All posts by admin

PNO – Thương con “ngáo đá”, mẹ gánh hậu quả


Thương con “ngáo đá”, mẹ gánh hậu quả


Phát hiện con mình “ngáo đá” nhưng nhiều gia đình không báo cho chính quyền địa phương để lập hồ sơ đưa đi cai nghiện tập trung. Thay vào đó, họ để các “cục vàng” cai nghiện tại gia và dẫn đến sự việc đau lòng.


Hung thủ cai nghiện tại gia

Thời gian qua hàng loạt vụ “ngáo đá” (con nghiện phê thuốc) được phát hiện. Nhiều người lầm tưởng rằng các con nghiện chỉ hung hăng, quậy phá và gây án ngay sau khi sử dụng ma túy tổng hợp. Nhưng trên thực tế, biểu hiện này còn xuất hiện thường xuyên hơn khi người nghiện “vã thuốc” (không có ma túy đá để sử dụng) và càng nguy hiểm hơn trong trường hợp cai nghiện tại gia.


Trong vụ việc Tô Minh Nhật Hải (SN 1981, ngụ P.4, Q.10, TP.HCM - ảnh) dùng dao đâm chết mẹ ruột là bà P.T.H. (SN 1951) tại nhà số 100 Nhật Tảo, công an Q.10 đã xác định Hải không hề bị tâm thần. Trước đó, khoảng 23g ngày 1/4, bà H. đang nằm võng ở phòng khách thì thấy Hải đi từ trên lầu xuống. Thấy con trai có biểu hiện lầm lỳ, căng thẳng nên bà H. để ý theo dõi. Lúc này, Hải đi về phía nhà bếp rồi lục lọi các kệ tủ và hỏi: “Dao đâu?”. Bà H. bèn đứng dậy đi lại gần con trai, hỏi: “tìm dao làm gì?”, đồng thời với tay lấy lại con dao Hải vừa cầm. Tuy nhiên, Hải không đồng ý và lớn tiếng cãi lại. Bà H. đang loay hoay tìm cách thuyết phục con trai buông dao thì Hải bất ngờ dùng dao đâm vào ngực mẹ. Bà H. tử vong ngay sau đó.


Nghe tiếng la hét dưới nhà, anh M. (anh của Hải) chạy xuống lao vào can ngăn cũng bị Hải vật xuống sàn nhà. Khi Hải đang chuẩn bị dùng dao đâm anh M. thì vợ anh M. xuất hiện kịp thời, dùng thớt đánh mạnh vào đầu Hải. Bị đòn đau, Hải choáng váng buông dao ra, sau đó bị người dân và công an phường khống chế. Theo tường trình của anh M., gia đình anh đã phát hiện Hải nghiện ma túy đá hai năm trước. Do Hải không chịu đi cai nghiện tập trung nên gia đình đã khóa trái cửa nhốt Hải trong phòng và cho Hải cai nghiện tại nhà, đồng thời điều trị HIV. Đến khoảng giữa năm 2013, tình trạng “ngáo đá” của Hải có dấu hiệu thuyên giảm, nhiều lúc tỉnh táo và hiền lành nên gia đình rất vui và tin rằng Hải đã đoạn tuyệt với ma túy. Do vậy, Hải không bị “cách ly” như trước nữa.


Chiều ngày 3/4, sau hai ngày điều tra ban đầu, Công an Q.10 đã bàn giao Hải và hồ sơ vụ việc cho Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (PC45, Công an TP.HCM) thụ lý.



Thuốc lắc và ma túy đá của một nhóm dân chơi trong khách sạn


Hậu quả được báo trước


Vụ án mạng mà Hải gây ra không phải trường hợp duy nhất khi cai nghiện tại nhà. Nhiều gia đình khác vì thương con nên nhất định không muốn đưa con vào cơ sở cai nghiện tập trung. Cuối tháng 10/2013, công an Q.10 bắt giữ Nguyễn Quang Mạnh (SN 1985, ngụ P.7, Q.10) sau khi Mạnh giết một phụ nữ tại lô R chung cư Nguyễn Kim để cướp tài sản. Qua điều tra, Mạnh khai nhận do nghiện ma túy đá từ lâu và không có tiền mua ma túy sử dụng nên gây ra vụ việc trên. Trong cả hai vụ việc tại Q.10, nhiều người dân cho biết, Hải và Mạnh nghiện ma túy từ lâu.


Vụ việc của gia đình bà D. (SN 1967) còn éo le hơn. Con gái bà D. năm nay 24 tuổi, từng làm dâu trong một gia đình nghệ sĩ có tiếng. Sau khi ly hôn chồng, con gái bà buồn chán và đi theo một nhóm giang hồ khét tiếng tại Q.4 tụ tập “đập đá”. Vì thương con, bà D. đã khuyên con gái về nhà, sau đó khóa cửa nhốt con. Thấy con “vã thuốc”, bà D. đi mua ma túy đá về cho con gái sử dụng, sau đó giảm dần liều lượng để cắt cơn. Nhiều tháng thương con mù quáng, bà D. bị trinh sát công an Q.7 phát hiện, bắt giữ. Sau khi bà D. bị bắt, con gái bà tiếp tục “đi bụi” theo các đối tượng có nhiều tiền án. Chồng thứ hai của bà D. là ông C. “đen” - từng là kẻ khét tiếng, nay đã hoàn lương cũng phải “khổ sở” vì trách nhiệm chăm sóc cô con gái mà bà D. gửi gắm. Lần cuối cùng đi tìm “con của vợ”, ông C. đau lòng khi phát hiện cô con gái đang phê thuốc trong khách sạn với một người đàn ông ngoài 50 tuổi.


Đại úy Mai Trọng Hạnh, Phó đội Hình sự Công an Q.10 cho biết, hiện nay các quận, huyện đã áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc theo quy định của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 15/2/2014. Theo đó, đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy, không có nơi cư trú ổn định cũng thuộc diện bắt buộc cai nghiện theo Nghị định này.


 Vinh Quốc


Trung tá Tăng Văn Liệt, Đội trưởng Đội Cảnh sát hình sự Công an Q.12 cho biết, việc cai nghiện bắt buộc là cần thiết. Nhưng trên thực tế, hiện việc áp dụng Nghị định 221/2013/NĐ-CP đang gặp khó khăn. Theo nghị định này, khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, công an cấp xã, phường phải lập biên bản và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.


Sau năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trưởng phòng tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra phải được thể hiện bằng văn bản gửi trưởng phòng LĐ-TB-XH. Trong thời gian bảy ngày, trường hợp hồ sơ đầy đủ, trưởng phòng LĐ-TB-XH gửi hồ sơ cho TAND cấp huyện. Trong thời hạn năm ngày từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của tòa án, công an cấp huyện chủ trì, phối hợp với phòng LĐ-TB-XH đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nhưng nhiều trường hợp, khi quyết định có hiệu lực thì con nghiện đã… bỏ trốn.

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP 
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. CÁCH PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được vạch định kỹ lưỡng tùy theo từng đối tượng. Họ được học tập và trang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ.


Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.


Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


I/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:

Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quá trình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.


Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.


Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.


Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau:


​​

Về hành vi, bệnh nhân có những biểu hiện:


-  Sử dụng những chấy gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….


-  Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.


-  Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


II/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:

Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.


1/ VỀ CẢM XÚC:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấnHai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.


2/ VỀ HÀNH VI:

·         Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.


·         Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấuthấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).


3/ VỀ NHẬN THỨC:

·         Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.


·         Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.


·         Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.


4/ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ QUAN HỆ CÁ NHÂN:

·         Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.


·         Bị áp lực của bạn bè xấu.


·         Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.


·         Để thì thời gian nhàn rỗi quá nhiều.


5/ VỀ MẶT SINH LÝ HỌC:

·         Không thắng được cảm giác thèm thuốc.


·         Có bệnh đau mãn tính.


6/ VỀ MẶT TÂM THẦN, TÂM LINH:

·         Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.


·         Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì


7/ VỀ TRUNG TÂM CAI NGHIỆN:

·         Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.


·         Kế hoạch điều trị không thích ứng.


·         Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


III/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:

1/ PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN:

1.1 MỤC TIÊU:

-   Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.


-   Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.


-   Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C


-   Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng


-   Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữtâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.


-   Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.


-   Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.


ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM * MORPHINE * HEROIN)

(THUỐC PHIỆN * MOCPHIN * HÊ-RÔ-IN)

CHỐNG TÁI NGHIỆN 
MA TÚY NHÓM OMH
BẰNG THUỐC NALTREXONE
THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ
 
NGHIỆN NHÓM OMH
BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất 
đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng
để loại trừ cảm giác
thèm nhớ ma túy
 nhóm OMH.

3. Naltrexone không
gây nghiện
.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone 
bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủycủa Naltrexone khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của  6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơ gây ngủ gà, đờ đẫn, ngộ độc.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng của Methadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

1.2/ KẾ HOẠCH:

-      Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.


-      Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.


-      Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.


-      Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.


-      Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.


-      Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.


-      Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.


-      Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.


-      Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.


-      Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.


1.3/ BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được.


Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.


Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:


+ Đúng phương pháp


+ Đúng thời gian


+ Đúng thuốc


+ Đúng người bệnh


Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆNsau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.


Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trịcủa đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.


Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặt hạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.


Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

+ Không tái sử dụng ma túy


+ Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân


+ Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức


+ Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.


2. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

2.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”


Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.


- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.


2.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:


-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).


-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).


-  Không tiêm chích ma túy


-  Nếu tiêm chích, không chích chung.


-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.


2.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:


- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).


-  Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).


-  Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).


2.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:


Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).


Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).


Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).


Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:


- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.


- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.


- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.


2.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:


- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng


Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp


- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại


Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích


- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.


- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.


2.6. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:

Khuyến nghị:


- Củng cố luật pháp


- Giải quyết bạo lực gia đình


- Vấn đề y tế công cộng STD/HIV


- Phúc lợi cho trẻ em


- Các bệnh nhiễm trùng


- Lạm dụng chất gây nghiện


- Sức khỏe tâm thần


- Đào tạo cán bộ điều trị


- Giáo dục


- Thông tin đại chúng


B. KẾT LUẬN:

Bốn vấn đề chính yếu trong công tác điều trị nghiện ma túy là:


1.   Sớm nhận biết các dấu hiệu của người sử dụng ma túy để điều trị kịp thời


2.   Trong phương pháp điều trị vấn đề gọt dũa, phục hồi nhận thức hành vi nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẫn nội tâm là quan trọng nhất thông qua tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, lao động trị liệu, hoạt động trị liệu, giải trí trị liệu là rất cần thiết.


3.   Với người nghiện heroin, liệu pháp sử dụng thuốc giữ một vai trò quan trọng.


4.   Với người nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích do chưa có thuốc điều trị nên việc giảm nguy cơ, giảm tác hại là vô cùng cần thiết.

 

Cuộc chiến chống “cái chết trắng” của 1 cựu điệp báo viên


Cuộc chiến chống "cái chết trắng" của 1 cựu điệp báo viên

Bước qua tuổi 65, mái tóc trắng như cước, nụ cười hiền hậu, giọng nói trầm ấm, chẳng ai nghĩ ông già bình dị này lại đang điều hành một trung tâm cai nghiện tư nhân, mỗi năm điều trị cho cả 1.000 lượt người nghiện.


Hôm nay, ông tự tin nói rằng, điều trị nghiện heroin bây giờ có phác đồ điều trị rất hiệu quả. Nhưng với ma tuý tổng hợp thì việc cai nghiện vẫn còn để ngỏ.Những phận người bị đầy ải bởi ảo giác vẫn ngày một nhiều hơn, nếu không kịp thời giác ngộ và cứu vớt, họ sẽ bị chính những mộng mị, mơ ảo của loại ma tuý này đẩy ra khỏi xã hội.


Cựu chiến sỹ điệp báo Khánh Duy.


Người cán bộ Công an từng hoạt động trong lòng địch


Tôi có thiện cảm đặc biệt với ông ngay lần gặp gỡ đầu tiên. Cứ mỗi lần ông đi hội họp (mà các cuộc họp đều liên quan đến ma tuý, HIV/AIDS) ở Hà Nội, tôi lại được diện kiến ông. Câu chuyện của chúng tôi bao giờ cũng xoay quanh ma tuý, người nghiện và cai nghiện. Đây cũng là chủ đề mà ông nói một cách say mê, nói như rút ruột, rút gan. Thế mới biết, khi đặt chân vào lãnh địa này, ông lại trót thêm một lần đam mê.


Tôi đùa mà bảo ông rằng, chắc đây là đam mê cuối cùng của chú. Ông nghe vậy chỉ cười mủm mỉm bảo rằng, có thể như vậy. Thời gian đối với người đã bước qua tuổi 65 như ông đâu còn nhiều. Đi hết niềm đam mê cuối cùng, giải quyết được phần nào vấn nạn làm cả xã hội điên đầu, gầy dựng lại sự ấm êm của những gia đình đang bị phá nát bởi ma tuý, là thách thức nhưng cũng đầy vinh quang.


Bác sỹ Nguyễn Hữu Khánh Duy từng bước qua những thách thức mà nếu không can trường, ông đã gục ngã. Năm 1966, khi đang là sinh viên Y khoa ở Sài Gòn, ông tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên yêu nước. Năm  1971, ông tham gia An ninh vũ trang, rồi làm cụm phó cụm điệp báo A10 Ban An ninh Sài Gòn - Gia Định. Theo lệnh tổ chức, ông gia nhập hàng ngũ địch, làm bác sỹ thuỷ quân lục chiến. Cái mác bác sỹ Thuỷ quân lục chiến mà ông mang lúc đó cũng oai, oách vô cùng. Với tài năng, sự khéo léo của mình, ông được địch phong quân hàm Đại uý, lại được gắn Anh dũng bội tinh và được ca ngợi là anh hùng quân y thủy quân lục chiến.


Mùa xuân năm 1975, khi đất nước được giải phóng, người ta lại thấy ông cùng sỹ quan ngụy đi cải tạo. Tại sao lại đi cải tạo? Hoạt động điệp báo khiến người chiến sỹ phải làm việc, cống hiến với vỏ bọc khác.


Hơn 6 tháng đi cải tạo, ông được bố trí về công tác ở bộ phận Bảo vệ chính trị thuộc Ban An ninh nội chính TP Hồ Chí Minh, sau đó ông chuyển về phụ trách y tế Trại giam Chí Hoà. Năm 1983 ông lại chuyển về Phòng An ninh - Văn hóa tư tưởng (PA25) phụ trách lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục, bảo vệ cơ quan Dân Chính Đảng.



Bước vào cuộc chiến mới


Những tưởng cuộc đời thăng trầm của một điệp báo sẽ khiến ông an hưởng tuổi già sau khi hết thời gian phục vụ cho lực lượng Công an, thế nhưng ông lại làm điều ngược lại. Ông đã cùng với cựu chiến binh từng là quân nhân, sỹ quan Công an - Bộ đội xây dựng trung tâm cai nghiện tư nhân.


Tôi hỏi ông, tại sao ông lại dấn thân vào công việc gai góc này thì ông cười. Ông bảo rằng, do công việc, ông thường xuyên tiếp xúc với phạm nhân mà trong số này có không ít người nghiện ma tuý. Nghiện ma tuý dẫn đến phạm tội và vào tù là ranh giới rất mong manh. Để không tái phạm, việc cai nghiện ma tuý là cần thiết. Những người cựu binh từng tham gia chiến trường, từng trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống, họ sẽ có đủ can trường để tham gia vào lĩnh vực nhiều gai góc này. Và ông đã cùng họ dùng bìa đỏ thửa đất đang ở đem thế chấp ngân hàng để vay vốn, để lập dự án xây dựng Trung tâm điều dưỡng và cai nghiện ma tuý Thanh Đa (gọi tắt là Trung tâm Thanh Đa). May mắn là thành phố đã chấp nhận cho các cựu chiến binh tham gia cuộc chiến chống cái chết trắng.


Những ngày đầu tiên, các ông đã gầy dựng để có một trung tâm cai nghiện ma tuý mà khi vào đây, người nghiện không có cảm giác bị thúc ép. Kiên trì theo đuổi mục tiêu, đến nay Trung tâm Thanh Đa như một khu nghỉ dưỡng sinh thái với cây xanh, hồ nước mát lành. Lạ hơn nữa là trong phác đồ cai nghiện còn có mục vui chơi, giải trí. Đơn cử như ở khoa Chống tái nghiện, ngoài văn phòng, phòng tư vấn, phòng tiếp nhận, xét nghiệm còn có câu lạc bộ nằm trong khuôn viên 350m2. Tại đây có phòng karaoke, máy chơi games, bóng bàn, bi-a, phòng chiếu phim... Giải trí là cách giúp người nghiện giải toả những cơn stress kéo dài, là cách phục hồi đời sống tinh thần vốn bị những cơn mê của ma tuý đánh mất.


Ông say sưa nói với tôi về liệu pháp đối kháng đang sử dụng trong cai nghiện ma tuý. Theo ông, đây là biện pháp ưu việt nhất hiện nay trong cai nghiện. Naltrexone được tác giả Martin (Mỹ) nghiên cứu thành công năm 1974. Cũng năm này, Martin công bố kết quả bước đầu của liệu pháp Naltrexone để loại trừ cảm giác thèm các loại thuốc phiện. Qua nhiều nghiên cứu, một số nước đã sử dụng liệu pháp Naltraxone. Tại nước ta từ tháng 2/2002, Viện Sức khoẻ tâm thần đã tiến hành nghiên cứu chống tái nghiện các dạng thuốc phiện đối với Naltraxone.


Theo nghiên cứu này, bệnh nhân uống thuốc 3 lần/tuần kết hợp tư vấn, can thiệp gia đình và liệu pháp nhận thức hành vi trong thời gian 6 tháng đối với 46 bệnh nhân nghiện các loại thuốc phiện đã cắt cơn. Kết quả cho thấy tỷ lệ bỏ điều trị sau 1 tháng là 8,16%, sau 3 tháng là 14,28%, sau 6 tháng là 36,7%. Các hành vi nguy cơ cao như tiêm chích các dạng thuốc phiện, quan hệ tình dục không an toàn ngừng hẳn trong suốt quá trình điều trị. Các tác dụng không mong muốn đều thấp.


Bản thân bác sỹ Nguyễn Hữu Khánh Duy cùng các cộng sự ở Trung tâm Thanh Đa đã triển khai điều trị bằng thuốc Naltrexone cho hơn 400 học viên từ tháng 7/2008. Tỷ lệ bỏ điều trị sau 18 tháng là 25,45%.


Theo bác sỹ Khánh Duy, Naltrexone là chất đối kháng với nhóm Opiats được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm ma tuý ở nhóm các đối tượng đã cai nghiện ma tuý nhóm Opiats. Khi đang dùng Naltrexone, nếu người nghiện sử dụng lại các chất ma tuý thuộc nhóm Opiats sẽ có thể có nguy cơ ngộ độc do mất khẳng năng dung nạp. Chính vì thế, việc tuân thủ quy định trong khi sử dụng Naltrexone là tối quan trọng.


Hiện nay, việc điều trị cai nghiện bằng Naltrexone được Trung tâm Thanh Đa thực hiện theo nguyên tắc, điều trị nội trú một thời gian nhất định. Đây là thời gian bắt buộc để phục hồi thể chất, nhân cách. Khi trở về cộng đồng, để không tái sử dụng ma tuý, học viên được tiếp tục uống thuốc Naltrexone ít nhất một năm, kết hợp với các kỹ năng tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục và các liệu pháp xã hội khác. Cũng theo bác sỹ Khánh Duy, uống thuốc chỉ là biện pháp hỗ trợ, nếu không kết hợp với các liệu pháp khác thì hiệu quả chống tái nghiện sẽ không cao. Thế mới biết trong điều trị cai nghiện ma tuý, có thuốc điều trị không phải là tất cả. Người cai nghiện ma tuý cần được hỗ trợ các liệu pháp khác để điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách. Giải quyết những vướng mắc nội tâm, bối cảnh phức tạp, đa phương diện của cá nhân, gia đình, xã hội.


Điều gì báo hiệu nguy cơ tái nghiện? Theo bác sỹ Khánh Duy, dấu hiệu nhận biết dễ thấy là sự sa ngã. Một bệnh nhân ra khỏi trung tâm cai nghiện dễ bị sa ngã. Có thể, đó là do tính chất ngẫu hứng, muốn thử lại xem sao. Khi cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra. Thế nên, phải đặt ra việc phòng chống tái nghiện. Đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp dễ khiến người ta đầu hàng. Thế nhưng khi đã đặt ra mục đích rồi thì cứ đi theo hướng đã định, người nghiện sẽ thoát ra khỏi giai đoạn khó khăn này.


Nói như bác sĩ Khánh Duy, cai nghiện đã khó, chống tái nghiện còn khó hơn, dù khó vẫn có thể làm được. Ông nêu vấn đề, sử dụng thuốc Naltrexone để bệnh nhân mất dần cảm giác thèm và nhớ ma tuý, song vẫn cần trang bị cho họ kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác bản thân, giữ tâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục. Tạo điều kiện cho người nghiện tham gia vui chơi, giải trí hoặc làm những công việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độ. Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời gian đi nghỉ phép, thấy có ma tuý trong tầm tay...


Nghiện ma tuý là bệnh mạn tính có đặc điểm dễ tái nghiện sau khi cai nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hoà nhập cộng đồng, đây là những kinh nghiệm sau nhiều năm điều trị cho hàng nghìn lượt người nghiện của bác sĩ Khánh Duy. Nó cũng phản ảnh một thực tế, thành công của người nghiện phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Bằng tâm huyết của mình, bác sĩ Khánh Duy vẫn tiếp tục trên hành trình đầy chông gai với bản lĩnh của một chiến sỹ điệp báo không bao giờ chịu đầu hàng


Vĩnh Nghi

Phát hiện 477 lái xe có sử dụng ma túy


Phát hiện 477 lái xe có sử dụng ma túy:

Tài xế nghiện ma túy khi lái xe thấy 'địa ngục'

Cần thường xuyên kiểm tra nước tiểu của lái xe để phát hiện ai nghiện ma túy -Ảnh minh họa


Qua khám 133.785 lái xe cho thấy có 1.521 lái xe không đảm bảo sức khỏe, trong đó phát hiện 477 lái xe có sử dụng ma túy. 

“Ma túy tổng hợp có tác dụng kích động, gây khó ngủ. Thực tế hiện nay, nhiều xe chở quá tải, quá trọng, đường sá thì không tốt, tài xế cần phải tính táo, không để buồn ngủ nên sử dụng ma túy tổng hợp để không buồn ngủ, giúp cho việc chạy xe nhanh hơn, đến kịp giờ, có thưởng...”.


Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, giám đốc Công ty TNHH Điều dưỡng và cai nghiện ma túy Thanh Đa, TP.HCM phân tích nguyên nhân khiến nhiều tài xế sử dụng ma túy tổng hợp.


Tài xế trốn kiểm tra nước tiểu 

Cũng theo bác sĩ Duy, không chỉ có hàng trăm tài xế sử dụng ma túy như ngành giao thông vận tải vừa phát hiện mà con số này có thể "còn cao hơn nhiều".


Theo bác sĩ Duy, nhiều tài xế nghiện ma túy đã trốn tránh việc thử nước tiểu. Trong khi đó, một người sử dụng ma túy tổng hợp, nếu sau 2 ngày mới thử nước tiểu sẽ không phát hiện được dương tính với ma túy. Hiểu được điều này, nhiều tài xế nghiện ma túy cố tình lẫn tránh,  đợi sau 2 ngày xét nghiệm nước tiểu thì sẽ không phát hiện.


“Mới đây một công ty vận tải nhờ tôi kiểm tra nước tiểu tài xế công ty, trong 18 tài xế của công ty này, có 14 tài xế vào kiểm tra nước tiểu âm tính với ma túy, nhưng 4 tài xế lại kiếm cớ đi vắng, kiểm tra lần 2 thì 4 tài xế này lại tiếp tục kiếm cớ đi vắng nữa. Rõ ràng 4 tài xế này có khả năng sử dụng ma túy, cần phải loại bỏ, không cho tiếp tục lái xe nữa”, bác sĩ Duy cho biết.


Bên cạnh đó, cũng theo bác sĩ Duy, số bệnh nhân nghiện ma túy tổng hợp đến điều trị cơ sở điều dưỡng và cai nghiện ma túy Thanh Đa từ năm 2005 đến 2011, mỗi năm đều tăng theo cấp số nhân, nhưng đến năm 2012  và 2013 thì con số đến cai nghiện không tăng.


Trong khi đó, số người nghiện ma túy tổng hợp nặng, phải đưa đến bệnh viện tâm thần điều trị  trong năm 2013 lại tăng gấp đôi  năm 2012. Nếu năm 2012 chỉ  có 67 trường hợp nặng đưa đi điều trị tại bệnh việm tâm thần thì năm 2013 lại có đến 121 trường hợp.


Khi nghiện ma túy, nếu lái xe bị kích động, phóng xe rất nhanh, không làm chủ bản thân - (Ảnh chỉ mang tính minh họa).


“Điều đó có nghĩa rằng, số người nghiện ma túy ở bên ngoài xã hội không được đưa vào cai nghiện là khá lớn để đến khi nặng, bệnh nhân quấy phá thì mới đưa vào cai nghiện.


Do đó, số lượng người nghiện ma túy tổng hợp đang nhởn nhơ và tham gia nhiều hoạt động bên ngoài xã hội có thể là rất cao, trong đó có nghề tài xế lái xe”, bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy lý giải.


Nhiều tai hại trên cung đường

Theo các bác sĩ cai nghiện ma túy, người nghiện ma túy là một người rối loạn, xuống cấp một phần nhận thức, hành vi và nhân cách, chứ không phải toàn bộ, toàn diện nên vẫn còn một phần thức tỉnh trong con người.


Do đó, trong điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, những phần còn thức tỉnh đó vươn lên, khống chế lại những phần rối loạn thì họ vẫn bình thường; nhưng khi điều kiện này mất đi, những điều xấu vươn lên, lúc đó sẽ có những hành động bất thường.


Vì thế người nghiện ma túy vẫn có những lúc sáng suốt để xử lý tình huống trên đường, nhưng nếu điều kiện hoàn cảnh mất như: đường vắng, không có cảnh sát giao thông… thì những điều xấu sẽ vươn lên, khi đó sẽ rất nguy hiểm.


“Khi ma túy tổng hợp vào cơ thể khiến con người bị kích động dữ dội, mất sự làm chủ của chính mình, sự nhận thức, phân tích của bản thân không còn nữa, bị rối loạn, xuống cấp rất nhanh. Nếu sử dụng ma túy tổng hợp kép dài sẽ dẫn đến bị ảo thanh, ảo giác, hoang  tưởng, tâm thần… Khi đó, nếu lái xe sẽ bị kích động, phóng xe rất nhanh, không làm chủ bản thân”, bác sĩ Duy cho biết.


Cũng theo bác sĩ Duy, hiện nay còn có một bộ phận tài xế tắc-xi sử dụng cần sa để giải sầu lúc chờ đợi khách. Khi sử dụng cần sa, người sử dụng có cảm giác khoan khoái, vui vẻ hòa nhã với mọi người.


Tuy nhiên, nếu như tài xế xe sử dụng ma túy tổng hợp bị kích động, không làm chủ mình, phóng nhanh, vượt ẩu thì người tài xế sử dụng cần sa sẽ không có sự chính xác trong lái xe do hoang tưởng, xuất hiện những cơn hoảng loạn, thấy thiên đường và địa ngục.


Phải kiểm tra nước tiểu thường xuyên

Để giải quyết vấn đề này, theo bác sĩ Duy không chỉ giáo dục đơn thuần mà phải thử nước tiểu một cách thường xuyên.


“Các đơn vị sử dụng tài xế phải kiểm, tra thử nước tiểu tài xế của mình, nếu không tài xế gây tai nạn phải bỏ tiền để đền; còn ngành giao thông vận tải phải kiểm tra đột xuất.


Riêng đối với lực lượng cảnh sát giao thông, tôi nghĩ không chỉ xử phạt những hành vi phạm lỗi đơn thuần của tài xế mà phải thực hiện kiểm tra nước tiểu để phát hiện tài xế có sử dụng ma túy hay không để có tình tiết xử lý nặng.


Nếu lực lượng cảnh sát giao thông không làm được thì có thể đưa tài xế đến các cơ sơ y tế để kiểm tra nước tiểu”, bác sĩ Duy kiến nghị.


Nhiều vụ tai nạn giao thông kinh hoàng xảy ra-Ảnh minh họa


Với hành khách, để có thể phát hiện tài xế có nguy cơ sử dụng ma túy hay không nên để ý những tính cách của họ. Thường những tài xế sử dụng ma túy thường nói nhanh, nói nhiều, hay lăng xăng, nhưng đôi lúc lại nóng tính cau có, không thấy buồn ngủ...


Thế nhưng, nhiều hành khách lại nghĩ rằng, những tài  xế lăng xăng, lít xít, nói nhiều là vui tính, dễ chịu…


Phát hiện 477 lái xe có sử dụng ma túy
Theo Bộ Giao thông vận tải (GTVT), tính đến nay cả nước đã có 59 tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư và Cục Y tế GTVT báo cáo kết quả thực hiện việc tăng cường công tác khám sức khỏe, quản lý sức khỏe đối với lái xe kinh doanh vận tải bằng ô tô.
Qua đó, có 133.785 lái xe được khám, 1.521 lái xe không đảm bảo sức khỏe, trong đó phát hiện 477 lái xe có sử dụng ma túy. Riêng báo cáo của Cục Y tế GTVT, trong số 6.953 người được khám đã phát hiện 95 lái xe bị rối loạn sắc giác.

 Hồ Quang 

 

Nghệ An: Triệt phá đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam


Nghệ An: Triệt phá đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam

(SGGP).- Khoảng 10 giờ 30 ngày 11-6, tại thị trấn Noọng Hét, tỉnh Xiêng Khoảng (Lào), Phòng Phòng chống tội phạm ma túy (Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An), Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn, Đồn biên phòng Mường Típ phối hợp với Công an tỉnh Xiêng Khoảng (Lào) đã triệt phá thành công một đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam.


Theo đó, vào thời điểm trên, các lực lượng của 2 nước Việt Nam và Lào đã bắt 2 đối tượng Lầu Gia Noòng (40 tuổi) và Tồng Nhong Lò (27 tuổi, cùng trú huyện Noọng Hét, tỉnh Xiêng Khoảng, Lào)..


Qua khám xét, lực lượng chức năng thu được 20 bánh heroin, 5.000 viên ma túy tổng hợp; 1 ô tô, 1 xe máy và các tang vật liên quan (ảnh). Hiện hai đối tượng đã được bàn giao cho Công an tỉnh Xiêng Khoảng (Lào) tiếp tục mở rộng điều tra..


DUY CƯỜNG

Exit mobile version