
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỂ VIỆC CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI CÓ HIỆU QUẢ
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỂ VIỆC CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI CÓ HIỆU QUẢ
I/ KHÔNG CÓ SỰ ĐIỀU TRỊ ĐƠN NHẤT NÀO THÍCH HỢP CHO TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN.Việc áp dụng những biện pháp điều trị phối hợp là hết sức quan trọng nhằm trả lại cộng đồng những thành viên có ích cho xã hội. Điều này thì gắn liền với nhu cầu phát triển các hình thức chăm sóc tích cực và không gián đoạn của một chương trình điều trị nhằm thoả mãn nhu cầu nhiều mặt của đối tượng tham gia điều trị.
II/ CÁC DỊCH VỤ ĐIỀU TRỊ PHẢI LUÔN SẴN SÀNG:
Người nghiện luôn sẵn sàng nhận sự giúp đỡ khi đã suy sụp nhưng đến khi nào anh ta đến giai đoạn suy sụp thì ta không đoán trước được, vì vậy “ sự giúp đỡ” luôn luôn phải sẵn sàng vào những thời điểm mang tính quyết định – đó là khi anh ta tự nguyện đến điều trị cai nghiện. Những thủ tục phức tạp trong quá trình tiếp nhận đối tượng đến tham gia điều trị có thể khiến chúng ta bỏ sót những đối tượng đang cần sự giúp đỡ.
III/ ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN CHỈ CÓ HIỆU QUẢ:
Khi chúng ta đáp ứng được những nhu cầu phức tạp của đối tượng trong quá trình phục hồi. Để việc điều trị có hiệu quả phải xác định được các vấn đề liên quan đến khía cạnh, thái độ, hành vi, tâm tư tình cảm, khía cạnh đạo đức, yếu tố nghề nghiệp và quan hệ xã hội của đối tượng bên cạnh tiền sử lạm dụng ma tuý của đối tượng. Một chương trình điều trị phục hồi toàn diện phải bao gồm cả những dịch vụ hoặc sự can thiệp đáp ứng được nhu cầu phức tạp của người nghiện ma tuý bao gồm cả những hoạt động chuẩn bị cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng và cung cấp cho đối tượng những kỷ năng phòng chống tái nghiện..
IV/ MỘT KẾ HOẠCH CAI NGHIỆN CỦA CÁ NHÂN CẦN PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ THEO TỪNG THỜI KỲ VÀ ĐƯỢC SỬA ĐỔI KHI CẦN THIẾT:
Để đảm bảo rằng kế hoạch đó luôn phù hợp với những nhu cầu thay đổi của con người, một kế hoạch điều trị cai nghiện cũng như là một bản đồ hướng dẫn hành trình của đối tượng đi đến phục hồi, trong đó có quy định đến những điểm mốc cho từng giai đoạn và đích cuối cùng của quá trình điều trị. Kế hoạch này cho chúng ta mối liên hệ về một tiêu chuẩn để so sánh với những gì chúng ta đã đạt được hoặc những thất bại và những thiếu sót được sửa chữa hoặc xác định những lĩnh vực mới cần phải được cũng cố cho đối tượng của chúng ta.
V/ SỰ PHỤC HỒI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN PHẢI MẤT THỜI GIAN DÀI VÀ YÊU CẦU VIỆC THAM GIA ĐIỀU TRỊ MÔT CÁCH THƯỜNG XUYÊN:
Người nghiện ma tuý đôi khi được xem như là ở tình trạng tái phát kinh niên. Cũng tương tự như đối với những loại bệnh kinh niên khác, việc tái sử dụng ma tuý có thể xảy ra trong hoặc sau một quá trình cai nghiện thành công. Khi một đối tượng trở lại sử dụng ma tuý không có nghĩa rằng anh ta đã không học được gì từ chương trình điều trị mà thực ra là anh ta đã thất bại trong việc học đủ để giúp anh ta hoàn toàn tránh khỏi việc sử dụng ma tuý.
Những người nghiện có thể yêu cầu quá trình cai nghiện kéo dài và gồm nhiều giai đoạn điều trị khác nhau để đạt được mục tiêu dài hạn là từ bỏ ma tuý và phục hồi đầy đủ các chức năng. Chính những người cai nghiện thành công nếu họ tham gia hỗ trợ các chương trình cai nghiện và quản lý sau cai thường giúp cho những đối tượng khác duy trì việc từ bỏ ma tuý. Khoản thời gian thích hợp với từng cá nhân trong việc duy trì cai nghiện phụ thuộc vào nhũng khó khăn và nhu cầu của cá nhân đó. Nghiên cứu chỉ ra rằng đối với hầu hết đối tượng thời gian cần thiết để tạo ra những tiến bộ có ý nghĩa trong cai nghiện là khoảng 3 tháng.
Sau khi đạt đến ngưỡng này những biện pháp điều trị bổ sung có thể được áp dụng để đạt được những bước tiến xa hơn nhằm tiến tới phục hồi. Những điều trên chỉ đúng khi đối tượng được cung cấp đầy đủ các dịch vụ cai nghiện. Điều quan trọng là phải cũng cố được quyết tâm của đối tượng không cho họ rời bỏ điều trị một cách quá sớm. Thời gian rối loạn tâm – sinh lý của đối tượng trung bình là 6 tháng.Thời gian cai nghiện lý tưởng trung bình là hai năm. Thời gian tạm gọi là thành công khi đối tượng duy trì không tiếp xúc với ma túy là 5 năm còn việc cai nghiện ma túy là suốt đời.
VI/ NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC LÀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU CÓ HIỆU QUẢ TRONG ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN:
Những đối tượng cai nghiện ma tuý phải có những cơ hội trong điều trị bằng cách thảo luận về những vấn đề liên quan đến động cơ điều trị, xây dựng kỹ năng xã hội và thói quen chống lại việc sử dụng ma tuý, học tập những hành vi mới, nhận thức được khó khăn và có biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Trị liệu hành vi và trao đổi, thảo luận giúp nâng cao mối quan hệ giữa người với đối tượng trong gia đình và trong cộng đồng. Trao đổi, thảo luận là phương pháp quan trọng trong điều trị, nó giúp cho đối tượng đi từ quá trình học tập đến thích nghi với môi trường điều trị cũng như thích nghi với việc phải đương đầu với những khó khăn tồn tại khi quay trở lại gia đình hoặc cộng đồng, phòng chống tái nghiện thông qua Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu – Quản lý trị liệu – Giải trí trị liệu, …
VII/ NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN HOẶC LẠM DỤNG MA TÚY THƯỜNG KÈM THEO NHỮNG TRẠNG THÁI RỐI LOẠN HOẶC BỆNH LÝ TÂM THẦN:
Đối tượng đến điều trị cai nghiện cũng có thể được phát hiện có biểu hiện rối loạn tâm thần kèm theo, khi đó khi điều trị nếu cần phải có sự tham gia của chuyên gia tâm thần để hội ý và đề ra phương án điều trị cho đối tượng.
VIII/ THUỐC CẮT CƠN CHỈ LÀ BƯỚC ĐẦU TIÊN CỦA ĐIỀU TRỊ CAI NGIỆN VÀ NÓ CÓ RẤT ÍT TÁC DỤNG TRONG VIỆC DUY TRÌ TRẠNG THÁI KHÔNG SỬ DỤNG MA TUÝ:
Những loại thuốc hỗ trợ cắt cơn giúp cho dối tượng vượt qua giai đoạn đầu của hội chứng cai một cách an toàn. Việc điều trị cắt cơn hầu như không đủ giúp người nghiện có thể cai được hoàn toàn mà cần thời gian dài, nhưng nó là tiền đề để người nghiện hướng tới các phương pháp điều trị cai nghiện tiếp theo giúp đối tượng có thể duy trì được trạng thái phục hồi.
IX/ ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN KHÔNG CẦN PHẢI TỰ NGUYỆN MỚI ĐẠT ĐƯỢC HIỆU QUẢ:
Động lực là nhân tố cốt yếu của quá trình cai nghiện. Cho dù một người đến cai nghiện là do tự nguyện hay là do gia đình hoặc các cơ quan chức năng đưa vào, đối tượng đó cũng phải được giáo dục để họ đến với động cơ đúng đắn là cai nghiện. Thông thường, ngay cả đối với những người tình nguyện cai nghiện, thì cũng có những nguyên nhân bên trong hay bên ngoài buộc họ phải ẩn náu trong các Trung Tâm cai nghiện.
Điều trị cai nghiện tự nguyện hay ép buộc không quan trọng bằng trên thực tế đối tượng có được cơ hội để tham gia điều trị trong một môi trường điều trị lành mạnh hay không.
X/ CÁC CHƯƠNG TRÌNH CAI NGHIỆN NÊN CUNG CẤP ĐÁNH GIÁ VỀ HIV/ AIDS, VIÊM GAN SIÊU VI B VÀ C, BỆNH LAO VÀ NHỮNG BỆNH TẬT DỄ LÂY LAN KHÁC:
Hướng dẫn thảo luận với từng cá nhân và theo nhóm có hiệu quả giúp các đối tượng học được cách làm như thế nào để tránh được những hành vi có nguy cơ cao. Việc hướng dẫn cũng có thể giúp cho những người đã bị nhiễm bệnh có thể tự chăm sóc được bản thân họ tốt hơn.
XI/ CAM KẾT CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN NÊN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI:
Hầu hết những đối tượng, đặc biệt là những người vị thành niên đều trở về gia đình sau khi họ rời khỏi Trung tâm cai nghiện. Gia đình có thể là chổ dựa vững chắc giúp cho con cái họ yên tâm cai nghiện
Khi các gia đình không được cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề cai nghiện ma tuý và mục tiêu của chương trình điều trị - phục hồi thì họ sẽ dễ bị thuyết phục bởi những lý do của đối tượng đưa ra nhằm mục đích sớm rời bỏ chương trình điều trị.
Chính vì vậy các gia đình nên được hướng dẫn về nội quy và nguyên tắc của cơ sở điều trị, được giáo dục về triết lý và phương pháp cơ bản của cai nghiện. Cán bộ điều trị có thể giúp đỡ tư vấn cho gia đình đối tượng để giải quyết một số khó khăn tồn tại không để nó ảnh hưởng đến việc điều trị của đối tượng
ĐIỀU TRỊ NGHIỆN RƯỢU – CHỐNG TÁI NGHIỆN
ĐIỀU TRỊ NGHIỆN RƯỢU – CHỐNG TÁI NGHIỆN
Để điều trị nghiện rượu thành công phải trải qua một quá trình không kém khó khăn và phức tạp, đòi hỏi ý chí và sự kiên trì của bệnh nhân và gia đình. Quy trình điều trị nghiện rượu bao gồm các bước sau:
-
- Điều trị hội chứng cai
-
- Chống tái nghiện
-
- Điều trị các bệnh do nghiện rượu
- Điều trị các bệnh tâm thần do nghiện rượu
A. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI RƯỢU (XẢY RA KHI NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ĐỘT NGỘT NGỪNG UỐNG RƯỢU)
I. HỘI CHỨNG CAI RƯỢU:
1. HỘI CHỨNG CAI THÔNG THƯỜNG:
Khi bệnh nhân đột ngột ngừng uống rượu sau một thời gian ngắn, có thể không quá một đêm hội chứng cai có thể xuất hiện:
– Người bệnh có khí sắc trầm, bồn chồn, bứt rứt, khó chịu, đứng ngồi không yên.
– Lo âu sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng thiếu hệ thống.
– Giấc ngủ nông, dễ giật mình, dễ thức giấc, hoặc ác mộng, hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.
– Run cơ, chuột rút.
– Chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy.
– Vã mồ hôi, nhịp tim nhanh.
– Lo âu lan tỏa, tăng cảm xúc, tăng tính kích thích, rối loạn trí nhớ.
Nếu không điều trị hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 1 tháng tùy mức độ nghiện rượu nặng hay nhẹ.
– Trong hội chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật động kinh cũng như các ảo giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm.
– Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên giảm đi hoặc biến mất khi uống lại rượu.
– Hội chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần làm người nghiện cứ sau vài giờ lại phải uống một liều rượu nhỏ để làm giảm đi các triệu chứng trên.
Trong trường hợp bị hội chứng cai nặng, người nghiện có thể:
– Có một cơn hoặc nhiều cơn co giật liên tiếp trong vài giờ.
Nếu không điều trị có thể chuyển sang giai đoạn động kinh liên tục.
– Ảo thanh lời nói (tố cáo, đe dọa, quấy rối), thường kết hợp với ảo tưởng hoặc có khi với ảo thị.
– Điều trị bằng thuốc chống loạn thần và giải lo âu.
2. HỘI CHỨNG CAI CÓ SẢNG:
Sảng rượu là một trong những hình thái lâm sàng của loạn thần do rượu.
* GIAI ĐOẠN KHỞI PHÁT:
Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn này có thể kéo dài vài ngày, hàng tuần hoặc hàng tháng. Theo Ades J (năm 1990), thời gian khởi phát 24 – 48 giờ; còn theo Watson A.S (năm1995) cho rằng giai đoạn này chủ yếu là mệt mỏi, chán ăn, rối loạn giấc ngủ, ác mộng, cơn hoảng sợ, kích động, rối loạn thần kinh thực vật, run rẩy, chếnh choáng, thay đổi cảm xúc biểu hiện bằng lo lắng hay trầm cảm. Sau đó bệnh tiến triển nặng dần và thường nặng về ban đêm với những ảo tưởng thị giác, hồi ức, ảo thị sinh động.
Bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phán, rối loạn định hướng thoáng qua hoặc định hướng không đầy đủ về không gian, thời gian. Nét mặt và hoạt động mất linh hoạt, chú ý không tập trung. Trong giai đoạn này có thể có cơn co giật, thống kê của Tratrue C., 1983 trong giai đoạn khởi phát 10 – 15% có cơn co giật.
Khi nghiên cứu bệnh nhân sảng rượu ở Viện sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai triệu chứng hay gặp ở thời kỳ khởi phát là rối loạn giấc ngủ (100%), mệt mỏi, chán ăn(75%), khó tập trung chú ý(75%), run rẩy (64%), chếnh choáng (64%), sợ hãi (50%).
* GIAI ĐOẠN TOÀN PHÁT:
Tam chứng cổ điển bao gồm:
-
- Ý thức mù mờ và lú lẫn
-
- Ảo tưởng và ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào.
-
- Triệu chứng run nặng.
Ngoài ra cũng thường có hoang tưởng, kích động, mất ngủ hoặc rối loạn thức ngủ.
Hiện tượng mê sảng nặng, người bệnh có rối loạn khả năng định hướng thời gian và không gian, định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được định hướng bản thân. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, hoàn toàn mất khả năng phê phán. Mức độ ý thức mù mờ, dao động thường tăng về chiều tối. Khi có sự lôi cuốn chú ý lâu, ý thức tỉnh ra đôi chút, người bệnh bắt đầu trả lời đúng các câu hỏi nhưng trạng thái này có thể đột nhiên bị hàng loạt các ảo thị ngắt đoạn.
Có nhiều loại ảo giác như ảo thị, ảo thanh, ảo thính, ảo giác, xúc giác. Các ảo giác chiếm vị trí chủ yếu và thường xuất hiện vào buổi tối có nội dung làm người bệnh ghê sợ, hoảng hốt. Các ảo thị thường có kích thước bị thu nhỏ, trông thấy những hình người, hình sinh vật nhỏ bé lại. Đôi khi người bệnh thấy các loại côn trùng đang bò trên cơ thể, cảm thấy đau do vết cắn của động vật.
Đôi khi người ta gặp sảng nghề nghiệp, người bệnh thấy mình đang trong hoàn cảnh nghề nghiệp thông thường, đang tiến hành những hoạt động trong thao tác công việc của mình. Do rối loạn ý thức nặng nề, người bệnh tiếp thu những điều do ảo giác tạo nên như những điều xảy ra trong thực tế.
Hành vi và tính chăm chú nhìn vào một chỗ nào đó, khi thì có tư thế bảo vệ, khi lẩn trốn, khi đi tìm, nét mặt có khi sợ hãi, khi ngạc nhiên, đăm chiêu. Bệnh nhân trở nên nói nhiều, tỏ ra sôi nổi, bận rộn, không ngủ được, các rối loạn tâm thần nặng lên về ban đêm và có thể có trạng thái kích động dữ dội. Một trong những nét đặc trưng là sự kết hợp cảm xúc căng thẳng, lo âu, sợ hãi với sự hài hước, người bệnh cố đùa cợt với cái nguy hiểm chết người đang đe dọa họ.Hoang tưởng trong sảng rượu cấp thường xảy ra liên quan đến tính chất và sự biến đổi của ảo giác.
Song song với các loại rối loạn tâm thần trong sảng rượu cấp có các rối loạn toàn thân khá rõ. Run chân tay, run lưỡi và toàn thân là triệu chứng thường gặp (do đó có tên gọi là sảng run: delirium trements). Đó là một sự run rẩy ở cuối chi, nhanh và lan truyền mà người ta cảm thấy nhiều hơn trông thấy. Sự run rẩy cũng có trên khuôn mặt và tăng lên khi hoạt động. Run lưỡi làm cho bệnh nhân khó nói. Các động tác và dáng đi hơi kém phối hợp. Người bệnh đổ mồ hôi đầm đìa, sốt nhẹ, song trong trường hợp nặng hơn, nhiệt độ có thể cao, mạch nhanh, huyết áp cao, tim hơi giãn. Trong nước tiểu thường có Urobilin và Albumin, trong máu tỉ lệ Bilirubin, tốc độ lắng máu tăng.
Trong trường hợp nặng, tâm trạng người bệnh tiến triển xấu dần, có thể tử vong do thiểu năng tim mạch hoặc mắc thêm bệnh viêm phổi. Trong trường hợp tiên lượng khả quan, bệnh kéo dài không quá 3 – 8 ngày. Cơn chấm dứt đột ngột sau một giấc ngủ sâu hoặc trong vài ngày, các biểu hiện bệnh nhẹ dần, trước tiên vào buổi sáng và ban ngày. Khả năng phê phán đôi khi không khôi phục được ngay. Trong trường hợp hạn hữu, sảng rượu cấp chuyển thành loạn thần Cocxacốp hoặc trạng thái ảo giác do rượu.II. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI RƯỢU
- Thời gian điều trị từ 7-10 ngày
- Bệnh nhân hoàn toàn không được uống rượu.
- Sử dụng vitamine nhóm B liều cao
+ Vitamine B1: 1g/24 giờ (tiêm bắp), Vit B6 0.5g/24 giờ
+ Vitamine B12 – Vit PP thời gian điều trị khoảng 1 tuần, sau đó uống vitamin B hỗn hợp.
- Benzodiazepine (sesduxen, Valium) 5mg x 2 viên/lần x 2-4 lần/ngày. Giảm liều dần trong 1 tuần.
- Nếu bệnh nhân bị kích động, ảo giác, hoang tưởng; uống thêm haloperidol: 2mg x 3-4 lần/ngày hoặc risperidone (Lesvidon) 2-4mg)/ngày hoặc olanzapine (epineza) 10mg – 20mg trong 2-3 ngày.
- Bù nước và điện giải khoảng 3-4 lít/ngày.
B. CHỐNG TÁI NGHIỆN:
Cai nghiện rượu cần được thực hiện tại trung tâm cai nghiện nội trú hoặc tại bệnh viện.
Người nghiện rượu cần xác lập một kế hoạch điều trị theo từng đối tượng bao gồm điều trị bằng thuốc, các biện pháp điều trị không dùng thuốc nhằm giúp người nghiện chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách và không còn thèm nhớ rượu.
I. LIỆU PHÁP DÙNG THUỐC:
Liệu pháp dùng thuốc để người nghiện rượu sợ, không còn muốn tái sử dụng rượu. hiện nay có 3 loại thuốc chủ lực cai rượu là:
- Disulfiram
- Naltrexone
- Acamprosate
1. THUỐC CAI RƯỢU DISULFIRAM:
Tên thương mại của Disulfiram là Disulfiram – Antabus – Espénol dưới dạng viên nén.
Liều lượng: viên 250mg x 1 viên/ngày
Tác dụng của Disulfiram:
- Disulfiram ngăn chặn rượu chuyển hóa chất trung gian Acestaldihyt thành nước và khí CO2, do bị ngăn chặn chất trung gian làm người nghiện khó chịu khi uống rượu thậm chí dù một lượng rất nhỏ. Tác dụng bao gồm: buồn nôn, ói mửa, đỏ bừng mặt, nhức đầu, đau ngực, mắt mờ, ra mồ hôi, khó thở, lo lắng, rối loạn tâm thần. Các triệu chứng trên xuất hiện khoảng 10 phút sau khi uống rượu và kéo dài hơn 1 giờ khiến người nghiện sợ rượu không dám uống nữa.
Các vấn đề cần lưu ý:
1. Thời gian điều trị trung bình khoảng từ 1-2 năm
2. Không được uống bất kì thức uống nào có cồn 48 giờ trước khi uống liều thuốc Disulfiram đầu tiên.
3. Chỉ được uống chất có cồn sau khi ngừng uống Disulfiram vài tuần.
4. Disulfiram làm một số bệnh nhân buồn ngủ, do đó không nên lái xe hoặc vận hành máy móc khi bệnh nhân có cảm giác trên.
5. Tuyệt đối không ăn uống các loại thức ăn có chứa cồn.
6. Luôn mang theo trong bóp (ví) 1 thẻ có ghi bệnh nhân đang điều trị Disulfiram và luôn luôn phải liên lạc với bác sĩ điều trị khi xảy ra vụ việc bất thường.
Phản ứng phụ:
- Ít gặp, bao gồm: dị ứng, mụn trứng cá, buồn ngủ, mỏi mệt, đau đầu, bất lực. Một số người cai nghiện rượu có cảm giác có mùi kim loại hay mùi tỏi trong miệng. Cảm giác này sẽ mất sau một thời gian.
- Trong thời gian qua, ở TP.HCM đã xảy ra tình trạng một số dùng Disulfiram để cai rượu, thậm chí có một số bà vợ lén cho ông chồng nghiện rượu của mình uống thuốc để mà chừa rượu. Kết quả không như y muốn, mà có khi người dùng, nhất là ông chồng không biết đã dùng thuốc, cứ uống rượu nhiều vào, bị ngộ độc rất nặng, phải đi cấp cứu. Do đó, thuốc điều trị phải được sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
- Thuốc Disulfiram tuy giá rẻ, dễ dùng nhưng chỉ áp dụng được với bệnh nhân chịu hợp tác điều trị hoặc gia đình có thể kiểm soát bệnh nhân uống thuốc.
2. THUỐC CAI RƯỢU NALTREXONE:
Naltrexone lúc ban đầu được sử dụng để cai ma tuý nhóm thuốc phiện (Á phiện – Mocphin – Heroin), nhưng qua các nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy khi uống rượu, rượu sẽ được chuyển hoá trong cơ thể, gắn kết với một loại protein trong máu và tác dụng vào các thụ thể µ, β… như tác dụng của nhóm OMH gây khoái cảm.
Tương tự cơ chế khi ta sử dụng nhóm OMH, các khoái cảm do uống rượu làm người nghiện thích thú và tiếp tục uống rượu. Khi người bệnh điều trị Naltrexone thuốc sẽ ức chế, bịt lỗ khoá tất cả các thực thể nêu trên nên không còn tạo ra khoái cảm, người nghiện mất dần cảm giác hứng thú khi uống rượu do đó sẽ giảm dần lượng uống tiến đến bỏ rượu. Thời gian điều trị trung bình từ 1 đến 2 năm.
ƯU ĐIỂM CỦA VIỆC SỬ DỤNG NALTREXONE LÀ:
1. Hiệu quả chán uống rượu xuất hiện từ từ do đó bệnh nhân dễ thích nghi với việc giảm liều lượng rượu.
2. Thuốc không gây các tác dụng phụ khó chịu như khi sử dụng Disulfirame. Vì thế có thể dung cho các bệnh nhân không hợp tác điều trị.
DIỄN BIẾN ĐIỀU TRỊ:
- THÁNG THỨ NHẤT: Bệnh nhân mất rõ rệt cảm giác thèm rượu. Lượng rượu uống còn khoảng 50%.
- THÁNG THỨ HAI: Bệnh nhân chỉ còn rất ít cảm giác thèm rượu. Lượng rượu uống giảm 70%.
- THÁNG THỨ BA: Bệnh nhân không còn quan tâm đến rượu, có thể ngưng uống rượu hoàn toàn.
- Tuy nhiên để bệnh nhân bỏ hẳn rượu, phục hồi hệ thống não bộ, điều chỉnh nhận thức hành vi nhân cách và giải quyết các vấn đề nội tại, thời gian điều trị phải từ 1 đến 2 năm, kết hợp giữa điều trị dùng thuốc với các biện pháp điều trị không dùng thuốc.
3. THUỐC CAI RƯỢU BẰNG ACAMPROSATE:
- Acamprosate dẫn xuất từ muối Ca: Campral – tên biệt dược: Aotal, Zulex. Đây là loại thuốc mới dùng để cai rượu.
- Thuốc có tác dụng ức chế vận chuyển GABA và đối kháng Glutamate Receptor – cơ chế tác dụng hiện nay chưa được giải thích rõ ràng, nhưng thuốc có tác dụng làm giảm sự thèm muốn uống rượu. Khác với Disulfiram, Acamprosate không bị tác dụng phụ khi đang uống thuốc mà vẫn sử dụng rượu. thuốc không bị chuyển hoá ở gan, do đó không cần giảm liều ở người bị suy gan.
- Acamprosate có cấu trúc tương tự GABA và được cho là ức chế hệ Glutamatergic. Điều này là Acamprosate làm giảm sự hoạt động Glutamatergic thường thấy ở bệnh nhân nghiện rượu. Acamprosate viên nén 333mg Liều dùng từ 1v x 2-3l/ngày.
II. LIỆU PHÁP KHÔNG DÙNG THUỐC:
Nhằm giáo dục, gọt giũa, phục hồi não bộ, nhận thức hành vi nhân cách, hình thành thói quen tốt của đối tượng như cai nghiện các chất gây nghiện khác.
III. TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG RƯỢU GÂY NÊN CÁC BỆNH TÂM THẦN HOẶC BỆNH CƠ THỂ PHẢI ĐIỀU TRỊ THÊM CÁC BỆNH TRÊN
Tài liệu tham khảo thêm