TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
Cơ Sở 1 : 245 Bình Quới (1051 Xô Viết Nghệ Tĩnh), Phường 28, Bình Thạnh, Tp.HCM
Cơ Sở 2 : 978 Nguyễn Duy Trinh, P. Phú Hữu - Tp.Thủ Đức, Tp.HCM
Điện thoại: (028) 6270 0119 - (028) 3898 6513 - 0982 120 908 THỜI GIAN LÀM VIỆC 24/24
Điều 54. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2022.
2. Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Điều 55. Quy định chuyển tiếp
1. Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành:
a) Người đang thực hiện cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện thì tiếp tục thực hiện cai nghiện ma túy tự nguyện đến hết thời hạn đã đăng ký theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 và bị quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật này;
b) Người đang bị quản lý sau cai nghiện ma túy thì tiếp tục chấp hành quyết định quản lý sau cai nghiện ma túy đến hết thời hạn quản lý sau cai nghiện theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12. Trường hợp người đang trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy đủ 18 tuổi kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà tái nghiện thì áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
c) Người đang chấp hành quyết định cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 thì được đăng ký cai nghiện tự nguyện theo quy định của Luật này. Thời gian đã chấp hành quyết định cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng được tính vào thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện;
d) Người thuộc trường hợp phải đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 đang trong quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì thực hiện việc cai nghiện ma túy theo quy định của Luật này;
đ) Giấy phép liên quan đến hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy đã được cấp tiếp tục được sử dụng đến hết thời hạn ghi trên giấy phép.
2. Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành:
Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được thành lập theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 phải đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở cai nghiện ma túy công lập theo quy định của Luật này.
Các cơ sở khác về cai nghiện ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 đã được cấp giấy phép hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành được tiếp tục hoạt động cho đến khi hết thời hạn của giấy phép.
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 30 tháng 3 năm 2021.
Điều 51. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
1. Nhà nước Việt Nam thực hiện điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy và điều ước quốc tế khác có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy.
2. Trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan, thỏa thuận quốc tế đã ký kết, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện chương trình hợp tác về phòng, chống ma túy với cơ quan có liên quan của các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Điều 52. Chính sách hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống ma túy trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước; khuyến khích tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ đào tạo và y tế cho hoạt động phòng, chống ma túy.
Điều 53. Chuyển giao hàng hóa có kiểm soát
Nhà nước Việt Nam thực hiện yêu cầu chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về ma túy. Việc quyết định áp dụng và tiến hành biện pháp này thực hiện theo thỏa thuận giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước có liên quan.
Điều 44. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma túy.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
3. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác phòng, chống ma túy.
4. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
5. Thực hiện công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.
6. Tổ chức đấu tranh phòng, chống ma túy.
7. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy.
8. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma túy.
9. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy.
10. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
11. Khen thưởng, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
Điều 45. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
2. Bộ Công an là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống ma túy.
4. Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương.
Điều 46. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy theo thẩm quyền.
3. Tổ chức công tác giám định chất ma túy và tiền chất.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
5. Hướng dẫn việc lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, người bị quản lý sau cai nghiện ma túy.
6. Chủ trì thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; quản lý thông tin tội phạm về ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, người bị quản lý sau cai nghiện ma túy và kết quả kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
7. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan và chính quyền địa phương hướng dẫn việc tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.
3. Hướng dẫn việc thành lập, giải thể và tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện ma túy.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy trong hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma túy.
7. Thống kê người nghiện ma túy đang cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy.
Điều 48. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới trên đất liền, trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
3. Chỉ đạo lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển Việt Nam chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan, lực lượng chức năng để tiếp nhận, xử lý thông tin tội phạm về ma túy, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy tại khu vực, địa bàn quy định tại khoản 2 Điều này theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy của Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển Việt Nam.
5. Thống kê người nghiện ma túy trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ do Bộ Quốc phòng quản lý.
Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Y tế
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Thực hiện việc nghiên cứu thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy; cấp, thu hồi giấy phép lưu hành thuốc, phương pháp cai nghiện ma túy; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma túy.
3. Thống kê người đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.
Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
Chỉ đạo cơ quan Hải quan thực hiện hoạt động phòng, chống ma túy theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 22. Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể
1. Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể được thực hiện đối với người thuộc trường hợp sau đây:
a) Người bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người mà cơ quan, người có thẩm quyền có căn cứ cho rằng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy đang trong thời hạn quản lý;
d) Người đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đang cai nghiện ma túy; đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy.
2. Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tiến hành xét nghiệm chất ma túy theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, người có chuyên môn xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp có kết quả xét nghiệm dương tính thì gửi ngay kết quả đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có kết quả xét nghiệm dương tính cư trú, trừ trường hợp người đó đang cai nghiện ma túy bắt buộc.
3. Nhà nước bảo đảm kinh phí xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 23. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của họ.
Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy không phải là biện pháp xử lý hành chính.
2. Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định quản lý.
3. Nội dung quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm:
a) Tư vấn, động viên, giáo dục, giúp đỡ người sử dụng trái phép chất ma túy để họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể;
c) Ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội.
4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả xét nghiệm dương tính của người cư trú tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương.
5. Trong thời hạn quản lý, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy trong các trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng trái phép chất ma túy được xác định là người nghiện ma túy;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng;
d) Người sử dụng trái phép chất ma túy phải thi hành án phạt tù;
đ) Người sử dụng trái phép chất ma túy trong danh sách quản lý chết, bị Tòa án tuyên bố là mất tích.
6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 24. Trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình cho công an cấp xã nơi cư trú.
2. Chấp hành việc quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Điều 25 Trách nhiệm của gia đình, .cơ quan, tổ chức, cộng đồng trong quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm sau đây:
a) Quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy; ngăn chặn hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Cung cấp thông tin về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của người sử dụng trái phép chất ma túy cho công an cấp xã nơi người đó cư trú;
c) Ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
d) Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể.
2. Cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc, cộng đồng nơi người sử dụng trái phép chất ma túy sinh sống có trách nhiệm sau đây:
a) Động viên, giúp đỡ, giáo dục người sử dụng, trái phép chất ma túy; ngăn chặn hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Phối hợp với gia đình, cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể.
Điều 26. Lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Công an cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương.
2. Khi người sử dụng trái phép chất ma túy thay đổi nơi cư trú thì công an cấp xã nơi chuyển đi có trách nhiệm thông báo cho công an cấp xã nơi chuyển đến trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày người đó chuyển khỏi địa phương để đưa vào danh sách và tiếp tục quản lý.
3. Công an cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp đưa ra khỏi danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy trong các trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng trái phép chất ma túy không có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian quản lý quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy thuộc trường hợp dừng quản lý quy định tại khoản 5 Điều 23 của Luật này;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển đến cư trú ở địa phương khác.
Điều 12. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
1. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là hoạt động được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép, bao gồm:
a) Nghiên cứu, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, sản xuất chất ma túy (không bao gồm trồng cây có chứa chất ma túy), tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
b) Vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
c) Nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
2. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy quy định tại khoản 1 Điều này được kiểm soát chặt chẽ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 13. Kiểm soát hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy, tiền chất
1. Hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy (không bao gồm trồng cây có chứa chất ma túy), tiền chất phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo dõi, kiểm tra, giám sát.
2. Chính phủ quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép, trình tự, thủ tục cho phép, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 14. Kiểm soát hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì được vận chuyển chất ma túy, tiền chất; khi thực hiện việc vận chuyển phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng, có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát trong quá trình vận chuyển và chịu sự theo dõi, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 15. Kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc
Việc kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiên chất dùng làm thuốc thực hiện theo quy định của pháp luật về dược, trừ hoạt động quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 17 của Luật này.
Điều 16. Kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
Việc kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều 17.Kiểm soát hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc
1. Các hoạt động sau đây phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép:
a) Nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập chất ma túy, tiền chất;
b) Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là được chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc.
2. Hoạt động quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc phải theo đúng hành trình đã ghi trong giấy phép quá cảnh. Cơ quan, tổ chức thực hiện việc quá cảnh phải làm thủ tục, chịu sự kiểm soát của cơ quan Hải quan và cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 18. Lập hồ sơ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này có trách nhiệm lập hồ sơ và báo cáo theo quy định của Chính phủ.
Điều 19. Kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh
Hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, tồn trữ, bảo quản, sử dụng, nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Điều 20. Kiểm soát thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất vì mục đích sơ cứu, cấp cứu trong cuộc hành trình, du lịch quốc tế, điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh
1. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất dự phòng cho việc sơ cứu, cấp cứu trên tàu thủy, tàu bay, tàu hỏa, ô tô hoặc các phương tiện vận tải khác trong cuộc hành trình, du lịch quốc tế không bị coi là mang hàng xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Người chỉ huy, người điều khiển phương tiện vận tải có trách nhiệm khai báo với cơ quan Hải quan của Việt Nam, giải trình về số lượng thuốc đã sử dụng, áp dụng các biện pháp an toàn thích hợp để ngăn chặn việc sử dụng không đúng mục đích hoặc vận chuyển trái phép các thuốc đó và chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
2. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh, xuất cảnh hoặc quá cảnh lãnh thổ Việt Nam thực hiện theo quy định của Chính phủ và chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Điều 21. Xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong vụ việc vi phạm pháp luật
Chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất bị thu giữ trong các vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính được xử lý theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
1. Thay đổi thất thường giời giấc sinh hoạt: thức khuya, đêm ngủ ít, dậy muộn, ngày ngủ nhiều…
2. Hay tụ tập, đi lại đàn đúm vơi người có đời sống sinh hoạt buông thả như không lao động, không học hành… hoặc chơi than với người sử dụng heroin.
3. Đi lại có quy luật: Mỗi ngày, cư đến một giờ nhất định nào đó, dù đang bận việc gì cũng tìm cách, kiếm cớ để đi khỏi nhà.
4. Thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả người thân trong gia đình).
5. Tâm trạng thường lo lắng, bồn chồn, đôi khi nói nhiều, hay nói dối loanh quoanh, hay có biểu hiện chống đối, cáu gắt hơn so với trước đây. Hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân. Nếu còn đi học thì thường đi học muộn, trốn học, bỏ giờ học (thường vào giờ nhất định): ngồi trong lớp hay ngủ gật, học lực giảm sút nhanh.
6. Nhu cầu tiêu tiền ngày một nhiều, sử dụng tiền không có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền người thân và hay bán đồ đạt cá nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục túi người khác…
7. Trong túi quần, áo, cặp, phòng ngủ thường có các thứ giấy bạc, thuốc lá, kẹo cao su, bật lửa ga, bơm kim tiêm, uống thuốc, thuốc phiện, gói nhỏ heroin.
8. Có dấu kim trên mu bàn tay, cổ tay, mặt trong khuỷu tay, mặt trong mắt cá chân, ở bẹn, ở cổ…
9. Đối với người sử dụng heroin nặng, còn có biểu hiện giảm sút sức khoẻ rõ rệt, thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ngại tắm, ăn mặc lôi thôi lếch thếch…
Người nào càng có nhiều biểu hiện trên thì càng có khả năng mắc nghiện heroin. Bố, mẹ, người thân trong gia đình, bạn bè, nhất là những người sống cùng phòng nên chú ý phát hiện sớm người sử dụng heroin để tìm cách giúp đỡ. Vì càng phát hiện sớm, cai sớm, thì càng có khả năng cai được và giảm được nguy cơ nhiễm HIV.
Ma túy là những chất tác động tâm thần, nếu lạm dụng sẽ gây ra cho mình sự lệ thuộc và gây những tổn thương trên hệ thống não bộ.
Tình trạng lệ thuộc ma túy đòi hỏi phải sử dụng ma túy đều đặn như một phương thức sống. Người lệ thuộc bị những biến đổi về khí sắc, cảm xúc cũng như nhận thức do những tổn thương hệ thống não bộ. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn ngay cả sau khi ngưng sử dụng các chất này.
Việc sử dụng ma túy bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: bản thân, gia đình, xã hội. Người nghiện từ sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma túy dẫn đến tình trạng nghiện, gây ra rất nhiều rối loạn về tâm thần, ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Việc điều trị, phục hồi nghiện ma túy bao gồm rất nhiều lĩnh vực y tế, tâm lý, giáo dục, quản lý, …
Người nghiện bị lệ thuộc tâm lý và lệ thuộc cơ thể đối với ma túy, nếu thiếu sẽ thèm muốn tột độ, đòi hỏi phải tái sử dụng để cảm thấy thoải mái.
Khi được cung cấp đủ ma túy – người nghiện ở trạng thái ngất ngây hoặc kích thích mạnh mẽ, giảm bớt đau đớn thân xác, tinh thần, cảm giác khỏe mạnh, yêu đời, …
Bởi tính chất ép buộc phải sử dụng ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh bằng mọi cách trong việc tìm kiếm cho có được ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.
Một phương thức sống như vậy sẽ làm xáo trộn và đảo lộn nhiều giá trị cá nhân cũng như gia đình, xã hội cùng những chức năng tâm sinh lý của bản thân.
Càng sử dụng ma túy càng lâu, hàm lượng càng tăng thì hậu quả càng nhiều và nặng nề bấy nhiêu. Mặt khác, những tác động của ma túy trên bộ não có thể gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn làm cho người nghiện suy giảm khả năng xử lý thông tin, rối loạn nhận thức cũng như thiếu khả năng hiểu biết của đối tượng trong việc hướng đến một cuộc sống lành mạnh
Xét về mặt hành vi, người nghiện đã phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu. Chính những hành vi ấy ngăn cản đối tượng hoà nhịp với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Người nghiện ma túy không còn đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, cũng như kỹ năng làm việc để sống bình ổn trong một xã hội trật tự. Nói chung, về mặt tinh thần, sức khoẻ, nghề nghiệp, gia đình, xã hội, …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị phục hồi cho đối tượng trở thành khó khăn.
Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.
Bác sĩ Chuyên khoa II, thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
Các chất bay hơi bao gồm: các dung môi hòa tan, hồ keo, các dung môi trong bình xịt, dung môi pha sơn, các chất đốt. Một ví dụ đặc biệt của các chất này bao gồm khí ga, véc-ni, ga bật lửa, keo dán máy bay, chất hòa tan cao su, các dung dịch tẩy rửa, sơn phun, keo dán giầy, các dung dịch tẩy xóa. Các họat chất chính trong các chất bay hơi này bao gồm toluene, acetone, benzene, trichloroethane, perchlorethylene, trichlorrthylene, 1,2-dichloropropane và halogenated hydrocarbons. DSM IV loại trừ các khí gây mê (nitrous oxide và ether) và các chất gây giãn mạch tác động ngắn (amynitrite) ra khỏi các rối loạn liên quan tới các chất bay hơi.
A. DỊCH TỄ HỌC
Ở Mỹ, các chất khí hít này tồn tại hợp pháp, rẻ tiền và dễ kiếm. Ba đặc điểm này góp phần vào việc chúng được sử dụng nhiều ở những người nghèo và trẻ tuổi. Năm 1991 (NIDA), khoảng 5% dân số Mỹ đã hít các chất này ít nhất một lần và khoảng 1% đang hít chúng. Ở lứa tuổi từ 18-25, có 11% đã hít chúng ít nhất một lần và 2% đang hít. Ở lứa tuổi 12-17, có 7% đã hít chúng ít nhất một lần và 2% đang hít.
Ở lứa tuổi 12 và lớn hơn, có khoảng 5% nói rằng đã luôn sử dụng hít các chất này và gần 1% nói đã hít chúng trong tháng vừa qua. Năm 1991 số liệu cho thấy 10,9% lứa tuổi từ 18-25, 9,2% lứa tuổi từ 26-34, 7% lứa tuổi trên 35, nói rằng họ đã luôn hít các chất khí này và 2% trong các nhóm này hít nó trong tháng vừa qua.
Trong tổng số tử vong do lạm dụng các chất, tử vong do hít các chất bay hơi chiếm 1% và trong tổng số lạm dụng các chất được cấp cứu tại khoa cấp cứu thì hít chất bay hơi chiếm gần 0,5%.
Ở Pháp, theo số liệu của ESCAPPAD 2003, OFDT, việc hít các chất bay hơi phổ biến thứ 2 sau cannabis mà lứa tuổi 17-18 đã sử dụng nhưng việc sử dụng thường xuyên thì ít. Ở lứa tuổi 17-18, có 4,7% (4,1% nữ, 5,2% nam) hít các chất bay hơi trong cuộc đời và 0,7% (0,5% nữ, 0,9% nam) đã hít chất bay hơi trong tháng vừa qua.
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ
Các chất bay hơi thường được hít qua tẩu, ống hút, túi ni lông….hít qua đường mũi hoặc hơi của chúng qua đường miệng. Tác động chung của các chất bay hơi gây ức chế trên hệ thần kinh trung ương.
Các chất bay hơi hấp thụ nhanh ở phổi và nhanh chóng tác động lên não. Tác động xuất hiện trong vòng 5 phút và có thể kéo dài từ 30 phút tới vài giờ, phụ thuộc vào từng chất và liều lượng. Nồng độ của các chất này trong máu tăng lên khi sử dụng đồng thời rượu, có thể do cạnh tranh với các men gan. Mặc dù chỉ khoảng 1/5 có biểu hiện này.
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Với một liều nhỏ ban đầu, chất bay hơi có thể kích thích gây khoái cảm và cảm giác bồng bềnh thoải mái; các chất này được sử dụng vì các tác dụng nêu trên. Các biểu hiện tâm thần khác ở liều cao có thể bao gồm sợ hại, ảo tưởng, ảo thanh, ảo thị và biến hình bản thân. Các triệu chứng thần kinh có thể bao gồm nói líu lưỡi , nói chậm chạp và đi loạng choạng. Việc sử dụng quá dài có thể gây thêm các biểu hiện khác như dễ bị kích thích, cảm xúc không ổn định và suy giảm trí nhớ.
Hội chứng cai có thể xảy ra khi ngừng sử dụng các chất này, tuy không thường xuyên; nó có biểu hiện bằng rối loạn giấc ngủ, dễ bị kích thích, hốt hoảng, vã mồ hôi, buồn nôn, nôn, nhịp tim nhanh và đôi khi có hoang tưởng, ảo giác.
D. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Các chất bay hơi thường gây ra nhiều tác dụng có hại nghiêm trọng. Tác dụng có hại nguy hiểm nhất là tử vong có thể suy hô hấp, mất nhịp tim, ngạt thở, hít phải chất nôn hoặc bị tai nạn, hay bị thương (ví dụ lái xe trong tình trạng nhiễm độc). Các tác dụng có hại nghiêm trọng khác thường do sử dụng lâu dài các chất này bao gồm viên gan không phục hồi hoặc tổn thương thận và tổn thương cơ thường xuyên kết hợp với tiêu cơ vân.
Sự kết hợp của các chất bay hơi này và nồng độ cao của đồng, kẽm và các kim loại nặng có thể gây ra teo não, động kinh thùy thái dương, giảm lưu lượng máu não, chỉ số IQ giảm và các thay đổi điện não khác nhau. Các tác động có hại ở người nghiện bao gồm các triệu chứng mạch vành và phổi (đau thắt ngực và co thắt phế quản), các triệu chứng tiêu hóa (đau, buồn nôn, nôn và xuất huyết) và các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh khác (viêm dây thần kinh ngoại biên, đau dầu, dị cảm, các dấu hiệu tổn thương tiểu não).
E. CHUẨN ĐOÁN
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng các chất bay hơi.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán chung ở phần trước
2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc các chất bay hơi
a. Sử dụng cố tình mới đây hoặc trong một thời gian ngắn, tiếp xúc liều cao các chất bay hơi (loại trừ các khí gây mê, gây giãn mạch).
b. Có những thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt (hung hăng, hành hung, thờ ơ, suy giảm lý lẽ, các chức năng nghề nghiệp, xã hội) xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hoặc tiếp xúc với các chất bay hơi.
c. Có ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau, xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hay tiếp xúc với các chất bay hơi.
(1) Choáng váng
(2) Rung giật nhãn cầu
(3) Mất phối hợp động tác
(4) Nói líu lưỡi
(5) Dáng đi xiêu vẹo
(6) Ngủ lịm
(7) Phản xạ giảm
(8) Tâm thần vận động chậm chạp
(9) Run
(10) Yếu toàn bộ các cơ
(11) Nhìn mờ hoặc nhìn đôi
(12) Sững sờ hoặc nhân đôi
(13) Khoái cảm
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các bệnh tâm thần khác gây ra.
3. Sảng run do các chất bay hơi
Xem phần sảng run chung cho các chất.
Điều trị dùng thuốc đối kháng với receptor dopamine (haloperidol), tránh dùng benzodiazepine đề phòng suy hô hấp do tương tác thuốc.
4. Rối loạn thần do các chất bay hơi
Nêu chung trong phần chẩn đoán các rối loạn loạn thần Thầy thuốc có thể xác định rõ có hay không các triệu chứng hoang tưởng, ảo giác chiếm ưu thế. Paranoid là hội chứng loạn thần chủ yếu trong khi bị nhiễm độc các chất bay hơi
5. Sa sút trí tuệ dai dẳng do các chất bay hơi
Có thể là do tác động nhiễm độc thần kinh của các chất bay hơi, và của kim loại được dùng phổ biến trong hợp chất các chất bay hơi (chì) hoặc tác động của thiếu ô xy kéo dài hay thường xuyên. Sa sút trí tuệ do các chất hay hơi
6. Rối loạn cảm xúc và lo âu do các chất bay hơi
Trầm cảm là rối loạn cảm xúc phổ biến nhất trong sử dụng các chất bay hơi và rối loạn hoảng sợ và lo âu toàn thể là rối loạn lo âu phổ biến nhất.
BÓNG CƯỜI LÀ GÌ?
Bóng cười là khí gây cười, tên hóa học là Đinitơ monoxit hay nitrous oxide, là hợp chất hóa học với công thức N2O. Khi bơm vào bóng bay, gọi là bóng cười (funkyball). Mới chỉ du nhập vào Việt Nam không lâu, nhưng bóng cười đã nhanh chóng trở thành trào lưu được giới trẻ yêu thích thậm chí coi nó như một thú vui mỗi khi đi hộp đêm, hít một hơi bạn sẽ cười không ngừng nghỉ.
Tại các hộp đêm ở Hà Nội, không khó để tìm được bóng cười vì chúng được bán bí mật một cách “công khai” tại đây để phục vụ các dân chơi.
Bóng cười hay còn được gọi với tên Funkyball là một trong những trào lưu đang được giới trẻ ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam thịnh hành nhất hiện nay, họ coi đây là một thú vui dùng để xả stress. Bóng cười không phải là một loại thuốc hay trò chơi nó thực chất chỉ là những quả bóng bay bình thường nhưng được bơm thêm khí nitrous oxide và công việc của người dùng chỉ là “thổi” và “hít” – “hít” và “thổi”.
Những quả bóng cười này được người bán bơm khí ga bằng một dụng cụ bơm chuyên dụng. Sau đó người mua sẽ cầm bóng để hít hà, khí hết cũng là lúc quả bóng lép xẹp. Khí nitrous oxide lan tỏa, ngấm vào cơ thể sẽ tạo cảm giác phấn khích, tạo ảo giác gây cười cho người sử dụng.
Gọi là bóng cười vì quả bóng này không có tác dụng nào khác ngoài khả năng gây cười, cười nhiều và cười lâu. Chỉ cần hít hà bạn sẽ nhanh chóng cười, cười và cười không kiểm soát.
Bóng cười có hại như thế nào?
Trông tưởng như bình thường, nhưng chơi và hít hơi bóng cười lại ẩn chứa nhiều mối nguy hại. Được biết ở một số nước châu Âu, chất này là chất kích thích được bán hợp pháp tại các hộp đêm.
Khi hít bóng cười người chơi sẽ thấy sảng khoái cứ thế tuôn cười không thể kiểm soát được, sau đó hoàn toàn chìm đắm trong ảo giác, những đê mê về mọi thứ xung quanh.
Các bác sĩ trên thế giới cũng từng cảnh báo rằng, việc hít bóng cười hay khí cười ảnh hưởng trực tiếp tới tim mạch, hệ thần kinh mà hậu quả xấu nhất nếu làm dụng là dẫn tới trầm cảm hoặc thiệt mạng. Hít khí này vào cảm giác tê tê, đặc biệt là nghe nhạc rõ, sau đó phấn khích, cười ngả nghiêng.
nhập viện với triệu chứng co giật, run rẩy. Cuối năm 2012, một sinh viên Trường Đại học Illinois là Benjamin Collen, 19 tuổi, đã tử vong vì bị ngạt khí N2O.
Mới đây nhất, một hot girl Hà Nội cũng đã nhập viện vì hút bóng cười bị ngộ độc khí N2O dẫn đến ức chế thần kinh, gây đột quỵ dạng nhẹ.
Điều nguy hại là nếu lạm dụng chất gây ảo giác lâu ngày sẽ rất dễ đi đến sử dụng thuốc gây nghiện thật sự, thậm chí là sử dụng ma túy. Bởi vì, khi đã quen cảm giá “phê” với ảo giác, các bạn trẻ rất dễ tìm đến thứ tạo cảm giác”phê” mạnh hơn. Các em đã quen dùng khí cười để “phê” thì sẽ có lúc chơi thử bồ đà, thuốc lắc, “hàng đá”… Đến lúc nào đó sẽ chơi thử heroin, từ hút đến tiêm chích và rồi chắc chắn việc nghiện tiêm chích ma túy cộng với nhiễm HIV/AIDS sẽ đến cái chết.
Ở vào cái tuổi 75 xưa nay hiếm, nhưng với tấm lòng nhiệt huyết, say mê và đầy trách nhiệm của người Cựu chiến binh già đó chính là Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy vẫn luôn nóng bỏng. Từng là một Bác sĩ – một Cụm phó Điệp báo A10 hoạt động bí mật trong lòng địch, sau giải phóng lại trải nghiệm trên rất nhiều vị trí công tác khác nhau nên đã giúp cho ông có một tầm nhìn – một hiểu biết tổng hợp khá đặc biệt mà không dễ ai cũng có được.
Chiến sĩ tình báo trên chiến trường
Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy quê ở Nghệ An nhưng sinh ra và lớn lên tại miền Nam - ông là một học sinh giỏi của Trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Do ảnh hưởng từ gia đình Nho giáo và tham gia Gia đình Phật tử lúc còn tiểu học nên ông luôn giữ nếp sống nghiêm túc chuẩn mực.
Lớn lên tại Quảng Nam, vùng đất của chiến tranh ác liệt nên dù xuất thân trong một gia đình viên chức có vị trí của chế độ cũ ông cũng sớm giác ngộ cách mạng. Ngay từ những năm 60 ông đã liên tục tham gia các phong trào đấu tranh tại đô thị chống Mỹ - Diệm và các chính quyền tay sai Khánh - Thiệu - Kỳ - Hương…
Năm 1966, ông trúng tuyển vào đại học Y Khoa Sài Gòn và cũng từ ngôi trường này ông mới thực sự tiếp cận với cách mạng. Ông từng giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong các tổ chức biến tướng của cách mạng như: Chủ tịch các Ủy ban tranh đấu, Chủ tịch Ban Đại diện Sinh viên Y khoa, Đoàn trưởng Đoàn công tác y tế, Đoàn văn nghệ sinh viên Y – Nha – Dược, phụ trách báo chí của sinh viên Y...
Năm 1971, ông tham gia hoạt động vũ trang Ban An ninh Sài Gòn – Gia Định. Năm 1972 ông chuyển qua làm Cụm phó cụm điệp báo A 10 với bí danh Năm Quang.
Quá trình hoạt động, ông đã tổ chức xây dựng được nhiều cơ sở nồng cốt và quan trọng và đã đạt được nhiều thành tích đặc biệt cho cụm Điệp báo A10, cụ thể như:
- Anh Huỳnh Bá Thành (Ba Trung) lúc bấy giờ là Giám đốc Kỹ thuật kiêm Thư ký tòa soạn báo Điện Tín, cơ quan ngôn luận chính thức của nhóm Dương Văn Minh. Thông qua anh Thành, Cụm đã xây dựng được một mạng lưới ngoại vi làm nồng cốt tác động trực tiếp vào Dương Văn Minh.
- Anh Huỳnh Huề sinh viên Đại học tổng hợp nay là Thiếu tướng An ninh Bộ Công An – Anh hùng lực lượng vũ trang – hưu trí.
Quá trình hoạt động Anh Huỳnh Huề đã xây dựng được nhiều cán bộ nồng cốt đánh vào Văn phòng Thủ tướng đặc trách kinh tế, cơ quan Tình báo chiến lược của Mỹ tại Tân Sơn Nhất, Bưu điện, Bộ Tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn.
Khánh Duy đã chỉ đạo Anh Huỳnh Bá Thành: sử dụng báo Điện Tín của Dương Văn Minh thực hiện ý đồ của ta theo từng giai đoạn:
- Hướng dẫn, vận động dư luận quần chúng theo ý đồ có lợi cho cách mạng.
- Phân hóa hàng ngũ địch, tổ chức lôi kéo các lực lượng tiến bộ - hòa bình – dân tộc, tập hợp thành lực lượng chống đối Nguyễn Văn Thiệu.
- Lôi kéo các báo khác viết theo khuynh hướng của cách mạng.
- Tác động các phóng viên viết bài đáu tranh dân sinh, dân chủ, chống tham nhũng, ta thán chiến tranh, kêu gợi hòa bình, thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, thành lập chính phủ ba thành phần, thực hiện hòa hợp, hòa giải trên cơ sở pháp lý và Hiệp định Paris mà Mỹ - Thiệu đã ký. Từ những tác động đó, phe nhóm hiếu chiến của Thiệu ngày càng bị cô lập.
Nhằm góp phần vô hiệu hóa kế hoạch nhân sự của địch, theo từng thời điểm mà báo nhắm vào từng đối tượng hay từng vụ việc, nhất là lúc Thiệu sắp bố trí nhân sự hay bầu bán vào quốc hội, ngoài ra, Khánh Duy còn vận động và xây được nhiều quàn chúng tốt, nhất là trong giới dân biểu, nghị sĩ Quốc hội – Ký giả báo chí có cảm tình với cách mạng nhằm phục vụ chủ trương của ta.
Tháng 3/1975 sau khi tờ Điện Tín bị Thiệu đóng cửa, Lãnh đạo Ban An Ninh T4 chỉ đạo ông yêu cầu Huỳnh Bá Thành tìm cách ở hẳn trong dinh Hoa Lan của tướng Dương Văn Minh để dễ tiếp cận, nắm bắt tình hình và đồng thời bằng mọi cách tấn công chính trị, tác động để Dương Văn Minh thay Nguyễn Văn Thiệu rồi tìm cách giao chính quyền cho cách mạng để đỡ đổ máu.
Cùng các lực lượng khác, Cụm A10 trong đó có Huỳnh Bá Thành và các cơ sở đã tham gia tác động các nghị sỹ đối lập để Quốc hội chế độ Sài Gòn bầu Dương Văn Minh lên làm Tổng thống ngày 28/04/1975. Trong những ngày kế cận chiến thắng, Anh Thành đã góp phần tác động trực tiếp đến Dương Văn Minh để ra tuyên bố án binh bất động trước khi tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào trưa ngày 30/04/1975 lịch sử. Trước đó, ngày 29/4/1975 anh Thành cũng đã chỉ đạo cơ sở Điệp báo A10 là anh Phan Xuân Huy (con rể Dương Văn Minh) ngăn chặn không cho địch phá cầu Sài Gòn, bằng sử dụng mối quan hệ cá nhân và quyền lực của Dương văn Minh.
Nhiệm vụ xây dựng lõm căn cứ chính trị:
Năm 1971, thực hiện chỉ đạo của Ban An ninh T4, Khánh Duy đã thành lập đoàn Công tác y tế sinh viên Y – Nha – Dược để tạo địa bàn hoạt động cho quần chúng cả 03 trường Y – Nha – Dược; đồng thời thực hiện mục tiêu xây dựng hõm căn cứ chính trị trong lòng địch.
Hàng tuần, đoàn tổ chức khám bệnh, phát thuốc, nhổ răng và làm công tác xã hội giúp người nghèo ở các xóm lao động (chủ yếu ở Quận 4, Quận 6, Quận 11). Những hoạt động mật của Đoàn bị cảnh sát mật của Sài Gòn theo dõi rất kỹ nhưng chúng không phát hiện được gì; chỉ thấy Đoàn khám bệnh, nhổ răng, phát thuốc, làm đường, dựng nhà cho dân; nhưng chúng có biết đâu dưới sự chỉ đạo của Khánh Duy các cơ sở đã đến từng hộ gia đình tiếp cận từng người dân để làm công tác tư tưởng, vận động đấu tranh, đòi dân sinh, dân chủ, chống bắt lính, gợi khổ, kể khổ, tố khổ chống chế độ thối nát, đòi hòa bình, đồng thời tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, xây dựng mạng lưới cơ sở, nâng cao nhận thức của quần chúng và phát hiện các phần tử ác ôn, chống phá cách mạng. Ngày 30/04/1975 Đoàn gồm các cơ sở A10, Thành đoàn, Liên quận đã nổi dậy giành chính quyền tại Quận 4. Một số cơ sở khác của Cụm A10 là anh Ba Vũ đã nổi dậy tại khu vực Bảy Hiền.
Thực hiện công tác tình báo, tấn công chính trị, phân hóa hàng ngũ địch: Năm 25 tuổi, tốt nghiệp bác sĩ, Nguyễn Hữu Khánh Duy bị địch bắt động viên vào quân đội Sài Gòn, đồng chí Trần Ngọc Ban - bí danh Mười Hương - Nguyên phó Bí thư Thành ủy - Trưởng ban An ninh Sài Gòn Gia Định chỉ đạo “Năm Quang cần phải đi lính để giữ thế hợp pháp. Đây là điều kiện tồn tại hoạt động ở thành thị, phục vụ cho yêu cầu trinh sát đánh địch của Ban An ninh T4”.
Do gia đình Khánh Duy có nhiều người là Cán bộ cao cấp chính quyền Sài Gòn: cha là Giám đốc Sở tài chánh - kế toán của Tổng cục Bưu chính, anh rể làm Tổng Thư ký Bộ nội vụ, em gái làm Chủ sự Phòng sưu tầm chính trị Phủ Tổng ủy Dân Vận chiêu hồi, em rễ là Công cán ủy viên Phủ Tổng ủy Kế hoạch, các anh chị em của ông là sinh viên Đại học, do đó - ông được sự tin tưởng của chính quyền Sài Gòn, trong khi đó chúng có biết đâu hầu hết cả gia đình Khánh Duy đều hoạt động tình báo cho Cách mạng.
Trong vai trò Bác sĩ trưởng Quân y tiểu đoàn 6 – sư đoàn Thủy quân lục chiến, Khánh Duy một mặt tiếp tục điều hành Cụm điệp báo A10 đồng thời tìm mọi cách phân hóa hàng ngũ địch. Để làm giảm ý chí và tiêu hao sinh lực địch, ông cho những người lính bị bệnh được điều trị lâu hơn (như cảm sốt thông thường chỉ nghỉ 3 ngày ông cho nghỉ 9 - 10 ngày) cứ một lính bị thương ông lại đề nghị Tiểu đoàn trưởng điều 10-20 người lính cho máu để cứu thương binh. Những người lính cho máu vừa được hưởng bồi dưỡng, vừa được miễn ra chốt tiền tiêu trực chiến nên ai cũng vui vẻ.
Lâu dần, việc canh gác thiếu người và trở nên lỏng lẻo. Bên cạnh đó, bằng những kỹ thuật chuyên môn, Khánh Duy còn giúp nhiều người lính để họ được giải ngũ, trở về với gia đình mà không khỏi hàm ơn người bác sĩ… Những lúc ngồi uống rượu, trong giọng điệu “khề khà”, anh làm công tác binh vận, tuyên truyền phản chiến, làm rệu rã và bất mãn ở sĩ quan, binh lính Sài Gòn.
Qua tác động tâm lý, nhiều lính thủy quân lục chiến quá sợ hãi xin ông cắt bỏ chữ “Thủy quân lục chiến sát cộng” xăm trên tay - Ông không làm vì biết nếu làm sẽ bị An ninh quân đội theo dõi rất nguy hiểm, nên nói với các y tá dưới quyền “Tụi nó ngu quá, lấy thuốc tím đậm đặc bôi lên là bị hủy ngay”. Việc làm này đã đánh gục tư tưởng hiếu chiến của một bộ phận quân địch.
Do thấy ông làm việc tích cực - sống sâu sát ngày đêm với thương bệnh binh - cả thời gian dài, đơn vị không có lính nào chết nên điều khôi hài đã xảy ra: Thiếu tướng Bùi Thế Lân - Tư lệnh Sư đoàn thủy quân lục chiến đáp trực thăng xuống, gắn lên ngực Khánh Duy huân chương “Anh dũng bội binh” trong một nghi lễ trang trọng bên dòng sông Thạch Hãn (chiến trường Quảng Trị - Thừa Thiên). Ngay sau đó, tờ báo Sóng Thần của Sư đoàn thủy quân lục chiến có bài viết ca ngợi Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy là “Anh hùng quân y thủy quân lục chiến”!
Làm điệp báo đơn tuyến, hoạt động bí mật nên Khánh Duy thường lặng lẽ trải qua không ít tủi nhục, chịu đựng nhiều tiếng chê trách, khinh bỉ của người thân, của bạn bè và ngay cả những người đã một thời cùng anh hoạt động trong phong trào sinh viên - học sinh…
Ngày Đà Nẵng được giải phóng, ông mất liên lạc với An ninh T4. Không hề nao núng, Bs Nguyễn Hữu Khánh Duy vẫn tiếp tục giữ kín nhiệm vụ của mình, ông ra trình diện Ủy ban Quân quản Đà Nẵng như một “đại úy, bác sĩ quân y ngụy” và được phân công làm việc tại bệnh viện Đà Nẵng.
Tháng 05/1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ông mới bắt được liên lạc được với An ninh T4 và được gọi trở về Sài Gòn, tiếp tục công tác. Tuy nhiên, một điều không ai ngờ đến, Bác sĩ Khánh Duy nhận được giấy mời… đi học tập cải tạo.
Không một lời giải thích, không một dòng thanh minh, bác sĩ Khánh Duy lặng lẽ thu xếp hành trang chuẩn bị vào trại cải tạo, chấp hành tuyệt đối mệnh lệnh của tổ chức. Đồng đội lại không hiểu hết ý nghĩa, nhiệm vụ của chuyến công tác đặc biệt này, nên người xót xa, người nghi ngờ - đau buồn hơn, ông còn bị một cú sốc rất nặng nề về tình cảm, do bị hiểu lầm nhân thân chính trị của ông và gia đình… Hơn 6 tháng sau, trước tình hình và yêu cầu mới, Khánh Duy “ra trại” để chuyển về công tác tại khối Bảo Vệ Chính Trị thuộc Ban An ninh nội chính Sài Gòn – Gia Định.
Từ năm 1976, ông là Bác sĩ Trưởng trại giam Chí Hòa điều trị cho hàng chục ngàn can phạm trong đó không ít người nghiện ma túy kèm theo đủ loại bệnh tật. Do lúc bấy giờ tài liệu điều trị cho ma túy gần như không có, Bác sĩ Khánh Duy phải tự học tập và rút kinh nghiệm. Tiếp cận người nghiện và tìm hiểu về ma túy, qua đó ông có điều kiện nắm bắt được hoàn cảnh, tâm lý của người nghiện mà trước đó Bác sĩ Khánh Duy rất ít tiếp xúc, ông nhận thấy nhiều người nghiện có hoàn cảnh rất đáng thương và họ không phải hoàn toàn hư hỏng như ông nghĩ.
Lúc này, tình hình kinh tế khó khăn nên ngoài thời gian ở cơ quan ông cùng vợ con còn phải nuôi heo, nuôi gà, làm bánh bông lan hằng đêm đi bán tại chợ hay bỏ mối tại các trường học. Lao động quá mức, môi trường độc hại ông đã bị lao phổi nhưng vì nhiệm vụ ông vẫn không xin chuyển đến một môi trường làm việc nhẹ nhàng và thoải mái hơn.
Vào những năm 80, Khánh Duy được điều động về công tác tại Phòng An ninh Chính trị Nội bộ phụ trách lĩnh vực Y tế, Xã hội, Khoa học - Kỹ thuật, Giáo dục và Bảo vệ cơ quan Dân - Chính - Đảng. Vào thời điểm bấy giờ, do điều kiện kinh tế quá khó khăn, chính sách đối với trí thức chế độ cũ lại còn nhiều nghi ngại nên một số bác sĩ tốt nghiệp Đại học Y Khoa Sài Gòn đã vượt biên. Hiện tượng “chảy máu chất xám” đang rất phổ biến. Trong khi đó, nhiều tổ chức quốc tế và nhiều trường Đại học nước ngoài lại cấp học bổng cho bác sĩ ta đi tu nghiệp với điều kiện phải thông thạo ngoại ngữ Anh và Pháp trong lúc đó các Bác sĩ miền Bắc vào đa số chỉ biết tiếng Đức, Liên Xô hay Trung Quốc.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy chịu trách nhiệm và mạnh dạn đề xuất với Ban Giám đốc Công an TP. Hồ Chí Minh và các cấp lãnh đạo để các bác sĩ đã tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn có đủ điều kiện bạn đề ra được đi học, mặc dầu theo quan điểm lúc bấy giờ lý lịch của bác sĩ trên khá phức tạp.
Là một Bác sĩ hoạt động nội thành nên ông hiểu và tin họ, Khánh Duy nói rất chân tình: “Mấy anh, chị đi học thật tốt rồi về phục vụ đất nước. Anh, chị về thì bạn bè của mình mới được đi và phía nước ngoài họ cũng tin tưởng và tiếp tục mời!”. Các chuyến ấy, các bác sĩ tên tuổi như Văn Tần, Trần Đông A, Trần Thành Trai, Võ Văn Thành, Nguyễn Chấn Hùng Phó Đức Mẫn, Nguyễn Văn Chiếu, Phạm Ngọc Thanh, Vũ Tam Tĩnh,…và cả ê-kíp mổ của Viện Tim không ai ở lại và hiện nay họ đã có nhiều đóng góp to lớn cho ngành y khoa của đất nước, hầu hết đã trở thành cán bộ giảng Đại học Y khoa và tiếp tục truyền kiến thức cho thế hệ sau.
Còn Khánh Duy, như Thượng tá Đinh Ngọc Sơn - cán bộ Phòng Phong trào Quần chúng Bảo vệ An ninh Tổ quốc Công an TP - người có một thời gian dài công tác chung với ông cho biết:“Lúc mới giải phóng với tấm bằng Bác sĩ và vị trí chính trị như Khánh Duy là quý như vàng và có đủ tư cách tham gia các chuyến đi tu nghiệp nước ngoài.
Tuy nhiên, do tình hình lúc đó lực lượng An ninh TP cần Khánh Duy ở lại…”. Khi kể về những vấn đề này Khánh Duy tâm sự: “Thầy giỏi thì học trò mới giỏi, những lớp Bác sĩ sau này tốt nghiệp có trình độ anh rất vui vì có phần đóng góp nhỏ của mình, thà mình chịu thiệt thòi nhỏ nhưng thành quả đó là một niềm vui lớn đối với ông." Năm 1990, từ Bộ chỉ huy phản gián Công an TP. Hồ Chí Minh, Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy chuyển ngành về Sở Y tế. Ít ai biết là một Bác sĩ nhưng ông lại là người đầu tiên kiện toàn công nghệ làm ra các loại test thử nước tiểu, các loại ống sonde đạt tiêu chuẩn y tế như: ống cho ăn, ống thông tiểu, ống thông hậu môn, ống hút đàm nhớt, ống dẫn lưu…mà những năm 1990 rất thiếu và cần thiết cho các bệnh nhân cấp cứu tại các bệnh viện.
Ông cũng là người đầu tiên viết luận chứng chuyển đổi Viện Điều Dưỡng chỉ lo nâng cao sức khỏe cho bệnh nhân thành Bệnh viện Điều Dưỡng - Phục hồi chức năng - Điều trị bệnh nghề nghiệp với chức năng đầy đủ nhằm săn sóc sức khỏe cho bệnh nhân trước, trong và sau điều trị tại bệnh viện và đồng thời còn quan tâm đến tầng lớp công nhân mắc bệnh nghề nghiệp là những bệnh mãn tính, khó chữa mà lúc bấy giờ rất ít bệnh viện nào thực hiện. Thứ trưởng Bộ Y tế - GS.TS Lê Ngọc Trọng đã đánh giá “đây mới là Điều dưỡng, phục hồi đích thực”. Mô hình Điều dưỡng – Phục hồi của ông hiện nay toàn quốc đang thực hiện.
Năm 1998, ông là người viết luận chứng thành lập khu Du lịch Sinh thái và Điều dưỡng cho khu tắm bùn và suối nước khoáng nước nóng Bình Châu (H. Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu), đây cũng là một luận chứng rất công phu đầu tiên của cả nước biết kết hợp giữa Y học phục hồi, tận dụng thiên nhiên để điều trị bệnh với Du lịch sinh thái.
Năm 1995, ông là Hội thẩm Tòa án nhân dân TP.HCM và đã xét xử nhiều vụ án liên quan đến ma túy. Ông không khỏi xót xa khi nghĩ đến những thanh niên bị đánh mất tuổi trẻ vì chất độc chết người đồng thời trong lúc đa số người nghiện càng ngày càng tăng.
Năm 2000, về hưu với tỉ lệ mất sức 61%, nhưng với tấm lòng người lính ông vẫn không chịu ngồi yên một chỗ nghĩ ngơi, ông đã tập hợp bạn bè, đồng chí, đồng đội thành lập Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện ma túy Thanh Đa. Trung tâm là thành quả một tập thể Cựu chiến binh, những người đã trở về sau những chuỗi ngày dài tranh đấu và đang tận dụng quỹ thời gian ít ỏi để níu lại những mãnh đời trót sa ngã vào cái chết trắng.
Để có thể dắt những đứa con lầm lỡ trở về đúng con đường mà họ phải đi, người “cha đẻ” của Trung tâm Cai nghiện ma túy Thanh Đa phải lo lắng không nguôi, đau đáu với những suy nghĩa về cách cai nghiện nào hiệu quả nhất, vì vậy mà hầu hết quỹ thời gian của ông đều gắn chặt với công tác cai nghiện ma túy. Ông đã biên soạn hàng ngàn trang tài liệu đóng góp cho hệ thống lý luận về cai nghiện cho Trung ương cũng như địa phương.
Sự kết hợp linh động các phương pháp cai nghiện với việc đề cao giáo dục phục hồi nhận thức - hành vi -nhân cách là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thành công của Trung tâm. Hiện nay Trung tâm được xem là một trong những Trung tâm cai nghiện tốt nhất cả nước. Với uy tín, Trung tâm còn thu hút nhiều kiều bào trên thế giới, thậm chí có cả người nước ngoài về cai nghiện.
Dành hết tâm huyết cho công việc Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy đã tạo dựng cho Trung tâm một vị thế vững mạnh, một mái ấm thân thương với tất cả những ai lỡ sa ngã, lầm đường lạc lối. Ông thường về nhà sau khi học viên đã vào phòng ngủ hết, rồi lại trở lại Trung tâm khi học viên chưa thức giấc. Ông tâm sự: “Làm công tác cai nghiện mà thiếu đi tấm lòng thì coi như thất bại”. Ông luôn gần gũi với học viên, cùng họ chia sẻ những nỗi niềm, những trăn trở, những khó khăn bản thân họ phải vượt qua… Với “bố già”, hạnh phúc lớn nhất là gặp lại những người con đã cai nghiện có kết quả và hòa nhập được vào cuộc sống. Hạnh phúc tưởng chừng giản dị ấy nhưng là sự phấn đấu hết mình của một nhân cách lớn.
Với uy tín của Trung tâm nhiều tổ chức trong và ngoài nước mời ông tham dự nhiều Hội nghị, nhiều trường Đại học đã gửi sinh viên dến Trung tâm ông thực tập.
Hơn 13 năm liền ông đều được phân loại “Đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” “Đảng viên Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” Hội Cựu chiến binh Việt Nam Tp.HCM tặng ông Danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”. Với những đóng góp cho xã hội ông đã được Chủ tịch Nước tặng Huân chương lao động Hạng Ba – Ban Tuyên giáo Trung ương – Văn phòng Chính phủ - Ban thi đua khen thưởng Trung ương tặng danh hiệu: “Doanh nhân Việt Nam làm theo lời Bác” và nhiều huy hiệu, cúp vàng, bằng khen, giấy khen của các Bộ, Ban Ngành từ Trung ương đến Địa phương trao tặng. Ngồi miên man theo dòng tâm sự của “bố già” cứ dứt lời ông cười, một nụ cười khiêm tốn và chân chất như cái tâm của người chiến sĩ. Chúng tôi đã hiểu được với nụ cười này và tại sao mọi người chung quanh lại quý mến ông đến thế. Từ những việc ông đã và đang làm dường như xác định cho mình một chân lý: Câu chuyện của một người lính, một trí thức hôm qua và một doanh nhân hôm nay, dẫu ở nơi nào và vị trí nào, chỉ cần giữ được cái tâm của một người cách mạng, không ngại khó, ngại khổ… trước hết là vì nhân dân, thì trong mặt trận nào, vai trò của anh bộ đội Cụ Hồ cũng sẽ là yếu tố quyết định để đi đến thành công.
Theo lẽ thường, trẻ nhiệt huyết, già thảnh thơi. Nhưng đối với Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy thì không thể. Mặc dầu ở tuổi 75 nhiệt huyết vẫn lưu thông không ngừng trong huyết mạch, mong muốn được cống hiến hết mình cho xã hội chưa bao giờ tắt trong ý nghĩ của ông.
Thay cho lời kết, tôi xin lấy lời nhận xét đối với ông của Đồng chí Trần Quốc Hương - nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành ủy Sài gòn – Gia Định, Trưởng Ban An ninh T4 là người lãnh đạo trực tiếp cụm điệp báo A10 : “Trên cương vị được giao trong chiến đấu cũng như trong hòa bình Đ/c Khánh Duy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần không nhỏ vào thắng lợi 30/4/1975. Khi đến tuổi nghỉ theo chế độ, Đồng chí vẫn giữ khí tiết người Đảng viên việc gì tốt cho Đảng, cho Dân, khó khăn mấy cũng làm và làm rất tốt."
Nay Đồng chí vẫn tiếp tục tham gia đóng góp cho xã hội, đứng ra thành lập Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa. Đây là một mô hình rất đặc biệt hoạt động hiệu quả và được các cấp, các bộ ngành đánh giá cao./.