phân phối cho khách hàng tiêu thụ sản phẩm này đều là những tổ chức tội ác hay những thế lực ngoại thù như trường hợp người Anh nhập cảng nha phiến  vào Trung Hoa và gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842) và Thực dân Pháp nhập cảng nha phiến vào Đông Dương.

NGUỒN GỐC CỦA VIỆC

BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM


Trước thế kỷ 19,  Việt Nam có một số người hút thuốc phiện, nhưng hầu như không có vấn nạn buôn bán ma túy. Từ đầu thế kỷ 19, những tầu thuyền chuyên chở thuốc phiện (hầu hết là của người Anh)  trên đường đưa vào thị trường Trung Hoa, thường ghé bến ở Việt Nam. Tại đây, bọn con buôn  móc nối được một số Hoa thương để bán sản phẩm này ở nước ta. Thấy  vậy, vào năm 1820, triều đình Huế bèn ban hành lệnh đặt việc buôn bán và hút thuốc phiện ra ngoài vòng pháp luật.

Từ năm 1858, Thực dân Pháp dùng chiến lược nội công ngoại kích tấn công Việt Nam, quân dân Việt Nam không chống cự nổi. Triều đình Huế bắt buộc phải chấp nhận ký Hiệp Ước Nhâm Tuất 1862. Theo hiệp ước này, Nhà Nguyễn phải chấp nhận 12 điều khoản:
1.- Phải để cho các giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha được tự đi lại truyền đạo ở trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
2.- Nhường cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm các tỉnh Đồng Nai, Gia Định và Định Tường),
3.- Phải bồi thường cho liên minh giặc một khoản tiền chiến phí là 4 triệu quan (phải trả trong 10 năm), và nhận chịu nhiều điều khoản bất công khác nữa.
…..

Kể từ đó,  các Hoa Thương được tự do đem thuốc phiện vào bán ở những vùng do Thực dân Pháp kiểm soát và phải đóng thuế 10% tính theo giá bán. Cũng từ đó, trên lãnh thổ Đông Dương, quyền lực của Thực dân Pháp mở rộng đến đâu thì ở đó việc buốn bán nha phiến được hợp pháp hóa. Như đã nói ở trên, đây cũng là độc kế của Pháp và Vatican là vừa làm cho dân ta bạc nhược mất hết nhuệ khí của truyền thống “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, vừa có thể thâu nhập được một khoản tiền khá lớn, đài thọ được một phần nào gánh nặng tài chính chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân ta.

Mấy năm sau, thấy rằng chính sách hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện ở Đông Dương đem lại một số lợi nhuận khổng lồ, chính quyền Bảo hộ bèn quyết định nắm độc quyền việc nhâp cảng, biến chế, phân phối và khuếch trương các tiệm bán sản phẩm này cho khách hàng tiêu thụ, đặc biệt nhất là từ thời Toàn Quyền Paul Doumer 12/1896-4/1889), trở về sau (cho đến năm 1945).

Vào năm 1918, việc làm ăn bất lương này rất thịnh đạt. Trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương có tới 1,512 tiệm hút công khai, và có tới 3,098 tiệm bán lẻ cung ứng cho khách hàng tiệu thụ. [1]  Vào năm 1938, riêng những dịch vụ buôn bán thuốc phiện đem lại cho chính quyền bảo hộ tới  15% của tổng số tiền thâu nhập.

Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) đã ảnh hưởng ít nhiều đến vần đề phân phối thuốc phiện tại các địa phương và con số khách hàng tiêu thụ. Trong thời gian này, con số tiệm bán lẻ giảm xuống còn có 2,500 tiệm, nhưng  con số dân nghiền vẫn còn tới cả 100 ngàn người, và vẫn mang lại cho chính quyền 15% của tổng số tiền thâu nhập, giống như hồi năm 1938.

Kết luận: Tại Đông Dương, chính quyền Thực dân Pháp là thủ phạm của những hành động tội ác:
1.- Nhập cảng  thuốc phiện ,
2.- Thiết lập các cơ sở chế biến,
3.- Tổ chức hệ thống phân phối,
4.- Khuyến khich việc mở mang bán sỉ, bán lẻ và các tiệm hút.

Mục đích của việc làm bất chính và dã man này là để vừa đầu độc dân ta rơi vào tình trạng nghiện ngập nhằm làm suy yếu tinh thần chống ngoại xâm, vừa để kinh doanh lấy tiền đài thọ cho bộ máy đàn áp nhân dân ta. Những sư kiện này cũng được sử gia Alfred W McCoy ghi nhận trong cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia với nguyên văn như sau:

Sau khi thiết  lập chế độ bảo hộ ở Cao Mên (1863), Trung Kỳ (1883), Bắc Kỳ (1884) và Lào (1893), người Pháp nắm độc quyền nhập cảng và phân phối thuốc phiện để lấy tiền tài trợ  gánh nặng chi phí cho bộ máy cai trị tại thuộc địa. Trong khi việc buôn bán thuốc phiện  ở Nam Kỳ đã thảnh công trong nhiều năm, sự bành trướng các cơ sở kinh doanh của người Pháp (ở Đông Dương) vào các thập niên 1880 và 1900  đã tạo nên tình trạng ngân quỹ bị thiếu hụt trầm trọng cho toàn cõi Đông Dương. Hơn nữa, các chính quyền hổ lốn của năm thuộc địa riêng rẽ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào) là một kiểu mẫu thiếu năng lực, và những bầy đoàn công chức người Pháp đã làm hoang phí những nguồn lợi tức nhỏ bé của các thuộc địa này. Dù là đã có những  cải cách hành chánh để hoàn chỉnh những thiệt hại trong những năm đầu thập niên 1890, tình trạng thiếu hụt ngân sách vẫn tiếp tục đe doạ tương lai của Đông Dương thuộc Pháp.   

Vào lúc này, Paul Doumer, một chuyên viên phân tích về ngân sách, được đưa lên nắm giữ chức vụ Toàn Quyền Đông Dương. Ngay khi vừa rời nước Pháp đến  nhận nhiệm sở  ở Đông Dương vào năm 1897, Toàn Quyền Doumer đã cho tiến hành một loạt biện pháp cải cách về ngân khoản chi tiêu. Đó là những biện pháp: Tạm ngưng tuyển mộ các công chức, cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết, và tập trung 5 ngân quỹ rời rạc của 5 xứ thuộc địa vào một sở ngân khố trung ương. Nhưng quan trọng hơn hết là vào năm 1899, Doumer tổ chức lại công việc làm ăn về thuốc phiện, khuếch trương hệ thống bán sản phẩm này và làm giảm rất nhiều những khoản chi tiêu khác. Sau khi gom 5 cơ quan thuốc phiện tự trị lại thành một Sở Độc Quyền Thuốc Phiện, Doumer thiết lập một nhà máy biến chế thuốc phiện ở Sài Gòn để biến chế thuộc phiện sống Ấn Độ thành thuốc phiện đã hoàn chế cho dân nghiền sử dụng. Nhà máy biến chế mới này sản xuất một loại thuốc phiện đã hoàn chế có thể cháy mau hơn khiến cho người hút có thể tiêu thụ nhiều hơn thường lệ. Theo chỉ thị của Doumer, Sở Độc Quyền Thuốc Phiện mua thuốc phiện với giá rẻ ở tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, để các tiệm bán lẻ và những tiệm hút của chính quyền có thể lôi cuốn được nhiều khách hàng thuộc giới  lao động nghèo mà họ không có đủ tiền để sử dụng loại thuốc phiện đắt tiền mang nhãn hiệu Ấn Độ.  Nhà nước lại cho mở thêm các tiệm hút và các tiệm bán lẻ để  đáp ứng cho nhu cầu khách hàng  càng ngày càng gia tăng. (Năm 1918) có 1,512 tiệm hút và 3,098 tiệm bán lẻ). Việc buôn bán thuốc phiện rất là thịnh đạt. 

Là Toàn Quyền Đông Dương, chính Doumerđã hãnh diện tường trình rằng những cải cách làm tăng thêm tiền thâu nhập về thuốc phiện khoảng 50 phần trăm trong thời gian bốn năm tại chức của ông ta, chiếm trên 1/3 của tất cả tiền thâu nhập ở thuộc địa. Tính đến lúc đó, lần đầu tiên trong hơn mười năm có tiền thặng dư trong ngân khố. Hơn nữa, những cải cách của Doumer còn tạo cho người Pháp một niềm tự tin mới vào việc đầu tư kinh doanh vào Đông Dương, và ông ta có thể vận động vay tới 200 triệu Phật lăng để tài trợ cho nhiều dự án lớn lao. Một phần của những dự án này là dự án làm hệ thống đường xe lửa ở Đông Dương và nhiều dự án thiết lập nhà thương và trường học.

Thực dân Pháp cũng không có ảo ảnh về cách thức họ tài trợ cho các dự án phát triển ở Đông Dương. Khi chính quyền loan báo dự án xây đường xe lửa ngược theo dòng Sông Hồng lên tỉnh Vân Nam ở Trung Hoa, phát ngôn viên của giới kinh doanh (người Pháp) giải thích một trong những mục đích tiên khởi của dự án này là:

Điều chú ý đặc biệt là vào lúc người ta sắp sửa bỏ phiếu chuẩn chi tiền tài trợ cho việc xây cất đương xe lửa đi Vân Nam để tìm phương cách tăng cường việc buôn bán giữa Vân Nam với Đông Dương… Việc điều hành thuốc phiện và muối ở Vân Nam có thể được điều chỉnh theo phương cách làm cho việc buôn bán này dễ dàng và gia tăng khối lượng hàng hóa chuyển vận bằng đường xe lửa. 

Vào trong các thập niên 1920 và 1930, trong khi các nước trên thế giới lao vào cuộc chiến chống “tội ác thuốc phiện” , bắt buộc các chính quyền  thuộc địa khác ở Đông Nam Á phải giảm bớt  dịch vụ độc quyền buôn bán thuốc phiện, thì  chính quyền Pháp ở Đông Dương vẫn thản nhiên, vẫn tiếp tục theo đuổi buôn bán thứ hàng hóa tội ác này. Khi cuộc đại Khủng Hoảng Kinh Tế xẩy ra vào năm 1929 làm cho thuế thâu nhập giảm bớt đi rất nhiều, người Pháp lại cố gắng nâng mức lợi tức (đã giảm đi) của dịch vụ buôn bán thuốc phiện để quân bình ngân sách. Lợi tức thâu nhập của  dịch vụ buôn bán thuốc phiện đã tăng lên đều đều. Vào năm 1938, tiền thậu nhập do việc buôn bán thuốc phiện mang lại lên tới 15% của tổng số tiền thuế thâu nhập ở thuộc địa tại Đông Dương – cao nhất ở Đông Nam Á.”   [2] 

Biến cố Nhật Bản hất cẳng chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican tại Đông Dương vào chiều tối ngày 9/3/1945 và cuộc Tổng Khởi Nghĩa của nhân dân ta vào ngày 19/8/1945 làm cho công việc làm ăn bất lương này của  chính quyền bảo hộ Pháp - Vatican ngưng trệ.
 

A.- MIỀN BẮC:

Người viết cố gắng tìm tài liệu nói về vấn đề buôn bán ma túy có liên hệ với chính quyền Kháng Chiến (1945-1954) do Viêt Minh lãnh đạo và chính quyền miền Bắc trong những năm 1954-1975, nhưng vẫn không tìm được một tài liệu nào cả. Đồng thời, lại thấy, các sách giáo khoa môn công dân ở bậc trung học, đều có ghi lời khuyên dạy Nghiện hút ma túy sẽ nguy hiểm đến tính mạng và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.” Như vậy, chính quyền Việt Nam hiện nay (cũng là chính quyền Kháng Chiến 1945-1954 và chính quyền Bắc trong những năm 1954-1975) chủ trương tích cực chống việc sản xuất, nhập cảng, biến chế, phân phối và lưu hành ma túy, ngoại trử việc sử dụng sản phẩm này trong lãnh vực y khoa.

B.- MIỀN NAM:

Như đã nói ở trên, việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là do chính quyền miền Nam chủ mưu: điều khiển việc nhập cảng, bảo trợ việc biến chế, gói thành gói, mở mang các tiệm hút và  phân phối cho khách hàng tiêu thụ.

Sách sử cho biết,  tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1950 cho đến tháng 4 năm 1975việc buôn bán ma túy đều do các chính quyền Bảo Đại, chế độ cha cố Ngô Đình Diệm, chính quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chủ trương bất kể gì là sản phẩm này có tác dụng làm nguy hại cho nòi giống, dân tộc và tiền đồ của đất nước.

Với những hành động vừa phi pháp, vừa bất nhân và dã man, vừa hại nước hại dânvừa phản dân tộc, các chính quyền miền Nam đã trở thành những tổ chức tội ác đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Chính vì vậy mà sử gia Alfred McCoy mới gọi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu (Diem Dynasty and the Nhu Bandits” (Alfred McCoy, The Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row Publishers, 1972), p. 159). Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho độc giả có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này.

1.- QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Trong thời kỳ Kháng Chiến 1945-1954, Phòng Nhì Pháp chủ trương tái lập việc làm ăn bất chính này, rồi cấu kết với băng đảng Bình Xuyên do Bẩy Viễn cầm đầu và toa rập với Quốc Trưởng Bảo Đại để tái lập việc nhập cảng lậu thuốc phiệntiến hành các cơ sở biến chế, thiết lập hệ thống phân phối và mở mang các tiệm hút. Tuy nhiên, có lẽ một phần vì nhân dân ta đã ý thức được tác dụng nguy hại của ma túy, và một phần vì chiến tranh đang diễn ra gay go quyết liệt, khiến cho phần lớn dân ta lao vào cuộc chiến, cho nên con số người nghiện hút không nhiều như những năm trước năm 1945. Vì thế mà trong những năm 1950-1954, chỉ có hàng trăm (nghĩa là chưa tới một ngàn) tiệm hút ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Lẽ dĩ nhiên, dù nhiều hay ít tiệm hút, số tiền lời của việc làm ăn bất chính này cũng phải chia theo tỉ lệ phần trăm cho ông Bảo Đại, Phòng Nhì và Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực của Pháp tại Đông Dương. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in Southeast Asia  ghi nhận như sau:

Vào một thời điểm sau năm 1950, quân đội Pháp đặc thưởng cho Bình Xuyên một món hàng béo bở của thực dân. Đó là việc buôn bán ma túy. Bình Xuyên khởi công biến chế thuốc phiện sống (do người Mèo sản xuất và được các lực lượng phụ lực Pháp chuyển về Sài Gòn), rồi phân phối cho hàng trăm tiệm hút ở rải rác trong thành phố  Sài Gòn Chợ Lớn để cung ứng cho giới dân nghiền. Họ chia tiền lời của việc làm ăn bất chính theo tỉ lệ đã được ấn định cho Hoàng Đế Bảo Đại, Phòng Nhì và Quân Đội Phụ Lực của Pháp. Sau này Đại Tá Lansdale của CIA báo cáo như vậy.” Nguyên văn: “Some time after 1950 the French military awarded the Binh Xuyen another lucrative colonial asset, Saigon ‘s opium commerce. The Binh Xuyen started processing MACG ‘s raw Meo opium and distributing prepared smokers’ opium to hundreds of dens scattered throughout the twin cities. They paid fixed percentage of their profits to Emperor Bao Dai, the 2ème Bureau, and the MAAG commados. The CIA’s Colonel Lansdale later reported that.”[3]

Thật là vô liêm sỉ đến cùng độ của vô liêm sỉ. Đường đường là một vị lãnh đạo một chính quyền thường được rêu rao là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” ra đời cùng với “lá cờ vàng ba sọc đỏ” vào ngày 2/6/1948 để tranh đấu cho tự do dân chủ mà lại gục mặt xuống đồng lõa với bọn ăn cướp Bình Xuyên và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican trong việc làm bất chính hại dân hai nước như vậy! Bộ mặt thật của nhà lãnh đạo đầu tiên của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” như thế đó! Và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” biểu tượng cho chế độ của  hạng người lãnh đạo vô liêm sỉ như thế đó!
Qua những sự kiện này, chúng ta có thể nói là “Đừng tin những gì mà những kẻ tự xưng là “người quốc gia chân chính” làm, mà hãy nhìn vào những việc làm vô liêm sỉ này và những hành động bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và cho Đế quốc Mỹ của bọn chúng.

2.- CHẾ ĐỘ CHA CỐ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Hơn một năm sau khi được Đế quốc Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền với cuơng vị là thủ tướng vào ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào ngày 23/10/1955 với dã tâm truất phế QuốcTrưởng Bảo Đại để tiếm quyền. Làm xong việc làm phản trắc này, ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước Cộng Hòa Việt Nam và tự phong là Tổng Thống, rồi cho mở chiến dịch tuyên tuyền rầm rộ bài trừ các tệ đoan xã hội, trong đó có việc cấm hút thuốc phiện để làm bức bình phong che đậy việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô và gia đình trị đang được tiến hành.

Năm 1958, sau khi đã củng cố xong quyền lực, anh em nhà Ngô cho tái lập kỹ nghệ buôn lậu thuốc phiện sống, thiết lập các cơ sở biến chế và khuếch trương kỹ nghệ này bằng cách cấu kết với các tên đầu nậu Ba Tầu (trong đó có tên Mã Tuyên) ở Chợ Lớn để mở mang các tiệm hút và các tiệm bán sỉ bán lẻ sản phẩm này ở Sài Gòn Chợ Lớn một cách công khai. Vào khoảng năm 1963, công việc làm ăn phi pháp này của chính quyền Diệm khá phát đạt. Riêng ở Chợ Lớn, con số tiệm hút hoạt động công khai lên đến 2,500 tiệm. Dưới đây là đoạn văn của tác giả Alfred McCoy viết trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia về việc làm bất chính hại dân hại nước này của chế độ cha cố Ngô Đình Diệm:

Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng Ngô Đình Nhu quyết định  tái lập việc buôn bán nha phiến đê lấy tiền. Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương Bonaventure “Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối liên  giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ chuyển vận món hàng này về  miền Nam Việt Nam..

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu  còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không Lực Việt Nam.

Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một lý thuyết gia chính trị của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của  kế hoạch làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là Sở  Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân Đội, và quan trọng  nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong chính phủ và trong quân đội. Chính quyền Sài Gòn kiểm soát chặt chẽ việc thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên cho sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở  Sài Gòn-Cholon đều có chỉ điểm viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần  ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà sở biết được đầy đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt  và nội dung các cuộc họp của đối tượng. Một số các nhà quan sát  cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn nhân viên mật vụ  làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.

Vì  có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những  dịch vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống tình báo của ông.”  [4]

Phần trích dẫn trên đây chỉ là có 2 trong số gần 7 trang nói về việc buôn bán ma túy trong thời chế độc cha cố Ngô Đình Diệm.

Đồng thời, chính quyền Ngô Đình Diệm còn biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille chuyên biến thuốc phiện sống thành bạch phiến rổi chuyển vận  sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khác hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba: (1) Nguồn thuốc phiện sống phát xúat từ miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm cung cấp, (2) trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển, và (3) trung tâm phân phố bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điểu khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante  Sự kiện này được hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee ghi nhận trong csách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm như sau.

Và năm 1958, khi Diệm – Nhu tái lập lưu thông thuc phiện về Sài Gòn, Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn con nghiện ở Sài Gòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới - đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường và không chắc chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phân ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế nào?

Nhu và Rock Francisici đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cap để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như một thứ Bộ TRưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở Marseille một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một vụ làm ăn ngon lành.

Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sài Gòn và chuyển hàng xong hết mà không gặp nhiểu kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Phi Đội Vận Tải số 1 của riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA]) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sài Gòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến Mỹ.

Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci - thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiện tới Sài Gòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sấn (tới  phạm vi hoạt động) của Francisci.

Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, đồng thời nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn  kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ cũng vậy.

Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành nững đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dinh dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.”[5]

Giữa tất cả nhũng điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh tại Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là người Pháp.

Bây giờ chúng ta gặp một người Pháp nữa, giống như Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này la Matthew Franchini. Bề ngòai ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sài Gòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sài Gòn sang các lò bạch phiến ở Marseille. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đương dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine  vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sài Gòn (những chuyến này do Nhu bảo kê).”[6]

Ngoài ra, lại cón có Tòa Đại Sứ Việt Nam tại LàoTrần Kim Tuyên và bọn Cần Lao tin cẩn, người phụ trách chuyển vận thuốc phiện từ Lào về  Sài Gòn nữa.

Có thể do việc làm ăn bất lương này, anh em ông Ngô Đình Diệm mới bắt đầu kết thân sống chết với tên Mã Tuyên, một tên đầu nậu khét tiếng trong bang Triều Châu ở Chợ Lớn. Xin nhắc lại, cũng vì ma túy có tác dụng làm suy yếu sức khỏe của con người, làm cho gia đình những người nghiện khốn đốn điêu linh, và làm cho các quốc gia có nhiều người nghiện trở nên suy nhược, cho nên hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm bán sản phẩm này cho quảng đại quần chúng, và chỉ cho phép được sử dụng trong phạm vi y khoa mà thôi. Cũng vì thế mà tác giả Alfred W. McCoy mới gọi chế độ đạo phiệt gia đình trị Ngô Đình Diệm là Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.”  Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159.

3.- TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Khi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, việc làm ăn bất lương này chuyển vào tay băng đảng của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in South East Asia viết như sau:

Dĩ nhiên, việc “Phục hồi hệ thống làm ăn cũ” có nghĩa là làm sống lại việc tham những trên một bình diện đại quy mô để có tiền mặt chi phí những món tiền thưởng ban phát cho những nhân viên do thám bán thời gian khi họ mang lại một nguồn tin tình báo mới. Ông (Nguyễn Ngọc) Loan và những chuyên viên cảnh sát tình báo nhà nghề đã hệ thống hóa vấn đề tham nhũng và quy định bao nhiêu tiền cho mỗi cơ quan đặc biệt, mỗi viên chức được giữ lại bao nhiêu cho riêng cá nhân và bao nhiêu phần trăm dành cho bộ máy chính trị của Thủ Tướng Kỳ. Cá nhân nào tham nhũng quá đáng thì bị khui ra và sẽ bị xử lý. Những mánh mung thủ đoạn làm tiền bất chính cũng như việc bảo vệ những việc làm bất chính này và tiền đút lót đều được kiểm soát chặt chẽ. Sau nhiều năm quan sát và điều nghiên những hoạt động trong hệ thống tham nhũng của ông Loan, ông Charles Sweet cho rằng có 4 nguồn tham nhũng chính ở miền Nam Việt Nam: (1) bán các chức vụ và chỗ làm trong chính quyền, (2) tham nhũng trong các cơ quan hành chánh (biển thủ, toa rập với các nhà buôn và nhà thầu để ăn chia theo phần trăm trong các dịch vụ giao dịch giữa nhà buôn hay nhà thầu với các cơ quan trong chính quyền, hối lộ, v.v…, (3) tham nhũng trong quân đội (ăn cắp vật liệu, gian lận trong sổ lương lính), (4) buôn bán ma túy. Ông Sweet kết luận rằng, trong 4 loại làm tiền bất chính trên đây, việc buôn bán ma túy đem lại nguồn lợi tức bất chính quan trọng nhất.

Là người trung gian (ủy nhiệm) của Thủ Tướng Kỳ, ông Loan chỉ đảm nhiệm việc chỉ huy tất cả các hình thức tham những ở trên bình diện hành chánh tổng quát và để lại những vấn để tham nhũng tầm thường nhỏ nhặt, tổ chức và điều hành cho những người phụ tá đáng tín cậy.”[7]

Trên đây là nói về vấn đề buôn bán ma túy trong những năm ông Nguyễn Cao Kỳ còn nắm quyền thủ tướng (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương) từ ngày 19/6/1965 cho đến khi ông Nguyễn Văn Thiệu được Đế quốc Mỹ đưa lên làm Tổng Thống vào ngày 3/9/1967:

Ngày 3/9/1967, nhờ sự tiếp tay của Hồng Y New York là Francis Spellman (Vatican) và Đại Sứ Ellsworth Bunker, Thiệu được “đắc cử” Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) với 34.8% số phiếu.” [8]

4.- CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT DA TÔ NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Quyền lực của Tướng kỳ bắt đầu sụp đổ kể từ khi cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1967. Kể từ đó, việc làm ăn bất lương này dần dần lọt vào tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Trần Thiện Khiêm và Tướng Đặng Văn Quang. Với sự hiện diện của hơn 500 ngàn quân Mỹ và nhiều ngàn quân lính đồng minh của Mỹ như Úc Đại Lợi, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, việc làm ăn này càng phát triển và càng kiếm được nhiều tiền hơn. Cũng vì thế mà trong thời kỳ này, việc buốn bán ma túy gần như hoạt động công khai trước mắt người dân và các nhà quan sát quốc tế. Mấy đoạn văn trích dẫn từ trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia dưới đây sẽ cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về việc buôn bán ma túy ở miền Nam trong thời ông Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ và Vatican đưa lên nắm giữ chức vụ tổng thống từ tháng 9/1967 cho đến ngày 30/4/1975:

Sự gia tăng đột phá về tầm mức và lợi nhuận trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam do thị trường mới là lính Mỹ càng ngày càng đông cũng như nhu cầu đã tăng lên của các tổ chức ma túy quốc tế đưa đến kết quả là gia tăng những băng đảng nhỏ mới xuất hiện để làm ăn trong việc làm phi pháp này.

Vào khoảng năm 1970, việc buôn bán ma túy ở miền Nam coi như là được chia làm ba phe đảng quan trọng: (1) Phe Không Quân, (2) Phe chính quyền (nghĩa là cảnh sát, các cơ quan quan thuế, và cơ quan coi về các hải cảng và giang cảng) dưới quyền điều khiển của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm càng ngày càng hoạt động mạnh hơn, và (3) quân đội, hải quân và hạ viện trong Quốc Hội hoạt động cho phe đảng của Tổng Thống Thiệu.

Có lẽ vì sự “liên hệ” với số tiền lợi nhuận quá lớn trong việc làm phi pháp này, cho nên giữa những phe đảng này có một mối oán cừu đáng kể.

Liên hệ” trong việc buôn bán nha phiến túy ở miền Nam có nhiều hình thức. Thường thường, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội nắm giữ vai trò cố vấn hoặc người bảo vệ hay bao che cho các tổ chức của người Tầu Triều Châu chuyên nhập cảng lậu thuốc phiện sống, rồi biến chế, gói thành gói và phân phối đến các nơi tiêu thụ. (Triều Châu là người Trung Hoa từ vùng Tô Châu ở miền Nam Trung Hoa, tổ chức này của người Triều Châu đã kiểm soát phần lớn hệ thống buôn bán ma túy ở Á Châu từ giữa thế kỷ 19 và nắm giữ một vai trò trong các tổ chức tội ác ở Trung Hoa, tương tự như tổ chức tội ác của người Sicilian ở Ý Đại Lợi và người Corse ở Pháp. Chi tiết về các tổ chức này đã được trình bày ở Chương 6 - trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia.) Sự quan trọng của việc bảo vệ hay bao che trong việc làm ăn phi pháp này không thể coi thường hay đánh giá thấp được, vì rằng không có sự bảo vệ hay bao che thì việc buôn bán ma túy không thể tiến hành được. Đồng thời, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội liên hệ trực tiếp rất nhiều vào việc nhập cảng lậu ma túy vào miền Nam Việt Nam. Những quân nhân miền Nam có thể tới gần các phi cơ, xe chuyển vận nhà binh, tầu thuyền của hải quân mà người Trung Hoa không thể tới được, và phần lớn những người Việt Nam có quyền thế có rất nhiều hoàn cảnh dễ dàng để mang nha phiến qua các cửa ải quan thuế và các trạm kiểm soát ở biên giới hơn là những người Trung Hoa.” [9]

Thiệu nắm quyền chỉ huy.- Vào khi quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Kỳ xuống dốc một cách thảm thương, các sĩ quan cao cấp thân Tổng Thống Thiệu trở thành những nhân vật nổi trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam. Giống như những người tiền nhiệm là Tổng Thống Diệm và Thủ Tướng Kỳ, Tổng Thống Thiệu đã cố tình tránh né để cho cá nhân ông không mang tiếng vào những việc tham nhũng về chính trị. Tuy nhiên, người ủy nhiệm của ông là Tướng Đặng Văn Quang, người nắm giữ vai trò cố vấn tình báo tại Phủ Tổng Thống, lại liên hệ nặng nề vào những việc làm ô nhục và ghê tởm này. Qua những sĩ quan cao cấp trung thành với chính ông hay với Tổng Thống Thiệu ở trong quân đội và hải quân, Tướng Đặng Văn Quang đã thiết lập được một lực lượng hùng hậu tiếp tay cho ông. Dù là đối với quốc tế, tư thế của Tướng Quang kém hơn tư thế của Tướng Kỳ, nhưng Tướng Quang nắm quyền kiểm soát hải quân miền Nam. Thế lực này chứa chấp một tổ chức nhập cảng lậu một số lượng ma túy rất lớn bằng cách sử dụng các tầu thuyền của hải quân để chuyển vận và được những nhà hàng hải buôn lậu người Trung Hoa bảo vệ. Trong khi ảnh hưởng của Tướng Kỳ đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội bị suy yếu nặng nề, thì quyền kiểm soát quân đội lại lọt vào tay Tướng Quang. Vào lúc này, phần lớn việc phân phối và bán ma túy cho quân lính Mỹ nằm ở trong tay quân đội. Hơn nữa, khối dân biểu thân Tổng Thống Thiệu ở hạ viện trong Quốc Hội đã công khai để lộ ra những hoạt động buôn lậu ma túy, nhưng hình như họ làm ăn độc lập với Tướng Quang hơn là quân đội và hải quân.

Vào ngày 15/7/1971, trong Bản Tin Chiều Tối của đài truyền hình BBC, phóng viên của đài truyền hình này từ Sài Gòn là ông Phil Brady nói với khán thính giả toàn quốc rằng cả Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ đều dùng tiền lợi nhuận của buôn bán ma túy để tài trợ cho chi phí vận động tranh cử. Ông Brady viện dẫn “nguồn tin rất đáng tin cậy” như là nói rằng Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn tình báo của Tổng Thống Thiêu, là “tay buôn bán ma túy lớn nhất” ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù viên chức phụ trách văn phòng báo chí của Tổng Thống Thiệu công bố bàn văn phủ nhận thẳng thừng lời lên án trên đây và tố cáo ông Brady “loan tin ngụy tạo để phỉ báng các nhà lãnh đạo chính quyền miền Nam nhằm hỗ trợ và làm hài lòng Cộng Sản,” nhưng ông ta lại không cố gắng bảo vệ Tướng Quang, người nổi tiếng là một trong những các ông tướng bất lương nhất ở miền Nam Việt Nam khi ông tướng này còn là Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở vùng châu thổ Sông Cửu Long.

Tháng 7 năm 1969, phóng viên của tạp chí Time ở Sài Gòn điện về văn phòng tại New York báo cáo về những hoạt động của Tướng Quang ở vùng IV như sau:

Có báo cáo rằng Tướng Quang đã kiếm được hàng triệu bạc bằng cách bán những chức vụ trong chính quyền và thâu tiền bất chính tính theo phần trăm trong việc sản xuất  và bán lúa gạo trong vùng trị nhậm. Có một chuyện nổi tiếng xẩy ra được ghi rõ ràng trong hồ sơ tham nhũng của ông Tướng này ở Quân Đoàn IV. Đó là chuyện ông Đại Tá Nguyễn Văn Minh được đưa lên nắm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông đại tá này đã từng là sĩ quan phụ tá cho Tướng Quang ở Quân Đoàn IV. Vào giờ lễ nhậm chức, người vợ của viên tư lệnh phải ra đi đứng lên la lớn trước mọi người rằng Đại Tá Nguyễn Văn Minh đã trả cho Tướng Quang 2 triệu đồng [7,300 Mỹ kim] để được nắm giữ chức vụ này… Sau cùng, theo sự yêu cầu của người Mỹ, Tướng Quang bị mất chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV.

Cuối năm 1966, Tướng Quang được chuyển về Sài Gòn và trở thành tổng trưởng kế hoạch và phát triển, một chức vụ ngồi chơi xới nước để cứu vớt thể diện. Ngay sau khi Tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống trong kỳ bầu cử được tổ chức vào tháng 9 năm 1967, Tướng Quang được cho giữ chức vụ phụ tá đặc biệt về an ninh quân sự và trở thành người ủy nhiệm đặc trách việc làm tiền bất chính này để gây qũy cho bộ máy chính trị của Tổng Thống Thiệu, giống như vai trò của Tướng Loan đối với Tướng Kỳ trước đó.

Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không đặt tin tưởng tuyệt đối vào Tướng Quang như Tướng Kỳ đối với Tướng Loan. Cá nhân Tướng Loan được Tướng Kỳ trao cho quyền hành hầu như không giới hạn. Mặt khác, Tổng Thống Thiệu thiết lập nhiều trung tâm ganh đua nhau về quyền lực ở ngay trong bộ máy chính trị của ông ta để giữ cho Tướng Quang khỏi có quá nhiều quyền lực. Kết quả là Tướng Quang chẳng bao giờ kiểm soát được tất cả các băng đảng nho nhỏ thân Tổng Thống Thiệu như vai trò Tướng Loan trong bộ máy chính trị của Tướng Kỳ. Khi bộ máy kiểm soát các tổ chức làm tiền phi pháp của Tướng Kỳ ở Sài Gòn bị suy yếu từ sau tháng 6 năm 1968, những băng đảng thân Tổng Thống Thiệu tiến vào thay thế. Trong tình trạng thay đổi quyền lực chính trị như vậy, Tướng Quang được nắm quyền kiểm soát lực lượng đặc biệt, hải quân và quân đội, nhưng một trong những băng đảng khác cũng thân Tổng Thống Thiệu do Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ huy nắm được quyền lực đủ mạnh để dần dần tạo thành một băng đảng riêng rẽ. Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu chiếm được quyền lực vào khi quyền lực của Tướng Kỳ sụp đổ, hình như quyền lực của phe Tổng Thống Thiệu nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang.”

Có bằng chứng cho thấy rằng một trong những nhóm mới bắt đầu nhập cảng lậu nha phiến vào miền Nam Việt Nam là toán quân trong lực lượng đặc biệt  của miền Nam (nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang) hoạt động ở miền nam nước Ai Lao. Tháng 8 năm 1972, tờ New York Times tường trình rằng có nhiều chuyến bay chuyển vận ma túy vào miền Nam Việt Nam “có liên hệ với lực lượng đặc biệt hoạt động trong hệ thống mật dọc theo Đường Mòn Hồ Chí Minh ở Ai Lao. Có căn cứ ở tỉnh Kontum, phía bắc Pleiku, toán quân đặc nhiệm của lực lượng đặc biệt này có không đoàn trực thăng và những phi cơ nhẹ thường xuyên chuyển vận những toán lính phá hoại vào miền Nam Ai Lao và để thực hiện những phi vụ do thám. Một vài sĩ quan trong toán lực lượng đặc biệt này nói rằng vào giữa năm 1971 vị chỉ huy của toán lính này bị chuyển đến một nơi đồn trú khác vì chuyện ông ta liên hệ nặng nề đến việc chuyển vận ma túy có cơ nguy bị bại lộ.” [10]

5.- HẠ VIỆN TRONG QUỐC HỘI MIỀN NAM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Kinh tởm hơn nữa là việc buôn bán ma túy không phải chỉ giới hạn trong ngành hành pháp, cũng không phải chỉ giới hạn trong các binh chủng không quân, hải quân, lục quân và các đơn vị lực lượng đặc biệt, mà còn lan tràn sang cả ngành lập pháp. Đoạn văn dưới đây nói về các ông dân biểu trong Quốc Hội (Ha Viện) làm tay sai cho Nguyễn Văn Thiệu trong hoạt động buôn bán bạch phiến:

Tại Hạ Viện, Tổng Thống Thiệu trông cậy vào những thành viên của Khối Độc Lập để lo việc mà cả và trả tiền (cho những dân biểu làm tay sai cho ông), hơn là chính cá nhân ông thương lượng trực tiếp hay qua các ông tướng cố vấn quân sự của ông. Khối Độc Lập trong hạ viện được thành lập từ năm 1967, gồm toàn những tín đồ Da-tô người Bắc Kỳ di cư hung hăng chống Cộng. Mặc dù, trên danh nghĩa là độc lập, nhưng ngay sau khi vừa mới được thành lập, vị lãnh tụ của khối này là Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện đến gặp Tổng Thống Thiệu và “hứa miệng” là ủng hộ tổng thống để được hưởng những ân huệ (không nói rõ những thứ ân huệ này.) Khối này có ảnh hưởng ra ngoài cả những thành viên của khối và tất cả các thành viên của khối đều nắm giữ những chức vụ quan trọng như là các chức chủ tịch của các ủy ban trong hạ viện, thí dụ như ủy ban vận động quyên tiền gây quỹ, hay viên chức liên lạc thông tin những lệnh truyền của trưởng khối cho các thành viên trong khối; vỏn vẹn chỉ có 19 thành viên, Khối Độc Lập nắm giữ 6 trong số 16 chức vụ chủ tịch ủy ban tại hạ viện. Thí dụ, trong kỳ thảo luận về luật bầu cử tổng thống vào năm 1971, thành viên của Khối Độc Lập là Dân Biểu Phạm Hữu Giao lo việc vận động cho điều khoản 10 được thông qua. Điều khoản gây tranh luận sôi nổi này đòi hỏi cá nhân nào muốn ra ứng cử tổng thống thì phải có tối thiểu 40 chữ ký của các dân biểu quốc hội. Mục đích của điều khoản này là giúp cho Tổng Thống Thiệu dễ dàng làm cho Phó Tổng Thống Kỳ không thể ra tranh cử được. Những ngày đầu trong việc thảo luận điều khoản này, Dân Biểu Phạm Hữu Giao đã mà cả kèo nài với các dân biểu thuộc các sắc tộc thiểu số là 350 Mỹ kim một phiếu và phần lớn các phiếu của các dân biểu gốc Cao Mên là 700 Mỹ kim. Tuy nhiên, vào ba ngày tranh luận sôi nổi sau cùng trước khi bỏ phiếu, giá tiền mỗi lá phiếu nhẩy vọt lên từ 1,000 tới 1,800 Mỹ kim để tranh thủ cho có đủ túc số 75 phiếu hầu thông qua điều khoản này.

Trung thành với Tổng Thống Thiệu hình như có nhiều lợi lộc. Không có dân biểu đối lập nào có liên hệ nghiêm trọng đến một vụ buôn lậu nào. Tất cả dân biểu tại hạ viện có liên hệ đến việc buôn bán bạch phiến và vàng lậu đều thuộc Khối Độc Lập hoặc là trong hiện tại hoặc là trong quá khứ. Lý do thật là đơn giản. Các ông dân biểu đối lập thường thường không có đủ tiền cần thiết để chi phí cho những chuyến đi xuất ngoại như vậy, và cũng không được bảo đảm lúc trở về “sẽ được tiếp đãi lịch sự khi đi qua cửa ải quan thuế.” Tuy nhiên, các ông dân biểu thân chính quyền được tài trợ bằng một khoản tiền (đặc biệt) hoặc là tiền để dành trong những tháng bỏ phiếu và có quyền được cấp hộ chiếu xuất ngoại bốn (4) lần trong một năm, một đặc ân dành cho các dân biểu đuợc xuất ngoại vào những ngày Quốc Hội nghỉ, không nhóm họp. Kết quả là đã có những buổi vui chơi yến tiệc của các ông dân biểu thân chính quyền ở ngoại quốc với danh nghĩa bề ngoài là đi công tác cho chính quyền. Trong năm 1969-1970 các ông dân biểu vui chơi yến tiệc ở ngoại quốc này đã sử dụng tới 821.000 (821 ngàn) Mỹ kim để mua hàng hóa quốc ngoại. Một dân biểu thân chính quyền thuộc loại nổi đã lưu lại ở ngoại quốc tới 119 ngày trong năm 1969, 98 ngày trong năm 1970, và 75 ngày trong ba tháng đầu của năm 1971.”  [11]

6.- CÁC SƠ ĐỒ BUÔN BÁN NHA PHIẾN TRONG THỜI NGUYỄN VĂN THIỆU
Trên đây chỉ là mấy đoạn trích dẫn từ một vài trang trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia (của Alfred W. McCoy) dày 375 trang, không kể các trang ghi chú. Trong cuốn sách này, tác giả dành ra tới 150 trang (từ trang 72 đến trang 222) để nói về vấn đề ma túy ở miền Nam từ việc nhập cảng lậu sản phẩm này cho đến các việc thiết lập các cơ sở biến chế, phân phối và mở mang các tiệm hút ở Sài Gòn - Chợ Lớn cũng như ở nhiều nơi khác.

Trong số 150 trang nói về việc làm ăn phi pháp này ở miền Nam Việt Nam từ năm 1950 cho đến năm 1971, tác giả Alfred W. McCoy còn đưa ra 5 bản sơ đồ tổ chức của những phe đảng của các thế lực cầm quyền ở miền Nam có liên hệ đến vấn đề  buôn bán ma túy trong thời gian này.
1.- Sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954.
2.- Sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ có liên hệ đến những hoạt động buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1968.
3.- Sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ đến những hoạt động buôn bán nha phiến ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970-1971.
4.- Sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về tổ chức Hải Quân Việt Nam được thiết lập trong thời gian miền Nam xua quân sang tấn công Cao Mên vào mùa Xuân 1970. Dĩ nhiên là tổ chức này có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy và nằm dưới quyền chỉ huy của Tướng Đặng Văn Quang.
5.- Sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy phiến trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam.

Trong mỗi sơ đồ trên đây, tác giả đều ghi rõ danh tính của từng cá nhân phụ trách phần vụ nào trong hệ thống quyền lực và liên hệ đến việc buôn bán ma túy.

Nhìn vào sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954, chúng ta thấy đứng đầu trên hết là Bộ Chiến Tranh tại Pháp chỉ đạo, kế đến là cơ quan thâu thập tài liệu và phản gián, và Đoàn Quân Viễn Chinh Pháp (tại Đông Dương).

Đoàn Quân Viễn Chinh tại Đông Dương chỉ đạo hai cơ quan: (1) Phòng Nhì, và (2) Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực.

Phòng Nhì nối kết với Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên. Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực chỉ đạo Nhóm Không Vận Biệt Kích Hỗn Hợp. Nhóm này nối kết với Vùng Bắc (Northern Zone). Tại đây có hai nhân vật quan trọng là Touby Lý Foung (người H. Mong = Mèo ) và Đèo Văn Long (người Thái).

Hai nhân vật này thâu mua thuốc phiện sống sản xuất tại đia phương để cung cấp cho Phòng Nhì. Phòng Nhì chuyển cho Nhóm Không Vận Biệt Kích chuyển vận bằng phi cơ vào Sài Gòn để giao cho Bình Xuyên. Bình Xuyên cấu kết người Tầu Triều Châu ở Chợ Lớn lo việc việc biến chế, gói lại thành từng gói rồi phân phối đến các tiệm bán sỉ, bán lẻ và cho khách hàng tiêu thụ tại các tiệm hút do Bình Xuyên quản lý.

(Cũng nên biết, phần lớn thuốc phiện sống được sản xuất ở vùng Tam Giác Vàng (nằm trong vùng Đông Nam Miến Điện,Tây Bắc Thái Lan và Tây Bắc Ai Lao) do đám tàn quân (khoảng 12 ngàn) Quốc Dân Đảng Trung Hoa chạy sang vùng này chủ mưu và đảm trách.)

Nhìn vào sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong những năm 1965-1968, chúng ta thấy có Quân Đội (một số đơn vị trong quân đội), Không Quân, Thương Cảng Sài Gòn và Sở Quan Thuế. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng của tổ chức này được nêu đích danh là Bà Nguyễn Thị Lý (chị ruột Tướng Nguyễn Cao Kỳ), Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia), Trung Tá Khu Đức Nùng (Biệt phái tại Ai Lao), Tướng Vĩnh Lộc (Tư Lệnh Quân Đoàn II), Tướng Lê Nguyên Khang (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Đại Tá Trần Văn Thăng (An Ninh Quân Đội), Đại Tá Phan Ngọc Huấn (Giám Đốc Sở CIO), Đại Tá Nguyễn Thanh Tùng (Mai Đen), Trung Tá Phó Quốc Chụ (Thương Cảng Sài Gòn), Trung Tá Nguyễn Văn Luận (Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Đại Tá Nguyên Ngọc Xinh (Trường Phòng một cơ quan Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ (Trương Ty Cảnh Sát Quân 5, Sài Gòn), ông Nguyễn Văn Lộc (Tổng Giám Đốc Nha Quan Thuế), Đại Tá Lưu Kim Cương (Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 33 kiêm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhất), và Thiếu Tá Phan Phụng Tiên.

Nhìn vào sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1970-1971, chúng ta thấy có Quân Đội, Hải Quân và Hạ Viện trong Quốc Hội. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng trong tổ chức này được nêu đích danh là Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Đoàn I), Tướng Lữ Lan (Tư Lệnh Quân Đoàn II trong những năm 1968-1970), Tướng Ngô Dzu (Tư Lệnh Quân Đoàn II, kế nhiệm Tướng Lữ Lan), Tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Tướng Trần Văn Hai (Tư Lệnh Quân Đoàn IV), Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang (Tư Lệnh Hải Quân, cố vấn đặc biệt cho Tướng Đặng Văn Quang về Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Chống Ma Túy - hết sức khôi hài - NMQ), Đề Đốc Lâm Nguyên Tánh (Tư Lệnh Phó Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Chống Ma Túy trong Hải Quân – cũng hết sức khôi hai - NMQ), Hải Quân Đại Tá Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Việt Nam, tổng hành dinh tại Sài Gòn), Đại Tá Hải Quân Nguyễn Hữu Chí (Tư Lệnh Lực lượng Tuần Duyên, tổng hành dinh tại Nha Trang), cùng các căn cứ hải quân tại Rạch Sỏi, Tân Châu, Long Xuyên, v.v…

Cũng trong sơ đồ này, chúng ta còn thấy có tên các ông dân biểu tại hạ viện trong Quốc Hội như Dân Biểu Phạm Hữu Giao (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào tháng 8 và tháng 12 năm 1970 vì tội mang vàng lậu và các hàng hóa lậu thuế khác), Dân Biểu Võ Văn Mầu (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào ngày 10 tháng 3 năm 1971 vì tội mang lậu 9.6 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Phạm Chí Thiện (bị bắt vào ngày 17/3/1971 tại phi cảng Tân Sơn Nhất vì tội mang lậu 4 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện (bị bắt ở Bangkok vào ngày 18/3/1971 vì tội mang 15 kí lô vàng lậu), Dân Biểu Nguyễn Văn Chính (bị bắt vào tháng 9/1970 tại phi cảng Tân Sơn Nhất ví tội mang một triệu bạc Việt Nam ra khỏi nước). Ngoài các dân biểu có thành tích tội ác kể trên, còn có Dân Biểu Hoàng Thông và Dân Biểu Trần Kim Thoa cũng ở trong băng đảng này. (Nhiều chi tiết về thành tích buôn bán vàng và ma tuý của các ông dân biểu thuộc Khối Độc Lập này được trình bày đầy đủ cơi các trang 201-205 trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred McCoy.)

Nhìn vào sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về Tổ Chức Hải Quân có liên hệ đến vấn đề ma túy  trong thời gian quân đội miền Nam tấn công Cao Miên vào mùa Xuân năm 1970, chúng ta thấy có Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Chỉ Huy Trưởng Các Hạm Đội Việt Nam), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Các Giang Thuyền), Đại Tá Hải Quân Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân Việt Nam), Hải Quân Thiếu Tá Hồ Quang Minh (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Giang Thuyền Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long điều hợp các bộ phận trong khi hành quân). Tất cả các vị sĩ quan này đều liên lạc trực tiếp với các bộ phận tại Pnom Penh, Neak Luong, Tân Châu và Bình Thủy. 

Nhìn vào sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam, chúng ta thấy, đứng đầu là Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ Tướng chính phủ trong những năm 1969-1971 – đúng ra còn lâu hơn nhiều - NMQ). Tiếp theo là các bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm và bà con về phía Tướng Trần Thiện Khiêm. Bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm thì có Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu (anh em cột chèo với Tướng Khiêm, nắm giữ chức Đô Trưởng Sài Gòn) và Tướng Trần Thanh Phong (vợ Tướng Phong và vợ Tướng Khiêm có bà con với nhau). Bà con về phía Tương Khiêm thì có Trần Thiện Khởi (Giám Đốc Nha Bài Trừ hàng lậu trực thuộc Nha Quan Thuế - hết sức khôi hài - NMQ), Đại Tá Trần Thiện Thanh (Nắm giữ một chức vụ tại Sài Gòn Gia Định mà tác giả ghi nhận là Dep. Gov. Gen. Saigon – Gia Định), và ông Trần Thiện Phương (Giám Đốc Nha Thương Cảng Sài Gòn).

7.- MỘT LỜI KẾT
Sau khi cho ra đời cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại” ngày 2/6/1948, các “chính quyền quốc gia” miền Nam liên tục thả cửa cho dân chúng dùng ma túy trong kế hoạch đầu độc dân ta, và triệt tiêu tiềm năng chiến đấu chống lại thế lực của liên minh giặc. Ngay từ năm 1950, Bảo Đại cũng đã có liên hệ chặt chẽ với vấn đề buôn bán ma túy để được chia chác tiền lời của việc làm bất chính, bất nhân và dã man này..

Sau này, trong những năm đất nước bị chia đôi, người Pháp công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc và rút quân về nước. Kể từ đó, Liên Minh Chính Trị  Pháp – Vatican tan vỡ. Liên Minh Chính Trị Mỹ - Vatican thành hình, miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Hoa Kỳ và Vatican (1954-1975). Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế và Ngô Đình Diệm được đưa lên thay thế. Kể từ đây,  anh em Ngô Đình Diệm và băng đảng Cần Lao nhẩy lên bàn độc múa may quay cuồng, thi hành chính sách bạo trị, coi nhân dân miền Nam như chó như ngựa. Cũng vì thế mà sử gia Nigel Cawthorne mới liệt kê Ngô Đình Diệm vào danh sách của một trăm tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. [12]

Trong thời kỳ này, việc buôn bán ma túy ở miền Nam được anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao triệt để khai thác, khuếch trương và coi như một kế sách quan trọng vào bậc nhất của chính quyền, biến miền Nam thành kho hàng chứa và cung cấp thuốc phiện sống (thô) cho trung tâm biến chế và sản xuất bạch phiến ở Marseille rồi chuyển vận sang Mỹ Châu cho khách hành tiêu thụ ở Hoa Kỳ”. Cũng vì thế mà tác giả Alfred McCoy mới gọi tập đoàn Da-tô Việt gian này là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.” 

Chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sụp đổ vào ngày 1/11/1963, việc buôn bán túy lọt vào tay bọn Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954 với những nhân vật như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Lê Nguyên Khang. Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Ngô Du, Lữ Lan, Nguyễn Quang Luyện, Phạm Hữu Giao, Nguyễn Văn Chính, Võ Văn Mầu, Phạm Chí Thiện, Hoàng Thông, v.v…

Nhìn lại từ đầu cho đến cuối, từ ngày được Thực dân Pháp cho ra đời vào ngày 2/6/1948 cho đến khi ra ngũ tan hàng vào ngày 30/4/1975,  những nhân vật quan trọng, nắm quyền lãnh đạo của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia”, tự phong là những “người Việt Quốc Gia” đều là những tên Da-tô Việt gian “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, và bọn  Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Những người này đều có liên hệ chặt chẽ với việc buôn bán ma tuý ở và liên hệ với  nhiều việc làm ăn bất chính khác ở miền Nam Việt Nam như đã trình bày trong chương sách nói về vấn nạn tham nhũng trước đây. Thật là nhục nhã!

“Chính quyền Quốc Gia” và “Người Việt Quốc Gia” (với lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho cái chính quyền này và bọn người này) là thế đó! Bới thế cho nên, khi đặt ra vấn đề “lằn ranh Quốc Cộng” và tranh đấu để duy trì “lá cờ vàng ba sọc đỏ”, thiết tưởng cũng nên nhớ đến những điều ô nhục này. Nếu không biết hay không nhớ những điều này thì quả thật là không biết gì về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, và không nhận diện được giặc thù của đất nước. Không phân biệt được ai là giặc và ai là cha, tức là biến thành những đứa con hoang của đất nước.

CHÚ THÍCH


[1] Alfred McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York:Harper Colophon Books, 1972), p.74.).

[2] Alfred W McCoy, Sđd., pp. 73-75.

Nguyên văn: “Shortly after the French established a protectorate over Cambodia (1863) and central Vietnam (1883), and annexed Tonkin (northern Vietnam, 1884) and Laos (1893), they founded autonomous opium monopolies to finance the heavy initial expenses of coloniale rule. While the opium franchise had succeeded in putting southern Vietnam on a paying basis within several years, the rapid expansion of French holdings in the 1880s and 1890s created a huge fiscal deficit for Indochina as a whole. Moreover, a hodgepodge administration of five separate colonies was a model of inefficiency, and hordes of French functionaries were wasting what little profits these colonies generated. While a series of administrative rerforms repaired much of damage in the early 1890s, continuing fiscal deficit still threatened the future of French Indochina.

The man of the hour was a former Parisian budget analyst named Paul Doumer, and one of his solutions was opium. Soon after he stepped off the boat from France in 1897, Governor-General Doumer began a series of major fiscal reforms: a job freeze was imposed on the colonial bureaucracy, unnecessary expenses were cut, and the five autonomous colonial budgets were consolidated under a centralized treasury. But most importantly, Doumer reorganized the opium business in 1899, expanding sales and sharply reducing expenses. After consolidating the five autonomous opium agencies into the single Opium Monopoly, Doumer constructed a modern efficient opium refinery in Saigon to process raw Indian resin into smoker’s opium. The new factory devised a special mixture of prepared opium that burned quickly, thus encouraging the smoker to consume more opium than he might  ordinarily. Under his direction, the Opium Monopoly made it first purchases of cheap opium from China’s Yunnan Province so that government dens and retail shops could expand their clientele to include  the poorer workers who could not afford the high priced Indian brands. More dens and shops were opened to meet expanded consumer demand (in 1918 there were 1,512 dens and 3,098 retailed shops). Business boomed.

As Governor-General Doumer himself has proudly reported, these reforms increased opium revenues by 50 percent during his four years in office, accounting for one-third of all colonial revenues. For the first time in over ten years there was a surplus in the tresury. Moreover, Doumer’s reforms gave French investors new confidence in the Indochina venture, and he was able to raise a 200 million franc loan, which financed a major public works program, part of Indochina’s railrway network, and many of the colony’s hospital and schools.

Nor did the French colonists have any illusions about how they were financing Indochina’s development. When the government announced plans to build a railway up the Red River valley into China’s Yannan Province, a spokesman for the business community explained one of primary goal:

It is particulary interesting. At the moment one is about to vote funds for the construction of a railway to Yannan, to search for ways to augment the commerce between the province and our territory…. The regulation of commerce in opium and salt in Yannan might be adjusted in such a way as to facilitate commerce and increase the tonnage carried on our railway.

While a vigourous international crusade against the “evils of opium” during the 1920s and 1930s forced other colonial administrations in Southeast Asia to reduce the scope of their opium monopolies, French officials remained immune to such moralizing. When the Great Depression of 1929 pinched tax revenues, they managed to raise opium monopoly profits (which had been declining) to balance the books. Opium revenues climbed steadily, and by 1938 accounted for 15 percent of all colonial tax revenues – the highest in Southeast Asia.”

[3] Alfred McCoy, Sđd., tr.118.

[4]Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159-161.

Nguyên Văn: “Diem’s Dynasty and the Nhu’s Bandits.- …But Nhu was determined to go ahead, and to revive the opium traffic to provide the necessary funding... Although most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.

To keep these outlets supplied, Nhu established two pipelines from Laos poppy fields to South Vietnam. The major pipeline was a small charter airline, Air Laos Commercial, managed by Indochina most flamboyant Corsican gangster, Bonaventure “Rock” Francisci. Although there were at least four small Corsican airlines  smuggling between Laos and South Vietnam, only Francisci’s dealt directly with Nhu. According to Lt. Colonel Lucien Conein, a former high ranking CIA officer in Saigon, their relationship began in 1958 when Francisci made a deal Ngo Dinh Nhu to smuggle Laotian opium into South Vietnam. After Nhu guaranteed his opium shipment safe conduct, Fracisci’s fleet of twin engine Beechcrafts began making clandestine airdrop inside South Vietnam on a daily basis.

Nhu supplemented these shipments by dispatching intelligence agents to Laos with orders to send back raw opium on the Vietnam air force transports that shuttled back and forth carrying agents and supplies.

While Nhu seems to have dealy with the Corsican personally, the intelligence missions to Laos were manged by the head of his secret police apparatus, Dr. Tran Kim Tuyen. Although most account  have portrayed Nhu as the Diem regime’s Machiiavelli, many insiders feel that it was the diminitiuve ex-seminary student. Dr, Tuyen, who had the real lust and capacity for intrigue. As the head of the secret police, euphemistically titled Office of Social and Political Study, Dr. Tuyen commanded a vast intelligene network that included the CIA financed special forces, the Military Security Service, and most importantly, the clandesdtine Can Lao party. Through Can Lao party, Tuyen recruited spies and political cadres in every branch of the military and civil bureaucracy. Promotions were strictly controlled by the central government, and those who cooperated with Dr. Tuyen were rewarded with rapid advancement. With profits from the opium trade and other officially sanctioned corruption, the Office and Political Study was able to hire thousands of cyclo-drivers, dance hall girls (”taxi dancers”) and street vendors as partime spies for an intelligence network that soon covers every block of Saigon-Cholon. Instead of maintaining surveillance on a suspect by having him followed, Tuyen simply passed the word to his “door to door” intelligence net work and got back precise, detailed reports on the subject’s  movements, meetings, and converstions. Some observers think that Tuyen may have had as many as hundred thousand full and part time agents operating in South Vietnam. Through this remarkable system Tuyen kept detailed dosiers on every important figure in the country, including paricularly complete files on Diem, Madame Nhu, and Nhu himself which he sent out of the country as a form of personal “life insurance.”

Since Tuyen was responsible for much of the Diem regime’ foreign intelligence network, he was able to disguise his narcotics dealing in Laos under the cover ordinary intelligence work.”

[5] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy [bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000), tr 51-53.

[6] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Sđd.,tr 306-307.

[7] Alfred W. McCoy., Sđd.., tr.169.

Nguyên văn: “Putting “the old system back together again,” of course, meant reviving large-scale corruption to finance each rewards paid to these part-time agents whenever they dilvered information. Loan and the police intelligence professionals systematized the corruption, regulating how much each particular agency would collect, how much each officer would skim off for his personal use, and what percentage would be turned over to Ky’s political machine. Exessive individual corruption was rooted out, and Saigon-Cholon’s vice rackets, protection rackets, and payoffs were strictly controlled. After several years of watching Loan’s system in action, Charles Sweet feels that there were four major sources of graft in South Vietnam: (1) sale of government jobs by generals or their wives, (2) administrative corruption (graft, kickbacks, bribes, etc.), (3) military corruption (theft of goods and payroll frauds), (4) the opium traffic. And out of the four, Sweet concluded that the opium traffic was undeniably the most important source of illicit revenue.

As Premier Ky’s power broker, Loan merely supervised all of the various forms of corruption at a general administrative level, he usually left the mundane problems of organization and management of individual rackets to the trusted assistants.”

[8] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 403.

[9] Alfred McCoy, Ibid., p. 185-186.

Nguyên văn: “The quantum leap in the size and profitability of South Vietnam’s narcotics trade, due both to the new burgeoning GI market as well as the increased demand on the part of the international narcotics syndicates, resulted in a number of new mini-cliques coming into the traffic.

But by 1970 the traffic appeared to be divided among three major factions: (1) elements in the South Vietnamese air force, particularly the air transport wing; (2) the civil bureaucracy (i.e police, customs and port authority), increasingly under the control of Prime Minister Tran Thien Khiem’s family; and (3) the army, navy and National Assembly’ lower house, who answer to President Thieu.  In spite, or perhaps because, of the enormous amounts of money involved, there were considerable anomosity among the three major factions.

“Involvement” in the nation’s narcotics traffic took a number of different forms. Usually it meant that influential Vietnamese political and military leaders worked as consultants and protectors for chiu chau syndicates, which actually managed wholesale distribution, packaging, refining, and some of the smuggling. (Chiu chau are Chinese from the Swatow region of the southern China, and chiu chau syndicates have controlled much of Asia’ s iilicit drug traffic since the mid 1800s and have played a role in China’s organized crime similar to the Scilian in Italy and the Corsican syndicates in France. (Chapter 6 for more details.) The importance of this protection, however, should not be underestimated, for without it the heroin traffic could not continue. Also, powerful Vietnamese military and civil officials are directly involved in much of the actual smuggling of narcotics into South Vietnam. The Vietnamese military has access to aircraft, trucks, and ships that the Chinese do not, and most of the Vietnamese have much easier time bringing narcotics through customs and border checkpoints than their Chinese clients.”

[10] Alfred McCoy, Ibid., pp. 188-190.

Nguyên văn: “Thieu Takes Comand.- In the wake of Air Vice-Marshal Ky’s precipitous political decline, ranking military officers responsible to President Thieu appear emerged as dominant narcotics traffickers in South Vietnam. Like his predecessors, Pressident Diem and Premier Ky, President Thieu has studiously avoid involving himself personally in political corruption. However, his power broker pressidential intelligence adviser Gen. Dang Van Quang is heavily involved in these unsavory activities. Working through high-ranking army and navy ofiicers personally loyal to himself or President Thieu, General Quang has built up a formidable power base. Although General Quang ‘s international network appears to be weaker than Ky’s, General Quang does control the Vietnamese navy, which houses an elaborate smuggling organization that imports large quantities of narcotics either by protecting Chinese maritime smugglers or by actually using Vietnamese naval vessels. Ky’s influence among high-ranking army officers has weakened considerably, and control over the army has now shifted to General Quang. The army now manages most of the distribution and sale of heroin to American GIs. In addition, a bloc of pro-Thieu deputies in the lower house of the National Assembly have been publicly exposed as being actively engaged in heroin smuggling, but they appear to operate somewhat more independently of General Quang than the army and navy.

On July 15, 1971, edition of the NBC Nightly News, the network’s Saigon correspondent, Phil Brady, told a nationwide viewing audience that both President Thieu and Vice-President Ky were financing their election campaigns from the narcotics traffic. Brady quoted “extremely reliable sources” as saying that President Thieu’s chief intelligence adviser, Gen. Dang Van Quang, was “the biggest pusher” in South Vietnam. Although Thieu’s press secretary issued a flat denial and accused Brady of “spreading falsehoods and slanders against leaders in the government, thereby providing help and comfort to the Communist enemy, he did not try to defend General Quang, renowned as one of the most dishonest generals in South Vietnam when he was commander of IV Corp in the Mekong Delta.

In July 1969 Time Magazine’s Saigon correspondent cabled the New York office this report on Gen. Quang’s activities in IV Corps:

While there he reportedly made millions selling offices and taking a rake off on rice production. There was the famous incidents, described in past corruption files, when Col. Nguyen Van Minh was being invested as 21st Division commander. He had been Quang’s deputy corps commander. At the ceremony, the wife of the outgoing commander stood up and shouted to the assembled that Minh had paid Quang 2 million piasters [$7,300] for the position… Quang was finally removed from Four Corps at the insistence of the Americans.

General Quang was transferred to Saigon in late 1966 and became minister of planning and development, a face-saving sinecure. Soon after President Thieu’s election in September 1967, he was appointed special assistant for military and security affairs. General Quang quickly emerged as President Thieu’s power broker, and now does the same kind of illicit fund raising for Thieu’ s political machine that the heavy-handed General Loan did for Ky.

President Thieu, however, is much less sure of Quang than Premier Ky had been of General Loan. Loan had enjoyed Ky’s absolute confidences and was entrusted with almost unlimited personal power. Thieu, on the other hand, took care to build up competing centers of power inside his political machine to keep General Quang from gaining too much power. As a result, Quang has never had the same control over the various pro-Thieu mini-factions as Loan had over Ky’s appratus. As the Ky apparatus’ s control over Saigon’s rackets weakened after June 1968, various pro-Thieu moved in. In the political shift, General Quang gained control of the special forces, the navy, and the army, but one of the pro-Thieu cliques, that headed by Gen. Tran Thien Khiem, gained enough power so that it gradually emerged as an independent faction itself. However, at the very beginning most of the power and influence gained from Ky’ downfall seemed to be securely lodged in the Thieu camp under General Quang’s supervision.

There is evidence that one of the first new groups which began smuggling opium into South Vietnam was the Vietnamese special forces contigents operating in southern Laos. In August 1971, The New York Times reported that many of the aircraft flying natcotics into South Vietnam “are connected with secret South Vietnamese special forces operating along the Ho Chi Minh Trail network in Laos.” Based in Kontum Province, north of Pleiku, the special forces “assault task force” has a small fleet of heliccopters, transports, and light aircraft that fly into southern Laos on regular sabotage and long range-reconnaissance forays. Some special forces claim that the commander of this unit was transferred to another post in mid 1971 because his existence involvement in the narcotics trafic risked exposure.”

[11] Alfred McCoy, Ibid., pp. 201-202.

Nguyên văn: “In the lower house, President Thieu relied on members of the Independence Bloc to do the bargaining and make the payments, rather than negotiating personally or working through his military advisers. Consisting almost entirely of North Vietnamese Catholic refugees, this bloc has maintained a militantly anti-Communist position since it was formed in 1967. Although the bloc is nominally independent, its leader Rep. Nguyen Quang Luyen met with President Thieu soon after it was formed and “verbally agreed” to support the president in exchange for unspecified favors. The bloc has influence far beyond its numerical strength, and all its members occupy key positions as committee chairmen, fund raisers, or whips; with only nineteen members, the Independence Bloc controls six out of lower house’s sixteen committee chairmanships. During the debates over the 1971 election law, for example, it was an Independence Bloc member Pham Huu Giao who floor managed the passage of article 10. This controversial clause required a minimum of forty Congressional signatures on every nominating petition for upcoming presidential election and made it possible for President Thieu eliminate Ky from the running. Early in the debates, Rep. Pham Huu Giao reported tied down a few hill tribe votes for as little $350 apiece and most of Cambodian minority’s ballots for a mere $700 each. However, in the three days of intense bargaining preceding the final balloting, the price jumped from $1.000 to $1.800 for final handful that completed the proposal’s winning tally of seventy five votes.

Loyalty to Thieu seems to have its benefits. No opposition members have even implicated in a sreious smuggling case. All lower house representatives implicated in the heroin and gold traffic are either present or past members of the Independence Bloc. The reason for this is simple; opposition deputies often lack the necessary capital to finance such trips, and are not guaranteed “courtesy of the port” when they return. However, pro-government deputies who are bankrolled by an official travel grant or savings from months of voting the right way are able to take advantage of their four exit visas per year, a privilege guaranteed all deputies for foreign travel during the legislative holidays. The result has been an orgy of foreign junketeering on the part of pro-government deputies. In 1969-1970 junketeering representatives purchased $821.000 worth of foreign currency for their travel. One pro-government representative was abroad for 119 days in 1969, 98 days in 1970, and 75 days during the first three months of 1971.”

[12] Nigel Cawthorne,TYRANTS History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:Acrturus, 2004), pp. 167-168.

© sachhiem.net