Thông Tin Báo Chí Về Ma Túy

  1. Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc

  2. TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG - CỎ MỸ

  3. Nghi vấn nam thanh niên bị loạn thần sau khi sử dụng cỏ Mỹ

  4. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN RƯỢU

  5. VTV6 - Điểm nóng - Có những sự "trở về" như thế

  6. VNExpress - Một số tài xế container sử dụng ma túy

  7. Dân trí - ​Bi hài chuyện những gã “ngáo đá” nổi tiếng đất cảng

  8. Sức khỏe & Đời sống - Bóc trần sự thật về thuốc cai nghiện rởm giá “trên trời” bán tại Sài Gòn

  9. SGTT - Bán thuốc cai nghiện ma túy dễ như bán... Viagra

 10. Người đưa tin - Rước họa vì thuốc cai nghiện trên mạng

 11. SGPP - Cai từ tại gia cai qua... điện thoại

 12. SGGP - Cai chưa xong, đã nghiện thuốc

 13. Sức khỏe và đời sống - Tư vấn cai nghiện ma túy “chui”: ... Cho không lấy, thấy không chơi (?!)

 14. ANTD - Giết vợ xong ngồi canh xác chờ công an đến… cứu

 15. HTV7 - Các bác sĩ nói gì

 16. HTV7 - Các bác sĩ nói gì

 17. Kỹ năng TƯ VẤN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

 18. VTV9 - CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU ...

 19. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự

 20. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng

 21. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt

 22. Cai nghiện - ​Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ

 23. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

 24. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần

 25. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình

 26. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”

 27. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu

 28. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi

 29. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu

 30. CAND - ​Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ

 31. Lao động - ​Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới

 32. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy

 33. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

 34. Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

 35. Báo mới - Điều trị nghiện rượu như thế nào?

 36. Người đưa tin - Tuyệt tự vì mê đắm trong 'cõi lưu linh'

 37. ANTĐ - Nghiện rượu và những hệ luỵ

 38. Dân trí - Chồng lấy xăng thiêu sống vợ ngay tại nhà

 39. CAND - ​Chống nghiện rượu - kế hoạch hàng đầu của nước Nga

 40. CATP - Điên vì nghiện rượu

 41. VietNamNet - Tâm thần, tự sát vì rượu dịp Tết

 42. Tuổi trẻ - Không uống không... chịu được

 43. Lao Động - Có thể cai rượu bằng thuốc?

 44. SK&ĐS - Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc

 45. PNO - Thương con “ngáo đá”, mẹ gánh hậu quả

 46. HTV7 - Vì cuộc sống cộng đồng

 47. HTV9 - Điều kỳ diệu của sự yêu thương

 48. Trị liệu gia đình

 49. TIN MỚI - Cận cảnh khuôn mặt biến dạng theo thời gian vì nghiện ma túy

 50. HTV - Hoa cuộc sống

 51. Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy

 52. Nghệ An: Triệt phá đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam

 53. Bài 4 - Sàng lọc - Đánh giá và lập kế hoạch cho người nghiện ma túy

 54. Bài 5 - Các dịch vụ phục hồi chức năng cho người nghiện ma túy

 55. Vai trò công tác tư vấn và trị liệu tâm lý trong cai nghiện - phục hồi cho người nghiện ma túy

 56. Hải Phòng: Triệt phá đường dây sản xuất ma túy giả

 57. 6 người chết ở quán karaoke: Nạn nhân dương tính với ma túy

 58. Con trai trùm ma túy sa lưới

 59. 204.377 người nghiện chỉ bắt đi cai được... 33

 60. Không thể đưa người nghiện đi cai, tội phạm TP HCM đang tăng

 61. Tràn lan người nghiện 'xin đểu' tại trung tâm TP HCM

 62. Hải Phòng: Hàng trăm học viên cai nghiện tràn ra phố

 63. Giấu cần sa trong khung, lốp và thùng nhiên liệu

 64. Tổng quan về điều trị lệ thuộc chất dạng thuốc phiện theo GS Robert Ali

 65. Hiệu quả kinh tế của các biện pháp điều trị lệ thuộc heroin hoặc thuốc phiện

 66. Nghiện các chất dạng thuốc phiện (CDTP) và các phương pháp điều trị ở Việt Nam

 67. Kết quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Tp Hải Phòng

 68. CAND - Một ổ buôn ma túy lớn không ngờ

 69. CAND - Công điện của Bộ trưởng Bộ Công an về mở đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm

 70. CAND - Giết người yêu vì ảo giác

 71. SGGP - Chung tay phòng, chống ma túy

 72. Người lao động - Cai nghiện tại gia: Khó trăm bề!

 73. Người lao động - Thách thức với Methadone

 74. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

 75. SGGP - Phá đường dây buôn bán ma túy từ Lào về Việt Nam, thu giữ 120.000 viên ma túy tổng hợp

 76. VNEXPRESS - 66 người trong đường dây buôn heroin đối mặt án tử hình

 77. VNEXPRESS - Bên trong làng ma túy số một Trung Quốc

 78. VietNamNet - Gã nghiện sát hại dã man người yêu đang mang thai

 79. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự

 80. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng

 81. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt

 82. Cai nghiện - ​Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ

 83. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

 84. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần

 85. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình

 86. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”

 87. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu

 88. Chính phủ - Rượu bia và hệ lụy: Câu chuyện từ gia đình đến pháp đình

 89. Người lao động - Tan nát gia đình vì rượu

 90. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi

 91. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu

 92. CAND - ​Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ

 93. VNEXPRESS - Hàng loạt lái xe khách nghiện ma túy

 94. PLXH - Tội ác khó dung của gã chồng nghiện rượu

 95. PNO - Ký ức buồn

 96. Thông tin báo chí về cai nghiện rượu

 97. PLVN - Bàng hoàng: cháu giết bà trong cơn nghiện rượu

 98. Thanh niên - Loạn thần do rượu

 99. Lao động - ​Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới

100. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy

Điều trị nghiện ma tuý tại Thái Lan – Kỳ 2: Kinh nghiệm và những mô hình hiệu quả

tiengchuong

Điều trị nghiện ma tuý tại Thái Lan - Kỳ 2: Kinh nghiệm và những mô hình hiệu quả


Vấn đề điều trị cho người nghiện ở Thái Lan được thực hiện theo 3 hình thức là điều trị tự nguyện, bắt buộc và phạm tội. Từ năm 2009 trở về trước, chủ yếu là thực hiện theo hình thức bắt buộc, nhưng từ năm 2012 đến nay điều trị tự nguyện đã tăng lên.


 

Mô hình Cộng đồng trị liệu cho người nghiện ma túy tại Thái Lan- Ảnh ccd.rtaf.mi.th


Hình thức cai nghiện tự nguyện là hình thức áp dụng cho những người tự nguyện đi cai nghiện trước khi bị bắt.


Hình thức cai nghiện bắt buộc là hình thức cai nghiện áp dụng cho những đối tượng bị công an bắt giữ và khi đó trong người họ đang có ma túy với khối lượng giới hạn như không quá 5 viên hoặc 500 mg Methamphetamine/Amphetamine.


Hình thức phạm tội sẽ áp dụng trong trường hợp đối tượng bị bắt giữ như hình thức cai nghiện bắt buộc lại phạm thêm tội nào đó như trộm cắp…


Thái Lan hiện có hàng ngàn cơ sở cai nghiện trên khắp cả nước, với người cai tự nguyện, họ có thể tham gia vào các khóa điều trị tại các bệnh viện tuyến trung ương, tỉnh, huyện và các trung tâm cai nghiện do Chính phủ quản lý và các cơ sở tư nhân. Có 11.464 cơ sở cai nghiện dành cho các đối tượng tự nguyện. Với người cai nghiện bắt buộc, họ sẽ được đưa vào các trung tâm cai nghiện tập trung và không tập trung. Có 1.179 trung tâm như vậy ở Thái Lan (trong đó 85 trung tâm tập trung và 1.094 trung tâm không tập trung). Với tội phạm thì các cơ sở giáo dưỡng, nhà tù sẽ là nơi quản lý và điều trị cho họ.


Nhưng dù thuộc đối tượng nào, được điều trị ở đâu thì những người nghiện vẫn sẽ được điều trị theo quy trình cai nghiện chuẩn quốc gia.


Quy trình này bao gồm 4 bước:


Bước 1: Chuẩn bị điều trị. Đây là bước sàng lọc phân loại để xác định người nghiện là người mới sử dụng, sử dụng ít, nghiện, nghiện nặng hay người nghiện không thể cai để từ đó có thể xác định hệ thống cai nghiện cho phù hợp.


Với người mới sử dụng, các cán bộ y tế, chuyên gia tâm lý trong các bệnh viện, các điểm cai nghiện trong cộng đồng sẽ đưa ra lời khuyên, tư vấn để họ thấy được tác hại của ma túy và từ bỏ. Hình thức trao đổi như vậy khiến người tham gia điều trị thấy nhẹ nhàng, không tạo cảm giác đang tham gia vào quá trình điều trị.


Với người nghiện không thể cai được thì có thể cho họ dùng Methadone thay thế.


Bước 2: Điều trị bằng thuốc; thực hiện tẩy độc (cắt cơn).


Bước 3: Phục hồi bao gồm phục hồi cả về thể chất và tinh thần; thực hiện các hoạt động dạy nghề, hướng nghiệp cho người nghiện. Đây là hình thức giúp người nghiện không tái nghiện và có thể trở về với cộng đồng.


Bước 4: Giám sát, chăm sóc sau cai.


Hiện nay có 5 mô hình phục hồi cho người nghiện ma túy cơ bản đang được triển khai tại Thái Lan, gồm: Mô hình Matrix, mô hình Jirasa, mô hình Cộng đồng trị liệu, mô hình FAST và mô hình Care.


+ Mô hình Matrix: Áp dụng theo mô hình Matrix của Hoa kỳ. Theo mô hình này, sau khi giải độc ma túy, người nghiện sẽ tham gia một chương trình phục hồi kéo dài trong 16 tuần với các khóa tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm về các kỹ năng phục hồi cơ bản, các kỹ năng phòng ngừa tái nghiện, các buổi giáo dục tư vấn dành cho người đối ngẫu, gia đình người nghiện, các hỗ trợ về xã hội kết hợp với thử nước tiểu tìm chất ma túy. Mô hình này được thực hiện với những bệnh nhân nghiện cần sa, các loại ma túy tổng hợp, cả bệnh nhân tự nguyện và bệnh nhân bắt buộc.


+ Mô hình Jirasa: Được phát triển dựa trên các nguyên lý phục hồi về tâm lý xã hội ứng dụng cho phù hợp với đặc điểm văn hóa của Thái Lan, kết hợp với việc dạy các giáo lý đạo Phật cho người nghiện ma túy. Bên cạnh đó, các cán bộ y tế, giáo dục, các chức sắc của đạo Phật cũng được vận động và tập huấn để tham gia thực hiện việc phục hồi cho người nghiện theo mô hình này.


+ Mô hình Cộng đồng trị liệu (TC): Thực hiện theo nguyên mẫu mô hình cộng đồng trị liệu tại Hoa Kỳ, mô hình TC tại Thái Lan kéo dài 1-2 năm và thực hiện theo 3 nguyên lý: tạo môi trường gia đình giữa những người nghiện tham gia chương trình, sử dụng áp lực tích cực của bạn bè và sử dụng các gương điển hình (hình mẫu) cho người nghiện noi theo. Các hoạt động của mô hình TC được thực hiện theo 4 nhóm; đó là các hoạt động quản lý và sửa đổi hành vi, các hoạt động phục hồi về tâm lý và tình cảm, các hoạt động mang yếu tố tâm linh và các hoạt động về dạy nghề - hướng nghiệp.


+ Mô hình FAST: Đây là một mô hình TC cải biên với 4 thành phần chính, gồm Gia đình (F- Family); các hoạt động điều trị thay thế (A-Alternative Treatment Activities); Tự giúp đỡ (S - self help) và Cộng đồng trị liệu (T - Theraputic Community). Mô hình này được chia làm 3 hình thức: ngắn hạn (4-6 tháng); trung hạn (6-8 tháng) và dài hạn (8-12 tháng).


+ Mô hình Care (CARE Model): Là một mô hình cai nghiện được vận dụng từ mô hình Cộng đồng trị liệu cho phù hợp với điều kiện quản thúc phạm nhân trong nhà tù và thành lập “Nhà tình thương” để chữa trị cho các phạm nhân nữ nghiện ma túy trong nhà tù.


Với mục tiêu là thay đổi quan niệm, hành vi của người nghiện để giảm ma túy và từ bỏ, nâng cao chất lượng cuộc sống và trở về hòa nhập cộng đồng, vì vậy, mô hình này chú trọng đến các hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, sinh hoạt tập thể để cùng chia sẻ, dạy cho học viên các kỹ năng xã hội. Sau khi cai nghiện, học viên sẽ được hướng nghiệp, học nghề.


Hiện nay, ở Thái Lan, chi phí cai nghiện nhìn chung do nhà nước chi. Ví dụ, điều trị ngoại trú là 2.500 bath (khoảng 80 USD)/đợt, nội trú 10.000 bath (hơn 300 USD)/đợt. Thời gian mỗi đợt tối đa là 4 tháng. Các cơ sở tư nhân làm dịch vụ này được thu phí. Nếu bệnh viện làm dịch vụ thì thu phí của người cai khoảng 700-800 USD/đợt. Gia đình có thể đóng thêm tiền cho bệnh nhân ăn uống, mua thuốc chữa bệnh.


Tuy nhiên, đến nay, Thái Lan cũng chưa có hệ thống đánh giá chuẩn xác kết quả cai nghiện. Khi cần đánh giá, Ủy ban Kiểm soát ma túy Vương quốc Thái Lan (ONCB) sẽ thuê tổ chức và cán bộ khoa học ở ngoài đánh giá. Do vậy, không có con số tổng thể. Ví dụ, mỗi năm cai nghiện cho mấy trăm nghìn người nhưng chỉ đánh giá được khoảng 100.000 người và có khoảng 3% tái nghiện vào thời điểm đánh giá. Và có khoảng 30% số tái nghiện quay lại cai nghiện của các cơ sở. Hiện nay, Thái Lan cũng đang nghiên cứu thí điểm quản lý sau cai như Việt Nam.


Hiện tại, các tổ chức nhân quyền quốc tế cũng đã làm việc với ONCB về cai nghiện tập trung. Thái Lan đã giải thích cho họ quy trình cai nghiện, không quá cứng rắn, cưỡng bức lao động mà theo phác đồ của Bộ Y tế. Đồng thời, Thái Lan đang thay đổi, theo dõi sau cai nhiều hơn.


 

http://tiengchuong.vn/

Hành trình phá án đường dây ma tuý đá lớn nhất miền Trung

Hành trình phá án đường dây ma tuý đá lớn nhất miền Trung


Hai nghi can trong đường dây buôn ma tuý đá bị nhiễm HIV, số còn lại đều có nhiều tiền án nên tỏ ra rất gian xảo và liều lĩnh. Để phá được vụ án, trinh sát phải theo dõi hơn nửa năm.


    Đầu tháng 11/2014, sau nhiều tháng điều tra Phòng Cảnh sát điều tra về tội phạm ma tuý (PC47, Công an tỉnh Quảng Nam) nắm được thông tin Trần Văn Tâm (39, trú Đà Nẵng) có nhiều nghi vấn về hành vi buôn bán ma tuý. Ngày 23/11/2014, PC47 phối hợp với Công an huyện Duy Xuyên kiểm tra hành chính xe khách chạy hướng Đà Nẵng - TP HCM khi đi qua địa bàn. Khám xét tại chỗ, các trinh sát phát hiện Tâm vận chuyển 370 gram ma túy đá và 37 gram heroin trên đường đi tiêu thụ.


    Với nguồn tin Tâm là mắt xích trong đường dây ma tuý rất lớn đang hoạt động ở khu vực miền Trung, đại tá Lê Văn Đức, Trưởng phòng PC47 Quảng Nam, đã chỉ đạo các điều tra viên phải đấu tranh quyết liệt với Tâm nhằm khai thác thông tin để bóc gỡ toàn bộ đường dây này. Tuy nhiên, từng 12 năm thụ án vì tội buôn bán ma túy, Tâm tỏ ra ngoan cố và nhất quyết không chịu khai đồng bọn.


    "Suốt nhiều tháng tạm giam nhưng anh ta không chịu hé miệng. Tâm thách thức nếu công an biết được chừng nào thì anh ta sẽ khai từng ấy", một trinh sát tham gia phá án cho hay.


    Không thể kéo dài thời gian, phòng PC47 đành chuyển sang phương án khác. Hàng chục trinh sát được lệnh thu thập từng thông tin nhỏ nhất để phác họa các mối quan hệ của Tâm. Manh mối đầu tiên được lần ra khi công an phát hiện Tâm nhiều lần chuyển tiền qua tài khoản cho một phụ nữ ở Hà Nội. Cũng trong thời gian này, Công an Quảng Nam nhận được thông tin Nguyễn Tấn Công (38 tuổi, trú Đà Nẵng), vừa bị Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế bắt giữ về hành vi mua bán ma tuý có quen biết với Tâm.


    Các điều tra viên đánh án giỏi nhất nhận được lệnh ra Huế khẩn cấp để khai thác thông tin từ Công. Sau nhiều lần được vận động, Công khai nhận từng mua ma túy của Tâm và một người phụ nữ tên Linh ở Hà Nội. Đi sâu vào điều tra, phòng PC47 xác định Linh có tên thật là Vũ Thị Nguyên (32 tuổi, trú Ba Đình, Hà Nội).


    Đích thân đại tá Lê Văn Đức cùng 5 trinh sát ngay sau đó lên đường ra Hà Nội để bắt Nguyên. Tuy nhiên, người phụ nữ này đã trốn khỏi nơi cư trú. Suốt thời gian dài với vỏ bọc nhiều nghề nghiệp khác nhau, các trinh sát cũng lần ra được nơi ở hiện tại của Nguyên.


    Sau nhiều tháng bám địa bàn Hà Nội cùng với sự phối hợp của Cục Cảnh sát điều tra về tội phạm ma tuý (C47, Bộ Công an), các trinh sát nắm được thông tin Nguyên đang ở TP HCM và sẽ lên máy bay về Hà Nội vào ngày 8/3. Ở nhiều nơi và liên tục di chuyển, đến ngày 10/3, Nguyên bị bắt giữ khi trú tại khách sạn ở trung tâm Hà Nội.


    Được sự vận động của gia đình và cơ quan điều tra, Nguyên khai trước đây mua ma túy nhỏ lẻ từ một người bạn là Đỗ Chí Dũng (32 tuổi, phố Hàng Bồ, Hà Nội), để kiếm tiền nuôi “chồng hờ” nghiện ngập. Sau này, Nguyên trực tiếp qua biên giới mua ma túy đá của một người đàn ông Trung Quốc tên là A Khải để bán cho các đầu mối trong nước, trong đó có Trần Văn Tâm.


    Sau khi biết Tâm bị Công an tỉnh Quảng Nam bắt, Nguyên bỏ trốn và dừng cung cấp cho các đầu mối khác. Tuy nhiên, vẫn tiếc nuối con đường làm ăn lợi nhuận lớn này nên Nguyên liên lạc với Dũng và giới thiệu cho anh ta mua ma túy từ A Khải để cô ta được nhận tiền hoa hồng.


    Lần theo thông tin khai thác được từ Nguyên về Đỗ Chí Dũng, công an xác định anh ta đang ở ngôi nhà tại phố Ngọc Hà (Hà Nội). Tuy nhiên, khi trinh sát ập vào đây thì Dũng đã nhanh chấn trốn thoát. Tiếp tục bám sát thông tin, ngày 16/4, công an nhận được tin báo Dũng đang thuê trọ trong một con ngõ ở phố Định Công.


    Không xác định được cụ thể ngôi nhà anh ta đang ở, sợ "dứt dây động rừng", hàng chục trinh sát phòng PC47 Quảng Nam và C47 đành phải mai phục khắp các ngõ ngách để chờ Dũng xuất hiện. Đến chiều cùng ngày, Dũng bị các trinh sát tóm gọn khi vừa chở bạn gái từ nhà trọ đi ra.


    Khám xét ngôi nhà và căn phòng trọ mới thuê của Dũng, công an phát hiện 5,2 kg ma túy đá và một số hóa chất, ống nghiệm thủy tinh. Dũng khai đây là dụng cụ anh ta thử nghiệm việc pha chế ma túy đá sang dạng nước để qua mắt lực lượng chức năng. Tuy nhiên, ý định chưa thực hiện được thì bị bắt giữ.


    Kể về quá trình triệt phá đường dây ma tuý này, đại tá Lê Văn Đức chia sẻ để phá được một mắt xích vốn đã khó, mất rất nhiều công sức nhưng để chúng khai nhận hành vi phạm tội và cung cấp thông tin thì càng khó khăn hơn. "Các nghi can đều là kẻ có tiền án, lì lợm và rất khó thuyết phục. Trong đó, Dũng và Nguyên đều nhiễm HIV nên tỏ ra rất liều lĩnh. Khi tiếp cận chúng, các trinh sát phải rất cẩn thận để tự bảo vệ mình đồng thời không để các nghi can cố ý gây hại nhằm trốn thoát", vị trưởng ban chuyên án kể.


    Ngoài ra, theo đại tá Đức, “đầu não” của đường dây ma tuý này nằm ở Hà Nội khiến công tác truy tìm rất vất vả vì các điều tra viên từ Quảng Nam không thuộc địa bàn. Ngay cả nói chuyện với nhau hoặc hỏi đường người dân, các trinh sát cũng không dám vì sợ bị phát hiện bởi chất giọng Quảng Nam.


    Về đầu mối cung cấp ma tuý đá từ Trung Quốc, C47 vẫn đang điều tra, mở rộng.


    Tiến Hùng

    Theo chân tài xế nghiện đá 24 tuổi lái xe container như điên dại

    Theo chân tài xế nghiện đá 24 tuổi lái xe container như điên dại

    24 tuổi, 5 năm nghiện ngập
    Hơn 0g ngày 6-6, chúng tôi lên xe của “Đầu Hư” trên đường Đồng Văn Cống (Q.2), đi theo hướng từ cảng Cát Lái ra xa lộ Hà Nội. Chiếc xe đầu kéo loại đầu bằng, do Mỹ sản xuất từ năm 1994, nội thất cũ nát, máy lạnh hư, các loại đồng hồ đo chỉ số trên bảng điều khiển đều ngưng hoạt động.
    “Nhà” của “Đầu Hư” rất lạ, không có mùng mền, không gối hay nệm, chiếc giường phía sau trống trơn, chỉ một chiếc chiếu trúc cùng hai chiếc áo dài tay bẩn thỉu vứt vương vãi.
    Thứ quý nhất có là chiếc rổ nhựa, trong đó chứa tiền, các loại giấy tờ xe, lệnh nhận - giao hàng và đặc biệt là một chiếc bình tự chế chuyên dùng để “đập đá”.
    Trên giường phía sau còn có ba cái hộp quẹt, trong đó một chiếc được “độ” lại rất cẩn thận, nắp che gió được gỡ bỏ, thay vào đó là một ống nhỏ dẫn gas và một chiếc lò xo nhỏ trên đầu.
    “Tôi có ngủ đâu mà cần gối mền” - “Đầu Hư” trả lời khi chúng tôi thắc mắc vì sao không có các thứ vật dụng để ngủ trên xe.
    “Tôi lên thành phố từ năm 2006, khi đó 15 tuổi, đi làm lơ cho người ta. Năm 2010 thì tôi lên tài, ôm vôlăng từ đó đến giờ, qua cả chục công ty rồi”, tài xế trẻ tự giới thiệu.
    Vừa lái xe vừa “đập đá”
    Chiếc xe đầu kéo chở “cặp cổ” hai container 20 feet ì ạch leo lên cầu vượt Cát Lái vào xa lộ Hà Nội. Hàng nặng, máy yếu, leo dốc khó khăn khiến tài xế căng thẳng.
    Xe vừa qua cầu, đi hết đoạn đường dẫn vào xa lộ Hà Nội hướng về trung tâm thành phố, “Đầu Hư” bất ngờ đạp thắng, tấp xe vào sát làn đường dành cho xe máy và tắt máy.
    Chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì anh ta nhảy ngay khỏi ghế lái, cầm theo chiếc bình chuyên dùng để “đập đá” leo sang chiếc giường phía sau. Tay cầm bình, tay bật hộp quẹt và đưa ống hút lên miệng, “Đầu Hư” hút nhè nhẹ một hơi dài khoảng nửa phút.
    Hút 2-3 hơi, “Đầu Hư” lại lên ghế tài xế khởi động xe chạy mà chân cứ đong đưa theo tiếng nhạc nghe qua headphone của chiếc điện thoại Trung Quốc, đầu lắc lư qua lại. Xe qua ngã tư Văn Thánh, tiếng nhạc mở hết công suất dường như không đủ làm “Đầu Hư” thỏa mãn.
    Thấy một cô gái khá xinh lái xe du lịch phía sau qua gương chiếu hậu, “Đầu Hư” giật headphone ra, kéo còi hơi liên tục rồi một tay cầm vôlăng, một tay mở cửa đứng lên, nhoài người ra nhìn về phía sau, vừa hú hét vừa chửi tục.
    Hơn 2g sáng, chiếc xe về tới điểm giao hàng trong KCN Tân Bình (Q.Tân Phú). Sau khi mướt mồ hôi đập, bẻ niêm chì của container, “Đầu Hư” thấm mệt, quay lên cabin hút tiếp 3-4 hơi nữa. Chỉ trong khoảng 1 giờ 30 phút chờ rút hàng trong container, “Đầu Hư” ba lần “đập đá” ngay trên cabin.
    Nhóm bốc xếp bốc xong bao hàng cuối cùng, gõ cánh cửa gọi tài xế đóng cửa container. Hơn một phút sau, “Đầu Hư” mới thoát khỏi cơn mơ màng, mắt dịu xuống, hất đầu hỏi: “Chuyện gì?”.
    Người bốc xếp nhỏ nhẹ: “Cho xin một xị bồi dưỡng anh em!”. “Đ.M., nửa xị thôi” - “Đầu Hư” nói rồi đưa tiền. Trên đường về cảng Cát Lái, “Đầu Hư” lại tiếp tục “đập đá” mấy lần trong khi chờ đèn đỏ.
    0g ngày 9-6, chúng tôi gặp lại “Đầu Hư” tại giao lộ Hàng Xanh (Q.Bình Thạnh), khi anh ta đang kéo một container 40 feet giao hàng tại Q.11. Mấy ngày không ngủ khiến tài xế này run run, lái xe trong yên lặng, đi quá điểm rẽ vẫn không biết.
    Tới kho giao hàng, sau khi mở niêm chì container, tài xế vội vàng lên cabin, chế lại dụng cụ “đập đá” một cách tỉ mỉ, sau đó lấy “bịch hai” (200.000 đồng) và đổ vào bình hút liên tiếp mấy hơi. Bốn ngày chưa ngủ, “Đầu Hư” vẫn ôm vôlăng lái xe.
    Tới sáng 10-6, liên lạc qua điện thoại, “Đầu Hư” cho biết vẫn đang lái xe giúp một người bạn, vì xe của mình không có hàng. 

    TP HCM chiến đấu với nỗi kinh hoàng ‘nghiện hút’

    TP HCM chiến đấu với nỗi kinh hoàng "nghiện hút"

    (PetroTimes) - Người nghiện vẫn lượn lờ công khai tiêm chích tại các công viên, bến xe, gầm cầu, khu dân cư. Việc này khiến nhiều người dân Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng lo sợ nhưng cơ quan chức năng lại “bó tay” vì rào cản thủ tục đưa họ đi cai nghiện. Chính người nghiện cũng là nguyên nhân gây ra nhiều vụ cướp giật, giết người kinh hoàng trong thời gian gần đây.

    Năng lượng Mới số 378


    Nỗi kinh hoàng nơi công cộng


    Ngày 31/10/2014, tại buổi họp giao ban báo chí định kỳ do Ban Tuyên giáo Thành ủy và Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) tổ chức, lãnh đạo Công an TP HCM báo cáo tính đến tháng 10/2014, trên địa bàn TP HCM có 19.213 người nghiện ma túy (tăng 33,55% so với cuối năm 2013), trong đó độ tuổi từ 18 trở lên chiếm 96,8%. Số có hộ khẩu từ các tỉnh, thành phố khác hoặc tại TP HCM nhưng vắng mặt thường xuyên hoặc không có nơi cư trú nhất định chiếm hơn 60%; không có việc làm hoặc công việc không ổn định chiếm 75,5%. Số tái nghiện, cai nghiện từ 2 lần trở lên là 29,19% trong tổng số người nghiện ma túy.


    Việc nhiều người dân bị người nghiện ở công viên 23/9 (Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP HCM) xin đểu, dùng kim tiêm uy hiếp để có tiền mua thuốc đã tồn tại trong suốt thời gian dài. Nhiều người nghiện xem đây là nơi kiếm tiền, chích, nơi phê thuốc và là chốn cư ngụ. Cơ quan chức năng vẫn chưa có hành động quyết liệt nào để ngăn chặn các con nghiện. Với số lượng lên đến hàng chục người, những người nghiện tại công viên là nỗi ám ảnh của người dân và khách du lịch, những nạn nhân bị xin đểu.


    Bốn con nghiện đang chờ người qua lại để xin đểu


    Chúng tôi có mặt tại công viên 23/9 nhiều lần. Vừa ngồi vào ghế đá, một người đàn ông gầy nhẳng, ốm yếu với cánh tay toàn hình xăm và vết bỏng do tàn thuốc để lại đặt ngay chai nước ngọt vào lòng chúng tôi và nói: “Mua cho anh chai nước đi em. Có 20 ngàn thôi, anh thèm thuốc sáng giờ mà chưa đủ tiền mua. Em biết đấy, mấy thằng nghiện như anh sẵn sàng đâm chém, chích để có tiền. Không mua em không biết hậu quả thế nào đâu”. Vừa nói, gã không quên liếc xéo về hai kẻ đang phê thuốc gần đó.


    Với lời lẽ đe dọa như thế, người đàn ông này tiếp tục bán nước cho nhiều người khác. 10 phút, gã đã bán được hơn 20 chai nước, gã đếm thấy đủ tiền, gã vứt cái thùng đựng nước vào một góc và chạy xiêu vẹo đi “mua hàng”.


    Cách đó không xa, một du khách khác vừa đi ngang qua hai gã đang ngồi ăn cơm gọi lại: “Em ơi lại anh bảo cái này”. Du khách này bước tới thì hai gã nói: “Cho anh ít tiền mua điếu thuốc hút đi, 10.000 đồng được rồi”.


    Ở đây cánh tài xế taxi, xe ôm và người buôn bán đều là nạn nhân của việc xin đểu. Anh Hoàng, một lái taxi cho hay: “Chúng tôi đậu xe ở đây đều phải cho tụi nghiện này ít chục ngàn mỗi ngày. Cho tiền mà mặt phải cười chứ không thì đừng có mong mà đứng ở đây đợi khách, chúng thường xuyên ở đây, chỉ dời khỏi đây khi mua thuốc”. Những người buôn bán vỉa hè tại đây thường xuyên phải “quyên góp” mỗi khi con nghiện lên cơn mà không có tiền. “Muốn yên ổn buôn bán, mỗi ngày tôi phải đưa cho chúng 30.000 đồng đó chú. Tưởng vỉa hè là muốn làm gì thì làm sao. May mà bọn bảo kê thấy chúng tôi nghèo chưa sờ tới chứ chắc cũng dẹp luôn chứ buôn bán gì”.


    Với chiêu bài dùng số đông, thân hình gớm ghiếc và dùng cả kim tiêm, người nghiện trong công viên kiếm được khá nhiều tiền từ du khách và những người buôn bán để có tiền mua thuốc chích hút.


    Xin đểu xong, một người nghiện vội vã rời công viên đi vào những con hẻm trên đường Phạm Ngũ Lão. Và trở lại khi trong tay cầm một bịch nhỏ màu đen. Thấy anh này trở về, bốn người nghiện khác vây quanh để chia nhau những bơm tiêm. Những người nghiện không cần tìm nơi kín đáo để tiêm chích mà họ sử dụng ngay trên lối đi trong công viên. Cách đó khoảng 10m là hai bảo vệ công viên ngồi trò chuyện rôm rả và không có phản ứng gì. Dường như họ “vô tâm” với những cảnh này.


    Nhiều người đi ngang qua tò mò nhìn ngó thì bị người nghiện ném cho những ánh mắt hình viên đạn đe dọa khiến họ phải nhanh chân bước đi. Tiêm xong, cả 5 người tìm nơi hưởng thụ cơn phê thuốc. Chúng chọn ghế đá trong công viên và nằm ngủ một cách ngon lành. Hết cơn phê, người nghiện lại dùng số tiền còn lại mua thức ăn và rượu bày biện ngay trong công viên để nhậu.


    Kim tiêm sử dụng xong, người nghiện vứt xuống hồ sen gần đó hoặc một bồn hoa, gốc cây nào đó trong công viên. Những kim tiêm này trở thành mối đe dọa rình rập du khách nếu không cẩn thận.

    Tại bến xe An Sương (huyện Hóc Môn, TP HCM) tình trạng xin đểu xảy ra tương tự. Người nghiện tiêm chích ngay con lươn trên Quốc lộ 22 trước hàng ngàn ánh mắt của người dân. Việc mua bán ở đây xảy ra công khai nhưng con nghiện rất tinh vi, nhiều lần bị lực lượng chức năng khám người mà không tìm thấy được tang vật. Nhưng vắng bóng lực lượng chức năng, việc mua bán lại diễn ra bình thường. Gần đây do có sự kiểm tra thường xuyên của lực lượng chức năng, người nghiện di chuyển từ bến xe An Sương ra tụ tập dưới chân cầu vượt An Sương tiếp tục hành động khiến nhiều người đi đường lo sợ.


    Cướp giật táo tợn


    Cũng tại cuộc họp báo vào cuối tháng 10/2014, lãnh đạo Công an TP HCM đưa ra thống kê, từ đầu năm đến nay cho thấy thực trạng người nghiện phạm tội chiếm trên 20% (trong đó cướp giật tài sản chiếm quá nửa). Đáng chú ý xảy ra một số vụ giết người do đối tượng nghiện ma túy tổng hợp, có dấu hiệu loạn thần gây ra.


    Nhiều vụ cướp giật xảy ra. Thủ đoạn của con nghiện là dùng kim tiêm dính máu đe dọa nạn nhân. Vào lúc 20 giờ ngày 27/10, chị Trần Thị Lam Giang (30 tuổi, cán bộ Trường cao đẳng Nghề Du lịch Sài Gòn) đang chạy xe về nhà trên đường Kinh Dương Vương (quận 6, TP HCM), chị Giang thấy một người đàn ông chừng ngoài 40 tuổi, ăn mặc lịch sự đi xe Air Blade biển số 67 từ phía sau vọt lên. Anh ta đi song song với chị một đoạn ngắn rồi quay sang hỏi: “Về Long An đi đường nào hả em?”. Thấy cô gái không trả lời mà rồ ga chạy nhanh hơn, người đàn ông đuổi theo, hỏi tiếp: “Hướng về An Lạc đi thẳng hả em?”.


    Ông Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm cai nghiện Thanh Đa


    Vì thấy người lạ, khả nghi chị Giang không trả lời mà chỉ gật đầu. Nhưng bất ngờ hắn áp sát vào xe chị Giang khiến chị suýt té. Định la lên thì có hai thanh niên khác trờ tới chĩa kim tiêm vào hông chị và nói: “Có bao nhiêu móc hết ra. La lên là tao tiêm cho một mũi giờ. Mày muốn bị nhiễm HIV như tao không?”. Chị Giang vội móc sạch túi đưa cho chúng tất cả hơn 2 triệu đồng. Chị chưa kịp hoàn hồn, bọn chúng đã rồ ga chạy thẳng về hướng Quốc lộ 1A. Một số người dân chứng kiến vụ việc nhưng đành bó tay vì sự táo tợn của con nghiện.


    Là con nghiện lâu năm, vào chiều ngày 6/11 đối tượng Huỳnh Thanh Sang (SN 1988, ngụ quận 10) bị công an bắt quả tang đang thực hiện hành vi cướp giật điện thoại của người đi đường. Trước đó vào khoảng 13 giờ cùng ngày, anh Võ Phước Triệu (SN 1996, quê Đồng Tháp) dừng xe đạp bên đường 3/2 để nghe điện thoại. Bất ngờ Sang chạy xe máy áp sát giật điện thoại nhưng không thành. Lực lượng trinh sát phát hiện truy đuổi và tóm gọn Sang. Sang từng thụ án tù vì tội cướp giật vào năm 2005.


    Mới đây, anh Thành - một bạn đọc của báo - sau khi rút tiền ở cây ATM tại ngã tư Thủ Đức vào khoảng 22 giờ ngày 11/11 ra xe chạy được một đoạn thì bị con nghiện đón đường, chặn đầu xe, giả vờ nói anh Thành gây tai nạn giao thông mà bỏ chạy. Khi anh Thành dừng lại để thanh minh thì tên nghiện dùng mũ bảo hiểm đánh tới tấp vào đầu anh Thành khiến làm anh không kịp trở tay. May mà có người dân can thiệp kịp thời nên tên nghiện không lấy được gì của anh.


    Trong buổi họp báo gần đây, chính ông Lê Hoàng Quân, Chủ tịch UBND TP HCM cũng xác nhận ông từng bị người nghiện xin “đểu”. “Hôm đó tôi có công chuyện xuống quận 2. Định xuống thăm một cây cầu nhưng ngồi trên ôtô thấy một thanh niên cởi trần, xăm trổ đầy người, tay cầm ống tiêm gõ vào cửa xe. Hãi quá tôi ngồi im và bảo tài xế chạy luôn”, ông Quân kể trong cuộc họp báo mới nhất.


    Ở nhiều khu dân cư, con nghiện thường xuyên phá khóa trộm xe máy và đồ dùng có giá trị khiến người dân lo sợ mỗi khi bước ra khỏi nhà. Tại hẻm số 467, đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 26, quận Bình Thạnh, con nghiện từ bến xe chạy vào tiêm chích vứt đầy hẻm. Bà Lệ, một người dân cho biết: “Sáng hôm nào tôi cũng phải dậy sớm nhặt kim tiêm, có hôm nhặt được 30 kim tiêm đem vứt vào sọt rác. Nhặt kim tiêm sợ lắm nhưng không nhặt thì trẻ em nó không biết hoặc không cẩn thận dẫm chân vào thì càng khổ. Khu nhà tôi, có cái sọt rác, đôi dép cũng phải mang vào trong nhà. Để ở ngoài là chúng lấy luôn. Nói chung bất cứ cái gì bán được chúng đều trộm mà bán lấy tiền mua thuốc”.


    Không chỉ dừng lại ở việc cướp giật, xin đểu. Gần đây người nghiện sau khi phê thuốc không kiềm chế được thần kinh đã gây ra nhiều vụ án giết người nghiêm trọng, thậm chí giết cả người thân của mình. Điển hình như vụ án do Phạm Duy Quý (SN 1993) sử dụng ma túy và dùng dao chém chết 4 người thân trong gia đình vào ngày 1/8/2014 tại nhà ở xã Phượng Hoàng, Thanh Hà, Hải Dương. Hay vụ án MC Nguyễn Hữu Chính (SN 1980) ngáo đá nghĩ bạn gái là con trăn khổng lồ nên dùng dao chém đến chết vào tháng 12/2013 tại Hà Nội. Mới đây nhất, Đặng Văn Tuấn sau khi sử dụng ma túy đá xảy ra mâu thuẫn giết người yêu (vừa là em dâu) rồi chặt xác phi tang.


    Trước đây, TP HCM từng đưa ra phương án cai nghiện tập trung nhưng không thành vì bị phản đối vi phạm nhân quyền khi đưa người nghiện vào các trung tâm như “đi tù”. Tuy nhiên, trước những thảm án kinh hoàng liên quan tới người nghiện, buộc chính quyền TP HCM phải cân nhắc trước việc nên đặt nhân quyền của 19.213 con nghiện lên trên hay tình trạng an ninh, sự an toàn tính mạng tài sản của 9 triệu dân lên trên hết. Sắp tới, thành phố sẽ thí điểm tại Trung tâm cai nghiện Thanh Đa và quận 8.


    Sẵn sàng giúp người nghiện đi cai


    Với tình trạng con nghiện lộng hành gây nhiều hoang mang cho đời sống người dân. Dù số lượng con nghiện tăng nhanh nhưng do bất cập trong quy trình hoàn thành thủ tục nên trong năm 2014 chỉ có 200/200.000 người nghiện được đưa vào các trung tâm cai nghiện tập trung, con số này ở TP HCM là 45 người. Vì tính chất cần thiết, cấp bách đối với người nghiện, TP HCM mạnh dạn đề xuất phương án cai nghiệp tập trung trước Quốc hội và được chấp nhận. Tuy nhiên, phương án này được các trung tâm cai nghiện chuẩn bị từ hai năm trước.


    Trao đổi với chúng tôi về việc áp dụng văn bản xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, ông Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa (quận Bình Thạnh, TP HCM) bày tỏ: “Ngay từ khi luật xử lý vi phạm hành chính được thông qua, tôi đã nhiều lần kiến nghị với thành phố không nên áp dụng việc xử phạt hành chính với con nghiện và cai nghiện tại gia đình, cộng đồng mà cần đưa vào cai nghiện tập trung mới có hiệu quả”. Ông Khánh Duy giải thích, người nghiện thường xuất phát từ cuộc sống gia đình, cộng đồng mà ra giờ lại đưa cho gia đình, cộng đồng quản lý cắt cơn giải độc là chuyện không thể được.


    Một số hoạt động của học viên tại Trung tâm cai nghiện Thanh Đa


    Về lộ trình hoàn thành thủ tục đưa người nghiện đi cai nghiện gặp rất nhiều trở ngại và kéo dài nhiều ngày. “Ở công an điều tra xong, chuyển sang y tế rồi chuyển cho tòa án nhân dân cấp quận, huyện tuyên án thì mới đưa đi cai nghiện. Trong thời gian tạm giam tại công an do không sử dụng ma túy, nên nếu làm xét nghiệm sau đó 3 - 4 ngày với người nghiện ma túy tổng hợp, kết quả xét nghiệm sẽ âm tính khi đưa đến y tế và khi đó thủ tục sẽ vướng. Nếu y tế không kết luận được có nghiện hay không thì làm sao tòa án dám tuyên. Vì thế cần hoàn thành nhanh thủ tục. Các bên cùng ngồi lại với nhau xử lý ngay trong ngày thì mới có hiệu quả” - ông Khánh Duy nói.


    Người nghiện cần được đưa đến các trung tâm cai nghiện tập trung cho điều trị thuốc cắt cơn giải độc trước một thời gian. Khi người nghiện không còn nhớ thuốc thì mới đưa về cho gia đình và cộng đồng quản lý tránh tái nghiện. Đối với những người cai nghiện tại nhà rất nhiều trường hợp vẫn chơi ma túy khi sắp đến ngày tái khám, nhận thuốc methadone một ngày thì dừng thuốc nên thường xét nghiệm cho âm tính. Điều này lầm tưởng người nghiện thực hiện tốt việc cai nghiện nhưng trên thực tế không hiệu quả.


    Thực hiện chỉ đạo của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, ngày 7/11, bà Phạm Thị Hải Chuyền, Bộ Trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng đoàn công tác đã có buổi làm việc với UBND TP HCM, Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa (quận Bình Thạnh) để kiểm tra công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm trên địa bàn TP HCM. Đoàn đã trực tiếp gặp gỡ những người làm công tác cai nghiện tại cộng đồng ở Thanh Đa để lắng nghe những vướng mắc trong quá trình thực tiễn họ gặp phải.


    Trung tâm cai nghiện Thanh Đa do cựu thành viên điệp báo A10, Nguyễn Hữu Khánh Duy làm giám đốc hiện nay đang là trung tâm cai nghiện lớn nhất, hiện đại nhất với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp tại TP HCM. Hoạt động từ năm 1999, trung tâm đã cai nghiện cho hơn 10.000 lượt người.


    Ông Khánh Duy cho biết: “Dù chưa có văn bản chính thức nhưng năm 2012 thành phố đã có chỉ đạo lên phương án điều trị tập trung bắt buộc. Thành phố yêu cầu chúng tôi lập bảng giá điều trị thấp nhất có thể vì đa số người nghiện có hoàn cảnh rất khó khăn. Hiện chúng tôi đang thực hiện điều đó. Sau khi tính toán chúng tôi đưa ra bảng giá hồi tháng 11/2012 là 2.675.000 đồng cho 15 ngày cắt cơn giải độc. Số tiền này tính trượt giá thì nay là khoảng hơn 3 triệu nhưng tôi nghe thành phố dự tính là 4 triệu”.


    Cũng nằm trong dự tính từ năm 2012, Trung tâm Thanh Đa chuẩn bị đội ngũ nhân viên sẵn sàng cho chỉ đạo của thành phố là 147 người, với đa số có trình độ đại học trở lên. Số nhân viên này hiện đang đáp ứng đủ 2 học viên/1 nhân viên. Có 4 phòng cắt cơn giải độc từ những ngày đầu.


    Trong trung tâm có nhiều hoạt động giải trí như bida, bóng bàn, cầu lông, bóng chuyền... cho các học viên sử dụng miễn phí. Ngoài ra còn có phòng tập thể hình, khu hồ bơi, phòng chiếu phim 3D, karaoke phục vụ nhu cầu giải trí, rèn luyện sức khỏe cho các học viên. Chính những hoạt động thế này giúp người nghiện quên đi cảm giác thèm thuốc.


    Những lớp dạy nghề như cơ khí, lớp ngoại ngữ, hội họa, thanh nhạc, mỹ thuật... đào tạo cho học viên có được một nghề khi về tái hòa nhập với cộng đồng. “Con nghiện ở đây từ 6 tháng đến 2 năm, nếu không tạo cho họ một nghề nghiệp sau này ra ngoài thì lấy gì sống. Nếu không có nghề họ trở lại làm người xấu và tái nghiện thì càng nguy hiểm. Chính vì thế trung tâm chúng tôi luôn luôn mở lớp học nghề cho học viên theo nhu cầu mà học viên mong muốn” - ông Khánh Duy nói.


    Với đề án hiện tại, nhanh chóng hoàn thành thủ tục đưa người nghiện đi cai bắt buộc được ông Khánh Duy hoan nghênh. Cứ cho người nghiện đi cắt cơn giải độc trước, thủ tục có thể hoàn thành sau. “Nếu thành phố triển khai, trung tâm chúng tôi sẵn sàng đón nhiều người nghiện vào. Hiện nay ngoài việc điều trị bằng thuốc chúng tôi luôn chú trọng vào điều trị bằng tâm lý, giúp người nghiện lấy lại được niềm tin từ cuộc sống, giúp họ yêu đời hơn” ông Khánh Duy cho hay…


    Phóng sự của Hoàng Phúc Lộc

     

    Sự thật về thuốc cai nghiện ma túy cắt cơn chỉ trong 10 ngày

    Sự thật về thuốc cai nghiện ma túy cắt cơn chỉ trong 10 ngày


    (ĐSPL) - Nhiều cơ sở cai nghiện "chui" tư vấn cho con nghiện rằng, họ chỉ mất tối đa 10 ngày để cắt cơn nghiện và sau đó cơn nghiện sẽ cai nghiện ma túy thành công. Cũng có cơ sở sử dụng các loại thuốc cai nghiện do họ tự bào chế và quảng cáo rằng có thể điều trị cai nghiện với ma túy.


    PV đã có cuộc trao đổi với bác sỹ Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa (TP.HCM), để rõ hơn về phương pháp cai nghiện ma túy hiệu quả.


    Bác sỹ Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa.


    Những mánh khóe trục lợi


    Thưa ông, hiện nay có nhiều cơ sở cai nghiện "chui" nhận con nghiện để cai nghiện cho họ và chỉ mất khoảng 10 ngày để điều trị cắt cơn và con nghiện có thể cai nghiện thành công. Ở góc nhìn của một nhà chuyên môn, ông đánh giá như thế nào về những quảng cáo dạng này?


    Nhiều cơ sở cai nghiện ma túy không được cấp phép nhưng vẫn nhận các con nghiện để tiến hành cai nghiện cho họ. Tôi cũng được biết có nhiều người kiếm được cái bằng "bác sỹ" ở đâu đâu rồi quảng cáo rầm rộ trên mạng rằng mình có khả năng cai nghiện ma túy cho nhiều người trong thời gian ngắn nhất.


    Nhiều cơ sở "chui" lấy của con nghiện hàng chục triệu đồng rồi nói rằng sẽ cắt cơn nghiện ma túy cho họ trong vòng 10 ngày.


    Cắt cơn giải độc không phải là cai nghiện ma túy, mà đó chỉ là bước mở đầu của quá trình cai nghiện lâu dài. Sau khi cắt cơn giải độc, người nghiện cần được tư vấn về tâm lý, giáo dục nhân cách, định hướng cuộc sống.


    Người nghiện cũng sẽ được giáo dục về trách nhiệm của mình đối với gia đình, với xã hội, phải cách ly bắt buộc với ma túy hay môi trường có khả năng tái nghiện trong một thời gian. Đó mới là cái gốc, là mấu chốt của cai nghiện ma túy.


    Nói như vậy nghĩa là việc cai nghiện ma túy cần cả một quá trình và phải tiến hành các bước theo một trình tự khoa học nhất định, chứ không thể nói theo kiểu quảng cáo một sớm một chiều là thoát nghiện. Ông có thể mổ xẻ kỹ hơn về vấn đề này?


    Bác sỹ muốn điều trị cắt cơn và tiến hành cai nghiện cho con nghiện thì trước hết họ phải hiểu được ma túy là gì? Nghiện ma túy có phải là một bệnh?; Nó ảnh hưởng đến sức khỏe cơ thể, sức khỏe tâm thần như thế nào?... thì mới điều trị cai nghiện thành công.


    Người nghiện thường mắc phải các triệu chứng về tâm thần, hội chứng ám ảnh cưỡng bức, hội chứng suy nhược, rối loạn thích ứng xã hội, sự mặc cảm, tự ti... Tất cả những triệu chứng này phải được điều trị bởi những bác sỹ thật sự có chuyên môn, có tâm và có tầm thì mới cai nghiện cho con nghiện được.


    Không có thuốc cai nghiện, chỉ có phương pháp cai nghiện


    Thưa ông, phải chăng một số cơ sở điều trị cai nghiện "chui", một số "bác sỹ" bán thuốc tự bào chế rồi "nổ" có khả năng cai nghiện ma túy đang lừa gạt, "bóc lột" người nghiện?


    Tôi khẳng định, hiện nay các con nghiện đang bị những kẻ lừa gạt cai nghiện bóc lột rất lớn. Và đó là một tội ác.


    Người làm công tác cai nghiện ma túy phải có cái tâm, cái trí, cái dũng, nói chung là phải có đạo đức thì mới làm được. Những gia đình chỉ cần có một người nghiện ma túy thôi thì đó cũng chính là địa ngục rồi.


    Có nhiều con nghiện gia đình rất khó khăn, khi đi cai nghiện còn bị nhiều cơ sở "chui" lừa gạt nữa thì không biết họ sẽ ra thế nào. Đó là chưa kể, việc tiến hành cai nghiện không đúng phương pháp, còn làm cho người nghiện không đoạn tuyệt được ma túy, lại còn tái nghiện.


    Như vậy, họ không chỉ mất tiền mà còn mất cả tuổi trẻ, niềm tin, nghị lực sống, là mầm họa cho toàn xã hội nữa. Nếu người nghiện có ý chí cai nghiện thì nên đến các trung tâm uy tín, được Nhà nước cho phép hoạt động để cai nghiện.


    Ông nghĩ sao khi nhiều cơ sở cai nghiện "chui", nhiều "bác sỹ" quảng cáo trên mạng một số loại thuốc đặc trị, có khả năng cắt cơn và uống đều có thể cai nghiện được ma túy ngay tại nhà?


    Có nhiều loại thuốc mà nhiều người "bác sỹ" quảng cáo là thuốc gia truyền, thuốc đặc trị để tiến hành điều trị cho người nghiện. Tôi khẳng định, không có thuốc cai nghiện ma túy mà chỉ có phương pháp cai nghiện ma túy.


    Để bào chế được một loại thuốc phải mất hàng chục năm, phải tiến hành các thử nghiệm lâm sàng, thử nghiệm trên động vật coi nó có ảnh hưởng gì hay không, có để lại các triệu chứng xấu trước mắt hay lâu dài hay không... chứ đâu có dễ như nhiều người nói.


    Không thể nói thuốc bào chế từ lá cây, từ thảo dược thiên nhiên nên không có độc tố rồi đưa vào áp dụng cho người nghiện được.


    Do đó, tôi khẳng định việc cai nghiện ma túy phải đúng phương pháp, đúng phác đồ, bộ Y tế cho phép, không thể áp dụng các phương pháp "trời ơi đất hỡi" được. Việc sử dụng các loại thuốc được cho là gia truyền, thuốc đặc trị tự bào chế khi chưa được bộ Y tế kiểm nghiệm, cấp phép đã đưa vào sử dụng là vi phạm pháp luật, là vô nhân đạo.


    Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!


    Ai quản lý những loại thuốc "tự bào chế" đang được quảng cáo rầm rộ?

    Bác sỹ Duy cho biết, thực tế, một số loại thuốc được các "bác sỹ" tự bào chế, thuốc kết hợp, thuốc "đặc trị"... vẫn được quảng cáo rầm rộ trên mạng, trên truyền hình, các cơ sở "chui" vẫn ngang nhiên hoạt động.


    Cơ quan chức năng biết không? Thanh tra bộ Y tế, Thanh tra bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Thanh tra tỉnh, thành phố biết không? Nếu biết thì tại sao không cấm, không chấn chỉnh, nếu không biết thì trách nhiệm quản lý Nhà nước của họ ở đâu. Câu hỏi đó, xin chờ các ngành chức năng liên quan trả lời.

    CÔNG THƯ

    Mỹ chặn bắt tàu bán ngầm chở hơn 7 tấn ma tuý

    Mỹ chặn bắt tàu bán ngầm chở hơn 7 tấn ma tuý


    Lực lượng tuần duyên Mỹ tháng trước chặn bắt một tàu bán ngầm tự chế và tịch thu lượng cocaine trị giá ít nhất 181 triệu USD ngoài khơi bờ biển Mexico.



    Đây là vụ bắt giữ lớn nhất theo hình thức này trong lịch sử Tuần duyên Mỹ. Ảnh:NBCNews

    Tuần duyên Mỹ phát hiện một "tàu tự hành bán ngầm" ở Thái Bình Dương, cách phía nam Mexico khoảng 320 km hôm 18/7 và bắt giữ 4 kẻ buôn lậu, giới chức cho biết. Lực lượng tịch thu 275 kiện cocaine.


    Đây là vụ bắt giữ lớn nhất theo hình thức này trong lịch sử Tuần duyên Mỹ.


    "Mỗi vụ chặn bắt con tàu này làm gián đoạn các mạng lưới tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và giúp tăng cường an ninh, ổn định ở tây bán cầu", Phó Đô đốc Tuần duyên Charles W. Ray, chỉ huy khu vực Thái Bình Dương, nói.


    Tuần duyên cố kéo con tàu về bờ, nhưng nó bị chìm cùng gần hai tấn cocaine. Tuần duyên thu hồi được gần 5 tấn rưỡi trước khi tàu chìm.


    Hải quân Mỹ phát hiện con tàu màu xanh và báo cho tuần duyên. Những chiếc tàu kiểm này được những kẻ buôn lậu Colombia ưa thích và sử dụng suốt một thập kỷ qua. "Nhìn từ trên cao, tất cả những thứ bạn thấy chỉ là ống khí và buồng lái, vì vậy chúng rất khó nhận ra", Allyson Conroy, một quan chức tuần duyên, nói.


    Vụ việc hôm 18/7 không phải lần đầu tiên một tàu bán ngầm (nửa nổi nửa chìm) được tuần duyên Mỹ chặn bắt. Ít nhất 25 phương tiện kiểu này đã bị chặn ở Đông Thái Bình Dương kể từ tháng 11/2006.


    Trọng Giáp (theo NBC News)

    Các quốc gia nghiện gì nhất?

    http://tiengchuong.vn/

    Các quốc gia nghiện gì nhất?


    Mỗi loại chất gây nghiện lại có mức độ phổ biến khác nhau ở các quốc gia. Các yếu tố như tính sẵn có, chi phí và văn hóa sử dụng được coi là yếu tố xác định sự khác nhau này. Tạp chí The Richest đưa ra danh sách 10 nước trên thế giới phải đối mặt với vấn đề ma túy lớn nhất và loại chất gây nghiện phổ biến trong các quốc gia này.


    10. Mexico - Ma túy đá (meth), 3,9% bình quân đầu người

    Nghiện meth tại Mexico là một trong những vấn đề ma túy hàng đầu thế giới. Đất nước Mexico khét tiếng với các tập đoàn ma túy kiếm tiều siêu lợi nhuận, và là một nước xuất khẩu chính nhiều loại ma túy. Hiện nay, sự hiện diện của meth trên toàn thế giới đã tăng lên một cách đột biến, số lượng methamphetamine thu giữ tăng đáng kinh ngạc lên đến 73% từ năm 2010 đến năm 2011, trong số đó 61% được báo cáo là ở Mỹ và Mexico.


    Mexico là một cường quốc về sản xuất meth, và số người nghiện được phát triển nhanh chóng. Vào năm 2012, một cuộc khảo sát chỉ ra rằng hơn 360.000 người Mexico đã sử dụng meth ít nhất một lần trong đời.


    9. Brazil - Oxi, 4,29% bình quân đầu người

    Chưa là một loại ma túy “chính thống” như heroin hay cocaine, oxi bao gồm cocaine, xăng, oxit canxi và dầu. Hỗn hợp này gây ảo giác và gây nghiện rất cao. Tên của loại thuốc này đến từ  rút ngắn “oxidado”. Sự nổi tiếng của loại ma túy này ở Brazil bắt nguồn từ việc giá thành rẻ nhưng lại mạnh hơn cocaine. Do tính chất gây nghiện rất cao, những người nghiện oxi thường kết thúc trong “ngõ cụt”, ngày càng phải tăng liều lượng. Có vẻ như “cơn sốt” của oxi tại Brazil sẽ không dễ dàng bị suy yếu trong tương lai gần.


    8. Mỹ - Thuốc theo toa, 6,2% bình quân đầu người

    Gần 7 trong 10 người Mỹ được cho là nghiện ít nhất một loại thuốc theo toa. Đứng đầu là các loại thuốc cho các bệnh mãn tính như tiểu đường hay các vấn đề về tim. Thứ hai là thuốc chống trầm cảm, và thứ ba là thuốc dạng thuốc phiện. Sự phổ biến của mỗi loại thuốc phụ thuộc vào độ tuổi của người tiêu dùng. Ví như những loại thuốc chống hen suyễn phổ biến trong độ tuổi teen, trong khi các loại thuốc tim mạch thường bị lạm dụng bởi người cao tuổi. Việc tiêu thụ các loại thuốc theo toa ở Mỹ đang leo thang. Tỷ lệ dân số dùng một loại thuốc thuộc loại này đã tăng từ 44% đến 48% trong một vài năm, và có vẻ như sẽ tiếp tục tăng.


    7. Canada - Cần sa, 6,4% bình quân đầu người

    Sử dụng cần sa là phổ biến rộng rãi trên toàn đất nước Canada. Chỉ tính riêng tỉnh bang British Columbia báo cáo cho thấy 44,3% dân số sử dụng cần sa ít nhất một lần. Tuy nhiên, sử dụng cần sa đã giảm đáng kể trong thập kỷ qua, với các số liệu thống kê năm 2004 là 44,5% người Canada đã sử dụng cần sa xuống đến 39,4% vào năm 2011. Mặc dù vậy, độ tuổi bắt đầu với việc sử dụng cần sa vẫn được giữ gần như giống hệt nhau -  trung bình khoảng 15 tuổi.


    Gần đây, một động thái gây tranh cãi đó là đề nghị rằng xóa bỏ kết án các cá nhân sử dụng cần sa và các loại ma túy khác như một phương pháp giải quyết vấn đề lạm dụng ma túy. Có lẽ đây không phải là lựa chọn khả thi. Với khoảng 22.300 người sử dụng thường xuyên cần sa trong nước, bất kỳ động thái hướng tới một giải pháp nào cũng cần được xem xét.


    6. Afghanistan - Heroin, 6,9% bình quân đầu người

    Tại Afghanistan, heroin thực sự là một vấn đề rất lớn. Đất nước này là quốc gia sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới. Khảo sát được tiến hành từ năm 2009 đến năm 2012 đã chỉ ra rằng ít nhất 350.000 người Afghanistan nghiện heroin, một sự gia tăng đáng kinh ngạc khi tăng đến 75% kể từ năm 2005.


    Một thống kê đáng buồn chỉ ra rằng có đến 50% phụ huynh sử dụng cũng cung cấp ma túy cho con cái  họ. Hiện, ước tính có khoảng một triệu người Afghanistan đang nghiện heroin, chiếm khoảng 8% tổng số dân cư. Mức độ nghiện của nước này được cho là do ma tuý giá rẻ, khả năng tiếp cận với điều trị của người nghiện còn hạn chế, và nhiều năm tiếp xúc với chiến tranh.


    5. Nga - Rượu, 7,1% bình quân đầu người

    Chuyện người Nga uống rượu nhiều không phải chuyện đùa. Trung bình cả nước mỗi người uống khoảng 18 lít cồn nguyên chất một năm. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, một bộ phận dân nghiện rượu ở Nga phải uống cồn y tế và thậm chí các chất tẩy rửa để thỏa mãn cơn thèm.


    Người ta từ lâu đã nghi ngờ rằng có một sự tương quan giữa tỷ lệ cao chết sớm bất thường với vấn nạn tiêu dùng rượu của đất nước này. Hầu hết trong số 25% đàn ông Nga không sống được tới tuổi 55 vì lý do liên quan đến rượu: bệnh gan, ngộ độc rượu, và tai nạn do ảnh hưởng của rượu, bạo lực hoặc thậm chí tự tử.


    4. Slovakia - Thuốc hít, 13% bình quân đầu người

    Việc lạm dụng thuốc hít ở Slovakia đứng vị trí thứ 4, với một số lượng lớn đáng ngạc nhiên những người lạm dụng loại thuốc này trong nước, đặc biệt là cao hơn so với mức trung bình chung trên toàn thế giới. Những lý do giải thích cho điều này là không rõ ràng, nhưng một nghiên cứu cho thấy rằng người sử dụng có thể dễ dàng tiếp cận với toluene - chất không màu như sơn mỏng. Thực chất đây là việc hít các dung môi hữu cơ, và trong thuật ngữ khoa học được gọi là “sự lạm dụng dung môi hữu cơ” hoặc “sự lạm dụng các chất dễ bay hơi”. Khái niệm lạm dụng dung môi là diễn tả việc sử dụng dung môi thông qua việc hít hơi của nó để tìm cảm giác sảng khoái.


    Đáng lo ngại là một số lượng đáng kể các trường hợp tử vong được ghi nhận như là một kết quả của việc lạm dụng thuốc hít có xu hướng xảy ra ở người sử dụng lần đầu tiên, làm cho ngay cả việc sử dụng bình thường loại thuốc này cũng là một mối nguy hiểm rất lớn.


    3. Pháp - Thuốc theo toa, 13,2% bình quân đầu người

    Việc lạm dụng thuốc theo toa tại đất nước châu Âu này là cao so với ở Mỹ nếu tính theo bình quân đầu người. Điều này có lẽ là do giá thuốc tương đối ở mỗi quốc gia. Một lọ thuốc có giá khoảng 133 USD tại Mỹ, và chỉ tương đương là 57 USD tại Pháp, trong khi một viên thuốc giá 5 USD ở Pháp bán ở Mỹ sẽ là 22 USD.


    Lạm dụng thuốc theo toa ở Pháp bao gồm chủ yếu là các loại thuốc có chứa benzodiazepines, buprenorphine và methadone.


    2. Vương quốc Anh - Rượu, 13,65% bình quân đầu người

    Trong một báo cáo, Trung tâm Công lý xã hội (CSJ) đã gán cho nước Anh biệt danh “kinh đô nghiện ngập của châu Âu” do có tỷ lệ người bị lệ thuộc vào heroin và rượu cao nhất châu Âu. Uống rượu ở Anh được chấp nhận rộng rãi, nhưng phải khẳng định là nó không khỏe mạnh cũng không vô thưởng vô phạt. Giá rượu ở Anh hiện nay đã thấp hơn 45% so với năm 1980. Ước tính có khoảng 1,6 triệu người tại Anh đang phụ thuộc vào rượu, và chỉ có 6,4% trong số này sẽ tiếp cận điều trị.


    Giống như Nga, cách thức mà rượu được tiêu thụ là vấn đề chính ở Anh, với một con sô gây sốc là 52% nam giới và 53% phụ nữ sống tại Vương quốc Anh uống nhiều hơn tỷ lệ rượu quy định đối với ít nhất một lần trong tuần. Các nền văn hóa “say rượu” là một vấn đề cần phải được giải quyết trước khi các quốc gia có bất kỳ thay đổi nào đáng kể.


    1. Iran - Heroin, 14,32% bình quân đầu người

    Vấn đề của Iran với heroin như một bệnh dịch đã đi vào lịch sử. Đáng buồn thay, nước này có thể làm gì để chống lại nó khi số lượng tiền phân bổ cho Iran để giải quyết lạm dụng ma túy rất nhỏ - ngân sách cho Văn phòng ma túy của LHQ tại nước này lên tới chỉ hơn 13 triệu USD trong 4 năm. Tuy nhiên, đã trở nên khó khăn hơn để heroin có thể tràn vào vào Iran trong những năm gần đây. Việc kiểm soát biên giới Iran tốt hơn giúp làm giảm đi rất nhiều việc buôn bán “cái chết trắng”, nhưng rõ ràng, đất nước này vẫn còn một chặng đường dài phía trước.


    Thu Hà

    Theo The Richest

    Nghịch tử gây án trong cơn phê ma tuý

    Nghịch tử gây án trong cơn phê ma tuý


    Nửa đêm, Đỗ Đức Hùng bị ảo giác do sử dụng ma tuý đã cầm dao gây án với cha mẹ khiến cả hai tử vong.


    Ngôi nhà số 3 Nguyễn Bính, TP Nam Định, nơi Đỗ Đức Hùng sát hại cha mẹ trong cơn phê ma túy. Ảnh: Giang Chinh

    Khoảng 23h đêm 11/9, nghe tiếng kêu cứu yếu ớt từ nhà ông Đỗ Đức Thắng ở khu phố 2 phường Trần Quang Khải (TP Nam Đinh, tỉnh Nam Định), những người hàng xóm vội chạy đến, nhưng cổng và cửa đều khóa trái. Con trai ông Thắng là Đỗ Đức Hùng hai tay hai daom hết trèo vượt tường ra ngoài rồi lại trèo vào nhà. Vì thế không ai dám phá cửa can thiệp.


    Chỉ đến khi cảnh sát 113 tới khống chế Hùng, phá khóa cửa sắt mới tiếp cận được trong nhà và chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng: vợ chồng ông Thắng đã chết với hàng chục nhát đâm chém, đặc biệt vùng cổ chằng chịt các vết cắt sâu, máu chảy ướt hết chiếc đệm trên giường.


    Nghi can Đỗ Đức Hùng. Ảnh: Giang Chinh.

    Theo con gái thứ hai của vợ chồng nạn nhân, ông Thắng bị tai biến mạch máu não cách đây mấy năm, cuộc sống phải gắn liền với chiếc xe lăn. Hùng là con trai duy nhất của ông Thắng với bà Đỏ (vợ hai nạn nhân), đã lập gia đình và có con trai 4 tuổi. Cuộc sống khó khăn, Hùng lại nghiện ma túy nên vợ chồng thường mâu thuẫn. 


    “Nó làm phụ xe tải, nhưng mắc nghiện, nhiều hôm đưa cả đám bạn về nhà lên gác hai hút chích. Khuyên can không được nên chị em tôi bỏ mặc. Thấy bố mẹ sống không an lành, lại bệnh tật, chị em tôi thường lui tới, hoặc gọi điện hỏi thăm. 21h tối qua, tôi còn gọi điện cho dì (bà Đỏ) hỏi thăm sức khỏe của bố. 2 tiếng sau thì nhận được tin dữ, tôi như chết lặng người”, người con gái kể. 


    Sau khi gây án, Hùng đã bị Công an tỉnh Nam Định tạm giữ. Theo lời khai ban đầu, trở về nhà trong tình trạng "ngáo đá", Hùng đã cầm dao xông vào giường gây án với đấng sinh thành. 


    Giang Chinh

    VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975

    - Nguyễn Mạnh Quang -

    http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php


    VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY

    Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975


    Đề  tài này được coi như là một phần của vấn nạn tham nhũng, cho nên đáng lý ra nó phải nằm trong Chương 90. Nhưng vì Chương 90 quá dài, chúng tôi phải tách riêng phần này ra làm chủ đề cho Chương 91. Phần lớn những dữ kiện được sử dụng trong đề tài này được căn cứ vào cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy, (New York:Harper Colophon Books,1972) và cuốn Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy (bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000).
    Từ kép “ma túy” trong bài được sử dụng để nói chung cho thuốc phiện và tất cả các sản phẩm chế biến từ thuốc phiện (opium) hay những chất (substance) mà tiếng Anh gọi là “narcotic”, “morphin”, “heroin”, v.v… . Tác giả xin thỉnh ý quý vị nếu có một từ khác thích hợp hơn. Đa tạ.

    Nguyễn Mạnh Quang


    Ma túy hay thuốc phiện có tác dụng làm cho người hút dễ bị nghiền. Một khi đã trở thành nghiền rồi, người nghiện luốn luôn thèm khát, đòi hỏi phải hút đều đều và càng hút nhiều hơn càng cảm thấy lâng lâng cảm khoái. Tình trạng này làm cho tâm trí của họ lúc nào cũng nghĩ đến phương cách phải có thuốc đều đều. Cũng vì thế, đối với người nghiền ma túy, có bao nhiều tiền bạc cũng dành để mua thuốc phiện không cần biết đến tình trạng tài chánh hay hoàn cảnh túng thiếu của chính bản thân hay gia đình họ.

    Hậu quả là:
    1.- Gia đình họ bị  khánh kiệt.
    2.- Vợ con của họ bị điêu đứng khốn khổ.
    3.- Đói ăn vụng, túng làm liều. Khi cơn nghiền lên, không có tiền mua thuốc, họ có thể làm bất cứ chuyện gì (ăn cắp, ăn trộm, lừa đảo, giết người đoạt của, lường thày, phản bạn, bán nước, bán vợ, đợ con,  v.v…) để có tiền mua thuốc phiện.
    4.- Nếu không có đủ thuốc hút để thỏa mãn sức mạnh đòi hỏi của cơn nghiền, cơ thể của người nghiền sẽ bị suy nhược, mất hết nghị lực sinh tồn, không còn nghĩ đến tương lai của bản thân, không còn nghĩ đến hạnh phúc của gia đình, bất cần đến những người xung quanh, nói chi đến quốc gia và dân tộc.
    5.- Nếu quốc gia có quá nhiều người như vậy thì  dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh lệ thuộc nước ngoài.

    Cũng vì thế mà cuối thập niên 1830, Đế Quốc Anh mới tiến hành chính sách sử dụng thuốc phiện làm băng họai tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Hoa và đã gây nên cuộc Chiến Tranh Nha  Phiến (1839-1842).

    Đây là nguyên nhân TẠI SAO,  từ ngàn xưa, những người hút hay nghiện thuốc phiện bị coi như là phần tử không tốt cho xã hội, và mọi người đều muốn lánh xa. Cũng vì thế mà bất kỳ thế lực nào lên nắm chính quyền mà có lòng vì nước vì dân cũng đều phải ra lệnh triệt đế cấm lưu hành sản phẩm này.

    Điều đau buồn là trong thời Thực dân Pháp đánh chiếm và thống trị nước ta 1858-1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954, ở những vùng Liên Minh Pháp –Vatican tạm chiếm và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết lập các cơ sở  chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyên khích mở các tiệm hút và tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buốn bán sản phẩm này.

    Không ai chối cãi được rằng dã tâm của Liên Minh Pháp –Vatican  là  đem thuốc phiện vào Việt Nam để đầu độc và giảm bớt tiềm năng chiến đấu chống lại chúng, nhiên hậu, chúng sẽ dễ dàng thôn tính và thống trị  dân ta. Để đạt được mục đích này, chúng phải tạo điều kiện thuận lợi cho càng nhiều người càng tốt dễ dàng sử dụng sản phẩm này để cho họ  sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả cuộc đời và trở thành gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, và không còn quan tâm đến sự tồn vong của đất nước và dân tộc..

    Tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, sách sử đều ghi nhận rằng, chủ trương của Thực dân Pháp trong việc nhập cảng, chế biên và phân phối thuốc phiện bán cho đại khối quần chúng là để vừa làm tiêu tan ý chí đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, vừa lấy tiền chi phí cho bộ máy cai trị tại Đông Dương.

    Theo dõi vấn đề ma túy ở trên thế giới, người viết nhận thấy rằng, từ đầu thế kỳ 19 đến ngày nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng có vấn nạn buôn bán nha phiến. Thường thường, những kẻ chủ mưu nhập cảng, biến chế và phân phối cho khách hàng tiêu thụ sản phẩm này đều là những tổ chức tội ác hay những thế lực ngoại thù như trường hợp người Anh nhập cảng nha phiến  vào Trung Hoa và gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842) và Thực dân Pháp nhập cảng nha phiến vào Đông Dương.

    NGUỒN GỐC CỦA VIỆC

    BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM


    Trước thế kỷ 19,  Việt Nam có một số người hút thuốc phiện, nhưng hầu như không có vấn nạn buôn bán ma túy. Từ đầu thế kỷ 19, những tầu thuyền chuyên chở thuốc phiện (hầu hết là của người Anh)  trên đường đưa vào thị trường Trung Hoa, thường ghé bến ở Việt Nam. Tại đây, bọn con buôn  móc nối được một số Hoa thương để bán sản phẩm này ở nước ta. Thấy  vậy, vào năm 1820, triều đình Huế bèn ban hành lệnh đặt việc buôn bán và hút thuốc phiện ra ngoài vòng pháp luật.

    Từ năm 1858, Thực dân Pháp dùng chiến lược nội công ngoại kích tấn công Việt Nam, quân dân Việt Nam không chống cự nổi. Triều đình Huế bắt buộc phải chấp nhận ký Hiệp Ước Nhâm Tuất 1862. Theo hiệp ước này, Nhà Nguyễn phải chấp nhận 12 điều khoản:
    1.- Phải để cho các giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha được tự đi lại truyền đạo ở trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
    2.- Nhường cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm các tỉnh Đồng Nai, Gia Định và Định Tường),
    3.- Phải bồi thường cho liên minh giặc một khoản tiền chiến phí là 4 triệu quan (phải trả trong 10 năm), và nhận chịu nhiều điều khoản bất công khác nữa.
    …..

    Kể từ đó,  các Hoa Thương được tự do đem thuốc phiện vào bán ở những vùng do Thực dân Pháp kiểm soát và phải đóng thuế 10% tính theo giá bán. Cũng từ đó, trên lãnh thổ Đông Dương, quyền lực của Thực dân Pháp mở rộng đến đâu thì ở đó việc buốn bán nha phiến được hợp pháp hóa. Như đã nói ở trên, đây cũng là độc kế của Pháp và Vatican là vừa làm cho dân ta bạc nhược mất hết nhuệ khí của truyền thống “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, vừa có thể thâu nhập được một khoản tiền khá lớn, đài thọ được một phần nào gánh nặng tài chính chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân ta.

    Mấy năm sau, thấy rằng chính sách hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện ở Đông Dương đem lại một số lợi nhuận khổng lồ, chính quyền Bảo hộ bèn quyết định nắm độc quyền việc nhâp cảng, biến chế, phân phối và khuếch trương các tiệm bán sản phẩm này cho khách hàng tiêu thụ, đặc biệt nhất là từ thời Toàn Quyền Paul Doumer 12/1896-4/1889), trở về sau (cho đến năm 1945).

    Vào năm 1918, việc làm ăn bất lương này rất thịnh đạt. Trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương có tới 1,512 tiệm hút công khai, và có tới 3,098 tiệm bán lẻ cung ứng cho khách hàng tiệu thụ. [1]  Vào năm 1938, riêng những dịch vụ buôn bán thuốc phiện đem lại cho chính quyền bảo hộ tới  15% của tổng số tiền thâu nhập.

    Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) đã ảnh hưởng ít nhiều đến vần đề phân phối thuốc phiện tại các địa phương và con số khách hàng tiêu thụ. Trong thời gian này, con số tiệm bán lẻ giảm xuống còn có 2,500 tiệm, nhưng  con số dân nghiền vẫn còn tới cả 100 ngàn người, và vẫn mang lại cho chính quyền 15% của tổng số tiền thâu nhập, giống như hồi năm 1938.

    Kết luận: Tại Đông Dương, chính quyền Thực dân Pháp là thủ phạm của những hành động tội ác:
    1.- Nhập cảng  thuốc phiện ,
    2.- Thiết lập các cơ sở chế biến,
    3.- Tổ chức hệ thống phân phối,
    4.- Khuyến khich việc mở mang bán sỉ, bán lẻ và các tiệm hút.

    Mục đích của việc làm bất chính và dã man này là để vừa đầu độc dân ta rơi vào tình trạng nghiện ngập nhằm làm suy yếu tinh thần chống ngoại xâm, vừa để kinh doanh lấy tiền đài thọ cho bộ máy đàn áp nhân dân ta. Những sư kiện này cũng được sử gia Alfred W McCoy ghi nhận trong cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia với nguyên văn như sau:

    Sau khi thiết  lập chế độ bảo hộ ở Cao Mên (1863), Trung Kỳ (1883), Bắc Kỳ (1884) và Lào (1893), người Pháp nắm độc quyền nhập cảng và phân phối thuốc phiện để lấy tiền tài trợ  gánh nặng chi phí cho bộ máy cai trị tại thuộc địa. Trong khi việc buôn bán thuốc phiện  ở Nam Kỳ đã thảnh công trong nhiều năm, sự bành trướng các cơ sở kinh doanh của người Pháp (ở Đông Dương) vào các thập niên 1880 và 1900  đã tạo nên tình trạng ngân quỹ bị thiếu hụt trầm trọng cho toàn cõi Đông Dương. Hơn nữa, các chính quyền hổ lốn của năm thuộc địa riêng rẽ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào) là một kiểu mẫu thiếu năng lực, và những bầy đoàn công chức người Pháp đã làm hoang phí những nguồn lợi tức nhỏ bé của các thuộc địa này. Dù là đã có những  cải cách hành chánh để hoàn chỉnh những thiệt hại trong những năm đầu thập niên 1890, tình trạng thiếu hụt ngân sách vẫn tiếp tục đe doạ tương lai của Đông Dương thuộc Pháp.   

    Vào lúc này, Paul Doumer, một chuyên viên phân tích về ngân sách, được đưa lên nắm giữ chức vụ Toàn Quyền Đông Dương. Ngay khi vừa rời nước Pháp đến  nhận nhiệm sở  ở Đông Dương vào năm 1897, Toàn Quyền Doumer đã cho tiến hành một loạt biện pháp cải cách về ngân khoản chi tiêu. Đó là những biện pháp: Tạm ngưng tuyển mộ các công chức, cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết, và tập trung 5 ngân quỹ rời rạc của 5 xứ thuộc địa vào một sở ngân khố trung ương. Nhưng quan trọng hơn hết là vào năm 1899, Doumer tổ chức lại công việc làm ăn về thuốc phiện, khuếch trương hệ thống bán sản phẩm này và làm giảm rất nhiều những khoản chi tiêu khác. Sau khi gom 5 cơ quan thuốc phiện tự trị lại thành một Sở Độc Quyền Thuốc Phiện, Doumer thiết lập một nhà máy biến chế thuốc phiện ở Sài Gòn để biến chế thuộc phiện sống Ấn Độ thành thuốc phiện đã hoàn chế cho dân nghiền sử dụng. Nhà máy biến chế mới này sản xuất một loại thuốc phiện đã hoàn chế có thể cháy mau hơn khiến cho người hút có thể tiêu thụ nhiều hơn thường lệ. Theo chỉ thị của Doumer, Sở Độc Quyền Thuốc Phiện mua thuốc phiện với giá rẻ ở tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, để các tiệm bán lẻ và những tiệm hút của chính quyền có thể lôi cuốn được nhiều khách hàng thuộc giới  lao động nghèo mà họ không có đủ tiền để sử dụng loại thuốc phiện đắt tiền mang nhãn hiệu Ấn Độ.  Nhà nước lại cho mở thêm các tiệm hút và các tiệm bán lẻ để  đáp ứng cho nhu cầu khách hàng  càng ngày càng gia tăng. (Năm 1918) có 1,512 tiệm hút và 3,098 tiệm bán lẻ). Việc buôn bán thuốc phiện rất là thịnh đạt. 

    Là Toàn Quyền Đông Dương, chính Doumerđã hãnh diện tường trình rằng những cải cách làm tăng thêm tiền thâu nhập về thuốc phiện khoảng 50 phần trăm trong thời gian bốn năm tại chức của ông ta, chiếm trên 1/3 của tất cả tiền thâu nhập ở thuộc địa. Tính đến lúc đó, lần đầu tiên trong hơn mười năm có tiền thặng dư trong ngân khố. Hơn nữa, những cải cách của Doumer còn tạo cho người Pháp một niềm tự tin mới vào việc đầu tư kinh doanh vào Đông Dương, và ông ta có thể vận động vay tới 200 triệu Phật lăng để tài trợ cho nhiều dự án lớn lao. Một phần của những dự án này là dự án làm hệ thống đường xe lửa ở Đông Dương và nhiều dự án thiết lập nhà thương và trường học.

    Thực dân Pháp cũng không có ảo ảnh về cách thức họ tài trợ cho các dự án phát triển ở Đông Dương. Khi chính quyền loan báo dự án xây đường xe lửa ngược theo dòng Sông Hồng lên tỉnh Vân Nam ở Trung Hoa, phát ngôn viên của giới kinh doanh (người Pháp) giải thích một trong những mục đích tiên khởi của dự án này là:

    Điều chú ý đặc biệt là vào lúc người ta sắp sửa bỏ phiếu chuẩn chi tiền tài trợ cho việc xây cất đương xe lửa đi Vân Nam để tìm phương cách tăng cường việc buôn bán giữa Vân Nam với Đông Dương… Việc điều hành thuốc phiện và muối ở Vân Nam có thể được điều chỉnh theo phương cách làm cho việc buôn bán này dễ dàng và gia tăng khối lượng hàng hóa chuyển vận bằng đường xe lửa. 

    Vào trong các thập niên 1920 và 1930, trong khi các nước trên thế giới lao vào cuộc chiến chống “tội ác thuốc phiện” , bắt buộc các chính quyền  thuộc địa khác ở Đông Nam Á phải giảm bớt  dịch vụ độc quyền buôn bán thuốc phiện, thì  chính quyền Pháp ở Đông Dương vẫn thản nhiên, vẫn tiếp tục theo đuổi buôn bán thứ hàng hóa tội ác này. Khi cuộc đại Khủng Hoảng Kinh Tế xẩy ra vào năm 1929 làm cho thuế thâu nhập giảm bớt đi rất nhiều, người Pháp lại cố gắng nâng mức lợi tức (đã giảm đi) của dịch vụ buôn bán thuốc phiện để quân bình ngân sách. Lợi tức thâu nhập của  dịch vụ buôn bán thuốc phiện đã tăng lên đều đều. Vào năm 1938, tiền thậu nhập do việc buôn bán thuốc phiện mang lại lên tới 15% của tổng số tiền thuế thâu nhập ở thuộc địa tại Đông Dương – cao nhất ở Đông Nam Á.”   [2] 

    Biến cố Nhật Bản hất cẳng chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican tại Đông Dương vào chiều tối ngày 9/3/1945 và cuộc Tổng Khởi Nghĩa của nhân dân ta vào ngày 19/8/1945 làm cho công việc làm ăn bất lương này của  chính quyền bảo hộ Pháp - Vatican ngưng trệ.
     

    A.- MIỀN BẮC:

    Người viết cố gắng tìm tài liệu nói về vấn đề buôn bán ma túy có liên hệ với chính quyền Kháng Chiến (1945-1954) do Viêt Minh lãnh đạo và chính quyền miền Bắc trong những năm 1954-1975, nhưng vẫn không tìm được một tài liệu nào cả. Đồng thời, lại thấy, các sách giáo khoa môn công dân ở bậc trung học, đều có ghi lời khuyên dạy Nghiện hút ma túy sẽ nguy hiểm đến tính mạng và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.” Như vậy, chính quyền Việt Nam hiện nay (cũng là chính quyền Kháng Chiến 1945-1954 và chính quyền Bắc trong những năm 1954-1975) chủ trương tích cực chống việc sản xuất, nhập cảng, biến chế, phân phối và lưu hành ma túy, ngoại trử việc sử dụng sản phẩm này trong lãnh vực y khoa.

    B.- MIỀN NAM:

    Như đã nói ở trên, việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là do chính quyền miền Nam chủ mưu: điều khiển việc nhập cảng, bảo trợ việc biến chế, gói thành gói, mở mang các tiệm hút và  phân phối cho khách hàng tiêu thụ.

    Sách sử cho biết,  tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1950 cho đến tháng 4 năm 1975việc buôn bán ma túy đều do các chính quyền Bảo Đại, chế độ cha cố Ngô Đình Diệm, chính quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chủ trương bất kể gì là sản phẩm này có tác dụng làm nguy hại cho nòi giống, dân tộc và tiền đồ của đất nước.

    Với những hành động vừa phi pháp, vừa bất nhân và dã man, vừa hại nước hại dânvừa phản dân tộc, các chính quyền miền Nam đã trở thành những tổ chức tội ác đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Chính vì vậy mà sử gia Alfred McCoy mới gọi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu (Diem Dynasty and the Nhu Bandits” (Alfred McCoy, The Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row Publishers, 1972), p. 159). Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho độc giả có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này.

    1.- QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
    Trong thời kỳ Kháng Chiến 1945-1954, Phòng Nhì Pháp chủ trương tái lập việc làm ăn bất chính này, rồi cấu kết với băng đảng Bình Xuyên do Bẩy Viễn cầm đầu và toa rập với Quốc Trưởng Bảo Đại để tái lập việc nhập cảng lậu thuốc phiệntiến hành các cơ sở biến chế, thiết lập hệ thống phân phối và mở mang các tiệm hút. Tuy nhiên, có lẽ một phần vì nhân dân ta đã ý thức được tác dụng nguy hại của ma túy, và một phần vì chiến tranh đang diễn ra gay go quyết liệt, khiến cho phần lớn dân ta lao vào cuộc chiến, cho nên con số người nghiện hút không nhiều như những năm trước năm 1945. Vì thế mà trong những năm 1950-1954, chỉ có hàng trăm (nghĩa là chưa tới một ngàn) tiệm hút ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Lẽ dĩ nhiên, dù nhiều hay ít tiệm hút, số tiền lời của việc làm ăn bất chính này cũng phải chia theo tỉ lệ phần trăm cho ông Bảo Đại, Phòng Nhì và Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực của Pháp tại Đông Dương. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in Southeast Asia  ghi nhận như sau:

    Vào một thời điểm sau năm 1950, quân đội Pháp đặc thưởng cho Bình Xuyên một món hàng béo bở của thực dân. Đó là việc buôn bán ma túy. Bình Xuyên khởi công biến chế thuốc phiện sống (do người Mèo sản xuất và được các lực lượng phụ lực Pháp chuyển về Sài Gòn), rồi phân phối cho hàng trăm tiệm hút ở rải rác trong thành phố  Sài Gòn Chợ Lớn để cung ứng cho giới dân nghiền. Họ chia tiền lời của việc làm ăn bất chính theo tỉ lệ đã được ấn định cho Hoàng Đế Bảo Đại, Phòng Nhì và Quân Đội Phụ Lực của Pháp. Sau này Đại Tá Lansdale của CIA báo cáo như vậy.” Nguyên văn: “Some time after 1950 the French military awarded the Binh Xuyen another lucrative colonial asset, Saigon ‘s opium commerce. The Binh Xuyen started processing MACG ‘s raw Meo opium and distributing prepared smokers’ opium to hundreds of dens scattered throughout the twin cities. They paid fixed percentage of their profits to Emperor Bao Dai, the 2ème Bureau, and the MAAG commados. The CIA’s Colonel Lansdale later reported that.”[3]

    Thật là vô liêm sỉ đến cùng độ của vô liêm sỉ. Đường đường là một vị lãnh đạo một chính quyền thường được rêu rao là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” ra đời cùng với “lá cờ vàng ba sọc đỏ” vào ngày 2/6/1948 để tranh đấu cho tự do dân chủ mà lại gục mặt xuống đồng lõa với bọn ăn cướp Bình Xuyên và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican trong việc làm bất chính hại dân hai nước như vậy! Bộ mặt thật của nhà lãnh đạo đầu tiên của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” như thế đó! Và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” biểu tượng cho chế độ của  hạng người lãnh đạo vô liêm sỉ như thế đó!
    Qua những sự kiện này, chúng ta có thể nói là “Đừng tin những gì mà những kẻ tự xưng là “người quốc gia chân chính” làm, mà hãy nhìn vào những việc làm vô liêm sỉ này và những hành động bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và cho Đế quốc Mỹ của bọn chúng.

    2.- CHẾ ĐỘ CHA CỐ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
    Hơn một năm sau khi được Đế quốc Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền với cuơng vị là thủ tướng vào ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào ngày 23/10/1955 với dã tâm truất phế QuốcTrưởng Bảo Đại để tiếm quyền. Làm xong việc làm phản trắc này, ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước Cộng Hòa Việt Nam và tự phong là Tổng Thống, rồi cho mở chiến dịch tuyên tuyền rầm rộ bài trừ các tệ đoan xã hội, trong đó có việc cấm hút thuốc phiện để làm bức bình phong che đậy việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô và gia đình trị đang được tiến hành.

    Năm 1958, sau khi đã củng cố xong quyền lực, anh em nhà Ngô cho tái lập kỹ nghệ buôn lậu thuốc phiện sống, thiết lập các cơ sở biến chế và khuếch trương kỹ nghệ này bằng cách cấu kết với các tên đầu nậu Ba Tầu (trong đó có tên Mã Tuyên) ở Chợ Lớn để mở mang các tiệm hút và các tiệm bán sỉ bán lẻ sản phẩm này ở Sài Gòn Chợ Lớn một cách công khai. Vào khoảng năm 1963, công việc làm ăn phi pháp này của chính quyền Diệm khá phát đạt. Riêng ở Chợ Lớn, con số tiệm hút hoạt động công khai lên đến 2,500 tiệm. Dưới đây là đoạn văn của tác giả Alfred McCoy viết trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia về việc làm bất chính hại dân hại nước này của chế độ cha cố Ngô Đình Diệm:

    Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng Ngô Đình Nhu quyết định  tái lập việc buôn bán nha phiến đê lấy tiền. Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.

    Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương Bonaventure “Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối liên  giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ chuyển vận món hàng này về  miền Nam Việt Nam..

    Ngoài ra, Ngô Đình Nhu  còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không Lực Việt Nam.

    Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một lý thuyết gia chính trị của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của  kế hoạch làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là Sở  Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân Đội, và quan trọng  nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong chính phủ và trong quân đội. Chính quyền Sài Gòn kiểm soát chặt chẽ việc thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên cho sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở  Sài Gòn-Cholon đều có chỉ điểm viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần  ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà sở biết được đầy đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt  và nội dung các cuộc họp của đối tượng. Một số các nhà quan sát  cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn nhân viên mật vụ  làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.

    Vì  có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những  dịch vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống tình báo của ông.”  [4]

    Phần trích dẫn trên đây chỉ là có 2 trong số gần 7 trang nói về việc buôn bán ma túy trong thời chế độc cha cố Ngô Đình Diệm.

    Đồng thời, chính quyền Ngô Đình Diệm còn biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille chuyên biến thuốc phiện sống thành bạch phiến rổi chuyển vận  sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khác hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba: (1) Nguồn thuốc phiện sống phát xúat từ miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm cung cấp, (2) trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển, và (3) trung tâm phân phố bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điểu khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante  Sự kiện này được hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee ghi nhận trong csách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm như sau.

    Và năm 1958, khi Diệm – Nhu tái lập lưu thông thuc phiện về Sài Gòn, Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn con nghiện ở Sài Gòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới - đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường và không chắc chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phân ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế nào?

    Nhu và Rock Francisici đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cap để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như một thứ Bộ TRưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở Marseille một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một vụ làm ăn ngon lành.

    Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sài Gòn và chuyển hàng xong hết mà không gặp nhiểu kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Phi Đội Vận Tải số 1 của riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA]) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sài Gòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến Mỹ.

    Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci - thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiện tới Sài Gòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sấn (tới  phạm vi hoạt động) của Francisci.

    Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, đồng thời nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn  kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ cũng vậy.

    Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành nững đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dinh dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.”[5]

    Giữa tất cả nhũng điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh tại Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là người Pháp.

    Bây giờ chúng ta gặp một người Pháp nữa, giống như Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này la Matthew Franchini. Bề ngòai ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sài Gòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sài Gòn sang các lò bạch phiến ở Marseille. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đương dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine  vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sài Gòn (những chuyến này do Nhu bảo kê).”[6]

    Ngoài ra, lại cón có Tòa Đại Sứ Việt Nam tại LàoTrần Kim Tuyên và bọn Cần Lao tin cẩn, người phụ trách chuyển vận thuốc phiện từ Lào về  Sài Gòn nữa.

    Có thể do việc làm ăn bất lương này, anh em ông Ngô Đình Diệm mới bắt đầu kết thân sống chết với tên Mã Tuyên, một tên đầu nậu khét tiếng trong bang Triều Châu ở Chợ Lớn. Xin nhắc lại, cũng vì ma túy có tác dụng làm suy yếu sức khỏe của con người, làm cho gia đình những người nghiện khốn đốn điêu linh, và làm cho các quốc gia có nhiều người nghiện trở nên suy nhược, cho nên hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm bán sản phẩm này cho quảng đại quần chúng, và chỉ cho phép được sử dụng trong phạm vi y khoa mà thôi. Cũng vì thế mà tác giả Alfred W. McCoy mới gọi chế độ đạo phiệt gia đình trị Ngô Đình Diệm là Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.”  Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159.

    3.- TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
    Khi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, việc làm ăn bất lương này chuyển vào tay băng đảng của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in South East Asia viết như sau:

    Dĩ nhiên, việc “Phục hồi hệ thống làm ăn cũ” có nghĩa là làm sống lại việc tham những trên một bình diện đại quy mô để có tiền mặt chi phí những món tiền thưởng ban phát cho những nhân viên do thám bán thời gian khi họ mang lại một nguồn tin tình báo mới. Ông (Nguyễn Ngọc) Loan và những chuyên viên cảnh sát tình báo nhà nghề đã hệ thống hóa vấn đề tham nhũng và quy định bao nhiêu tiền cho mỗi cơ quan đặc biệt, mỗi viên chức được giữ lại bao nhiêu cho riêng cá nhân và bao nhiêu phần trăm dành cho bộ máy chính trị của Thủ Tướng Kỳ. Cá nhân nào tham nhũng quá đáng thì bị khui ra và sẽ bị xử lý. Những mánh mung thủ đoạn làm tiền bất chính cũng như việc bảo vệ những việc làm bất chính này và tiền đút lót đều được kiểm soát chặt chẽ. Sau nhiều năm quan sát và điều nghiên những hoạt động trong hệ thống tham nhũng của ông Loan, ông Charles Sweet cho rằng có 4 nguồn tham nhũng chính ở miền Nam Việt Nam: (1) bán các chức vụ và chỗ làm trong chính quyền, (2) tham nhũng trong các cơ quan hành chánh (biển thủ, toa rập với các nhà buôn và nhà thầu để ăn chia theo phần trăm trong các dịch vụ giao dịch giữa nhà buôn hay nhà thầu với các cơ quan trong chính quyền, hối lộ, v.v…, (3) tham nhũng trong quân đội (ăn cắp vật liệu, gian lận trong sổ lương lính), (4) buôn bán ma túy. Ông Sweet kết luận rằng, trong 4 loại làm tiền bất chính trên đây, việc buôn bán ma túy đem lại nguồn lợi tức bất chính quan trọng nhất.

    Là người trung gian (ủy nhiệm) của Thủ Tướng Kỳ, ông Loan chỉ đảm nhiệm việc chỉ huy tất cả các hình thức tham những ở trên bình diện hành chánh tổng quát và để lại những vấn để tham nhũng tầm thường nhỏ nhặt, tổ chức và điều hành cho những người phụ tá đáng tín cậy.”[7]

    Trên đây là nói về vấn đề buôn bán ma túy trong những năm ông Nguyễn Cao Kỳ còn nắm quyền thủ tướng (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương) từ ngày 19/6/1965 cho đến khi ông Nguyễn Văn Thiệu được Đế quốc Mỹ đưa lên làm Tổng Thống vào ngày 3/9/1967:

    Ngày 3/9/1967, nhờ sự tiếp tay của Hồng Y New York là Francis Spellman (Vatican) và Đại Sứ Ellsworth Bunker, Thiệu được “đắc cử” Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) với 34.8% số phiếu.” [8]

    4.- CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT DA TÔ NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
    Quyền lực của Tướng kỳ bắt đầu sụp đổ kể từ khi cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1967. Kể từ đó, việc làm ăn bất lương này dần dần lọt vào tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Trần Thiện Khiêm và Tướng Đặng Văn Quang. Với sự hiện diện của hơn 500 ngàn quân Mỹ và nhiều ngàn quân lính đồng minh của Mỹ như Úc Đại Lợi, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, việc làm ăn này càng phát triển và càng kiếm được nhiều tiền hơn. Cũng vì thế mà trong thời kỳ này, việc buốn bán ma túy gần như hoạt động công khai trước mắt người dân và các nhà quan sát quốc tế. Mấy đoạn văn trích dẫn từ trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia dưới đây sẽ cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về việc buôn bán ma túy ở miền Nam trong thời ông Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ và Vatican đưa lên nắm giữ chức vụ tổng thống từ tháng 9/1967 cho đến ngày 30/4/1975:

    Sự gia tăng đột phá về tầm mức và lợi nhuận trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam do thị trường mới là lính Mỹ càng ngày càng đông cũng như nhu cầu đã tăng lên của các tổ chức ma túy quốc tế đưa đến kết quả là gia tăng những băng đảng nhỏ mới xuất hiện để làm ăn trong việc làm phi pháp này.

    Vào khoảng năm 1970, việc buôn bán ma túy ở miền Nam coi như là được chia làm ba phe đảng quan trọng: (1) Phe Không Quân, (2) Phe chính quyền (nghĩa là cảnh sát, các cơ quan quan thuế, và cơ quan coi về các hải cảng và giang cảng) dưới quyền điều khiển của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm càng ngày càng hoạt động mạnh hơn, và (3) quân đội, hải quân và hạ viện trong Quốc Hội hoạt động cho phe đảng của Tổng Thống Thiệu.

    Có lẽ vì sự “liên hệ” với số tiền lợi nhuận quá lớn trong việc làm phi pháp này, cho nên giữa những phe đảng này có một mối oán cừu đáng kể.

    Liên hệ” trong việc buôn bán nha phiến túy ở miền Nam có nhiều hình thức. Thường thường, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội nắm giữ vai trò cố vấn hoặc người bảo vệ hay bao che cho các tổ chức của người Tầu Triều Châu chuyên nhập cảng lậu thuốc phiện sống, rồi biến chế, gói thành gói và phân phối đến các nơi tiêu thụ. (Triều Châu là người Trung Hoa từ vùng Tô Châu ở miền Nam Trung Hoa, tổ chức này của người Triều Châu đã kiểm soát phần lớn hệ thống buôn bán ma túy ở Á Châu từ giữa thế kỷ 19 và nắm giữ một vai trò trong các tổ chức tội ác ở Trung Hoa, tương tự như tổ chức tội ác của người Sicilian ở Ý Đại Lợi và người Corse ở Pháp. Chi tiết về các tổ chức này đã được trình bày ở Chương 6 - trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia.) Sự quan trọng của việc bảo vệ hay bao che trong việc làm ăn phi pháp này không thể coi thường hay đánh giá thấp được, vì rằng không có sự bảo vệ hay bao che thì việc buôn bán ma túy không thể tiến hành được. Đồng thời, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội liên hệ trực tiếp rất nhiều vào việc nhập cảng lậu ma túy vào miền Nam Việt Nam. Những quân nhân miền Nam có thể tới gần các phi cơ, xe chuyển vận nhà binh, tầu thuyền của hải quân mà người Trung Hoa không thể tới được, và phần lớn những người Việt Nam có quyền thế có rất nhiều hoàn cảnh dễ dàng để mang nha phiến qua các cửa ải quan thuế và các trạm kiểm soát ở biên giới hơn là những người Trung Hoa.” [9]

    Thiệu nắm quyền chỉ huy.- Vào khi quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Kỳ xuống dốc một cách thảm thương, các sĩ quan cao cấp thân Tổng Thống Thiệu trở thành những nhân vật nổi trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam. Giống như những người tiền nhiệm là Tổng Thống Diệm và Thủ Tướng Kỳ, Tổng Thống Thiệu đã cố tình tránh né để cho cá nhân ông không mang tiếng vào những việc tham nhũng về chính trị. Tuy nhiên, người ủy nhiệm của ông là Tướng Đặng Văn Quang, người nắm giữ vai trò cố vấn tình báo tại Phủ Tổng Thống, lại liên hệ nặng nề vào những việc làm ô nhục và ghê tởm này. Qua những sĩ quan cao cấp trung thành với chính ông hay với Tổng Thống Thiệu ở trong quân đội và hải quân, Tướng Đặng Văn Quang đã thiết lập được một lực lượng hùng hậu tiếp tay cho ông. Dù là đối với quốc tế, tư thế của Tướng Quang kém hơn tư thế của Tướng Kỳ, nhưng Tướng Quang nắm quyền kiểm soát hải quân miền Nam. Thế lực này chứa chấp một tổ chức nhập cảng lậu một số lượng ma túy rất lớn bằng cách sử dụng các tầu thuyền của hải quân để chuyển vận và được những nhà hàng hải buôn lậu người Trung Hoa bảo vệ. Trong khi ảnh hưởng của Tướng Kỳ đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội bị suy yếu nặng nề, thì quyền kiểm soát quân đội lại lọt vào tay Tướng Quang. Vào lúc này, phần lớn việc phân phối và bán ma túy cho quân lính Mỹ nằm ở trong tay quân đội. Hơn nữa, khối dân biểu thân Tổng Thống Thiệu ở hạ viện trong Quốc Hội đã công khai để lộ ra những hoạt động buôn lậu ma túy, nhưng hình như họ làm ăn độc lập với Tướng Quang hơn là quân đội và hải quân.

    Vào ngày 15/7/1971, trong Bản Tin Chiều Tối của đài truyền hình BBC, phóng viên của đài truyền hình này từ Sài Gòn là ông Phil Brady nói với khán thính giả toàn quốc rằng cả Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ đều dùng tiền lợi nhuận của buôn bán ma túy để tài trợ cho chi phí vận động tranh cử. Ông Brady viện dẫn “nguồn tin rất đáng tin cậy” như là nói rằng Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn tình báo của Tổng Thống Thiêu, là “tay buôn bán ma túy lớn nhất” ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù viên chức phụ trách văn phòng báo chí của Tổng Thống Thiệu công bố bàn văn phủ nhận thẳng thừng lời lên án trên đây và tố cáo ông Brady “loan tin ngụy tạo để phỉ báng các nhà lãnh đạo chính quyền miền Nam nhằm hỗ trợ và làm hài lòng Cộng Sản,” nhưng ông ta lại không cố gắng bảo vệ Tướng Quang, người nổi tiếng là một trong những các ông tướng bất lương nhất ở miền Nam Việt Nam khi ông tướng này còn là Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở vùng châu thổ Sông Cửu Long.

    Tháng 7 năm 1969, phóng viên của tạp chí Time ở Sài Gòn điện về văn phòng tại New York báo cáo về những hoạt động của Tướng Quang ở vùng IV như sau:

    Có báo cáo rằng Tướng Quang đã kiếm được hàng triệu bạc bằng cách bán những chức vụ trong chính quyền và thâu tiền bất chính tính theo phần trăm trong việc sản xuất  và bán lúa gạo trong vùng trị nhậm. Có một chuyện nổi tiếng xẩy ra được ghi rõ ràng trong hồ sơ tham nhũng của ông Tướng này ở Quân Đoàn IV. Đó là chuyện ông Đại Tá Nguyễn Văn Minh được đưa lên nắm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông đại tá này đã từng là sĩ quan phụ tá cho Tướng Quang ở Quân Đoàn IV. Vào giờ lễ nhậm chức, người vợ của viên tư lệnh phải ra đi đứng lên la lớn trước mọi người rằng Đại Tá Nguyễn Văn Minh đã trả cho Tướng Quang 2 triệu đồng [7,300 Mỹ kim] để được nắm giữ chức vụ này… Sau cùng, theo sự yêu cầu của người Mỹ, Tướng Quang bị mất chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV.

    Cuối năm 1966, Tướng Quang được chuyển về Sài Gòn và trở thành tổng trưởng kế hoạch và phát triển, một chức vụ ngồi chơi xới nước để cứu vớt thể diện. Ngay sau khi Tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống trong kỳ bầu cử được tổ chức vào tháng 9 năm 1967, Tướng Quang được cho giữ chức vụ phụ tá đặc biệt về an ninh quân sự và trở thành người ủy nhiệm đặc trách việc làm tiền bất chính này để gây qũy cho bộ máy chính trị của Tổng Thống Thiệu, giống như vai trò của Tướng Loan đối với Tướng Kỳ trước đó.

    Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không đặt tin tưởng tuyệt đối vào Tướng Quang như Tướng Kỳ đối với Tướng Loan. Cá nhân Tướng Loan được Tướng Kỳ trao cho quyền hành hầu như không giới hạn. Mặt khác, Tổng Thống Thiệu thiết lập nhiều trung tâm ganh đua nhau về quyền lực ở ngay trong bộ máy chính trị của ông ta để giữ cho Tướng Quang khỏi có quá nhiều quyền lực. Kết quả là Tướng Quang chẳng bao giờ kiểm soát được tất cả các băng đảng nho nhỏ thân Tổng Thống Thiệu như vai trò Tướng Loan trong bộ máy chính trị của Tướng Kỳ. Khi bộ máy kiểm soát các tổ chức làm tiền phi pháp của Tướng Kỳ ở Sài Gòn bị suy yếu từ sau tháng 6 năm 1968, những băng đảng thân Tổng Thống Thiệu tiến vào thay thế. Trong tình trạng thay đổi quyền lực chính trị như vậy, Tướng Quang được nắm quyền kiểm soát lực lượng đặc biệt, hải quân và quân đội, nhưng một trong những băng đảng khác cũng thân Tổng Thống Thiệu do Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ huy nắm được quyền lực đủ mạnh để dần dần tạo thành một băng đảng riêng rẽ. Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu chiếm được quyền lực vào khi quyền lực của Tướng Kỳ sụp đổ, hình như quyền lực của phe Tổng Thống Thiệu nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang.”

    Có bằng chứng cho thấy rằng một trong những nhóm mới bắt đầu nhập cảng lậu nha phiến vào miền Nam Việt Nam là toán quân trong lực lượng đặc biệt  của miền Nam (nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang) hoạt động ở miền nam nước Ai Lao. Tháng 8 năm 1972, tờ New York Times tường trình rằng có nhiều chuyến bay chuyển vận ma túy vào miền Nam Việt Nam “có liên hệ với lực lượng đặc biệt hoạt động trong hệ thống mật dọc theo Đường Mòn Hồ Chí Minh ở Ai Lao. Có căn cứ ở tỉnh Kontum, phía bắc Pleiku, toán quân đặc nhiệm của lực lượng đặc biệt này có không đoàn trực thăng và những phi cơ nhẹ thường xuyên chuyển vận những toán lính phá hoại vào miền Nam Ai Lao và để thực hiện những phi vụ do thám. Một vài sĩ quan trong toán lực lượng đặc biệt này nói rằng vào giữa năm 1971 vị chỉ huy của toán lính này bị chuyển đến một nơi đồn trú khác vì chuyện ông ta liên hệ nặng nề đến việc chuyển vận ma túy có cơ nguy bị bại lộ.” [10]

    5.- HẠ VIỆN TRONG QUỐC HỘI MIỀN NAM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
    Kinh tởm hơn nữa là việc buôn bán ma túy không phải chỉ giới hạn trong ngành hành pháp, cũng không phải chỉ giới hạn trong các binh chủng không quân, hải quân, lục quân và các đơn vị lực lượng đặc biệt, mà còn lan tràn sang cả ngành lập pháp. Đoạn văn dưới đây nói về các ông dân biểu trong Quốc Hội (Ha Viện) làm tay sai cho Nguyễn Văn Thiệu trong hoạt động buôn bán bạch phiến:

    Tại Hạ Viện, Tổng Thống Thiệu trông cậy vào những thành viên của Khối Độc Lập để lo việc mà cả và trả tiền (cho những dân biểu làm tay sai cho ông), hơn là chính cá nhân ông thương lượng trực tiếp hay qua các ông tướng cố vấn quân sự của ông. Khối Độc Lập trong hạ viện được thành lập từ năm 1967, gồm toàn những tín đồ Da-tô người Bắc Kỳ di cư hung hăng chống Cộng. Mặc dù, trên danh nghĩa là độc lập, nhưng ngay sau khi vừa mới được thành lập, vị lãnh tụ của khối này là Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện đến gặp Tổng Thống Thiệu và “hứa miệng” là ủng hộ tổng thống để được hưởng những ân huệ (không nói rõ những thứ ân huệ này.) Khối này có ảnh hưởng ra ngoài cả những thành viên của khối và tất cả các thành viên của khối đều nắm giữ những chức vụ quan trọng như là các chức chủ tịch của các ủy ban trong hạ viện, thí dụ như ủy ban vận động quyên tiền gây quỹ, hay viên chức liên lạc thông tin những lệnh truyền của trưởng khối cho các thành viên trong khối; vỏn vẹn chỉ có 19 thành viên, Khối Độc Lập nắm giữ 6 trong số 16 chức vụ chủ tịch ủy ban tại hạ viện. Thí dụ, trong kỳ thảo luận về luật bầu cử tổng thống vào năm 1971, thành viên của Khối Độc Lập là Dân Biểu Phạm Hữu Giao lo việc vận động cho điều khoản 10 được thông qua. Điều khoản gây tranh luận sôi nổi này đòi hỏi cá nhân nào muốn ra ứng cử tổng thống thì phải có tối thiểu 40 chữ ký của các dân biểu quốc hội. Mục đích của điều khoản này là giúp cho Tổng Thống Thiệu dễ dàng làm cho Phó Tổng Thống Kỳ không thể ra tranh cử được. Những ngày đầu trong việc thảo luận điều khoản này, Dân Biểu Phạm Hữu Giao đã mà cả kèo nài với các dân biểu thuộc các sắc tộc thiểu số là 350 Mỹ kim một phiếu và phần lớn các phiếu của các dân biểu gốc Cao Mên là 700 Mỹ kim. Tuy nhiên, vào ba ngày tranh luận sôi nổi sau cùng trước khi bỏ phiếu, giá tiền mỗi lá phiếu nhẩy vọt lên từ 1,000 tới 1,800 Mỹ kim để tranh thủ cho có đủ túc số 75 phiếu hầu thông qua điều khoản này.

    Trung thành với Tổng Thống Thiệu hình như có nhiều lợi lộc. Không có dân biểu đối lập nào có liên hệ nghiêm trọng đến một vụ buôn lậu nào. Tất cả dân biểu tại hạ viện có liên hệ đến việc buôn bán bạch phiến và vàng lậu đều thuộc Khối Độc Lập hoặc là trong hiện tại hoặc là trong quá khứ. Lý do thật là đơn giản. Các ông dân biểu đối lập thường thường không có đủ tiền cần thiết để chi phí cho những chuyến đi xuất ngoại như vậy, và cũng không được bảo đảm lúc trở về “sẽ được tiếp đãi lịch sự khi đi qua cửa ải quan thuế.” Tuy nhiên, các ông dân biểu thân chính quyền được tài trợ bằng một khoản tiền (đặc biệt) hoặc là tiền để dành trong những tháng bỏ phiếu và có quyền được cấp hộ chiếu xuất ngoại bốn (4) lần trong một năm, một đặc ân dành cho các dân biểu đuợc xuất ngoại vào những ngày Quốc Hội nghỉ, không nhóm họp. Kết quả là đã có những buổi vui chơi yến tiệc của các ông dân biểu thân chính quyền ở ngoại quốc với danh nghĩa bề ngoài là đi công tác cho chính quyền. Trong năm 1969-1970 các ông dân biểu vui chơi yến tiệc ở ngoại quốc này đã sử dụng tới 821.000 (821 ngàn) Mỹ kim để mua hàng hóa quốc ngoại. Một dân biểu thân chính quyền thuộc loại nổi đã lưu lại ở ngoại quốc tới 119 ngày trong năm 1969, 98 ngày trong năm 1970, và 75 ngày trong ba tháng đầu của năm 1971.”  [11]

    6.- CÁC SƠ ĐỒ BUÔN BÁN NHA PHIẾN TRONG THỜI NGUYỄN VĂN THIỆU
    Trên đây chỉ là mấy đoạn trích dẫn từ một vài trang trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia (của Alfred W. McCoy) dày 375 trang, không kể các trang ghi chú. Trong cuốn sách này, tác giả dành ra tới 150 trang (từ trang 72 đến trang 222) để nói về vấn đề ma túy ở miền Nam từ việc nhập cảng lậu sản phẩm này cho đến các việc thiết lập các cơ sở biến chế, phân phối và mở mang các tiệm hút ở Sài Gòn - Chợ Lớn cũng như ở nhiều nơi khác.

    Trong số 150 trang nói về việc làm ăn phi pháp này ở miền Nam Việt Nam từ năm 1950 cho đến năm 1971, tác giả Alfred W. McCoy còn đưa ra 5 bản sơ đồ tổ chức của những phe đảng của các thế lực cầm quyền ở miền Nam có liên hệ đến vấn đề  buôn bán ma túy trong thời gian này.
    1.- Sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954.
    2.- Sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ có liên hệ đến những hoạt động buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1968.
    3.- Sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ đến những hoạt động buôn bán nha phiến ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970-1971.
    4.- Sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về tổ chức Hải Quân Việt Nam được thiết lập trong thời gian miền Nam xua quân sang tấn công Cao Mên vào mùa Xuân 1970. Dĩ nhiên là tổ chức này có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy và nằm dưới quyền chỉ huy của Tướng Đặng Văn Quang.
    5.- Sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy phiến trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam.

    Trong mỗi sơ đồ trên đây, tác giả đều ghi rõ danh tính của từng cá nhân phụ trách phần vụ nào trong hệ thống quyền lực và liên hệ đến việc buôn bán ma túy.

    Nhìn vào sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954, chúng ta thấy đứng đầu trên hết là Bộ Chiến Tranh tại Pháp chỉ đạo, kế đến là cơ quan thâu thập tài liệu và phản gián, và Đoàn Quân Viễn Chinh Pháp (tại Đông Dương).

    Đoàn Quân Viễn Chinh tại Đông Dương chỉ đạo hai cơ quan: (1) Phòng Nhì, và (2) Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực.

    Phòng Nhì nối kết với Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên. Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực chỉ đạo Nhóm Không Vận Biệt Kích Hỗn Hợp. Nhóm này nối kết với Vùng Bắc (Northern Zone). Tại đây có hai nhân vật quan trọng là Touby Lý Foung (người H. Mong = Mèo ) và Đèo Văn Long (người Thái).

    Hai nhân vật này thâu mua thuốc phiện sống sản xuất tại đia phương để cung cấp cho Phòng Nhì. Phòng Nhì chuyển cho Nhóm Không Vận Biệt Kích chuyển vận bằng phi cơ vào Sài Gòn để giao cho Bình Xuyên. Bình Xuyên cấu kết người Tầu Triều Châu ở Chợ Lớn lo việc việc biến chế, gói lại thành từng gói rồi phân phối đến các tiệm bán sỉ, bán lẻ và cho khách hàng tiêu thụ tại các tiệm hút do Bình Xuyên quản lý.

    (Cũng nên biết, phần lớn thuốc phiện sống được sản xuất ở vùng Tam Giác Vàng (nằm trong vùng Đông Nam Miến Điện,Tây Bắc Thái Lan và Tây Bắc Ai Lao) do đám tàn quân (khoảng 12 ngàn) Quốc Dân Đảng Trung Hoa chạy sang vùng này chủ mưu và đảm trách.)

    Nhìn vào sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong những năm 1965-1968, chúng ta thấy có Quân Đội (một số đơn vị trong quân đội), Không Quân, Thương Cảng Sài Gòn và Sở Quan Thuế. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng của tổ chức này được nêu đích danh là Bà Nguyễn Thị Lý (chị ruột Tướng Nguyễn Cao Kỳ), Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia), Trung Tá Khu Đức Nùng (Biệt phái tại Ai Lao), Tướng Vĩnh Lộc (Tư Lệnh Quân Đoàn II), Tướng Lê Nguyên Khang (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Đại Tá Trần Văn Thăng (An Ninh Quân Đội), Đại Tá Phan Ngọc Huấn (Giám Đốc Sở CIO), Đại Tá Nguyễn Thanh Tùng (Mai Đen), Trung Tá Phó Quốc Chụ (Thương Cảng Sài Gòn), Trung Tá Nguyễn Văn Luận (Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Đại Tá Nguyên Ngọc Xinh (Trường Phòng một cơ quan Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ (Trương Ty Cảnh Sát Quân 5, Sài Gòn), ông Nguyễn Văn Lộc (Tổng Giám Đốc Nha Quan Thuế), Đại Tá Lưu Kim Cương (Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 33 kiêm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhất), và Thiếu Tá Phan Phụng Tiên.

    Nhìn vào sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1970-1971, chúng ta thấy có Quân Đội, Hải Quân và Hạ Viện trong Quốc Hội. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng trong tổ chức này được nêu đích danh là Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Đoàn I), Tướng Lữ Lan (Tư Lệnh Quân Đoàn II trong những năm 1968-1970), Tướng Ngô Dzu (Tư Lệnh Quân Đoàn II, kế nhiệm Tướng Lữ Lan), Tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Tướng Trần Văn Hai (Tư Lệnh Quân Đoàn IV), Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang (Tư Lệnh Hải Quân, cố vấn đặc biệt cho Tướng Đặng Văn Quang về Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Chống Ma Túy - hết sức khôi hài - NMQ), Đề Đốc Lâm Nguyên Tánh (Tư Lệnh Phó Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Chống Ma Túy trong Hải Quân – cũng hết sức khôi hai - NMQ), Hải Quân Đại Tá Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Việt Nam, tổng hành dinh tại Sài Gòn), Đại Tá Hải Quân Nguyễn Hữu Chí (Tư Lệnh Lực lượng Tuần Duyên, tổng hành dinh tại Nha Trang), cùng các căn cứ hải quân tại Rạch Sỏi, Tân Châu, Long Xuyên, v.v…

    Cũng trong sơ đồ này, chúng ta còn thấy có tên các ông dân biểu tại hạ viện trong Quốc Hội như Dân Biểu Phạm Hữu Giao (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào tháng 8 và tháng 12 năm 1970 vì tội mang vàng lậu và các hàng hóa lậu thuế khác), Dân Biểu Võ Văn Mầu (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào ngày 10 tháng 3 năm 1971 vì tội mang lậu 9.6 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Phạm Chí Thiện (bị bắt vào ngày 17/3/1971 tại phi cảng Tân Sơn Nhất vì tội mang lậu 4 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện (bị bắt ở Bangkok vào ngày 18/3/1971 vì tội mang 15 kí lô vàng lậu), Dân Biểu Nguyễn Văn Chính (bị bắt vào tháng 9/1970 tại phi cảng Tân Sơn Nhất ví tội mang một triệu bạc Việt Nam ra khỏi nước). Ngoài các dân biểu có thành tích tội ác kể trên, còn có Dân Biểu Hoàng Thông và Dân Biểu Trần Kim Thoa cũng ở trong băng đảng này. (Nhiều chi tiết về thành tích buôn bán vàng và ma tuý của các ông dân biểu thuộc Khối Độc Lập này được trình bày đầy đủ cơi các trang 201-205 trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred McCoy.)

    Nhìn vào sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về Tổ Chức Hải Quân có liên hệ đến vấn đề ma túy  trong thời gian quân đội miền Nam tấn công Cao Miên vào mùa Xuân năm 1970, chúng ta thấy có Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Chỉ Huy Trưởng Các Hạm Đội Việt Nam), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Các Giang Thuyền), Đại Tá Hải Quân Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân Việt Nam), Hải Quân Thiếu Tá Hồ Quang Minh (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Giang Thuyền Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long điều hợp các bộ phận trong khi hành quân). Tất cả các vị sĩ quan này đều liên lạc trực tiếp với các bộ phận tại Pnom Penh, Neak Luong, Tân Châu và Bình Thủy. 

    Nhìn vào sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam, chúng ta thấy, đứng đầu là Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ Tướng chính phủ trong những năm 1969-1971 – đúng ra còn lâu hơn nhiều - NMQ). Tiếp theo là các bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm và bà con về phía Tướng Trần Thiện Khiêm. Bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm thì có Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu (anh em cột chèo với Tướng Khiêm, nắm giữ chức Đô Trưởng Sài Gòn) và Tướng Trần Thanh Phong (vợ Tướng Phong và vợ Tướng Khiêm có bà con với nhau). Bà con về phía Tương Khiêm thì có Trần Thiện Khởi (Giám Đốc Nha Bài Trừ hàng lậu trực thuộc Nha Quan Thuế - hết sức khôi hài - NMQ), Đại Tá Trần Thiện Thanh (Nắm giữ một chức vụ tại Sài Gòn Gia Định mà tác giả ghi nhận là Dep. Gov. Gen. Saigon – Gia Định), và ông Trần Thiện Phương (Giám Đốc Nha Thương Cảng Sài Gòn).

    7.- MỘT LỜI KẾT
    Sau khi cho ra đời cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại” ngày 2/6/1948, các “chính quyền quốc gia” miền Nam liên tục thả cửa cho dân chúng dùng ma túy trong kế hoạch đầu độc dân ta, và triệt tiêu tiềm năng chiến đấu chống lại thế lực của liên minh giặc. Ngay từ năm 1950, Bảo Đại cũng đã có liên hệ chặt chẽ với vấn đề buôn bán ma túy để được chia chác tiền lời của việc làm bất chính, bất nhân và dã man này..

    Sau này, trong những năm đất nước bị chia đôi, người Pháp công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc và rút quân về nước. Kể từ đó, Liên Minh Chính Trị  Pháp – Vatican tan vỡ. Liên Minh Chính Trị Mỹ - Vatican thành hình, miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Hoa Kỳ và Vatican (1954-1975). Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế và Ngô Đình Diệm được đưa lên thay thế. Kể từ đây,  anh em Ngô Đình Diệm và băng đảng Cần Lao nhẩy lên bàn độc múa may quay cuồng, thi hành chính sách bạo trị, coi nhân dân miền Nam như chó như ngựa. Cũng vì thế mà sử gia Nigel Cawthorne mới liệt kê Ngô Đình Diệm vào danh sách của một trăm tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. [12]

    Trong thời kỳ này, việc buôn bán ma túy ở miền Nam được anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao triệt để khai thác, khuếch trương và coi như một kế sách quan trọng vào bậc nhất của chính quyền, biến miền Nam thành kho hàng chứa và cung cấp thuốc phiện sống (thô) cho trung tâm biến chế và sản xuất bạch phiến ở Marseille rồi chuyển vận sang Mỹ Châu cho khách hành tiêu thụ ở Hoa Kỳ”. Cũng vì thế mà tác giả Alfred McCoy mới gọi tập đoàn Da-tô Việt gian này là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.” 

    Chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sụp đổ vào ngày 1/11/1963, việc buôn bán túy lọt vào tay bọn Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954 với những nhân vật như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Lê Nguyên Khang. Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Ngô Du, Lữ Lan, Nguyễn Quang Luyện, Phạm Hữu Giao, Nguyễn Văn Chính, Võ Văn Mầu, Phạm Chí Thiện, Hoàng Thông, v.v…

    Nhìn lại từ đầu cho đến cuối, từ ngày được Thực dân Pháp cho ra đời vào ngày 2/6/1948 cho đến khi ra ngũ tan hàng vào ngày 30/4/1975,  những nhân vật quan trọng, nắm quyền lãnh đạo của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia”, tự phong là những “người Việt Quốc Gia” đều là những tên Da-tô Việt gian “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, và bọn  Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Những người này đều có liên hệ chặt chẽ với việc buôn bán ma tuý ở và liên hệ với  nhiều việc làm ăn bất chính khác ở miền Nam Việt Nam như đã trình bày trong chương sách nói về vấn nạn tham nhũng trước đây. Thật là nhục nhã!

    “Chính quyền Quốc Gia” và “Người Việt Quốc Gia” (với lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho cái chính quyền này và bọn người này) là thế đó! Bới thế cho nên, khi đặt ra vấn đề “lằn ranh Quốc Cộng” và tranh đấu để duy trì “lá cờ vàng ba sọc đỏ”, thiết tưởng cũng nên nhớ đến những điều ô nhục này. Nếu không biết hay không nhớ những điều này thì quả thật là không biết gì về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, và không nhận diện được giặc thù của đất nước. Không phân biệt được ai là giặc và ai là cha, tức là biến thành những đứa con hoang của đất nước.

    CHÚ THÍCH


    [1] Alfred McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York:Harper Colophon Books, 1972), p.74.).

    [2] Alfred W McCoy, Sđd., pp. 73-75.

    Nguyên văn: “Shortly after the French established a protectorate over Cambodia (1863) and central Vietnam (1883), and annexed Tonkin (northern Vietnam, 1884) and Laos (1893), they founded autonomous opium monopolies to finance the heavy initial expenses of coloniale rule. While the opium franchise had succeeded in putting southern Vietnam on a paying basis within several years, the rapid expansion of French holdings in the 1880s and 1890s created a huge fiscal deficit for Indochina as a whole. Moreover, a hodgepodge administration of five separate colonies was a model of inefficiency, and hordes of French functionaries were wasting what little profits these colonies generated. While a series of administrative rerforms repaired much of damage in the early 1890s, continuing fiscal deficit still threatened the future of French Indochina.

    The man of the hour was a former Parisian budget analyst named Paul Doumer, and one of his solutions was opium. Soon after he stepped off the boat from France in 1897, Governor-General Doumer began a series of major fiscal reforms: a job freeze was imposed on the colonial bureaucracy, unnecessary expenses were cut, and the five autonomous colonial budgets were consolidated under a centralized treasury. But most importantly, Doumer reorganized the opium business in 1899, expanding sales and sharply reducing expenses. After consolidating the five autonomous opium agencies into the single Opium Monopoly, Doumer constructed a modern efficient opium refinery in Saigon to process raw Indian resin into smoker’s opium. The new factory devised a special mixture of prepared opium that burned quickly, thus encouraging the smoker to consume more opium than he might  ordinarily. Under his direction, the Opium Monopoly made it first purchases of cheap opium from China’s Yunnan Province so that government dens and retail shops could expand their clientele to include  the poorer workers who could not afford the high priced Indian brands. More dens and shops were opened to meet expanded consumer demand (in 1918 there were 1,512 dens and 3,098 retailed shops). Business boomed.

    As Governor-General Doumer himself has proudly reported, these reforms increased opium revenues by 50 percent during his four years in office, accounting for one-third of all colonial revenues. For the first time in over ten years there was a surplus in the tresury. Moreover, Doumer’s reforms gave French investors new confidence in the Indochina venture, and he was able to raise a 200 million franc loan, which financed a major public works program, part of Indochina’s railrway network, and many of the colony’s hospital and schools.

    Nor did the French colonists have any illusions about how they were financing Indochina’s development. When the government announced plans to build a railway up the Red River valley into China’s Yannan Province, a spokesman for the business community explained one of primary goal:

    It is particulary interesting. At the moment one is about to vote funds for the construction of a railway to Yannan, to search for ways to augment the commerce between the province and our territory…. The regulation of commerce in opium and salt in Yannan might be adjusted in such a way as to facilitate commerce and increase the tonnage carried on our railway.

    While a vigourous international crusade against the “evils of opium” during the 1920s and 1930s forced other colonial administrations in Southeast Asia to reduce the scope of their opium monopolies, French officials remained immune to such moralizing. When the Great Depression of 1929 pinched tax revenues, they managed to raise opium monopoly profits (which had been declining) to balance the books. Opium revenues climbed steadily, and by 1938 accounted for 15 percent of all colonial tax revenues – the highest in Southeast Asia.”

    [3] Alfred McCoy, Sđd., tr.118.

    [4]Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159-161.

    Nguyên Văn: “Diem’s Dynasty and the Nhu’s Bandits.- …But Nhu was determined to go ahead, and to revive the opium traffic to provide the necessary funding... Although most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.

    To keep these outlets supplied, Nhu established two pipelines from Laos poppy fields to South Vietnam. The major pipeline was a small charter airline, Air Laos Commercial, managed by Indochina most flamboyant Corsican gangster, Bonaventure “Rock” Francisci. Although there were at least four small Corsican airlines  smuggling between Laos and South Vietnam, only Francisci’s dealt directly with Nhu. According to Lt. Colonel Lucien Conein, a former high ranking CIA officer in Saigon, their relationship began in 1958 when Francisci made a deal Ngo Dinh Nhu to smuggle Laotian opium into South Vietnam. After Nhu guaranteed his opium shipment safe conduct, Fracisci’s fleet of twin engine Beechcrafts began making clandestine airdrop inside South Vietnam on a daily basis.

    Nhu supplemented these shipments by dispatching intelligence agents to Laos with orders to send back raw opium on the Vietnam air force transports that shuttled back and forth carrying agents and supplies.

    While Nhu seems to have dealy with the Corsican personally, the intelligence missions to Laos were manged by the head of his secret police apparatus, Dr. Tran Kim Tuyen. Although most account  have portrayed Nhu as the Diem regime’s Machiiavelli, many insiders feel that it was the diminitiuve ex-seminary student. Dr, Tuyen, who had the real lust and capacity for intrigue. As the head of the secret police, euphemistically titled Office of Social and Political Study, Dr. Tuyen commanded a vast intelligene network that included the CIA financed special forces, the Military Security Service, and most importantly, the clandesdtine Can Lao party. Through Can Lao party, Tuyen recruited spies and political cadres in every branch of the military and civil bureaucracy. Promotions were strictly controlled by the central government, and those who cooperated with Dr. Tuyen were rewarded with rapid advancement. With profits from the opium trade and other officially sanctioned corruption, the Office and Political Study was able to hire thousands of cyclo-drivers, dance hall girls (”taxi dancers”) and street vendors as partime spies for an intelligence network that soon covers every block of Saigon-Cholon. Instead of maintaining surveillance on a suspect by having him followed, Tuyen simply passed the word to his “door to door” intelligence net work and got back precise, detailed reports on the subject’s  movements, meetings, and converstions. Some observers think that Tuyen may have had as many as hundred thousand full and part time agents operating in South Vietnam. Through this remarkable system Tuyen kept detailed dosiers on every important figure in the country, including paricularly complete files on Diem, Madame Nhu, and Nhu himself which he sent out of the country as a form of personal “life insurance.”

    Since Tuyen was responsible for much of the Diem regime’ foreign intelligence network, he was able to disguise his narcotics dealing in Laos under the cover ordinary intelligence work.”

    [5] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy [bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000), tr 51-53.

    [6] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Sđd.,tr 306-307.

    [7] Alfred W. McCoy., Sđd.., tr.169.

    Nguyên văn: “Putting “the old system back together again,” of course, meant reviving large-scale corruption to finance each rewards paid to these part-time agents whenever they dilvered information. Loan and the police intelligence professionals systematized the corruption, regulating how much each particular agency would collect, how much each officer would skim off for his personal use, and what percentage would be turned over to Ky’s political machine. Exessive individual corruption was rooted out, and Saigon-Cholon’s vice rackets, protection rackets, and payoffs were strictly controlled. After several years of watching Loan’s system in action, Charles Sweet feels that there were four major sources of graft in South Vietnam: (1) sale of government jobs by generals or their wives, (2) administrative corruption (graft, kickbacks, bribes, etc.), (3) military corruption (theft of goods and payroll frauds), (4) the opium traffic. And out of the four, Sweet concluded that the opium traffic was undeniably the most important source of illicit revenue.

    As Premier Ky’s power broker, Loan merely supervised all of the various forms of corruption at a general administrative level, he usually left the mundane problems of organization and management of individual rackets to the trusted assistants.”

    [8] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 403.

    [9] Alfred McCoy, Ibid., p. 185-186.

    Nguyên văn: “The quantum leap in the size and profitability of South Vietnam’s narcotics trade, due both to the new burgeoning GI market as well as the increased demand on the part of the international narcotics syndicates, resulted in a number of new mini-cliques coming into the traffic.

    But by 1970 the traffic appeared to be divided among three major factions: (1) elements in the South Vietnamese air force, particularly the air transport wing; (2) the civil bureaucracy (i.e police, customs and port authority), increasingly under the control of Prime Minister Tran Thien Khiem’s family; and (3) the army, navy and National Assembly’ lower house, who answer to President Thieu.  In spite, or perhaps because, of the enormous amounts of money involved, there were considerable anomosity among the three major factions.

    “Involvement” in the nation’s narcotics traffic took a number of different forms. Usually it meant that influential Vietnamese political and military leaders worked as consultants and protectors for chiu chau syndicates, which actually managed wholesale distribution, packaging, refining, and some of the smuggling. (Chiu chau are Chinese from the Swatow region of the southern China, and chiu chau syndicates have controlled much of Asia’ s iilicit drug traffic since the mid 1800s and have played a role in China’s organized crime similar to the Scilian in Italy and the Corsican syndicates in France. (Chapter 6 for more details.) The importance of this protection, however, should not be underestimated, for without it the heroin traffic could not continue. Also, powerful Vietnamese military and civil officials are directly involved in much of the actual smuggling of narcotics into South Vietnam. The Vietnamese military has access to aircraft, trucks, and ships that the Chinese do not, and most of the Vietnamese have much easier time bringing narcotics through customs and border checkpoints than their Chinese clients.”

    [10] Alfred McCoy, Ibid., pp. 188-190.

    Nguyên văn: “Thieu Takes Comand.- In the wake of Air Vice-Marshal Ky’s precipitous political decline, ranking military officers responsible to President Thieu appear emerged as dominant narcotics traffickers in South Vietnam. Like his predecessors, Pressident Diem and Premier Ky, President Thieu has studiously avoid involving himself personally in political corruption. However, his power broker pressidential intelligence adviser Gen. Dang Van Quang is heavily involved in these unsavory activities. Working through high-ranking army and navy ofiicers personally loyal to himself or President Thieu, General Quang has built up a formidable power base. Although General Quang ‘s international network appears to be weaker than Ky’s, General Quang does control the Vietnamese navy, which houses an elaborate smuggling organization that imports large quantities of narcotics either by protecting Chinese maritime smugglers or by actually using Vietnamese naval vessels. Ky’s influence among high-ranking army officers has weakened considerably, and control over the army has now shifted to General Quang. The army now manages most of the distribution and sale of heroin to American GIs. In addition, a bloc of pro-Thieu deputies in the lower house of the National Assembly have been publicly exposed as being actively engaged in heroin smuggling, but they appear to operate somewhat more independently of General Quang than the army and navy.

    On July 15, 1971, edition of the NBC Nightly News, the network’s Saigon correspondent, Phil Brady, told a nationwide viewing audience that both President Thieu and Vice-President Ky were financing their election campaigns from the narcotics traffic. Brady quoted “extremely reliable sources” as saying that President Thieu’s chief intelligence adviser, Gen. Dang Van Quang, was “the biggest pusher” in South Vietnam. Although Thieu’s press secretary issued a flat denial and accused Brady of “spreading falsehoods and slanders against leaders in the government, thereby providing help and comfort to the Communist enemy, he did not try to defend General Quang, renowned as one of the most dishonest generals in South Vietnam when he was commander of IV Corp in the Mekong Delta.

    In July 1969 Time Magazine’s Saigon correspondent cabled the New York office this report on Gen. Quang’s activities in IV Corps:

    While there he reportedly made millions selling offices and taking a rake off on rice production. There was the famous incidents, described in past corruption files, when Col. Nguyen Van Minh was being invested as 21st Division commander. He had been Quang’s deputy corps commander. At the ceremony, the wife of the outgoing commander stood up and shouted to the assembled that Minh had paid Quang 2 million piasters [$7,300] for the position… Quang was finally removed from Four Corps at the insistence of the Americans.

    General Quang was transferred to Saigon in late 1966 and became minister of planning and development, a face-saving sinecure. Soon after President Thieu’s election in September 1967, he was appointed special assistant for military and security affairs. General Quang quickly emerged as President Thieu’s power broker, and now does the same kind of illicit fund raising for Thieu’ s political machine that the heavy-handed General Loan did for Ky.

    President Thieu, however, is much less sure of Quang than Premier Ky had been of General Loan. Loan had enjoyed Ky’s absolute confidences and was entrusted with almost unlimited personal power. Thieu, on the other hand, took care to build up competing centers of power inside his political machine to keep General Quang from gaining too much power. As a result, Quang has never had the same control over the various pro-Thieu mini-factions as Loan had over Ky’s appratus. As the Ky apparatus’ s control over Saigon’s rackets weakened after June 1968, various pro-Thieu moved in. In the political shift, General Quang gained control of the special forces, the navy, and the army, but one of the pro-Thieu cliques, that headed by Gen. Tran Thien Khiem, gained enough power so that it gradually emerged as an independent faction itself. However, at the very beginning most of the power and influence gained from Ky’ downfall seemed to be securely lodged in the Thieu camp under General Quang’s supervision.

    There is evidence that one of the first new groups which began smuggling opium into South Vietnam was the Vietnamese special forces contigents operating in southern Laos. In August 1971, The New York Times reported that many of the aircraft flying natcotics into South Vietnam “are connected with secret South Vietnamese special forces operating along the Ho Chi Minh Trail network in Laos.” Based in Kontum Province, north of Pleiku, the special forces “assault task force” has a small fleet of heliccopters, transports, and light aircraft that fly into southern Laos on regular sabotage and long range-reconnaissance forays. Some special forces claim that the commander of this unit was transferred to another post in mid 1971 because his existence involvement in the narcotics trafic risked exposure.”

    [11] Alfred McCoy, Ibid., pp. 201-202.

    Nguyên văn: “In the lower house, President Thieu relied on members of the Independence Bloc to do the bargaining and make the payments, rather than negotiating personally or working through his military advisers. Consisting almost entirely of North Vietnamese Catholic refugees, this bloc has maintained a militantly anti-Communist position since it was formed in 1967. Although the bloc is nominally independent, its leader Rep. Nguyen Quang Luyen met with President Thieu soon after it was formed and “verbally agreed” to support the president in exchange for unspecified favors. The bloc has influence far beyond its numerical strength, and all its members occupy key positions as committee chairmen, fund raisers, or whips; with only nineteen members, the Independence Bloc controls six out of lower house’s sixteen committee chairmanships. During the debates over the 1971 election law, for example, it was an Independence Bloc member Pham Huu Giao who floor managed the passage of article 10. This controversial clause required a minimum of forty Congressional signatures on every nominating petition for upcoming presidential election and made it possible for President Thieu eliminate Ky from the running. Early in the debates, Rep. Pham Huu Giao reported tied down a few hill tribe votes for as little $350 apiece and most of Cambodian minority’s ballots for a mere $700 each. However, in the three days of intense bargaining preceding the final balloting, the price jumped from $1.000 to $1.800 for final handful that completed the proposal’s winning tally of seventy five votes.

    Loyalty to Thieu seems to have its benefits. No opposition members have even implicated in a sreious smuggling case. All lower house representatives implicated in the heroin and gold traffic are either present or past members of the Independence Bloc. The reason for this is simple; opposition deputies often lack the necessary capital to finance such trips, and are not guaranteed “courtesy of the port” when they return. However, pro-government deputies who are bankrolled by an official travel grant or savings from months of voting the right way are able to take advantage of their four exit visas per year, a privilege guaranteed all deputies for foreign travel during the legislative holidays. The result has been an orgy of foreign junketeering on the part of pro-government deputies. In 1969-1970 junketeering representatives purchased $821.000 worth of foreign currency for their travel. One pro-government representative was abroad for 119 days in 1969, 98 days in 1970, and 75 days during the first three months of 1971.”

    [12] Nigel Cawthorne,TYRANTS History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:Acrturus, 2004), pp. 167-168.

    © sachhiem.net  
    Exit mobile version