TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
Cơ Sở 1 : 245 Bình Quới (1051 Xô Viết Nghệ Tĩnh), Phường 28, Bình Thạnh, Tp.HCM
Cơ Sở 2 : 978 Nguyễn Duy Trinh, P. Phú Hữu - Tp.Thủ Đức, Tp.HCM
Điện thoại: (028) 6270 0119 - (028) 3898 6513 - 0982 120 908 THỜI GIAN LÀM VIỆC 24/24
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC - HÀNH VI CBT (COGNITIVE- BEHAVIOR THERAPY)
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI
1.1 Các khái niệm:
Đối với thuật ngữ “biến đổi nhận thức- hành vi” tác giả Kazdin đã đưa ra định nghĩa như sau:
“ Biến đổi nhận thức- hành vi bao gồm các trị liệu cố gắng làm thay đổi hành vi đang biểu hiện công khai của bệnh nhân bằng việc thay đổi những suy nghĩ, những giải thích, những giả định và những chiến lược đáp ứng của họ”.
Liệu pháp nhận thức - hành vi và Biến đổi nhận thức - hành vi gần giống nhau trong những giả định cơ bản, phương pháp điều trị, nhưng có sự khác nhau ở kêt quả điều trị là:
Biến đổi nhận thức – hành vi
Liệu pháp nhận thức – hành vi
Kết quả và kết thúc điều trị khi đạt được mục tiêu là thay đổi hành vi công khai.
Tập trung vào tác dụng điều trị qua thực chất của sự nhận thức. Một khi có sự thay đổi theo chiều hướng nhận thức tích cực thì chắc chắn rằng hành vi sẽ thay đổi.
Có ba điều cốt lõi mà liệu pháp Nhận thức – Hành vi chứa đựng là : “hoạt động nhận thức ảnh hưởng đến hành vi”, được xem như làm một mô hình mang tính “dàn xếp, hóa giải” cơ bản, sự đánh giá của một cá nhân về các sự kiện có thể ảnh hưởng đến sự đáp ứng của cá nhân trước những sự kiện diễn ra, chính vì vậy sự thay đổi nội dung đánh giá (thay đổi nhận thức) cũng đồng nghĩa với một kết quả mang ý nghĩa quan trọng trong lâm sàng. “Hoạt động nhận thức có thê được giám sát và có thể thay đổi”, ta có thể tiếp cận hoạt động nhận thức nhưng hoạt động này thường không hoàn hảo vì con người thường trình bày hoạt động nhận thức trên cơ sở “có khả năng xảy ra” mà không phải là “thực tế” sự kiện đã xảy ra, cũng chính vì vậy mà việc định giá nhận thức sẽ bị ảnh hưởng, nhung dù sao thì chiến lược định giá nhận thức là thực tế có giá trị, sự đánh giá này là một sự khởi đầu cho những thay đổi về nhận thức, chiến lược này nhấn mạnh đến nội dung và kết quả hơn là tập trung vào tiến trình của nhận thức. “Thông qua thay đổi nhận thức có thể tác động đến sự thay đổi hành vi theo mong muốn”, điều cốt lõi thứ ba này là một minh chứng cho sự chấp nhận mô hình “dàn xếp”, trong khi đó một số nhà lý luận liệu pháp nhận thức – hành vi chấp nhận rằng những sự kiện xãy ra cách ngẫu nhiên được cũng cố công khai có thể làm thay đổi hành vi thì họ nhấn mạnh một cách chắc chắc rằng có những phương pháp khác nhau làm thay đổi hành vi, đặc biệt đó là sự thay đổi nhận thức.
CBT (liệu pháp nhận thức - hành vi) là một liệu pháp trị liệu có cấu trúc ngắn hạn và dựa trên cơ sở mối quan hệ trị liệu giữ thân chủ và nhà trị liệu, tác động lên các ý nghĩ và hành vi với mục đích làm thay đổi các nhận thức của thân chủ nhằm thay đổi cảm xúc và hành vi của người đó theo chiều hướng tích cực.
CBT kết hợp cái cận tái cấu trúc nhận thức của liệu pháp nhận thức với các kỹ thuật điều chỉnh hành vi của liệu pháp hành vi.
Liệu pháp nhận thức tập trung vào ý nghĩ, các giả định và niềm tin. Với liệu pháp nhận thức thì thân chủ sẽ nhận diện và làm thay đổi các nhận thức không thực tế, kém thích ứng. Liệu pháp nhận thức không phải là luôn luôn suy nghĩ về những điều vui vẻ mà là học cách kiểm soát các ý nghĩ thường xuyên kích hoạt lo âu. Trong liệu pháp hành vi, mục đích là giúp cho thân chủ thay đổi các hành vi kém thích ứng, thông qua các kỹ thuật giải cãm ứng hệ thống, thư giãn và tập thở. Cả hai phương pháp này được sủ dụng cùng lúc để hổ trợ lẫn nhau. Nhà trị liệu sẽ làm việc với bệnh nhân để nhận diện các ý nghĩ và hành vi đã gây ra sự phiền muộn và thay đổi các ý nghĩ đó với mục đích điều chỉnh hành vi.
1.2 Sự cấu thành của liệu pháp nhận thức hành vi:
CBT được đề cập đầu tiên bởi Albert Ellis trong cuốn “Lý luận và cảm xúc trong liệu pháp tâm lý” năm 1962 và Aeron Beck trong cuốn “Quan niệm của bản thân trong trong trầm cảm” năm 1960, Aeron Beck đã quan sát thấy rằng trong những lần làm liệu pháp phân tâm, thân chủ của ông có xu hướng có một cuộc “đối thoại bên trong” diễn ra trong tâm trí họ, giống như là thân chủ đang nói chuyện với chính mình. Nhưng thân chủ chỉ tường thuật một phần những tư duy này nói với ông mà thôi. Ví dụ, trong một buổi trị liêu, một phụ nữ sau khi đã kể lể rất nhiều về việc cô ta bị lạm dụng tình dục đến cuối buổi cô nói rằng mình rất lo lắng vì co ta nghĩ rằng Beck đang chán cô. Hóa ra, trong buổi liệu pháp, cô ta tự nghĩ rằng “ ông ấy không nói gì nhiều ngày hôm nay, mình không biết ông ta có bực bội gì mình không ?” những ý nghĩ này làm cho thân chủ có một chút lo lắng hay cũng có thể bực bội và thân chủ lại tiếp tục nãy sinh các ý nghĩ khác nữa như “có thể ông ta mệt, hoặc là có thể mình đã không nói về những điều quan trọng nhất”. Suy nghĩ thứ hai này làm thay đổi cảm giác của thân chủ. Chính những điều này đã dẫn đến một ý tưởng rằng người ta có thể có hai dòng suy nghĩ cùng một lúc. Bên cạnh một suy nghĩ có chủ định thì cùng tồn tại một ý nghĩ tự động. Beck nhận ra rằng sự liên kết giữa các ý nghĩ và cảm giác là rất quan trọng, và Ông đã đưa ra thuật ngữ “các suy nghĩ tự động” để mô tả các ý nghĩ “nóng bỏng” hay “điền đầy cảm xúc” bật ra trong tâm trí của thân chủ. Khi khám phá thêm thì Beck nhận thấy rằng các thân chủ trầm cảm khác cũng có hiện tượng như vậy, họ có những tư duy tự động cực kỳ tiêu cực và biến dạng như họ thường xem mình là thất bại, vô dụng không giá trị và không đáng yêu.
Phần lớn các thân chủ không nhận biết các ý nghĩ tự động của họ trước khi đến với nhà trị liệu, thân chủ thường xuyên để ý đến các phản ứng cảm xúc và hành vi, mà các hành vi và cảm xúc này được gây ra bởi các ý nghĩ tự động. Beck cũng nhận ra rằng, người ta không phải lúc nào cũng nhận biết được toàn bộ những suy nghĩ này, nhưng có thể học được cách nhận diện và báo cáo về chúng. Nếu một người đang phiền muộn trong một chừng mực nào đó thì các suy nghĩ thường là tiêu cực, không thực tế cũng như không có ích. Và Ông thấy rằng nhận diện các suy nghĩ này là chìa khóa đề hiểu thân chủ và can thiệp những khó khăn của họ. Một điển hình như thân chủ trầm cảm có thể suy nghĩ rằng “mình không thể trực diện với việc đi làm ngày hôm nay được, mình không thể làm được. Sẽ không ổn, mình cảm thấy khủng khiếp”. Chính vì có những ý nghĩ này - và tin như vậy – nên thân chủ lập tức quyết định báo là bị bệnh và xin nghỉ. Bằng cách hành xử như vậy, cô ta sẽ không có cơ hội tìm ra rằng sự tiên lượng của mình là sai lầm.
Thay vì nhận ra rằng mình có thể làm được một việc gì đó, nhưng thay vào đó là thân chủ quyết định ở nhà và nghiền ngẫm với ý nghĩ không thể đi làm và cuối cùng nghĩ rằng : “mình đã làm cho mọi người gặp khó khăn. Họ sẽ rất giận mình, mình thật yếu ớt và vô dụng” tất nhiên thân chủ sẽ cảm thấy tệ hơn, thậm chí là khó có thể đi làm vào những ngày tiếp theo. Suy nghĩ, hành xử và cảm giác như vậy có thể khởi xướng cho một cái vòng xoắn lẫn quẩn. Vòng xoắn lẫn quẩn này sẽ được lặp lại ở nhiều loại vấn đề khác nhau.
Những tiếp cận nhận thức – hành vi cho rằng những tiến trình xãy ra bên trong gọi là “suy nghĩ” hoặc “nhận thức”, các sự kiện nhận thức có thể dàn xếp sự thay đổi hành vi. Theo giả thuyết dàn xếp của nhận thức thì “ nhận thức phải thay đổi hành vi”, do đó những thay đổi hành vi có thể được sử dụng như một bản liệt kê một cách không trực tiếp về những thay đổi nhận thức. Mặc dù Liệu pháp nhận thức – hành vi nhằm vào cả hai lĩnh vực nhận thức và hành vi để làm thay đổi mục tiêu ban đầu, tuy nhiên có một số kiểu thay đổi lại không phải là liệu pháp này. Một ví dụ điển hình như, nhà trị liệu dùng nguyên lý điều kiện kinh điển để điều trị hành vi tự hủy hoại đối với đối tượng và trẻ tự kỷ thì thực ra đây là Liệu pháp hành vi. Và trên thực tế, khi áp dụng mô hình kích thích đáp ứng không phải là Liệu pháp nhận thức - hành vi. Khi ta có thể chứng minh được có sự dàn xếp, hóa giải của nhận thức là một phần quan trọng trong kế hoạch trị liệu thì được gọi là Liệu pháp nhận thức – hành vi.
1.3 Những liệu pháp nhận thức hành vi hiện hành:
Có ba loại liệu pháp nhận thức nhận thức – hành vi chủ yếu, mỗi loại có sự khác nhau về những mục tiêu thay đổi. Ba loại liệu pháp đó bao gồm:
Tái cấu trúc nhận thức
Kỹ năng chống đỡ
Liệu pháp giải quyết vấn đề
Giải quyết các rối loạn sinh ra từ bên trong bản thân thân chủ, tái cấu trúc những suy nghĩ thích hợp, đánh giá điều gì đã bị bóp méo, cách thức mà nó gia cố, kiểu mẩu đang được biểu thị bản thân là rất quan trọng. Mục tiêu đặc biệt cho mỗi dạng bóp méo đó được thành lập, chọn kỹ thuật tiếp cận hợp lý, thiết lập mối liên kết, mục tiêu cụ thể.
Tập trung vào việc nhận ra và phát triển các kỹ năng chống đỡ mà thân chủ còn hạn chế trong vệc chống đỡ các tình huống stress đa dạng: kỹ năng từ chối, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng thiết lập mối quan hệ…
Đặc trưng cho sự kết hợp giứa kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và các quá trình rèn luyện các kỹ năng chống đỡ. Nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển các chiến lược chung cho giải quyết vấn đề cá nhân: thay đổi cách thức có hại, các cách thức đó có thể tăng cường ảnh hưởng của các sự kiện âm tính, sử dụng chiến lược để giảm tác động xấu. Nhấn mạnh vào tầm quan trọng mối quan hệ trị liệu trong việc đặt kế hoạch điều trị.
Các liệu pháp nhận thức - hành vi là một sự lai ghép về các chiến lược hành vi và tiến trình nhận thức với mục tiêu là thành công trong sự thay đổi nhận thức và hành vi, vì vậy mà CBT thể hiện một cách đa dạng những nguyên lý và những quy trình trị liệu. Sự đa dạng trong phát triển và thực hành các tiếp cận nhận thứ - hành vi, một phần có thể giải thích là do những định hướng lý thuyết khác nhau của người sáng lập ra các chiến lược can thiệp . Những Liệu pháp nhận thức – hành vi được hình thành và phát triển :
- Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Thuần lý (Rational Emotive Behavior Therapy).
- Liệu pháp nhận thức (Cognitive Therapy).
- Rèn luyện tự hướng dẫn (Self- Instructional Training).
- Tái cấu trúc thuần lý có hệ thống (Systematic Rational Restructuring).
- Rèn luyện Quản lý Lo âu (Anxiety Management Training).
- Liệu pháp Giải quyết Vấn đề (Problem – Solving Therapy).
l- Liệu pháp Tự kiểm soát (Self-Control Therapy).
- Liệu pháp tâm lý Cấu trúc và theo xu hướng Tạo dựng (Structural and Constructivist Psychotherapy).
Hai liệu pháp được ứng dụng nhiều là Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần lý và Liệu pháp nhận thức.
1.4 Kỹ thuật trong liệu pháp nhận thức hành vi:
Nhà liệu pháp dùng các kỹ thuật khác nhau để làm bộc lộ và kiểm tra các ý nghĩ và làm thay đổi hành vi của bệnh nhân.
1.4.1 Các kỹ thuật nhận thức:
Với mục đích là làm bộc lộ và kiểm tra ý nghĩ, thay đổi hành vi của thân chủ. Bao gồm 4 quá trình :
- Đầu tiên là nhận diện các tư duy tự động bao gồm các niềm tin không hợp lý (Identifying irrational beliefs), Nhà trị liệu phải cho họ thấy rằng cảm xúc của họ (hay còn gọi là hậu quả cảm xúc) không phải do người khác gây ra hoặc các nguồn lực bên ngoài (sự kiện kích hoạt), giúp thân chủ hiểu rằng chính cách mà họ làm, họ cảm nhận và thể hiện, cư xử ra bên ngoài…thông qua cách mà thân chủ nghĩ và niềm tin không hợp lý - nhận thức sai lệch.
- Thứ hai là kiểm chứng các tư duy tự động, nhà trị liệu hướng dẫn và giúp đỡ than chủ kiểm chứng giá trị của các tư duy tự động, Thân chủ được hướng dẫn để sẵn sàng chất vấn lại với những ý nghĩ của họ trước một sự kiện đau buồn hoặc gây ra những cảm xúc khác, cách thay đổi suy luận của họ. Mục đích là khuyến khích thân chủ đưa ra các giải thích thay thế cho các sự kiện cũng là một cách làm xói mòn các tư duy tự động.
- Thứ ba, nhận diện các giả định kém thích ứng. Một khi niềm tin đã nhận diện thì khuôn mẫu biểu hiện các nguyên tắc hay các giả định kém thích ứng đã dẫn dắt cuộc sống của thân chủ đến với thất vọng, thất bại và cuối cùng là trầm cảm.
- Thứ tư là kiểm chứng và thay thế giá trị của giả định kém thích ứng.khi đã nhận diện được các giả định kém thích ứng, Nhà trị liệu đương đầu với từng loại để giúp thân chủ nhìn ra các sai lầm vốn có của niềm tin không hợp lý thông qua cuộc tranh luận ý thức(cognitive disputation) bằng cách hỏi – yêu cầu đưa ra - giải thích bằng chứng về niềm tin bởi những câu hỏi trực tiếp; và hình thức thứ hai được lựa chọn để đương đầu với niềm tin là dùng tranh luận tưởng tượng (imaginal disputation), đây là kỹ thuật cho phép trí tưởng tượng của thân chủ đi ngược lại niềm tin không hợp lý, tưởng tượng với tình huống không thoải mái và từng mức thang bậc dễ chịu hơn, ít căng thẳng hơn , ít giận hơn…hoặc giảm hơn bất cứ điều gì liên quan đến cảm xúc tiêu cực. Khi thân chủ có thể nói ra rằng mình có thể tưởng tượng việc giảm dần cường độ mạnh mẻ của cảm xúc, và Nhà trị liệu sẽ hỏi để giúp than chủ tìm ra suy nghĩ gì đã sử dụng để tạo ra sự cải thiện. Và dần những suy nghĩ này sẽ được sử dụng trong những tình huống thật trong tương lai đễ thay thế các suy nghĩ đã sinh ra cảm xúc tiêu cực. (Parrott, 1997). Kỹ thuật thứ ba là tranh luận hành vi (behavioral disputation) với mục đích là thay đổi hành vi khi các niềm tin không hợp lý, các giả định kém thích ứng được chứng minh là sai hoàn toàn, và một niềm tin mới đã được xuất hiện.
- Ngoài ra Sharf (1996) tóm tắt các kỹ thuật REBT, là các kỹ thuật bổ sung tiếp tục thành công (Additional techniques for continuting success) như : đương đầu với nhận xét về bản thân (coping self-statements) nhằm gia cố các kiểu suy nghĩ hợp lý ; Ám chỉ (Referenting) thường dùng trong cho việc khắc phục để hồi phục; các phương pháp giáo dục tâm lý (Psychoeducational method)khuyến khích thân chủ học thêm cách để cũng cố hành vi mới thường thông qua đọc sách; dạy người khác (teaching order) Ellis khuyến khích thân chủ hướng dẫn và chia sẻ với càng nhiều người càng tốt cách thức khám phá những niềm tin không hợp lý để ngăn cản chúng, với cách làm này thân chủ có thêm việc thực hành bổ sung giúp hình thành suy nghĩ chống lại những niềm tin không hợp lý; giải quyết vấn đề (Problem solving)bao gồm các kỹ năng giải quyết vấn đề như lên kế hoạch, kế hoạch dự phòng, dự đoán các vấn đề hay các trở lực, giúp thân chủ tự tin vào khả năng của mình hơn và hạn chế các niềm tin không hợp lý; đóng vai (role playing)được thực hành trong phiên trị liệu hoặc như một bài tập về nhà những tình huống mà thân chủ muốn cải thiện, vừa giúp thân chủ có các kỹ năng cần thiết và thứ hai là bộc lộ cảm xúc .
1.4.2 Các kỹ thuật hành vi:
Các kỹ thuật hành vi và nhận thức đi đôi với nhau. Kỹ thuật hành vi nhằm kiểm tra và thay đổi các nhận thức kém thích ứng, không chính xác nhằm hướng tới mục đích chung đó là giúp thân chủ nhận ra những niềm tin giả định và nhận thức không chính xác của bản thân, học các chiến lược và cách thức mới để giải quyết vấn đề. Các kỹ thuật hành vi bao gồm lên các kế hoạch hoạt động, thư giản, làm bài tập về nhà như viết nhật ký ý nghĩ và tư duy hành vi và cảm xúc kèm theo, diễn tập nhận thức, đóng vai. Để đơn giản và thành công thì Nhà trị liệu chia các công việc thành các bài tập khác nhau, với mục đích chứng tỏ với thân chủ rằng họ có khả năng thành công. Các đặc điểm chính của bài tập là:
- Nhận diện vấn đề.
- Hình thành nên một kế hoạc, dự án. Giao bài tập hay hoạt động cho thân chủ từ đơn giản đến phức tạp với mục đích làm cho thân chủ nhận thấy một cách trực tiếp và ngay lập tức rằng họ đang có được trải nghiệm thành công.
- Khuyến khích thân chủ chấp nhận bản thân, đánh giá thực tế các thành công thực sự của họ. Nhấn mạnh sự thành công này là do nỗ lực và kỹ năng của thân chủ. Nhằm làm giảm nghi ngờ của thân chủ, cải thiện sự tự tin vào bản thân, giảm ảnh hưởng từ các niềm tin – nhận thức không phù hợp.
- Nhà trị liệu cùng với thân chủ đưa ra các bài tập mới cụ thể và phức tạp hơn.
Trong diễn tập nhận thức, thân chủ tưởng tượng một tình huống khó khăn cùng với sự trợ giúp của nhà trị liệu, sẽ hướng dẫn từng bước trực diện và giải quyết thành công với tình huống. việc khuyến khích thân chủ trở nên tự lực bằng cách thực hiện các bài tập được giao hay các hành động , công việc đơn giản như căm sóc bản thân, tự chọn giày, đi mua sắm…được gọi là những bài tập tự lực, bên cạnh đó là bài tập đóng vai là một kỹ thuật hiệu quả trong việc rút ra các tư duy tự động và thực hành thay thế bởi các hành vi mới thích ứng hơn. Các kỹ thuật thư giản, giúp thân chủ vượt qua những thời điểm khó khăn như hoạt động thể thao, tiếp xúc xã hội, làm việc hay vui chơi…
Giải cảm ứng hệ thống cũng là một kỹ thuật hành vi thường được áp dụng kềm với kỹ thuật nhận thức, khi thân chủ tưởng tượng một tình huống hay một sự việc mà bản thân đã trải nghiệm gây lo sợ, cùng với kỹ thuật thư giãn sẽ giúp thân chủ đối phó với phản ứng sợ và cuối cùng loại bỏ được lo âu, mức độ sẽ tăng dần cho đến khi tiếp xúc với thực tế, với mục đích thân chủ sẽ dần trở nên giải nhạy cảm với các đáp ứng sợ hãi đã trải nghiệm và học cách cải thiện phản ứng, đối phó với tình huống.
Nhà trị liệu hướng dẫn cho thân chủ các bài tập thư giản như kỹ thuật thư giãn bằng các bài tập thở…Ngoài ra, còn có các kỹ năng khác như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự khẳng định bản thân, kỹ năng xã hội…các kỹ thuật sẽ được thay đổi theo từng cá nhân và theo từng vấn đề.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Thọ (2011), Thực hành trị liệu người lớn, Viện tâm lý thực hành thành phố Hồ Chí Minh (I.P.P).
2. Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Văn Khuê (không ngày tháng). Trị liệu nhận thức hành vi [trực tuyến]. Đọc từ www.tamlytrilieu.com
3. Carlson, N.R (1994), Physiology of behavior, Boston: Allyn and Bacon.
4. David S. Baldwin, Jon Birtwistle (January, 2002) An atlas of depression, University of Southampton Southampton, UK.
TRỊ LIỆU HÀNH VI - MỘT SỐ KĨ THUẬT TRỊ LIỆU HÀNH VI
Một số khái quát về lý thuyết Trị liệu hành vi
Không ai có thể phủ nhận vai trò của lý thuyết hành vi trong quá trình phát triển tâm lý trị liệu. Những người theo trường phái này được xem như vừa là nhà lý luận vừa là nhà kỹ thuật. Giả thuyết cơ bản của trường phái này cho rằng những hành vi tập nhiễm có đựơc qua quá trình học tập và nó có thể thay đổi, điều chỉnh qua học tập có điều kiện.
Những người có công đóng góp cho việc hình thành trị liệu hành vi là: Arnold Lazarus, R. E Albeti, F. Skinner, Albert Bandura, Joseph Wolpe và Alan Kazdin... Khuynh hướng hành vi được phát triển trong những năm 50 và đầu những năm 60 như là sự cấp tiến thoát khỏi triển vọng của trị liệu phân tâm đang thịnh hành trước đó. Trị liệu hành vi có ba giai đoạn phát triển chính, đó là: 1) Giai đoạn về điều kiện hoá cổ điển; 2) Mô hình điều kiện hoá vận hành; 3) Khuynh hướng Hành vi nhận thức (Albert Ellis).
Hướng tiếp cận và mục tiêu của trị liệu hành vi
Trị liệu hành vi tập trung chú ý tới việc thay đổi hành vi hiện tại và tạo lập chương trình hành động.
Lý thuyết này nhấn mạnh đến những hành vi hiện tại mà khách hàng đang trải nghiệm (trái ngược với cách tiếp cận của tâm lý học phân tâm khi mà quan tâm nhiều hơn tới những dấu hiệu của tiềm ẩn, vô thức).
Một điểm khác nữa mà cách tiếp cận này rất quan tâm đó là họ chú trọng tới sự thể nghiệm và đánh giá một cách rất chặt chẽ qua quá trình hành động do vậy khi tiến hành trị liệu chiến lược hay kế hoạch, mục tiêu hành động cần phải thiết lập, những hành vi có vấn đề cần được xác định trước khi tiến hành để sau đó có thể đo lường được sự thay đổi của nó qua quá trình trị liệu.
Mục đích cốt lõi của quá trình can thiệp này là loại bỏ những hành vi không thích ứng của khách hàng và giúp khách hàng học được những khuôn mẫu hành vi có hiệu quả hơn. Trị liệu hành vi nhằm vào việc thay đổi những hành vi có vấn đề thông qua việc tiếp thu những kinh nghiệm mới.
Mặc dù tiếp cận trị liệu hành vi không coi mối quan hệ giữa khách hàng và nhà trị liệu quan trọng như Carl Rogers, song họ cũng cho rằng đây là khởi điểm tốt cho quá trình trị liệu hiệu quả. Trong mối quan hệ này nhà trị liệu có nhiệm vụ đưa ra được những bài học, hành vi phù hợp để có được những hành động thay thế hợp lý, khách hàng phải phải sẵn lòng thử nghiệm với những hành vi mới trong mọi điều kiện do vậy họ tham gia quá trình trị liệu tích cực trong suốt quá trình.
Các kỹ thuật được sử dụng trong trị liệu hành vi
Các nhà trị liệu hành vi sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để tạo ra những hành vi mong muốn ở đối tượng, như:
- Phương pháp thư giãn (cái nè chắc đã quá quen, không cần trình bày cụ thể nữa nhé)
- Giải mẫn cảm có hệ thống: Là phương thức dựa trên những nguyên tắc của điều kiệ hóa cổ điển. Khách hàng được hướng dẫn phương pháp thư giãn và trong khi đó thì tưởng tượng ra trong đầu một loạt các cấp độ của tình huống có vấn đề, và cấp độ mạnh dần lên. Cuối cùng khách hàng đạt tới một điểm mà ở điểm này những tác nhân gây ra sự khổ tâm của khách hàng không còn tác dụng.
- Kỹ thuật củng cố: Bao gồm Củng cố tích cực và củng cố tiêu cực:
+ Củng cố tích cực : sử dụng những kích thích có tính tích cực như phần thưởng và có điều kiện hoá để cá nhân có được hành vi mong muốn.
+ Củng cố tiêu cực. Chấm dứt một kích thích tiêu cực gây khó chịu, nhưng đem lại một số hành vi mong muốn.
- Làm mẫu: Quá trình học hỏi qua việc quan sát và thực hành theo mô hình hành vi mẫu
- Huấn luyện nâng cao khả năng tự tin, quyết đoán: Là kỹ thuật liên quan đến Hướng dẫn mọi người vừa bộc lộ những cảm xúc tích cực vừa bộc lộ những cảm xúc tiêu cực của mình một cách cởi mở thông qua tập diễn hành vi, huấn luyện các kỹ năng xã hội.
Tính ứng dụng của liệu pháp hành vi
Trị liệu hành vi được ứng dụng khá rộng rãi trong trị liệu/tham vấn đặc biệt với với những người mong muốn thay đổi hành không phù hợp. Những trường hợp thường được sử dụng trị liệu hành vi có hiệu quả cao như: rối loạn ám sợ; stress, trẻ em với những rối nhiễu tâm lý, cảm giác tuyệt vọng; rối nhiễu tình dục... Người ta hay sử dụng nó trong những vấn đề liên quan đến lão khoa, nhi khoa, hoá giải stress, điều chỉnh hành vi. Trong một số lĩnh vực khác như kinh doanh quản lý hay giáo dục cũng có thể sử dụng liệu pháp này.
Thời gian can thiệp bằng liệu pháp này không dài nhưng có thể đem lại những kết quả mong muốn do vậy nó được ứng dụng rộng rãi. Liệu pháp nhấn mạnh tính chịu trách nhiệm của đối tượng do vậy họ cần được cung cấp thông tin về quá trình trị liệu, về những mục tiêu cơ bản cần đạt được trong trị liệu và họ phải tích cực thực hiện kế hoạch đó. Nhà trị liệu đóng vai trò là người củng cố, tham vấn, mô hình mẫu, giáo viên định hướng và là chuyên gia trong việc giúp khách hàng có được sự thay đổi về hành vi.
Những hạn chế
- Những kỹ thuật đuợc thử nghiệm phần lớn được thực hiện trong môi trường của phòng thí nghiệm nhưng trong cuộc sống đời thường tính đa dạng và phong phú rất lớn.
- Nhiều vấn đề của đối tượng liên quan đến việc ra quyết định của bản thân đối tượng chứ không phải do tính chủ quan của nhà tham vấn qui định trước đựơc. Cách can thiệp này ít chú ý đến những giá trị, cảm xúc và tiềm năng của cá nhân .. trong giải quyết vấn đề.
- Hình phạt như là một trong những can thiệp của trị liệu này đôi khi bị xem xét như tính can thiệp không nhân đạo. Tính áp đặt lớn trong trị liệu hành vi cũng được xem như là một hạn chế của nó.
2.1. Quan điểm xuất phát của trị liệu hành vi: Muốn hiểu được bản chất của trị liệu hành vi phải biết xem nó quan niệm như thế nào về con người.
Cách tiếp cận hành vi đã tồn tại rất lâu đời trong lịch sử loài người. Ngay từ thời cổ đại, Hypocrate đã sử dụng liệu pháp hồi cảm tràn ngập để điều trị ám ảnh sợ. Nhưng nó chỉ chính thức trở thành một khuynh hướng tiếp cận độc lập từ đầu thế kỷ XX. Đánh dấu bằng sự ra đời của học thuyết điều kiện hóa kinh điển của Ivan Pavlav, điều kiện hóa thao tá của E. thorndik và việc phát triển 2 học thuyết này thành tâm lý học hành vi cổ điển (Fobn B. Watron, B. F Slanner…) và tâm lý học hành vi mới (A. Bardura…).
- Joln Watson (1878 - 1958) và B. Fskinner (1904 - 1990) được coi là sáng lập viên chính của trào lưu này. Watson cho rằng các sự kiện quan sát thấy đều được lý giải theo nguyên tắc: khi có một kích thích nào đó tác động vào, cơ thể tạo ra một phản ứng nhất định. Do đó, mọi hành vi do cơ thể tạo ra đều được R) và hành vi chỉ biểu đạt theo công thức kích thích - phản ứng (S còn lại là các cử động bề, hoàn toàn không liên quan gì tới ý thức được coi là cái bên ngoài. Như vậy, ứng xử được coi là sự đáp ứng lại một kích thích từ môi trường bên ngoài. Đây là quan điểm xuất phát để từ đấy đưa ra nguyên nhân của các rối nhiễu là do sự tập nhiễm những ứng xử kém thích nghi.
- Như chúng ta đã biết, nhà sinh lý học thần kinh Ivan Pavlov (1849 - 1936) qua thực nghiệm với con chó đã chứng minh học thuyết điều kiện hóa kinh điển. Điều kiện hóa kinh điển là một hình thức của học tập, trong đó 1 kích thích trung gian (kích thích không tạo ra phản ứng) liên tục sau một thời gian chỉ mình kích thích trung gian cũng gây ra một đáp ứng mang tính có điều kiện. Từ đó ông đề xuất ra các nguyên tắc điều trị những rối nhiễu tâm lý ở người. Nhưng ứng dụng thành công những nghiên cứu của Pavlov và trị liệu những rối loạn tâm trí cho con người là nhà tâm lý học thực nghiệm là Watson
- Cùng thời gian Pavlov tìm ra lý thuyết điều kiện hóa cổ điển thì một nhà tâm lý học Mỹ là E. thordike nghiên cứu và tìm ra điều kiện hóa thao tác. Điều kiện hóa thao tác liên quan đến sự tăng hoặc giảm hành vi nào đó bằng cáh thay đổi một cách có hệ thống hậu quả của hành vi đó. Và B. F. skiner nhà tâm lý học Mỹ đã nghiên cứu điều kiện hóa các thao tác trên chim bồ câu và chuột. Ông đã suy nghĩ đến việc sử dụng các nguyên tắc học theo kiểu điều kiện hóa thao tác này để điều trị rối nhiễu tâm trí của con người. Đây cũng là nền tảng của phương pháp quy đổi của T. Ayllon và Agnin, phương pháp giản cảm có hệ thống của J. Wolpe - đại diện cho hành vi mới.
- Sau này Bandura - đại diện cho cách tiếp cận hành vi mới (những năm 60) trong khi phát triển lý thuyết "tập nhiễm xã hội" (Lý thuyết này bao hàm không chỉ các nguyên tắc điều kiện hóa kinh điển, điều kiện hóa thao tác mà còn cả các nguyên tắc học qua quan sát) đã nhấn mạnh vai trò của nhận thức (tư duy, tưởng tượng, niềm tin, mong muốn…) theo lý thuyết này, nhận thức có vai trò quan trọng đặc biệt trong điều chỉnh các chức năng tâm lý làm thay đổi (tăng hay giảm) một hành vi nào đó. Vì vậy nó rất quan trọng trong việc điều trị những rối nhiễu tâm lý. Về mặt lý thuyết điều này cũng có nghĩa "bác bỏ" chủ nghĩa hành vi cổ điển của Watson.
2.2. Liệu pháp hành vi là gì? 2.2.1. Nguyên nhân gây bệnh tâm lý theo trị liệu hành vi
Vì các nhà tâm lý học hành vi xem hành vi bình thường và bất bình thường là phản ứng trước một kích thích nên những ứng xử bất thường giống như những ứng xử bình thường mắc phải là thông qua quá trình tập nhiễm. Các nhà trị liệu hành vi này xác nhận toàn bộ những ứng xử bệnh lý, loại trừ những ứng xử được hình thành do căng nguyên thực tổn, đều có thể được đúng nhất và có thể sửa chữa được bằng cách nhắm và chính ứng xử chứ không phải nhắm vào việc làm thay đổi bất kỳ bệnh lý cơ bản nào. Do đó cần phải phân tích một hành vi bất thường được tập nhiễm như thế nào và quan sát tình huống (kích thích) ra sao để hành vi bất thường đó lại có thể diễn ra.
2.2.2. Bản chất của trị liệu hành vi
Để hiểu được trị liệu hành vi là gì, bản chất của trị liệu hành vi là như thế nào người ta đã tìm ra những đặc trưng tiêu biểu của chúng để chúng có thể đại diện cho cách tiếp cận của trị liệu hành vi với những vấn đề rối nhiễu tâm trí.
- Tính khoa học: Đây là trường phái trị liệu sử dụng các phương pháp khoa học liên quan đến việc tập hợp một cách có hệ thống các số liệu thực nghiệm, các phương pháp mà các nhà nghiên cứu khác có thể lặp lại, rút ra kết luận từ kết quả thực nghiệm chứ không phải từ sự suy đoán thiếu căn cứ. Tính khoa học thể hiện ở việc xác định rõ mục tiêu trị liệu đánh giá chính xác bệnh trạng, nguyên nhân bệnh và có những kỹ thuật trị liệu hợp lý. Tính khoa học còn thể hiện ở các phép đo để lượng hóa trong suốt quá trình trị liệu. Tính khoa học cùng thể hiện ở các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đánh giá tính hiệu quả của các kỹ thuật trị liệu.
- Tập trung vào hiện tại: Trị liệu hành vi chú trọng vào những nguyên nhân, điều kiện hiện tại đang duy trì hành vi không thích nghi hơn là những nguyên nhân, điều kiện của quá khứ. Do đó nó sử dụng các kỹ thuật đánh giá, điều trị chủ yếu nhằm vào môi trường, các nhân tố hiện tại chứ không nhằm vào quá khứ, nhằm trực tiếp vào những hành vi không thích nghi để trị liệu, biến đổi điều chỉnh chúng.
- Tính hành động: Trong trị liệu hành vi, bệnh nhân được lôi kéo vào những hành động cụ thể để làm giảm những vấn đề của họ. Tức bệnh nhân được hướng dẫn làm một số những hành động nào đó để kiểm sáot những khó khăn của họ (trị liệu bằng hành động) hơn là bằng lời nói. Trong trị liệu hành vi, trò chuyện giữa bệnh nhân và nhà trị liệu chủ yếu là trao đổi thông tin, còn các kỹ thuật trị liệu chủ yếu thực hiện thông qua hành động của bệnh nhân, chẳng hạn bệnh nhân trong thời gian trị liệu được yêu cầu phải theo dõi thống kê những hành vi nào đó của họ trong cuộc sống, phải học và thực hành các kỹ năng ứng phó hoặc phải đóng các vai khác nhau trong các tình huống trị liệu, phải thực hiện nghiêm túc các công việc được giao ở nhà.
- Diễn ra trong đời sống thực: Trị liệu hành vi thường diễn ra trong môi trường tự nhiên (môi trường sống thực của bệnh nhân) nhưng có kiểm soát. Lý do là những vướng mắc, khó khăn hay rối nhiễu của người bệnh phải được trị liệu ở nơi nó xảy ra, chứ không phải tại văn phòng của nhà tư vấn.
- Sử dụng cách tiếp cận tổng hợp: Trị liệu hành vi, ít nhất phải kết hợp hai kỹ thuật trị liệu trong 1 chương trình điều trị cho 1 và nhiều tâm lý nào đó của người bệnh. Sự kết hợp nhiều biên pháp khác nhau trong một chương trình điều trị tổng hợp sẽ nâng cao tình hiệu quả của trị liệu.
- Xây dựng mối quan hệ hợp tác, hiểu biết trong quá trình trị liệu: Nhà trị liệu là chuyên gia - người hợp tác trong việc giải quyết vấn đề, xua đuổi các ứng xử không hợp lý, khuyên bảo, nâng đỡ (Mối quanhệ này sẽ được làm rõ ở phần 4.2.4).
Như vậy, trị liệu hành vi là phương pháp trị liệu mang tính khoa học, tập trung vào hiện tại, mang tính hành động, diễn ra trong đời sống thực, sử dụng cách tiếp cận tổng hợp dựa trên việc xây dựng mối quan hệ hợp tác, hiểu biết trong quá trình trị liệu. Về thực chất đó là quá trình giáo dục, trong đó người bệnh học các kỹ năng tự điều chỉnh, phát triển các cách ứng xử mới.
2.2.3. Mục tiêu, nhiệm vụ của trị liệu hành vi 2.2.3.1. Mục tiêu
Mục tiêu của trị liệu hành vi là giúp người bệnh giải quyết được những vấn đề với nhiều tâm lý của họ (mục tiêu này là chung của trị liệu tâm lý), là can thiệp tích cực để làm giảm hay loại bỏ những rối nhiễu bằng cách thay đổi những điều kiện duy trì hành vi rối nhiễu. Tức là tìm cách loại bỏ tác nhân kích thích và điều chỉnh hậu quả để thực hiện được mục tiêu này nhà trị liệu hành vi phải làm tốt những nhiệm vụ sau đây:
2.2.3.2 Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của nhà trị liệu hành vi được thể hiện thông qua những công việc cần thiết phải làm trong quá trình trị liệu.
- Xây dựng mối quan hệ: Đây không chỉ là bước đầu tiên nhà trị liệu hành vi cần làm mà trong suốt quá trình nhiệm vụ chính của nhà trị liệu phải xây dựng được mối quan hệ lành mạnh với bệnh nhân. Từ việc xây dựng mối quan hệ hợp tác để bắt đầu khám phá những vấn đề trọng tâm mà bệnh nhân muốn chú ý.
- Nhận diện vấn đề và đặt mục tiêu: Nhà trị liệu cần phải đạt được những thông tin nền tảng đầy đủ về thân chủ. Nhà trị liệu cần phân biệt được giữa những điều kiện hiện tại đang duy trì hành vi rối nhiễu và những điều kiện có nguồn gốc nảy sinh trong quá khứ.
- Xác định các nguồn cung cấp những điều kiện duy trì hành vi rối nhiễu và xác định vai trò của các nhân tố.
+ Từ môi trường: Gồm tất cả những kích thích, ảnh hưởng bên ngoài lên hành vi của người bệnh. Theo quan điểm hành vi cổ điển thì chỉ có những kích thích từ bên ngoài này mới là điều kiện duy trì hành vi bệnh lý.
+ Từ cá nhân: Là sự nhận thức của người bệnh. Điều này chỉ có trong quan điểm của chủ nghĩa hành vi mới.
Theo Bandura, cha đẻ của lý thuyết học tập nhiễm xã hội, thì môi trường hành vi bên trong (nhận thức) và hành vi bên ngoài có ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Chúng ta có thể thay đổi hoặc tạo ra những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta, cái chính là ta phải hiểu cái gì đang ảnh hưởng, đang duy trì hành vi rối nhiễu và tìm cách kiểm soát nó.
- Lựa chọn các kỹ thuật và tiến hành trị liệu
2.2.4. Mối quan hệ giữa nhà trị liệu hành vi và người bệnh
Trị liệu hành vi đòi hỏi sự hợp tác giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Bệnh nhân phải là người chủ động tham gia có hiểu biết vào quá trình trị liệu. Chẳng hạn ở giai đoạn đầu của quá trình trị liệu. Nhà trị liệu tìm hiểu, chẩn đoán, đánh giá và chủ động thảo luận kế hoạch điều trị rối nhiễu với bệnh nhân. Khi những liệu pháp tâm lý cụ thể nào đó được chọn (những liệu pháp phù hợp, không quá khó với bệnh nhân) nhà trị liệu phải giải thích rõ mục đích, yêu cầu, cách thức và giúp họ hiểu làm thế nào để thực hiện những liệu pháp này có hiệu quả.
Bệnh nhân trong chương trình trị liệu hành vi thường được huấn luyện các kỹ năng để họ có thể biến quá trình trị liệu tại gia và biết tự đánh giá kết quả điều trị. Cách tiếp cận điều trị mang tính hướng tự hướng dẫn, tự kiểm soát này có hai điều lợi. Người bệnh biết cách giải quyết các vấn đề của họ để họ có thể đối phó với những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai mà không cần sự có mặt của nhà trị liệu. Thân chủ được trang bị "công cụ" để thay đổi hành vi của họ thì họ cũng có thể tự duy trì sự thay đổi này và cảm thấy tự tin hơn.
2.2.5. Các kỹ thuật cơ bản trong trị liệu hành vi 2.2.5.1. Các kỹ thuật 2.2.5.1.1. Phản điều kiện hóa (carenter - conditioning)
Tại sao một vài người lại trở nên lo lắng khi đối diện với những kích thích không có hại như đi máy bay, không gian rộng hay không gian kín…? Những phản ứng cảm xúc mạnh ấy theo các nhà trị liệu hành vi là những đáp ứng được điều kiện hóa mà con người không nhận thấy như đã tập nhiễm từ trước. Để có thể giúp người bệnh có thể thoát khỏi những liên tưởng, hành vi tập nhiễm này nhà trị liệu hành vi dùng các biện pháp để chống lại sự điều kiện hóa như: giảng cảm ứng hệ thống, liệu pháp tràn ngập và chìm ngập, liệu pháp gây ghét sợ.
2.2.5.1.1.1. Giảm cảm ứng có hệ thống: Systematic Desensiti fation)
Đây là phương quan trọng trong trị liệu hành vi được foseph Wolpe (1958) đề xướng. Liệu pháp này được dùng để hóa giải những rối nhiễu tâm trí hiểu ám sợ, lo hãi… và được thừa nhận là một trong các phương pháp hóa giải do hai có hiệu quả, dễ sử dụng và dễ thành công.
- Lý thuyết trọng tâm của kỹ thuật trị liệu này đó là: theo Wolpe, hệ thần kinh có các pha hưng phấn và ức chế luân phiên nhau; tại cùng một thời điểm, hệ thần kinh không thể và thư giãn, vừa căng thẳng. Những căng thẳng hình thành trong những tình huống nào được giả thiết là phản ứng của cơ thể được điều kiện hóa.
- Trong kỹ thuật này, người bệnh được hướng dẫn học cách thư giãn, phân biệt giữ cảm giác căng cơ với thư giãn và thả lỏng trọng lực cơ để đạt được chú ý thư giãn về thân thể và tâm trí.
- Liệu pháp giải mẫn cảm có hệ thống bao gồm các bước cơ bản sau:
+ Bước 1: Người bệnh nhận diện kích thích gây lo hai, tưởng tượng ra một loạt các kích thích gây stress xung quanh sự kiện gây sợ đó và sắp xếp các kích thích gây sợ này theo một trật tự từ yếu đến mạnh.
+ Bước 2: Đưa cơ thể vào trạng thái thư giãn toàn thể.
+ Bước 3: Trong trạng thái thư giãn, thân chủ tưởng tượng một cách sinh động, lần lượt những kích thích gân lo âu đã liệt kê từ mức yếu nhất để cơ thể quen dần. Nếu kích thích được quen dần không gây những cảm giác khó chịu thì chuyển lên một kích thích mạnh hơn. Nếu thấy xuất hiện cảm giác lo âu - khó chịu thì dừng lại, tập trung thư giãn để cơ thể tiếp tục thích ứng. Cứ như vậy tiến dần đến nấc thang gây sợ cao nhất.
Ví dụ: Một cô bé sợ mèo. Nhà trị liệu dùng kỹ thuật này để hóa giải chứng ám sợ của cô. Trước hết, người ta yêu cầu cô bé tưởng tượng ra các tình huống gây căng thẳng, lo sợ xung quanh chứng sợ này rồi sắp xếp chúng từ mức độ yếu đến mạnh nhất.
- Nghe người khác nói chuyện về mèo - mức độ sợ hãi thấp nhất.
- Nhìn một con mèo bằng nhựa, 1 bức tranh có hình con mèo.
- Xem một đoạn phim có hình con mèo đang chạy.
- Nhìn từ xa một con mèo bị nhốt trong lồng.
- Nhìn gần con mèo bị nhốt trong lồng.
- Sờ vào con mèo - mức độ căng thẳng sợ hãi cao nhất.
Cô bé này được hướng dẫn kỹ thuật thư giãn, lần lượt từng nhóm cơ rồi thư giãn toàn thân. Khi cơ thể ở vào trạng thái thư giãn, cô bé được khuyến khích tưởng tượng ra những hình ảnh gây sợ, tiến tới từng bậc thang sao cho chuyển từ những liên tưởng trước đây hoặc những hình ảnh gián tiếp gây stress ở mức thấp đến những hình ảnh trực tiếp gây sợ hãi cao nhất. Nếu cơ thể có phản ứng sợ như căng cơ, vã mồ hồi, run chân tay, nhịp tim, thở tăng thì dừng lại, tập trung thư giãn đưa cơ thể trở về tạng thái thoải mái trước khi tiếp tục chuyển sang kích thích gây sợ hơn. Sau một số buổi luyện tập như vậy trẻ sẽ hết ám sợ mèo (khoảng 12 - 15 tuổi).
2.2.5.1.1.2.Liệu pháp tràn ngập (Implosion) chìm ngập (Flooding)
Hai kỹ thuật này cũng được dùng để hóa giải những rối nhiễu tâm lý như lo hãi, run sợ.
- Kỹ thuật tràn ngập đối lập với liệu pháp giải cảm ứng có hệ thống. Tại thời điểm bắt đầu của liệu pháp tràn ngập được thể hiện 1 kích thích gây sợ hãi nhất ngay cực trên của bậc thang lo âu. ý nghĩa của liệu pháp này là người bệnh không được né tránh những tình huống kích thích gây sợ hãi mà cầnphải đối mặt với những kích thích này. Điều này cũng giúp người bệnh khám phá ra rằng tiếp cận những kích thích hiện tại không có những hạu quả âm tính như mình nghĩ trước đây.
Để trình bày cho bệnh nhân tiếp xúc với những hoàn cảnh gây sợ hãi, nhà trị liệu cần mô tả tình huống cực đoan nhất liên quan đến sự sợ hãi của người bệnh như rắn đang bò trên cơ thể của họ. Sau đó nhà trị liệu cần khích lệ người bệnh hình dung đầy đủ, trải nghiệm điều đó thông qua toàn bộ cảm giác mạnh đến mức có thể được. Việc tưởng tượng như vậy được đánh giá là nguyên nhân xuất hiện hoảng sợ. Vì hoàn cảnh xuất hiện lặp đi lặp lại nên kích thích mất dần sức mạnh tạo ra lo âu của nó. Khi lo âu không còn xảy ra nữa thì hành vi kém thích ứng trước đây nhằm tránh né hoàn cảnh cũng biến mất (2, 707).
- Liệu pháp chìm ngập tương tự như liệu pháp tràn ngập nhưng nêu ở biện pháp chìm ngập, người bệnh chỉ tưởng tượng ra tình huống sợ hãi nhất thì ở kỹ thuật chìm ngập, người bệnh tiếp xúc trực tiếp với hoàn cảnh có thực. Ví dụ: người sợ chỗ kín có thể ngồi trong phòng nhỏ, người sợ nước có thể đặt trong bể nước.
Nhà trị liệu có thể chọn để tiến hành tới hiện tượng chìm ngập bằng cách trước tiên kích thích sự tưởng tượng. Chẳng hạn, bệnh nhân có thể được yêu cầu nghe một đoạn bằng, xem một cuốn phim mô tả chi tiết tình huống gây sợ. Trong vòng 1 hoặc 2 giờ. Khi hoảng sợ của người bệnh lắng xuống, họ được đưa đến chứng kiến tận mắt tình huống, hoàn cảnh gây sợ (điều này có thể khác với sợ hãi mà họ và tưởng tượng). Biện pháp này đã được những nhà trị liệu xác nhận có hiệu lực hơn liệu pháp cảm ứng hệ thống trong điều trị những rối nhiễu ứng xử như ám ảnh sợ khoảng trống và lợi ích của việc điều trị đã được thể hiện lâu dài ở nhiều người.
2.2.5.1.1.3. Liệu pháp gây ghét sợ (Aversion Therapy)
Những liệu pháp ở trên giúp thân chủ ứng xử trực tiếp với những kích thích mà thực tế không gây nguy hại. Còn liệu pháp gây ghét sợ được tiến hành để giúp những người bị thu hút bởi kích thích thường có hại hoặc không hợp pháp như nghiện ma túy, bệnh lạc tình dục, bạo lực không kiểm soát được… liệu pháp này điều kiện hóa của sự tập nhiễm ghét sợ. Trong thời gian thông qua điều kiện hóa, những phản ứng âm tính như nhau được thể hiện bằng kích thích đang được thử nghiệm và con người xuất hiện sự ghét sợ đối với chúng, điều đó thay thế cho những mong muốn trước đây. Ví dụ: thuốc cai nghiện được kê cho những người uống rượu làm cho bệnh nhân sau khi uống rượu xuất hiện buồn nôn dữ dội. Bằng cách biết trước những hậu quả gây ghét sợ như vậy, bệnh nhân có thể trở nên mạnh mẽ một cách rõ rệt tự quyết định không uống rượu sau khi dùng thuốc cai nghiện.
Đã có rất nhiều lời phê bình về phương pháp gây đau đớn trong liệu pháp gây ghét sợ là đã trao cho nhà trị liệu sức mạnh quá mức dường như trừng phạt hơn là điều trị. Thông thường người ta thường lựa chọn liệu pháp này chỉ vì họ hiểu rằng hậu quả kéo dài của sự hiện diện những ứng xử của họ phá hủy cuộc đời họ. Họ cũng có thể bị cưỡng bức vì lý do áp lực hành chính trong chương trình điều trị tại các nhà tù. Trong những năm gần đây, việc sử dụng liệu pháp gây ghét sợ trong chương trình phục hồi chức năng tại cơ sở điều trị đã được điều chỉnh bằng luật quốc gia về mặt đạo đức trong việc chữa bệnh.
2.2.5.1.2. Kỹ thuật hành vi mẫu
Nhà trị liệu đặt ra những mẫu hành vi có thể quan sát được và yêu cầu người bệnh luyện tập trước tiên ở phòng trị liệu và sau đó là sự luyện tập. Những hành vi ấy phần lớn được giảng gaỉi, thực hành trực tiếp trong quá trình trị liệu. Chúng thường được diễn tả trong một nhóm định sẵn người bệnh quan sát và luyện tập thông qua việc đóng vai trong suốt quá trình trị liệu.
2.2.5.1.3. Kỹ thuật điều kiện hóa thao tác
Sau khi theo dõi sự hình thành của những vấn đề cơ bản, nhà trị liệu làm việc với người bệnh để bắt đầu dập tắt những hành vi không mong muốn. Việc dập tắt một cách đột ngột hành vi nào đó là rất khó khăn. Do vậy, quá trình dập tắt từ từ bằng cách củng cố tính tích cực những hành vi mới phải được thiết lập thường xuyên. Củng cố tích cực tức là nhằm làm tăng cường độ hoặc tần số xuất hiện của một hành vi nào đó kèm theo yếu tố củng cố (khen thưởng) khi đáp ứng được người bệnh tiến hành ngay lập tức. Nhà trị liệu khen thưởng bằng lời hoặc bằng các hình thức khác thì phản ứng sẽ cố khuynh hướng lặp đi lặp lại và sẽ làm tăng tần số. Kỹ thuật này đặc biệt hữu dụng đối với trẻ em.
2.2.5.1.4. Kỹ thuật kiểm soát bản thân
Gần đây việc nhà trị liệu hành vi hướng dẫn người bệnh những kỹ thuật hành vi khác nhau và để họ tự phát triển và luyện tập những hành vi mới đã trở nên phổ biến. Trong quá trình này thiết yếu đối với người bệnh là phải lựa chọn những mục tiêu và chiến lược chính xác, có thể đạt được cần phải hiểu một cách rõ ràng những kỹ thuật hành vi khác nhau, cạm bẫy kèm theo để thực hiện việc nhận diện lại cả quá trình nếu không thành công cũng như để tiếp tục chinh phục mục tiêu, lập kế hoạch cho tương lai và lường trước những thất bại có thể có.
2.2.5.2. Ví dụ minh họa
2.2.5.2.1.Trường hợp sử dụng kỹ thuật “Sự giải mẫn cảm có hệ thống” (Joseph Wolpe)
* Triệu chứng: Một chàng trai 18 tuổi đang bị chứng cưỡng bức rửa tay nặng. Sự ám ảnh của anh ta chủ yếu dựa trên sợ hãi làm người khác lây nhiễm bằng nước tiểu của mình. Ám ảnh này làm người bệnh bị tê liệt đáng kể. Sau khi đi tiểu , anh ta dành ra 45 phút để thực hiện nghi thức kỳ cọ bộ phận sinh dục sau đấy bỏ ra hai giờ để rửa tay, hơn nữa mọi buổi sáng, lúc dậy anh ta tắm hoa sen 4 giờ.
Ngoài hiện tượng chính này ra, còn bị các loại ”lây nhiễm khác không thể tránh khỏi trong ngày”. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên là hai tháng nay, chàng trai này đã quyết định nằm trên giường phần lớn thời gian trong ngày.
* Nguyên nhân: Rối nhiễu này bắt nguồn từ việc bố mẹ bắt anh ta ngủ chung giường cho mãi tới 15 tuổi với người chị lớn hơn anh ta 2 tuổi vì chị không thể ngủ nột mình. Sự đáp ứng tình dục trong một tình thế như vậy đối với người chị, đã làm cho anh cảm thấy xấu hổ và tội lỗi. Anh ta đã rất tức giận và thù địch bố mẹ và anh ta phát triển những huyễn tưởng phá hoại đối với bố mẹ làm anh ta kinh sợ và khiến anh ta thấy mình càng trở nên đáng khinh bỉ.
* Trị liệu:
- Tưởng tượng: Việc điều trị bằng giải mẫn cảm trong thời gian đầu bằng cách tưởng tượng ra những cảnh tượng kết hợp với thực hiện một đáp ứng thư giãn, trong cảnh đó một người lạ ngâm bàn tay bệnh nhân vào một bể tắm chứa 1,5 mét khối nước mà trong đó lúc đầu người ta đã nhỏ vào một giọt nước tiểu. Trong những buổi sau, nước tiểu cho vào tăng lên dần cho đến lúc người bệnh có thể tưởng tượng và chấp nhận trong ý nghĩ là người lạ đó đã ngâm bàn tay mình trong nước tiểu. Trong các buổi thuộc loạt điều trị thứ hai, những cảnh trên cũng được sử dụng nhưng lần này đòi hỏi người bệnh tưởng tượng tự mình thực hiện động tác ngâm tay mình đến cuối giai đoạn này, và sau 5 tháng với mỗi tuần 5 buổi như vậy, người bệnh đã rút ngắn thời gian rửa tay xuống 20 phút và tắm buổi sáng xuống một giờ. Hơn nữa, anh ta thấy không cần thiết phải đặt tờ báo lót xuống ghế ngồi trong các buổi gặp gỡ với người thày.
Tuy vậy, mặc dầu anh ta có khả năng tưởng tượng là nhúng bàn tay vào nước tiểu, luôn luôn anh ta kiên quyết từ chối thực hiện việc này trong thực tế.
- Thực tế: Sự giải mẫn cảm bây giờ được tiến hành trong tình huống thực tế, trong đó bệnh nhân thực hiện sự đáp ứng thư giãn để đối chọi lại với những kích thích thực tế đã gây nên lo hãi mà tầm quan trọng tăng lên dần dần từ buổi này sang buổi kia. Chàng trai lúc đầu đối mặt với chữ “nước tiểu” được viết to rồi một chai đựng nước tiểu được để ở đầu kia của căn phòng và dần nhích lại gần người bệnh cho tới lúc anh ta có thể cầm lấy nó với một nỗi lo hãi tối thiểu. Một khi giai đoạn này vượt qua, tiếp theo là một loạt các buổi khác. Lần này một lọ dung dịch nước tiểu pha loãng (một giọt vào 5 lít nước) đặt lên mu bàn tay của bệnh nhân. Dung dịch này đậm dần cho đến lúc thay dung dịch này bằng chính nứơc tiểu người bệnh. Dung dịch này đậm dần cho đến lucá thay dung dịch này bằng chính nước tiểu người bệnh. Một khi nỗi lo hãi do tình huống như vậy gây nên đã giảm nhiễm, người bệnh được giao việc cho nắm các dụng cụ, quần áo với bàn tay “lây nhiễm” của mình.
* Kết quả: Cuối đợt điều trị này chàng trai này chỉ còn rửa tay trong vòng 7 phút và tắm trong 40 phút và hoàn toàn không phải kì cọ bộ phận sinh dục như bắt buộc phải làm trước đây. Một năm sau, chỉ còn rửa tay trung bình trong 3 phút và tắm trong 30 phút.
2.2.5.2.2. Trường hợp sử dụng liệu pháp gây ghét sợ
Một trong những cách điều trị bị tranh cãi nhiều nhất là việc sử dụng liệu pháp gây ghê tởm được áp dụng cho những người trẻ tuổi đồng tính luyến ái nhằm cố gắng làm cho họ thay đổi xu hướng tình dục. (Bancroft, 1996; Feldman và Mc Culloch, 1965). Sau đây là cách thức mà Feld man và Mc Culloch đã sử dụng với tính cách là tư liệu lịch sử.
* Trị liệu: Người ta cho các đương sự lựa chọn 8 trong bộ các dương bản chụp các đàn ông trần truồng hoặc mặc quần áo, được họ sắp xếp theo thứ tự từ hấp dẫn nhiều nhất đến hấp dẫn ít nhất. Feldman và Mc Culloch xây dựng các mức về cường độ sốc điện coi là gây khó chịu nhiều nhất cho các bệnh nhân.
Việc điều trị được tiến hành trong một căn phòng tối và yên tĩnh của bệnh viện. Người ta đã nói cho người bệnh biết một dương bản đàn ông sẽ được chiếu lên màn ảnh và sau đó vài giây là một sốc điện. Người ta cũng báo trước cho bệnh nhân là họ có thể làm mất hình trên màn ảnh bằng cách đẩy cái nút điện lên và nói là “không”. Nếu bệnh nhân lựa chọn hình chiếu lên màn ảnh và thực hiện chỉ trong thời gian dưới 8 giây, người bệnh sẽ tránh được sốc điện. Nếu ngược lại, anh ta ngắm hình ảnh trên màn hình quá 8 giây, anh ta được nhận sốc điện. Và nếu như sốc điện không đủ cường độ để anh ta quyết định làm ngừng việc chiếu hình, người ta tăng cường độ dòng điện cho đến lúc anh ta thực hiện ngừng chiếu hình để tránh sốc điện.
Khi người bệnh đã thành công tránh được sốc điện trong ba lần nối tiếp nhau, người ta đưa anh ta vào chương trình đã định trước nhằm củng cố bằng cách chiếu ngay một hình phụ nữ trên màn ảnh sau khi hình người đàn ông biến mất. Các nhà nghiên cứu nhằm “phối hợp” việc làm mất lo hãi với việc đưa hình ảnh phụ nữ vào. Hơn nữa, chính họ, chứ không phải các đương sự, quyết định việc rút đi hình ảnh phụ nữ trên màn hình, mà theo họ, không làm củng cố ở các đương sự “thói quen thoát khỏi đàn bà”.
* Kết quả: Trong 43 đương sự, 23 kết thúc điều trị có sự thay đổi trong khuynh hướng tình dục, 11 không có thay đổi gì và 7 người nửa chừng bỏ dở điều trị. Tuy nhiên cần ghi nhận là phần lớn những người điều trị có kết quả là những người chấp nhận khó khăn sự đồng tính luyến ái và tỏ ra muốn thay đổi. Nhưng không phải vì thế mà không còn tồn tại những tình cảm và một số hành vi đồng tính luyến ái của họ sau khi điều trị.
2.3. Đánh giá ưu, nhược điểm của trị liệu hành vi
2.3.1. Ưu điểm
- Trị liệu hành vi dựa trên học thuyết hành vi - một học tuyết được chứng minh bằng khoa học thực nghiệm. Các nhà tâm lý học hành vi trước tiên đã nghiên cứu trên động vật sau mới nghiên cứu tâm lý con người.
- Trị liệu hành vi như là một quá trình giáo dục, trong đó người bệnh học các kỹ năng tự điều chỉnh phát triển các cách thức ứng xử mới.
- Chương trình trị liệu hành vi thường được huấn luyện các kỹ năng để người bệnh có thể biến quá trình trị liệu thành tự trị liệu hoặc bắt đầu hay tiếp tục một chương trình trị liệu thành tự trị liệu hoặc bắt đầu hay tiếp tục một chương trình tự điều trị tại gia và biết tự đánh giá kết quả điều trị. Điều đó có nghĩa người bệnh sẽ biết cách giải quyết các vấn đề của họ để họ có thể đối phó với những vấn đề sẽ xảy ra trong tương lai mà không cần có mặt của nhà trị liệu.
- Trị liệu hành vi có thể được sử dụng và tiến hành trong thời gian ngắn là thấy ngay kết quả đạt được
2.3.2 Nhược điểm
- Trị liệu hành vi cổ điển mang tính chất cơ học. Các nhà trị liệu hành vi có khuynh hướng sử dụng một hệ thống thuật ngữ mang tính cơ học, khái quát hóa hành vi theo công thức kích thích, đáp ứng và củng cố.
- Trị liệu hành vi cổ điển chỉ chú ý đến sự kiện, hành động bên ngoài mà bỏ qua các quá trình bên trong, như nhận thức, xúc cảm… Tuy nhiên điều này đã một phần nào đó được khắc phục ở chủ nghĩa hành vi mới.
- Các nhà trị liệu hành vi thường nhấn mạnh vai trò của các nhân tố hiện tại đang duy trì hành vi rối nhiễu, do vậy họ bỏ qua những sự kiện có ý nghĩa trong quá khứ của người bệnh.
- Bản thân trị liệu hành vi có tác dụng nhanh nhưng bị tái phát cũng nhanh, người ta thấy rằng trị liệu hành vi cổ điển không trị liệu được tận gốc mà chỉ trị liệu triệu chứng.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LIỆU PHÁP NHẬN THỨC - HÀNH VI
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG:
1. Khái niệm về Liệu pháp nhận thức – hành vi:
Tương tự với nội dung của Liệu pháp nhận thức – hành vi, có tác giả (Kazdin) đã đưa ra thuật ngữ “Biến đổi nhận thức – hành vi” với định nghĩa như sau:
“Biến đổi nhận thức – hành vi bao gồm các trị liệu cố gắng làm thay đổi hành vi đang biểu hiện công khai của bệnh nhân bằng việc thay đổi những suy nghĩ, những giải thích, những giả định và những chiến lược đáp ứng của họ”.
Liệu pháp nhận thức – hành vi và Biến đổi nhận thức – hành vi gần như giống nhau trong những giả định cơ bản và rất giống nhau trong những phương pháp điều trị. Có một chút khác nhau giữa chúng là ở kết quả điều trị:
- “Biến đổi nhận thức – hành vi”: mục tiêu thay đổi hành vi công khai đạt được là kết quả và kết thúc điều trị.
“Liệu pháp nhận thức – hành vi”: tập trung vào tác dụng điều trị qua thực chất của sự nhận thức của bệnh nhân. Khi có nhận thức tốt chắc chắn rằng sẽ dẫn đến thay đổi hành vi.
Có thể nói, khái niệm Liệu pháp nhận thức – hành vi rộng hơn và bao hàm cả Biến đổi nhận thức – hành vi. Các Liệu pháp nhận thức – hành vi chứa đựng ba điều cốt lõi sau:
(1) “Hoạt động nhận thức ảnh hưởng đến hành vi”.
Lý luận này là cơ sở cho một mô hình mang tính “dàn xếp, hóa giải” cơ bản. Sự đánh giá của một người về các sự kiện có thể ảnh hưởng tới sự đáp ứng của người đó với những sự kiện đó. Vì vậy, sự thay đổi nội dung đánh giá này có ý nghĩa lớn trong lâm sàng. Muốn thay đổi đáp ứng hành vi (bất thường, không mong muốn) của người bệnh, ta có thể tác động bằng cách thay đổi sự đánh giá của người bệnh về sự kiện đang tác động đến họ.
(2) “Hoạt động nhận thức có thể được giám sát và có thể thay đổi”. Ý nghĩa tiềm ẩn trong tuyên bố này là như sau:
Thứ nhất, "chúng ta có thể tiếp cận hoạt động nhận thức”. Điều này muốn nói rằng, chúng ta có thể tự biết và định giá được sự nhận thức của chúng ta. Tuy nhiên, tiếp cận hoạt động nhận thức thường là công việc không hoàn hảo. Con người thường trình bày các hoạt động nhận thức trên cơ sở “có khả năng xảy ra” sự kiện chứ không phải trên cơ sở “thực tế” sự kiện xảy ra với họ. Dù sao, chiến lược đánh giá nhận thức là thực tế có giá trị.
Thứ hai, “sự đánh giá hoạt động nhận thức là việc mở đầu cho sự thay đổi hoạt động nhận thức”. Hầu hết những chiến lược đánh giá nhận thức nhấn mạnh vào nội dung của nhận thức và kết quả của nhận thức hơn là vào tiến trình nhận thức. Mặt khác, việc kiểm tra tiến trình nhận thức cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau trong hệ thống nhận thức, hành vi và cảm xúc giúp chúng ta hiểu biết hơn về sự thay đổi nhận thức trong trị liệu.
(3) “Thông qua thay đổi nhận thức có thể tác động đến sự thay đổi hành vi theo mong muốn”.
Điều cốt lõi thứ ba này là kết quả trực tiếp của sự chấp nhận mô hình “dàn xếp”. Như vậy, trong khi các nhà lý luận liệu pháp nhận thức – hành vi chấp nhận rằng những sự kiện xảy ra ngẫu nhiên được củng cố công khai có thể làm thay đổi hành vi thì họ nhấn mạnh một cách chắc chắn rằng có những phương pháp khác làm thay đổi hành vi, đặc biệt đó là sự thay đổi nhận thức.
2. Sự cấu thành của liệu pháp nhận thức – hành vi:
Những tiếp cận nhận thức – hành vi cho rằng những tiến trình xảy ra bên trong gọi là “suy nghĩ” hoặc “nhận thức”, và các sự kiện nhận thức có thể dàn xếp sự thay đổi hành vi. Theo giả thuyết dàn xếp của nhận thức, nhận thức không chỉ là khả năng có thể thay đổi hành vi mà là nó phải làm thay đổi hành vi, do đó những thay đổi hành vi có thể được sử dụng như một bản liệt kê một cách gián tiếp về những thay đổi nhận thức.
Có ba loại liệu pháp nhận thức – hành vi chủ yếu, mỗi loại khác nhau một chút ít về những mục tiêu thay đổi. Ba loại liệu pháp đó bao gồm:
(1) Các phương pháp cơ cấu lại nhận thức (Tái cấu trúc nhận thức): Trong những kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức, người ta mong sẽ có hiệu quả tốt trong việc giải quyết các rối loạn sinh ra từ bên trong bản thân bệnh nhân. Thí dụ, các liệu pháp thuộc nhóm này cho rằng sự đau buồn cảm xúc là kết quả của những ý nghĩ không thích nghi. Do vậy, mục tiêu của can thiệp lâm sàng này là thiết lập các mô hình suy nghĩ thích nghi hơn.
(2) Những liệu pháp kỹ năng chống đỡ: Những liệu pháp này tập trung vào sự phát triển các vốn liếng kỹ năng được thiết kế để trợ giúp cho thân chủ trong việc chống đỡ với các tình huống stress đa dạng. Ví dụ, giúp cho một người có thể phản ứng mạnh mẽ chống lại sự kiện bên ngoài; giúp người bệnh có thể nhận biết các cách thức nhận thức và hành vi của mình và biết thay đổi các cách thức nhận thức hành vi đó.
(3) Những liệu pháp giải quyết vấn đề: Những liệu pháp này là đặc trưng cho một sự kết hợp của các kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức và các quá trình rèn luyện các kỹ năng chống đỡ. Các Liệu pháp giải quyết vấn đề nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển các chiến lược chung cho giải quyết hàng loạt rộng lớn các vấn đề cá nhân : Đó là biết thay đổi các cách thức có hại, các cách thức đó có thể làm tăng cường ảnh hưởng của các sự kiện âm tính ( thí dụ như có những ý nghĩ và hình dung khơi gợi lo âu), đồng thời biết sử dụng các chiến lược để làm giảm tác động xấu của các sự kiện âm tính. Nó cũng nhấn mạnh vào tầm quan trọng của sự hợp tác tích cực giữa thân chủ và nhà trị liệu trong việc đặt kế hoạch cho chương trình điều trị.
Mặc dù Liệu pháp nhận thức – hành vi nhằm vào cả hai lĩnh vực nhận thức và hành vi làm mục tiêu thay đổi ban đầu, nhưng có một số kiểu thay đổi lại không phải là liệu pháp nhận thức – hành vi. Thí dụ, nhà trị liệu dùng nguyên lý điều kiện kinh điển để điều trị hành vi tự hủy hoại trong trẻ tự kỷ thì không phải là liệu pháp nhận thức – hành vi. Thực ra, đó chính là Liệu pháp hành vi. Và thực tế, bất kỳ chế độ điều trị nào chấp nhận mô hình kích thích – đáp ứng đều không phải là Liệu pháp nhận thức – hành vi.
Chỉ khi nào chứng minh được có sự dàn xếp, hóa giải của nhận thức, và chỉ khi nào mà sự dàn xếp của nhận thức là một thành phần quan trọng của kế hoạch trị liệu thì mới được gọi là Liệu pháp nhận thức – hành vi. Như vậy, Liệu pháp hành vi thật nghiêm ngặt hoặc Liệu pháp nhận thức thật nghiêm ngặt đều không phải là Liệu pháp nhận thức – hành vi.
3. Những Liệu pháp nhận thức – hành vi hiện hành:
Các liệu pháp nhận thức – hành vi là một sự lai ghép về các chiến lược hành vi và tiến trình nhận thức với mục tiêu là thành công trong sự thay đổi nhận thức và hành vi. Do vậy, Liệu pháp nhận thức – hành vi thể hiện một sự đa dạng của những nguyên lý và những quy trình trị liệu.
Sự đa dạng hóa trong phát triển và thực hành các tiếp cân nhận thức – hành vi, một phần có thể được giải thích là do những định hướng lý thuyết khác nhau của những người sáng lập ra các chiến lược can thiệp dựa trên phối cảnh nhận thức – hành vi này. Ví dụ:
Ellis và Beck là những người sáng lập ra Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần lý và Liệu pháp nhận thức nhưng thực ra các vị đã đến từ nền tảng của Phân tích tâm lý của Freud.
Goldfried, Meichenbaum và Mahoney được đào tạo nguyên gốc từ những nguyên lý của Biến đổi hành vi.
Những Liệu pháp nhận thức – hành vi hiện hành phát triển theo thời gian bao gồm:
- Liệu pháp Hành vi Cảm xúc Thuần lý (Rational Emotive Behavior Therapy).
- Liệu pháp Nhận thức (Cognitive Therapy).
- Rèn luyện Tự hướng dẫn (Self-Instructional Training).
- Tái cấu trúc Thuần lý có Hệ thống (Systematic Rational Restructuring).
- Rèn luyện Quản lý Lo âu (Anxiety Management Training).
- Liệu pháp Giải quyết Vấn đề (Problem – Solving Therapy).
- Liệu pháp Tự kiểm soát (Self-Control Therapy).
- Liệu pháp tâm lý Cấu trúc và theo xu hướng Tạo dựng (Structural and Constructivist Psychotherapy).
Trong những Liệu pháp nhận thức – hành vi nêu trên, cần nghiên cứu những lý luận cơ bản của hai liệu pháp được ứng dụng nhiều là Liệu pháp hành vi cảm xúc thuần lý và Liệu pháp nhận thức.
MÔ HÌNH TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
I. NHỮNG MỤC TIÊU CHỦ YẾU:
Trong điều trị cho người nghiện ma túy phải nhắm đến các mục tiêu chủ yếu sau.
BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI
ĐIỀU TRỊ TRÊN ĐỐI TƯỢNG
NGHIỆN MA TÚY:
1.Tổn thương hệ thống não bộ và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.
2.Rối loạn và xuống cấp nhận thức – hành vi – nhân cách.
3.Chấn thương tâm lý: đây không phải là một hành động nhất thời mà là một quá trìnhdiễn biến đầy mâu thuẫn và phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện của người nghiện ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội.
4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện, trừ một số ít trường hợp nhẹ.
Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn nhận thức hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI:
Việc sử dụng thuốc chỉ là hỗ trợ cho việc ca nghiện phục hồi - Những biện pháp không dùng thuốc mới thật sự là quan trọng. Do đó trong việc điều trị phải thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau:
ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRÊN Y VĂN THẾ GIỚI ĐÃ CHỈ RÕ:
1/Không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiệnmà chỉ có những nguyên tắc căn bản về điều trị - giáo dục – quản lý đối với người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này, chưa hẳn đã phù hợp với người khác, mà thậm chí kết quả còn ngược lại.
2/ Trừ một số ít trường hợp nghiện nhẹ,điều trị nghiện ma túy phải sử dụng một biện pháp tổng hợp, linh hoạt và kịp thờinhằm mục đích gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giải tỏa các chấn thương tâm lý và để người cai nghiện không còn thèm nhớ ma túyphải sử dụng các liệu pháp sau:
· Tư vấn – Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Liệu pháp xã hội - Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu – Hoạt động trị liệu – Sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình,…
· Đối với nhóm người nghiện Á phiện - Morphine -Héroine (OMH) cần phải uống thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ ma túy. Tuy nhiên, nếu chỉ uống thuốc Naltexone đơn thuần mà không sử dụng các liệu pháp trên, người cai nghiện sẽ không được phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách – giải quyết các chấn thương tâm lý nên dễ bỏ chương trình điều trị và dễ tái sử dụng ma túy. Kết quả điều trị do đó sẽ rất hạn chế.
3/ Không có một liệu pháp đơn thuần nào (uống thuốc, châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật thùy não,…) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy.
4/ Chương trình điều trị phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy giải quyết– nhưng phải phối hợp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.
5/ Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.
III. MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ:
1/ ĐIỀU TRỊ HÓA DƯỢC:
- Sử dụng thuốc Naltrexone để bệnh nhân mất dần cảm giác thèm nhớ tìm kiếm ma túy đồng thời giải quyết không để học viên còn bất kỳ tác dụng không mong muốn nào khi uống thuốc Naltrexon khi trở về cộng động.
2/ TƯ VẤN - LIỆU PHÁP TÂM LÝ - LIỆU PHÁP GIÁO DỤC:
• Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.
• Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ và những yếu tố bảo vệ của bệnh nhân, giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.
• Giúp cho bệnh nhân hiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.
• Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốc trong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.
• Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữ tâm hồn vững vàng, luyệntập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí,các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục.
• Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tới bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.
• Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngãkhi có điều kiện như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay do bạn bè cũ, phe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.
• Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.
• Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.
• Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.
• Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.
• Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.
IV. MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ BÁN TRÚ - NGÔI NHÀ TRUNG CHUYỂN (HALFWAY HOUSE):
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Một số người cai nghiện trong chương trình hiện nay có xu hướng chạy gấp qua giai đoạn hoà nhập cộng đồng, chủ yếu là bởi vì những tác nhân phổ biến (công ăn việc làm, kinh tế khó khăn, thiếu hiểu biết...). Kết quả là giai đoạn Hoà nhập cộng đồng được thực hiện một cách cưỡng ép và thường dễ bị thất bại.
NGƯỜI CAI NGHIỆN TỪ TRUNG TÂM TRỞ VỀ CỘNG ĐỒNG DỄ CÓ TƯ TƯỞNG HỤT HẪNG KHI THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG MỘT CÁCH ĐỘT NGỘT – NHÀ TRUNG CHUYỂN SẼ GIÚP HỌ TỪNG BƯỚC TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG. Để thực hiện tốt việc này người cai nghiện phải hiểu rằng mình phải chịu trách nhiệm chính đối với bản thân mình dưới sự hổ trợ của cán bộ điều trị và tập thể.
Chương trình Hỗ trợ Sau điều trị cai và Hoà nhập cộng đồng có tính đến việc cần phải tạo ra một sự liên tục trong điều trị cho người nghiện ma tuý đang phục hồi. Phục hồi thành công có ý nghĩa là người nghiện có thể đương đầu với các tình huống tốt hơn sau khi họ được ra về từNGÔI NHÀ TRUNG CHUYỂN (HALFWAY HOUSE). Họ có thể có những bước tiến tích cực để giải quyết những khó khăn của bản thân và sống một cuộc sống khoẻ khoắn, lành mạnh, không phải dùng đến ma tuý. Người nghiện đang phục hồi được cung cấp các trợ giúp cần thiết để họ thay đổi trở lại, hoà nhập lại vào xã hội.
Sau thời gian cai nghiện tập trung và trước khi tái hòa nhập cộng đồng, người nghiện cần một thời gian điều trị bán trú để học cách thích nghi dần thông qua thử thách gọi là “giai đoạn chuyển tiếp” – Để giúp người cai nghiện tiếp tục duy trì một cuộc sống không ma túy thì quá trình hổ trợ là một yếu tố rất cần thiết.
Việc chăm sóc sau cai nghiện là tạo mọi thuận lợi cho người nghiện hội nhậplại với cộng đồng. Mục tiêu chính của công tác chăm sóc này là:
1. Giúp người đã cai nghiện củng cố những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống bình thường, tập thích nghi dần với các sinh hoạt tại cộng đồng.
2. Khuyến khích người đã cai nghiện tham gia các hoạt động để họ cảm thấy mình còn có ích, vẫn còn khả năng, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm.
3. Người đã cai nghiện được mạng lưới hỗ trợ xã hội giúp đỡ để gắn kết với những người bình thường.
4. Giúp người đã cai duy trì ý thức làm chủ bản thân và trách nhiệm với cuộc sống của mình.
5. Đối tượng được tiếp tục kiểm tra việc tái sử dụng ma túy để có những biện pháp xử lý kịp thời.
Hồi phục là một quá trình phát triển liên tục, bao gồm các vấn đề sau:
1. Điều chỉnh về tâm lý: Giúp đối tượng chế ngự và xử lý những thèm nhớ ma tuý, những dấu hiệucảnh báo tái nghiện, những nguyên nhân dẫn đếnbuồn chán, cô đơn, thất vọng, chấn thương tâm lý.
2. Điều chỉnh về xã hội: Giải quyết các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân và gia đình, những căng thẳng trong cuộc sống, duy trì việc làm ổn định, những áp lực từ bạn bè và xã hội, quản lý tiền bạc và sự điều chỉnh với cuộc sống mới,v.v…
3. Cân bằng lối sống: Thực hiện và tham gia các hoạt động xã hội, cân bằng giữa công việc và thời gian nhàn rỗi, v.v…
4. Kế hoạch hồi phục dài hạn: Có kế hoạch từng bước cho công tác cai nghiện bản thân.
5. Tiếp tục phát triển mạng lưới trợ giúp: Đây là một yếu tố quan trọng trong quá trình hổ trợ người cai nghiện tiến đến sự hồi phục.
B. HỖ TRỢ NGƯỜI CAI NGHIỆN TRƯỚC KHI TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG - MÔ HÌNH NHÀ TRUNG CHUYỂN (HALFWAY HOUSE):
HALFWAY HOUSE - HWHS
Mô hình Halfway House đã đóng một vai trò rất quan trọng từ thập niên 1970. Một số Halfway House thuộc nhà thờ Thiên chúa đã được thành lập vào khoảng thời gian đó, gồm có tên là: Hiding Place (Nơi ẩn nấp), Helping Hand (Bàn tay giúp đỡ), và Teen Challenge (Thách thức tuổi thơ),vv. Các Halfway House này đã giúp đỡ hàng trăm người nghiện kể từ khi đó. Yếu tố tinh thần là nhân tố quyết định chính trong chương trình phục hồi của các Halfway House.
Các Halfway House cung cấp đào tạo và việc làm hoặc trợ giúp những người đang trong giai đoạn hoà nhập cộng đồng. Trong quá trình này, họ được phép đi ra ngoài làm việc và quay trở lại Halfway House khi hết giờ làm việc. Quá trình này kéo dài 4 – 6 tháng, sau đó họ được trở về khi đã hoàn thành chương trình nội trú. Một vài người vẫn tiếp tục giữ liên lạc với Halfway House và tiếp tục tham gia các hoạt động của HWHs. Tuy nhiên, vẫn cần phải làm khá nhiều việc cho giai đoạn hỗ trợ sau điều trị này vì hầu hết trong số họ sau khi rời khỏi chương trình không còn gặp nhân viên HWHs.
Các phương pháp phục hồi được các Tổ chức hỗ trợ sau điều trị trên tiến hành như một phần của Chương trình Hỗ trợ Sau điều trị và Hoà nhập cộng đồng:
1. SINH HOẠT VÀ TƯ VẤN SAU CAI NGHIỆN: Trong quá trình hoà nhập, người đã cai nghiện vẫn tiếp tục dưới sự chăm sóc của cán bộ điều trị. Mọi mặt đời sống của họ được chăm sóc trong các buổi sinh hoạt và tư vấn cá nhân và nhóm. Người đã cai, từng bước được phép về nhà để học cáchthích nghi dần với cuộc sống và gia đình. Họ được khuyến khích bày tỏ các cảm xúc tích cực cũng như tiêu cực khi quay trở về nhà và về với cộng đồng. Đây là một cách tốt để điều chỉnh về xã hội và tâm lý của họ. Cán bộ điều trị sẽ sớm nhận biết cácbiểu hiện của họ như thất vọng, bi quan là cực kỳ quan trọng để phát hiện và giải quyết kịp thời những khả năng gây tái nghiện. Tất cả những gì mà họ đã học được trong quá trình điều trị sẽ được bộc lộ ở giai đoạn này.
2. NGƯỜI TƯ VẤN ĐỒNG ĐẲNG: Những người đã hoàn thành chương trình ở NHÀ TRUNG CHUYỂN (Halfway House) với kết quả đạt yêu cầu được xét làm người tư vấn đồng đẳng. Người tư vấn đồng đẳng cần có đầy đủ năng lực nghiệp vụ đề ra và thực hiện được vai trò của người giám sát. Người tư vấn đồng đẳng có thể được xem như là đầu đàn của tập thể học viên nội trú, bán trú, người sẽ làm vai trò mẫu mực cho người cai nghiện, sẽ làm việc thường xuyên trong chương trình điều trị và được hưởng phụ cấp. Họ là những trợ lý cho các cán bộ điều trị trong hoạt động hàng ngày cũng như việc tiến hành chương trình cai nghiện. Là vai trò hình mẫu và vai trò hỗ trợ cho những “người đồng đẳng” vẫn còn đang điều trị, họ sẽ không chỉ thôi thúc người cai nghiện tiến đến cuộc sống không ma tuý, mà họ còn là những động lực để duy trì sự thành công trong việc hoà nhập xã hội của người cai nghiện.
3. SỰ QUAN HỆ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH VÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ ẢNH HƯỞNG: Các thành viên gia đình được mời tham gia vào quá trình điều trị ngay khi người cai được đưa vào chương trình điều trị nội trú. Cán bộ điều trị giữ liên lạc đều đặn với các thành viên gia đình và các buổi sinh hoạtnhóm gia đình cũng được tiến hành đều đặn. Theo cách đó, các thành viên gia đình và những người có ảnh hưởng sẽ biết cách đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình phục hồi của người cai nghiện. Sự hợp tác từ phía gia đình và của những người có ảnh hưởng là cực kỳ quan trọng để cán bộ điều trị nắm bắt được quá trình tiến bộ cá nhân của người cai nghiện.
4. LÀM VIỆC NHÓM: Người tư vấn và những tình nguyện viên có kinh nghiệm tiến hành làm việc nhóm cho người nghiện đang phục hồi. Mục tiêu là cung cấp cho những người nghiện đó một giai đoạn được trợ giúp khi họ đang điều chỉnh cho phù hợp vói một lối sống mới để hoà nhập với xã hội.
5. ĐÀO TẠO VÀ DẠY NGHỀ: Việc đào tạo và dạy nghề được cung cấp cho những người nghiện đã phục hồi, họ được lựa chọn sau khi xem xét thấy phù hợp.
6. GIẢI QUYẾT VIỆT LÀM - TIẾP TỤC THEO HỌC CÁC CHƯƠNG TRÌNH VĂN HÓA: Người cai nghiện được tạo thêm cơ hội để bắt đầu lại một lần nữa, mặt khác họ được trao quyền tự chịu trách nhiệm với cuộc sống. Nó cũng giúp nâng cao sự tự tin và lòng tự trọng của người cai nghiện, khích lệ và tạo động cơ cho họ thay đổi lối sống. Vì vậy nó là một cơ hội chiến thắng cho cả nhà tuyển dụng và người cai nghiện bởi vì nhà tuyển dụng có một nguồn lao động đầy tiềm năng trong khi người cai nghiện lại có thể kiếm được việc làm để trang trải cuộc sống. Một số người cai nghiện là sinh viên - học sinh cần phải tiếp tục theo học ở các trường lớp, vì lý do bỏ học và ma túy làm tổn thương hệ thống não bộ nên việc theo học văn hóa sẽ gặp phải một số khó khăn.
7. CAN THIỆP GIA ĐÌNH: Các gia đình cũng cần sự trợ giúp của cộng đồng để giúp đỡ họ. Điều này cực kỳ quan trọng bởi vì khi người cai nghiện trở về nhà họ cần một môi trường có gia đình hỗ trợ để giúp họ phục hồi. Vẫn còn chưa hết là có nhiều gia đình vẫn chưa biết cách giải quyết hay điều chỉnh khi có người nghiện trở về. Việc tư vấn gia đình là rất cần thiết. Các gia đình cần có sự hiểu biết tốt và tốt hơn nữa cách giúp đỡ những người thân yêu của mình vừa được trả tự do. Đôi khi có một số tình huống mà gia đình có thể trở thành những cản trở thay vì giúp đỡ khi mà sự phục hồi của người cai nghiện không được giúp đỡ tốt. Các Trung tâm Dịch vụ Gia đình (FSCs) là những tổ chức tốt nhất có sự trợ giúp này.
Những vấn đề chung mà người tư vấn và người cai nghiện gặp phải:
Những vấn đề mà người cai nghiện gặp phải thường là bị ảnh hưởng hay bị tác động bởi khả năng giải quyết của họ. Những vấn đề điều chỉnh như việc phải sống theo một lối sống mới không ma tuý và làm những việc khác nhau trong lần đầu tiên trong đời. Những tình huống thay đổi hay những vấn đề giữa các cá nhân với nhau cũng quyết định mức độ giải quyết và điều chỉnh của họ.
1. Khả năng giải quyết được quyết định bởi những yếu tố sau:
2. Mức độ tự tin và tính kiên nhẫn của cá nhân
3. Phát triển một bộ các giá trị khác nhau để bắt đầu lại
4. Gặp những người bạn mới không nghiện.ma tuý
5. Làm việc hàng ngày trong một môi trường mới
6. Kỹ năng của người tư vấn trong việc trang bị kiến thức:
Người tư vấn cần dẫn bước người cai nghiện đi xuốt quá trình học tập. Cá nhân đang phục hồi phải học cách đối phó một cách chủ động hoặc mạnh mẽ khi họ dời khỏi chương trình, vì họ vẫn chưa hết rủi ro tái nghiện. Trong giai đoạn hỗ trợ sau cai và hoà nhập cộng đồng, sự trợ giúp đưa ra phải đúng đắn, phù hợp và đúng lúc. Khái niệm “tình yêu bền bỉ” vẫn còn thích đáng. Những trượt ngã là không thể tránh khỏi. Do vậy, điều quan trọng là cá nhân đang phục hồi cần có một người thầy tốt để họ có thể có những giúp đỡ trước khi bị xa vào tình trạng nghiêm trọng. Việc giúp đỡ tư vấn này cần kéo dài ít nhất là một năm.
7. Cách trợ giúp người nghiện đang phục hồi:
- Sự cần thiết về tâm lý: ý thức về những nhu cầu của đối tượng và lưu ý về những cái có thẻ gây tổn thương
- Cách tiếp cận: Coi đối tượng là trung tâm (chứ không phải là việc điều trị và cần vô tư, bày tỏ sự ấm áp, niềm nở và quan tâm)
- Quyết định thời điểm: Khi đối tượng sẵn sàng phục hồi thì cần đưa ra những trợ giúp cần thiết
- Sự tận tâm giúp đỡ: Có mặt cùng đối tượng khi cần, giúp đỡ và cần phải chắc chắn
- Môi trường: Cần có nơi thuận lợi, không đến những nơi chỉ ở mức tương tự
- Việc chăm sóc: Không chỉ trích, phê bình và có phạm vi rõ ràng
- Việc kiểm thử: Thông qua biện pháp thử và tìm lỗi.
Việc trang bị cho người cai nghiện đang phục hồi những kỹ năng sống và nghề nghiệp có tầm quan trọng to lớn. Nguyên tắc này áp dụng cho các cơ sở ở châu á. ở một nước châu á, khái niệm việc làm được xem là một yếu tố cơ bản. Tầm quan trọng của việc làm được đặt trọng tâm chủ yếu ở phần Halfway House. Nó nằm ở sự nhận thức về chính bản thân; có đóng góp tài chính cho gia đình được coi trọng cao và nâng sự tự tin lên. Lòng tự trọng thấp và sự tự tin nghèo nàn luôn song hành với tình trạng thất nghiệp. Do vậy, việc học kinh nghiệm thông qua thái độ và cách ứng xử trong công việc cần được xem là một phần của chương trình phục hồi. Việc đặt ra trách nhiệm cùng những chức năng của công việc (nghề nghiệp) được xem là một phần của chương trình điều trị sẽ chắc chắn đem lại sự hoà nhập cho người cai nghiện quay trở về với xã hội.
Nỗ lực cố gắng là giúp đỡ người cai nghiện và quan trọng hơn là khơi rậy cách nhìn nhận về những điều tốt đẹp, có ý nghĩa trong cuộc sống thay vì việc phải dùng đến ma tuý hay những thứ gây hại khác. Do đó chương trình phác hoạ những nhu cầu căn bản để đảm bảo chú tâm vào những yếu tố có quan hệ đến sự phát triển từng bước của người cai nghiện.
Việc đề ra các yếu tố trong công tác hỗ trợ sau cai và hoà nhập cộng đồng là để xác định những nhu cầu của đối tượng trong cuộc sống, để đề ra những trợ giúp về tinh thần và để nâng cao nhận thức của xã hội. Đối tượng được giúp đỡ để nhận ra và giải quyết những tâm tư khúc mắc xuất hiện khi họ được tách ra khỏi chữa bệnh cộng đồng và trong khi hoà nhập xã hội.
Định hướng trong giai đoạn này là đáp ứng nhu cầu của đối tượng để đảm bảo họ sẵn sàng tiến tới kết quả thực sự. Do đó điều cơ bản là cán bộ điều trị vừa có thể tạo lập được sự đánh giá lại vừa xây dựng kế hoạch điều trị có sự tham gia của đối tượng. Sự đồng ý và quyết tâm phục hồi của đối tượng là điều căn bản, nó là động lực cổ vũ họ đổi mới, sẽ phục hồi họ một cách toàn diện, và nối tiếp là sự hoà nhập xã hội thành công của họ.
Hoà nhập cộng đồng:
Các đối tượng được hoà nhập trước với những mặt đời sống chính mà cụ thể là với gia đình, các quan hệ, học vấn, nghề nghiệp và tác động của xã hội. Họ được khuyến khích dành nhiều thời gian hơn ở bên ngoài để mở rộng quan hệ xã hội. Ngoài ra họ cũng bị yêu cầu thực hiện những chức năng sau:
- Tham gia vào hội thảo phòng ngừa tái nghiện.
- Tổng kết lại công việc.
- Thực hiện lại 12 bước và 12 nguyên tắc của N.A.
- Có một công việc ổn định, đảm bảo, ổn định về tài chính và bảo hiểm cá nhân.
- Có thể đương đầu với tất cả những vấn đề trước đây, thái độ và những lo láng về bi tách biệt, có thể giải quyết một cách thích hợp.
- Duy trì một tư thế chắc chắn với người khác và trong xã hội.
Đối tượng phải có trách nhiệm với quyết định của mình. Họ phải duy trì một tư thế chắc chắn liên tục và một phép lịch sự xã giao cũng như những thói quen theo quy phạm của xã hội. Ngoài ra họ cũng bị yêu cầu thực hiện các việc sau:
- Dành một lượng thời gian nhiều hơn để xây dựng một ngôi nhà an toàn bên ngoài chữa bệnh cộng đồng
- Có thể tham gia tích cực trong các nhóm thành viên và tiếp tục chương trình 12 bước.
Hỗ trợ Sau điều trị:
Nguyên tắc này có sự liên quan phối hợp cùng các ban ngành khác bởi lẽ nhà cung cấp dịch vụ có chức năng cung cấp cơ hội cùng sự trợ giúp, và những nhu cầu cần thiết khác cho đối tượng với mục đích chính là phục hồi thông qua việc quan tâm, chăm sóc.
Sự tiếp cận đa chiều này có tầm quan trọng trong việc phục hồi có hiệu quả cho đối tượng, đem lại sự điều chỉnh để phù hợp với đời sống xã hội. Để hoàn thành nhiệm vụ phức tạp này đòi hỏi cần có một đội ngũ những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề một cách riêng lẻ mà cần nguồn hỗ trợ từ nhiều phía, từ cộng đồng, các cán bộ trong lĩnh vực này và từ chính phủ để đảm bảo sự vận hành suôn sẻ.
IV. MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ:
1) ĐỂ NGƯỜI CAI NGHIỆN KHÔNG TÁI SỬ DỤNG MA TÚY:
Điều trị bằng thuốcNALTREXONEngoại trú, (đối với người nghiện sử dụng nhóm Omh (Opiates)(Opium - Morphine - Heroin)).
1.1 Uống thuốc Naltrexone hỗ trợ điều trị chống tái sử dụng ma túy nhóm Opiats rất hiệu quả. Học viên mất dần cảm giác thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.
1.2 Tận dụng thời gian uống Naltrexone (không sử dụng ma túy) để:
• Phục hồi hệ thống não bộ - chữa các bệnh cơ hội, nâng cao sức khỏe.
• Điều chỉnh, phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách cho đối tượng.
• Học được nghề tại các trường chính quy phù hợp với khả năng, ý thích và điều kiện của bản thân, gia đình.
2) KẾT HỢP SỬ DỤNG THUỐC với KỸ NĂNGTƯ VẤN - LIỆU PHÁP GIÁO DỤC - LIỆU PHÁP TÂM LÝ: LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH, LIỆU PHÁP HÀNH VI, LIỆU PHÁP NHẬN THỨC TẬP TÍNH - SINH HOẠT CÁ NHÂN - NHÓM - GIA ĐÌNH…
• Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầu với áp lực của bạn bè cũ, phe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.
• Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.
• Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.
• Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.
• Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.
• Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.
• Học viên sinh hoạt bình thường nên có thể tự đi học - tự đi làm tăng thêm thu nhập cho gia đình và gia đình không còn sợ cảnh học viên trộm cắp đồ đạc trong gia đình hoặc vi phạm hình sự.
3) BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
o Kiên trì đeo bám từng học viên để họ không bỏ chương trình.
o Đặt vấn đề Tư vấn - Tâm lý trị liệu nhằm Gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức hành vi - nhân cách là chủ yếu. Uống thuốc là biện pháp hỗ trợ.
o Thực hiện một cách khoa học, kết hợp, đồng bộ, xuyên suốt, khép kín, kịp thời, linh hoạt.
o Học viên không vào uống thuốc sẽ được nhắc nhở liên tục trong ngày, thông báo gia đình. 100% gia đình học viên có số điện thoại của tất cả CBNV KHOA CHỐNG TÁI NGHIỆN để kịp thời thông báo và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến học viên.
o Khoa phục vụ 24/24h mỗi ngày.
o Học viên được điều trị ngoại trú có một thời gian dài để gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách mà không ảnh hưởng đến sinh hoạt - học tập và tình cảm cá nhân cũng như gia đình - chi phí điều trị cũng giảm hơn 60%so với điều trị tập trung.
o Khoa có rất nhiều tư liệu về ma túy. CBNV Khoa thường xuyên được tập huấn về công tác cai nghiện - phục hồi.
o Củng cố cơ sở vật chấttạo điều kiện vui chơi, giải trí. Học viên đến uống thuốc được sử dụng toàn bộ câu lạc bộ, được ăn uống miễn phí. Mỗi tháng Khoa tổ chức cho học viên ngoại trúsinh hoạt nhóm, kết hợp với dã ngoại và tổ chức liên hoan vào các dịp lễ, tết. Trung tâm chịu mọi chi phí,để lôi kéo học viên uống thuốc Naltrexone
o Khoa thành lập CÂU LẠC BỘ KHOA TRỰC THUỘC HỘI LIÊN HIỆP THANH NIÊN VIỆT NAM CÔNG TY GỒM CÁC ĐOÀN VIÊN, HỘI VIÊN KHOA VÀ CÁC HỌC VIÊN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ để hổ trợ học viên về tinh thần - xây dựng niềm tin và lòng tự trọng cho học viên. Câu lạc bộ hoạt động như một tổ chức Thanh niên, bằng các phương thức sinh hoạt nhóm về các kỹ năng hoạt động Thanh niên.
4) QUAN HỆ HỌC VIÊN TRUNG TÂM - GIA ĐÌNH – CỘNG ĐỒNG là vô cùng cần thiết. Sau thời gian điều trị ngoại trú bằng thuốc Naltrexone tối thiểu 1 năm, tiếp tục theo dõi học viên có tái sử dụng ma túy hay không bằng cách xét nghiệm thường xuyên nước tiểu để phát hiện chất ma túy. Do phát hiện sớm, nên đối tượng kịp thời điều trị và giảm được tác hại của ma túy, đối tượng phục hồi nhanh.
Do thời gian điểu trị từ 1 đến 2 năm, học viên vào Trung tâm uống thuốc 1 tuần 3 lần. Mỗi lần vào uống thuốc, Cán bộ điều trị đều phải tư vấn - theo dõi những diễn biến tâm - sinh lý để có biện pháp điều trị kịp thời, bộ phận Y tế đều thử nước tiểu để phát hiện bệnh nhân có sử dụng ma túy lại không.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
CÁC VẤN ĐỀ PHẢI GIẢI QUYẾT
CÁCH ĐIỀU TRỊ
CHỦ YẾU
Để người cai nghiện không thèm nhớ ma túy (heroine).
Uống thuốc Naltrexone để quên và không thèm nhớ ma túy.
Xuống cấp rối loạn nhận thức – hành vi – nhân cách cho người cai nghiện.
Tư vấn – Liệu pháp tâm lý -
Liệu pháp giáo dục,…
Giải quyết những phức tạp, mâu thuẫn nội tâm của người cai nghiện.
Tư vấn – Liệu pháp tâm lý -
Liệu pháp xã hội,…
Phục hồi tổn thương não bộ, điều trị bệnh tâm thần do sử dụng heroine.
- Cách ly môi trường 1 thời gian phù hợp.
- Uống thuốc Naltrexone tối thiểu 1 năm.
- Khám chuyên khoa tâm thần.
Tổng quan phương pháp
phòng chống tái nghiện
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Hành trang hội nhập dành cho người chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng - Ủy ban Phòng chống AIDS TP. Hồ Chí Minh (2011).
2/ Training Materials Therepeutic Community Model – Chương trình hợp tác giữa Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội và Tổ chức DAYTOP Quốc tế (2006).
3/ TC – A Healing Community A Regional Respose to Ađiction in ASIA in the 21st CENTURY – The 5th AFTC Inernational Conference (2002).
4/ LA Jeunesse Toxicomane – Henri – Chabrol (1995).
5/ Tài liệu của ngành Y tế.
6/ Tài liệu của ngành Lao động – Thương & Xã hội.
7/ Tổng hợp tài liệu về cai nghiện – phục hồi –Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa.
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG: MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ BÁN TRÚ - NHÀ TRUNG CHUYỂN
Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy - Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tại Việt Nam phần lớn người cai nghiện sau thời gian điều trị tại trung tâm về ngay với cộng đồng vì những lý do chủ yếu như công việc làm ăn, kinh tế, khó khăn, thiếu hiểu biết,... thêm vào đó chúng ta có rất ít trung tâm làm tốt công tác điều trị trung chuyển từ cai nghiện nội trú qua giai đoạn tái hòa nhập cộng đồng. Kết quả là giai đoạn tái hoà nhập cộng đồng được thực hiện một cách cưỡng ép và thường dễ bị thất bại. Người cai nghiện từ trung tâm trở về cộng đồng dễ có tư tưởng hụt hẫng khi thay đổi môi trường một cách đột ngột. Do đó, sau thời gian cai nghiện nội trú và trước khi tái hòa nhập cộng đồng, người nghiện cần một thời gian điều trị bán trú để học cách thích nghi dần thông qua thử thách gọi là “giai đoạn chuyển tiếp”. Để giúp người cai nghiện tiếp tục duy trì một cuộc sống không ma túy thì quá trình hỗ trợ là một yếu tố rất cần thiết. Người cai nghiện vừa có thể tham gia các hoạt động ngoài xã hội như làm việc, học nghề, học văn hóa … nhưng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Trung tâm. NHÀ TRUNG CHUYỂNSẼ GIÚP HỌ TỪNG BƯỚC TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG. Để thực hiện tốt việc này người cai nghiện phải hiểu rằng mình phải chịu trách nhiệm chính đối với bản thân mình dưới sự hỗ trợ của cán bộ điều trị và tập thể.
Chương trình chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng cho người nghiện ma tuý là rất cần một sự liên tục. Phục hồi được gọi là thành công khi người nghiện có thể đương đầu được với các tình huống sau khi họ được ra về từ NHÀ TRUNG CHUYỂN (HALFWAY HOUSE).
II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ TRUNG CHUYỂN:
Thông qua điều trị bán trú tại Nhà trung chuyển, người cai nghiện vẫn tiếp tục được quản lý tại Trung tâm nhưng vẫn có những cơ hội tiếp cận dần với các hoạt động ngoài xã hội, giải quyết những khó khăn của bản thân, trang bị bản lĩnh, kỹ năng sống. Người cai nghiện được sự hỗ trợ cần thiết để cho họ thay đổi dần trước khi hòa nhập lại cộng đồng. Để thực hiện tốt mục tiêu trên cần sự hợp tác chặt chẽ giữa Trung tâm- học viên và gia đình. Tinh thần hợp tác và ý thức tự giác của học viên là vô cùng quan trọng.
1. MỤC ĐÍCH THÀNH LẬP KHOA ĐIỀU TRỊ BÁN TRÚ:
1.1 Giúp người đã cai nghiện củng cố những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống bình thường, tập thích nghi dần với các sinh hoạt tại cộng đồng.
1.2 Khuyến khích người đã cai nghiện tham gia các hoạt động để họ cảm thấy mình còn có ích, vẫn còn khả năng, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm.
1.3 Người đã cai nghiện được mạng lưới hỗ trợ xã hội giúp đỡ để gắn kết với những người bình thường.
1.4 Giúp người đã cai duy trì ý thức làm chủ bản thân và trách nhiệm với cuộc sống của mình.
1.5 Đối tượng được tiếp tục kiểm tra việc sử dụng ma túy để có những biện pháp xử lý kịp thời.
1.6 Tất cả mọi người đều có nhu cầu giao tiếp, trao đổi tâm tư tình cảm, suy nghĩ. Riêng đối với người cai nghiện khi trở về cộng đồng khó có ngay bạn bè tốt mà lạiphải tiếp cận với một số bạn bè xấu, tiêu cực, sử dụng ma túy. Đây là một nguy cơ rất lớn trong việc tái sử dụng ma túy của người cai nghiện. Nhà trung chuyển sẽ là nơi người cai nghiện có điều kiện tiếp cận được những bạn bè đồng cảm - những bạn bè nàyđã từng sử dụng ma túy nhưng họ đã được giáo dục, rèn luyện một thời gian dài tại trung tâm, đồng thời họ cũng được tuyển chọn từ những người cai nghiện tốt.
2. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN:
Hồi phục là một quá trình phát triển liên tục, bao gồm các vấn đề sau:
2.1 Điều chỉnh về tâm lý: Giúp đối tượng chế ngự và xử lý những thèm nhớ ma tuý, những dấu hiệucảnh báo tái nghiện, những nguyên nhân dẫn đếnbuồn chán, cô đơn, thất vọng, chấn thương tâm lý.
2.2 Điều chỉnh về xã hội: Giải quyết các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân và gia đình, những căng thẳng trong cuộc sống, duy trì việc làm ổn định, những áp lực từ bạn bè và xã hội, quản lý tiền bạc và sự điều chỉnh với cuộc sống mới …
2.3 Cân bằng lối sống:Thực hiện và tham gia các hoạt động xã hội, cân bằng giữa công việc và thời gian nhàn rỗi … Trung tâm có nhiệm vụ quản lý giờ giấc sinh hoạt, làm việc, học tập của học viên để người cai nghiện có lối sống trật tự, ngăn nắp.
2.4 Kế hoạch hồi phục dài hạn: Có kế hoạch từng bước cho công tác cai nghiện.
2.5 Phát triển mạng lưới trợ giúp: Đây là một yếu tố quan trọng trong quá trình hỗ trợ người cai nghiện tiến đến sự hồi phục.
3. NỘI DUNG THỰC HIỆN:
Mô hình nhà bán trú đã giữ một vai trò rất quan trọng từ thập niên 1970. Một số nhà bán trú thuộc nhà thờ Thiên chúa đã được thành lập vào khoảng thời gian đó, gồm có tên là: Hiding Place (Nơi ẩn nấp), Helping Hand (Bàn tay giúp đỡ), và Teen Challenge (Thách thức tuổi thơ) … Các nhà bán trú này đã giúp đỡ hàng ngàn người nghiện kể từ khi đó. Yếu tố tinh thần tự giác là nhân tố quyết địnhchính trong chương trình phục hồi của các nhà bán trú.
Chương trình điều trị trong giai đoạn này bao gồm:
3.1 Quản lý học viên:
Trong thời gian này người cai nghiện sẽ được phép đi ra ngoài làm việc,học nghề, học văn hóa và quay về lại trung tâm khi đến giờ quy định. Quá trình này nên kéo dài ít nhất là 6 tháng. Việc gặp gỡ giữa các học viên đã hoàn thành chương trình cai nghiện trở về tái hòa nhập cộng đồng là cần thiết để các thành viên có thể hỗ trợ nhau trao đổi tình cảm, kinh nghiệm trong cuộc sống.
3.2 Tư vấn - Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu:
Trong giai đoạn này người cai nghiện vẫn tiếp tục được sự giúp đỡ và giám sát của cán bộ điều trị. Mọi mặt đời sống của họ được chăm sóc thông qua các buổi sinh hoạt và tư vấn cá nhân và nhóm. Người đã cai, từng bước được phép về nhà để học cáchthích nghi dần với cuộc sống và gia đình. Họ được khuyến khích bày tỏ các cảm xúc tích cực cũng như tiêu cực khi quay trở về nhà và về với cộng đồng. Đây là một cách tốt để điều chỉnh về hành vi và tâm lý của họ. Thông qua các biện pháp chuyên môn cán bộ điều trị sẽ sớm nhận biết cácbiểu hiện của người cai nghiện như thất vọng, bi quan là cực kỳ quan trọng để phát hiện và giải quyết kịp thời những khả năng gây tái nghiện. Tất cả những gì mà họ đã học được trong quá trình điều trị sẽ được bộc lộ ở giai đoạn này.
3.3 Kiểm tra việc tái sử dụng ma túy:
Học viên được thường xuyên xét nghiệm nước tiểu đột xuất và định kỳ tối thiểu 01 lần / 01 tuần để kịp thời phát hiện học viên tái sử dụng ma túyhay không để có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
3.4 Người tư vấn đồng đẳng:
Những người đã hoàn thành chương trình ở NHÀ TRUNG CHUYỂN (Halfway House) với kết quả đạt yêu cầu được xét làm người tư vấn đồng đẳng. Người tư vấn đồng đẳng cần có đầy đủ năng lực nghiệp vụ đề ra và thực hiện được vai trò của người giám sát. Người tư vấn đồng đẳng có thể được xem như là đầu đàn của tập thể học viên nội trú, bán trú, người sẽ làm vai trò mẫu mực cho người cai nghiện, sẽ làm việc thường xuyên trong chương trình điều trị và được hưởng phụ cấp. Họ là những trợ lý cho các cán bộ điều trị trong hoạt động hàng ngày cũng như việc tiến hành chương trình cai nghiện. Là vai trò hình mẫu và vai trò hỗ trợ cho những vẫn còn đang điều trị, họ sẽ không chỉ thôi thúc người cai nghiện tiến đến cuộc sống không ma tuý, mà họ còn là những động lực để duy trì sự thành công trong việc hoà nhập xã hội của người cai nghiện.
3.5 Sự quan hệ đối với gia đình và những người có ảnh hưởng:
Các thành viên gia đình được mời tham gia vào quá trình điều trị ngay khi người cai được đưa vào chương trình điều trị bán trú. Cán bộ điều trị giữ liên lạc đều đặn với các thành viên gia đình và các buổi sinh hoạtnhóm gia đình cũng được tiến hành đều đặn. Theo cách đó, các thành viên gia đình và những người có ảnh hưởng sẽ biết cách đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình phục hồi của người cai nghiện. Sự hợp tác từ phía gia đình và của những người có ảnh hưởng là cực kỳ quan trọng để cán bộ điều trị nắm bắt được quá trình tiến bộ cá nhân của người cai nghiện.
3.6 Làm việc nhóm:
Người tư vấn và những tình nguyện viên có kinh nghiệm tiến hành làm việc nhóm cho người nghiện đang phục hồi. Mục tiêu là giúp người nghiện sự điều chỉnh cho phù hợp vói một lối sống mới để hoà nhập với xã hội.
3.7 Giải quyết việc làm – tiếp tục theo học các chương trình văn hóa, đào tạo nghề:
Người cai nghiện được tạo cơ hội để tự quản lý giờ giấc sinh hoạt bản thân, mặt khác họ được trao quyền tự chịu trách nhiệm với cuộc sống. Với tính tự giác cao, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của trung tâm giúp nâng cao sự tự tin và lòng tự trọng của người cai nghiện, khích lệ và tạo động cơ cho họ thay đổi lối sống. Một số người cai nghiện là sinh viên - học sinh cần phải tiếp tục theo học ở các trường lớp. Vì lý do bỏ học và ma túy làm tổn thương hệ thống não bộ nên việc theo học văn hóa sẽ gặp phải một số khó khăn.
3.8 Can thiệp gia đình:
Gia đình cần tích cực trợ giúp họ. Điều này cực kỳ quan trọng bởi vì khi người cai nghiện trở về nhà họ cần tiếp sự hỗ trợ của gia đình để giúp họ phục hồi. Do có nhiều gia đình vẫn chưa biết cách giải quyết hay điều chỉnh khi có người nghiện trở về nên việc tư vấn gia đình là rất cần thiết. Các gia đình cần có sự hiểu biết tốtcách giúp đỡ những người thân yêu của mình khi trở về gia đình. Đôi khi có một số tình huống mà gia đình có thể trở thành những cản trở thay vì giúp đỡ sự phục hồi của người cai nghiện nếu gia đình không biết cách xử lý.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP ĐỐI VỚI NGƯỜI TƯ VẤN VÀ NGƯỜI CAI NGHIỆN:
Kết quả cai nghiện phụ thuộc vào khả năng giải quyết của người cai nghiện, họ phải sống theo một lối sống mới không ma tuý.
1. Khả năng giải quyết của người cai nghiện được quyết định bởi những yếu tố sau:
Mức độ tự tin và tính kiên nhẫn của cá nhân.
Phát triển các giá trị khác nhau để bắt đầu lại.
Gặp những người bạn mới không nghiện ma tuý hoặc đã cai nghiện thành công.
Làm việc hàng ngày trong một môi trường mới.
2. Kỹ năng của người tư vấn trong việc trang bị kiến thức:
Người tư vấn cần dẫn bước người cai nghiện đi suốt quá trình học tập. Cá nhân đang phục hồi phải học cách đối phó một cách chủ động và quyết liệt khi họ rời khỏi chương trình bán trú, vì họ vẫn chưa hết rủi ro tái nghiện. Trong giai đoạn hỗ trợ điều trị nội trú và trước khi tái hoà nhập cộng đồng, sự trợ giúp đưa ra phải đúng đắn, phù hợp và đúng lúc. Những trượt ngã là không thể tránh khỏi, do vậy, điều quan trọng là cá nhân đang phục hồi cần có một người thầy tốt để họ có thể có những sự giúp đỡ trước khi bị sa vào tình trạng tái nghiện. Việc giúp đỡ tư vấn này cần kéo dài ít nhất là một năm.
3. Cách trợ giúp người nghiện đang phục hồi:
- Sự cần thiết về tâm lý: ý thức về những nhu cầu của đối tượng và lưu ý về những cái có thể gây tổn thương đối tượng.
- Cách tiếp cận: Coi đối tượng là trung tâm chứ không phải là việc điều trị và cần vô tư, bày tỏ sự ấm áp, niềm nở và quan tâm.
- Quyết định thời điểm: Khi đối tượng sẵn sàng phục hồi thì cần đưa ra những trợ giúp cần thiết.
- Sự tận tâm giúp đỡ: Có mặt cùng đối tượng khi cần, giúp đỡ và cần phải chắc chắn.
- Môi trường: Cần có nơi thuận lợi, tạo điều kiện phù hợp cho công tác cai nghiện phục hồi.
- Việc chăm sóc: phải tôn trọng, không xúc phạm đối tượng và có nội quy, quy định cụ thể
- Việc kiểm tra – giám sát: Thông qua các biện pháp thử thách và theo dõi, có quy định cụ thể.
Việc trang bị cho người cai nghiện đang phục hồi những kỹ năng sống và nghề nghiệp có tầm quan trọng to lớn. Khái niệm việc làm được xem là một yếu tố cơ bản. Tầm quan trọng của việc học nghề, học văn hóađược đặt trọng tâm chủ yếu ở phần điều trị bán trú. Nó nằm ở sự nhận thức về chính bản thân; có đóng góp tài chính cho gia đình được coi trọng và nâng sự tự tin lên. Lòng tự trọng thấp và sự tự tin nghèo nàn luôn song hành với tình trạng thất nghiệp. Do vậy, việc học kinh nghiệm thông qua thái độ và cách ứng xử trong công việc cần được xem là một phần của chương trình phục hồi. Việc đặt ra trách nhiệmcùngcông việc (nghề nghiệp)được xem là một phần của chương trình điều trị sẽ chắc chắn đem lại sự hoà nhập cho người cai nghiện quay trở về với xã hội.
Phải giúp đỡ người cai nghiện bằng cách khơi dậy cách nhìn nhận về những điều tốt đẹp, có ý nghĩa trong cuộc sống thay vì việc phải dùng đến ma tuý hay những thứ gây hại khác.
Việc tìm hiểu các yếu tố cần thiết trong việc hỗ trợ sau cai và tái hoà nhập cộng đồng là để xác định những nhu cầu của đối tượng trong cuộc sống, để đề ra những trợ giúp về tinh thần và để nâng cao nhận thức về xã hội. Đối tượng cần được giúp đỡ để nhận ra và giải quyết những tâm tư khúc mắc của họ khi tái hoà nhập cộng đồng.
Định hướng trong giai đoạn này là đáp ứng nhu cầu của đối tượng để đảm bảo họ sẵn sàng tiến tới kết quả thực sự. Do đó điều cơ bản là cán bộ điều trị vừa có thể tạo lập được sự đánh giá lại vừa xây dựng kế hoạch điều trị có sự tham gia của đối tượng. Sự đồng ý và quyết tâm phục hồi của đối tượng là điều căn bản, nó là động lực cổ vũ họ đổi mới, sẽ phục hồi họ một cách toàn diện, và nối tiếp là sự hoà nhập xã hội thành công của họ.
IV. KẾT LUẬN:
Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính có đặc tính dễ tái nghiện, việc điều trị phải kiên trì nắm bắt kịp thời tâm tư, tình cảm sinhhoạt của đối tượng để có sự điều chỉnh phù hợp. Chúng ta không nên quá hoảng hốt khi một người đã cai nghiện ma túy tái sử dụng ma túy. Vấn đề chính làphải phát hiện sớm – điều trị sớm để tránh những tổn thương hệ thống não bộ, hình thành thói quen xấu.
Công tác cai nghiện phải xác định là khó khăn, lâu dài. Mục đích cai nghiện là thúc đẩy nhanh quy trình cai nghiện bằng những biện pháp khoa học, trong đó có công tác tư vấn – Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu và các liệu pháp xã hội là chủ yếu.
Để cai nghiện ma túy thành công cần có nhữngbước đi thích hợp. Ngôi nhà trung chuyển là bước đệm cần thiết cho người cai nghiện chuyển từ cai nghiện nội trú qua tái hòa nhập cộng đồng.
MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ CỦA TRUNG TÂM
ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
sai gon, toc do tang truong, thanh da
Đồng chí Trần Quốc Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương tặng hoa cho BS. Nguyễn Hữu Khánh Duy – Giám đốc trung tâm (bên trái) nhân Lễ nhận Huân chương Lao động hạng Ba & Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ