TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
Cơ Sở 1 : 245 Bình Quới (1051 Xô Viết Nghệ Tĩnh), Phường 28, Bình Thạnh, Tp.HCM
Cơ Sở 2 : 978 Nguyễn Duy Trinh, P. Phú Hữu - Tp.Thủ Đức, Tp.HCM
Điện thoại: (028) 6270 0119 - (028) 3898 6513 - 0982 120 908 THỜI GIAN LÀM VIỆC 24/24
Bóng cười là khí gây cười, tên hóa học là Đinitơ monoxit hay nitrous oxide, là hợp chất hóa học với công thức N2O. Khi bơm vào bóng bay, gọi là bóng cười (funkyball).
Mới chỉ du nhập vào Việt Nam không lâu, nhưng bóng cười đã nhanh chóng trở thành trào lưu được giới trẻ yêu thích thậm chí coi nó như một thú vui mỗi khi đi hộp đêm, hít một hơi bạn sẽ cười không ngừng nghỉ.
Tại các hộp đêm ở Hà Nội, không khó để tìm được bóng cười vì chúng được bán bí mật một cách "công khai" tại đây để phục vụ các dân chơi.
Bóng cười hay còn được gọi với tên Funkyball là một trong những trào lưu đang được giới trẻ ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam thịnh hành nhất hiện nay, họ coi đây là một thú vui dùng để xả stress.
Bóng cười không phải là một loại thuốc hay trò chơi nó thực chất chỉ là những quả bóng bay bình thường nhưng được bơm thêm khí nitrous oxide và công việc của người dùng chỉ là "thổi" và "hít" - "hít" và "thổi".
Những quả bóng cười này được người bán bơm khí ga bằng một dụng cụ bơm chuyên dụng. Sau đó người mua sẽ cầm bóng để hít hà, khí hết cũng là lúc quả bóng lép xẹp. Khí nitrous oxide lan tỏa, ngấm vào cơ thể sẽ tạo cảm giác phấn khích, tạo ảo giác gây cười cho người sử dụng.
Gọi là bóng cười vì quả bóng này không có tác dụng nào khác ngoài khả năng gây cười, cười nhiều và cười lâu. Chỉ cần hít hà bạn sẽ nhanh chóng cười, cười và cười không kiểm soát.
Bóng cười có hại như thế nào?
Trông tưởng như bình thường, nhưng chơi và hít hơi bóng cười lại ẩn chứa nhiều mối nguy hại. Được biết ở một số nước châu Âu, chất này là chất kích thích được bán hợp pháp tại các hộp đêm.
Khi hít bóng cười người chơi sẽ thấy sảng khoái cứ thế tuôn cười không thể kiểm soát được, sau đó hoàn toàn chìm đắm trong ảo giác, những đê mê về mọi thứ xung quanh.
Các bác sĩ trên thế giới cũng từng cảnh báo rằng, việc hít bóng cười hay khí cười ảnh hưởng trực tiếp tới tim mạch, hệ thần kinh mà hậu quả xấu nhất nếu làm dụng là dẫn tới trầm cảm hoặc thiệt mạng. Hít khí này vào cảm giác tê tê, đặc biệt là nghe nhạc rõ, sau đó phấn khích, cười ngả nghiêng.
Theo báo chí, vào năm 2010, diễn viên Mỹ Demi Moore sau khi hít loại bóng cười này trong những buổi tiệc đã phải nhập viện với triệu chứng co giật, run rẩy. Cuối năm 2012, một sinh viên Trường Đại học Illinois là Benjamin Collen, 19 tuổi, đã tử vong vì bị ngạt khí N2O.
Mới đây nhất, một hot girl Hà Nội cũng đã nhập viện vì hút bóng cười bị ngộ độc khí N2O dẫn đến ức chế thần kinh, gây đột quỵ dạng nhẹ.
Điều nguy hại là nếu lạm dụng chất gây ảo giác lâu ngày sẽ rất dễ đi đến sử dụng thuốc gây nghiện thật sự, thậm chí là sử dụng ma túy. Bởi vì, khi đã quen cảm giá "phê" với ảo giác, các bạn trẻ rất dễ tìm đến thứ tạo cảm giác"phê" mạnh hơn. Các em đã quen dùng khí cười để "phê" thì sẽ có lúc chơi thử bồ đà, thuốc lắc, "hàng đá"... Đến lúc nào đó sẽ chơi thử heroin, từ hút đến tiêm chích và rồi chắc chắn việc nghiện tiêm chích ma túy cộng với nhiễm HIV/AIDS sẽ đến cái chết.
Bác sĩ Chuyên khoa II - Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
A. DỊCH TỄ HỌC:
Theo số liệu dịch tễ của Mỹ năm 1991, khoảng 8,1% dân số Mỹ đã sử dụng chất gây ảo giác ít nhất một lần, 1,2% đã sử dụng trong năm vừa qua, 0,3% đã sử dụng trong tháng qua. Sử dụng chất gây ảo giác khá phổ biến ở nam giới da trắng lứa tuổi từ 15-35 tuổi. Theo số liệu của viện nghiên cứu quốc gia Hoa kỳ về lạm dụng chất (NIDA) công bố năm 1991, khoảng 13,1% người lớn, 7,8% người già và 3,3 % thanh niên nói rằng họ đã sử dụng chất gây ảo giác.
Số liệu của Pháp (EROPP, OFDT): Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi 18-75, năm 2002.
Bảng 5-1: Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi từ 18-75, năm 2002 ở Pháp.
Tuổi
18-75
18-25
26-44
45-75
Nam
Nữ
Nấm
1,1%
2,3%
1,6%
0,3%
1,4%
0,9%
LSD
1,1%
1,2%
1,9%
0,5%
2,1%
0,2%
Số liệu của Pháp ( ESCAPAD, OFDT): Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và Ketamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002.
Bảng 5-2. Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và kétamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002
Nữ
Nam
Tổng số
Nữ
Nam
Tổng số
Nấm
2,6%
5,9%
4,3%
0,6%
1,4%
1,0%
LSD
0,9%
1,9%
1,4%
0,3%
0,7%
0,5%
Kétamine
0,4%
0,7%
0,6%
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:
Sự tranh luận về việc có hay không tác động của LSD như một chất đối vận hoặc đồng vận với hệ thống serotoninergic. Các số liệu hiện nay gợi ý rằng tác động của LSD như một chất đồng vận một phần của các receptor serotonine hậu synapse.
Phần lớn các chất gây ảo giác hấp thu tốt sau khi uống, đỉnh huyết tương của LSD trong vòng 60 phút sau khi uống và thải trừ chậm qua đường nước tiểu và phát hiện chất chuyển hóa của nó trong nước tiểu có thể sau 3-4 ngày. Tuy nhiên, một liều rất nhỏ cần thiết để gây ra một hiệu quả loạn thần rất khó phát hiện trong nước tiểu. Mặc dù một số loạichất gây ảo giác được sủ dụng bằng đường hút, hít hoặc tim tĩnh mạch, sự dung nạp với LSD hoặc các chất gây ảo giác khác sảy ra nhanh và hầu như hoàn toàn sau 3 hoặc 4 ngày sử dụng liên tiếp. Sự dung nạp cũng quay lại nhanh, thông thường trong 4 đến 7 ngày. Không có sự phụ thuộc về cơ thể và không có hội chứng cai. Tuy nhiên sự phụ thuộc về tâm thần có thể phát triển thấy được.
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
Tri giác trở nên rực rỡ và mãnh liệt khác thường. Màu sắc và cấu trúc phong phú hơn so với trước, các đường nét bên ngoài trở nên sắc nét hơn và xúc động hơn và tăng cảm giác về mùi vị. Thường gặp loạn cảm giác, có thể tô điểm thêm tiếng nói hoặc âm thanh. Có nhiều biến đổi về hình ảnh cơ thể và rối loạn định hướng về không gian và thời gian. Các ảo giác thông thường là thị giác ( thường là hình thái và hình ảnh), nhưng ảo thanh và ảo giác xúc giác đôi khi cũng xúc hiện. Cảm xúc thường trở nên mãnh liệt và có thể thay đổi đột ngột và thường xuyên.
Các nét lâm sàng chủ yếu của nhiễm độc các chất gây ảo giác đó là sự xuất hiện của lo âu hoặc trầm cảm, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí nhớ, ý tưởng paranoid, biến đổi tri giác, mất ngủ hoàn toàn và tăng tỉnh táo, suy giảm lý lẽ hoặc suy giảm các chức năng xã hội nghề nghiệp diễn ra trong hoặc ngay khi sử dụng các chất gây ảo giác.Những sự thay đổi này bao gồm sự tăng cường mang tính cá thể của tri giác, giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại, ảo tưởng, ảo giác và loại cảm giác bản thể. Ở người nghiện còn có các biểu hiện cơ thể khác như giãn đồng tử, mạch nhanh, vã mồ hôi, đánh trống ngực, mờ mắt, run và mất phối hợp động tác. Sự nhiễm độc các chất gây ảo giác thường bắt đầu bằng các hoạt động không ngừng, tăng hoạt hệ thống thần kinh thực vật và buồn nôn.
Các rối loạn cấp: cảm xúc không ổn định hoặc dễ thay đổi với cảm giác khoái cảm nhanh chóng được thay thế bằng cười khó hiểu, trầm cảm hoặc hưng cảm cũng thường thấy. Ảo tưởng thị giác lúc đầu hoặc lúc nặng hơn có thể dẫn tới ảo giác. Ở liều cao hơn, sự thay đổi tri giác bao gồm loạn cmar giác bản thể (rối loạn hỗn hợp cảm giác quan) và ảo giác. Thường là các ảo thị thật, thường biến đổi hình thể, đôi khi thấy con người và đồ vật cũng bị biến đổi và họ hành động theo những biến đổi này. Hiếm gặp hơn là các ảo thanh và ảo giác xúc giác.
Nguyên nhân gây tử vong có thể liên quan tới bệnh lý tim mạch hoặc bệnh lý mạch máu não kết hợp với tăng huyết áp hoặc tăng huyết áp hoặc tăng thân nhiệt , triệu chứng giống hội chứng an thần kinh ác tính.
b. Có các biểu hiện thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp ( lo âu hoặc trầm cảm rõ rệt, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí, ý tưởng paranoid, suy giảm lý lẽ hoặc các chức năng nghề nghiệp, xã hội) diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.
c. Thay đổi nhận thức xảy ra với biểu hiện mất ngủ hoàn toàn và tỉnh táo ( tăng nhận thức chủ quan, giải thể nhận cách, mất liên hệ thực tại, ảo tưởng, ảo giác, loạn cảm giác bản thể) diễn ra trong khi hoặc ngay khi sử dụng chất gây ảo giác.
d. Có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau đây diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.
(1) Giãn đồng tử.
(2) Nhịp tim nhanh
(3) Vã mồ hôi
(4) Đánh trống ngực
(5) Mờ mắt
(6) Run
(7) Mất điều phối
Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rồi loạn tâm thần khác gây ra.
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nhận thức dai dẳng do chất gây ảo giác
a. Sau khi ngừng sử dụng chất gây ảo giác, tái xuất hiện một hoặc nhiều các triệu chứng nhận thức đã được biểu lộ khi bị nhiễm độc chất gây ảo giác (ảo giác hình thể hoặc nhận thức sai lệch về sự chuyển động ở thị trường ngoại vi, sự lóe sáng của màu sắc, màu săc rực rỡ, hình ảnh đồ vật chuyển động, lưu giữ hình ảnh dương bản, vầng sáng xung quanh đồ vật, hình ảnh khổng lồ hoặc tí hon)
b. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn gây ra đau khổ rõ rệt hoặc giảm sút các chức năng nghề nghiệp, xã hội và các lĩnh vực quan trọng khác.
c. Các triệu chứng trên không do các bệnh cơ thể (tổn thương giải phẩu và nhiễm trùng não, động kinh với biểu hiện rối loạn thị giác) và các dấu hiệu tâm thần khác gây ra (sảng run, sa sút trí tuệ, tâm thần phân liệt) hoặc các thuốc ngủ gây ảo giác.
4. Sảng run do nhiễm độc chất gây ảo giác
Rối loạn này tương đối hiếm, nó thường xảy ra trong giai đoạn nhiễm độc khi người bệnh sử dụng nguyên chất. Tuy nhiên, các chất gây ảo giác thường pha trộn với các chất hay các hợp chất khác, tương tác của chúng có thể gây ra sảng run.
5. Các rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác
Tác dụng có hại lớn nhất của LSD và các chất liên quan là một sự say thuốc tồi tệ, nó tương tự như là một phản ứng hoảng sợ cấp của cannabis nhưng có thể nặng hơn; sự say thuốc tồi tệ có thể ngẫu nhiên gây ra các triệu chứng loạn thần rõ rệt. Sự say thuốc tồi tệ này thông thường kết thúc khi tác động tức thi của chất gây ảo giác mất đi. Tuy nhiên, diễn biến của tình trạng này thay đổi, thường là một giai đoạn loạn thần kéo dài khó phân biệt với rối loạn loạn thần không thực tổn.
Thông thường rối loạn loạn thần kéo dài, đặc biệt ở những người trước đó đã có rối loạn nhân cách bệnh dạng phân liệt và nhân cách tiền loạn thần.
6. Rối loạn cảm xúc do chất gây ảo giác
Những người lạm dụng chất gây ảo giác có thể có các triệu chứng tương tự như hưng cảm bao gồm hoang tưởng tự cao hoặc giống như trầm cảm với các triệu chứng hỗn hợp. Tương tự như các triệu chứng rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác, các triệu chứng của rối loạn cảm xúc do các chất gây ảo giác hầu như rất giá trị một khi xét nghiệm phát hiện được chúng chất này trong cơ thể người bệnh.
7. Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác
Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác cũng rất thay đổi trong các biểu hiện các triệu chứng. Ví dụ có người bệnh vào cấp cứu vì rối loạn liên quan đến chất gây ảo giác tuy nhiên các triệu chứng gây biểu hiện lại là rối loạn hoảng sợ với chứng sợ không rộng.
TÁC HẠI CỦA CÁC CHẤT BAY HƠI, DUNG MÔI HỮU CƠ, BÓNG CƯỜI
Bác sĩ Chuyên khoa II, thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
Các chất bay hơi bao gồm: các dung môi hòa tan, hồ keo, các dung môi trong bình xịt, dung môi pha sơn, các chất đốt. Một ví dụ đặc biệt của các chất này bao gồm khí ga, véc-ni, ga bật lửa, keo dán máy bay, chất hòa tan cao su, các dung dịch tẩy rửa, sơn phun, keo dán giầy, các dung dịch tẩy xóa. Các họat chất chính trong các chất bay hơi này bao gồm toluene, acetone, benzene, trichloroethane, perchlorethylene, trichlorrthylene, 1,2-dichloropropane và halogenated hydrocarbons. DSM IV loại trừ các khí gây mê (nitrous oxide và ether) và các chất gây giãn mạch tác động ngắn (amynitrite) ra khỏi các rối loạn liên quan tới các chất bay hơi.
A. DỊCH TỄ HỌC
Ở Mỹ, các chất khí hít này tồn tại hợp pháp, rẻ tiền và dễ kiếm. Ba đặc điểm này góp phần vào việc chúng được sử dụng nhiều ở những người nghèo và trẻ tuổi. Năm 1991 (NIDA), khoảng 5% dân số Mỹ đã hít các chất này ít nhất một lần và khoảng 1% đang hít chúng. Ở lứa tuổi từ 18-25, có 11% đã hít chúng ít nhất một lần và 2% đang hít. Ở lứa tuổi 12-17, có 7% đã hít chúng ít nhất một lần và 2% đang hít.
Ở lứa tuổi 12 và lớn hơn, có khoảng 5% nói rằng đã luôn sử dụng hít các chất này và gần 1% nói đã hít chúng trong tháng vừa qua. Năm 1991 số liệu cho thấy 10,9% lứa tuổi từ 18-25, 9,2% lứa tuổi từ 26-34, 7% lứa tuổi trên 35, nói rằng họ đã luôn hít các chất khí này và 2% trong các nhóm này hít nó trong tháng vừa qua.
Trong tổng số tử vong do lạm dụng các chất, tử vong do hít các chất bay hơi chiếm 1% và trong tổng số lạm dụng các chất được cấp cứu tại khoa cấp cứu thì hít chất bay hơi chiếm gần 0,5%.
Ở Pháp, theo số liệu của ESCAPPAD 2003, OFDT, việc hít các chất bay hơi phổ biến thứ 2 sau cannabis mà lứa tuổi 17-18 đã sử dụng nhưng việc sử dụng thường xuyên thì ít. Ở lứa tuổi 17-18, có 4,7% (4,1% nữ, 5,2% nam) hít các chất bay hơi trong cuộc đời và 0,7% (0,5% nữ, 0,9% nam) đã hít chất bay hơi trong tháng vừa qua.
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ
Các chất bay hơi thường được hít qua tẩu, ống hút, túi ni lông....hít qua đường mũi hoặc hơi của chúng qua đường miệng. Tác động chung của các chất bay hơi gây ức chế trên hệ thần kinh trung ương.
Các chất bay hơi hấp thụ nhanh ở phổi và nhanh chóng tác động lên não. Tác động xuất hiện trong vòng 5 phút và có thể kéo dài từ 30 phút tới vài giờ, phụ thuộc vào từng chất và liều lượng. Nồng độ của các chất này trong máu tăng lên khi sử dụng đồng thời rượu, có thể do cạnh tranh với các men gan. Mặc dù chỉ khoảng 1/5 có biểu hiện này.
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Với một liều nhỏ ban đầu, chất bay hơi có thể kích thích gây khoái cảm và cảm giác bồng bềnh thoải mái; các chất này được sử dụng vì các tác dụng nêu trên. Các biểu hiện tâm thần khác ở liều cao có thể bao gồm sợ hại, ảo tưởng, ảo thanh, ảo thị và biến hình bản thân. Các triệu chứng thần kinh có thể bao gồm nói líu lưỡi , nói chậm chạp và đi loạng choạng. Việc sử dụng quá dài có thể gây thêm các biểu hiện khác như dễ bị kích thích, cảm xúc không ổn định và suy giảm trí nhớ.
Hội chứng cai có thể xảy ra khi ngừng sử dụng các chất này, tuy không thường xuyên; nó có biểu hiện bằng rối loạn giấc ngủ, dễ bị kích thích, hốt hoảng, vã mồ hôi, buồn nôn, nôn, nhịp tim nhanh và đôi khi có hoang tưởng, ảo giác.
D. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Các chất bay hơi thường gây ra nhiều tác dụng có hại nghiêm trọng. Tác dụng có hại nguy hiểm nhất là tử vong có thể suy hô hấp, mất nhịp tim, ngạt thở, hít phải chất nôn hoặc bị tai nạn, hay bị thương (ví dụ lái xe trong tình trạng nhiễm độc). Các tác dụng có hại nghiêm trọng khác thường do sử dụng lâu dài các chất này bao gồm viên gan không phục hồi hoặc tổn thương thận và tổn thương cơ thường xuyên kết hợp với tiêu cơ vân. Sự kết hợp của các chất bay hơi này và nồng độ cao của đồng, kẽm và các kim loại nặng có thể gây ra teo não, động kinh thùy thái dương, giảm lưu lượng máu não, chỉ số IQ giảm và các thay đổi điện não khác nhau. Các tác động có hại ở người nghiện bao gồm các triệu chứng mạch vành và phổi (đau thắt ngực và co thắt phế quản), các triệu chứng tiêu hóa (đau, buồn nôn, nôn và xuất huyết) và các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh khác (viêm dây thần kinh ngoại biên, đau dầu, dị cảm, các dấu hiệu tổn thương tiểu não).
E. CHẨN ĐOÁN
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng các chất bay hơi.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán chung ở phần trước
2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc các chất bay hơi
a. Sử dụng cố tình mới đây hoặc trong một thời gian ngắn, tiếp xúc liều cao các chất bay hơi (loại trừ các khí gây mê, gây giãn mạch).
b. Có những thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt (hung hăng, hành hung, thờ ơ, suy giảm lý lẽ, các chức năng nghề nghiệp, xã hội) xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hoặc tiếp xúc với các chất bay hơi.
c. Có ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau, xuất hiện trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng hay tiếp xúc với các chất bay hơi.
(1) Choáng váng
(2) Rung giật nhãn cầu
(3) Mất phối hợp động tác
(4) Nói líu lưỡi
(5) Dáng đi xiêu vẹo
(6) Ngủ lịm
(7) Phản xạ giảm
(8) Tâm thần vận động chậm chạp
(9) Run
(10) Yếu toàn bộ các cơ
(11) Nhìn mờ hoặc nhìn đôi
(12) Sững sờ hoặc nhân đôi
(13) Khoái cảm
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các bệnh tâm thần khác gây ra.
3. Sảng run do các chất bay hơi
Xem phần sảng run chung cho các chất.
Điều trị dùng thuốc đối kháng với receptor dopamine (haloperidol), tránh dùng benzodiazepine đề phòng suy hô hấp do tương tác thuốc.
4. Rối loạn thần do các chất bay hơi
Nêu chung trong phần chẩn đoán các rối loạn loạn thần.
Thầy thuốc có thể xác định rõ có hay không các triệu chứng hoang tưởng, ảo giác chiếm ưu thế. Paranoid là hội chứng loạn thần chủ yếu trong khi bị nhiễm độc các chất bay hơi.
5. Sa sút trí tuệ dai dẳng do các chất bay hơi
Có thể là do tác động nhiễm độc thần kinh của các chất bay hơi, và của kim loại được dùng phổ biến trong hợp chất các chất bay hơi (chì) hoặc tác động của thiếu ô xy kéo dài hay thường xuyên. Sa sút trí tuệ do các chất hay hơi không phục hồi giống như các sa sút trí tuệ khác nhưng ở mức độ trung bình.
6. Rối loạn cảm xúc và lo âu do các chất bay hơi
Trầm cảm là rối loạn cảm xúc phổ biến nhất trong sử dụng các chất bay hơi và rối loạn hoảng sợ và lo âu toàn thể là rối loạn lo âu phổ biến nhất.
TÁC HẠI MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG HOANG TƯỞNG - CẦN SA
Bác sĩ Chuyên khoa II, thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
A. MỞ ĐẦU
Cannabis: hoạt tính δ9 - THC (δ9 - THC Tetrahydrocannabinol) không gây dung nạp và phụ thuộc cơ thể. Gây phụ thuộc tâm thần và gây nhiễm độc tâm thần. Chúng được chia làm 3 loại:
- Marijuana: lá và hoa khô.
- Haschich: chiết xuất từ rễ của cây cái. 10 lần mạnh hơn marijuana.
- Dầu: sền sệt, nhựa đen, độ tập trung δ9 - THC rất cao.
Được sử dụng bằng cách hút như hút thuốc lá hoặc thuốc lào cũng có thể được ăn hoặc uống (trộn lẫn).
B. DỊCH TỄ
Cần sa (còn được gọi là tài mà, thuốc cỏ...): là một chất ma túy bất hợp pháp được sử dụng phổ biến nhất ở Mỹ. Năm 1991 có khoảng 1/3 dân số sử dụng cannabis ít nhất một lần và khoảng 5% vẫn đang sử dụng.
Ở nhóm 18-25 tuổi khoảng 50% đã sử dụng cannabis ít nhất một lần và khoảng 13% vẫn đang sử dụng. Ở nhóm 13-17 tuổi khoảng 13% đã sử dụng cannabis ít nhất một lần và khoảng 4% vẫn đang sử dụng (NIDA, 1991).
Theo số liệu của Pháp: ở nhóm 17- 18 tuổi sử dụng cannabis đều đặn là 13%(nam 18%, nữ 8%), {OFDT, 2003}.
Và ở nhóm 18-75 tuổi sử dụng cannabis đều đặn là 1,4%(nam 2,3%, nữ 0,6%), {OFDT, 2002}. Ở nhóm 18-64 tuổi 32% đã sử dụng cannabis ít nhất một lần trong đời và 12% nam, 7% nữ đã sử dụng ít nhất một lần trong năm, {OFDT, 2003}.
C. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ
Như đã nêu ở trên, thành phần chính của cannabis là δ9 - THC (Tetrahydrocannabinol), tuy nhiên cannabis chưa tới hơn 400 chất hóa học và khoảng 60 chất trong số đó có δ9 - THC .Ở trong cơ thể, δ9 - THC nhanh chóng được chuyển hóa thành 11-hydroxy-δ9 - THC, chất chuyển hóa này tác động trên hệ thần kinh trung ương.
Receptor cannabinoid được liên kết với G protein ức chế thông qua liên kết với adenylyl cyclase. Các receptor cannabinoid tập trung cao nhất ở hạch nền, hồi hải mã và tiểu não và tập trung ít hơn ở vỏ não.
Người ta thấy có sự dung nạp cannabis và sự phụ thuộc về tâm thần nhưng chưa có bằng chứng thuyết phục về sự phụ thuộc về cơ thể. Hội chứng cai trên người rất ít và tăng biểu hiện cáu kỉnh, bồn chồn, mất ngủ, chán ăn tâm thần và buồn nôn. Các triệu chứng này chỉ xuất hiện khi ngừng sử dụng cannabis ở liều cao.
Khi hút cannabis tác dụng khoái cảm xuất hiện sau vài phút, đạt đỉnh điểm sau khoảng 30 phút và kéo dài 2-4 giờ.
Một số tác động lên vận động và nhận thức kéo dài từ 5-12 giờ. Cannabis cũng được sử dụng qua đường ăn uống như có trong bánh, nước phở, súp...Tác động qua đường hút mạnh gấp 2-3 lần qua đường ăn uống.
D. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Biểu hiện lâm sàng thường gặp sau khi sử dụng cannabis là giãn mạch máu kết mac nên gây đỏ mắt và nhịp tim tăng vừa. Dùng liều cao, có thể tụt huyết áp ở tư thế đứng. Tăng khẩu vị, mồm nhai chóp chép, khô miệng là biểu hiện thường thấy trong nhiễm độc cannabis. Hầu như không thấy tử vong nếu chỉ nhiễm độc cannabis.
1. TÁC ĐỘNG:: 70 lần hơn Nicotine.
- Với liều trung bình cảm thấy khoái cảm, âm thanh và âm nhạc nghe khác đi, cảm thấy thời gian biến đổi
- Với liều cao toàn bộ các chức năng tâm thần bị rối loạn, cảm giác thực tại bị rồi loạn, những điều cấm kỵ bị coi thường, có cảm giác như đã trải qua quan hệ với người khác, không gian và thời gian bị biến đổi sâu sắc. Ở một số người có thể đồng thời xuất hiện lo âu, số khác buồn ngủ, số khác có thể có hành vi phạm pháp không thể kiểm soát được.
2. TÁC HẠI:
- Có thể có các biến chứng tâm thần cần nhập viện như trầm cảm, lo âu, loạn thần, rối loạn hành vi.
- Liều cao có thể làm mất ý trí, thu rút, mất động cơ.
- Tác hại về cơ thể tương tự như thuốc lá nhưng mạnh hơn, có nguy cơ suy hô hấp mạn và ung thư phổi.
- Sử dụng lâu dài cannabis thường gây teo não, cơn co giật liên tục, tổn thương nhiễm sắc thể, thai non tháng, giảm phản ứng miễn dịch, giảm độ tập trung testosterone, rối loạn kinh nguyệt.
- Tăng nguy cơ tai nạn khi tham gia giao thông và vận hành máy móc.
- Việc làm giảm sút, mất việc.
E. CHẨN ĐOÁN
1. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN LẠM DỤNG VÀ NGHIỆN CẦN SA:
Xem chương trước, tiêu chuẩn chung.
2. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NHIỄM ĐỘC CẦN SA THEO DSM-IV:
- Vừa mới sử dụng cannabis.
- Thay đổi tâm lý hoặc hành vi không thích hợp (ví dụ: Sự phối hợp vận động bị suy giảm, khoái cảm, lo âu, cảm giác thời gian chậm lại, lý lẽ suy giảm, thu rút xã hội) xuất hiện trong hoặc sau khi sử dụng cannabis.
- Có ít nhất 2 dấu hiệu sau khi xuất hiện trong vòng 2 giờ sau khi sử dụng cannabis.
(1) Có tiêm chích kết hợp.
(2) Tăng khẩu vị.
(3) Khô miệng.
(4) Mạch nhanh.
Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc rối loạn tâm thần khác. Đặc trưng nếu có rối loạn tri giác.
3. SẢNG RUN DO NHIỂM ĐỘC CẦN SA:
Sảng run do nhiễm độc cần sa được biểu hiện bằng suy giảm nhận thức và hiệu xuất công việc.
Thậm chí liều cannabis vừa phải cũng gây suy giảm trí nhớ, thời gian phản ứng, tri giác, sự phối hợp vận động và sự chú ý. Liều cao cũng gây suy giảm nhận thức và ý thức của người sử dụng.
4. RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO CẦN SA:
Rối loạn loạn thần do cần sa thì hiếm hơn nhưng ý tưởng paranoid tạm thờ thì phổ biến hơn. Sử dụng cannabis hiếm khi với một trải nghiệm tồi tệ. Hiện tượng này thường kết hợp với nhiễm độc các chất gây ảo giác. Khi rối loạn loạn thần do cannabis xảy ra, nó có thể kết hợp với một rối loạn nhân cách tồn tại đồng thời ở người bệnh.
5. RỐI LOẠN LO ÂU DO CẦN SA:
Rối loạn lo âu do cannabis là một chẩn đoán chung cho nhiễm độc cannbis cấp, Ở nhiều người xuất hiện một cơn lo âu ngắn, thường do ý tưởng cannabis gây ra. Trong một số tình huống, có các cơn hoảng sợ. Người sử dụng cannabis thiếu kinh nghiệm thường bị rối loạn này nhiều hơn người sử dụng có kinh nghiệm.
6. CÁC CƠN PHẢN HỒI:
Đang còn nhiều tranh luận về vấn đề này, nó có thể là do sử dụng cannabis một mình hay sử dụng đồng thời với các chất gây ảo giác hoặc với phencyclidine( PCP).
7. HỘI CHỨNG MẤT ĐỘNG CƠ:
Đang tranh luận chưa rõ hội chứng này có liên quan tới tác dụng của cannabis hay nó phản ứng với các tính cách ở một nhóm nhỏ, đang sử dụng cannabis. Hội chứng mất động cơ được xuất hiện khi sử dụng liều cao kéo dài. Các nét đặc trưng là sự thiếu quan tâm dai dẳng với công việc ở nhà, ở trường và với bất cứ việc gì đồi hỏi sự chú ý kéo dài. Người bệnh được mô tả như trở nên thờ ơ, vô cảm, mất năng lượng, thường tăng cân và có vẻ lười biếng.
TÁC HẠI CỦA MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH - COCAINE
Cocaine là một trong những chất gây nghiện bị lạm dụng phổ biến và nguy hiểm nhất ở các nước châu Mỹ và châu Âu. Ở Việt Nam hiện chưa phát hiện tình trạng buôn bán, lạm dụng cocaine, có thể do cocaine chưa thâm nhập vào thị trường Việt Nam vì lý do nào đó.
Cocaine thường bị lạm dụng ở chế phẩm mạnh nhất của nó, freebase và crack (crack cocaine). Cocaine được chiết xuất từ cây coca có nguồn gốc từ Nam Mỹ, ở đó các cư dân địa phương thường nhai lá và cành nhỏ để có được hiệu quả kích thích.
Các alkaloid cocaine được chiết xuất đầu tiên vào năm 1860 và được sử dụng trong y học như là một chất gây tê cục bộ, chủ yếu trong phẩu thuật mắt, mũi và họng vì nó giúp gây tác dụng co mạch. Năm 1884 Sigmund Freud đã tiến hành nghiên cứu tác dụng dược lý chung của cocaine và coi nó như một loại thuốc chông trầm cảm.
Từ 1880-1890, cocaine được biết đến như loại thuốc chữa khỏi nhiều bệnh. Tuy nhiên vào năm 1914 cocaine đã được xếp vào loại các chất gây nghiện tiếp theo morphine và heroin, vì tác dụng gây hại và gây nghiện của nó.
A. DỊCH TỄ HỌC:
Ở Mỹ, khoảng 1,9 triệu người Mỹ, bao gồm 1,9% học sinh trung học phổ thông đã sử dụng cocaine trong tháng qua, tuy nhiên sử dụng cocaine hiện nay có chiều hướng thuyên giảm do nhận thức về nguy cơ liên quan đến sử dụng cocaine trong dân chúng tăng lên qua các chiến dịch truyền thông về cocaine và tác hại của nó.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây ở một mức độ nào đó lại gia tăng hiện tượng sử dụng crack, một dạng mạnh hơn cocaine rất nhiều. Sử dụng Crack phổ biến nhất ở lứa tuổi 18-25, do giá rẻ hơn cocaine 10 lần. Ở Mỹ, năm 1991 có khoảng 12% dân số Mỹ đã sử dụng cocaine ít nhất 1 lần và 1,9% đã sử dụng crack ít nhất một lần, 0,5% đã sử dụng crack trong năm qua, 0,2% đã sử dụng crack trong tháng qua.
Lứa tuổi sử dụng nhiều nhất từ 18-25 tuổi (18% đã sử dụng cocaine ít nhất 1 lần và 2% vẫn đang sử dụng cocaine; 3,8% đã sử dụng crack ít nhất một lần). Mặc dù sử dụng cocaine có tỷ lệ cao nhất ở nhóm người không có việc làm nhưng nó cũng được sử dụng ở nhóm người có học vấn và kinh tế xã hội cao.
Tỉ lệ nam giới sử dụng cocaine cao hơn 2 lần so với nữ giới (NIDA, 1991). Ở Pháp, tỉ lệ sử dụng cocaine ở lứa tuối 18-75 là 2% (EROPP 2002); ở lứa tưởi 17-18 là 2,3%, và sử dụng trong tháng qua là 0,9%. Tỉ lệ sử dụng crack ở lứa tuổi 17-18 là 0,9%, và sử dụng trong tháng qua là 0,3% (ESCAPAD 2003, OFDT).
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:
Cocaine nhanh chóng được hấp thu và chuyển hóa bởi esterase huyêt thanh và ở gan. Thời gian kích thích của nó ngắn, từ 3-45 phút, phụ thuộc vào liều lượng và đường sử dụng. Hiệu quả dược động học đầu tiên của cocaine (liên quan tới hiệu quả trên hành vi của thuốc) do phong tỏa cạnh tranh việc thu hồi dopamine bởi hệ thống vận chuyển dopamine. Việc phong tỏa thu hồi dopamine làm tăng độ tập trung dopamine ở synapse và dẫn tới tăng hoạt tính của receptor D1 và D2, ngoài ra cocaine cũng gây ra ức chế thu hồi catecolamine, norepinephrine và serotonin. Hiệu quả trên hành vi thông qua hoạt tính này, gây tăng cường sự chú ý.
Cocaine làm giảm lưu lượng máu não và sử dụng glucose ở não. Hiệu quả trên hành vi của cocaine hầu như ngay lập tức và kéo dài khoảng 30-60 phút, vì vây cần thiết phải sử dụng lặp lại để duy trì hiệu quả nhiễm độc. Mặc dù hiệu quả của cocaine trên hành vi thì ngắn những chất chuyển hóa của nó có thể tồn tại trong máu và nước tiểu tới 10 ngày.
Cocaine là một chất gây nghiện mạnh, sự phụ thuộc về tâm thần có thể xảy ra sau 1 lần sử dụng bởi vì hiệu quả mạnh của nó có tác dụng củng cố dương tính trên hành vi. Khi sử dụng lặp lại, sự dung nạp và sự nhạy cảm tăng lên, mặc dù sự dung nạp và nhạy cảm hiển nhiên do nhiều yếu tố và không dễ dàng đoán trước. Có sự phụ thuộc về cơ thể, tuy nhiên hội chứng cai của cocaine nhẹ hơn so với hội chứng cai của các chất dạng thuốc phiện
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
Cocaine thường được sử dụng qua đường hít trực tiếp, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm kết hợp với hút. Hít cocaine ít nguy hiểm hơn tiêm chích và hút cocaine.
Crack là một chất cực kỳ mạnh, là chất tinh chế của cocaine. Nó được bán số lượng nhỏ và sẵn sàng để hút (thường được gọi là rock). Crack gât nghiện rất mạnh, thậm chí chỉ với 1 hoặc 2 lần sử dụng là đã gây thèm muốn mãnh liệt nên người nghiện thường sử dụng bạo lực để có tiền mua crack hút. Biểu hiện lâm sàng có nhiều loại khác nhau (tham khảo trong phần tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc cocaine ở mục sau).
Tác hại phổ biến do sử dụng cocaine đường mũi (hít trực tiếp) làm xung huyết niêm mạc mũi, cũng có thể viêm tấy nghiêm trọng, căng phồng lên, chảy máu, và loét niêm mạc mũi. Sử dụng lây ngày cocaine cũng có thể dẫn đến loét sâu do nhiễm khuẩn mũi. Việc sử dụng free-base (tên đường phố của cocaine chuyển từ dạng muối sang base) và crack có thể gây tổn thương nghiêm trọng phế quản và phổi. Tiêm tĩnh mạch cocaine thường kết hợp với nhiễm khuẩn, tắc mạch, lây truyển viêm gan B, C và HIV. Các biến chứng thần kinh nhẹ như loạn trương lực cơ, tic và đau đầu kiểu migraine. Tuy nhiên biến chứng nặng do sử dụng cocaine là tác động trên mạch máu não, động kinh, tim mạch.
Các tác dụng trên mạch máu não: bệnh mạch máu não phổ biến liên quan tới sử dụng cocaine là nhồi máu não không xuất huyết. Khi có nhồi máu não xuất huyết xảy ra, chúng có thể bao gồm xuất huyết dưới nhện, xuất huyết não, xuất huyết não thất. Có các cơn thiếu máu tạm thời thường kết hợp với sử dụng cocaine. Tất cả những rối loạn mạch não nêu trên thường liên quan tới tác động gây co mạch của cocaine.
Các cơn co giật: gặp khoảng 3-8% trường hợp cấp cứu do cocaine ở các phòng cấp cứu. Cocaine là chất gây nghiện thường gây ra cơn co giật nhiều nhất, tiếp theo đó là amphetamine. Cơn co giật cocaine có nguy cơ cao hơn ở những người cơ tiền sử động kinh, sử dụng liều cao cocaine, sử dụng crack.
Các tác dụng trên tim mạch: nhồi máu cơ tim và ngoại tâm thu thất có thể là những bất thường về tim mạch thường gặp nhất do cocaine. Các bệnh cơ tim có thể xảy ra do sử dụng kéo dài cocaine. Nhồi máu não, nhồi máu tim có thể là những biến chứng gia tăng của rối loạn chức năng tim mạch do cocaine.
Tử vong: sử dụng liều cao cocaine kết hợp với cơn co giật, suy hô hấp, bệnh mạch máu não và nhồi máu cơ tim, tất cả biên chứng vừa nêu trên có thể dẫn tới tử vong ở những người sử dụng cocaine. Những người sử dụng cocaine có thể có các dấu hiệu cảnh báo như ngất xỉu hoặc đau thắt ngực nhưng cũng có thể họ không để ý đến các dấu hiệu này bởi vì họ không thể kìm chế được thèm muốn sử dụng cocaine. Tử vong cũng có thể do sử dụng kết hợp các chất dạng thuốc phiện với cocaine.
D. CHẨN ĐOÁN:
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng cocaine
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán chung ở phần trước (DSM IV).
2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc cocaine
a. Vừa mới sử dụng cocaine.
b. Thay đổi hành vi hoặc tâm lý không thích hợp, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng cocaine (ví dụ khoái cảm hoặc cảm xúc cùn mòn; thay đổi sự hòa đồng, tăng tỉnh táo; tăng nhạy cảm trong quan hệ; lo âu; căng thẳng hoặc cáu giận; hành vi vô nghĩa; giảm sút lý lẽ hoặc giảm sút các chức năng xã hội nghề nghiệp).
c. Có ít nhất 2 trong số các triệu chứng sau, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng cocaine:
(9) Lú lẫn, co giật, loạn động, loạn trương lực cơ hoặc hôn mê.
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc rối loạn tâm thần khác gây ra.
Đặc trưng nếu kèm theo rồi loạn nhận thức.
3. Tiêu chuẩn chẩn đôán hội chứng cai cocaine
a. Ngừng hoặc giảm mạnh sử dụng cocaine hoặc giảm sử dụng kéo dài
b. Loạn cảm xúc và có ít nhất 2 sự thay đổi tâm lý sau đây, xuất hiện từ vài giờ tới vài ngày theo tiêu chuẩn
(1) Mệt mỏi.
(2) Ác mộng.
(3) Mất ngủ hoặc ngủ nhiều.
(4) Tăng khẩu vị.
(5) Kích động hoặc tâm thần vận động chậm.
c. Triệu chứng ở tiêu chuẩn b gây ra buồn phiền hoặc giảm sút rõ rệt các chức năng nghề nghiệp, xã hội hoặc các chức năng quan trọng khác.
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc rối loạn tâm thần khác gây ra.
4. Các rối loạn loạn thần liên quan tới cocaine
Hoang tưởng paranoid và ảo thanh có thể xảy ra ở 50% những người sử dụng cocaine. Việc xuất hiện các triệu chứng này phụ thuộc vào liều sử dụng, thời gian sử dụng và tính mẫn cảm của mỗi cá nhân đối với cocaine. Các rối loạn loạn thần do cocaine thường phổ biến ở những người tiêm tĩnh mạch cocaine và sử dụng crack. Nam giới thường bị nhiều hơn nữ giới. Thường gặp hoang tưởng paranoid và ảo thanh, còn ảo giác xúc giác và ảo thị ít gặp hơn.
5. Rối loạn cảm xúc liên quan tới cocaine
Rối loạn cảm xúc liên quan tới cocaine có thể khởi phát trong giai đoạn nhiễm độc hoặc cai cocaine. Thường gặp hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm trong giai đoạn nhiễm độc cocaine, còn trầm cảm thường gặp trong giai đoạn cai cocaine.
6. Rối loạn lo âu liên quan tới cocaine
Các rối loạn hoảng sợ, lo sợ ám ảnh và ám ảnh cưỡng bức thường gặp trong giai đoạn nhiễm độc hoặc cai cocaine.
7. Rối loạn chức năng tình dục liên quan đến cocaine
Rối loạn chức năng tình dục có thể bắt đầu khi bị nhiễm độc cocaine. Mặc dù cocaine được sử dụng như một thuốc kích dục và như một cách để làm chậm khoái cảm, nhưng việc sử dụng lặp lại chúng có thể gây ra bất lực.
8. Rối loạn giấc ngủ liên quan tới cocaine
Rối loạn giấc ngủ có thể xảy ra trong khi bị nhiễm độc (mất ngủ) hoặc hội chứng cai cocaine (ngủ nhiều).
Ngáo đá: là trạng thái loạn thần do sử dụng ma túy đá. Sau khi sử dụng ma túy đá, người chơi xuất hiện hoang tưởng, ảo giác, rối loạn hành vi. Những triệu chứng loạn thần trên dân gian gọi là ngáo đá.
Ma túy đá không chỉ được biết đến với tác dụng gây phê cho người nghiện mà còn là một loại thuốc khiến người dùng thèm muốn cả chuyện quan hệ tình dục. Nhiều người dùng ma túy đá để vui chơi hết mình, chứng tỏ đẳng cấp mà không biết rằng có sức tàn phá đối với sức khỏe, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Biểu hiện của những người thường xuyên sử dụng ma túy gây ra hậu quả thường thấy ảnh hưởng cho xã hội như chém giết người vô cớ, cuồng dâm, hoang tưởng, mất kiểm soát hành vi, nặng hơn sẽ mắc tâm thần và hậu quả cá nhân là suy kiệt thể chất và suy giảm khả năng tình dục và dần dần dẫn đến tình trạng mất trí (ngáo đá).
Bình đập đá " cóong "
Tinh thể ma túy đá
Đập đá là tiếng lóng của dân chơi ma túy đá nói riêng hay câu nói quen thuộc của dân chơi ma túy tổng hợp nói chung: "cắn kẹo, đập đá, phá ke", để thể hiện sự sành điệu trong giới ăn chơi. Khi sử dụng ma túy đá (quá trình đập đá) dân chơi có một bộ dụng cụ được gọi là "cóong" để sử dụng ma túy đá. Về bản chất "cóong" có cấu tạo giống như điếu cày hay bát điếu thuốc lào. Dân chơi cho ma túy đá vào lõ của cóong rồi đốt để ma túy đá nóng chảy bốc hơi, hơi này được dẫn qua một bầu nước để làm giảm bới sự độc hại, rồi được hít vào trong phổi giống như hút thuốc lào.
Khi ma túy đá vào cơ thể nó kích thích tế bào thần kinh trung ương tăng sinh nồng độ chất dẫn tryền thần kinh một cách cao độ làm nồng độ chất dẵn truyền thần kinh tăng vọt trong máu đưa người chơi và trạng thái hưng phất một cách tột độ.
B. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG KHI SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ GỒM:
I. KHI MỚI SỬ DỤNG CÓ NHỮNG BIỂU HIỆN SAU:
1. Cảm thấy khoẻ khoắn, lâng lâng sung sướng
2. Tỉnh táo hơn và tràn đầy sinh lực
3. Tăng ham muốn tình dục
4. Tăng khả năng giao tiếp
5. Không cảm thấy đói
6. Thông thái hơn, tâm trạng tốt hơn
7. Nhịp tim và huyết áp tăng
8. Tăng thân nhiệt
9. Giãn đồng tử
10. Thở nhanh
11. Khô miệng và khó nuốt, nếu nặng có thể gây tình trạng mất nước và sốt cao
C. KHI SỬ DỤNG LÂU DÀI NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ CÓ NHỮNG BIỂU HIỆN SAU:
I. MẤT NGỦ DO MA TÚY ĐÁ:
Là triệu chứng hay gặp nhất sau khi dùng ma túy đá. Người bệnh thường mất ngủ trắng đêm. Hết đêm này đến đêm khác làm người bệnh suy nhược thần kinh ở mức độ nặng, bộ mặt bơ phờ nhớn nhác, ngáo ngơ, mất tập trung nên người ta hay gọi là NGÁO ĐÁ. Người bệnh rất muốn ngủ nhưng không thể ngủ được và đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy người bệnh tiếp tục dùng ma túy đá.
II. CẢM GIÁC CUỐN:
Sau khi chơi ma túy đá đân chơi bị cuốn vào một việc gì đó ví dụ nghe nhạc, chơi games, sửa chữa đồ đạc trong nhà hoặc thoát lạc trong những cơn cuồng tình dục...
III. RỐI LOẠN CẢM XÚC:
Người sử dụng ma tuý đá có cảm xúc rất thất thường. Đặc biệt là khó khiểm soát cảm xúc vì vậy người bệnh hay cáu gắt, dễ nổi nóng kể cả ngay với những kích thích rất nhỏ . Ví dụ hay nổi khùng, có thể kích động, đập phá và đánh lại người nhà khi mà trái ý họ...
IV. ẢO GIÁC DO MA TÚY ĐÁ::
Thường là ảo thanh. Bệnh nhân nghe thấy tiếng nói trong đầu với nội dung xui khiến, ra lệnh, trò chuyện với bệnh nhân. Nội dung của ảo thanh thường mang nội dung xấu, tiêu cực vì vậy người bệnh có thể có những hành vi nguy hiểm cho bản thân bệnh nhân và những người xung quanh. Các hành vi hay gặp: tự hủy hoại cơ thể (đốt túi ni lông cho nóng chảy rồi nhỏ lên cơ thể. Vị trí nhỏ thường lên tay hoặc đùi). Có bệnh nhân còn tự chặt ngón chân hoặc ngón tay của mình mà không ý thức được việc mình làm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội thường là: dùng những vật sắc nhọn có tính sát thương cao tấn công người xung quanh...
V. HOANG TƯỞNG HAY GẶP MA TÚY ĐÁ:
Là hoang tưởng bị hại và-hoặc hoang tưởng ghen tuông. Trong khi người bệnh (ngáo đá) có hoang tưởng và ảo giác đi kèm thì rất dễ gây tổn thương cho bản thân và những người xung quanh. Trường hợp nhẹ hơn thì hay gặp đa nghi, nghi ngờ người khác đặc biệt là vợ, chồng hay người yêu... (người thân thích).
VI. TRẦM CẢM DO MA TÚY ĐÁ:
Sau một thời gian hưng phấn cao độ do ma túy đá mang lại, dân chơi ma túy đá thường rơi vào trạng thái trầm cảm. Biểu hiện là sự cáu bẳn, rất dẽ bị kích động và giảm khả năng kiềm chế. Người mệt mỏi rã rời, vẻ mặt buồn rầu và thường nằm lì trong phòng không chụi giao tiếp. ăn uống kém, cơ thể bệ rạc, bơ phờ. Chính cảm giác mệt mỏi này sẽ thúc đẩy người nghiện tiếp tục đi tìm (vì ngay sau khi chơi lại đá, dân chơi thấy khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực. Và đây là nguyên nhân chính làm cho dân chơi ma túy đá không thể từ bỏ được nó và họ nghiện ma túy đá lúc nào không biết. Mặc dù dân chơi đá luôn kháo nhau rằng:"dùng hàng đá thì không bao giờ nghiện". Đó là một quan niệm sai lầm chết người, khiến dân chơi đá khó mà thoát được vòng luẩn quẩn của ma túy đá
VII. SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ LÂU DÀI DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG MẤT TRÍ:
Do tác hại của ma túy đá khá nặng nề như trên nên người nghiện ma túy đá phải được điều trị kịp thời. Bệnh nhân cần được cách ly môi trường và được dùng các thuốc đặc hiệu để điều trị chứng loạn thần do ma túy đá gây nên. Loạn thần do ma túy đá thường rất hay tái phát vì bệnh nhân rất dễ tái nghiện. Vì vậy điều trị sau khi cai nghiện ma túy đá là rất quan trọng để người nghiện không tái sử dụng ma túy đá
TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP
DẠNG KÍCH THÍCH
(MA TÚY ĐÁ - THUỐC LẮC - AMPHETAMIN ...)
(Amphetamine – Type Stimulants) (ATS)
(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)
I. DỊCH TỄ HỌC:
Sử dụng Amphetamin có thể xảy ra ở mọi tầng lớp xã hội nhưng nhiều nhất ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng…
Lúc đầu, sử dụng Apx để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện ATS.
· Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
+ Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo. + Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
· Ở Mỹ
+ Binh lính Mỹ được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
+ Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
+ 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.
Năm 1991: 7% dân số dùng ATS ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất (7% có sử dụng ít nhất 1 lần), nhóm 12 - 17 có tỷ lệ nghiện đáng báo động (3% đã sử dụng ít nhất 1 lần).
Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng sử dụng ít nhất 1 lần và năm 1994: tăng đến 15,7%.
· Ở Nhật:
Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25 sử dụng ATS ít nhất 1 lần (sau đệ nhị thế chiến). Hiện nay ATS vẫn là chất ma túy chủ yếu…
· Các nơi khác:
Số nguời đã sử dụng ATS ở Thụy Sĩ là 8%, Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%, Brazil là 5%. Tại Úc 25% nam và 12% nữ tuổi từ 20- 24 đã thử dùng ATS.
· Ở Việt Nam:
Xuất hiện từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.
ATS được dùng phổ biến ở Việt Nam là Methamphetamine và Ectasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..
Do giá thành cao, ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.
* Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY
THANH ĐA(TỪ 2005 ĐẾN 09/2016) thống kê cho thấysố học viên sử dụng nhóm ATS như sau:
- VẤN ĐỀ NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM ATS CẦN BÁO ĐỘNG:TÁC HẠI CỦA NGHIỆN MA TÚY NHÓM ATS LÀ KHÔNG LƯỜNG ĐƯỢC, nhất là khi người nghiện ma túy thuộc nhóm tài xế lái xe tải nặng đường dài, số người nghiện có tiền án tiền sự, số người từ các trung tâm cai nghiện trở về tái nghiện, …Cho đến nay số học viên nghiện ma túy nhóm ATS đã được điều trị tại Trung tâm là hơn 5.000 trường hợp. Kết quả trên cho thấy:
- Số người sử dụng ma túy ATStăng nhanh đều mỗi năm. Hiện nay tại Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa số học viên sử dụng ATSchiếm hơn 50% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy.
II. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:
Tất cả các loại ATS đều hấp thu nhanh qua đường uống và tác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều loại ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.
- Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine (hàng đá) và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.
- Các loại amphetamine mới( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điển và gây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotonin và ức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.
- MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …
III.TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
ATS gây ra các triệu chứng sau:
+ Giãn đồng tử
+ Khô miệng, khô môi
+ Tăng, giảm nhịp tim
+ Tăng, giảm huyết áp
+ Đau ngực, ức chế hô hấp
+ Toát mồ hôi, rét run
+ Mất trí nhớ
+ Giảm khả năng xét đoán, tập trung
+ Giảm khả năng lao động xã hội.
+ Buồn nôn, nôn
+ Mất ngủ
+ Sút cân
+ Giảm ăn, biếng ăn
+ Hỏng răng, nuốt khó
+ Kích động, ức chế trung tâm vận động.
+ Trầm cảm, lo lắng
+ Căng thẳng, giận dữ, bồn chồn.
+ Hoang tưởng, ảo thanh, phản ứng hoảng sợ
+ Lú lẫn hay hôn mê
+ Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
+ Đột quỵ, nhũn não, đau đầu
+ Có ý tưởng tự sát.
Tóm lại, triệu chứng lâm sàng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:
1. VỀ CƠ THỂ:
+ Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.
+ Các biểu hiện lâm sàng đáng chú ý bao gồm:nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu não và viêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng ATS thường có hành vi tình dục không an toàn.
+ Cáctác dụng không mong muốn và ítnguy hiểm là: nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
+ Ở phụ nữ có thai thường thai nhi chậm lớn, nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, sinh non.
2. VỀ TÂM THẦN:
Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau:bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể xảy ra.
· Đối với người sử dụng các loạiAmphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:
- Triệu chứng ngắn hạn: Nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.
- Triệu chứng kéo dài:ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.
Ngoài ra hầu hết các chất ATS làmtăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễlây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.
IV. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.
1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
- Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
- Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
- Các hành vi có tính định hình
- Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.
Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.
3. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:
+ Giãn đồng tử
+ Tăng, giảm nhịp tim
+ Tăng, giảm huyết áp
+ Toát mồ hôi, rét run
+ Buồn nôn, nôn
+ Sút cân
+ Kích động, ức chế trung tâm vận động.
+ Đau ngực, ức chế hô hấp
+ Lú lẫn hay hôn mê
+ Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
D. Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.
V. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
(Amphetamine Inducd Psychosis)
1. Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
- Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
- Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
- Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
2. Tăng hoạt độnghoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
3. Tăng tình dục(hypersexuality)
4. Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
· Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
· Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.
VI. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:
1. Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
2. Các triệu chứngđạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sau và hết sau khoảng một tuần.
3. Triệu chứngnặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát.
VII. CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG CAI (DSM - IV):
1. Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...) APT.
2. Rối loạn khí sắc và 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
- Mệt mỏi
- Có những giấc mơ đáng sợ.
- Mất ngủ hay ngủ nhiều.
-Tăng cảm giác ngon miệng.
- Kích thích hoặc ức chếtâm thần vận động.
3. Cáctriệu chứngnàythể hiệnrõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.
4. Các triệu chứng nàykhông phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.
VIII. HÌNH ẢNHTỔN THƯƠNG NÃO BỘ NGHIÊM TRỌNG TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:
NÃO BỆNH NHÂN NGHIỆN HÀNG ĐÁ (METHAMPHETAMINE)
Cận cảnh khuôn mặt biến dạng
do sử dụng ma túy
LOS ANGELES, California (VMA): Chuyện nghiện thuốc ngày nay hết sức thông thường, nhưng hậu quả của nó quá nguy hiểm và tàn tệ.
Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
Loại thuốc tây gây nghiện “crystal methamphetamine,” còn gọi là “crystal meth,” chính là chất gây nghiện cực mạnh, đến nổi nó có thể đánh lừa, gây nghiện và cám dỗ nạn nhân vào cơn mê, cảm thấy mình có thể làm mọi thứ hoặc trở nên bất cứ ai mà mình muốn.
Trước và sau 8 tháng nghiện Methamphetamine.
Bác sĩ tâm thần Steven Klevens đã có cuộc nghiên cứu về người nghiện “crystal meth,” khám phá ra loại thuốc này tiềm tàng nguy hiểm chết người và có sức tàn phá cơ thể khủng khiếp.
Trước và sau 4 tháng nghiện Methamphetamine.
Sau nhiều năm sử dụng thuốc, con nghiện biến đổi đến mức không ai nhận ra được. Trong một số trường hợp, những bức hình đối chiếu trước và sau một thời gian nghiện thuốc thật sự gây sửng sốt.
Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
“Thuốc có thể khiến người nghiện tự rạch da mình, vì họ cảm thấy những vật cộm ngứa bò trong người, và đó là tại sao chúng ta thấy người nghiện có nhiều vết lở loét, trầy xướt khắp người,” bác sĩ Klevens giải thích.
Trước và sau 1 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
“Crystal meth cực kỳ nguy hiểm,” theo lời bác sĩ Klevens, loại chất đó gây nghiện rất mau, có khi “chơi” một hai lần là bị ghiền luôn, không bỏ được.
Trước và sau 4 năm nghiện Methamphetamine.
Meth là loại ma túy được ghi nhận là đứng hàng đầu trong danh sách nghiện ngập được chữa trị trong hệ thống y tế công, theo chương trình phòng chống rượu và chất gây nghiện của California, Hoa Kỳ.
Trước và sau 2 năm nghiện Methamphetamine.
Người nghiện là cư dân California chiếm tới 40% số trường hợp được chữa trị trên toàn quốc.
Trước và sau 3 tháng nghiện Methamphetamine.
Các cuộc nghiên cứu cho thấy sự thiệt hại về sức lao động mỗi năm là $7 tỷ Mỹ kim, nếu chỉ tính riêng tiểu bang California.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Nếu nhìn vào các bức hình kèm theo với bài này, chúng ta có thể nhận ra một thông điệp dứt khoát: “Meth” là sự khởi đầu của chấm dứt và mất hết. (VietMediaAgency.com)
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
TÁC ĐỘNG DÀI HẠN CỦA MA TÚY KÍCH THÍCH
NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH NÃO MÃN TÍNH – KHÓ CHỮA
Não bộ thể hiện những tổn thương một cách rõ ràng sau khi sử dụng ma túy và những tổn thương này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.
CẮT CƠN GIẢI ĐỘC KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY
Đó chỉ đơn giản là việc làm đầu tiên, quan trọngĐỂ KHỞI ĐẦU CHO MỘT QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN LÂU DÀI, LIÊN TỤC.
ĐIỀU TRỊ SẼ CHO KẾT QUẢ TỐT
Nhưng với điều kiện:
*Đúng thuốc
*Đúng người bệnh
*Đúng thời gian
*Đúng phương pháp
Để CAI NGHIỆN MA TÚY THÀNH CÔNG, vấn đề GIÁO DỤC, ĐIỀU TRỊ nhằm ĐIỀU CHỈNH – PHỤC HỒI NHẬN THỨC, HÀNH VI, NHÂN CÁCH – GIẢI QUYẾT CÁC CHẤN THƯƠNG TÂM LÝ – MÂU THUẪN NỘI TÂM của đối tượng là QUAN TRỌNG NHẤT – UỐNG THUỐC LÀ BIỆN PHÁP HỔ TRỢ.
KHÔNG MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN ĐƠN THUẦN NÀO (uống thuốc – châm cứu – bấm huyệt – phẫu thuật thùy trán,…) CÓ THỂ CHỮA ĐƯỢC BỆNH NGHIỆN MA TÚYmà phải ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN thông quaSinh hoạt trị liệu – Hoạt động trị liệu – Lao động trị liệu – Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu,…sinh hoạt cá nhân – nhóm – gia đình,… kết hợp vớihóa dược.
Một TRUNG TÂM CAI NGHIỆN TỐT phải đạt được các tiêu chuẩn sau:
+ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ: Khoa học – Tổng hợp – Toàn diện.
+ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC phải có tâm huyết, có trình độ - được đào tạo bài bản, hiểu biết sâu sắc về cai nghiện – phục hồi.
+ CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐẦY ĐỦ để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của đối tượng.
+ CÔNG TÁC QUẢN LÝ phải chặt chẽ - kịp thời – năng động – tác nghiệp trên một thể thống nhất.
BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI
GIẢI QUYẾT TRÊN ĐỐI TƯỢNG
NGHIỆN MA TÚY:
1.Tổn thương hệ thống não bộ và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.
2.Rối loạn và xuống cấp nhận thức – hành vi – nhân cách.
3.Chấn thương tâm lý: đây không phải là một hành động nhất thời mà là một quá trìnhdiễn biến đầy mâu thuẫn và phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện của người nghiện ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội.
4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện, trừ một số ít trường hợp nhẹ.
Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn nhận thức hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.
ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRÊN Y VĂN THẾ GIỚI ĐÃ CHỈ RÕ:
1/Không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiệnmà chỉ có những nguyên tắc căn bản về điều trị - giáo dục – quản lý đối với người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này, chưa hẳn đã phù hợp với người khác, mà thậm chí kết quả còn ngược lại.
2/ Trừ một số ít trường hợp nghiện nhẹ,điều trị nghiện ma túy phải sử dụng một biện pháp tổng hợp, linh hoạt và kịp thờinhằm mục đích gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giải tỏa các chấn thương tâm lý và để người cai nghiện không còn thèm nhớ ma túyphải sử dụng các liệu pháp sau:
· Tư vấn – Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Liệu pháp xã hội - Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu – Hoạt động trị liệu – Sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình,…
· Đối với nhóm người nghiện Á phiện - Morphine -Héroine (OMH) cần phải uống thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ ma túy. Tuy nhiên, nếu chỉ uống thuốc Naltexone đơn thuần mà không sử dụng các liệu pháp trên, người cai nghiện sẽ không được phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách – giải quyết các chấn thương tâm lý nên dễ bỏ chương trình điều trị và dễ tái sử dụng ma túy. Kết quả điều trị do đó sẽ rất hạn chế.
3/ Không có một liệu pháp đơn thuần nào (uống thuốc, châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật thùy não,…) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy.
4/ Chương trình điều trị phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy giải quyết– nhưng phải phối hợp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.
5/ Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.
ĐỂ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU TRÊN,
TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN
MA TÚY THANH ĐA ĐÃ XÂY DỰNG
MỘT LỰC LƯỢNG CHUYÊN MÔN MẠNH:
KHỐI Y TẾ
- TỔNG SỐ: 33 CBNV
- TRÊN ĐẠI HỌC: 1Tiến sỹ Y khoa – 1 Bs Chuyên khoa Cấp I.
- ĐẠI HỌC: 5Bác sĩ, 1 Dược sĩ
- Y SĨ – ĐIỀU DƯỠNG:20 NV
* Y - Bác sỹ khối Y tế đã được huấn luyện điều trị và tư vấn về ma túy + các bệnh Lao - HIV/AIDS các bệnh truyền nhiễm và các phương pháp chống tái nghiện (đã được các cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận.)
* CBNV thuộc nhiều chuyên ngành: Cai nghiện phục hồi - Tâm thần - Da liễu - Gan mật - Điều dưỡng - Tim mạch - Sản phụ khoa....
KHỐI TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU – GIÁO DỤC TRỊ LIỆU –HUẤN NGHIỆP, LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU:
- TỔNG SỐ: 30 CBNV
+TRÊN ĐẠI HỌC: 05 (02 Tiến sĩ Xã hội học, 03 Thạc sỹ Tâm lý Giáo dục). + ĐẠI HỌC:20 (03 Cử nhân Tâm lý Trị liệu + 08 Cử nhân Tâm lý Giáo dục + 03 Cử nhân Xã hội học + 06 Đại học khác).
- Đội ngũ CBNV có trình độ - đa dạng - năng động và nhạy bén.
- Gồm từ nhiều nguồn như Đại họcY - Dược, ĐH Sư phạm, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH Thể dục - Thể thao, ĐH Luật, Cán bộ phong trào, Cựu sỹ quan Công an - Bộ đội nhiều binh chủng khác nhau…đã được tập huấn, bồi dưỡng nhiều chương trình, nhiều lớp chuyên đề về cai nghiện - phục hồi - tâm lý - xã hội do Bộ, Sở Y tế; Bộ, Sở Lao động Thương binh Xã hội, các tổ chức Quốc tế và các bệnh viện chuyên ngành tổ chức.
- Ngoài ra còn 10 giáo viên kỹ thuật của Trường Cao Đẳng Nghề Nguyễn Trường Tộ Tp. Hồ Chí Minh đến dạy nghề cho học viên.
TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP
DẠNG KÍCH THÍCH
(MA TÚY ĐÁ - THUỐC LẮC - AMPHETAMIN ...)
(Amphetamine – Type Stimulants) (ATS)
(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)
I. DỊCH TỄ HỌC:
Sử dụng Amphetamin có thể xảy ra ở mọi tầng lớp xã hội nhưng nhiều nhất ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng… Lúc đầu, sử dụng Apx để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện ATS.
Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2
+ Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo.
+ Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
Ở Mỹ
+ Binh lính Mỹ được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
+ Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
+ 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.
+ Năm 1991: 7% dân số dùng ATS ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất (7% có sử dụng ít nhất 1 lần), nhóm 12 - 17 có tỷ lệ nghiện đáng báo động (3% đã sử dụng ít nhất 1 lần).
+ Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng sử dụng ít nhất 1 lần và năm 1994: tăng đến 15,7%
Ở Nhật :
Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25 sử dụng ATS ít nhất 1 lần (sau đệ nhị thế chiến). Hiện nay ATS vẫn là chất ma túy chủ yếu
Các nơi khác:
Số nguời đã sử dụng ATS ở Thụy Sĩ là 8%, Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%, Brazil là 5%. Tại Úc 25% nam, 12% nữ tuổi từ 20- 24 đã thử dùng ATS.
Ở Việt Nam:
+ Xuất hiện từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.
+ ATS được dùng phổ biến ở Việt Nam là Methamphetamine và Ectasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..
+ Do giá thành cao, ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.
* Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY
THANH ĐA(TỪ 2005 ĐẾN 09/2018) thống kê cho thấysố học viên sử dụng nhóm ATS như sau:
VẤN ĐỀ NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM ATS CẦN BÁO ĐỘNG:TÁC HẠI CỦA NGHIỆN MA TÚY NHÓM ATS LÀ KHÔNG LƯỜNG ĐƯỢC, nhất là khi người nghiện ma túy thuộc nhóm tài xế lái xe tải nặng đường dài, số người nghiện có tiền án tiền sự, số người từ các trung tâm cai nghiện trở về tái nghiện, …Cho đến nay số học viên nghiện ma túy nhóm ATS đã được điều trị tại Trung tâm là hơn 5.000 trường hợp. Kết quả trên cho thấy:
- Số người sử dụng ma túy ATStăng nhanh đều mỗi năm. Hiện nay tại Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa số học viên sử dụng ATSchiếm hơn 50% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy.
II. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:
Tất cả các loại ATS đều hấp thu nhanh qua đường uống và tác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều loại ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.
- Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine (hàng đá) và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.
- Các loại amphetamine mới( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điển và gây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotonin và ức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.
- MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …
III. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
ATS gây ra các triệu chứng sau:
+ Giãn đồng tử
+ Khô miệng, khô môi
+ Tăng, giảm nhịp tim
+ Tăng, giảm huyết áp
+ Đau ngực, ức chế hô hấp
+ Toát mồ hôi, rét run
+ Mất trí nhớ
+ Giảm khả năng xét đoán, tập trung
+ Giảm khả năng lao động xã hội.
+ Buồn nôn, nôn
+ Mất ngủ
+ Sút cân
+ Giảm ăn, biếng ăn
+ Hỏng răng, nuốt khó
+ Kích động, ức chế trung tâm vận động.
+ Trầm cảm, lo lắng
+ Căng thẳng, giận dữ, bồn chồn.
+ Hoang tưởng, ảo thanh, phản ứng hoảng sợ
+ Lú lẫn hay hôn mê
+ Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
+ Đột quỵ, nhũn não, đau đầu
+ Có ý tưởng tự sát.
Tóm lại, triệu chứng lâm sàng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:
1. VỀ CƠ THỂ:
+ Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.
+ Các biểu hiện lâm sàng đáng chú ý bao gồm: nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu não và viêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng ATS thường có hành vi tình dục không an toàn.
+ Cáctác dụng không mong muốn và ítnguy hiểm là: nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
+ Ở phụ nữ có thai thường thai nhi chậm lớn, nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, sinh non.
2. VỀ TÂM THẦN:
Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau:bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể xảy ra.
Đối với người sử dụng các loạiAmphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:
- Triệu chứng ngắn hạn: Nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.
- Triệu chứng kéo dài: ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.
Ngoài ra hầu hết các chất ATS làmtăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễlây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.
III. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.
1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
,
2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
- Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
- Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
- Các hành vi có tính định hình
- Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.
Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.
3. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:
- Giãn đồng tử
- Tăng, giảm nhịp tim
- Tăng, giảm huyết áp
- Toát mồ hôi, rét run
- Buồn nôn, nôn
- Sút cân
- Kích động, ức chế trung tâm vận động.
- Đau ngực, ức chế hô hấp<
- Lú lẫn hay hôn mê
- Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.
IV. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
(Amphetamine Inducd Psychosis)
1. Biểu hiện cốt lõi là hội chứng paranoid với các đặc trưng:
- Nhiều ảo thị sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
- Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
- Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
2. Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
3. Tăng tình dục(hypersexuality)
4. Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
- Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
- Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.
V. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:
1. Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
2. Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sau và hết sau khoảng một tuần.
3. Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát.
VI. CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG CAI (DSM - IV):
1. Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...) APT.
2. Rối loạn khí sắc và 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
- Mệt mỏi
- Có những giấc mơ đáng sợ.
- Mất ngủ hay ngủ nhiều.
- Tăng cảm giác ngon miệng.
- Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.
3. Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.
4. Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.
VII. HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG NÃO BỘ NGHIÊM TRỌNG TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:
NÃO BỆNH NHÂN NGHIỆN HÀNG ĐÁ (METHAMPHETAMINE)
Cận cảnh khuôn mặt biến dạng
do sử dụng ma túy
LOS ANGELES, California (VMA): Chuyện nghiện thuốc ngày nay hết sức thông thường, nhưng hậu quả của nó quá nguy hiểm và tàn tệ.
Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
Loại thuốc tây gây nghiện “crystal methamphetamine,” còn gọi là “crystal meth,” chính là chất gây nghiện cực mạnh, đến nổi nó có thể đánh lừa, gây nghiện và cám dỗ nạn nhân vào cơn mê, cảm thấy mình có thể làm mọi thứ hoặc trở nên bất cứ ai mà mình muốn.
Trước và sau 8 tháng nghiện Methamphetamine.
Bác sĩ tâm thần Steven Klevens đã có cuộc nghiên cứu về người nghiện “crystal meth,” khám phá ra loại thuốc này tiềm tàng nguy hiểm chết người và có sức tàn phá cơ thể khủng khiếp.
Trước và sau 4 tháng nghiện Methamphetamine.
Sau nhiều năm sử dụng thuốc, con nghiện biến đổi đến mức không ai nhận ra được. Trong một số trường hợp, những bức hình đối chiếu trước và sau một thời gian nghiện thuốc thật sự gây sửng sốt.
Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
“Thuốc có thể khiến người nghiện tự rạch da mình, vì họ cảm thấy những vật cộm ngứa bò trong người, và đó là tại sao chúng ta thấy người nghiện có nhiều vết lở loét, trầy xướt khắp người,” bác sĩ Klevens giải thích.
Trước và sau 1 năm rưỡi nghiện Methamphetamine.
“Crystal meth cực kỳ nguy hiểm,” theo lời bác sĩ Klevens, loại chất đó gây nghiện rất mau, có khi “chơi” một hai lần là bị ghiền luôn, không bỏ được.
Trước và sau 4 năm nghiện Methamphetamine.
Meth là loại ma túy được ghi nhận là đứng hàng đầu trong danh sách nghiện ngập được chữa trị trong hệ thống y tế công, theo chương trình phòng chống rượu và chất gây nghiện của California, Hoa Kỳ.
Trước và sau 2 năm nghiện Methamphetamine.
Người nghiện là cư dân California chiếm tới 40% số trường hợp được chữa trị trên toàn quốc.
Trước và sau 3 tháng nghiện Methamphetamine.
Các cuộc nghiên cứu cho thấy sự thiệt hại về sức lao động mỗi năm là $7 tỷ Mỹ kim, nếu chỉ tính riêng tiểu bang California.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Nếu nhìn vào các bức hình kèm theo với bài này, chúng ta có thể nhận ra một thông điệp dứt khoát: “Meth” là sự khởi đầu của chấm dứt và mất hết. (VietMediaAgency.com)
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
Trước và sau khi nghiện Methamphetamine.
TÁC ĐỘNG DÀI HẠN CỦA MA TÚY KÍCH THÍCH
NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH NÃO MÃN TÍNH – KHÓ CHỮA
Não bộ thể hiện những tổn thương một cách rõ ràng sau khi sử dụng ma túy và những tổn thương này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.
CẮT CƠN GIẢI ĐỘC KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY
Đó chỉ đơn giản là việc làm đầu tiên, quan trọngĐỂ KHỞI ĐẦU CHO MỘT QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN LÂU DÀI, LIÊN TỤC.
ĐIỀU TRỊ SẼ CHO KẾT QUẢ TỐT
Nhưng với điều kiện:
*Đúng thuốc
*Đúng người bệnh
*Đúng thời gian
*Đúng phương pháp
Để CAI NGHIỆN MA TÚY THÀNH CÔNG, vấn đề GIÁO DỤC, ĐIỀU TRỊ nhằm ĐIỀU CHỈNH – PHỤC HỒI NHẬN THỨC, HÀNH VI, NHÂN CÁCH – GIẢI QUYẾT CÁC CHẤN THƯƠNG TÂM LÝ – MÂU THUẪN NỘI TÂM của đối tượng là QUAN TRỌNG NHẤT – UỐNG THUỐC LÀ BIỆN PHÁP HỔ TRỢ.
KHÔNG MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN ĐƠN THUẦN NÀO (uống thuốc – châm cứu – bấm huyệt – phẫu thuật thùy trán,…) CÓ THỂ CHỮA ĐƯỢC BỆNH NGHIỆN MA TÚYmà phải ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN thông quaSinh hoạt trị liệu – Hoạt động trị liệu – Lao động trị liệu – Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu,…sinh hoạt cá nhân – nhóm – gia đình,… kết hợp vớihóa dược.
Một TRUNG TÂM CAI NGHIỆN TỐT phải đạt được các tiêu chuẩn sau:
+ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ: Khoa học – Tổng hợp – Toàn diện.
+ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC phải có tâm huyết, có trình độ - được đào tạo bài bản, hiểu biết sâu sắc về cai nghiện – phục hồi.
+ CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐẦY ĐỦ để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của đối tượng.
+ CÔNG TÁC QUẢN LÝ phải chặt chẽ - kịp thời – năng động – tác nghiệp trên một thể thống nhất.
BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI
GIẢI QUYẾT TRÊN ĐỐI TƯỢNG
NGHIỆN MA TÚY:
1.Tổn thương hệ thống não bộ và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.
2.Rối loạn và xuống cấp nhận thức – hành vi – nhân cách.
3.Chấn thương tâm lý: đây không phải là một hành động nhất thời mà là một quá trìnhdiễn biến đầy mâu thuẫn và phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện của người nghiện ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội.
4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện, trừ một số ít trường hợp nhẹ.
Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn nhận thức hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.
ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRÊN Y VĂN THẾ GIỚI ĐÃ CHỈ RÕ:
1/Không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiệnmà chỉ có những nguyên tắc căn bản về điều trị - giáo dục – quản lý đối với người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này, chưa hẳn đã phù hợp với người khác, mà thậm chí kết quả còn ngược lại.
2/ Trừ một số ít trường hợp nghiện nhẹ,điều trị nghiện ma túy phải sử dụng một biện pháp tổng hợp, linh hoạt và kịp thờinhằm mục đích gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giải tỏa các chấn thương tâm lý và để người cai nghiện không còn thèm nhớ ma túyphải sử dụng các liệu pháp sau:
· Tư vấn – Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Liệu pháp xã hội - Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu – Hoạt động trị liệu – Sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình,…
· Đối với nhóm người nghiện Á phiện - Morphine -Héroine (OMH) cần phải uống thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ ma túy. Tuy nhiên, nếu chỉ uống thuốc Naltexone đơn thuần mà không sử dụng các liệu pháp trên, người cai nghiện sẽ không được phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách – giải quyết các chấn thương tâm lý nên dễ bỏ chương trình điều trị và dễ tái sử dụng ma túy. Kết quả điều trị do đó sẽ rất hạn chế.
3/ Không có một liệu pháp đơn thuần nào (uống thuốc, châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật thùy não,…) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy.
4/ Chương trình điều trị phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy giải quyết– nhưng phải phối hợp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.
5/ Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.
ĐỂ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU TRÊN,
TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN
MA TÚY THANH ĐA ĐÃ XÂY DỰNG
MỘT LỰC LƯỢNG CHUYÊN MÔN MẠNH:
KHỐI Y TẾ
- TỔNG SỐ: 33 CBNV
- TRÊN ĐẠI HỌC: 1Tiến sỹ Y khoa – 1 Bs Chuyên khoa Cấp I.
- ĐẠI HỌC: 5Bác sĩ, 1 Dược sĩ
- Y SĨ – ĐIỀU DƯỠNG:20 NV
* Y - Bác sỹ khối Y tế đã được huấn luyện điều trị và tư vấn về ma túy + các bệnh Lao - HIV/AIDS các bệnh truyền nhiễm và các phương pháp chống tái nghiện (đã được các cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận.)
* CBNV thuộc nhiều chuyên ngành: Cai nghiện phục hồi - Tâm thần - Da liễu - Gan mật - Điều dưỡng - Tim mạch - Sản phụ khoa....
KHỐI TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU – GIÁO DỤC TRỊ LIỆU –HUẤN NGHIỆP, LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU:
- TỔNG SỐ: 30 CBNV
+TRÊN ĐẠI HỌC: 05 (02 Tiến sĩ Xã hội học, 03 Thạc sỹ Tâm lý Giáo dục). + ĐẠI HỌC:20 (03 Cử nhân Tâm lý Trị liệu + 08 Cử nhân Tâm lý Giáo dục + 03 Cử nhân Xã hội học + 06 Đại học khác).
- Đội ngũ CBNV có trình độ - đa dạng - năng động và nhạy bén.
- Gồm từ nhiều nguồn như Đại họcY - Dược, ĐH Sư phạm, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH Thể dục - Thể thao, ĐH Luật, Cán bộ phong trào, Cựu sỹ quan Công an - Bộ đội nhiều binh chủng khác nhau…đã được tập huấn, bồi dưỡng nhiều chương trình, nhiều lớp chuyên đề về cai nghiện - phục hồi - tâm lý - xã hội do Bộ, Sở Y tế; Bộ, Sở Lao động Thương binh Xã hội, các tổ chức Quốc tế và các bệnh viện chuyên ngành tổ chức.
- Ngoài ra còn 10 giáo viên kỹ thuật của Trường Cao Đẳng Nghề Nguyễn Trường Tộ Tp. Hồ Chí Minh đến dạy nghề cho học viên.
TÁC HẠI CỦA MA TÚY DẠNG ĐÊ MÊ (THUỐC PHIỆN - MORPHIN - HEROIN)
Bác sĩ Chuyên khoa II - Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
I. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:
1. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN LÊN NÃO:
- Morphine khi vào cơ thể liên kết với proteine huyết tương với tỉ lệ khoảng 30% và được chuyển hóa chủ yếu thành dẫn xuất glucoronocojugues, dẫn xuất này qua chu trình ruột gan.
- 6-glucoronide là một chất chuyển hóa mạnh hơn 50 lần so với morphine. Đáp ứng sinh học với đường tiêm dưới da, và chỉ bằng 30% so với đường tiêm tĩnh mạch. Thời gian bán hủy của morphine trong máu khoảng 2-6 giờ.
- Các dẫn xuất glucorono cojugues được đào thải chủ yêu qua nước tiểu, thải trừ qua phân dưới 10% (sau 24 giờ 90% morphine bài tiết ra ngoài), chỉ một lượng nhỏ morphine vào hệ thần kinh trung ương và đến các điểm tiếp nhận morphine ở não.
- Có nhiều điểm tiếp nhận morphine ở não (µ, ĸ, σ, δ) nhưng các điểm tiếp nhận µ là cơ sở chủ yếu, nằm rải rác ở não, tập trung nhiều nhất ở vừng dưới đồi, có một ít ở hệ thần kinh thực vật.
- Tại các điểm tiếm nhận µ có sẵn các peptide nội sinh (endorphine, enkephaline...), các peptide này tác động qua lại với morphine và dẫn truyền morphine qua hệ thần kinh đến các vùng khác nhau của cơ thể gây ra các tác dụng chuyên biệt như: giảm đau, giải lo âu, chống trầm cảm, ức chế hô hấp (giảm ho), tăng trương lực cơ tron dạ dày, ruột (chống tiêu chảy), đặc biệt gây cảm giác sảng khoái.
- Tuy nhiên chính cảm giác sảng khoái lợi bất cập hại này đã quyến rũ người sử dụng và sản sinh ra hiện tượng nghiện với ba trạng thái: dung nạp, lệ thuộc cơ thể, lệ thuộc tâm thần.
2. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA TRẠNG THÁI DUNG NẠP
- Morphine tác động liên tục vào các điểm tiếp nhận µ sẽ ức chế hoạt động của các men adenylcyclase là men kích thích chất ATP (adenosin triphosphate) để sản xuất ra chất AMPc (adenosin monophosphate cyclique), một chất có vai trò thiết yếu trong sản sinh và dẫn truyền các xung động thần kinh, năng lượng cơ bản của hoạt động thần kinh và tâm thần.
- Do cơ thể không thể thiếu adenylcyclase được, nên để bù vào lượng adenylcyclase do morphine làm giảm, cơ thể phải liên tục tổng hợp adenylcyclase với nồng độ không ngừng tăng lên.
- Muốn làm giảm adenylcyclase để có được cảm giác sảng khoái như lần trước, lượng morphine đưa vào cơ thể lần sau phải cao hơn. Và cứ như thế, cơ thể người nghiện được tập dượt để dần dần dung nạp những liều morphine ngày càng tăng và tăng rất cao.
3. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA TRẠNG THÁI LỆ THUỘC VỀ MẶT CƠ THỂ (HAY TRẠNG THÁI CAI):
- Trong khi người nghiện ngừng sử dụng các chất dạng thuốc phiện, cơ thể vẫn duy trì phương thức đáp ứng như khi có một lượng lớn chất dạng thuốc phiện đưa vào cơ thể hàng ngày, tức là vẫn liên tục tổng hợp một lượng lớn men adenylcyclase. Các chất morphine nội sinh (endorphine) được cơ thể sản xuất quá ít, không thể ức chế được lượng adenylcyclase quá lớn này.
- Do nồng độ AMP vòng trong cơ thể tăng vọt lên, kích thích mãnh liệt hệ thần kinh, gây triệu chứng cơ thể rất khó chịu, báo động gây gắt trạng thái thiếu hụt morphine và nhu cầu cần thiết phải đưa ngay morphine vào cơ thể. Người nghiện không thể cưỡng lại được, phải bằng mọi giá tìm cho kỳ được chất dạng thuốc phiện để đưa vào cơ thể.
4. CƠ SỞ SINH HỌC CỦA TRẠNG THÁI LỆ THUỘC VỀ MẶT TÂM THẦN (HAY THÈM CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN) TRƯỜNG DIỄN:
- Theo nhận định thống nhất của hội đồng các chuyên viên về lạm dụng chất của Tổ chức Y Tế thế giới thì sự lệ thuộc vào chất gây nghiện trước hết và chủ yếu là sự lệ thuộc về mặt tâm thần. Còn đối với sự lệ thuộc về mặt cơ thể (trạng thái cai) thì có bản năng sinh tồn, cơ thể phải tự điều chỉnh để sớm chấm dứt các triệu chứng cơ thể gay gắt, khó chịu đựng trong vòng từ 1-2 tuần (trung bình trong vòng 10 ngày).
- Tuy nhiên, mất hội chứng cai rồi, người nghiện chất dạng thuốc phiện vẫn tiếp tục nhớ và thèm cái cảm giác khoái và cảm giác bình thản do chất dạng thuốc phiện tạo ra. Đó là nguyên nhân làm cho gần như 100% người nghiện chất dạng thuốc phiện tái nghiện sau khi cắt cơn một thời gian ngắn hoặc nếu không được điều trị duy trì. Đây là một hiện tượng sinh học phức tạp, chưa được sáng tỏ hoàn toàn nên có nhiều cách giải thích khác nhau tùy theo quan điểm của từng học giả.
- Đa số các tác giả thừa nhận cảm giác sảng khoái và bình thản do chất dạng thuốc phiện gây ra là cơ sở sinh học của trạng thái thèm nhớ trường diễn chất ma túy. Và môi trường dễ có được chất dạng thuốc phiện nói riêng (và các chất gây nghiện nói chung) là nhân tố kích thích xung động tìm chất ma túy của người nghiện.
- Một số nhà điều trị theo liệu pháp tập tính cho rằng trong một thời gian dài, tất cả các phản ứng của não bộ đối với chất dạng thuốc phiện nói riêng (và ma túy nói chung) đã đưa vào hàng ngày, nhất là phản ứng của các điểm tiếp nhận tương ứng, đều được lưu dấu vết bền vững vào bộ nhớ não, hình thành một phản xạ có điều kiện, có cơ sở sinh học kiên cố không dễ dàng xóa được. Do vậy, những người đã cai chất dạng thuốc phiện nhiều năm khi gặp một kích thích có liên quan đến các khâu cung cấp và sử dụng chất dạng thuốc phiện (đi qua nơi bán và nơi tiêm chích trước kia,...), các dâu vết của phản xạ có điều kiện được hoạt hóa, nhớ và thèm chất dạng thuốc phiện trở nên mãnh liệt, từ đó xuất hiện xung động đi tìm chất dạng thuốc phiện và tái nghiện.
- Wikler (1972) giải thích sự lệ thuộc chất gây nghiện về mặt tâm thần theo lý thuyết phản xạ có điều kiện thực thi của Skinner nhấn mạnh vào luận điểm sau đây:
+ Nghiện chất là một tập tính phức tạp, luôn tuân theo một qui luật về hiệu quả của Thorndike: "Mọi cơ thể sống đều nhạy cảm với hiệu quả của hành vi của mình". Một tập tính mang lại lợi ích về vật chất hay tâm thần hoặc mang lại cảm giác thích thú, dễ chịu thường được duy trì. Con chuột thí nghiệm của trường phái Skinner qua quá trình thăm dò và sửa chữa, luôn tránh cái bàn đạp gây cảm giác khó chịu và liên tục đạp vào bàn đạp gây thích thú hay đưa lại thức ăn.
+ Tiêm heroin gây cảm giác sảng khoái. Wikler gọi đó là một chất kích thích tăng cường dương tính. Cắt heroin gây ra hội chứng cai là một kích thích tăng cường âm tính.
+ Kích thích tăng cường dương tính và âm tính đều thúc đẩy người nghiện phải tiếp tục sử dụng chất dạng thuốc phiện. Đó là cơ sở phản xạ có điều kiện thực thi của nghiện chất, thèm nhớ và tái nghiện chất.
Theo luận điểm trên, trong liệu pháp tập tính, tác giả dùng phương pháp khử điều kiện để chữa nghiện heroin bằng các kỹ thuật tăng cường dương tính và âm tính (khen thưởng, gây ghét sợ).
Như vậy có thể nhận định nghiện chất dạng thuốc phiện là một trạng thái nghiễm độc chất dạng thuốc phiện mạn tính xuất hiện theo cơ chế phản xạ có điều kiện thực thi, trên một người có khuynh hướng lạm dụng chất. Và các phương pháp khử điều kiện của liệu pháp tập tính có thể đóng góp một phần vào kết quả điều trị trạng thái thèm và nhớ chất dạng thuốc phiện vô cùng dai dẳng này.
II. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
1. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA NHIỄM ĐỘC CẤP:
Chất dạng thuốc phiện (thuốc phiện, morphine, codeine, heroin...) có thể được sử dụng theo đường uống, hút, hít qua mũi, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Chất dạng thuốc phiện gây nghiện, gây khoái cảm nhất là khi sử dụng qua đường tiêm chích. Các triệu chứng kết hợp khác bao gồm: cảm giác người nóng lên, mạnh hơn ở các đầu chi, khô miệng, ngứa ngáy ở mặt (chủ yếu ở mũi), đỏ bừng mặt. Triệu chứng ban đầu biểu hiện bằng một giai đoạn yên dịu, ngủ gật.
Đối với những người sử dụng chất dạng thuốc phiện lần đầu hoặc thỉnh thoảng có thể có loạn khí sắc, buồn nôn và nôn.
Các biểu hiện cơ thể của chất dạng thuốc phiện bao gồm: suy hô hấp, co đồng tử, co các cơ trơn, vòng (co các cơ thắt), giảm huyết áp, giảm nhịp tim, giảm thân nhiệt. Biểu hiện suy hô hấp có ngay lập tức phụ thuộc vào mức độ ở não và phụ thuộc vào mức tương tác thuốc với phenothiazine và các thuốc MAOI (Monoamine oxidase inhibitor).
Các biểu hiện tâm thần: gây lơ ngơ, khoái cảm, ngây ngất, giảm đau, nó còn có tác dụng như một chất giải lo âu mạnh và chống trầm cảm. Điều này lý giải phần nào tính chất đồng bệnh lý giữa rối loạn lo âu và rồi loạn trầm cảm với lạm dụng chất dạng thuốc phiện.
Đặc biệt, để đạt được hiệu quả như trước người bệnh phải tăng liều sử dụng.
2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA NHIỄM ĐỘC MÃN TÍNH CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN:
Nghiện chất dạng thuốc phiện thực chất là một trạng thái nhiễm độc mạn tính chất dạng thuốc phiện. Các trạng thái cơ bản của nghiện chất dạng thuốc phiện (dung nạp, lệ thuộc cơ thể, lệ thuộc tâm thần) đã được trình bày chi tiết ở chương I và II. Ở đây xin trình bày thêm những rối loạn cơ thể đi kèm theo trạng thái nhiễm độc mạn tính này:
- Các rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, nôn, táo bón xen kẽ với đi rửa.
- Các rối loạn tiết niệu: đái khó, đái rắt.
- Các rối loạn thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, run, giật cơ, dị cảm.
- Nhiễm khuẩn các loại: ghẻ lở, áp-xe, loét tĩnh mạch, viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng máu, viêm gan B, C, đặc biệt là lây nhiễm HIV do sử dụng chung bơm kim tiêm.
3. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA TRẠNG THÁI CAI HEROIN:
- Giai đoạn đầu (6-8 giờ sau lần tiêm heroin cuối cùng): người bệnh bắt đầu ngáp, vã mồ hôi, chảy nước mắt, chảy nước mũi và lo lắng cao độ. Người bệnh cảm thấy thèm heroin, xuất hiện xung động tìm heroin mỗi lúc một tăng. Tiếp đến giãn đồng tử, nổi da gà, trong người cảm thấy lúc nóng, lúc lạnh, co thắt cơ, run, mất ngủ hay giấc ngủ không yên, luôn thức giấc.
- Giai đoạn tiếp theo (18-24 giờ sau lần tiêm heroin cuối cùng): xuất hiện buồn nôn hay nôn, mạch huyết áp, nhịp thở đều tăng, có thể có sốt nhẹ.
- Sau từ 24-48 giờ: xuất hiện đi rửa và trạng thái mất nước, dị cảm mạnh.
- Sau 48-72 giờ: các triệu chứng ở các giai đoạn nói trên tăng đến đỉnh điểm sau đó giảm dần.
- Sau 7-10 ngày: mặc dù không điều trị, các triệu chứng nêu trên cũng dần dần biến mất. Một số rối loạn chức năng nhẹ có thể còn tồn tại nhiều tháng ở một số trường hợp.
4. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:
Thường gặp là ngủ gà, lú lẫn, nôn, buồn bôn, táo bón. Cũng có thể thấy yên dịu, trạng thái kích thích, ác mộng (đặc biệt ở người già có thể có ảo giác), suy hô hấp, tăng áp lực nội sọ, bí tiểu nhất là khi bị u xơ tuyến tiền liệt.
Có mối liên quan chặt chẽ giữa các rối loạn liên quan tới lạm dụng chất dạng thuốc phiện với sử dụng chung bơm kim tiêm gây lây truyền viêm gan B, C và HIV/AIDS và đặc biệt là tương tác với thuốc meperidine và các thuốc MAOIs, điều này có thể gây ra rối loạn nặng hệ thần kinh thức vật, kích động, hôn mê, co giật và tử vong.
Phản ứng dị ứng với các chất dạng thuộc phiện cũng có thể xảy ra sốc phản vệ, phù phổi cấp, và tử vong nếu bệnh nhân không được điều trị kịp thời và thích hợp.
5. QUÁ LIỀU:
Tử vong do sử dụng quá liều các chất dạng thuốc phiện thường gặp là do tác dụng gây ngừng thở của các chất dạng thuốc phiện. Triệu chứng quá liều bao gồm: thờ ơ, hôn mê, thở chậm, giảm thân nhiệt, giảm mạch, giảm huyết áp. Khi có biểu hiện bộ ba triệu chứng hôn mê, co đồng tử, suy hô hấp, thầy thuốc cần phải nghĩ ngay lập tức tới quá liều chất dạng thuốc phiện. Thầy thuốc phải khám tìm dâu vết tiêm chích ở mọi chỗ trên cơ thể mà bệnh nhân có thể tiêm chích kể cả tĩnh mạch dương vật.
Xử trí khi có biểu hiện quá liều:
- Tạo thông thoáng đường thở, duy trì các chỉ số sống bình thường.
- Tiêm tĩnh mạch Naloxone 0,4 mg, liều này có thể lặp lại 4-5 lần trong 30-45 phút đầu tiên. Bệnh nhân có thể tỉnh trở lại nhưng vì thời gian bán hủy của naloxone ngắn nên bệnh nhân có thể lại quay lại tình trạng ban đầu trong 4-5 giờ, nên cần theo dõi chặt chẽ. Con cơ giật có thể gây ra quá liều meperidine và có thể dự phòng bằng naloxone. Cần thận trọng khi chỉ định naloxone tránh gây ra hội chứng cai sau đó.
III. TÁC HẠI:
Chất dạng thuốc phiên nói chung và heroin nói riêng là một loại gây nghiện mạnh, gây dung nạp nhanh và mạnh, gây lệ thuộc cơ thể cũng như lệ thuộc tâm thần, gây nhiễm độc cấp và mạn. Việc điều trị cũng gặp rất nhiều khó khăn do tỉ lệ tái nghiện cao.
Do các đặc tính vừa nêu trên, người nghiện lúc đầu chủ hút, hít heroin mỗi ngày 1 lần nhưng càng về sau liều lượng ngày càng tăng cao, số lần sử dụng cũng phải tăng thêm. Rồi chuyển sang chích mới có thể đạt được hiệu quả như ban đầu. Vài giờ sau khi sử dụng ngươi nghiện thấy thoải mái dễ chịu và tiếp sau đó lại cảm thấy thiếu thuốc, thèm thuốc và lại đi tìm heroin. Sau khoảng 6-8 giờ nếu không có heroin các triệu chứng cơ thể của hội chứng cai bắt đầu xuất hiện buộc người nghiện bằng mọi giá phải tìm cho kỳ được heroin. Cứ vậy người nghiện không còn thời gian để làm việc khác. Tác hại của nghiện heroin được thể hiện trên nhiều mặt: sức khỏe, công việc, kinh tế, gia đình, xã hội.
1. VỀ SỨC KHỎE:
Người nghiện chán ăn dẫn đến gầy sút, sợ lạnh nên lười vệ sinh thân thể, dễ bị các bệnh da liễu, bệnh lao, các bệnh nhiễm khuẩn do tiêm chích không vô trùng (viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng máu...). Luôn có nguy cơ bị sốc thuốc do tiêm thuốc nhanh và quá liều nhằm tìm lại khoái cảm như trước. Đặc biệt dùng chung bơm kim tiêm và tình dục không an toàn dễ bị lây truyền các bệnh hoa liễu, viêm gan B, C và HIV/AIDS.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm bệnh nhân tham gia điều trị thay thế bằng methadone (1997-2002), tỉ lệ viêm gian B và C trước khi vào điều trị là 41,17% (trên 68 bệnh nhân) và ở nhóm bệnh nhân tham gia điều trị duy trì bằng Naltrexone (2003-2007), tỉ lệ viêm gian B và C là 66,19% (trên 482 bệnh nhân).
Về mặt tâm thần nghiện heroin thường gây biến đổi nhân cách theo hướng xấu do ảnh hường của nhóm bạn nghiện: thiếu kiềm chế cảm xúc, thường xuyên xung đột với gia đình, lừa dối mọi người, không quan tâm tới con cái, từ bỏ mọi ham muốn sở thích trước kia, thiếu tinh thần trách nhiệm, thường xuyên ở trong tình trạng nhiễm độc heroin (tâm thần lơ mơ, đi loạng choạng, dễ bị tai nạn hoặc gây tai nạn cho người khác). Ngoài ra còn có thể có các rối loạn tâm thần khác như lo âu, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác...
2. VỀ CÔNG VIỆC:
Do phần lớn thời gian dành cho việc tìm kiếm và sử dụng heroin nhằm giải quyết tình trạng đói thuốc, người nghiện luôn chểnh mảng, không tập trung vào công việc và học tập, không tuân thủ giờ giấc, nội qui nên dẫn đến mất việc hoặc phải bỏ học. Nghiên cứu của chúng tôi trên nhóm bệnh nhân được điều trị duy trì bằng methadone (68 bệnh nhân) cho thấy: trước nghiện 78,4% có nghề nghiệp hoặc đi học nhưng bị nghiện, 72,5% không nghề nghiệp hoặc bỏ học. Ở nhóm naltrexone (482 bệnh nhân) trước nghiện 55,81% có nghề nghiệp hoặc đi học, nhưng khi bị nghiện 58,71% không nghề nghiệp hoặc bỏ học. Điều này chứng tỏ rằng có ít nhiều khả năng vì không có việc làm, giao du với bạn xấu rồi dẫn tới nghiện ma túy. Nhưng chắc chắn nghiện ma túy tất yếu sẽ dẫn tới mất việc làm.
3. VỀ KINH TẾ:
Số tiền người nghiện phải chi cho heroin ngày càng nhiều do phải tăng liều và tăng số lần sử dụng trong khi thu nhập từ lao động ngày càng giảm, thậm chí không kiếm ra tiền. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn tới chỗ lừa dối mọi người để có tiền tiêu cho heroin. Tiếp theo đó là bán đồ đạc cá nhân rồi đồ đạc của gia đình. Khi không còn gì để bán nữa thì ăn cắp, ăn trôm ngoài xã hội, cướp giật, giết người, mại dâm, buôn bán ma túy... Cũng theo nghiên cứu của chúng tôi ở 68 bệnh nhân trước điều trị methadone phải chi trung bình 300.000 đồng/ngày cho ma túy so với mức lương tối thiểu vào thời điểm đó là 180.000 đồng/ tháng
4. VỀ GIA ĐÌNH:
Người nghiện thường xuyên nói dối, thức đêm, ngủ ngày, ăn kém, không tôn trọng giờ giấc sinh hoạt trong gia đình, luôn đi đêm về hôm, thay đổi thái độ với người trong gia đình, không hoàn thành trách nhiệm của mình với các thành viên khác trong gia đình. Kết quả một mẫu nghiên cứu của chúng tối trên 68 bệnh nhân: theo báo cáo của gia đình có tới 89% bệnh nhân có hành vi vi phạm trong gia đình ở các mức độ khác nhau như từ nói dối để có tiền, bán đồ dùng cá nhân, lấy tiền của gia đình, bán đồ dùng của gia đình tới cưỡng ép người thân để có tiền mua ma túy. Ở một mẫu nghiên cứu khác trên 482 bệnh nhân, theo báo cáo của gia đình có tới 84,65% bệnh nhân vi phạm ở các mức dộ như đã nói ở trên.
5. VỀ XÃ HỘI:
Một số người nghiện bắt đầu buôn bán chất gây nghiện để có tiền mua heroin. Số khác có thể lao vào từ mại dâm, ăn trộm, ăn cắp, đến tham gia các băng nhóm tội phạm, cướp giật, giết người. Một số người nghiện thuộc gia đình có tài sản, đầu tiên bán đồ dùng, rồi lừa dối người nhân để có tiền, rồi lấy trộm tiền của gia đình, bán đồ đạc của gia đình. Số khác được thừa kế tài sản lớn cũng dần bán đi hết để chi cho heroin và kết cục là sống ngoài lề xã hội.
Theo báo cáo của cục AIDS Bộ Y Tế (2010) hiện cả nước có trên 200.000 người nhiễm HIV/AIDS có hồ sơ kiểm soát, trong đó trên 60% liên quan tới tiêm chích chất gây nghiện. Đây là con số hết sức báo động, nó không chỉ có vấn đề tội phạm mà còn có nguy cơ bùng phát đại dịch HIV/AIDS ra toàn xã hội.
Những thiệt hại do người nghiện gây ra cho xã hội bao gồm nhiều mặt:
- Về kinh tế: giảm sút nguồn lực lao động, gây phí tổn to lớn trong công tác cai nghiện và chống tái nghiện cũng như công tác dự phòng.
- Về trật tự an toàn xã hội: bi đe dọa do các hành vi tội phạm rất đa dạng (buôn bán chất gây nghiện, lừa đảo, cướp giật, băng nhóm xã hội đen...).
- Về mặt văn hóa: hủy hoại nếp sống lành mạnh trong các gia đình và trong cộng đồng.
Một thí dụ để minh họa: thời gian qua thành phố Hồ Chí Minh đã đưa đi điều trị tập trung khoảng 25.000 người nghiện với thời hạn 5 năm. Vấn đề này có nhiều lý do khác nhau nhưng lý do bức xúc nhất có thể là vấn đề tội phạm liên quan tới sử dụng chất gây nghiện đã ảnh hưởng lớn tới trật tự an toàn của thành phố cũng như tới đầu tư nước ngoài vào thành phố.