All posts by admin

Lãnh án chung thân vì giết trẻ 6 tháng tuổi lúc say ma túy đá


Lãnh án chung thân vì giết trẻ 6 tháng tuổi lúc say ma túy đá


TTO -  Bản án sơ thẩm ngày 4-9 của TAND TP Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Đặng Tiến Dũng (27 tuổi, ngụ quận Đống Đa) tù chung thân về tội giết người, 4 năm tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp cho hai hình phạt là tù chung thân.

Bị cáo Đặng Tiến Dũng (ngoài cùng bên trái) và các bị cáo khác tại tòa - Ảnh: T.L


Dũng là người đã giết con của vợ khi say ma túy đá, trong khi cháu bé mới được 6 tháng tuổi gây xôn xao dư luận trong thời gian vừa qua.


Theo cáo trạng, tháng 4- 2011, Đặng Tiến Dũng kết hôn với chị Nguyễn Thu Thủy (37 tuổi). Do khi kết hôn, chị Thủy đã mang thai với người khác nên cả hai không tổ chức đám cưới. Tháng 5-2011, chị Thủy sinh con trai và đặt tên theo họ của Dũng là Đặng Bảo Thiên. Trong quá trình chung sống, do có mâu thuẫn với bố mẹ chị Thủy nên Dũng bị bố mẹ chị Thủy đuổi ra khỏi nhà. Dũng sống lang thang, không có nơi ở cố định.


Ngày 19-11-2011, Dũng chở chị Thủy và cháu Thiên đến thuê phòng nghỉ tại một khách sạn trên đường Giang Văn Minh (Q. Ba Đình). Khoảng 3g30 sáng ngày 20-11, chị Thủy bảo Dũng trông con để chị đi vay tiền. Sau khi chị Thủy đi, cháu Thiên dậy khóc đòi ăn, Dũng dỗ không nín nên đã dùng chiếc điều khiển ti vi đập vào đầu cháu Thiên một cái gây chấn thương sọ não. 2 ngày sau, cháu Thiên tử vong.


Tại tòa, bị cáo Dũng khai mình không cầm điều khiển ti vi đập vào đầu cháu Thiên như cáo trạng truy tố. Bị cáo khai: “Lúc chị Thủy đi khỏi khách sạn thì bị cáo đi vệ sinh, khi nghe cháu Thiên khóc, bị cáo chạy ra bế cháu lên và đung đưa như đang nằm võng ở nhà, nhưng do chân ướt nên bị cáo trượt chân ngã và cháu Thiên cũng bị ngã. Có thể đầu cháu Thiên va vào đôi dép nên mới có vết thương”.


Trả lời câu hỏi của hội đồng xét xử (HĐXX) tại sao ở cơ quan điều tra, bị cáo lại nhận tội và khai hoàn toàn khác, bị cáo nói lúc ở cơ quan điều tra bị cáo bị ép cung, bị các điều tra viên cởi quần áo, dội nước, dí roi điện và đánh nên bị cáo mới nhận tội. HĐXX hỏi bị cáo có chứng cứ nào chứng minh việc đó không thì bị cáo bảo không có. “HĐXX hỏi như thế là bất lợi cho bị cáo, vì việc đó chỉ có các điều tra viên với nhau chứng kiến, bị cáo làm sao có được chứng cứ”- Bị cáo “vặn” lại HĐXX.


HĐXX công bố lời khai của bị cáo Dũng tại cơ quan điều tra. Theo đó, bị cáo khai rạng sáng ngày 20-11-2011, bị cáo ngồi vừa hút ma túy đá, vừa xem phim thì cháu Thiên khóc, dỗ mãi không nín nên bị cáo đã dùng điều khiển đánh vào đầu. Bị cáo còn cho rằng mình có dùng ma túy nhưng không có cảm giác gì, không gây ảo giác và bị cáo vẫn làm chủ được hành vi. Quá trình thẩm vấn, bị cáo một mực chối tội và còn cãi tay đôi với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo cho rằng Viện kiểm sát rất phiến diện khi nói bị cáo hút ma túy đá gây ảo giác.


Mặc dù tại tòa bị cáo không nhận tội nhưng theo HĐXX, lời khai của bị cáo ở cơ quan điều tra phù hợp với kết quả giám định tử thi cháu Thiên, phù hợp với quá trình thực nghiệm hiện trường. Theo HĐXX, bị cáo có nhân thân xấu, giết cháu bé quá nhỏ không có khả năng chống cự, trong khi cháu là con riêng của vợ bị cáo, tại tòa bị cáo loanh quanh không thành khẩn nhận tội, hành vi của bị cáo là mất hết nhân cách nên cần xử lý nghiêm.


Ngoài tội giết người, bị cáo Đặng Tiến Dũng còn bị truy tố về tội cướp tài sản. Theo cáo trạng, trong quá trình sống lang thang, không có tiền tiêu xài, bị cáo đã ăn trộm 2 xe máy hiệu Vespa và Airblade để bán và cầm cố lấy tiền xài.


Do có hành vi cùng trộm cắp xe máy với bị cáo Đặng Tiến Dũng, biết xe Dũng ăn trộm nhưng vẫn mang đi bán và nhận cầm cố nên 3 bị cáo khác phải hầu tòa chung với Dũng gồm: bị cáo Nguyễn Tiến Dũng (38 tuổi) lãnh 5 năm tù về tội cướp tài sản, bị cáo Vũ Ngọc Huy (32 tuổi) lãnh 3 năm tù về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, bị cáo Trần Trọng Hiếu (35 tuổi) lãnh 30 tháng tù về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, 15 tháng tù về tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức, cộng với 12 tháng tù mà bị cáo bị Tòa án nhân dân Q. Đống Đa tuyên về tội trộm cắp tài sản, tổng cộng bị cáo Hiếu phải lãnh 57 tháng tù.


“Viện kiểm sát hỏi:- Khi bị cáo hút ma túy đá thì cảm giác thế nào?


- Bị cáo không diễn đạt được cảm giác, không có cảm giác gì cả- Bị cáo trả lời


- Không có cảm giác gì sao vẫn hút?


- Bị cáo đã nói là hút nhưng không gây ảo giác, bị cáo vẫn làm chủ được hành vi


- Rõ ràng khi hút ma túy đá, bị cáo đã không làm chủ được mình dẫn đến hành vi dùng điều khiển ti vi đánh vào đầu cháu Thiên?


- Sao VKS biết là bị cáo không tự chủ được mình? Đây chỉ là lời nói phiến diện của VKS.


Sau khi nghe bị cáo trả lời, HĐXX đã nhắc nhở bị cáo phải nghiêm túc, không được có những hành vi, ánh mắt, lời nói thiếu nghiêm túc với VKS và HĐXX.


“Phê” ma túy, đâm bé gái 8 tuổi trọng thương


"Phê" ma túy, đâm bé gái 8 tuổi trọng thương


TTO - Ngày 15-9, đại tá Lê Phước Trường - trưởng Công an quận 5 (TP.HCM) - cho biết công an đang tạm giữ nghi can Lê Đức Quyền (25 tuổi, ngụ tại quận 5) để điều tra xử lý về hành vi “cố ý gây thương tích”.


Khi gây án do Quyền có dấu hiệu “phê” ma túy nên Công an quận 5 lập hồ đưa Quyền đi giám định để hoàn tất hồ sơ xử lý.


Trước đó, khoảng 16g30 ngày 12-9, trong lúc phê ma túy bị ảo giác, Quyền cầm hai con dao chạy từ trong hẻm 12 về phía đường Nguyễn Văn Đừng (phường 6, quận 5). Lúc này bé Trịnh Mỹ Hà (8 tuổi, ngụ quận 10, học sinh Trường tiểu học Huỳnh Kiến Hoa, số 16-18 Nguyễn Văn Đừng, phường 6, quận 5) vừa tan học đi vào hẻm để bố đón về.


Thấy bé Hà, Quyền chạy lao đến dùng dao đâm nhiều nhát vào đầu, tay của bé gây thương tích nặng rồi bỏ chạy về nhà. Bé Hà được mọi người đưa vào bệnh viện chữa trị, hiện thời đã qua cơn nguy kịch và xuất viện.


Nhận được tin báo, Công an phường 6, quận 5 đã bắt được Quyền tại nhà. Tại cơ quan công an, Quyền đã thừa nhận hành vi. Trước đây, Quyền có một tiền sự về hành vi “cố ý gây thương tích”.


Bất an vì chợ ma túy


Bất an vì chợ ma túy

TT - Phóng sự ảnh “Dân kêu trời vì chợ ma túy” (Tuổi Trẻ ngày 12-10) đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều bạn đọc.


Các đối tượng công khai mua bán ma túy tại khu vực bến xe An Sương (TP.HCM) - Ảnh: Khoa Long


Chúng tôi giới thiệu thêm chuyện kể của người dân nơi đây cũng như ý kiến của các cơ quan chức năng.


PC47 đã điều động lực lượng trinh sát đến khu vực bến xe An Sương nắm tình hình, chứng cứ về các đối tượng đang hoạt động mua bán ma túy tại khu vực này để có kế hoạch cụ thể. Sau khi có kết quả điều tra, chúng tôi sẽ thông tin ngay cho Tuổi Trẻ.


Thiếu tá MAI VĂN LINH (phó trưởng Phòng cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy - PC47 - Công an TP.HCM)


* Ông N.V.H. (khu vực bến xe An Sương, TP.HCM):


Sợ mở cửa ra thấy người chết


Khoảng đầu tháng 9 vừa rồi, buổi sáng mở cửa tôi thấy một người nghiện nằm cong queo trước hẻm nhà mình. Một người dân can đảm lại gần lay gọi mãi nhưng người nghiện hấp hối, sức kiệt rồi chết ngay trước mắt ông. Người dân chưa kịp báo công an thì nhóm người hằng ngày buôn bán ma túy đưa xe máy đến đưa người này đi.


Chúng tôi chưa hết hoảng sợ thì chưa đầy 20 ngày sau, hai người nghiện khác lại nằm chết ngay khu vực đó. Một nằm chết co quắp trên dải phân cách, một chết trước hiên nhà dân. Mới đầu tháng 10, lại một phụ nữ nằm chết ngay ở khu vực này.


Giờ đây mỗi sáng thức dậy, chúng tôi vẫn nơm nớp lo sợ phải chứng kiến thêm cảnh tượng ghê rợn, kinh hoàng này.


Ban đêm chúng tôi có nỗi lo khác. Gần chục người nghiện lở loét, ăn mặc bẩn thỉu, rách rưới, bốc mùi hôi thối vẫn kéo về nằm la liệt trước hiên nhà dân. Quần áo, kim tiêm dính máu của họ vứt ngổn ngang. Sáng ra chúng tôi phải cắn răng dọn bởi nếu nói thì những người này dọa đánh, trả thù.


* Ông L.V.B. (ở khu vực bến xe An Sương, quận 12, TP.HCM):


Xin đểu, trộm cắp táo tợn


Suốt hai tháng nay, không ngày nào gia đình tôi có được một giấc ngủ trọn vẹn vì lúc nào cũng thấp thỏm lo lắng các băng nhóm mua bán ma túy đột nhập vào nhà trộm cắp, đập cửa xin đểu.


Sống ở khu vực ngã tư An Sương hơn 10 năm nay đã quen với cảnh nhốn nháo, phức tạp ở bến xe, nhưng chưa lúc nào tôi lại thấy chuyện buôn bán ma túy trở nên táo tợn và nguy hiểm như vậy.


Từ 5g-21g, lúc nào ở khu vực này cũng có khoảng ba bốn người ngồi mua bán ma túy, hết hàng thì gọi điện cho đầu nậu chạy xe máy đến giao. Đến khi họ lên cơn nghiện thì đi vào hàng cây trên dải phân cách chích, gấp quá thì chích ngay trước hiên nhà tôi luôn.


Thậm chí có người nghiện còn giả làm khách mua hàng ở các cửa hàng ngoài mặt tiền rồi xin đi vệ sinh và chích luôn trong nhà vệ sinh của gia chủ.


Chúng tôi đã nghĩ ra cách tạt nước trên hiên cho ướt sàn để các nhóm này không tụ tập quanh quẩn trước nhà mình nữa, nhưng sàn vừa khô họ lập tức tụ lại rất ngang nhiên, nhiều buổi tối còn đánh nhau náo loạn, đổ máu để tranh giành địa bàn, khách hàng.


Đáng lo hơn là nhóm người nghiện ngập này xin đểu, trộm cắp rất táo tợn. Do đặc thù khu vực gần bến xe, nhiều cửa hàng buôn bán, những người nghiện thường xuyên vào hàng quán xin đểu 50.000-100.000 đồng, thậm chí có lúc còn kề dao vào cổ nhân viên cửa hàng bắt mở tủ lấy hết tiền.


Ngay cả công nhân, học sinh đứng đón xe buýt ở khu vực này cũng là nạn nhân của họ. Những người nghiện thường xuyên đi rảo trên vỉa hè, cầm kim tiêm, dao liên tục đe dọa xin tiền, nhất là khoảng 8-9g tối.


Còn trộm cắp là chuyện diễn ra như cơm bữa, sơ sẩy một chút thì đến cả đôi giày, cái áo cũng không còn. Xung quanh xóm này, trong hai tháng qua, có nhà đã bị trộm đột nhập lấy mất xe máy, laptop, tivi, thậm chí nồi cơm điện, bếp gas, cọc sắt và cả cổng nhà cũng bị tháo ra khiêng đi.


Chúng tôi đã nhiều lần kiến nghị với công an nhưng nhóm này hoạt động rất tinh vi, thấy động bên này đường là dạt qua bên kia đường, sau vài ngày công an truy quét đâu lại vào đấy, các nhóm tiếp tục mua bán thoải mái, nhộn nhịp.


Nguyện vọng của chúng tôi là có công an thường xuyên túc trực tại đây hoặc lập một chốt dân phòng ở bến xe An Sương để hạn chế hoạt động của các nhóm buôn bán ma túy này, trả lại an ninh trật tự cho khu vực và người dân chúng tôi có thể yên tâm làm ăn buôn bán.


Xử lý nhiều người tàng trữ, sử dụng ma túy


Sáng 13-10, Công an xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, TP.HCM cho biết đã bắt quả tang, di lý Đỗ Hồng Sơn (quê Tuyên Quang) về trụ sở để lập hồ sơ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.


Trước đó, khoảng 11g cùng ngày, công an xã Bà Điểm (H.Hóc Môn) phát hiện Sơn có biểu hiện nghi vấn tại trạm xe buýt trên quốc lộ 22, cách bến xe An Sương khoảng 500m, liền tiến hành kiểm tra. Công an đã phát hiện trong bóp tiền của Sơn có ba ống nhựa bên trong có chứa chất bột màu trắng (nghi ma túy).


Tại cơ quan công an, Sơn khai nhận số “hàng” trên là ma túy, Sơn mua để sử dụng. Sơn khai có một tiền sự cai nghiện ma túy, một tiền án gây rối trật tự công cộng, hiện đang làm thợ hồ và nghiện ma túy từ năm 1989. Dù đã cai nghiện nhưng Sơn lại dính vào con đường cũ.


Trước đó, ngày 12-10, công an xã Bà Điểm cũng đưa năm người ở khu vực ngã tư An Sương về trụ sở để lập hồ sơ về hành vi sử dụng ma túy trái phép. năm người này (quê Bình Thuận, Nghệ An, Thanh Hóa, Cần Thơ, Nam Định) sau khi lập hồ sơ hành chính được cho về, trong đó một số người nhiễm HIV thời kỳ cuối, đa số không có tiền đóng phạt.


Cùng ngày, đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Q.12 phối hợp với công an P.Trung Mỹ Tây tuần tra tại khu vực An Sương (Q.12) phát hiện đưa sáu người về trụ sở để lập hồ sơ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Những người này khai đều nghiện ma túy, độ tuổi từ 18-42, hầu hết không có giấy tờ tùy thân.


NGỌC KHẢI

Nhóm PV

Dân kêu trời vì chợ ma túy


Dân kêu trời vì chợ ma túy

TT - Mang tiếng nhà mặt tiền đường mà bán không ai mua, ngày càng xuống giá. Đó là nỗi khổ của người dân sống quanh Bến xe An Sương (TP.HCM)

Người nghiện công khai tiêm chích cho nhau ở dải phân cách trên quốc lộ 22, đoạn trước khu vực bến xe An Sương (TP.HCM) - Ảnh: Khoa Long


Buổi tối chưa đến 18g mà nhà nhà đều lo đóng kín cửa. Muốn buôn bán chút đỉnh để kiếm sống cũng không được, khi bưng cái bàn ra thì mất cái bàn, đưa cái ghế ra mất cái ghế! Buổi sáng mở cửa ai cũng nơm nớp lo không biết trước nhà có người nào chết bởi sốc hoặc thiếu ma túy không (một người dân cho biết chỉ trong một tháng đã có ba người chết ngay trước cửa nhà mình).


Sau nỗi lo ấy là lo dọn dẹp vì người nghiện phóng uế đầy trước cửa nhà... Đó là những nỗi khổ mà nhiều người dân sống quanh khu vực bến xe An Sương (quốc lộ 22, TP.HCM) đã kể cho chúng tôi nghe, khi đi thực hiện phóng sự này trong những ngày đầu tháng 10-2014.


Người dân quanh khu vực bến xe An Sương, theo chiều dài khoảng 1,5km từ chân cầu vượt An Sương đến ngã tư Trung Chánh (Q.12), đang phải sống thấp thỏm, lo sợ, hoang mang trong lòng “ổ” ma túy hoạt động thâu đêm suốt sáng.


Có hơn 20 đối tượng lai vãng mua bán ở đây, tạo nên cảnh hút, chích rầm rộ như chốn không người.


Các đối tượng thường xuyên đeo balô, giỏ xách giống người lao động đứng xung quanh khu vực bến xe và các trung tâm giới thiệu việc làm để hành nghề.


Theo quan sát của chúng tôi, những đối tượng này thường hoạt động theo ba ca từ 5g-8g, 11g-14g, 16g-21g.


Đến giờ “nóng” một chiếc xe máy chở “hàng” tới, tất cả người nghiện xúm lại chia “hàng” rồi nhanh chóng tản ra xung quanh khu vực bến xe.


Nhiều đối tượng hành nghề chạy xe ôm tại bến cũng làm cò mồi hưởng hoa hồng liên tục vẫy gọi khách. Sau khi lấy “hàng”, nhiều người đứng ngay giữa dải phân cách đường ngang nhiên chích, hút giữa thanh thiên bạch nhật.


Trong lúc thực hiện phóng sự, chúng tôi cũng gặp tổ tuần tra kiểm tra một đối tượng nhẵn mặt ở đây mà chúng tôi theo dõi rất kỹ những ngày trước đó.


Tuy nhiên khi lục soát trên người đối tượng này lại không có ma túy nên phải thả đi.


Đơn giản bởi thủ đoạn cất giấu của họ hết sức tinh vi. Ví dụ, ma túy được phân nhỏ và giấu ở hai bên hàng cây xanh trồng dọc dải phân cách. Hoặc họ chia thành những tép nhỏ giấu trong điện thoại, giấu trong “chỗ kín”...


Ông Huỳnh Văn Được - phó trưởng Công an xã Bà Điểm (H.Hóc Môn, TP.HCM) - cho biết không chỉ người dân mà công an cũng thấy bức xúc trước tình trạng lộng hành của những người nghiện, đồng thời là đối tượng mua bán. Bởi có bắt thì cũng chỉ xử phạt hành chính rồi phải thả!


“Chúng tôi mong sẽ có thông tư hướng dẫn thi hành nghị định 221 về việc đưa đối tượng vào cơ sở chữa bệnh để chúng tôi dễ kiểm soát hơn” - ông Được nói.


Ông Nguyễn Văn Dũng - cán bộ văn phòng Công an TP.HCM - cho biết tính đến cuối tháng 5-2014, toàn TP có 19.213 người nghiện, đó là chưa tính hơn 5.700 người cai nghiện tập trung đã trốn trại từ năm 2003.


Tuy nhiên, ông Dũng cũng thừa nhận số liệu thống kê còn thấp hơn nhiều so với thực tế. Tại buổi làm việc với TP.HCM ngày 6-10, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết người nghiện ma túy lang thang, tụ tập sử dụng ma túy công khai, uy hiếp, tống tiền tại các công viên, nơi công cộng gây bức xúc trong nhân dân... là tình trạng hết sức đáng lo ngại.


Người nghiện ngang nhiên tiêm chích ở chốn đông người (dải phân cách trên quốc lộ 22 đoạn gần ngã tư Trung Chánh, Q.12, TP.HCM)


Người dân thấp thỏm bất an khi ma túy được mua bán ngay trước cửa nhà


Việc mua bán ma túy được cảnh giới rất cẩn thận theo tầng lớp


Ma túy được ngụy trang trong quần áo


Ma túy được trao chỉ bằng một cái bắt tay nhanh như chớp


Công khai hoạt động mua bán ma túy như chợ trời


Một phụ nữ thoải mái hít ma túy

Đối tượng hốt hoảng ẩn núp khi cảnh sát cơ động truy bắt


Dải phân cách trước bến xe An Sương mặc nhiên trở thành “ổ” tiêm chích


Cất giấu ma túy lẫn với rác tránh bị bắt quả tang


Người nghiện sử dụng cả trẻ con đi ăn xin để lấy tiền hút chích


Đến giờ “nóng”, chiếc xe máy xuất hiện phân phát “hàng” rồi nhanh chóng chuồn ngay


Hình ảnh hút chích bừa bãi trên vỉa hè gây hoang mang, bức xúc cho người dân


Tổ tuần tra kiểm tra một đối tượng nghi vấn tàng trữ ma túy. Người này là một nhân vật mua bán ma túy mà chúng tôi bắt gặp trong những ngày thực hiện phóng sự này. Tuy nhiên tổ tuần tra không bắt được quả tang vì “hàng” đã được giấu kín ở chỗ khác


Từng tép ma túy được phân chia cho các đối tượng bán rải rác suốt dọc tuyến đường


TIẾN LONG - HỮU KHOA thực hiện

Hướng dẫn hỗ trợ điều trị chống tái nghiện ma túy nhóm opiats bằng thuốc Danapha-Natrex

MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN RẤT HIỆU QUẢ

Kết hợp uống thuốc NALTREXONE với

TƯ VẤN + Liệu pháp TÂM LÝ

Liệu pháp GIÁO DỤC + Liệu pháp XÃ HỘI

   Sau bi kịch tổng thống kennedy (Mỹ) bị ám sát ngày 22/11/1963 kèm theo sau đó là cuộc chiếc khốc liệt tại Việt Nam dẫn đến những rối loạn trong xã hội Mỹ : Tình trạng sử dụng Ma Túy tràn lan trong nước từ các nhóm phản chiến, binh lính mỹ ở Việt Nam đến cả một số bộ phân nhân dân Mỹ. Hậu quả đã trở thanh một đại dịch. Trước tình trạng đó, các cơ quan Hành phápLập pháp Mỹ đã phải tổ chức cấp kinh phí cho công tác nghiên cứu và điều trị cai nghiện ma túy.
Ngày 17/06/1977, Tổng thống Mỹ Nixon đã ký thành lập "Văn phòng đặc biệt về phòng chống ma túy"(SAODAP) để chỉ đạo kiểm soát sự lan tràn ma túy bất hợp pháp. Năm 1972, Quốc hội đã thông qua bộ luật 92-255, trong đó có phần hỗ trợ tài chính cho công tác nghiên cứu thuốc đối kháng có đặc tính điều trị hiệu quả, tác dụng lâu dài, không tác dụng phụ, không gây nghiện và đã đầu tư chi phí rất lớn cho nghiên cứu này.

   Liên tục từ năm 1971 đến năm 1975, nhóm nghiên cứu NIDA thuộc "Viện nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ về lạm dụng ma túy" đã xác định được Natrexone là chất đáp ứng được các yêu cầu trên, Naltrexone không hề có bất cứ tác dụng xấu nào với hệ thần kinh và tâm thần ngoài một số phản ứng phụ nhẹ trên hệ tiêu hóa và được đánh giá là loại thuốc an toàn trong điều trị cai nghiện.
   Tuy nhiên để giải quyết tận gốc vấn đề, điều trị Naltrexone phải kết hợp với điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẩn nội tâm của người nghiên thông qua Tư vấn + Liệu pháp tâm lý + Liệu pháp giáo dục + Liệu pháp xã hội. Việc uống Naltrexone là liệu pháp hỗ trợ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​

HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE

HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE

QUỐC HỘI

___

Luật số: 23/2000/QH10

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----

NGHỊ ĐỊNH

Quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế

_____________

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 29 tháng 6 năm 2006;

Căn cứ Luật phòng, chống ma túy ngày 09 tháng 12 năm 2000; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy ngày 03 tháng 6 năm 2008;

Căn cứ Luật dược ngày 27 tháng 6 năm 2005;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế,

Chính phủ ban hành Nghị định quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.


Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

 

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh


Nghị định này quy định về:


1. Điều kiện, quy trình xét chọn đối tượng tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế (sau đây gọi tắt là điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện);


2. Tổ chức điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, bao gồm: Điều kiện của cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (sau đây gọi tắt là cơ sở điều trị); thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị;


3. Điều kiện bảo đảm cho công tác điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


 

Điều 2. Giải thích từ ngữ


Trong Nghị định này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:


1. Chất dạng thuốc phiện là chất có nguồn gốc tự nhiên, tổng hợp và bán tổng hợp có tác dụng dược lý giống thuốc phiện;


2. Người nghiện chất dạng thuốc phiện là người sử dụng và bị lệ thuộc vào chất dạng thuốc phiện;


3. Thuốc thay thế là chất hoặc hỗn hợp các chất được tổng hợp có tác dụng đối kháng hoặc thay thế chất dạng thuốc phiện;


4. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế là việc sử dụng thuốc thay thế để điều trị người nghiện chất dạng thuốc phiện;


5. Liều điều trị duy trì là liều thuốc thay thế tương ứng với mỗi người bệnh, bảo đảm an toàn và được sử dụng lâu dài giúp người bệnh giảm hoặc ngừng sử dụng chất dạng thuốc phiện.


Điều 3. Áp dụng pháp luật trong điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Người nghiện chất dạng thuốc phiện được quyền lựa chọn tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo quy định tại Nghị định này hoặc tự nguyện cai nghiện tại gia đình và cộng đồng theo quy định tại Nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy tại cộng đồng.


2. Không áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, trừ các trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 2 Điều 21 Nghị định này.


Điều 4. Các hành vi bị nghiêm cấm


1. Thực hiện việc điều trị khi không đủ điều kiện hoặc chưa được cấp giấy phép hoạt động theo quy định tại Nghị định này.


2. Bán ra thị trường hoặc cung cấp thuốc điều trị thay thế cho cơ sở không được phép điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo quy định tại Nghị định này.


3. Lợi dụng việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện để tổ chức, buôn bán và sử dụng trái phép chất ma tuý.


4. Ép buộc người nghiện chất dạng thuốc phiện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện dưới mọi hình thức.


Chương II

ĐIỀU KIỆN, QUY TRÌNH XÉT CHỌN ĐỐI TƯỢNG

THAM GIA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

Mục 1

ĐIỀU KIỆN, QUY TRÌNH XÉT CHỌN ĐỐI TƯỢNG

THAM GIA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

ĐANG CƯ TRÚ TẠI CỘNG ĐỒNG

Điều 5. Điều kiện đối với người đăng ký tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện đang cư trú tại cộng đồng


1. Là người nghiện chất dạng thuốc phiện.


2. Có nơi cư trú rõ ràng.


3. Tự nguyện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện và cam kết tuân thủ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Đối với người nghiện chất dạng thuốc phiện chưa đủ 16 tuổi, chỉ được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện khi có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó.


4. Không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của pháp luật.


Điều 6. Thủ tục, hồ sơ đăng ký tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện đối với người nghiện chất dạng thuốc phiện đang cư trú tại cộng đồng


1. Người nghiện chất dạng thuốc phiện nộp hồ sơ đăng ký điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo quy định tại Khoản 2 Điều này cho cơ sở điều trị có trụ sở đặt trên địa bàn nơi người đó đang cư trú.


2. Hồ sơ đăng ký điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, gồm:


a) Đơn đăng ký tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định;

b) Bản sao có chứng thực của một trong các giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy khai sinh hoặc hộ khẩu.


Điều 7. Quy trình xét chọn đối tượng tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện đối với người nghiện chất dạng thuốc phiện đang cư trú tại cộng đồng


1. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ đăng ký tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, người đứng đầu cơ sở điều trị có trách nhiệm:


a) Tổ chức khám sức khỏe cho người đăng ký tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện;


b) Quyết định bằng văn bản việc tiếp nhận trường hợp đủ điều kiện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Trường hợp không đồng ý tiếp nhận, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.


2. Quyết định tiếp nhận trường hợp đủ điều kiện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được lập thành 04 bản và gửi tới các cơ quan, cá nhân liên quan sau đây:


a) 01 bản gửi Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là huyện);


b) 01 bản gửi Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là xã) nơi người được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện đang cư trú để theo dõi và hỗ trợ tuân thủ điều trị;


c) 01 bản gửi người được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện hoặc cha, mẹ, người giám hộ hợp pháp của người được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện trong trường hợp người đó chưa đủ 16 tuổi;


d) 01 bản lưu hồ sơ điều trị của người được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở điều trị.


Mục 2

ĐIỀU KIỆN, QUY TRÌNH TIẾP NHẬN ĐỐI TƯỢNG

THAM GIA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

ĐANG ĐƯỢC QUẢN LÝ TẠI CƠ SỞ GIÁO DỤC,

TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG, TRẠI GIAM, TRẠI TẠM GIAM

Điều 8. Điều kiện để người nghiện chất dạng thuốc phiện đang được quản lý tại cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trại giam, trại tạm giam tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Là phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam, trại viên, học sinh đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện ngoài cộng đồng bị đưa vào các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trại giam, trại tạm giam (sau đây gọi tắt là cơ sở quản lý).


2. Tự nguyện tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện và cam kết tuân thủ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện. Đối với người nghiện chất dạng thuốc phiện chưa đủ 16 tuổi, chỉ được điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện khi có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó.


Điều 9. Thủ tục tiếp nhận người nghiện chất dạng thuốc phiện được quản lý tại cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trại giam, trại tạm giam để tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được chuyển vào cơ sở quản lý tự nguyện tiếp tục tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện trong cơ sở quản lý, nộp phiếu chuyển gửi người bệnh điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cho người phụ trách y tế của cơ sở quản lý đó.


Điều 10. Quy trình tiếp nhận người nghiện chất dạng thuốc phiện tại cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trại giam, trại tạm giam để tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được phiếu chuyển gửi người bệnh điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, cơ sở quản lý có trách nhiệm:


1. Tổ chức hoặc phối hợp với cơ sở điều trị ngoài cộng đồng khám sức khỏe cho người nghiện chất dạng thuốc phiện;


2. Lập hồ sơ bệnh án theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.


Chương III

TỔ CHỨC ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 

Mục 1

CƠ SỞ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

Điều 11. Phân loại cơ sở điều trị


Cơ sở điều trị gồm:


1. Cơ sở điều trị thay thế là đơn vị điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế cho người nghiện chất dạng thuốc phiện, bao gồm cả việc cấp phát thuốc điều trị thay thế;


2. Cơ sở cấp phát thuốc điều trị thay thế (sau đây gọi tắt là cơ sở cấp phát thuốc) là bộ phận thuộc cơ sở y tế và chỉ thực hiện việc cấp phát thuốc thay thế cho người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


Điều 12. Điều kiện hoạt động của cơ sở điều trị thay thế


1. Điều kiện về cơ sở vật chất:


a) Có nơi tiếp đón, phòng hành chính, phòng cấp phát và bảo quản thuốc, phòng tư vấn, khám bệnh và phòng xét nghiệm. Các phòng trong cơ sở điều trị thay thế phải có diện tích từ 10 m2 trở lên;


b) Bảo đảm các điều kiện về quản lý chất thải y tế, phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật;


c) Bảo đảm có đủ điện, nước và các điều kiện khác để phục vụ chăm sóc người bệnh.


2. Điều kiện về thiết bị, thuốc điều trị thay thế:


a) Có đủ thiết bị, dụng cụ y tế và thuốc điều trị thay thế phù hợp với quy mô hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện;


b) Có thiết bị để khử trùng dụng cụ và bệnh phẩm;


c) Có các thiết bị giám sát việc thực hiện điều trị.


3. Điều kiện về nhân sự:


a) Cơ sở điều trị thay thế phải có đủ các tiêu chuẩn sau: Có nhân viên y tế được phép khám bệnh, chữa bệnh, kê đơn thuốc gây nghiện; có nhân viên y tế hỗ trợ công tác khám bệnh, chữa bệnh, xét nghiệm, tư vấn; có nhân viên bảo quản và cấp phát thuốc thay thế; có nhân viên phụ trách hành chính. Số lượng nhân viên làm việc toàn thời gian phải đạt tỷ lệ từ 75% trở lên trên tổng số nhân viên của cơ sở điều trị thay thế;


b) Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật và người trực tiếp thực hiện việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện của cơ sở điều trị thay thế phải đáp ứng các điều kiện sau:


- Là bác sỹ có giấy chứng nhận đã qua đào tạo, tập huấn về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được cấp bởi các cơ sở đào tạo được Bộ Y tế giao nhiệm vụ;


- Là người làm việc toàn thời gian tại cơ sở điều trị thay thế.


c) Người phụ trách bộ phận dược của cơ sở điều trị thay thế có thể là người làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nhưng phải đáp ứng các điều kiện về chuyên môn theo quy định của pháp luật về dược;


d) Các nhân viên khác làm việc tại cơ sở điều trị thay thế phải có văn bằng, chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc mà người đó được phân công.


4. Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể điều kiện hoạt động của cơ sở điều trị thay thế.


Điều 13. Điều kiện hoạt động của cơ sở cấp phát thuốc


1. Điều kiện về cơ sở vật chất:


a) Có nơi tiếp đón, phòng cấp phát và bảo quản thuốc. Phòng cấp phát và bảo quản thuốc phải có diện tích từ 15m2 trở lên;


b) Bảo đảm các điều kiện về phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật;


c) Bảo đảm có đủ điện, nước và các điều kiện khác để phục vụ người bệnh.


2. Điều kiện về thiết bị:


a) Có đủ thiết bị, dụng cụ y tế để thực hiện việc cấp phát, bảo quản thuốc thay thế;


b) Có các dụng cụ chứa rác thải phù hợp với từng loại rác thải;


c) Có các thiết bị giám sát việc thực hiện điều trị.


3. Điều kiện về nhân sự:


a) Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở cấp phát thuốc phải là người làm việc toàn thời gian tại cơ sở cấp phát thuốc và đáp ứng các điều kiện khác về chuyên môn theo quy định của pháp luật về dược;


b) Các nhân viên khác làm việc tại cơ sở cấp phát thuốc phải có văn bằng, chứng chỉ đào tạo phù hợp với công việc mà người đó được phân công.


4. Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể điều kiện hoạt động của cơ sở cấp phát thuốc.


 

Mục 2

THẨM QUYỀN, HỒ SƠ, THỦ TỤC CẤP,

 CẤP LẠI, THU HỒI GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI CƠ SỞ

ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

Điều 14. Thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị


Giám đốc Sở Y tế cấp, cấp lại và thu hồi giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị đóng trên địa bàn, có trách nhiệm thông báo cho Bộ Y tế và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân tỉnh) nơi cơ sở đó đặt trụ sở trong thời gian không quá 30 ngày, kể từ ngày cấp, cấp lại hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của cơ sở đó.


Điều 15. Hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị


Hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị gồm:


1. Văn bản đề nghị cấp phép hoạt động theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định;


2. Bản sao có chứng thực quyết định thành lập của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư;


3. Danh sách nhân sự của cơ sở điều trị, trong đó ghi rõ họ tên, trình độ chuyên môn, vị trí làm việc của từng người tại cơ sở; được đóng dấu giáp lai và có chữ ký của người đứng đầu đơn vị quản lý;


4. Bản kê khai cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế của cơ sở điều trị.


Điều 16. Thủ tục cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị


1. Thủ tục cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy định như sau:


a) Hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại giấy phép hoạt động quy định tại Điều 15 của Nghị định này được nộp cho Sở Y tế;


b) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Giám đốc Sở Y tế thẩm định, cấp giấy phép hoạt động; trường hợp không cấp giấy phép hoạt động, phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.


2. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định việc tổ chức thẩm định, thành phần thẩm định, thủ tục thẩm định để cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị.


Điều 17. Thu hồi và đình chỉ giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị


1. Giấy phép hoạt động bị thu hồi trong các trường hợp sau đây:


a) Giấy phép hoạt động được cấp không đúng thẩm quyền;


b) Cơ sở điều trị không bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị định này;


c) Sau 12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động mà cơ sở điều trị không hoạt động;


d) Cơ sở điều trị tạm dừng hoạt động trong thời gian 12 tháng liên tục hoặc đã chấm dứt hoạt động.


2. Khi phát hiện một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này, Giám đốc Sở Y tế ra quyết định thu hồi giấy phép hoạt động của cơ sở điều trị.


3. Trong trường hợp phát hiện cơ sở điều trị có sai sót chuyên môn hoặc không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại Điều 12, Điều 13 của Nghị định này, Giám đốc Sở Y tế quyết định việc đình chỉ hoạt động của cơ sở điều trị.


4. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định thủ tục thu hồi giấy phép hoạt động, đình chỉ hoạt động của cơ sở điều trị.


Điều 18. Lệ phí cấp, cấp lại giấy phép hoạt động đối với cơ sở điều trị


1. Cơ sở điều trị đề nghị cấp, cấp lại giấy phép hoạt động phải nộp lệ phí.


2. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu lệ phí cấp, cấp lại giấy phép hoạt động của cơ sở điều trị.


Mục 3

ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

Điều 19. Nguyên tắc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Nghiện chất dạng thuốc phiện là một bệnh mãn tính cần được điều trị lâu dài.


2. Việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện chỉ được thực hiện khi người nghiện chất dạng thuốc phiện tự nguyện tham gia điều trị.


3. Việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện chỉ được thực hiện tại cơ sở điều trị đã được cấp giấy phép hoạt động theo quy định tại Nghị định này.


4. Việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện phải tuân thủ hướng dẫn chuyên môn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.


Điều 20. Chuyển tiếp việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được chuyển tiếp việc điều trị từ cơ sở điều trị này sang cơ sở điều trị khác phù hợp với yêu cầu làm việc, sinh hoạt của người đó.


2. Cơ sở điều trị nơi người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện có trách nhiệm giới thiệu và chuyển bản sao hồ sơ điều trị của người đó đến cơ sở điều trị mới. Cơ sở điều trị mới có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ và thực hiện điều trị cho người chuyển đến.


3. Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện Khoản 2 Điều này.


Điều 21. Chấm dứt việc điều trị đối với người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Trường hợp người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện có hành vi vi phạm quy chế, nội quy của cơ sở điều trị, người đứng đầu cơ sở điều trị có trách nhiệm nhắc nhở hoặc phê bình người đó.


2. Trường hợp người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện có xét nghiệm dương tính với các chất dạng thuốc phiện từ 2 lần trở lên (trừ thuốc điều trị thay thế) sau khi đã đạt liều điều trị duy trì từ 12 tháng trở lên thì bị chấm dứt điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện và thông báo cho chính quyền địa phương nơi người đó đang cư trú.


Điều 22. Quản lý thuốc thay thế


1. Thuốc sử dụng cho điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện phải được Bộ Y tế cấp phép lưu hành.


2. Thuốc sử dụng cho điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quản lý theo quy định về quản lý thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và các quy định của pháp luật có liên quan.


Chương IV

ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO CÔNG TÁC ĐIỀU TRỊ

NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

Điều 23. Chế độ, chính sách đối với những người tham gia điều trị và người làm công tác điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện


1. Ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí khám sức khỏe, chi phí điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện cho các đối tượng tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện trong cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, trại giam, trại tạm giam.


2. Ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần chi phí khám sức khỏe và chi phí điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện cho người tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện tại các cơ sở điều trị công lập đối với các đối tượng sau đây:


a) Thương binh;


b) Người bị nhiễm chất độc hóa học có tỷ lệ thương tật trên 81%;


c) Người nghèo;


d) Người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa;


đ) Trẻ em mồ côi;


e) Người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng.


3. Chế độ, chính sách đối với người làm công tác điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện thuộc các cơ sở điều trị công lập:


a) Công chức, viên chức trực tiếp làm các công việc xét nghiệm, khám và điều trị cho người bệnh tại cơ sở điều trị công lập được hưởng mức phụ cấp bằng 70% mức lương ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, nếu có;


b) Công chức, viên chức làm công tác hành chính, tư vấn, dược và viên chức trực tiếp làm công việc cấp phát thuốc cho người bệnh tại cơ sở điều trị công lập được hưởng mức phụ cấp bằng 30% mức lương ngạch, bậc hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, nếu có.


4. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này và quy định khung giá dịch vụ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


Điều 24. Nguồn tài chính của cơ sở điều trị


1. Ngân sách nhà nước để thực hiện quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 23 Nghị định này.


2. Nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


3. Nguồn tài trợ, huy động, đóng góp từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.


4. Các nguồn hợp pháp khác.


Chương V

TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN

Điều 25. Trách nhiệm của cơ sở điều trị


1. Chỉ được hoạt động sau khi có giấy phép hoạt động.


2. Tổ chức điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo hướng dẫn chuyên môn do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định.


3. Định kỳ hàng tháng báo cáo danh sách người được điều trị, tình hình điều trị và tuân thủ điều trị của đối tượng tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định.


Điều 26. Trách nhiệm của Bộ Y tế


1. Xây dựng và ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật quy định cụ thể về điều kiện hoạt động của cơ sở điều trị; kế hoạch phát triển, quy hoạch hệ thống cơ sở điều trị.


2. Chỉ đạo, hướng dẫn, tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện văn bản pháp luật về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện; kế hoạch phát triển, quy hoạch hệ thống cơ sở điều trị.


3. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan trong việc quản lý, sản xuất, cung ứng, dự trữ thuốc thay thế theo quy định.


4. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


5. Tổ chức đào tạo, đào tạo liên tục, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


6. Thực hiện hợp tác chuyên gia, chuyển giao kỹ thuật và phương pháp điều trị mới, các hoạt động hợp tác quốc tế khác về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


Điều 27. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội


1. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương liên quan hướng dẫn các cơ sở điều trị thuộc thẩm quyền quản lý thực hiện việc điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


2. Định kỳ kiểm tra, thanh tra, báo cáo, thống kê việc triển khai thực hiện điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện tại các cơ sở điều trị thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định.


Điều 28. Trách nhiệm của Bộ Công an


1. Chỉ đạo cơ quan công an các cấp phối hợp với các cơ quan thuộc ngành Y tế và Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp triển khai hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại các địa bàn có cơ sở điều trị.


2. Chỉ đạo các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình, phát hiện các trường hợp vi phạm để kịp thời xử lý theo pháp luật hiện hành.


Điều 29. Trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Phối hợp với Bộ Tài chính, các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự toán ngân sách, huy động các nguồn đầu tư cho công tác điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


Điều 30. Trách nhiệm của Bộ Tài chính


Bố trí kinh phí để thực hiện các quy định tại Nghị định này theo phân cấp của Luật ngân sách nhà nước hiện hành.


Điều 31. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh


1. Ủy ban nhân dân tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


2. Căn cứ số lượng người nghiện chất dạng thuốc phiện và ngân sách của địa phương chỉ đạo Sở Y tế thành lập cơ sở điều trị theo quy định sau:


a) Huyện có từ 250 người nghiện chất dạng thuốc phiện trở lên phải triển khai điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện;


b) Huyện có ít hơn 250 người nghiện chất dạng thuốc phiện, căn cứ tình hình thực tế và nhu cầu của địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định việc triển khai điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


3. Phê duyệt dự án triển khai điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện; đầu tư ngân sách cho việc xây dựng cơ sở vật chất, bố trí nhân sự và chi phí kinh phí vận hành của các cơ sở điều trị trên địa bàn.


4. Chỉ đạo Sở Y tế, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an tỉnh xác định rõ trách nhiệm trong công tác quản lý hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện, xây dựng quy chế phối hợp giữa các ngành và các cơ quan liên quan trong triển khai hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện.


5. Chỉ đạo Sở Y tế tiến hành kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm liên quan đến hoạt động điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo quy định của pháp luật.


6. Hướng dẫn, chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện các hoạt động liên quan đến điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện theo quy định.


7. Tổ chức kiểm tra hoạt động của cơ sở điều trị thuộc thẩm quyền quản lý.


Chương VI

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 32. Hiệu lực thi hành


Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Bãi bỏ Khoản 5 Điều 2 và Điều 10 Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).


Điều 33. Hướng dẫn thi hành


Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành, địa phương liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Nghị định này.


Điều 34. Trách nhiệm thi hành


Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.


 
Nơi nhận:       
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- VP BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, Cổng TTĐT,
các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
- Lưu: Văn thư, KGVX (3b). M 300

TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

(Đã ký)

Nguyễn Tấn Dũng

 

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỖ TRỢ CHỐNG TÁI NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG NALTREXONE VỚI THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG METHADONE

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỖ TRỢ CHỐNG TÁI NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG NALTREXONE VỚI THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG METHADONE

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)

CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE
I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhânkhông bị hội chứng cai.
I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC: -  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH. II. DƯỢC LỰC HỌC: -  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.
III. DƯỢC ĐỘNG HỌC 1. Hấp thu: + Hấp thu nhanh qua đường uống + Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờsau khi uống. 2. Phân bổ chuyển hóa: * Phân bổ trong các mô và huyết tương. * Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexone, chất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH. *Thời gian bán hủycủa Naltrexone khoảng 4 giờ.Thời gian bán hủy của  6 βNaltrexone khoảng 10 giờ. 3. Thải trừ: Chủ yếu thải trừ qua thận,nước tiểu. III. DƯỢC ĐỘNG HỌC 1. Hấp thu: + Hấp thu nhanh qua đường uống + Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống. 2. Phân bổ chuyển hóa: * Phân bổ trong các mô và huyết tương. * Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng. * Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.   3. Thải trừ: Chủ yếu thải trừ qua thận, nước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.
IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN: 1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục… 2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn. Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫncó thể tồn tại trong quá trình điều trị.
V. CHỈ ĐỊNH: Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện. 1.   Những người mới nghiệnnhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc. 2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồichức năng tâm lý xã hội. 3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày) V. CHỈ ĐỊNH: Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọngđược điều trị thuốc thay thế Methadone. 1.   Những người nghiện ma túynhóm OMH một thời gian quá dài. 2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại. 3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần. 4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối. 5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai. 6.   Ung thư 7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

 
VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảmvới thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG: Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm: 1.     Người bệnh nghiện đồng thờinhiều loại ma túy. 2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần. 3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận. 4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone. 5.     Người bệnh nghiện rượu 6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vìnguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexonevới Thioridagine vì có nguy cơ gây ngủ gà, đờ đẫn, ngộ độc.

 
VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làmtăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làmgiảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làmtăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần nhưBenzodiazépine có thể làm tăngtác dụng của Methadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ: Thời gian điều trị tùy từng cá nhânkhông có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

Methadone có giúp cai nghiện?

Methadone có giúp cai nghiện?


Khi Methadone được đưa vào thử nghiệm, nhiều người đã lầm tưởng rằng, đây là một loại thuốc cai nghiện. Song trên thực tế, đó chỉ là một loại thuốc dùng điều trị thay thế. Để hiểu rõ về loại thuốc này, mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa phóng viên VTV với ông Trần Xuân Sắc, Trưởng phòng 06, Cục Phòng chống tệ nạn xã hội.

Ảnh:pharmascience.com


P.V: Xin ông cho biết sơ lược về Methadone?


Ông Trần Xuân Sắc: Trước hết tôi xin nhấn mạnh, Methadone là một loại ma tuý hợp pháp, công thức của nó giống các loại ma tuý thuộc nhóm opiat (heroin là một loại ma tuý thuộc nhóm này). Hợp pháp vì con người sản xuất ra để thay thế các loại ma tuý bất hợp pháp khác của nhóm opiat. Nhấn mạnh điều này vì, rất nhiều người nhầm đây là thuốc cai nghiện.


Là ma tuý, song Methadone có ưu điểm là không tăng liều. Thứ hai là, thuốc có thể dùng để duy trì cho người lệ thuộc vào ma tuý nhóm opiat sinh hoạt, làm việc bình thường. Ưu điểm thứ ba là, việc uống thuốc có thể giảm lây nhiễm HIV do tiêm chích gây ra, có tới 70-90% người nhiễm HIV là do chích ma tuý.


Ngoài ra, do người nghiện khi dùng Methadone vẫn có thể lao động bình thường, nên việc sử dụng này tạm thời có thể giảm được tội phạm "làm liều" do thiếu tiền mua thuốc.


Mặc dù vậy, do bản thân nó là ma tuý thì khi sử dụng liên tục, con người vẫn lệ thuộc vào nó, và lệ thuộc suốt đời.


P.V: Như vậy, Methadone không có tác dụng với những người nghiện loại ma tuý không thuộc nhóm opiat?


Ông Trần Xuân Sắc: Đúng là thuốc chỉ có tác dụng với những người nghiện ma tuý thuộc nhóm opiat mà thôi. Với loại ma tuý không thuộc nhóm này (ví dụ như thuốc lắc) không những Methadone không có tác dụng, mà còn có thể xảy ra trường hợp người được điều trị Methadone vẫn có thể dùng "đá" thêm ma tuý khác.


P.V: Nhấn mạnh Methadone là ma tuý hợp pháp, ông muốn nói tới điều gì?


Ông Trần Xuân Sắc: Tôi muốn nhấn mạnh đến hiện tượng do thiếu thông tin nên nhiều người có con em nghiện ma tuý và một số lãnh đạo địa phương nhầm đây là phương thức thuốc cai nghiện, thực ra đây chỉ là phương thức giảm tác hại, duy trì sức làm việc cho người nghiện. Một số nhà quản lý, một số gia đình đã nhầm lẫn khi cho con (bị nghiện) dùng Methadone để đỡ vật vã.


Tôi cũng muốn nhấn mạnh hiện tượng nếu ta không quản lý tốt, rất có thể sẽ hình thành thị trường ma tuý hợp pháp. Nếu không quản lý tốt, như ở nhiều nước, người nghiện có thể vờ uống rồi nhả thuốc ra, sau đó mang bán cho người khác.


Tôi cũng muốn lưu ý, khi điều trị phải chọn đối tượng cẩn thận. Nếu đối tượng nghiện nặng, lâu ngày và nhiễm HIV rồi thì nên sử dụng Methadone với sự chỉ dẫn của bác sĩ, thuốc sẽ có tác dụng tốt với nhóm người này. Trái lại, người mới nghiện lại dùng Methadone thì chẳng khác nào ta sẽ làm cho người đó phụ thuộc thuốc đến hết đời.


Về phương hướng, Bộ Y tế sẽ trình Chính phủ nên thí điểm tiếp hay mở rộng. Nhưng tôi muốn nói, nếu chỉ dùng Methadone mà không tạo việc làm cho người nghiệnm thì kết quả sẽ khó bền vững. Do chán nản, người nghiện có thể tái nghiện một loại ma tuý khác.


P.V: Nhiều gia đình có người nghiện khi nghe nói đến Methadone đã rất kỳ vọng, nhưng rồi lại thất vọng: Hoá ra thuốc không thần diệu như họ nghĩ. Ông suy nghĩ gì về điều này?


Ông Trần Xuân Sắc: Đúng là như vậy. Tôi nghĩ, các gia đình nên chú ý nhiều hơn để con em không nghiện. Trường hợp có con cái mắc nghiện, phải chú ý đến nguyên tắc rất quan trọng của cai nghiện là phải điều trị sớm, ngay khi người nghiện có dấu hiệu phụ thuộc thuốc. Điều nguy hiểm và đáng tiếc nhất là, một số gia đình vì sợ mang tiếng nên đã giấu giếm khi có con nghiện, đến khi nghiện nặng rồi thì cai rất khó. Khi điều trị cũng cần điều trị toàn diện, nghĩa là điều trị cả y tế cả mặt xã hội, tư vấn tâm lý giải toả streess và giáo dục tình yêu cuộc sống.


P.V: Xin cảm ơn ông!


TP HCM trình Quốc hội giải pháp xử lý người nghiện

TP HCM trình Quốc hội giải pháp xử lý người nghiện


Ngày 31/10, lãnh đạo TP HCM đã chốt phương án trình Quốc hội về công tác cai nghiện tại TP HCM mà không đi ngược lại với Luật xử lý vi phạm hành chính.


Thiếu tướng Phan Anh Minh, Phó giám đốc Công an TP HCM cho biết, lãnh đạo TP HCM mấy ngày nay họp liên tục, bàn thảo phương án trình Quốc hội giải quyết tình trạng người nghiện đang tràn lan mà thành phố phải "bó tay" vì các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.


"Sáng nay Chủ tịch UBND TP HCM đã chấp thuận dự thảo nghị quyết để trình Quốc hội. Thành phố sẽ cử một tổ ra để chứng minh, thuyết phục, cung cấp cho các đại biểu thông tin nhằm bảo vệ trước Quốc hội", tướng Minh cho biết.


Tướng Minh: "Những nội dung mà chúng tôi đưa ra không có gì phản bác Luật xử lý vi phạm hành chính, mặc dù đúng là Luật này có bất cập". Ảnh: Quốc Thắng


Theo phương án này, ngoài các tổ chức xã hội quy định, đề nghị Quốc hội cho phép ngay UBND TP HCM thành lập một số trung tâm tiếp nhận, quản lý đối tượng xã hội. Trung tâm có chức trách, thẩm quyền như sau:


Một là tiếp nhận, quản lý, cắt cơn giải độc, tư vấn ban đầu cho người nghiện khi vào trung tâm theo quyết định của chủ tịch UBND cấp xã được quy định tại Điều 131, Luật xử lý vi phạm hành chính và khoản 1, 2 Điều 14 Nghị định 221/2013/NĐ-CP.


Hai là, bác sĩ, y sĩ thuộc trung tâm có thẩm quyền xác định tình trạng nghiện ma túy. Họ đã có kinh nghiệm xác định người nghiện mà không cần được Bộ Y tế cấp giấy chứng nhận.


Ba là, tiếp nhận, phân loại, đề xuất và chuyển người có quyết định của tòa án áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc phù hợp với kết quả phân loại.


Theo UBND TP HCM, Trung tâm này sẽ là đơn vị sự nghiệp công lập, do ngân sách địa phương bố trí kinh phí hoạt động.


Dự thảo nghị quyết này có hiệu lực thi hành là 3 năm. Sau đó, Chính phủ và Ủy ban Các vấn đề xã hội có trách nhiệm theo dõi việc triển khai và đánh giá, tổng kết thực hiện Nghị quyết, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi phạm hành chính.


"Nội dung mà chúng tôi đưa ra không có gì phản bác Luật xử lý vi phạm hành chính, mặc dù đúng là Luật này có bất cập", ông Minh nhấn mạnh.


Về bước tiếp theo để đưa người nghiện vào trung tâm cai nghiện bắt buộc, theo tướng Minh, để không kéo dài thời gian, các cơ quan liên quan sẽ ngồi lại với nhau xem xét, ra quyết định. Điều này sẽ bớt được các công đoạn trong Luật xử lý vi phạm hành chính.


Chia sẻ bên hành lang Quốc hội sáng 31/10, ông Huỳnh Thành Lập, Trưởng đoàn đại biểu TP HCM cho biết, trong cuộc họp với Thường trực Ủy ban Pháp luật, TP HCM kiến nghị Quốc hội cho phép dưới hình thức một Nghị quyết hoặc lồng ghép vào nội dung của Nghị quyết về kinh tế xã hội tại kỳ hợp thứ 8, giao cho thành phố quản lý, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý cho người nghiện ma túy tại Trung tâm tiếp nhận đối tượng xã hội thay cho tổ chức xã hội, trong khi chờ lập hồ sơ ban hành quyết định của tòa án.


“Thà làm như vậy mình còn nhân đạo hơn là để như hiện nay. Để họ ngoài cộng đồng rất nguy hiểm, là nguồn phát sinh tội phạm. Thiếu ăn, thiếu đói, thiếu thuốc thì họ làm bậy. Họ rủ rê những người khác, dụ dỗ con nghiện mới làm đủ mọi cách để có thuốc hút. Nếu nói phải có nhân văn nhân đạo thì việc giúp họ cai nghiện một cách hiệu quả, quản lý để họ không phát sinh tội phạm mới cũng là nhân văn nhân đạo”, vị trưởng đoàn chia sẻ.


Trước đây, để đưa người nghiện vào các trung tâm thì chỉ cần UBND huyện ra quyết định. Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2014 khi Luật xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực thì tòa án có trách nhiệm đưa ra quyết định này vì liên quan đến quyền con người. Muốn đưa người nghiện ra tòa thì bản thân họ phải có thời gian được giáo dục tại cồng đồng, gia đình 3-6 tháng và vẫn tái nghiện. Tuy nhiên thực tế giáo dục tại cộng đồng không hiệu quả, tái nghiện nhiều khiến gia đình cũng chán, chưa kể nhiều người nghiện vô gia cư, thất nghiệp.


Theo ông Huỳnh Thành Lập, vướng mắc ở đây là ai quản lý họ trong vòng 3-6 tháng. Luật quy định do tổ chức xã hội quản lý, nhưng tổ chức xã hội là ai, tổ chức nào thì lại chưa làm rõ. “Cũng vì những vướng mắc đó mà giờ con nghiện tràn ngập cộng đồng, thậm chí họ thách thức dư luận, xã hội, pháp luật; không sợ ai, không sợ pháp luật”, đại biểu Lập nói.


Người nghiện chích ma túy công khai tại công viên 23/9 (quận 1, TP HCM). Ảnh: Duy Trần. 


Ủng hộ giải pháp của TP HCM, đại biểu Nguyễn Thị Khá cho biết, chủ trương chung là như nhau, nhưng khó khăn nhất là TP HCM, Hải Phòng - những nơi có người nghiện đông. Đây lại là trung tâm kinh tế nên lao động từ rất nhiều vùng miền đến, thường không có nơi ở cố định rất khó trong việc quản lý.


“Tôi rất ủng hộ TP HCM phải có giải pháp như thế. Chúng ta không nên chỉ nghĩ một chiều là đem họ vô cai nghiện là mất quyền công dân, đưa họ vào đấy là đảm bảo cho họ có sức khỏe, cho họ có công ăn việc làm. Điều này cũng hạn chế tệ nạn xã hội xảy ra vì khi lên cơn nghiện, thiếu thuốc họ có thể làm mọi việc, cướp giật, đâm thuê chém mướn”, đại biểu Khá chia sẻ.


Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Nguyễn Đình Quyền thừa nhận, nhìn chung trên cả nước việc đưa người nghiện vào trung tâm cai bắt buộc có sự chậm trễ và theo phản ánh thì thủ tục phức tạp. Một yêu cầu đặt ra là để họ ngoài xã hội thì gây rất nhiều nguy cơ, nhưng đưa họ vào trong trại thì phải có quy trình để đảm bảo quyền con người của họ. Đây là bài toán rất khó. Kiến nghị của TP HCM dựa trên cơ sở thực tiễn, vấn đề là những bất cập đó xuất phát từ việc tổ chức thực hiện hay pháp luật.


“Định hướng luật là đúng, nhưng đáng lẽ nghị quyết thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính phải có bước quá độ, để từ cơ quan hành chính đến cơ quan tư pháp có bước chuyển. Chúng ta không lường hết được thực tiễn nên đã gây khó khăn cho các địa phương”, đại biểu Quyền nói.


Đại biểu Nguyễn Đình Quyền. Ảnh: Thanh Thanh. 


Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng bước đầu thực hiện luật đang còn lúng túng, thể chế chưa hoàn thiện, nhất là hiện chưa có tòa án hành chính. Việc này các nước xử rất nhẹ nhàng, trình tự đơn giản, hồ sơ giấy tờ đủ hết qua thẩm tra, thẩm định tòa án xem xét.


“Tôi rất chia sẻ với TP HCM nhưng chính ra Ban Thường vụ thành phố cần chỉ đạo các cơ quan trên địa bàn, trong đó có tòa án, để việc đưa người nghiện vào trung tâm được triển khai tốt hơn. Việc đưa người nghiện vào cơ sở lưu giữ tạm thời, thành phố từng làm rồi nhưng kết quả chưa thỏa đáng”, Bộ trưởng nói.


Về mặt thủ tục, theo Bộ trưởng so với pháp lệnh trước đây không phải quá phức tạp, hồ sơ, giấy tờ, thành phần hội đồng vẫn như thế. Điểm khác là từ hành chính bê sang tòa án, tòa án xem xét thì có thủ tục trình tự, chắc chắn thận trọng hơn nhiều.


Vũ Mai - Nam Phương

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy – Giám đốc Công ty TNHH Điều Dưỡng và Cai Nghiện Ma Túy Thanh Đa Người cha của những đứa con lầm lạc


Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy

TNHH Điều Dưỡng và Cai Nghiện Ma Túy THANH ĐA


Người cha của những đứa con lầm lạc


Đã có rất nhiều tờ báo, nhiều cuốn sách viết về ông, thậm chí, tên ông cũng đã không ít lần xuất hiện trên các chương trình truyền hình: thời sự, người đương thời,… Cuộc đời ông là một câu chuyện cảm động về một nhân cách, một tấm lòng nhâu hậu, bởi lẽ, ngay khi chúng tôi đang kể về ông thì ông vẫn  đang tiếp tục chiến đấu và cống hiến cho cuộc đời này, vẫn tiếp tục cứu giúp những số phận nghiệt ngã, những cuộc đời lầm lỡ. Chúng tôi muốn nói đến Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy – nguyên Cụm Phó Cụm Điệp báo A10 – Ban An ninh Sài Gòn Gia Định – nay là Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa.


Tuổi trẻ sôi nổi

Quê ông ở Nghệ An nhưng sinh ra và lớn lên ở miền Nam. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, lại thấm nhuần tư tưởng Phật giáo và với sự giáo dục của gia đình, ông mang nặng tình yêu quê hương, đất nước. Thuở nhỏ, sống trong những thành phố lớn, bình yên, điều kiện vật chất gia đình tương đối, ông lại là học sinh giỏi, ngoan của Trường Phan Chu Trinh (Đà Nẵng) nên cuộc sống khá êm đềm và bình thản, ông ít biết về chiến tranh. Ông tâm sự: “Năm 1963, tôi tham gia phong trào đấu tranh chống Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Năm 1964, cha tôi chuyển về làm Trưởng ty Bưu điện Quảng Nam – một vùng chiến sự ác liệt. Tôi đã chứng kiến bao nhiêu cảnh chính quyền cũ đem những xác người vỡ đầu, lòi bụng, mất tay chân ra phơi tại sân vận động Tỉnh hoặc hai cổng ra vào thành phố và gọi đó là thành tích “Diệt Cộng”. Tôi không thể nghĩ con người đối với con người, nhất là người Việt Nam đối nhau lại có thể tàn nhẫn như vậy. Hằng đêm, hỏa châu thắp đỏ, tiếng đại bác vọng liên tục vọng về, súng nổ chỉ cách bên kia sông. Từng đàn máy bay mặc sức bắn phá: bệnh viện đầy người, trên những vùng đất khô cằn những người dân với những vành khăn tang trắng đi chôn xác người thân mỗi ngày, chỉ cần ra khỏi thành phố là đã thấy thôn làng bị tàn phá,  những mái tranh nghèo xơ xác với bốn vách phên đổ nát.


Xã hội xuống cấp, tham nhũng và thối nát. Những người lính Mỹ coi sinh mạng người Việt như cỏ rác, muốn bắn thì bắn, muốn giết thì giết, những chiếc xe chạy vô tội vạ, cán người chết rồi cũng thôi. Tôi suy nghĩ với nhiều đêm thức trắng, tôi lao vào công tác xã hội và tham gia các phong trào tranh đấu nhưng càng làm, tôi càng cảm thấy vô ích. Những công trình xã hội chúng tôi xây lên chỉ cần vài tháng sau bị bắn phá trở lại là đống gạch vụn. Các cuộc đảo chính, chỉnh lý liên tục xảy ra chỉ càng lộ rõ bản chất tay sai, tham quyền, cố vị của những người từng làm lính khố xanh, khố đỏ cho Pháp nay lại làm tay sai theo Mỹ. Tôi vô cùng đau khổ và dấy lên lòng căm thù.


Năm 1966, ông được thi đỗ vào trường Đại học Y khoa Sài Gòn và tham gia các hoạt động của Tổng hội sinh viên. Ông tâm sự:


“Thông qua nghiên cứu sách báo, tiếp cận với thực tế công tác, tôi dần dần giác ngộ, hiểu được thực chất của cuộc chiến, chiều hướng phát triển tất yếu của đất nước và trở thành người của cách mạng lúc nào không hay. Thời gian này, tôi tham gia và giữ nhiều chức vụ trong các Ủy ban tranh đấu chống đàn áp, bắt bớ sinh viên – học sinh, chống quân sự học đường, chống thuế kiệm ước; tôi đã được sinh viên tín nhiệm bầu làm Chủ tịch các Ủy ban tranh đấu, Trưởng ban đại diện sinh viên Y  khoa, Đoàn trưởng đoàn Công tác Y tế sinh viên Y - Nha - Dược, Đoàn trưởng Đoàn văn nghệ sinh viên Y – Nha. Năm 1971, tôi tham gia an ninh vũ trang, năm 1972 là Cụm phó Cụm Điệp báo A10 – Ban An ninh Sài Gòn - Gia Định”.


Nói về cụm Điệp báo A10 vì lý do nghiệp vụ đến nay sau hơn 35 năm thành tích của Cụm Điệp báo của các ông mới được công khai nhắc đến. Nhiệm vụ cụ thể của A10 là xây dựng cơ sở bí mật, thu thập tin tức, ý đồ, thủ đoạn và tổ chức của đối phương; tấn công chính trị, tác động và phân hóa hàng ngũ địch; xây dựng lõm căn cứ chính trị trong quần chúng, nhân dân. Để thực hiện được các mục tiêu trên, ông đã xây dựng được mạng lưới đánh vào các cơ sở trọng yếu của địch, vô hiệu hóa một số chính sách nguy hiểm cho cách mạng.


Năm 1971 – 1972, các tổ chức của Thành Đoàn bị địch đánh phá gần như tê liệt. Trước tình hình khó khăn của các phong trào đô thị, theo chỉ thị của lãnh đạo tôi thành lập, xây dựng lõm căn cứ, tấn công chính trị, phân hóa hàng ngũ địch. Đoàn công tác Y tế sinh viên Y – Nha – Dược được thành lập để tạo địa bàn hoạt động cho quần chúng cả 3 trường Y – Nha – Dược và các trường đại học khác; đồng thời thực hiện mục tiêu của Ban An ninh T4. Bằng uy tín của mình, trên cương vị là Chủ tịch ban đại diện sinh viên Y khoa và với vai trò là Đoàn trưởng Đoàn công tác, tôi đã xây dựng cương lĩnh hoạt động của Đoàn – ngụy trang làm công tác y tế - xã hội thuần túy, không hoạt động chính trị nên được Hiệu trưởng và Chủ tịch Ban đại diện ba trường đồng ý ký tên và đóng dấu chấp nhận hoạt động của Đoàn. Nhờ tính pháp lý vững chắc như vậy nên Đoàn quy tụ sinh viên hợp pháp dễ dàng. Các nhóm sinh viên phản động và bọn cảnh sát rất tức tối nhưng không làm gì được. Đoàn thành lập các ban văn nghệ, y tế, xã hội, và báo chí: sinh hoạt bằng nhạc yêu nước, nhạc của sinh viên tranh đấu, viết những bài báo chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình, chống tham nhũng, đòi dân sinh, dân chủ, chống đàn áp sinh viên học sinh. Hàng tuần, Đoàn tổ chức khám bệnh, phát thuốc, nhổ răng và làm công tác xã hội giúp người nghèo ở các xóm lao động (chủ yếu ở quận 4, quận 6 và quận 11). Thuốc đi xin từ các xí nghiệp Dược vừa được sử dụng cho công tác xã hội vừa tiếp tế cho học sinh, sinh viên, cán bộ bị địch bắt giam và một số thuốc cần thiết gửi vào chiến khu. Những hoạt động của Đoàn bị cảnh sát mật của Sài Gòn theo dõi rất kỹ nhưng chúng không phát hiện được gì: chỉ thấy Đoàn khám bệnh, nhổ răng, phát thuốc, làm đường, dựng nhà cho dân, nhưng chúng có biết đâu dưới sự chỉ đạo của tôi các sinh viên Y – Nha – Dược thuộc các tổ chức cách mạng như Ban An ninh T4 – Thành đoàn - Liên Quận – các quần chúng nòng cốt đã đến từng hộ gia đình, tiếp cận từng người dân để làm công tác tư tưởng, vận động đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống bắt lính, gợi khổ, kể khổ, tố khổ, chống chế độ thối nát, đòi hòa bình, phân loại tâm tư nguyện vọng, xây dựng mạng lưới cơ sở, nâng cao nhận thức của quần chúng và phát hiện các phần tử ác ôn, chống phá cách mạng. Trước 30 – 4 - 1975 do tôi không về lại được Sài Gòn nên các cơ sở Thành đoàn đã lãnh đạo các sinh viên trong đoàn công tác Y tế sinh viên Y – Nha – Dược nổi dậy cướp chính quyền tại quận 4. Một cơ sở khác của Cụm A10 là Ba Vũ đã nổi dậy tại khu vực Bảy Hiền.


Để tấn công chính trị, phân hóa hàng ngũ địch, ông đã xây dựng cơ sở nồng cốt là đồng chí Huỳnh Bá Thành (Họa sĩ Ớt) – Giám đốc kỹ thuật kiêm Thư ký tòa soạn báo Điện tín của nhóm Dương Văn Minh. Dưới sự chỉ đạo của ông, anh Thành và các cơ sở đã:


+       Sử dụng báo Điện Tín của ông Dương Văn Minh thực hiện ý đồ của Ta là:


-   Hướng dẫn, vận động dư luận quần chúng theo ý đồ có lợi cho cách mạng.


-   Phân hóa hàng ngũ địch, tổ chức lôi kéo các lực lượng tiến bộ - hòa bình – dân tộc, tập hợp thành lực lượng chống đối Nguyễn Văn Thiệu.


-   Tác động các phóng viên viết bài đấu tranh dân sinh, dân chủ, chống tham nhũng, ta thán chiến tranh, kêu gọi hòa bình, thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, thành lập chính phủ ba thành phần, thực hiện hòa hợp, hòa giải trên cơ sở pháp lý và hiệp định Paris mà Mỹ - Thiệu đã ký; Tư tưởng hiếu chiến của Thiệu ngày càng bị cô lập.Quần chúng càng ngày càng hiểu rõ bản chất của cuộc chiến, hướng dẫn dư luận càng ngày càng có lợi cho ta.


-   Tháng 4/1975 ông và mạng lưới cơ sở đã tác động ông Dương Văn Minh, góp phần thúc đẩy Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa lựa chọn con đường đầu hàng quân giải phóng, nhằm cứu Sài Gòn thoát khỏi cuộc đổ nát bởi trận chiến giãy chết cuối cùng.


Năm 1973, tốt nghiệp bác sĩ, ông bị tổng động viên vào Quân đội Sài Gòn. Chấp hành lệnh của tổ chức, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo mạng lưới điệp báo tại Sài Gòn, đồng thời tham gia hoạt động trong hàng ngũ địch với cương vị Trung úy Bác sĩ Trưởng Tiểu đoàn 6 (Thần Ưng Quyết Tử) Sư đoàn Thủy quân Lục chiến.


Vốn là thành viên của một gia đình có nhiều người tham gia hoạt động tình báo và đang nắm giữ nhiều vị trí nồng cốt của Ngụy quyền Sài Gòn: cha là Giám đốc Sở Tài chính – Kế toán của Tổng cục Bưu chính, anh rể là Tổng thư ký Bộ Nội vụ, em gái là Chủ sự phòng Sưu tầm chính trị - Phủ Tổng ủy Dân vận Chiêu hồi, em rể là Công cán Ủy viên Phủ Tổng ủy kế hoạch của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, do đó với sự khôn khéo, nhanh nhạy ông nhanh chóng được sự tin tưởng của địch. Là một người căm thù giặc, trung thành với cách mạng, nhưng nay ông lại trở thành người cứu chữa cho chính kẻ thù của dân tộc mình. Tuy nhiên, với tấm lòng của người cách mạng ông vẫn luôn nhớ mãi câu dặn của đồng chí lãnh đạo: “Lương y phải như từ mẫu”. Trừ một thiểu số sĩ quan ác ôn phải tiêu diệt còn đa số các binh sĩ là con em nhân dân nghèo bị địch bắt đi lính, họ không hiểu cách mạng thì phải làm cho họ hiểu, phải phân hóa được hàng ngũ của địch và kéo họ về phía ta”. Ông đã chấp hành cứu chữa cho hàng chục người lính bị thương, thậm chí có nhiều người bị thương rất nặng. Chính vì vậy, khi trở về thành phố, những người thương phế binh đó, là những nhân chứng sống của cuộc chiến và họ đã nói lên tiếng nói của họ.


Ông hay lên các chốt tiền tiêu nhậu với những người lính, ông chua xót khi những người lính tâm sự: “Tiền lính là tính liền bác sĩ ơi, không tiêu tiền, ngày mai chết ai tiêu”, “tương lai em chỉ là một cái hố đen sâu thẳm, có những lúc chiến đấu sợ quá thì tụi em đào ngũ, hết tiền thì lấy giấy khai sinh của thằng em, thằng cháu đăng ký binh chủng khác, vừa có tiền đầu quân, vừa thoát chết”, “bác sĩ thấy đấy, sau trận 1972 tiểu đoàn mình chết gần hết, bây giờ thì gần 2/3 là tân binh đâu có biết đánh đấm gì”,…ông đã phân hóa được hàng ngũ địch thông qua các buổi ăn nhậu, đã chỉ ra được sự bóc lột của các cấp lãnh đạo: ăn cắp của lính từ thuốc men, lương khô, quân trang, quân dụng và các chế độ tiêu chuẩn thậm chí đến bóc lột tàn tệ người lính qua ứng lương trước (lương lính 11.000đ chỉ đưa cho lính 6.000đ đến 7.000đ), bắt ăn uống tại căn tin đơn vị với giá gấp năm gấp mười bình thường. Người lính gian khổ nơi chiến trường sống chết trong tầm tay, hậu phương lại thối nát, tham nhũng, nếu cứ tiếp tục thế này thua Việt cộng là cái chắc.


Trên cương vị của một bác sĩ, ông có một lợi thế rất lớn là sử dụng quyền hạn của mình. Nhằm làm giảm ‎‎ý chí và tiêu hao sinh lực địch bằng nhiều biện pháp rất nhân bản. Đồng thời, cứ một người lính bị thương, ông quy định phải có từ 10-20 người khác cho máu với lượng 10cc/người. Các người lính cho máu được miễn trực gác chốt tiền tiêu và được thưởng lương khô nên sau một thời gian số lính gác bị thiếu hụt. Nhiều người lính sợ chiến trường quá, nhờ ông xóa dòng chữ xâm trên tay “Thủy quân lục chiến sát Cộng”, ông không làm vì biết sẽ bị An ninh quân đội phát hiện, nhưng nói khéo với những người y tá đơn vị: “Tụi nó ngu quá, lấy thuốc tím đậm đặc bôi là tiêu hết”. việc làm  này đã đánh gục tính háo chiến một bộ phận không nhỏ những người lính Sài Gòn. Để nắm tình hình địch, ông thường xuyên ăn nhậu với các sĩ quan cao cấp trong binh chủng và đã thu thập được nhiều nguồn tin quan trọng.


Tại chiến trường Quảng Trị, ông được Thiếu tướng Bùi Thế Lân – Tư lệnh sư đoàn Thủy quân lục chiến gắn “Anh dũng bội tinh” bên bờ sông Thạch Hãn. Báo Sóng thần của binh chủng cũng phong cho ông danh hiệu “Anh hùng Quân y Thủy quân lục chiến” vì đã cứu sống nhiều binh sĩ, đã không ngại gian khó khi đi kiểm tra và săn sóc lính tại các chốt tiền tiêu – một điều mà không một bác sĩ nào trong binh chủng dám làm. Chưa đầy 6 tháng sau khi ông lại được thăng chức từ bác sĩ trưởng tiểu đoàn 6 lên làm bác sĩ trưởng Lữ đoàn 258.


Ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong lòng địch, đem về cho tổ chức nhiều tư liệu quí giá. Tuy nhiên, đằng sau những chiến công vang dội đó, ông đã chịu không ít tủi nhục, chịu đựng những lời chê trách của người thân, bạn bè, thậm chí của cả người yêu – những người đã từng một thời cùng ông tham gia sôi nổi trong các hoạt động của sinh viên – học sinh. Ông không giải thích một lời để hoàn thành nhiệm vụ một cách bí mật.


Tháng 5 năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, vì nhiệm vụ ông được giới thiệu đi… ”học tập, cải tạo” như một sĩ quan quân đội Sài Gòn. Hơn nửa năm hoạt động trong trại cải tạo, ông được chuyển về khối Bảo vệ chính trị thuộc Ban An Ninh nội chính thành phố Hồ Chí Minh với quân hàm Thiếu úy vì theo quy định của ngành cấp trung úy trở lên phải là Đảng viên. Nhưng việc xác minh lý lịch để được đứng trong hàng ngũ của Đảng của ông cũng không hề đơn giản. Phải mất 6 năm dài đằng đẵng, lý lịch của ông mới được xác minh rõ, ông mới chính thức được trở thành Đảng viên. Tuy nhiên, Nguyễn Hữu Khánh Duy vẫn không hề có một lời than trách mà ông chỉ cười: “Tổ chức xác minh được là tốt rồi, mình còn may mắn hơn nhiều trường hợp khác, nhiều anh em lúc đó bị địch bắt giam đã đổi tên, đổi tuổi tác, tổ chức không xác minh được, nhưng vẫn phải chấp nhận. Vả lại, khi tham gia cách mạng, anh em đâu có đòi hỏi quyền lợi gì đâu”


 

Bước vào mặt trận không tiếng súng


Trở về sau những ngày sống trong lòng địch, Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy lại bước chân vào một mặt trận mới - mặt trận không có tiếng súng nhưng cũng không kém phần gian khổ. Nó đòi hỏi con người phải có một tấm lòng nhân hậu. Đó chính là cuộc chiến với nàng tiên nâu, với ma túy.


Lý do nào khiến cho người chiến sĩ tình báo năm xưa vừa thoát khỏi hiểm nguy lại dấn thân vào một con đường hiểm nguy khác? Từ năm 1976, Bác sĩ Khánh Duy công tác tại trại giam Chí Hòa, điều trị cho hàng ngàn bệnh nhân nghiện ma túy. Có đêm, trại phải tiếp nhận đến cả trăm người nghiện ma túy với đủ loại bệnh tật. Nguyễn Hữu Khánh Duy phải điều trị, tự học tập, tiếp cận và tìm hiểu về ma túy mà đối tượng lúc bấy giờ là tù nhân, can phạm. Những năm 1980, ông chuyển về công tác tại Phòng An ninh Văn hóa - Tư tưởng, phụ trách lĩnh vực y tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, giáo dục và bảo vệ cơ quan Dân - Chính - Đảng, do đó ông càng có điều kiện tiếp cận sâu hơn với các đối tượng nghiện ma túy. Những chàng trai, những cô gái còn rất trẻ lại bị cướp mất tương lai chỉ vì ma túy khiến cho ông không khỏi xót xa. Từ năm 1995 đến năm 2000, ông làm Hội thẩm Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã xét xử nhiều vụ án liên quan đến may túy. Và ông thấy được rằng: Ma túy thực sự là một hiểm họa của toàn  xã hội, nó hủy hoại nhân cách, đạo đức của con người.


Từ nhận định đó, ông đã đi đến quyết định: “Phải đấu tranh đến cùng để ngăn chặn hiểm họa này”. Vì vậy, năm 2000, khi về hưu, dù tỉ lệ mất sức 61%, nhưng ông vẫn không ngơi nghỉ, mà ngược lại, đây chính là lúc ông thực hiện những điều mình vẫn hằng ấp ủ, nung nấu suốt bao nhiêu năm qua. Đó là xây dựng một trung tâm cai nghiện ma túy để cứu sống những con người lầm lạc. Ông đã tập hợp bạn bè, đồng chí, đồng đội vốn là các cựu chiến binh – những người đã trở về sau cuộc chiến khốc liệt với kẻ thù, thành lập trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa. Giờ đây, họ đang tận dụng quãng đời còn lại của mình để níu giữ những mảnh đời, những số phận của những người trẻ tuổi trước cái chết trắng. Bác sĩ Khánh Duy bộc bạch: “Một trong những vấn đề nổi cộm đang được quan tâm của xã hội hiện nay là nghiện ma túy và đại dịch HIV/AIDS. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng mình phải lao vào mặt trận này. Đối với những người lính, cái gì khó thì mình phải làm trước và phải làm cho được”.


Ngày đầu thành lập, công ty đã phải đối mặt với rất nhiều những khó khăn. Trước hết là việc xây dựng lòng tin. “Liệu nơi này có cai nghiện thành công hay không?”, đó là câu hỏi mà những người muốn vào trung tâm cai nghiện thường đặt ra. Và để tạo dựng được niềm tin là cả một quá trình khó khăn, nan giải. Trước hết, phải xây dựng một đội ngũ nhân viên có trình độ và giàu tâm huyết. Ông đã quy tụ được đội ngũ ấy. Họ là những cựu chiến binh, là những thầy giáo, những y, bác sĩ có nhiều tâm huyết và tận tâm với công tác xã hội. Họ hội tụ về mái nhà chung này để góp sức cứu người cùng Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy. Trước những tấm chân tình đó, Bác sĩ Khánh Duy cảm động cho biết: “Các anh em về đây đều bắt nguồn từ cái tâm là chủ yếu, vì việc cai nghiện rất khó khăn và đòi hỏi mình phải nhẫn nại. Cho nên, nếu nhân viên ở đây mà không có tâm và tình thương yêu thì không thể làm việc lâu dài được”. Và từ đội ngũ ấy, Bác sĩ Khánh Duy đã cho thành lập các tổ chức, đoàn thể, chính trị, xã hội như: Hội Cựu chiến binh, Công đoàn,Đoàn Thanh niên, Chi bộ Đảng. Các tổ chức này đã đóng vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động của trung tâm và là những đơn vị điển hình của địa phương.


Lựa chọn con đường kinh doanh ở một lĩnh vực đặc biệt, Bác sĩ Khánh Duy phải đối đầu với một cuộc chiến mới. Nhưng ở mặt trận này, ông không hề đơn độc. Có những người đồng đội luôn kề vai, sát cánh bên ông và sự ủng hộ của toàn xã hội.


Mái ấm cho người nghiện ma túy 


Trung tâm đã được hình thành đúng như tâm nguyện của bác sĩ Khánh Duy. Ông khẳng định quyết tâm của mình: “Trên mặt trận mới này, cần phải có tấm lòng. Những người nghiện ma túy, họ còn trẻ quá, chúng tôi sẽ tiếp tục chiến đấu, quyết tâm giành lại từng con người… Chúng tôi quyết giành thắng lợi, đưa họ về với cuộc sống đời thường và có ích”. Từ lòng quyết tâm ấy, Bác sĩ Khánh Duy và mọi người trong công ty đã bắt đầu bước vào cuộc chiến.


Việc đầu tiên ông làm là xây dựng một trung tâm đầy đủ tiện nghi và khang trang để đáp ứng được những yêu cầu… làm sống lại những con người. Trung tâm Cai nghiện ma túy Thanh Đa được xây dựng trên một địa thế rộng rãi, thoáng mát ven sông Sài Gòn, với đầy đủ trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác cai nghiện như: phòng cắt cơn, phòng điều dưỡng, phòng tập thể dục thể hình, phòng tắm hơi, mat- xa, thậm chí còn có cả phòng hát karaoke, bể bơi, thư viện, sân bóng chuyền,… Ngoài ra, ở Trung tâm Thanh Đa còn có các xưởng dạy những nghề thông dụng như: may mặc, mộc, trồng cây cảnh, cơ khí, điện,…  tất cả tạo nên một mô hình cai nghiện tiến bộ và hiện đại.


Cái mới của Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa  là học viên được sống trong môi trường sạch đẹp như bệnh viện, được thầy thuốc gần gũi, động viên. Học viên được điều trị theo phác đồ của Bộ Y tế, nhưng kết hợp với điều dưỡng để nâng cao thể trạng. Sau khi cắt cơn, môi trường ở trung tâm không chỉ là bệnh viện, nơi điều dưỡng mà còn là trường học dạy nghề, là nơi các em sinh hoạt sôi nổi và thân thiện như trong một gia đình. Tuy nhiên, kỷ cương của trung tâm không kém doanh trại quân đội. “Nghiêm không chỉ làm các em sợ mà phải làm các em kính nể”


Với quan điểm: “Trung tâm là đại gia đình”, học viên được quan tâm từ ăn uống, sinh hoạt đến vui chơi, giải trí. Các phòng, ban liên lạc luôn nắm bắt được kịp thời những tâm tư, nguyện vọng của từng học viên để có biện pháp hỗ trợ phù hợp. Mọi sinh hoạt của học viên đều phải đi vào nề nếp, xử lý vi phạm của học viên có lý, có tình. Chính nhờ những yếu tố này, học viên nhanh chóng thích nghi với môi trường, thực hiện theo đúng những chỉ dẫn của các bác sĩ, cán bộ. Họ cũng nghiêm chỉnh chấp hành chương trình cai nghiện cụ thể do chính Bác sĩ Khánh Duy và các bác sĩ trong trung tâm đề ra.


Theo chương trình cai nghiện này, khi vào trung tâm, học viên phải điều trị trong vòng 6 tháng. Nhằm điều trị – giáo dục – gọt giũa – phục hồi nhận thức –hành vi – nhân cách – giải quyết các vấn đề bức xúc, mâu thuẫn nội tâm của người cai nghiện. Các xưởng dạy nghề là nơi các học viên làm việc, lấy lao động làm phương pháp trị liệu, đồng thời cũng là nơi họ học nghề để khi hòa nhập cộng đồng có thể tìm được một việc làm ổn định.


Đặc biệt, từ năm 2008, Công ty Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa đã triển khai Khoa Chống tái nghiện bằng thuốc Natrexone (là một chất làm mất cảm giác thèm nhớ và tìm kiếm ma túy)  kết hợp với tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, sinh hoạt cá nhân – nhóm – gia đình,… Kết quả, sau một năm điều trị cho hơn 1000 học viên, gần 70% số học viên tham gia chương trình này chưa tái nghiện, trên 50% học viên ngoại trú đã có việc làm ổn định.


Với mô hình cai nghiện tiến bộ đó, từ 30 học viên trong thời gian đầu, đến nay, công ty đã điều trị cho hơn 12.000 lượt học viên. Và số lượng học viên đang cai nghiện tại trung tâm hiện nay gần 400 học viên, trong đó gần một nữa là học viên điều trị ngoại trú. Đặc biệt, trung tâm còn thu hút nhiều kiều bào từ khắp nơi trên thế giới về cai nghiện và cả người nước ngoài. Những con người khi đến đây đều mang mặc cảm trong mình, nhưng chỉ sau vài tháng điều trị, họ đã lấy lại được tinh thần và có thể sống bình thường như bao con người khác. Đó là niềm mong ước của Bác sĩ Khánh Duy và cả tập thể cán bộ ở đây. Mỗi trung tâm có một mô hình riêng, nhưng điều đặc biệt của Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa là chú trọng đến giáo dục, gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách cho học viên. Cùng với sự hướng dẫn tận tình, sự tận tụy, chân tình, của những cán bộ ở đây khiến cho học viên không còn mặc cảm, mà coi đây là một đại gia đình.


Thực vậy, chúng tôi đã được chứng kiến quang cảnh ở nơi đây khi nói chuyện cùng Bác sĩ Khánh Duy. Đó là một khung cảnh thân tình, từ cán bộ đến nhân viên đều hòa nhã mặc dù công việc cứ cuốn lấy họ. Chúng tôi cũng được chứng kiến cảnh một người mẹ vào trung tâm để đón con. Bà mẹ rưng rưng khi thấy đứa con nghiện ngập ngày nào nay đã trở thành chàng trai trẻ khỏe mạnh, nhanh nhạy, hoạt bát, đầy sức sống. Nhưng ấn tượng nhất là cuộc chia tay bịn rịn giữa chàng thanh niên với cán bộ, bác sĩ của trung tâm. Nếu không chứng kiến buổi chia tay này, có lẽ tôi không thể nào nhận ra đó là học viên cai nghiện và người làm công tác cai nghiện. Bởi cách họ đối xử, quan tâm đến nhau giống như cách ứng xử của những người thân trong một gia đình với nhau. Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa đã thực sự là một gia đình - một mái ấm thân tình cho những ai lỡ chân sa ngã - một  gia đình lớn mà trong đó Bác sĩ Khánh Duy là người cha cao cả.


“Bố Khánh Duy”


Đó là cách gọi thân thương mà những học viên cũng như những nhân viên trẻ tuổi ở đây dành cho Bác sĩ Khánh Duy. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc, trong mắt mọi người ở đây, ông đã trở thành một người lãnh đạo, một người cha đáng kính. Chúng tôi thấy được sự tin yêu, kính nể đó của mọi người dành cho ông. Bởi lẽ, trong khi trò chuyện cùng chúng tôi, ông vẫn thường xuyên nhận được những lời hỏi thăm, những câu chào thân mật của mọi người. Và với ai, ông cũng đều đáp lại bằng một thái độ ân cần, niềm nở.


Mấy chục năm gắn bó với nghiệp cứu người, Bác sĩ Khánh Duy chưa hề ngưng nghỉ, và ông cũng chưa hề tự cho phép mình nghỉ. Chứng kiến những số phận con người vật vã trong sự tàn phá của cái chết trắng, những gia đình đau đớn vì mất con, vợ mất chồng, ông không thể ngăn được niềm thương cảm, xót xa. Và ông lại càng không thể bỏ dở công việc của mình. Bởi lẽ: “Có tiếp cận, gần gũi với các em trong hoàn cảnh này mới thấy thương các em nhiều hơn”. Từ tình thương bao la đó, Bác sĩ Khánh Duy đã dành trọn cả quãng đời còn lại của mình cho trung tâm. Dành hết tâm huyết của mình cho công việc, ông không chỉ tiếp tục nghiên cứu về các biện pháp cai nghiện tốt nhất; mà còn tạo dựng một mái ấm thân thương cho những con người lầm lỡ. Biết bao số phận đã được ông cứu sống, bao con người đã được ông giành giật từ tay tử thần ma túy để trả về cho xã hội, cho gia đình. Đó là một sự hồi sinh kỳ diệu - sự hồi sinh giá trị của con người - sự hồi sinh mà Bác sĩ Khánh Duy đã bỏ bao công sức và tâm huyết để thực hiện.


Dường như, niềm hạnh phúc lớn nhất của ông chính là được nhìn những học viên, những “đứa con” của mình bước ra khỏi trung tâm với dáng vẻ của một con người hoàn toàn bình thường. Ông đưa cho chúng tôi xem những bức ản hoạt động của trung tâm. Những bức ảnh về mỗi chuyến đi chơi của các học viên cũng được ông lưu giữ kỹ càng. Ông chỉ cho chúng tôi xem những chàng trai, những cô gái đang làm việc, vui chơi hăng say mà ánh mắt ngời lên niềm hạnh phúc. Tôi chợt nhận ra rằng, đó là ánh mắt của một người cha.


Đối với Bác sĩ Khánh Duy, đây không còn là công việc mà đã trở thành lẽ sống, là máu thịt của ông. Ông xem trung tâm như ngôi nhà thứ hai của mình. Ngôi nhà mà ông đã gây dựng và thổi vào nó một luồng hơi ấm của tình người. Gần như, toàn bộ thời gian của mình, ông dành cho trung tâm, dành cho những đứa con ở nơi đây. Ông chăm sóc họ từ bữa ăn đến giấc ngủ. Mới tinh mơ sáng, khi học viên còn chưa thức dậy thì ông đã có mặt để chuẩn bị cho công việc trong ngày, và ông ở đây đến hai, ba giờ sáng, khi học viên đã say ngủ mới về nhà. Nhìn mái tóc ông đã bạc trắng, chúng tôi không khỏi ái ngại cho sức khỏe của ông. Ông chỉ cười và nói như hối tiếc:“Quỹ thời gian của tôi còn rất ít, do đó tôi cần tìm  một người trẻ có đủ tâm huyết, lòng nhân ái và hiểu rõ về việc cai nghiện ma túy để có thể tiếp nối con đường mà tôi đang đi”


Cả một đời cống hiến, đến quãng thời gian còn lại của đời mình, ông vẫn chỉ lo lắng cho xã hội,  tâm nguyện của ông vẫn chỉ dành cho việc cứu người.


Khi chúng tôi rời khỏi trung tâm, kết thúc buổi nói chuyện của mình thì trời cũng đã tối. Màn đêm buông xuống, không gian được bao phủ bởi một màu đen tĩnh lặng. Bác sĩ Khánh Duy vẫn ở lại, “Bố Khánh Duy” vẫn tiếp tục công việc của mình - công việc cứu người một cách thầm lặng nhưng cao cả.  Và chúng tôi biết chắc rằng, ông sẽ không bao giờ ngừng lại; biết chắc rằng, sau cánh cửa màu xanh của Trung tâm Cai nghiện ma túy Thanh Đa lúc nào cũng có một trái tim luôn đau đáu nghĩ về số phận những con người lầm lạc.


 

Huân chương - bằng khen được lãnh đạo nước - các bộ ban ngành trong và ngoài nước trao tặng


Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng III. Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. Ban Tuyên giáo Trung ương – Văn phòng Chính phủ - Ban Thi đua khen thưởng Trung ương tặng huy hiệu danh hiệu“Doanh nhân Việt Nam làm theo lời Bác”. Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tặng Bảng vàng danh hiệu Đơn vị điển hình về thực hiện trách nhiệm xã hội và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Ủy ban nhân dân Thành phố tặng Bằng khen cho Bác sĩ Giám đốc vì đã có thành tích xuất sắc trong 4 năm thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (2007 - 2010). 01 Chứng nhận Chiến sĩ thi đua cấp Thành phố (2010) và 07 Bằng khen cho tập thểcá nhân vì đã có thành tích xuất sắc trong quá trình hoạt động góp phần tích cực và có hiệu quả trong công tác cai nghiện, phục hồi và chống tái nghiện cho người nghiện ma túy nhân kỷ niệm 10 năm hoạt động (2000 - 2010). Ban Tuyên giáo Trung ương – Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - Ủy ban Quốc gia hợp tác kinh tế quốc tế - Bộ Công Thương tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp hội nhập và phát triển”. Bộ Công Thương tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp vì cộng đồng”“Doanh nhân vì cộng đồng. Bộ Y tế tặng Cúp vàng danh hiệu “Vì sức khỏe người Việt”Trái tim vì sức khỏe người Việt. Cúp vàng danh hiệu Vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng”Top 10 doanh nhân tiêu biểu vì cộng đồng”. Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trao tặng Cúp vàng danh hiệu Vì sự nghiệp phát triển doanh nhân Việt Nam”. Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng Cúp vàng danh hiệu “Thương hiệu - Nhãn hiệu” “Doanh nhân Tâm Tài”. Bộ Công an tặng Bằng khen. Tổng cục An ninh + Công An TP.Hồ Chí Minh tặng giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào Bảo vệ an ninh tổ quốc. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tặng 3 Bằng khen và cờ danh hiệu Công đoàn cơ sở vững mạnh có phong trào thi đua xuất sắc năm 2011. Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh tặng 5 cờ danh hiệu Cộng đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc liên tục các năm 2007 – 2008 – 2009 – 2010 – 2011. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tặng bằng khen, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tặng giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc 10 năm liền trong công tác cai nghiện, phục hồi cho người nghiện ma túy.Trung ương Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam tặng bằng khen danh hiệu “Doanh nhân Cựu chiến binh thành đạt” danh hiệu “Doanh nhân Cựu chiến binh giàu lòng nhân ái”. Hội Cựu chiến binh Việt Nam TP. Hồ Chí Minh tặng 3 bằng khen cho Hội Cựu chiến binh Công ty vì đã có thành tích xuất sắc 5 năm 2005 – 2009 02 Bằng khen cho Bác sĩ Giám đốc vì đã có thành tích tiêu biểu trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” 03 năm (2007 – 2009),4 năm (2007 – 2010) công nhận 4 năm liền là Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống ma túy, HIV/AIDS trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác an ninh, trật tự, an toàn giao thông, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong trường học giai đoạn 1998 - 2008. Bộ Y tế, Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Bộ Công Thương, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp tiêu biểu Việt Nam”, “Thương hiệu – Nhãn hiệu” “Lãnh đạo xuất sắc”. Đài truyền hình Việt Nam đưa Bác sĩ Giám đốc Trung tâm vào chương trình “Người đương thời”.

Exit mobile version