All posts by admin

Bài 1 – Ma túy và các chất gây nghiện

Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện


I. ĐỊNH NGHĨA:


*   Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đức: Ma túy là một từ Hán - Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đây ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu.


*   Ngày nay ma túy được định nghĩa một cách rộng hơn: ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động vào hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.


II. PHÂN LOẠI MA TÚY:


Tùy theo mục đích, có nhiều cách phân loại ma túy.

A. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:


1. MA TÚY HỢP PHÁP: rượu, cà phê, thuốc lá….Một số dược phẩm được sử dụng để chữa trị bệnh, nếu sử dụng quá liều, kéo dài sẽ xảy ra tình trạng nghiện: Benzodiazepines, Secobarbital, Morphine, Amphetamine, Pseudoephedrine, Cocaine...

2. MA TÚY BẤT HỢP PHÁP: Là những chất bị pháp luật quy định, liệt vào danh sách cấm sử dụng: thuốc phiện, Heroine, Estasy (MDMA).

B. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:


1. MA TÚY CÓ NGUỒN GỐC THIÊN NHIÊN: thuốc phiện, cần sa, Cocaine ….

2. MA TÚY BÁN TỔNG HỢP: Heroine, codeine, LSD…

3. MA TÚY TỔNG HỢP: Methadone, Mépéridine, Amphetamine…

C. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ:


1. CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (Stupefiantes): ma túy nhóm OMH (Á phiện, Heroine, Morphine, Codéine…) và các chất tổng hợp (Methadone, Mépéridine, Pethidine, Pentanyl,...).

2.  CÁC CHẤT KÍCH THÍCH (Stimulantes): Cocaine, Amphetamine, Ecstasy,…

3. CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (Hallucinogens): LSD (D - Lysergic Acid Diethylamid), Cannabis, Phencyclidine, PCP, Mescaline,…

4. CÁC THUỐC GIẢI LO ÂU/ GÂY NGỦ (Anxiolytic/hypnotic): các loại Benzodiazépines, Barbiturates,…
CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ
CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH
CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC
Nhựa cần sa (Nhựa Hashish)
​CÁC THUỐC AN DỊU – CHỐNG LO ÂU – GÂY NGỦ (SEDATIVE – ANXIOLYTIC – HYPNOTIC)

Bài 2:

ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN

PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY VÀ

VAI TRÒ CAN THIỆP TÂM LÝ VÀ XÃ HỘI


I.   TỔNG QUAN NHỮNG THƯƠNG TỔN TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính, khó chữa có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc điều trị phục hồi cho người nghiện ma túy đòi hỏi ngoài tình thương và thấu cảm đối với người cai nghiện còn phải kiên nhẫn và phải có kiến thức về cai nghiện ma túy.


Việc tìm kiếm mô hình điều trị cho người nghiện ma túy rất khó khăn vì không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này chưa hẳn đã phù hợp với người khác. Một phương pháp điều trị hiệu quả phải dựa vào nguyên tắc cơ bản là làm thế nào phương pháp cai nghiện đó đáp ứng được tính chất và yêu cầu đa dạng của người nghiện chứ không chỉ đơn thuần nhằm vào việc sử dụng ma túy của họ.


Quá trình điều trị phải được đánh giá thường xuyên bởi một nhóm điều trị gồm các bác sĩ nội khoa có hiểu biết về chuyên ngành ma túy, bác sĩ tâm thần, bác sĩ điều dưỡng – phục hồi, các nhà giáo dục - hướng nghiệp, các nhà tư vấn - tâm lý học – xã hội học, các cán bộ quản lý…Quá trình điều trị này phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy phải giải quyết – nhưng bắt buộc các thành viên của nhóm điều trị phải phối hợp tác nghiệp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình và lĩnh vực.


Khi người nghiện sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng tăng thì hậu quả tác hại càng nhiều và càng nặng nề bấy nhiêu. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện, làm người nghiện ma túy suy giảm khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin, khả năng tự chủ: người nghiện rất khó khăn khi đưa ra một quyết định đúng đắn. Thêm vào đó, họ lại thiếu nghị lực, thiếu sáng suốt, thiếu ý chí để thực hiện quyết định của mình. Do ký ức hồi tưởng, người nghiện rất dễbị gợi nhớ đến ma túy khi gặp lại những hình ảnh, vụ việc liên quan đến việc sử ma túy trước đây: gặp ống chích, kim chích, bạn bè cũ, quán café cũ, nghe nhạc cũ, gặp hoàn cảnh cũ, hay khi nghĩ đến những khoái cảm ngây ngất do sử dụng ma túy: họ bị kích động mạnh mẽ khiến đối tượng rất dễ tái nghiện.


Vì lệ thuộc vào ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh trong việc tìm kiếm, sử dụng ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.


Về mặt hành vi, người nghiện phát triển những cách ứng xử không thích nghi và nhiều thói quen xấu – những hành vi đó đã ngăn cách người nghiện với cộng đồng, người nghiện mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm. Hầu hết người nghiện không cần hoặc không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi mình gây nên.


Người nghiện ma túy không đủ nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, lành mạnh, có kỹ năng làm việc. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với gia đình, xã hội …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị - phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.


Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


Tóm lại có 4 vấn đề chính cần phải giải quyết trên đối tượng nghiện ma túy đó là:


1.  Tổn thương hệ thống não bộ và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.


2.  Rối loạn và xuống cấp nhận thức – hành vi – nhân cách.


3. Chấn thương tâm lý: đây không phải là một hành động nhất thời mà là một quá trình diễn biến đầy phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện đối với bản thân, gia đình và xã hội của người nghiện ma túy.


4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện. Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.


 Bốn vấn đề chính tác động qua lại lẫn nhau- chúng vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nếu chúng ta giải quyết không toàn diện và triệt để sẽ dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện.


II. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TUÝ

Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính - khó chữa có đặc tính làdễ tái nghiện. Điều trị nghiện ma túy đòi hỏi phải kiên nhẫn, có một liệu pháp tổng hợp, đồng bộ, xuyên suốt, khép kín, linh hoạt, kịp thời.


Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêungười nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


A/ BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT TRÊN ĐỐI TƯỢNG NGHIỆN MA TÚY:


1/ TỔN THƯƠNG HỆ THỐNG NÃO BỘ VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÂM THẦN CỦA NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY: não bộ là nơi tiếp nhận thông tin, phân tích, tổng hợp, ra quyết định và tập trung ý chí. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện biểu hiện qua các rối nhiễu tâm lý thực tổn, trạng thái nhiễm độc, lú lẫn tâm trí, phản ứng loạn tâm thần, trạng thái hưng trầm nhược, giảm khả năng xét đoán, xử lý thông tin, mất ý chí, mất khả năng tự chủ, biểu hiện lo lắng và hội chứng hồi tương dẫn người nghiện luôn nghĩ đến và thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó. Càng sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng cao thì những tổn thương càng nặng nề bấy nhiêu.


2/ RỐI LOẠN VÀ XUỐNG CẤP NHẬN THỨC - HÀNH VI - NHÂN CÁCH: Sau một thời gian sử dụng ma túy, người nghiện sẽ hình thành nhiều thói quen xấu - người nghiện không đủ nhận thứccũng như không đủ nghị lực để sống một cách trong sạch, lành mạnh. Người nghiện mất dần kỹ năng tư duy và làm việc, suốt ngày chỉ loay hoay làm thế nào phải có tiền để mua ma túy, do đó người nghiện sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp hậu quả của việc làm đó để đạt mục đích. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội có thể suy sụpđến mức làm sự điều trị, phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.


3/ NGHIỆN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ MỘT HÀNH ĐỘNG NHẤT THỜI MÀ LÀ MỘT QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN PHỨC TẠP NỘI TÂM cũng như BỐI CẢNH ĐA PHƯƠNG DIỆN của bản thân, gia đình và xã hội. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi dẫn người nghiện đến với ma túy. Do đó nếu không giải quyết được triệt để những vấn đề này, người nghiện sau khi cai nghiện trở về sẽ rất dễ tái nghiện.


4/ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG MA TÚY: Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện.Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy. Do người nghiện ma túy, nếu thiếu ma túy thì chỉ sau 8 - 12 giờ sẽ phát sinh hội chứng cai với tất cả sự đau nhức, hành hạ thân xác và tinh thần nên bằng mọi giá người nghiện phải kiếm đủ tiền để mua ma túy bất chấp hậu quả việc làm của mình, dễ dẫn đến hành vi phạm pháp của đối tượng.


Bốn vấn đề chính nêu trên tác động qua lại lẫn nhau - chúng vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nếu chúng ta giải quyết không toàn diện và triệt để sẽ dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện.


Điều trị nghiện ma túy là một sự tổng hợp của nhiều liệu pháp : liệu pháp sinh học, liệu pháp tâm lý (cá nhân, gia đình, nhóm). Tư vấn (cá nhân – gia đình – nhóm) và các liệu pháp y – xã hội. Thiếu sự nghiên cứu đánh giá việc tổng hợp liệu pháp khác nhau làm cho việc điều trị cai nghiện ma túy mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa.


Thiếu một phương thức chiến lược cho việc điều trị dẫn đến việc đối tượng nghiện ma túy chán nản trong điều trị, thiếu quyết tâm và nghị lực – bỏ điều trị nửa chừng.


B/ ĐỂ GIẢI QUYẾT 04 VẤN ĐỀ NÊU TRÊN, TT Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa đã áp dụng một CHƯƠNG TRÌNH CAI NGHIỆN ĐA DẠNG, TỔNG HỢP, XUYÊN SUỐT, ĐỒNG BỘ, KHÉP KÍN, LINH HOẠT, KỊP THỜI TÙY THUỘC VÀO TỪNG ĐỐI TƯỢNG bao gồm:

1/ CẮT CƠN, GIẢI ĐỘC, NÂNG CAO SỨC KHỎE.


Cắt cơn nghiện không phải là điều trị thật sự mà chỉ để tạo tiền đề cho một quá trình cai nghiện lâu dài liên tục. Điều trị kịp thời các rối loạn và các bệnh Tâm thần kinh - Lao - HIV/AIDS và các bệnh cơ hội cho người nghiện ma túy.


2/ GIÁO DỤC TRỊ LIỆU:


Nhằm giáo dục - gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách cho người nghiện ma túy. Nội dung công tác giáo dục nhằm hai muc đích:


2.1 Nâng cao nhận thức cho học viên: thông qua dạy văn hóa, học tập các chuyên đề bao gồm: Giáo dục công dân + Giáo dục đạo đức + Giáo dục sức khỏe và cộng đồng + Giáo dục pháp luật, an ninh quốc phòng + Giáo dục truyền thống…


2.2 Trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống:  thông qua các chương trình giáo dục về Tư duy tích cực - Tự chủ quản lý bản thân - Nhận thức các giá trị sống (chương trình được sự hỗ trợ của tổ chức UNESCO và UNICEF của Liên hiệp quốc) - Tâm năng dưỡng sinh: thiền định, tập dưỡng sinh - Sinh hoạt trị liệu - Giải trí trị liệu - Hoạt động trị liệu - Huấn nghiệp trị liệu - Lao động trị liệu - Sản xuất trị liệu.


Thực hiện Cộng đồng trị liệu theo phương pháp Daytop (Mỹ)và Môi trường Trị liệu (liệu pháp đặc thù của Trung tâm Thanh Đa) với những tiêu chí cụ thể…


Công tác giáo dục là vấn đề cơ bản nhất trong cai nghiện phục hồi nhằm gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách cho người nghiện ma túy. Công tác giáo dục này phải áp dụng cho đối tượng đang được điều trị chống tái nghiện nhóm Opiats bằng thuốc NALTREXONEhay bằng thuốc METHADONE. Nếu không thực hiện tốt công tác này thì chất lượng cai nghiện sẽ thấp và công tác cai nghiện sẽ rất khó thành công.


3/ TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU: 


Cá nhân - nhóm - gia đình - Giải quyết khủng hoảng ca… nhằm thấu hiểu những diễn biến phức tap của nội tâm cũng như những bối cảnh tiêu cực liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội.


Từ những cơ sở trên, cán bộ điều trị mới có thể giúp người nghiệnnhận thức được bản thân, sửa đổi lỗi lầm, xóa bỏ sự cô độc, mặc cảm, đồng thời thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau, sự cởi mở, vui vẻ với mọi người, định hướng được cuộc sống và hành động cho tương lai.


         + Cần phải phân biệt TƯ VẤN không phải là ĐIỀU TRỊ TÂM LÝ: (Liệu pháp Tâm lý)


·        TƯ VẤN:


Là một tiến trình tương tác, một cuộc đối thoại giữa đối tượng, gia đình với nhân viên điều trị để nhằm mục tiêu :


       +  Thấu hiểu tình trạng của đối tượngvà gia đình, cảm xúc, nhận thức, hành vi.


      +  Qua đó thúc đẩy thành công người nghiện và gia đình tham gia việc điều trị.


TƯ VẤN giúp ta nhận thức được thực tại, nhấn mạnh vào yếu tố bình thường, từ đó sự trợ giúp phục hồi và giúp cho họ tự tìm ra con đường họ phải đi.


Với định nghĩa như vậy, bất kể là ai có quan tâm đến người nghiện, thì đều làm tư vấn được.


·        ĐIỀU TRỊ TÂM LÝ:


Nhấn mạnh vào việc mất chức năng, chú trọng vào việc phân tích để mưu sự tái thiết. Điều trị tâm lý thì giúp đỡ bệnh nhân đi tới con đường đã được định hướng trước từ những phân tích sâu xa mà có.


Nhân viên điều trị không nên nhầm lẫn Tư vấn Tâm lý với việc Điều trị Tâm lý để cho rằng mình không phải chuyên gia về tâm thần, từ chối tương tác với người nghiện.


Không có tư vấn, không bao giờ nhân viên điều trị có thể hiểu được đối tượng và giúp đỡ họ được.


SO SÁNH TƯ VẤN VÀ LIỆU PHÁP TÂM LÝ :


TƯ VẤN


LIỆU PHÁP TÂM LÝ


- Tính trực tiếp


- Không trực tiếp


- Tính giáo dục


- Gợi mở tư duy


- Hỗ trợ


- Tính cấu trúc lại – Tìm kiếm sựlập lại các hành vi


- Tình hình và sự phát triển


- Tác động mạnh về tâm lý


- Giải quyết các vấn đề


- Phân tích


- Nêu ra những vấn đề về mặt nhận thức


- Suy ngẫm về những hành vi đã qua


- Nhấn mạnh vào cái gì được coi là hành vi tốt và chưa tốt


- Hướng vào vấn đề tồn tại về mặt tình cảm



4/ ĐỂ HỖ TRỢ HỌC VIÊN KHI TRỞ VỀ CỘNG ĐỒNG KHÔNG TÁI SỬ DỤNG MA TÚY, TRUNG TÂM đã TRIỂN KHAI KHOA CHỐNG TÁI NGHIỆN:


Các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc NALTREXONE (là một chất làm MẤT CẢM GIÁC THÈM NHỚ và TÌM KIẾM MA TÚY) KẾT HỢP với KỸ NĂNG TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU - GIÁO DỤC TRỊ LIỆU và các LIỆU PHÁP XÃ HỘI. Kết quả khảo sát cho thấy, sau hơn 4 năm, Khoa đã điều trị cho hơn 1000 học viên, HƠN 72% SỐ HỌC VIÊN CHƯA TÁI NGHIỆN, TRÊN 50% HỌC VIÊN NGOẠI TRÚ ĐÃ CÓ VIỆC LÀM ỔN ĐỊNH.


Trong phương pháp này, việc UỐNG THUỐC NALTREXONE là BIỆN PHÁP HỖ TRỢ. Nếu KHÔNG CÓ BIỆN PHÁP TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU - GIÁO DỤC TRỊ LIỆU - CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI THÌ KẾT QUẢ CHỐNG TÁI NGHIỆN SẼ RẤT HẠN CHẾ.


        Việc phòng chữa bệnh nghiện ma túy điều trị phục hồi cho đối tượng cai nghiện liên quan đến nhiều chuyên ngành . Việc sử dụng ma túy đã phát sinh những biểu hiện bệnh lý nặng nề, khó khăn trong việc điều trị, trong đó cần sự can thiệp điều chỉnh nhân cách hành vi của đối tượng nghiện ma túy và chống tái nghiện, tìm hiểu nguyên nhân và can thiệp sớm.


5/ CHIẾN LƯỢC TRỊ LIỆU:

-       Các nghiên cứu so sánh và các theo dõi tình trạng điều trị kéo dài (rất ít) nênkhông biết rõ hiệu quả tương đối vàhiệu quả dài hạn của các phương pháp trị liệu.


-       Việc điều trị chứng nghiện ma túy cần thiết phải kết hợp nhiều loại can thiệp khác nhau, kể cả trị liệu cá nhân và tại cộng đồng.


-       Các tác động xã hội, nhằm đấu tranh chống các hành vi nghiện ma túy vàtiếp tục sử dụng ma túy.


-       Trị liệu gia đình thường không đủ nhưng phương pháp trị liệu này cần thiết phải giải phóng thanh thiếu niên khỏi các xung đột gia đình, để cho phép đối tượng chấp nhận một trị liệu cá nhân.


-       Điều trị cá nhân đối tượng phải được thông báo về sự diễn biến của gia đình. Việc điều trị và theo dõi gồm một nhóm điều trị gồm nhiều ngành: y tế – giáo dục – xã hội – quản lý – dạy nghềvàthực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đócần đặt nặng phương thức trị liệu nhóm.


-       Việc điều trị – phục hồi cần một thời gian tương đối dài do tính chất bệnh lý phức tạp. Đối tượng cần sự điều trị của nhiều người với nhiều chức năng khác nhau nên dễ bị tình trạng phân cắt.Do đó, cần phải có sự thống nhất trong cùng một nhóm điều trịvà có chiến lược điều trị cho từng đối tượng cai nghiện ma túy.




Bài 3

SÀNG LỌC – ĐÁNH GIÁ

VÀ LẬP KẾ HOẠCH CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY


Để công tác cai nghiện thành công, việc phân loại, đánh giá và lập kế hoạch cho người nghiện ma túy là vô cùng cần thiết. Để đạt được kết quả tốt phải thực hiện các bước sau:


I.       TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ HAY MỨC ĐỘ ĐIỀU TRỊ

A.    TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ HAY MỨC ĐỘ CHĂM SÓC LÀ GÌ?

Bệnh tật có mức độ nặng nhẹ khác nhau, cho nên việc cung điều trị cũng có nhiều mức độ khác nhau. Mỗi người nghiện đều được chăm sóc phù hợp.


Giữa nhân viên chuyên môn và cán bộ quản lý luôn luôn phải giữ mối lien hệ thông tin thường xuyên, qua đó việc thay đổi cách điều trị do những tình hình hiện tại của học viên đã thay đổi.


Việc đồng ý cho người nghiện có quyền ý kiến và tham gia vào môi trường điều trị của mình là điều nên làm, bởi bằng cách đó, học viên thể hiện trách nhiệm thamn gia của mình.


B.    CÁC KHÍA CẠNH ĐÁNH GIÁ ĐỂ QUYẾT ĐỊNH MỨC ĐỘ CHĂM SÓC:

Việc đánh giá người nghiện gồm 6 điều cơ bản:


1.   Nguy cơ xuất hiện hội chứng cai:


   - Có khả năng xảy ra tai biến do một bệnh khác lúc lên cơn vã thuốc.


   - Đang có dấu hiệu của hội chứng cai.


   - có thể cắt cơn được không?


2.   Rối loạn sinh học: Ngoài hội chứng cai người nghiện có


             - Bệnh cơ hội hoặc các bệnh mãn tính từ trước không?


3.   Trạng thái cảm xúc/ hành vi và những biến chứng:


             - Có bệnh tâm thần.


             - Có vấn đề tâm lý ảnh hưởng đến việc điều trị để trở nên phức tạp.


             - Nếu có thì những bệnh trên có cản trở quá trình điều trị không?


4.   Chấp nhận/ Không tiếp nhận điều trị:


             - Người nghiện có tự nguyện điều trị hay bị cưỡng bức điều trị?


             - Thái độ người nghiện với việc điều trị: có chán nãn, lo lắng hay quyết tâm cai nghiện.


5.   Tái nghiện/ Nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy:


             - Tâm trạng người nghiện cực kỳ chán nản.


             - Thiếu tin tưởng vào việc cai nghiện.


  - Còn nhiều vấn đề tồn tại chưa giải quyết được ảnh hưởng đến tâm lý người nghiện khi đến trung tâm cai nghiện.


             - Yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ cho đối tượng cai nghiện.


             - Người nghiện tin tưởng gì sau khi rời trung tâm.


6.   Môi trường cho sự phục hồi:


             - Thái độ của các thành viên trong trung tâm tác động trên tư tưởng người nghiện.


             - Sự giúp đỡ sau khi ở trung tâm về của gia đình, xã hội thế nào?


             - Người nghiện có tự tin, có khả năng giải quyết các khó khăn không?


C.    CÁC MỨC ĐỘ CHĂM SÓC:


      Gồm 5 mức độ chăm sóc:


             - Mức độ I:       nhẹ, dựa vào cộng đồng.


             - Mức độ II:      nhẹ, dựa vào cộng đồng học viên được điều trị 9 giờ/ tuần.


             - Mức độ III:     còn nhẹ, cơ may khỏi còn cao, dựa vào cộng đồng


                    Mức độ II.1   : Tương đối nhẹ, điều trị, giáo dục trên 9 giờ / tuần


                    Mức độ II.2   :Tương đối đã nặng, điều trị giáo dục trên 3 giờ / ngày.


             - Mức độ IV:     Nghiện nặng phải vào trung tâm


                    Mức độ III.1 : Nhập Trung tâm nhận chương trình điều trị


                    Mức độ III.2 :       Nhập Trung tâm phải theo dõi 24/24. Có khả năng điều trị bằng methadone.


             - Mức độ V:      Nghiện nặng + bệnh tâm thần


                                      Theo dõi chăm sóc 24/24, điều trị phục hồi


                                      Đồng thời chữa bệnh tâm thần.



 II.ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ:


Đánh giá kết quả điều trị là điều không thể thiếu được trong kế hoạch điều trị. Việc đánh giá định kỳ sẽ giúp chúng ta:


1.  Hiểu rõ hơn về đối tượng, ưu khuyết nhược điểm – các vấn đề tâm sinh lý còn tiềm tàng, từ đó thay đổi chương trình điều trị cho phù hợp.


2.  Xác định lại mức độ chăm sóc đối tượng. Ví dụ: qua phân loại và điều trị ban đầu, chúng ta nghĩ rằng đối tượng nghiện nhẹ. Song sau một thời gian, chúng ta phải thay đổi mức độ chăm sóc và biện pháp điều trị nếu có dấu hiệu chứng tỏ bệnh nhân đã không khai thật từ lúc ban đầu.


3.  Từ hai điều nhận thức trên, hiệu quả điều trị sẽ được nâng cao.


A. CÁC THỜI ĐIỂM PHẢI ĐÁNH GIÁ:

Việc đánh giá kết quả đòi hỏi phải sử dụng một biểu mẫu câu hỏi giống nhau để hỏi đối tượng trong từng thời điểm như sau:


1.  Bệnh nhân bắt đầu điều trị


Ngoài việc điều tra để nắm bắt thông tin về toàn bộ con người của đối tường, cũng như tình trạng nghiện của đối tượng, công tác đánh giá cần được tiến hành ngay khi đối tượng được bắt đầu điều trị cắt cơn. Đây là bảng đánh giá đầu tiên. Những thông tin trên này sẽ được sử dụng làm mốc so sánh với những bảng đánh giá sau này.


2.  Khi bệnh nhân nhập khu sinh hoạt hằng ngày


Họ đước đánh giá lần thứ hai, và kết quả này được đem ra so sánh với lần đầu tiên.


3.  Khi bệnh nhân đang ở giai đoạn điều trị.


Họ được đánh giá lần thứ 3. Các thông tin này cũng được so sánh với những lần trước.


4.   Khi bệnh nhân ở cuối chương trình  điều trị


Họ được đánh giá lần cuối trước khi rời trung tâm – các thông tin này sẽ được so sánh với các thông tin lần đầu để hiểu được quá trình tiến bộ của họ.


5.   Theo dõi đánh giá ba tháng sau cai khi bệnh nhân trở về nhà.


Đây là thời điểm thích hợp với điều kiện của chúng ta. Nếu bệnh nhân đã tái nghiện, rõ ràng họ cần tư vấn và động viên tái cai, còn nếu họ đang tốt đẹp, chúng ta giúp đỡ họ củng cố nhận thức hành vi.


B.  NHỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀO CẦN ĐÁNH GIÁ:


Về nguyên tắc, tất cả mọi đối tượng được điều trị đều được đánh giá. Trong thực tế nếu đối tượng quá đông, trường hợp này rất khó đánh giá, chúng ta nên phân loại những nhóm người nghiện, và sau đó đánh giá mẫu đối tượng đại diện mà thôi.


Ví dụ:


-       Đánh giá những đối tượng được chọn làm điểm.


-       Hoặc đánh giá những đối tượng tỏ ra hợp tác với kế hoạch điều trị, hoàn tất chương trình điều trị.


-       Hoặc đánh giá những đối tượng tỏ ra bất hợp tác, bỏ dở điều trị.


C.  CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ:


Có rất nhiều hệ thống đánh giá cực kì phức tạp, chưa thích hợp với chúng ta. Chúng ta nên đặt ra một hệ thống đánh giá đơn giản. một hệ thống đánh giá đơn giản cần qua những khía cạnh sau:


·      Các đối tượng tham gia duy trì điều trị, số ngày tham gia.


·      Các đối tượng kết thúc chương trình điều trị, số ngày tham gia.


·      Sự hài lòng của đối tượng đối với chương trình điều trị.


Chúng ta đều biết rằng không một người nghiện nào hài lòng khi họ bắt đầu điều trị và càng tăng lên nếu đối tượng muốn bỏ dở điều trị.


Kết quả sự đánh giá khách quan với mức độ hài lòng của đối tượng cho phép chúng ta dự báo người nào sẽ bỏ dỡ điều trị, người nào đạt được kết quả.


Kết quả của sự đánh giá không chỉ nhằm mục đích thu thập thông tin để thống kê hay báo cáo, mà những kết quả ấy còn phải được sử dụng để nâng cao chất lượng điều trị hay thay đổi chương trình điều trị cho thích hợp với đối tượng.


Để đạt được các mục tiêu nêu trên, sự đánh giá cần được tiến hành trên 3 khía cạnh:


1.   Hiệu lực của điều trị căn cứ vào các tiêu chuẩn sau:


Bảng tự đánh giá của đối tượng gồm các mặt hành vi, cảm xúc, thái độ, mức độ thèm ma túy. Kinh nghiệm cho thấy trong 3 tháng đầu, bệnh nhân rất cường điệu, tự đánh giá rất cao. Sau đó sự trung thực dần trở lại, mức độ đánh giá sẽ thấp hơn.


a)   Đánh giá tinh thần và thái độ lao động.


b)   Đánh giá tinh thần chấp hành nội quy.


c)   Đánh giá các mối quan hệ với tập thể.


d)   Đánh giá mối quan hệ với nhân viên tư vấn.


e)   Đánh giá mức đội cảm xúc tâm lý.


f)     Đánh giá mức độ tình cảm với gia đình.


g)   Đánh giá khía cạnh giáo dục dạy nghề.


h)   Đánh giá y khoa về sức khỏe chung.


2.   Hiệu quả của điều trị


Nên sử dụng cách đơn giản như sau:


1)   Tự nguyện thực sự: cộng tác với chương trình điều trị, có tiến bộ.


2)   Còn lưỡng lự chưa dứt khoát trong việc cai nghiện ma túy.


3)   Không muốn cai: không có dấu hiệu tiến bộ.


3.   Sự hài lòng của đối tượng


Cho phép chúng ta dự đoán trước về kết quả điều trị.


MỘT VÍ DỤ VỀ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ SAU 5 GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ


-         Thời gian điều trị chưa đủ/đủ.


-         Sử dụng ma túy giảm/ tăng/ ngừng hẳn sau khi điều trị.


-         Dính líu đến luật pháp trước và sau điều trị.


-         Hoạt động có ích với xã hội trước và sau điều trị.


-         Mức độ hài lòng về lối sống của mình trước và sau điều trị.


-         Thất bại trong điều trị (biện pháp thay thế mesthadone như một biện pháp nhân bản hơn là cho bệnh nhân vào tù).


III.LẬP KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ:


Việc lập kế hoạch được tiến hành ngay sau khi đã nắm bắt những thông tin về người nghiện. Cần cho đối tượng tham gia vào việc xây dựng kế hoạch điều trị cho chính mình.


Chính người nghiện là thành viên có trạch nhiệm trong việc điều trị cho chính mình, thậm chí ngay cả khi họ không muốn điều trị, chúng ta cũng phải để họ tham gia bước đầu vào những mục tiêu sơ khởi, và sẽ nâng dần trách nhiệm họ lên cao trong quá trình tiến hành kế hoạch.


1. Lập kế hoạch điều trị : cần 3 giai đoạn :


-         Mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn.


-         Yêu cầu bệnh nhân tuân thủ các mục tiêu đề ra.


-         Phương pháp tiến hành và cung ứng dịch vụ.


1.1 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn :


Mỗi bệnh nhân, phải có một kế hoạch đề ra mục tiêu theo từng giai đoạn, theo dữ liệu thông tin có được, ví dụ một bệnh nhân bệnh nặng, tâm lý tuyệt vọng thì có thể 3 mục tiêu như sau :


-         Ngưng sử dụng ma túy, tăng cường sức khỏe


-         Cải thiện tâm trạng qua tâm lý, giáo dục, thuyết phục.


-         Về khía cạnh y khoa, điều trị những bệnh kèm theo.


1.2 Yêu cầu bệnh nhân tuân thủ các mục tiêu đề ra.


Mục tiêu ngưng sử dụng ma túy: làm trong sạch môi trường yêu cầu bệnh nhân duy trì tình trạng cai, cộng tác với kế hoạch điều trị, sinh hoạt tư vấn cá nhân hay tư vấn nhóm, sinh hoạt nhóm.


-         Mục tiêu điều chỉnh tâm lý: yêu cầu và khuyến khích bệnh nhân phát biểu, bảy tỏ cảm xúc, ước muốn – để động viên – giải thích và có biện pháp giúp đỡ hữu hiệu.


-         Với mục tiêu điều trị bệnh : bắt buộc khám chữa bệnh.


1.3 Phương pháp :


Phương pháp thực hiện tùy theo mục tiêu và yêu cầu. Nhóm chuyên viên điều trị sẽ phác thảo kế hoạch thực hiện như :


-         Giúp đỡ bệnh nhân cắt cơn, hồi phục sức khỏe.


-         Điều chỉnh tâm lý, cần nắm vững những thông tin bệnh nhân còn ẩn giấu, khuyến khích, thuyết phục.


-         Điều trị các bệnh mãn tính – Các bệnh cơ hội và các rối loạn tâm sinh lý sau cắt cơn.


2. Các thời điểm thực hiện kế hoạch điều trị :


-         Trong việc lập kế hoạch điều trị cần tiến hành ngay khi đối tượng vào Trung Tâm.


-         Định hướng cho điều trị, bao gồm việc hướng dẫn và bám sát đối tượng trong quá trình điều trị.


-         Theo dõi sau cai (khi đối tượng trở về cộng đồng)


2.1 Tiến hành ngay khi đối tượng vào Trung tâm :


Nhân viên tiếp nhận phải đánh giá tức thời tình trạng của đối tượng, và căn cứ vào đó đề ra kế hoạch cụ thể: phân loại, định múc độ chăm sóc thích hợp và đánh giá kết quả điều trị


a)   Xác định mức độ chăm sóc thích hợp :  đánh giá sơ bộ ban đầu.


b)   Đánh giá sau khi cắt cơn xong :


-         Đối tượng đã ổn định chưa?


-         Những triệu chứng gì đang còn tồn tại hiện nay?


-         Tình trạng hiện tại và ước muốn?


2.2 Thành lập đội ngũ điều trị cho đối tượng.


Mỗi đối tượng có những vấn đề riêng biệt,


Việc điều trị toàn diện bệnh lý – tâm lý – sinh học – xã hội đòi hỏi một đội ngũ điều trị chuyên nghiệp, đa năng. Tùy theo rối loạn của đối tượng mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy phải giải quyết.


Việc phối hợp công tác phải ở một thể thống nhất khi đánh giá nhu cầu điều trị cho đối tượng.


a)   Mỗi đối tượng phải có và phải hiểu mô hình điều trị của mình, mục tiêu mình muốn đạt đến.


b)   Hiểu được mô hình điều trị của nhân viên khác, cũng như mục tiêu chung của cả nhóm.


c)   Hiểu rõ cách kết hợp lĩnh vực của mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.


d)   Tránh được biện pháp của mình có mâu thuẫn với biện pháp của nhân viên khác.


Sau đây là ví dụ phối hợp của nhóm điều trị gắn bó về một trường hợp cắt cơn xong 2 tháng: đối tượng suy sụp, không cộng tác với điều trị:


-         Nhân viên giáo dục tìm hiểu ngoài sự suy sụp sinh lý sau khi cắt cơn còn có vấn đề gì nữa không, động viên khích lệ đối tượng: an ủi họ rằng thời điểm của giai đoạn phục hồi, tâm trạng chán nản là điều thường thấy.


-         Nhân viên y tế xác định tình trạng bệnh lý của đối tượng.


-         Thảo luận với nhân viên dạy nghề về tình trạng của đối tượng.


-         Trao đổi với nhân viên quản lý để tìm hiểu liệu môi trường quản lý có làm thương tổn tâm lý đối tượng không.


-         Trao đổi với nhân viên tâm lý để đánh giá phân tích sâu hơn.


-         Sau cùng đưa ra được cơ cấu và định hướng cho điều trị tiếp theo với đối tượng, giám sát đối tượng trong suốt quá trình điều trị.


3. Các lợi ích của việc lập kế hoạch điều trị:

Một kế hoạch điều trị đúng sẽ phải triển khai điều trị theo hướng tốt và toàn diện. Qua kế hoạch điều trị, cả đối tượng lẫn nhân viên điều trị đều có lợi ích.


-         Đa số những người nghiện đều không biết làm sao để cai. Việc cho họ tham gia vào nhóm điều trị sẽ làm họ yên tâm và cộng tác với kế hoạch. Như vậy cơ may thành công rất cao.


-         Người nghiện hiểu những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn do chương trình đề ra. Họ được thông báo trước những kế hoạch mà họ phải vượt qua. Vì vậy họ có chuẩn bị về tâm lý để phấn đấu.


-         Người nghiện hiểu được những mục tiêu dài hạn dành cho họ, cũng như các mục tiêu họ phải phấn đấu để vươn tới như một điều kiện tiên quyết để được trở về với gia đình.


II. CÁC TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ VÀ CÁC HÌNH THỨC CHĂM SÓC :

A.  ĐỊNH NGHĨA:


Những tài liệu (Phần II+III) sẽ được trình bày ở đây là tóm tắt một phần hay trích dẫn nguyên văn tài liệu: “Đánh giá tiêu chuẩn của người nghiện trong việc điều trị tình trạng tối loạn do việc sử dụng các chất ma túy gây ra” năm 1991 và tài liệu “Đánh giá tiêu chuẩn của người nghiện trong việc điều trị những rối loạn có liên quan đến ma túy” tái bản lần 2 năm 1996 của HIỆP HỘI NGHIÊN CỨU VỀ NGHIỆN MA TÚY CỦA HOA KỲ. Những tiêu chuẩn này đại diện cho những phương pháp được nghiên cứu và áp dụng nhiều nhất trong việc xác định chính xác mức độ chăm sóc cho đối tượng nghiện ma túy. Đây là kết quả nghiên cứu trong suốt 10 năm của những tổ chức Quốc gia, Tổ chức Liên Bang trên toàn nước Mỹ và nó đã được công nhận của hầu hết các Cơ sở Y tế, tổ chức điều trị cai nghiện, các Công ty Bảo hiểm (Tổ chức quản lý dịch vụ chăm sóc), những tổ chức bảo đảm quyền lợi của người nghiện trong việc điều trị.


1/ Việc đánh giá tiêu chuẩn điều trị cho phép chúng ta tìm ra mức độ chăm sóc thích hợp cho người nghiện ma túy.


2/ “Mức độ chăm sóc” này được định nghĩa là “Mức độ tăng dần các dịch vụ trợ giúp của môi trường và lâm sàng phối hợp lẫn nhau hoặc riêng rẽ với nhau”


3/ Mức độ chăm sóc được xây dựng dựa trên một danh mục mà ta gọi là “Các hình thức chăm sóc”


B. CÁC HÌNH THỨC SĂN SÓC VÀ ĐIỀU TRỊ :


Một số nét cơ bản :


1/ Bệnh lý thì có mức độ nặng nhẹ khác nhau và việc cung cấp dịch vụ điều trị cũng có mức độ khác nhau tương ứng (Mức độ chăm sóc)


2/ Thống nhất đồng bộ giữa những người cung cấp dịch vụ điều trị (nhân viên chuyên môn và cán bộ quản lý) ở từng mức độ chăm sóc khác nhau.


3/ Việc điều trị dựa vào cộng đồng luôn luôn là xuất phát điểm cho bất kỳ đối tượng nào cần được chăm sóc.


4/ Những tiêu chuẩn đánh giá đối tượng càng cụ thể thì danh mục các dịch vụ chăm sóc càng khách quan, dễ nhận biết.


5/ Tiến trình thực hiện biện pháp trong danh mục theo nhu cầu của đối tượng và điều đó là hoàn toàn hợp lý.


6/ Không có thời gian cố định cho bất kỳ mức độ chăm sóc cụ thể nào.


7/ Bất kỳ khi nào có thể, người nghiện đều có quyền được tham gia một môi trường điều trị ít bị gò bó, ức chế nhất, nơi mà việc điều trị cai nghiện được tổ chức sao co có thể tối đa hóa những vấn đề sau:


- Tiếp tục tham gia cùng với sự trợ giúp của cộng đồng.


- Tham gia quyết định chương trình điều trị của riêng mình.


C. CÁC GIAI ĐOẠN CẦN CAN THIỆP:

1/ Can thiệp giai đoạn sớm:


-         Dựa vào cộng đồng


-         Đánh giá và đề xuất điều trị


-         Can thiệp sớm


-         Giảm tác hại


-         Vươn xa hơn: Tích cực tuyên truyền bệnh nhân đi điều trị


-         Giáo dục tác hại tệ nạn nghiện ma túy để quần chúng cảnh giác, đối tượng nhận biết tác hại ma túy.


-         Chăm sóc sau cai


-         Phòng ngừa tái nghiện.


2/ Can thiệp mức độ I :


-         Dựa vào cộng đồng


-         Dịch vụ cho người nghiện ngoại trú


-         Dịch vụ điều trị và phục hồi


-         Mỗi người nghiện được điều trị dưới 9 giờ 1 tuần


3/ Can thiệp mức độ II :


-         Dựa vào cộng đồng


* Mức độ II.1 :


-         Dịch vụ chăm sóc tích cực người nghiện ngoại trú


-         Dịch vụ điều trị và phục hồi


-         Mỗi người nghiện được điều trị trên 9 giờ tuần


* Mức độ II.2 :


-         Người nghiện ngoại trú có nằm viện một thời gian


-         Việc điều trị lâm sàng tích cực được tiến hành trên 20 giờ 1 tuần


4/ Can thiệp mức độ III


- Không dựa vào cộng đồng


* Mức độ III.1 :


-         Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý về lâm sàng ở mức độ trung bình


-         Mô hình “Điều trị mở”


-         Tối thiểu 5 giờ điều trị mỗi tuần


-         Tập trung vào việc tái hoà nhập cộng đồng trong tình trạng không sử dụng ma túy, quay lại làm việc, học tập và cuộc sống gia đình.


-         Gặp mặt song phương, họp nhóm bạn giúp bạn.


* Mức độ III.2:


-         Dành cho đối tượng nặng


-         Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về lâm sàng


-         Mô hình “Cộng đồng trị liệu”


-         Môi trường phục hồi được thiết kế chặt chẽ


-         Dịch vụ điều trị lâm sàng với trình độ chuyên môn từ trung bình đến cao


-         Niềm tin rằng cộng đồng trị liệu là một yếu tố điều trị


-         Nâng cao ý thức trách nhiệm của đối tượng, thay đổi cá tính.


* Mức độ III.3:


-         Dành cho đối tượng rất nặng


-         Dịch vụ chăm sóc điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về mặt y tế


-         Tập trung vào mô hình điều trị y tế


-         Môi trường phục hồi được thiết kế chặt chẽ


-         Đội ngũ nhân viên điều trị có ý thức kỷ luật cung cấp dịch vụ theo dõi 24 giờ / ngày


-         Người nghiện với những rối loạn y – sinh học và những biến chứng về cảm giác, hành vi


-         Phương pháp trị liệu bằng chất đối kháng


5/  Can thiệp mức độ IV:


-         Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về y tế


-         Lên kế hoạch theo dõi y khoa suốt 24 giờ bao gồm đánh giá, chăm sóc và điều trị.


-         Mức độ chăm sóc này có ở:


+       Dịch vụ cấp cứu ở bệnh viện đa khoa cho người nội trú


+       Viện cấp cứu tâm thần hay bộ phận cấp cứu tâm thần trong bệnh viện đa khoa


+       Cơ sở, đơn vị được chỉ định làm công tác cai nghiện (Trung tâm cai nghiện)


6/ Những khía cạnh của việc đánh giá: Gồm 6 vấn đề được đánh giá với mức độ khác nhau – từ đó cho phép:


-         Chuyển người nghiện từ chương trình điều trị dựa vào cộng đồng này sang một chường trình điều trị dựa vào cộng đồng khác hay một mức độ chăm sóc khác phù hợp hơn.


II. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ĐIỀU TRỊ :


1.   Ngộ độc cấp tính và nguy cơ xuất hiện hội chứng cai


2.   Những rối loạn y – sinh học và biến chứng (các bệnh phối hợp)


3.   Tình trạng cảm xúc hành vi và những biến chứng


4.   Viêc chấp nhận/ không chấp nhận điều trị


5.   Tái nghiện/ nguy cơ tiếp tục sử dụng ma tuý


6.   Môi trường: Cộng đồng, tình hình ma tuý ở địa phương


Những khía cạnh của việc đánh giá:


A. NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH NGUY CƠ XUẤT HIỆN HỘI CHỨNG CAI VÀ CÁC BỆNH CƠ HỘI KÈM THEO:


1.     Những nguy cơ đi kèm với tình trạng ngộ độc cấp tính


2.     Nguy cơ hội chứng cai (Số lượng, số lần sử dụng, gần đây đối tượng cai nghiện như thế nào?)


3.     Có xuất hiện những dấu hiệu của hội chứng cai hay không?


4.     Được giúp đỡ trong quá trình cắt cơn giải độc


5.     Rối loạn y – sinh học và những biến chứng


6.     Các bệnh cơ hội khác ngoại hội chứng cai


7.     Các bệnh mãn tính ngoài hội chứng cai


8.     Chăm sóc tình trạng bệnh lý và hội chứng cai


B. TRẠNG THÁI CẢM XÚC/ HÀNH VI VÀ NHỮNG BIẾN CHỨNG:


1.     Việc điều trị trở nên phức tạp nếu người nghiện mắc bệnh tâm thần hay rối loạn cảm xúc – tâm lý hành vi


2.     Người nghiện có mắc những bệnh mãn tính, bệnh cơ hội đều ảnh hưởng đến công tác điều trị - Không được bỏ sót các bệnh này.


C. VIỆC CHẤP NHẬN, KHÔNG CHẤP NHẬN ĐIỀU TRỊ CẦN XÁC ĐỊNH RÕ:


1.   Người nghiện quyết tâm điều trị không?


2.   Người nghiện có cảm thấy bị cưỡng bức khi phải điều trị không?


3.   Người nghiện đã sẵn sàng thay đổi như thế nào khi được giải thích rõ các vấn đề?


4.   Người nghiện có biểu hiện chấp nhận điều trị là do bị cưỡng ép hay tự nguyện?


5.   Người bệnh lo âu, chán nản về vấn đề nghiện của mình như thế nào?


D. VIỆC TÁI NGHIỆN VÀ NGUY CƠ TIẾP TỤC SỬ DỤNG MA TUÝ:


1.   Người nghiện có tâm trạng cực kỳ chán nản không?


2.   Người nghiện có tiếp tục sử dụng ma tuý không?


3.   Người nghiện có nắm được kỹ năng nhằm đương đầu với nguy cơ tái nghiện hay tiếp tục sử dụng ma tuý không?


4.   Những vấn đề tồn đọng và tác nhân gây ức chế đã được giải quyết trước khi họ được an toàn xuất viện như thế nào?


5.   Nhận thức của đối tượng về nguyên nhân và quá trình cai nghiện, về cách đối phó với cảm giác thèm thuốc và kiểm soát tính bốc đồng.


Hải Phòng: Triệt phá đường dây sản xuất ma túy giả

Hải Phòng: Triệt phá đường dây sản xuất ma túy giả


Ngày 10/9, Đại tá Nguyễn Văn Coỏng, Phó Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng trực tiếp đến động viên, khen thưởng cán bộ, chiến sỹ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội - Công an thành phố Hải Phòng đã lập chiến công triệt phá đường dây sản xuất, tiêu thụ ma túy tổng hợp giả số lượng lớn, bắt năm đối tượng.



Trước đó, qua công tác trinh sát, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội-Công an thành phố Hải Phòng phát hiện dấu hiệu của một đường dây chuyên mua bán, vận chuyển trái phép ma túy và ma túy giả qua Cảng hàng không Cát Bi.


Đường dây tội phạm này do Đào Anh Ngọc, sinh năm 1981, trú tại 19/28 đường Đội Văn, phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng, Hải Phòng, từng có hai tiền án, cầm đầu.


Các "cộng sự" của Đào Anh Ngọc gồm Đào Ngọc Doanh (em ruột Đào Anh Ngọc), sinh năm 1983, trú tại 18B/4 đường Cam Lộ, phường Hùng Vương; Nguyễn Thái Bảo, sinh năm 1990, trú tại số 49B/25 đường Đội Văn, phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng; Trần Công Đạt, sinh năm 1978, trú tại số 70/20 đường Trần Nguyên Hãn, phường Cát Dài, quận Lê Chân và Đỗ Thị Nhung, sinh năm 1987, trú tại số 21 đường Trần Nhật Duật, phường Cầu Đất, quận Ngô Quyền, Hải Phòng.


Đường dây sản xuất, mua bán ma túy giả số lượng lớn có tổ chức chặt chẽ, tinh vi từ khâu sản xuất, vận chuyển qua cảng hàng không và đón nhận, vận chuyển cho nhiều đầu mối tại các tỉnh, thành phố khác trong cả nước.


Đặc biệt, đường dây tội phạm này còn trang bị cả một số phương tiện như máy dập viên nén (dạng thuốc “lắc”), máy sấy để tự sản xuất ra ma túy tổng hợp giả, trà trộn nhằm thu lời bất chính.


Qua xác minh nhân thân đối tượng và nắm chắc quy luật hoạt động của các đối tượng, đúng 18 giờ 10 phút ngày 6/9, khi chuyến bay mang số hiệu VJ8657 của hãng VietJet đang làm thủ tục cho hành khách để chuẩn bị cất cánh đi Thành phố Hồ Chí Minh, một mũi trinh sát đã kiểm tra, bắt quả tang Trần Công Đạt đang vận chuyển ma túy, ngụy trang dưới dạng hàng hóa xách tay giao cho Nguyễn Thái Bảo tại cảng hàng không Cát Bi.


Qua đấu tranh, Nguyễn Thái Bảo khai đã nhận ma túy của đầu mối Hải Phòng, vận chuyển và giao cho các đối tượng đang chờ tại Thành phố Hồ Chí Minh.


Tang vật lực lượng phá án thu giữ gồm hơn 1kg ma túy tổng hợp, trong đó có 5.000 viên nén màu vàng in hình cây nấm (loại được dân "bay" trên thị trường ưa chuộng) và một túi to ma túy “đá” (Methamphetamine). Kết quả giám định, toàn bộ số thuốc "lắc" đều là ma túy tổng hợp giả.


Cùng thời điểm, một mũi trinh sát khác thi hành lệnh bắt khám xét khẩn cấp đối với Đào Ngọc Doanh ở số 18B/4 Cam Lộ, Hùng Vương. Tại đây, lực lượng phá án thu được một máy dập viên nén, một máy sấy ma túy và một số tang vật khác.


Cùng ngày, với sự phối hợp của Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Ban chuyên án đã bắt gọn Đỗ Thị Nhung tại khách sạn Ngọc Trân, phường 10, quận 6 và Đào Anh Ngọc tại ấp 7, xã Lê Minh Sơn, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại cơ quan công an, các đối tượng khai nhận đã mua máy dập viên nén tại Trung Quốc, sau đó sử dụng các nguyên liệu như bột thạch cao, bột mì, bột đậu xanh, bột ăn dặm trẻ em và bột nghệ, làm ra viên nén ma túy tổng hợp giả. Trung bình mỗi ngày chúng có thể cho xuất xưởng tới chục nghìn viên. Cơ quan công an đã tạm giữ hình sự đối với năm đối tượng trên và tiếp tục điều tra mở rộng vụ án./.


6 người chết ở quán karaoke: Nạn nhân dương tính với ma túy

6 người chết ở quán karaoke: Nạn nhân dương tính với ma túy

Theo thông tin báo Người Lao Động đưa: Ngày 9/9, bác sĩ Đỗ Văn Thịnh, Phó giám đốc, Trưởng khoa Hồi sức cấp cứu - Chống độc, BV Bãi Cháy (tỉnh Quảng Ninh) cho biết nạn nhân trong vụ 6 người chết trong quán karaoke Queen Club (xã Quảng Chính, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh) có phản ứng dương tính với ma túy và các chất gây nghiện.

Theo đó, cả 3 bệnh nhân trong vụ ngạt khí ở phòng karaoke đưa vào Bệnh viện Bãi Cháy cấp cứu đều có phản ứng dương tính với ma túy tổng hợp và các chất gây nghiện. Hiện, cả 3 bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Bãi Cháy là Cao Văn Nam, 26 tuổi, trú tại xã Quảng Minh, huyện Hải Hà; chị Linh, 24 tuổi, trú tại Sơn La và anh Nguyễn Quốc Khánh 22 tuổi, trú tại phường Hùng Thắng, TP Hạ Long đều đang trong tình trạng nguy kịch.

Trường hợp của chị Linh đang xấu đi. Đây cũng là trường hợp chưa rõ danh tính và địa chỉ chính xác, chưa có thân nhân đến nhận (tạm thời gọi tên căn cứ vào sợi dây chuyền chị đang đeo có khắc chữ Linh).

Bác sĩ Đỗ Văn Thịnh cho biết khi sử dụng ma túy đá, các nạn nhân sẽ thấy cảm giác cực kỳ phấn chấn, thăng hoa, mất tự chủ, ra sức nhảy múa, hò hét. Đặc biệt trong phòng kín, lại có máy phát điện sản sinh ra khí CO2 độc, khí oxy sẽ ít đi, gây ức chế thần kinh. Khi nạn nhân đang phê ma túy đá, không thể có cảm giác là mình đang mất dần oxy, dẫn đến việc cơ thể lịm dần và tắt thở.

Được biết, 3 nạn nhân khác trong vụ việc đang điều trị ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh là anh Phạm Việt Chương (SN 1993, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà, nhân viên của quán); anh Nguyễn Văn Kỷ (SN 1991, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà) và anh Phạm Văn Tuấn (SN 1992, trú tại phường Hải Yên, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) đang có những tiến triển tốt hơn.

Nạn nhân vẫn bị hôn mê.

Trong khi đó, đến thời điểm hiện tại, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh chưa đưa ra bình luận về việc các nạn nhân có sử dụng ma túy, các chất gây nghiện trong quá trình hát tại quán karaoke Queen Club hay không.

Cũng theo tin tức từ Bộ Công an cho biết Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, đã nhận định đây là vụ việc rất nghiêm trọng, đồng thời chỉ đạo Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm và Công an tỉnh Quảng Ninh khẩn trương điều tra làm rõ nguyên nhân. Bộ Công an nhận định vụ việc có dấu hiệu liên quan đến kinh doanh có điều kiện, môi trường (không khí, thức ăn, đồ uống). Bộ đã giao Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh chủ trì điều tra, phối hợp với các lực lượng chức năng của địa phương thực hiện chặt chẽ công tác khám nghiệm hiện trường, tử thi và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ nguyên nhân. Tổng cục Cảnh sát Phòng, chống tội phạm đã phân công cán bộ Cơ quan CSĐT Bộ Công an và Viện Khoa học hình sự trực tiếp tham gia hỗ trợ và hướng dẫn điều tra.

Được biết qua điều tra ban đầu, vào khoảng 21h ngày 7/9, một nhóm thanh niên gồm 12 người trong đó có 1 nữ vào hát tại 3 phòng 1, 2, 3 tại quán karaoke Club Queen do anh Nguyễn Hữu Tuyến (SN 1981, trú tại 43, phố Chu Văn An, thị trấn Quảng Hà, Hải Hà) là chủ quán.

Đến khoảng 21h30, anh Tuyến ra về và bàn giao quán cho Đinh Văn Thuấn quản lý. Vào thời điểm này tại quán bị mất điện, do trên địa bàn huyện Hải Hà có mưa to, dông lốc. Vì vậy, Thuấn đã mang máy phát điện vào trong quán nổ máy phục vụ khách. Đến 15h30 ngày 8/9, anh Thuấn trở lại quán thì thấy phát hiện 12 khách nằm bất động trên sàn quán.

Ngay sau vụ việc xảy ra, lãnh đạo Huyện uỷ, UBND huyện Hải Hà, Công an huyện có mặt tại quán, phong toả hiện trường.

Trong số 6 người tử vong, có tới 4 người là nhân viên của quán, ngoài anh Đinh Văn Thuấn còn có các anh Vũ Văn Luyện (SN 1990), Nguyễn Văn Công (SN 1994), Phạm Văn Tịnh (SN 1994), đều trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, Hội đồng khám nghiệm và các đơn vị chức năng đã khám nghiệm hiện trường, tạm giữ các đồ vật, công cụ và các dấu vết vật chứng có liên quan tại hiện trường phục vụ công tác điều tra.

Đối với tử thi 6 nạn nhân tử vong, đã khám nghiệm bên ngoài, đồng thời thu giữ các mẫu bệnh phẩm cần thiết phục vụ công tác giám định xác định nguyên nhân chết. Sau đó, theo đề nghị của đại diện gia đình các nạn nhân, các cơ quan chức năng không giải phẫu tử thi và đã bàn giao tử thi cho gia đình mai táng.

Theo cơ quan điều tra, nhiều khả năng số người trên do ngạt khí từ máy phát điện dẫn đến chết và bị suy hô hấp.

Cũng theo cơ quan điều tra, quán karaoke Queen Club có đầy đủ giấy phép đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự. Từ khi cơ sở này đi vào hoạt động (tháng 1/2014), Công an huyện Hải Hà đã kiểm tra 3 lần, qua đó, đã 1 lần lập biên bản, xử lý hành chính về hành vi kinh doanh quá giờ quy định, ngoài ra chưa phát hiện vi phạm nào khác.

Danh sách 6 nạn nhân thiệt mạng:

1. Lê Văn Biên - sinh năm 1981, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà

2. Phạm Việt Đức - sinh năm 1990, trú tại xã Phú Hải, Hải Hà

3. Vũ Văn Luyện - sinh năm 1990, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà

4. Đinh Văn Thuẫn - sinh năm 1985, trú tại thị trấn Quảng Hà, Hải Hà

5. Anh Công (chưa rõ họ) - sinh năm 1994, trú tại xã Phú Hải, Hải Hà

6. Anh Trịnh (chưa rõ họ) - sinh năm 1994, trú tại xã Phú Hải, Hải Hà

Danh sách 6 người bị suy hô hấp, đang được điều trị tại bệnh viện:

1. Phạm Việt Chương - sinh năm 1993, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà

2. Lê Văn Nam - sinh năm 1987, trú tại xã Quảng Minh, huyện Hải Hà

3. Chị Linh (chưa rõ họ) - sinh năm 1995, trú tại Sơn La

4. Anh Kỷ (chưa rõ họ) - sinh năm 1990, trú tại xã Phú Hải, huyện Hải Hà

5. Anh Tuấn (chưa rõ họ, năm sinh, nơi ở)

6. Anh Khánh (chưa rõ họ, năm sinh, nơi ở).

Tuệ Lâm (Tổng hợp)

Con trai trùm ma túy sa lưới

Con trai trùm ma túy sa lưới

Chiều 6/10, Công an huyện Mường Lát (Thanh Hóa) cho biết vừa bắt giữ tên Thao Văn Khai (28 tuổi), trú bản Pá Hộc, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát. Nhà chức trách cho hay, Khai là tội phạm đặc biệt nguy hiểm, bị công an địa phương phát lệnh truy nã từ năm 2006.

Thao Văn Khai và tang vật vụ án. Ảnh: C.A. Thao Văn Khai chính là con trai của Thao Văn Sung, trùm ma túy khét tiếng xứ Thanh, kẻ đã bị Công an Thanh Hóa nổ súng bắn hạ tại nhà riêng hồi năm 2005. Sau khi bố mất mạng, Khai cấu kết với một số người dân địa phương lập đường dây buôn bán ma túy từ Lào vào nội địa tiêu thụ. Năm 2006, đường dây này bị công an triệt xóa, nhưng Khai nhanh chân trốn thoát sang Lào. Mặc dù vượt biên ẩn náu ở nước ngoài nhưng Khai vẫn thường xuyên băng rừng mang hàng trắng về miền Tây Thanh Hóa cung cấp cho một số đầu mối bí mật. Ban ngày, anh ta ẩn nấp tại các bản dân tộc Mông ở Lào. Khi đêm xuống, Khai đi xe máy hoặc đi bộ xuyên rừng vận chuyển ma túy về khu vực giáp thủy điện Trung Sơn (Quan Hóa) hoặc đưa đi các tỉnh ngoài tiêu thụ. Nhằm chống lại lực lượng chức năng, Khai luôn mang trong người các loại hung khí nguy hiểm và sử dụng chứng minh nhân dân giả. Nếu bị bắt giữ, hắn sẽ tấn công để tẩu thoát. Với quyết tâm "chặt đứt" mắt xích quan trọng trong đường dây buôn bán ma túy gai góc này, bắt bằng được Thao Văn Khai, công an huyện Mường Lát xác lập chuyên án mang bí số 0112K, huy động tối đa lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ theo dõi, nắm chắc di biến động của “con mồi” chuẩn bị thời cơ “cất vó”. Khoảng 1h30 ngày 3/10, phát hiện Thao Văn Khai mang hàng cấm vào xã Trung Lý, huyện Mường Lát, lực lượng điều tra nhanh chóng ập đến khống chế. Tại chỗ, cảnh sát thu giữ 39 viên ma túy tổng hợp cùng nhiều hung khí và tang vật gây án.

Lam Sơn

204.377 người nghiện chỉ bắt đi cai được… 33

204.377 người nghiện chỉ bắt đi cai được... 33


7 tháng đầu năm 2014, TAND mới chỉ đưa vào cơ sở bắt buộc 33 trường hợp, một con số quá nhỏ so với 204.377 người nghiện có hồ sơ quản lý. Đây là vấn đề “nóng” tại phiên giải trình thực hiện chính sách pháp luật về cai nghiện ma túy và quản lý sau cai, do Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức hôm qua (27.9).


Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, cảnh báo số người nghiện của VN trong mấy năm qua chỉ tăng mà không giảm. Nếu không tập trung giải quyết vấn đề này thì tình hình ma túy, tội phạm liên quan đến ma túy sẽ rất phức tạp. Đặc biệt, người nghiện không quản lý chặt chẽ dễ trở thành tội phạm nguy hiểm. Trường hợp Lê Văn Luyện ở Bắc Giang là ví dụ, khi lên cơn nghiện đã giết cả gia đình nạn nhân.


Khắp nơi chưa... hướng dẫn ĐB Nguyễn Thanh Bình (Vĩnh Long) chất vấn: “Trong báo cáo của Bộ LĐ-TB-XH đổ cho nhiều ngành công an, tư pháp, tòa án, y tế... Việc đưa người nghiện vào cơ sở bắt buộc nguyên nhân chậm là do đâu? Do chậm trễ triển khai hay là do chưa dự đoán được những vướng mắc trong quá trình thực hiện?”. Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Nguyễn Trọng Đàm cho rằng, từ đầu năm đến nay, các địa phương chưa đưa được người nghiện vào các trung tâm bắt buộc vì gặp khó khăn, vướng mắc. Nguyên nhân được ông Đàm đưa ra là còn một số văn bản của các bộ, ngành chưa ban hành theo Nghị định số 111/2013/NĐ-CP (quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn) như: hướng dẫn về thẩm quyền, thủ tục quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy; hướng dẫn kinh phí thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.


“Việc tổ chức thực hiện giữa các ngành tại địa phương chưa chặt chẽ. Sở Y tế chưa tiến hành tập huấn xác định tình trạng nghiện cho cán bộ xã, phường, thị trấn. Công an tỉnh chưa hướng dẫn lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Sở Tư pháp chưa hướng dẫn thẩm tra hồ sơ áp dụng biện pháp đưa vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tòa án chưa hướng dẫn thẩm tra trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, ông Đàm nói.


“Con đường đưa người đi cai dài như đi từ Hà Nội vào TP.HCM”


Trong khi đó, ĐB Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) đặt vấn đề: “Trình tự thủ tục hồ sơ xác định người nghiện quá phức tạp, qua nhiều cơ quan hành chính. 7 tháng đầu năm, tòa án cấp huyện chỉ đưa ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 33 trường hợp. Những trường hợp này có đảm bảo đúng trình tự pháp luật hay không?”.


Ông Bùi Ngọc Hòa, Phó chánh án TAND tối cao, cho rằng do chưa ban hành các biểu mẫu hướng dẫn cụ thể nên tại các địa phương việc thực hiện còn chưa thống nhất và lúng túng. Trả lời câu hỏi của một đại biểu tại sao thực trạng nghiện ma túy xảy ra ngày càng nhiều và các địa phương vẫn chưa đưa vào trung tâm cai nghiện được, ông Hòa nói: “Trình tự thủ tục lập hồ sơ qua rất nhiều bước. Nghị định, luật có hướng dẫn nhưng triển khai chưa đồng bộ. Thêm vào đó, điều kiện vật chất của các cơ sở thực hiện còn nhiều vấn đề phức tạp”. Thượng tướng Lê Quý Vương cũng cho rằng, “mấu chốt vấn đề” ở đây là lập hồ sơ đưa đi cai nghiện, thủ tục rườm rà. Nghe vậy, bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội, đã thốt lên: “Con đường đưa người đi cai dài như đi từ Hà Nội vào TP.HCM”. Rồi bà Mai quay sang chất vấn Bộ Tư pháp: “Để triển khai thực hiện quy định biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cần bao nhiêu loại giấy tờ?”.


Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng liệt kê hàng loạt nghị định, văn bản hướng dẫn liên quan đến lĩnh vực này, và cho biết theo Nghị định 111/2013 cần phải ban hành 43 biểu mẫu. Bộ Tư pháp 29 biểu mẫu, Bộ Công an 13 biểu mẫu... “Vậy tổng cộng để đưa người nghiện đi cai cần 43 biểu mẫu hay sao?”, bà Mai hỏi lại. Thứ trưởng Bộ Tư pháp lúng túng, nhờ cấp dưới trả lời. Bà Mai truy tiếp: “Đề nghị Bộ Tư pháp cho biết cụ thể có bao nhiêu biểu mẫu. 10, 20 hay 30?”. Phía Bộ Tư pháp xin khất để rà soát lại.


Mặc dù đã ban hành nhiều văn bản, song ông Tụng thừa nhận, thực tế vẫn còn vướng hướng dẫn của các bộ ngành, như: chưa xác nhận tình trạng cai nghiện, bản thân quy định của các nghị định khó khả thi như quy định phải thông báo bằng văn bản cho người nghiện khi lập hồ sơ trước khi đưa vào trung tâm, dẫn đến người nghiện bỏ trốn khỏi địa phương, rồi xác nhận tình trạng cai nghiện của cơ quan y tế chưa cụ thể, việc cấp giấy xác nhận của địa phương...


Sẽ có tòa chuyên trách người nghiện


Trước giải trình của các bộ, bà Trương Thị Mai bày tỏ: “Có lẽ Bộ Tư pháp và Bộ LĐ-TB-XH cần phải phối hợp xử lý lại. Nếu không cải cách mạnh thì con đường ra các quyết định còn rất là dài. Xử lý nhanh sẽ giải quyết được tâm tư bức xúc của xã hội. Còn nếu ban hành chậm người nghiện có thể gây rối trật tự an toàn xã hội”. Lấy dẫn chứng từ việc Công an TP.HCM rất gian nan khi xử lý đối tượng nghiện ma túy, nhưng không đưa được vào các trung tâm cai nghiện, bà Mai đề nghị Bộ Y tế cần phải có xác nhận tình trạng ma túy, hướng dẫn tập huấn và quản lý thuốc. Các Bộ LĐ-TB-XH, Bộ Tư pháp sớm có biểu mẫu hồ sơ liên quan đến thủ tục xác nhận người nghiện ma túy. Bộ Công an hướng dẫn tiêu chí đối tượng nghiện ma túy thuộc nhóm côn đồ, hung hãn vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.


Về các giải pháp cụ thể, bà Mai đề nghị Chính phủ tiếp tục triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về ma túy, đồng thời ủng hộ đề xuất của Bộ LĐ-TB-XH xây dựng luật Dự phòng và cai nghiện ma túy. Bà Mai cho biết thêm, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ủng hộ trình luật Tổ chức TAND (sửa đổi), trong đó sẽ có tòa chuyên trách để ra quyết định đối với các vụ việc vi phạm hành chính, tập trung lớn nhất là đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.


Tham dự phiên giải trình, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam phê bình các bộ đã chậm ban hành các văn bản liên quan. “Thủ tục cai nghiện tuy có trục trặc, nhưng nếu tập trung sẽ làm được. Vì vậy, các bộ cần tập trung tiếp thu, rút kinh nghiệm, dứt khoát phải làm quyết liệt hơn. Tôi mong có nhiều cuộc giám sát, nếu các cấp các ngành và xã hội không vào cuộc, cả xã hội không giải quyết được”, Phó thủ tướng nhấn mạnh.


Gần 50% số người nghiện ma túy là nông dân Theo Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Nguyễn Trọng Đàm, đến cuối tháng 8.2014, cả nước có gần 185.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý. Ba năm trở lại đây, số người nghiện đều tăng qua các năm. Năm 2011 là 158.414 người; năm 2012: 172.000 (tăng 8,57%); năm 2013: 181.396 người (tăng 5,46%); 8 tháng đầu năm 2014, tăng 0,8%. Trong số người nghiện có 96% nam giới, 50% ở độ tuổi 16 - 30, 0,02% dưới 16 tuổi. Tất cả các tỉnh, TP đều có người nghiện; gần 90% quận, huyện và khoảng 60% xã phường, thị trấn đã có người nghiện ma túy.


Còn theo số liệu mới nhất được Bộ Công an khảo sát trên toàn quốc, tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý là 204.377. Số có việc làm không ổn định là 41%, không việc làm 44%. Thành phần nghiện hút nhiều nhất là nông dân 49,57%, các thành phần tiểu thương, ngành nghề khác 42,8%, công nhân 6,71%. Cả nước có 142 trung tâm cai nghiện và mới chỉ quản lý 32.200 người.


Theo Thu Hằng/ Thanh Niên


Exit mobile version