All posts by admin

VOV – Cảnh giác với tình trạng ngộ độc rượu



Cảnh giác với tình trạng ngộ độc rượu


Bác sĩ Nguyễn Kim Sơn khuyến cáo: một ngày với nam không nên quá 3 lon bia, với nữ chỉ là 2 lon bia.


Mặc dù các cơ quan chức năng đã liên tiếp cảnh báo về ngộ độc rượu và mới đây là vụ ngộ độc rượu nếp 29 Hà Nội, khiến 6 người tử vong tại Quảng Ninh, nhưng tình trạng ngộ độc rượu vẫn diễn ra khá phổ biến. Hầu như ngày nào Trung tâm chống độc, bệnh viện Bạch Mai cũng tiếp nhận bệnh nhân phải nhập viện do ngộ độc rượu pha cồn. Đáng lo ngại là số người nhập viện càng gia tăng trong những ngày cuối năm.


Ông Triệu Ngọc Ký đang điều trị tại Trung tâm chống độc


Tác hại của rượu đối với sức khỏe thì ai cũng biết, nhưng không phải ai cũng tránh xa được. Ông Triệu Ngọc Ký ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đang điều trị tại Trung tâm chống độc, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội trong tình trạng mắt mờ, luôn có ảo giác và hay nhầm lẫn. Sau 4 ngày điều trị, tình trạng bệnh của ông đã có tiến triển tốt. Bản thân ông Triệu Ngọc Ký cũng biết rằng, đó là hậu quả do uống rượu triền miên suốt 40 năm qua: “Nếu có tiền uống nửa lít, không có tiền thì uống 1 cút. Lúc nào cũng uống, trong 1 ngày thì uống vào bữa trưa, bữa tối, bữa sáng. Nếu có thì lúc nào uống cũng được”.


Chị Dương Thị Huyền, con dâu ông Ký cho biết vì đã nghiện rượu trong thời gian dài, nên hầu như ngày nào bố của chị cũng phải uống rượu. Thời gian gần đây, sức khỏe của ông Ký giảm dần nên đã nhiều lần gia đình đưa ông đi cai rượu nhưng vẫn không thành vì chỉ 1, 2 tháng sau ông lại uống rượu lại. Chị Dương Thị Huyền nói: “Nói chung là cũng rất buồn, không ai muốn người thân mình như thế, uống rượu xong ông không như người bình thường, cứ nói linh tinh rồi chửi mọi người. Bây giờ, đưa ông đi điều trị cũng mong ông khỏi bệnh để về gia đình êm ấm”.


Trung tâm chống độc, bệnh viện Bạch Mai cho biết: Trong các sản phẩm rượu, bia thông thường đều có chứa chất cồn ethanol. Ở giai đoạn ngộ độc mãn tính, chất ethanol có khả năng gây ức chế làm suy yếu hệ thần kinh trung ương, gây giảm hoạt tính các nơron thần kinh, có nguy cơ giãn mạch ngoại vi, hạ huyết áp và có thể tử vong nếu không cấp cứu kịp thời. Còn với ngộ độc rượu do uống rượu chứa methanol (cồn công nghiệp) thì mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều bởi chất này không được phép sử dụng trong thực phẩm.


Các bệnh thường gặp khi nghiện rượu như: rối loạn tâm thần, hoang tưởng, xơ gan... Riêng rượu kém chất lượng, pha bằng cồn công nghiệp có thể gây hôn mê, tụt huyết áp, chết người.


Bác sĩ Nguyễn Kim Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm Chống độc, bệnh viện Bạch Mai cho biết, thời điểm này, hầu như ngày nào cũng có bệnh nhân bị ngộ độc rượu vào viện cấp cứu và điều trị. Dự báo càng gần thời điểm cuối năm, nhất là dịp trước và sau Tết Nguyên đán, số bệnh nhân ngộ độc rượu tiếp tục gia tăng mạnh. Chẳng hạn như: sau Tết Nguyên đán năm ngoái, có thời điểm số ca ngộ độc rượu vào điều trị tại Trung tâm chiếm đến 30% tổng số bệnh nhân ngộ độc.


Bác sĩ Nguyễn Kim Sơn - Phó Giám đốc Trung tâm chống độc - Bệnh viện Bạch Mai


Bác sĩ Nguyễn Kim Sơn khuyến cáo: “Đầu tiên phải tự  mình cứu lấy mình. Chúng ta chỉ nên dùng rượu trong khi ăn uống với hàm lượng rất nhỏ. Chúng tôi khuyến cáo một ngày với nam thì không nên quá 3 lon bia, với nữ chỉ là 2 lon bia thôi. 3 lon bia tương đương 30ml rượu vang và tương đương với 15 đến 20 ml rượu mạnh 40 đến 45 độ. Chúng ta uống vừa phải và uống một loại rượu thôi chứ không nên uống nhiều loại. Đó là điều cấm kỵ. Nếu đã bị ngộ độc rượu, gọi hỏi không biết gì cả thì tốt nhất nên đưa đến bệnh viện có đầy đủ phương tiện để theo dõi về hô hấp, về tuần hoàn”.


Theo các bác sĩ, để phòng ngộ độc rượu, nên chọn loại rượu có thương hiệu, đảm bảo an toàn thực phẩm và chỉ uống ít. Ngoài ra, cũng cần lưu ý trong khi uống rượu vẫn phải ăn cơm và thức ăn khác nhằm tránh tình trạng cảm lạnh do đói, rét./.


Lê Thơm

VNEXPRESS – Thường gặp ác mộng vì bố chồng nghiện rượu


Thường gặp ác mộng vì bố chồng nghiện rượu


Thật đáng sợ vì bố chồng tôi nghiện rượu. Uống xong không vừa ý là ông chửi mọi người, thỉnh thoảng chửi tôi bằng những ngôn từ mà tôi nghĩ không thể nào phát ra từ một người có học thức.


Càng ngày theo thời gian và tuổi tác là con người có những trải nghiệm cho cuộc sống, trải nghiệm của tôi bắt đầu khi lập gia đình. Mọi người vẫn nói rằng trải nghiệm sẽ đem lại những kinh nghiệm quý báu và những điều đáng nhớ trong cuộc sống, nhưng với tôi không muốn có những "trải nghiệm" này. Tôi lớn lên trong một gia đình tri thức, bố mẹ làm công nhân viên chức nhà nước. Tôi sống cùng gia đình trong căn nhà nhỏ, không khang trang tiện nghi nhưng lúc nào cũng ấm cúng, bố mẹ luôn dành cho tôi những điều tốt đẹp nhất, có thể nói tôi như một "công chúa" nhỏ vậy.


Tuổi thơ tôi trôi qua thật êm đềm và hạnh phúc. Cho đến khi gia đình tôi có điều kiện hơn chuyển sang một ngôi nhà khang trang, tiện nghi, có xe hơi. Bố đón bà nội ra ở cùng để chăm đứa em thứ hai của tôi, những mâu thuẫn giữa bà nội và mẹ làm cho ngôi nhà không còn được vui vẻ như trước (mặc dù mẹ tôi là người tuyệt vời và chu đáo). Lúc đó tôi hiểu rằng, cuộc sống sẽ thật sự hạnh phúc khi sống trong một gia đình vui vẻ, mọi người yêu quý nhau, chứ không phải cứ nhà lầu, xe hơi thế là hạnh phúc.


Thời gian đi học đại học tôi sống ở nhà bác, bố mẹ vẫn chu cấp cho tôi những điều kiện tốt nhất để được học hành. Có thể nói so với những người bạn cùng lứa, tôi không phải vất vả lo tìm nhà trọ hay bữa cơm từng ngày. Mặc dù ở với bác rất khắt khe, bị kiểm soát thời gian, nhưng tôi vẫn thầm cảm ơn bác những ngày tháng sống ở đó.


4 năm đại học trôi qua, đến ngày tôi nhận được tấm bằng đại học. Thời gian đó thật hạnh phúc, bởi cũng đúng lúc đó tôi xin ngay được việc làm ở một công ty lớn, so với những bạn bè vừa ra trường đó là niềm mơ ước. Tôi nghĩ mình thật là may mắn, vừa làm việc tôi lại tiếp tục theo học thêm để lấy kinh nghiệm.


Tôi quen anh, một đồng nghiệp trong công ty, ấn tượng trong tôi về anh chả có gì đặc biệt ngoài tính tình hiền lành và vui vẻ, do số phận, chúng tôi tiến tới lập gia đình sau 2 năm gắn bó. Mọi người vẫn khen chúng tôi đẹp đôi bởi anh là người có tài, gia đình không phải khá giá lắm nhưng cơ bản, quan trọng anh rất yêu thương, quan tâm tôi. Tính cách của anh trái ngược với sự trầm tư, hay nghĩ của tôi, bởi lúc nào anh cũng vui vẻ.


Những suy nghĩ về cuộc sống gia đình trước đây, cộng với khoảng thời gian xa nhà, xa bố mẹ khiến tôi nghĩ anh là người mình cần. Lần đầu về nhà anh chơi, thấy bố mẹ, em anh thật hiền hòa, cởi mở, tôi lại nghĩ mình may mắn khi làm dâu gia đình này. Biết điều kiện gia đình anh không bằng gia đình tôi, tuy nhiên điều đó không quan trọng bằng việc tôi sẽ được sống trong gia đình vui vẻ, ấm áp và có anh. Bố mẹ tôi cũng quý anh, chưa một lần phản đối chuyện tình cảm hai đứa, tôi thầm cảm ơn vì điều đó.


Đúng là chẳng ai đoán được chữ ngờ, giờ đây tôi chắng dám nghĩ đến chữ ân hận vì đã lấy anh, bởi chính tôi là người quyết định xa bố mẹ và điều kiện tốt nhất ở dưới nhà mình để cưới anh, cũng bởi cả hai đứa rất yêu nhau. Bố chồng không như những gì tôi thấy trước đây, thật đáng sợ vì ông nghiện rượu. Uống xong không vừa ý là ông chửi mọi người, thỉnh thoảng chửi tôi bằng những ngôn từ mà tôi nghĩ không thể nào phát ra từ một người có học thức và sống trong điều kiện như thế.


Lúc đầu tôi thấy thật sự sốc, thương cho mẹ chồng và anh, rồi dần đến là thông cảm, thất vọng và cho đến giờ không cảm xúc nữa. Hình ảnh bố chồng trong đầu tôi lúc nào cũng thật đáng sợ, nhiều lúc không muốn nhìn vào mặt ông vì nghĩ đến những điều ông đã làm, đang đêm tôi còn ngủ mơ ác mộng về ông. So với nhiều người, tôi nghĩ mình khéo léo trong cách cư xử, nhưng khi đã nghiện rượu rồi họ còn ý thức gì được nữa.


Chả cần nói, tôi buồn lắm, cũng chẳng thể kêu mãi với chồng được, mặc dù lúc nào anh cũng đứng về phía tôi. Chỉ nghĩ đến cuộc sống lâu dài tôi đã thấy ngạt thở và tuyệt vọng, lại sắp sinh em bé, cuộc sống sau này sẽ thế nào? Tôi không muốn con bị nghe những lời như thế. Anh bảo tôi nếu cứ thế này sẽ ra ở riêng, chuyện đâu có dễ thế bởi anh là con trai một, như thế sẽ tai tiếng, mọi người sẽ nói sao? Tất nhiên, bố mẹ tôi không biết chuyện này, tôi giấu bởi nếu biết họ sẽ rất buồn và thương con.


Nhìn thấy bạn bè cùng trang lứa có bố mẹ chồng tốt, tôi thầm ghen tị với họ và trách cho số phận mình. Mọi người nhìn ngoài ai cũng nói tôi sướng, đâu biết tôi rất khổ tâm. Mong các bạn chia sẻ cùng tôi.


Phương

BV ĐH Y Dược – Chăm sóc người nghiện rượu


Chăm sóc người nghiện rượu



Nghiện rượu được xếp vào loại "rối loạn hành vi và tâm thần do sử dụng các chất kích thích lên tâm thần". Người naghiện rượu thường không ý thức được tính nghiêm trọng của chứng bệnh. Vì tiềm năng gây nghiện của rượu rất lớn nên khả năng điều trị duy nhất là từ bỏ một cách triệt để các thức uống có cồn và không thể bỏ qua các biện pháp điều trị tâm lý.


Nguyên nhân dẫn đến nghiện rượu tùy thuộc vào yếu tố tâm lý của mỗi người cũng như hoàn cảnh gia đình và xã hội. Rượu không chỉ tàn phá cơ thể và tinh thần người uống mà còn gây ra các tệ nạn xã hội, bạo lực trong gia đình, vi phạm pháp luật, tai nạn giao thông, tội phạm… Bởi vậy trong việc kiểm soát và khống chế nghiện rượu, cần phải giải quyết đồng thời hai vấn đề: y học và xã hội.


Chăm sóc người đang say rượu

1. Nhân viên y tế trong điều trị cần tránh thái độ lên án, không chỉ trích hay trách mắng người nghiện rượu khi họ nhập viện.


  • Khi người say ở trạng thái kích động, nên tìm cách bảo vệ an toàn cho họ nhưng nhân viên y tế cũng cần phòng thủ để tránh các tình huống nguy hiểm cho mình.


  • Cần đối xử với người nghiện rượu một cách thông cảm, chấp nhận và không chống đối lại những hành vi mất tự chủ của họ.


  • Nhân viên y tế cần nói chuyện với họ nhẹ nhàng và chậm rãi, vì họ đang trong tình trạng không kiểm tra được ý thức của mình.


2. Cần lấy mẫu máu thử nồng độ cồn.


3. Để cho người nghiện rượu đang trong tình trạng ngủ gà ngủ gật được tiếp tục ngủ cho đến khi họ giã rượu. Trong thời gian này cần:


  • Theo dõi sát tình trạng ức chế thần kinh trung ương.


  • Duy trì đường thở thông thoáng.


  • Nên cởi quần áo, cho đắp mền.


4. Tạo không gian êm dịu, tránh ồn ào. Các trường hợp không chịu nằm yên thì:


  • Theo dõi cẩn thận tình trạng mạch huyết áp và tình trạng tri giác.


  • Theo dõi tình trạng hô hấp, đặc biệt lưu ý hiện tượng trào ngược dịch tiêu hóa vào đường thở gây nghẹt thở.


  • Giữ an toàn trên giường bệnh.


5. Đánh giá tình trạng hôn mê do ngộ độc rượu.


Thăm khám tìm những tổn thương do tai nạn gây ra đặc biệt là chấn thương đầu, phát hiện các bệnh lý kèm theo. Người nghiện rượu thường bị các hậu quả do rượu gây ra như: viêm gan, xơ gan, rối loạn tiêu hóa, tiểu đường, cao huyết áp, rối loạn chức năng cương dương ở nam giới. Ở phụ nữ, rượu có thể làm rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, gây dị tật trên thai nhi, trầm cảm, mất trí nhớ.


Chăm sóc trong giai đoạn ổn định
  • Cung cấp cho người bệnh một chế độ dinh dưỡng hợp lý.


  • Điều trị tiếp tục các bệnh lý kèm theo.


  • Điều trị tâm lý cho người bệnh, động viên, an ủi.


  • Hướng dẫn và giáo dục cho người nghiện rượu về những tác hại của rượu.


Chăm sóc trong giai đoạn cai nghiện

Tùy từng trường hợp mà để người nghiện rượu điều trị tại nhà hay cho họ vào cơ sở cai nghiện rượu để được chăm sóc tốt hơn.


Vấn đề chính là người nghiện rượu phải nhận thức được những nguyên nhân nào đưa họ đến nghiện rượu và họ phải có quyết tâm từ bỏ rượu.


Trong giai đoạn cai nghiện, hội chứng cai nghiện có thể thay đổi từ các triệu chứng nhẹ như các rối loạn nhẹ của giấc ngủ và lo âu nhẹ cho đến các triệu chứng rất nghiêm trọng đe dọa đến tính mạng như mê sảng, ảo giác và các cơn co giật… Điều trị hội chứng cai nghiện là hết sức phức tạp và rất cần đến sự hỗ trợ của gia đình, bạn bè đồng nghiệp và xã hội. Việc điều trị nghiện rượu có thành công hay không phụ thuộc vào ý chí và sự quyết tâm của người bệnh nhiều hơn là vào cách thức và thời gian điều trị.


CN. Nguyễn Thị Ngọc Sương

Uống rượu và thói nghiện rượu có hại như thế nào?


Uống rượu và thói nghiện rượu có hại như thế nào?


Trước đây, bất kỳ hình thức uống rượu nào gây ra tác hại nghiêm trọng đều được gọi là thói nghiện rượu. Thuật ngữ này vẫn còn được sử dụng phổ biến để chỉ tính chất tiêu cực của việc uống rượu dẫn đến sự suy đồi nghiêm trọng về mặt xã hội, nghề nghiệp hay sức khỏe.


Tạp chí phân loại bệnh quốc tế (ICD-10), do Tổ chức Y tế Thế giới xuất bản, sử dụng thuật ngữ “việc sử dụng có hại” để chỉ việc uống rượu tương tự như thói nghiện rượu. Việc sử dụng có hại được mô tả là “việc sử dụng các chất có tác động đến hành vi hủy hoại sức khỏe”. Sự hủy hoại đó có thể là về mặt thể chất (ví dụ như bệnh gan) hay về mặt tinh thần (chẳng hạn như trầm cảm).


“Việc sử dụng có hại” không nhất thiết là kết quả của việc uống rượu hàng ngày. Tác hại của rượu có thể là do “uống say”, chẳng hạn như uống nhiều rượu trong cùng một thời điểm. Điều này có thể dẫn đến các vụ tai nạn giao thông, bạo lực trong gia đình hay luôn nghèo túng, vv. Các trường hợp uống rượu khác chẳng hạn như phụ nữ mang thai uống rượu cũng sẽ được coi là “việc sử dụng có hại” xét về diện rộng.


Nghiện rượu

ICD – 1 mô tả thói nghiện rượu là “một loại hiện tượng tâm lý, hành vi và nhận thức trong đó đối với một cá nhân nào đó ưu tiên việc uống rượu hơn rất nhiều so với các hành vi khác mà đã từng có giá trị lớn hơn”. Vì vậy, đặc điểm chính của thói nghiện rượu là mong muốn áp đảo được uống rượu. Nếu một người đã bị đến giai đoạn nghiện rượu này thì phải được chữa trị.


Rượu, Chứng nghiện rượu và Sự nguy hại liên quan đến rượu


Rượu là loại thuốc độc hại gây ra chứng nghiện và khiến cho tâm trạng người sử dụng thay đổi. Nếu rượu được phát minh vào ngày nay, chắc chắn nó sẽ được dán mác “không thích hợp cho con người dùng”.


Chứng nghiện rượu (sự lệ thuộc vào rượu, nghiện rượu) là sự lệ thuộc có tính nghiện vào rượu với những đặc điểm nổi bật như thèm muốn(rất thèm uống rượu), mất khả năng kiểm soát (không thể dừng lại được), phụ thuộc về mặt thể chất và các triệu chứng rút thuốc và chịu được thuốc (không thấy say).


Không dễ dàng giải thích được các nguyên nhân lạm dụng và nghiện rượu. Nó thường được coi như là một “căn bệnh của sự giàu có”. Nó không phổ biến ở người bản địa cho đến khi họ rơi vào vòng thuộc địa. Ngày nay, việc lạm dụng rượu và chứng nghiện rượu là một vấn đề lớn về sức khoẻ đặc biệt là ở phương tây, nhưng ngày càng tăng ở những nước đang phát triển. Chứng nghiện rượu là một vấn đề nguy hiểm đến sự sống mà thường kết thúc bằng cái chết, đặc biệt là bệnh thận hoặc bệnh gan, chảy máu trong, suy yếu não, tự tử hoặc ngộ độc rượu. Tương tự, chứng nghiện rượu là một nhân tố chủ yếu dẫn đến các tai nạn xe cô, bạo lực và hành hung cũng như là nguyên nhân hàng đầu cho các vấn đề về y tế và thần kinh (ví dụ bệnh xơ gan, v.v…).


Chứng nghiện rượu có thể khó khắc phục hơn và gây nguy hiểm hơn sự phụ thuộc vào các loại chất gây nghiện khác. Các triệu chứng về mặt thể chất khi cai rượu được xem như tương đương với các triệu chứng khi cai nghiện heroin.


Người lạm dụng rượu trong thời gian dài có thể gặp phải chứng mê sảng (DT)


Các tác dụng về mặt y học

Các tác dụng kéo dài do nghiện rượu bao gồm:


• Sưng tuỵ


• Bệnh tim, bao gồm chứng phình động mạch


• Bệnh thần kinh hoặc thần kinh bị tổn hại


• tĩnh mạch bị giãn ra trong ống mà nối thực quản với dạ dày


• Phát sinh não và bệnh thần kinh do não


• Bệnh xơ gan, một căn bệnh mãn tính khiến cho các tế bào gan bị hư hỏng và làm cho gan mất khả năng của nó


• Buồn rầu, mất ngủ, lo lắng và tự tử


• Huyết áp cao


• Tỷ lệ mắc phải nhiều loại ung thư sẽ gia tăng, bao gồm ung thư vú


• Suy dinh dưỡng


• Hội chứng Wernicke-Korsakoff , một loại rối loạn thần kinh gây ra bởi do thiếu sinh tố B vì trong rượu nghèo chất dinh dưỡng


• Phá hỏng nghiêm trọng đến các lĩnh vực giữa cá nhân với nhau, trong xã hội và công việc bao gồm cả sự rối loạn về tình dục


Tác động xã hội

Các vấn đề xã hội phát sinh do chứng nghiện rượu có thể bao gồm mất việc, các vấn đề tài chính, các xung đột trong hôn nhân và ly dị, phạm tội chẳng hạn như lái xe khi say rượu hay rối loạn trật tự công cộng, mất nhà cửa, mất lòng kính trọng của người khác, những người nhận thức được các vấn đề đó va dễ dàng tránh được. Các nghiên cứu thấu đáo cho thấy chứng nghiện rượu ảnh hưởng không chỉ những người nghiện rượu mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến các thành viên trong gia đình họ.


Nhiều người đã không đúng khi cho rằng một khi người nghiện rượu dừng uống, mọi chuyện đều tốt đẹp. Tuy nhiên, nhiều người đã dừng uống rượu vẫn tự coi họ là những người nghiện rượu hay những người nghiện rượu đang phục hồi.


Các quan điểm chính trị về rượu và y tế cộng đồng

Khi vấn đề về rượu ảnh hưởng đến toàn xã hội, chính phủ và các nghị viện có một phần trách nhiệm trong việc xây dựng các chính sách về rượu nhằm giảm những mối nguy hại do việc uống rượu gây ra. Các quan điểm chính trị về rượu là một chủ đề không được yêu thích lắm bởi vì các hành vi thường xuyên của người uống rượu, mối quan tâm về kinh tế hay chỉ đơn giản là thực tế xã hội là một cản trở cho việc tiếp cận và hành động một cách khách quan. Biên pháp tốt nhất để giảm việc tiêu thụ rượu là tăng giá thông qua việc đánh thuế, nơi cung cấp( ít điểm bán hàng hơn) và cấm quảng cáo. Các biện pháp phòng ngừa về mặt giáo dục đã cho thấy cách duy nhất là nâng cao nhận thức và cả sự sẵn sàng chấp nhận giá cao.


Tuy nhiên, ngành công nghiệp rượu được tổ chức tốt và cố gắng thuyết phục thế giới giảm bớt những nỗ lực đối với việc phát triển các chương trình có hiệu quả nhằm chống lại các tác hại xấu do dùng rượu.


Giờ đây họ tập trung mở rộng và thúc đẩy đối với các nước đang phát triển vì việc bán hàng ở các nước công nghiệp giờ đây đã không phát triển nữa.


Bi kịch là ở chỗ những nước này không được trang bị để chống lại các vấn đề về rượu và có rất ít mạng lưới xã hội để hỗ trợ cho các gia đình.


Tuổi trẻ – Con giết mẹ, chém anh trai ở chợ Nhật Tảo


Con giết mẹ, chém anh trai ở chợ Nhật Tảo


1g sáng ngày 2-4, lực lượng công an Q.10, TP.HCM vẫn khám nghiệm hiện trường vụ án một thanh niên giết chết mẹ ruột và chém anh trai trong chợ Nhật Tảo, phường 4).


Theo thông tin từ người dân, khoảng 23g ngày 1-4, nam thanh niên tên thường gọi là Sỉn ngụ tại nhà số 100 Nhật Tảo cự cãi với mẹ ruột của mình là bà Hòa (62 tuổi).


Khi mâu thuẫn lên đỉnh điểm, Sỉn dùng dao xông tới đâm, chém vào vùng đầu, cổ bà Hòa. Người anh trai của Sỉn tên Thông lao vào ngăn em mình thì bị Sỉn chém vào đầu.


Vợ anh Thông chứng kiến vụ việc hoảng loạn kêu cứu người dân xung quanh chợ Nhật Tảo hỗ trợ nhưng đã muộn. Bà Hòa tử vong, anh Thông được đưa đến bệnh viện cấp cứu. Sỉn bị lực lượng công an quận 10 bắt giữ ngay sau đó.


Tại hiện trường, rất đông tiểu thương trong khu vực chợ Nhật Tảo tỉnh giấc theo dõi vụ việc.


Được biết, Sỉn nghiện ma túy đá và thường xuyên về nhà xin tiền bà Hòa để tiêu xài. Mỗi khi bà Hòa không đưa tiền thì Sỉn chửi bới, la mắng mẹ mình.


Đại Việt

PNO – Nghiện rượu, chết sớm


Nghiện rượu, chết sớm

Một nghiên cứu mới, vừa được công bố trên tạp chí Alcoholism: Clinical & Experimental Research (Mỹ), ngày 16/10/2012, cho thấy rằng, tuổi thọ của những người phụ thuộc vào rượu, đặc biệt là phụ nữ có thể bị giảm một cách đáng kể, thậm chí còn giảm nhiều hơn so với người hút thuốc lá.

Ảnh minh họa:Internet

“Kết quả nghiên cứu này xác nhận mối liên quan giữa tình trạng nghiện rượu và nguy cơ chết sớm. Đồng thời, nó cũng củng cố thêm bằng chứng cho thấy, phụ nữ uống rượu thường đối diện với nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn so với đàn ông", tiến sĩ James Garbutt, giáo sư Khoa Tâm thần học tại Trường ĐH Bắc Carolina (Mỹ), người không tham gia vào nghiên cứu này, cho biết.


Trong cuộc nghiên cứu, dẫn đầu bởi Ulrich John - Giám đốc Viện Dịch tễ học và Y học xã hội tại Trường ĐH Y Greifswald (Đức), các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu của hơn 4.000 người đàn ông và phụ nữ (một phần là người Đức) và theo dõi họ trong khoảng thời gian 14 năm. Trong số này, có 153 người được xác định là phụ thuộc vào rượu.


Nhà nghiên cứu John cho biết: "Đầu tiên, chúng tôi phát hiện tỷ lệ tử vong hàng năm ở những phụ nữ nghiện rượu là 4,6 lần cao hơn và đối với đàn ông là 1,9 lần cao hơn so với những người cùng độ tuổi và giới tính không uống rượu.Thứ hai, chúng tôi thấy rằng tuổi tử vong trung bình ở những phụ nữ nghiện rượu là 60 và 58 đối với đàn ông, cả hai độ tuổi này đều thấp hơn tuổi trung bình lúc chết ở những người không uống rượu là 20 năm”.Mặc dù nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa tình trạng phụ thuộc vào rượu và nguy cơ chết sớm, nhưng nó đã không chứng minh được mối quan hệ trực tiếp giữa hai việc này, các nhà nghiên cứu cho biết.


Trọng Nguyên  (Theo Goodhealth)

SGGP – Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

Giao lưu trực tuyến về cai nghiện; phòng chống tệ nạn, tội phạm ma túy

Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

(SGGPO).- Sáng nay, 24-12, Báo SGGP phối hợp với Công an TPHCM và Sở LĐTB-XH TPHCM tổ chức giao lưu trực tuyến với bạn đọc xung quanh việc thực hiện cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng theo Nghị định 94/2010/NĐ-CP của Chính phủ và công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn, tội phạm ma túy khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực từ ngày 1-1-2014.

Những vấn đề mà bạn đọc quan tâm như công tác phòng, chống tệ nạn và tội phạm ma túy; các biện pháp, phương thức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng; thủ tục, quản lý chăm sóc, giải quyết việc làm cho học viên và người sau cai nghiện...  đã được Thượng tá Võ Văn Trai, Phó trưởng Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy (PC47) Công an TPHCM; Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Sở LĐTB-XH TPHCM; Ông Nguyễn Hữu Tài, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, Sở LĐTB-XH TPHCM; Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm điều dưỡng và cai nghiện ma túy Thanh Đa (quận Bình Thạnh, TPHCM); Bà Trần Miên Trường Thủy, người đã cai nghiện ma túy thành công và đang là cán bộ quản lý học viên cai nghiện ma túy trả lời.

Sau đây là nội dung của buổi giao lưu:

Lan Ngọc - Lanngoc479@...: Tôi xin hỏi bác sĩ Duy, làm sao để nhận biết con cái, người thân  nghiện ma túy? Những biểu hiện nào cho thấy người thân mình đang nghiện?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy : Cách nhận biết người nghiện ma túy: bạn có thể tham khảo các triệu chứng người nghiện ma túy trên địa chỉ www.cainghienmatuythanhda.com.vn

Vanthanhtung - Vanthanhtung…@gmail.com: Chào chị Thủy. Chị sử dụng ma túy khoảng bao nhiêu năm? Sao chị lại bỏ được nó? Yếu tố hay điều gì tác động đã giúp chị cai nghiện thành công?

- Bà Trần Miên Trường Thủycán bộ quản lý học viên cai nghiện ma túy, Trung tâm Cai nghiện ma túy Đức Thanh Tâm: Chào bạn, tôi sử dụng ma túy được 17 năm, đến năm 1987 thì bỏ được. Tôi nghĩ để bỏ được ma túy thì phải có nghị lực. Lúc đó, mình đấu tranh rất nhiều: mình sống vì ai đó và mình phải có sự hy sinh vì người ấy! Tất cả những điều đó, tôi đã đấu tranh rất nhiều để thắng được ma túy.

Phùng Quang Kiên - phamquangkien@...com: Chúc mừng chị Thủy. Chị Thủy ơi, mong chị chia sẻ thắc mắc này của tôi. Tôi nghe nói, người đã từng nghiện ma túy thì… nhạy với ma túy lắm. Người bình thường đi qua một địa điểm, một quầy tạp hóa có “hàng” thì không biết nhưng người đang sử dụng hoặc đã từng sử dụng ma túy thì biết ngay?

Bà Trần Miên Trường Thủy: Tôi rất khó diễn đạt thế nào để bạn hiểu được. Theo tôi nghĩ, đó là một cảm giác quen thuộc, rất nhạy cảm ở người đã từng nghiện ma túy. Tôi bỏ rất lâu rồi, nhưng khi đi qua một điểm bất kỳ nào đó, tự dưng tôi có linh cảm nơi này có "hàng". Vì có một đặc thù riêng mà chỉ có người đã từng sử dụng hoặc đang sử dụng mới... nhận ra.

Các vị khách mời đang trả lời câu hỏi của bạn đọc.

Lệ Thủy - lethuy…@gmail.com: Thưa bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, đâu là những khó khăn trong quá trình giúp người nghiện ma túy cai nghiện?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng và cai nghiện ma túy Thanhh Đa: Vì người nghiện ma túy khi sử dụng ma túy đã bị tổn thương hệ thống não bộ, rối loạn xuống cấp nhận thức hành vi nhân cách và luôn ở tâm trạng đói ma túy trường diễn. Ngoài ra người nghiện còn bị chấn thương tâm lý, nội tâm đầy phức tạp và đầy mâu thuẫn với chính bản thân, gia đình và xã hội. Để phục hồi những vấn đề trên đòi hỏi một liệu pháp tổng hợp lâu dài bởi những chuyên viên được đào tạo bài bản về ma túy. Ngoài ra, khi trở về cộng đồng nếu còn bị tác động xấu do gia đình và xã hội, bạn bè xấu lôi kéo sẽ rất dễ bị tái nghiện. Điều trị cho người nghiện ma túy phải hiểu rằng: Không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện mà chỉ có những nguyên tắc căn bản về điều trị - giáo dục - quản lý đối với người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này chưa hẳn đã phù hợp với người khác mà thậm chí kết quả còn ngược lại.

Trừ một số ít trường hợp nghiện nhẹ, điều trị nghiện ma túy phải sử dụng một liệu pháp tổng hợp, linh hoạt và kịp thời nhằm mục đích gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giải tỏa các chấn thương tâm lý và để người cai nghiện không còn thèm nhớ ma túy phải sử dụng các liệu pháp sau:

Tư vấn – Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Liệu pháp xã hội - Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu – Hoạt động trị liệu – Sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình,…

Đối với nhóm người nghiện Á phiện - Morphine - Héroine (OMH) cần phải uống thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ ma túy. Tuy nhiên, nếu chỉ uống thuốc Naltexone đơn thuần mà không sử dụng các liệu pháp trên, người cai nghiện sẽ không được phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách – giải quyết các chấn thương tâm lý nên dễ bỏ chương trình điều trị và dễ tái sử dụng ma túy. Kết quả điều trị do đó sẽ rất hạn chế.

Không có một liệu pháp đơn thuần nào (uống thuốc, châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật thùy não,…) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy.

Chương trình điều trị phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy giải quyết– nhưng phải phối hợp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.

Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.

Tkhhoang.khanh -  Tkhhoang.khanh@..: Nếu tôi gửi con vào trung tâm Thanh Đa chữa trị, trung tâm có báo cho cán bộ phường nơi gia đình tôi ở biết không?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Theo Luật Phòng chống ma túy, tất cả người nghiện phải được quản lý tại địa phương, các trung tâm cai nghiện tự nguyện hoặc tại các trung tâm cai nghiện ma túy bắt buộc. Người nghiện ma túy và gia đình có trách nhiệm phải báo cáo tình trạng nghiện và đăng ký hình thức cai nghiện với địa phương.

nguyentruongtan - nguyentruongtan@....vn: Trung tâm Thanh Đa có chính sách ưu tiên gì cho người bệnh không? Nếu có, người bệnh thuộc diện nào mới được hưởng những chính sách ấy?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Trung tâm có nhiều hỗ trợ cho các gia đình khó khăn và diện chính sách. Sự hỗ trợ dựa trên cơ sở hoàn cảnh gia đình của từng đối tượng.

Phung Thi Lien - quận Gò Vấp: Con trai tôi 19 tuổi, dạo này cháu có một số biểu hiện bất thường. Cháu thường ở lì trong phòng và không thân mật với những thành viên trong gia đình như trước kia. Đối chiếu với những biểu hiện về người nghiện ma túy như bác sĩ nêu ở trên, tôi thấy hơi lo về con mình. Bây giờ tôi phải làm sao? Cháu thường không nghe lời khuyên của gia đình, hoặc giả vờ nghe rồi tự làm theo ý mình, vậy bây giờ chúng tôi làm thế nào để định hướng và can thiệp giúp đỡ cháu?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Gia đình nên đưa cháu đến các trung tâm cai nghiện để xét nghiệm nước tiểu, xem cháu có sử dụng ma túy không. Nếu cháu không sử dụng ma túy thì phải đưa cháu đến các nhà tư vấn tâm lý giáo dục để giúp đỡ và theo dõi cháu kịp thời. Nếu cần thiết, phải đến bác sĩ tâm thần.

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy, Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng và cai nghiện ma túy Thanhh Đa.

Giangoha - Giangoha2409@...: Thưa bác sĩ Khánh Duy, nếu một người đã điều trị ở trung tâm 1 tháng, 2 tháng, 6 tháng, 1 năm rồi về nhà; sau 5 năm thì tỉ lệ thành công khoảng bao nhiêu?

- Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Về thời gian cai nghiện lý tưởng là 2 năm. Cai nghiện tạm gọi là thành công sau 5 năm về với cộng đồng chưa tái nghiện, còn cai nghiện thì phải suốt đời. Người cai nghiện tái nghiện vì nhiều lý do liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội.

tranhao - tranhao……@yahoo.com.vn: Con tôi nghiện ma túy từ mấy tháng nay, tôi sợ cháu đói thuốc sẽ sinh ra làm liều (cướp giật, trộm cắp…) nên tạm thời vẫn… chu cấp cho cháu tiền mua thuốc hàng ngày. Tôi nghe nói có thể cai nghiện tại gia. Vậy gia đình tôi làm thế nào để cai nghiện tại gia được cho cháu? Có phải xiềng xích cháu không? Chúng tôi không báo chính quyền địa phương mà tự cai cho cháu có được không?

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng, Chi cục phó Chi cục Phòng, Chống tệ nạn xã hội: Theo báo cáo của các quận huyện, hiện nay, hầu hết các phường, xã thị trấn trên địa bàn thành phố đã thành lập Tổ công tác cai nghiện ma tuý. Nhiệm vụ của Tổ công tác là hướng dẫn, tư vấn và tiếp nhận đăng ký cai nghiện cho người nghiện và gia đình người nghiện. Do đó đề nghị gia đình liên hệ Tổ công tác cai nghiện nơi gia đình cư trú để được hướng dẫn. Gia đình nên hợp tác và khai báo với chính quyền địa phương để hỗ trợ cai nghiện cho người thân.

bacthangban - bacthangban….@gmail.com: Tôi theo dõi thì thấy số lượng vụ việc, vụ án ma túy đang tăng dần từng năm, năm nay đã hơn 1.700 vụ, và tổng số vụ trong mấy năm trở lại đây đang gần xấp xỉ, tương đương với thời trước Nghị quyết 16. Công an TPHCM đánh giá tình hình trên thế nào?

Thượng tá Võ Văn Trai, Phó Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an TPHCM: Năm 2013, Công an thành phố phát hiện 1885 vụ (tăng 9,4%) cho thấy tội phạm ma tuý tiếp tục diễn biến phức tạp. Nhu cầu sử dụng ma tuý còn cao, cần phải có sự chung tay góp sức của toàn xã hội trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý theo Chỉ thị 21 của Bộ Chính Trị, trong đó ngành Công an chúng tôi với vai trò chủ công sẽ quyết liệt hơn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.   

cudanquan8 - cudanquan8……@yahoo.com: Thành phố có 6.000 người sau cai nhưng thực chỉ quản lý được 3.000 người, vậy 3.000 người còn lại, họ đi đâu? Vì sao lại chưa quản lý được họ?

Ông Nguyễn Hữu Tài - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH: Theo báo cáo của các quận huyện, đến ngày 30-11, trên địa bàn thành phố có 6690 người được quản lý sau cai nghiện về địa phương trình diện. Trong đó, có 3513 người sau cai nghiện biến động giảm, với lý do: tử vong, đưa vào cơ sở chữa bệnh, xử lý hình sự và di chuyển về tỉnh, thành phố khác sinh sống và có 1152 người đủ 24 tháng được đưa ra khỏi danh sách quản lý sau cai nghiện.

Ông Nguyễn Hữu Tài, Chi cục phó Chi cục Phòng, Chống tệ nạn xã hội.

Le da -  Leda2003@...com: Chào chị Thủy, chị cho tôi hỏi, chơi ma túy, chị được và mất gì? Tính tình, hình thức của chị có… thay đổi gì không? Kỷ niệm nào chua xót, đau khổ nhất của chị trong thời gian chị lệ thuộc vào ma túy?

Bà Trần Miên Trường ThủyTôi thấy, sử dụng ma túy mất nhiều hơn được. Bản thân người sử dụng ma túy trước hết đánh mất bản thân, gia đình và tương lai. Còn được là cảm giác "phê" song đó chỉ là cảm giác phê nhất thời. Rồi sau đó, lập tức phải trả giá rất đắt như trên tôi đã nói. Về tính tình, người sử dụng ma túy trở nên cộc cằn, vô cảm, chỉ biết sống cho bản thân chứ không quan tâm đến người thân, bạn bè. Về hình thức, diện mạo nhanh chóng bị tàn tạ, mang trong mình nhiều bệnh như viêm gan B, C - vốn lây qua đường máu.

Tôi có một kỷ niệm, nó là nỗi đau, là vết thương nằm sâu trong tim vẫn nhức nhối bao nhiêu năm nay, mỗi khi tôi bất chợt nghĩ về nó. Có cảm tưởng nó như một câu chuyện vừa xảy ra hôm qua. Khi đó tôi đang "phê", còn gia đình thì vượt biên, mất tích. Bạn bè tôi đến báo: "cha mẹ mày mất tích, mày biết tin chưa Thủy?" Nghe vậy, tôi chỉ buông một câu: "thế à" rồi tiếp tục chìm trong khói thuốc. Bao nhiêu năm nay, mỗi khi khơi lại, nghĩ về gia đình, tôi cảm thấy hối hận và đau đớn như một vết thương không bao giờ lành được.

minhhiep -  minhhiep…..@yahoo.com.vn: Hiện nay có bao nhiêu biện pháp, phương thức cai nghiện ma túy? Xin giúp tôi phân biệt rõ trường hợp nào thì cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng và cai ở trung tâm?

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH:Theo nghị định 94/2010/NĐ-CP, có 3 hình thức cai nghiện:

1. Cai nghiện tự nguyện tại gia đình: đối với các trường hợp là người nghiện ma tuý đang cư trú tại cộng đồng tự giác khai báo và tự nguyện đăng ký cai nghiện tại gia đình.

2. Cai nghiện tự nguyện tại cộng đồng: Dành cho người nghiện ma tuý đang cư trú tại cộng đồng tự nguyện đăng ký cai nghiện nhưng không có điều kiện điều trị cắt cơn tại gia đình.

3. Cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng: Là người nghiện ma tuý đang cư trú tại cộng đồng nhưng không tự giác khai báo và không tự nguyện đăng ký cai nghiện tại gia đình và cộng đồng.

Việc cai nghiện bắt buộc tại trung tâm được áp dụng đối với các trường hợp người nghiện ma tuý đã qua biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn mà vẫn còn nghiện thì địa phương sẽ lập hồ sơ, thủ tục để đưa đi cai nghiện bắt buộc theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng, Chi cục phó Chi cục Phòng, Chống tệ nạn xã hội.

minhngoc - minhngoc…..@gmail.com: Tôi nghe nói chưa có thuốc để chữa trị người nghiện “hàng đá”? Vậy hiện nay TP đang điều trị người nghiện ma túy tổng hợp như thế nào?

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: người nghiện hàng đá ngoài bị tổn thương hệ thống não bộ còn bị các bệnh tâm thần, rối loạn xuống cấp nhận thức hành vi nhân cách. Cho đến nay, chưa có thuốc đặc trị hỗ trợ chống tái nghiện cho hàng đá. Nguyên tắc điều trị là:

Phương pháp điều trị:

+       Điều trị hội chứng cai - giải độc - chống tái nghiện

+       Các rối loạn loạn thần do Amphetamin

+       Trầm cảm, ủ rũ…LQ Amphetamin

+       Phương pháp dựa trên cộng đồng

1. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI - GIẢI ĐỘC - CHỐNG TÁI NGHIỆN:

- Lệ thuộc về cơ thể ở nghiện Amphetamin không nặng như nghiện chất ma túy khác (Opiod…).

- Việc tái nghiện vẫn rất phổ biến vì tác động trên tâm thần của thuốc rất mạnh tăng thêm sau mỗi lần dùng => “đói chất ma túy trường diễn” trong não.

- Điều trị hội chứng cai và chống tái nghiện cần phải phối hợp nhiều liệu pháp: hóa dược, tâm l‎ý cá nhân, gia đình, nhóm, lao động, tái thích ứng cộng đồng…

- Cần thiết lập tốt mối quan hệ điều trị sau cai để giúp giải quyết các rối loạn trầm cảm, nhân cách…kéo dài.

- Điều trị bằng thuốc để giải độc có thể dùng:

§  Chất đồng vận hệ Dopamine như:

+ Amantadine 100mg x 2 lần/ngày…

+ Bromocripxine 2,5mg x 2 lần/ngày…

§ Thuốc chống trầm cảm 3 vòng

§  Các thuốc chỉnh khí sắc; carbamazepine…

2. ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:

- Các rối loạn, loạn thần sẽ thoái triển một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụng Apx.

Rối loạn, loạn thần nặng có thể dùng các thuốc đặc hiệu: các ATK (Haloperiol, Phenothianol,…)

- Thuốc giải lo âu: Benzodiazepine… thường cần sử dụng trong một thời gian ngắn (7 ngày).

3. ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM, Ủ RŨ:

- Cân nhắc chọn loại thuốc chống trầm cảm (có thể dùng chống trầm cảm 3 vòng).

+ Có thể dùng từ giai đoạn điều trị giải độc

+ Cân nhắc điều trị duy trì nếu kéo dài.

 PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN CỘNG ĐỒNG:

4.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”

- Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.

- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

4.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:

-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).

-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).

-  Không tiêm chích ma túy

-  Nếu tiêm chích, không chích chung.

-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

4.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).

- Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).

- Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

4.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:

- Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).

- Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).

- Ổn định vể tâm l‎ý xã hội: Giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).

- Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:

- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.

- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.

- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

4.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:  

- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng đồng.

- Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp.

- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại.

- Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích.

- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.

- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

Quang cảnh buổi giao lưu.

Hinhvan - Hinhvan.truong@...com: Đâu là những điểm mà gia đình và người nghiện ma túy phải lưu ý, quyết tâm để cai nghiện thành công?

- Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Phải luôn luôn đặt nặng công tác phòng bệnh là chính, khi trẻ lớn lên phải được giáo dục, chăm sóc, theo dõi trong mọi sinh hoạt, học tập và quan hệ bạn bè, đừng để các cháu dính vào ma túy rồi mới nghĩ đến các biện pháp điều trị. Để cai nghiện một người nghiện ma túy phải khoa học, có quyết tâm, kiên trì và thương yêu giúp đỡ người bệnh.

Một bạn đọc - Tttk1982@...: Xin chị Thủy cho biết, bỏ được ma túy rồi khi gặp lại bạn bè cũ – những người đã rủ rê chị hút chích, chị từ chối ra sao để không phật ý họ mà họ cũng thấy được quyết tâm của mình?

Bà Trần Miên Trường Thủy: Thật sự khi mình bỏ được ma túy thì mình cần học thêm kỹ năng từ chối mà không mất lòng bạn. Chẳng hạn, tôi bỏ lâu rồi và khi gặp một người bạn rủ hút, mình cứ tự tin nhìn thẳng vào mắt họ và kiên quyết trả lời: "Không. Vì sử dụng chỉ phê nhất thời, ngày mai sẽ buồn hơn. Tao đã trả một giá quá đắt cho cuộc đời để có ngày hôm nay. Cám ơn mày, tao đi nha". Đó là sự trả lời kiên quyết, kỹ năng từ chối tự tin, kiên định.

Dang Manh - quận Bình Tân:  Vì sao người nghiện ma túy ngày càng trẻ hóa? Vậy có nghĩa là người đứng tuổi trở đi thì… ít bị nghiện?

- Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Người nghiện càng ngày càng trẻ hóa vì các lý do sau:

- Trẻ em hiện nay tiếp cận xã hội sớm hơn. Phương tiện điều kiện sinh hoạt khá giả, đầy đủ hơn trước, được cha mẹ chiều chuộng nhưng ít quan tâm hơn trước vì lý do kinh tế.

- Người đứng tuổi hơn ít bị nghiện vì đã đụng chạm với cuộc sống, trình độ, bãn lĩnh vững vàng hơn nên ít bị cám dỗ và có nhiều nghị lực hơn để đối phó khi bị lôi cuốn, đồng thời người nghiện ma túy còn trách nhiệm với gia đình, vợ chồng, con cái nên phải căn nhắc hơn.

Ydan - ydan….@yahoo.com: Thành phố bắt nhiều vụ ma túy nhưng chủ yếu là những vụ nhỏ lẻ, còn những đường dây lớn thì sao?

- Thượng tá Võ Văn Trai - Phó Trưởng Phòng CSĐTTPVMT - Công an TPHCM: Năm 2013 Phòng CSĐTTPVMT, Công an TPHCM khám phá trên 22 vụ án, bắt trên 110 đối tượng, thu giữ hơn 18kg ma túy tổng hợp và 26,6kg heroin. Như vậy chúng tôi cũng đã phát hiện nhiều đường dây có quy mô lớn.

Thượng tá Võ Văn Trai, Phó Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an TPHCM.

tung.dinh -  tung.dinh@...com: Sau khi cai nghiện về, hồ sơ xin việc, giấy tờ cá nhân của chị Thủy có bị gán nhãn là người sau cai hay không? Chị Thủy đi xin việc thấy có gặp khó khăn gì không? Những người từng lầm lỡ như tôi thì làm sao lấy được lòng tin của ông chủ công ty, doanh nghiệp?

Bà Trần Miên Trường Thủy: Sau khi chữa bệnh xong, năm 1993, tôi có thi vào Ủy ban Phòng chống AIDS TPHCM làm giáo dục viên đồng đẳng, tuyên truyền tác hại của ma túy và lây nhiễm HIV/AIDS. Lúc đó, rất nhiều người và cơ quan chính quyền khó chấp nhận nhưng tôi luôn tự tin, tiếp tục làm dù gặp rất nhiều rào cản. Mình có một quá khứ không tốt, nhưng hiện tại mình làm tốt từ từ họ cũng sẽ hiểu ra và chấp nhận mình thôi. Chẳng hạn như tôi hiện nay, rất thoải mái, tự tin khi gặp, chia sẻ với mọi người.

thoithinh - thoithinh…@yahoo.com: Nếu như coi nghiện ma túy là một căn bệnh, người nghiện ma túy là người bệnh. Vậy tại sao không đơn thuần chữa bệnh chỉ bằng các loại thuốc?

- Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Chữa bệnh nghiện ma túy phải bằng một liệu pháp tổng hợp bao gồm thuốc và các liệu pháp điều trị không dùng thuốc như: tư vấn, tâm lý trị liệu, giáo dục trị liệu, hoạt động trị liệu, các phương pháp nâng cao bản lĩnh và kỹ năng sống như tư duy tích cực, làm chủ bản thân, giá trị sống và học tập được các kỹ năng để nâng cao để đối phó với các tình huống xấu lôi kéo đối tượng trở lại với con đường nghiện.

truonggiahuy - truonggiahuy…@gmail.com: Phường tôi, trạm y tế rất cũ kỹ, lạc hậu và nghe nói còn chưa có bác sĩ nữa, vậy trạm y tế có thể cai nghiện cho con tôi không?.

Bác sĩ Nguyễn Hữu Khánh Duy: Trên quan điểm chúng tôi, cai nghiện ma túy tại các phường xã sẽ có rất ít kết quả.

Caovan -  caovan@...com: Tôi vừa ở trường cai nghiện về và vẫn ở nhà, chưa đi làm. Những khi ló đầu ra ngoài, mua đồ ăn, sửa xe… chẳng hạn, tôi cứ thấy nhột nhột sao ấy. Không biết người ta đang nhìn mình bằng một con mắt khác hay tự mình cảm thấy vậy? Làm sao để không còn cảm giác ấy?

Bà Trần Miên Trường Thủy: Như trên tôi đã trả lời, hãy xóa bỏ mặc cảm, quá khứ của mình để làm tốt cho mọi người thấy. Và bạn hãy luôn tự tin mình sẽ làm được, sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Bạn không nên ôm lấy quá khứ không tốt vào mình khi mình đã, đang quyết tâm dứt bỏ.

Oidoitoi - Oidoitoi_bst@...: Chị Thủy làm sao để vượt qua cơn thèm nhớ ma túy? Sau khi cai nghiện khoảng 5 năm, 10 năm thì có còn thèm nhớ ma túy nữa không?

- Bà Trần Miên Trường Thủy: Thật ra, hiện tại đối với ma túy, tôi không còn cảm giác nữa. Có thể, tôi đã trả giá quá đắt, đã thấm tận cùng cái nỗi đau mà tôi đã gánh chịu. Muốn vượt qua cơn thèm nhớ, chỉ có nghị lực, vì khi cơn thèm muốn đến như một cơn sóng biển ào đến trong chốc lát rồi lại trôi ra biển. Lúc đó, mình hãy tìm một ý tưởng, một trò chơi, một hoạt động bất kỳ nào đó lành mạnh hơn để xua tan những suy nghĩ ấy.

Vanduc -Vanduc…@yahoo.com: Được biết chị Thủy đang quản lý học viên cai nghiện ma túy. Trong quá trình làm việc, chị thường chia sẻ điều gì với học viên mình quản lý?

Bà Trần Miên Trường Thủy: trong quá trình làm việc, tôi thường chia sẻ sử dụng ma túy được gì mà mất gì? Tôi đặt ra câu hỏi cho mỗi bạn tự suy nghĩ: Tại sao mình chưa dứt bỏ được ma túy? Tại sao mình cứ tái nghiện hoài? Muốn có nghị lực thì bạn phải làm gì? Và tôi thường chia sẻ những trải nghiệm cuộc sống của chính mình cho các bạn hiểu thêm. Thường thì những người sử dụng hay bị cảm xúc đánh lừa là bỏ được một thời gian rồi thì một mũi chẳng là gì cả. Câu nói cửa miệng: "mũi này, mũi nữa, mũi giữa, mũi bìa..." nhưng thực chất là sẽ nghiền lại luôn. Người sử dụng ma túy luôn bị lệ thuộc vì chơi cữ sáng thì lo cữ trưa, rồi lại lo tiếp cữ chiều, lại lo cữ tối rồi sáng ngày mai. Cứ vậy, đứng trong vòng luẩn quẩn không thể nào dứt ra được. Thậm chí, tôi biết có nhiều người muốn thoát ra nhưng sợ "vã" (sợ đau đớn thể xác)và không có nghị lực.

Levanthong - Levanthong…@yahoo.com.vn: Xin chị Thủy chia sẻ đôi chút về gia đình mình? Hiện chị đang ở với ai? Có khi nào chị nghĩ sẽ mang những điều sâu kín nhất của mình nói với người thân yêu nhất của mình?

 Trần Miên Trường Thủy: Hiện tại, tôi sống cùng gia đình. Điều tôi quan tâm nhất là con mình. Tôi thường nói với con mình những điều xảy ra cho mẹ, mẹ muốn chia sẻ với con, đừng - bao - giờ tìm cách thể hiện mình như cách mẹ nó đã "thể hiện" ngày xưa.

Bà Trần Miên Trường Thủy, cán bộ quản lý học viên cai nghiện ma túy, Trung tâm Cai nghiện ma túy Đức Thanh Tâm.

Thuyhuong -Thuyhuong092@yahoo...: Ở khu vực tôi ở (phường 12, quận 8), người dân thấy có nhiều đối tượng khả nghi có biểu hiện buôn bán ma túy. Chúng tôi muốn tố giác với công an nhưng lại sợ mình bị liên lụy. Công an có biện pháp gì tiếp nhận tin tố giác và bảo vệ người dân chúng tôi không?

Thượng tá Võ Văn Trai - Phó Trưởng Phòng CSĐTTPVMT - Công an TPHCM: Lực lượng Công an luôn luôn hoan nghênh người dân tố giác tội phạm. Ngành Công an có quy định về trách nhiệm tiếp nhận và xử lý tin báo tố giác tội phạm, do đó người dân hoàn toàn an tâm báo tin, tố giác tội phạm với bất kỳ hình thức nào (như gọi điện thoại đến đường dây nóng hoặc gửi đơn tố giác hoặc trực tiếp đến cơ quan Công an) ở bất kỳ đơn vị chuyên trách nào của Công an (Công an Xã-Phường, Quận-Huyện hoặc là Phòng CSĐTTPVMT) đều được chúng tôi tiếp nhận và xử lý thông tin theo đúng quy định của pháp luật và của ngành. Trách nhiệm đảm bảo tuyệt đối bí mật về nguồn thông tin luôn được chúng tôi tuân thủ và đây là nguyên tắc làm việc của chúng tôi, tùy theo từng trường hợp cụ thể về người tố giác và nội dung tin báo, chúng tôi sẽ có những biện pháp bảo vệ phù hợp, mong mọi người yên tâm hợp tác với chúng tôi.

tranminhtam -tranminhtam…..@gmail.com: Người cai nghiện ma túy tự nguyện có được chăm sóc tốt hơn người cai nghiện bắt buộc không? Nếu cai nghiện tự nguyện thì sẽ… cai ở đâu?

Ông Nguyễn Hữu Tài - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH: Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các quy trình điều trị, tư vấn rèn luyện nhân cách nhằm giúp cho người nghiện ma túy phục hồi sức khoẻ, nhận thức được hành vi, nhân cách; từng bước hòa nhập với cộng đồng. Do đó, việc cai nghiện ma túy tự nguyện hay bắt buộc đều phải áp dụng các quy trình cai nghiện do cơ quan nhà nước ban hành và được áp dụng thống nhất trong các hình thức cai nghiện ma túy.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố có trung tâm tư vấn và cai nghiện ma túy thuộc Sở LĐTB & XH được UBND TPHCM cho phép thực hiện thí điểm mô hình điều trị nghiện ma túy mở với các hình thức điều trị bán trú, ngoại trú cho người cai nghiện tự nguyện.

Đề nghị gia đình liên hệ: Trung tâm tư vấn cai nghiện ma túy

15/11 Quốc lộ 13, P. Hiệp Bình Chánh, Q. Thủ Đức

ĐT: (08) 37 266 706 - 37 268 691

thanhtam - thanhtam……..@yahoo.com.vn: Trạm y tế phường tôi thường rất nhiều trẻ em đến chích ngừa hàng tháng, tôi không yên tâm nếu sắp tới trạm y tế lại cắt cơn, giải độc cho người nghiện ma túy ở ngay trạm y tế. Vậy các cấp chính quyền có tính đến phương án bảo vệ, bài toán an toàn cho người dân và trẻ em ra vào trạm y tế?

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH:Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BCA, có quy định về điều kiện thành lập cơ sở điều trị cắt cơn: Phải xây dựng thành khu liên hoàn, cách ly với môi trưòng bên ngoài để tránh thẩm lậu ma tuý và tối thiểu phải có 3 phòng chức năng (phòng khám và cấp cứu, phòng lưu bệnh nhân, phòng thường trực của cán bộ y tế và bảo vệ). Trường hợp không thành lập được cơ sở điều trị cắt cơn riêng biệt theo quy định thì được phép kết hợp với các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội, các cơ sở điều trị khác được thành phố cấp phép để thực hiện việc hỗ trợ và điều trị cắt cơn cho người nghiện ma tuý tại cộng đồng.

lethithuy - lethithuy……@yahoo.com: Nhà tôi ở huyện Bình Chánh, tôi muốn cai nghiện cho con tôi tại gia đình nhưng không biết làm thế nào, tôi có thể tìm sự hỗ trợ ở đâu? Có bệnh viện, trung tâm nào ở TP có bác sĩ đến nhà giúp chữa trị cho con tôi không? Nếu có thì chi phí như thế nào?

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH:Mời chị liên hệ với Trung tâm tư vấn cai nghiện ma túy mà chúng tôi đã gợi ý ở phần trả lời trước để được tư vấn trực tiếp về cách thức và chi phí điều trị.

Lê Trung Sơn - ngụ đường Âu Cơ, quận Tân Bình: Đồng chí Võ Văn Trai đã từng nói, do yêu cầu của công tác nên chưa thể đưa ra những tấm gương điển hình giúp CA triệt phá tệ nạn, tội phạm ma túy. Vậy, Công an TPHCM ghi nhận sự đóng góp của người dân như thế nào? Công an TPHCM làm gì để phát huy vai trò của nhân dân trong phòng chống, ma túy?

- Thượng tá Võ Văn Trai - Phó Trưởng Phòng CSĐTTPVMT - Công an TPHCM: Công an thành phố luôn luôn ghi nhận những đóng góp của người dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các cấp lãnh đạo luôn quan tâm kịp thời khen, thưởng các trường hợp, các điển hình tham gia phòng chống tội phạm. Tuy nhiên việc vinh danh các cá nhân chưa nhiều do yêu cầu của chính cá nhân điển hình và gia đình của họ, đồng thời chúng tôi cũng thực hiện nguyên tắc bảo vệ tuyệt đối an toàn cho những người dân tố giác tội phạm.

tranminh - -tranminh….@yahoo.com: Tôi xin hỏi 2 nội dụng: - TP đã xã hội hóa trong công tác cai nghiện như thế nào, kết quả cụ thể ra sao? Việc xã hội hóa có gặp khó khăn gì không? - Cán bộ ở cơ sở chữa bệnh có được luân chuyển thường xuyên không? Sau khi công tác ở các tỉnh xa, có được tạo điều kiện hay ưu tiên gì để chuyển công tác về thành phố không? Tôi nghĩ, nếu cứ ở hoài ở các cơ sở chữa bệnh thì thật thiệt thòi cho những cán bộ này và gia đình họ nữa?

Ông Nguyễn Hữu Tài - Phó chi cục trưởng Chi cục PCTNXH: Thực hiện chủ trương xã hội hóa các mô hình cai nghiện ma túy hiện nay trên địa bàn thành phố, ngoài các trung tâm cai nghiện bắt buộc còn có 3 trung tâm cai nghiện ma túy tư nhân được Bộ LĐTBXH cấp phép (có trụ sở đóng trên địa bàn quận Bình Thạnh) tiếp nhận người nghiện đến cai nghiện tự nguyện có thu phí và Trung tâm tư vấn và cai nghiện ma túy thực hiện đề án "thí điểm điều trị lệ thuộc ma túy tại cộng đồng giai đoạn 2012-2015" nhằm tiếp nhận người nghiện tự nguyện đến tham gia điều trị bán trú, ngoại trú. Đây là bước khởi đầu rất quan trọng cho việc nâng cao nhận thức vai trò của bản thân người nghiện và gia đình họ, thấy được sự quan tâm của chính quyền địa phương trong việc tổ chức cai nghiện tại gia đình và cộng đồng. Việc xã hội hóa mới được áp dụng chưa lâu nên hiện tại chúng tôi chưa ghi nhận nhiều khó khăn.

Cán bộ làm công tác cai nghiện được thành phố hỗ trợ, ngoài chế độ lương còn có một số chế độ đặc thù khác. Vì thế, đời sống của cán bộ làm công tác này cũng đỡ được phần nào. 

Lethingoc -  Lethingoc……gmail.com: Gia đình có con cái nghiện là họ giấu không cho ai biết, vậy làm sao chúng ta biết để giúp họ cai nghiện?

Bà Nguyễn Thị Hồng Phượng: Đa phần do sợ kỳ thị nên một số gia đình có người thân nghiện ma túy họ không dám khai báo. Để giúp người dân hiểu rõ hơn về các hình thức cai nghiện tự nguyện tại gia đình và cộng đồng theo Nghị định 94/2010, địa phương cần tăng cường các hình thức tuyên truyền thông tin đến tận khu phố, tổ dân phố để người dân được biết và cùng tham gia.

Nguyễn Văn Tân - quận Gò Vấp, TPHCM: Tôi có câu hỏi gửi đồng chí đến từ Công an TPHCM. Xin hỏi đồng chí, cảm xúc của đồng chí như thế nào khi cơ quan chức năng Đài Loan phát hiện ra lô ma túy 600 bánh xuất phát từ TPHCM? Công an TPHCM sẽ có biện pháp gì để không tái diễn chuyện đáng tiếc đó?

Thượng tá Võ Văn Trai - Phó Trưởng Phòng CSĐTTPVMT - Công an TPHCM: Cũng như các bạn, ngành Công an thành phố cũng rất bức xúc khi để vụ việc xảy ra trên địa bàn mình quản lý. Tuy nhiên thành phố Hồ Chí Minh là đô thi đặc biệt với khoảng 10 triệu dân và tình hình ANTT còn phức tạp, đòi hỏi chúng tôi phải liên tục nỗ lực để kiềm chế, kéo giảm tội phạm (trong đó có tội phạm ma tuý), bảo vệ bình yên cho TPHCM. Về vụ việc này, Công an TPHCM cũng đã có những xử lý cụ thể trong thẩm quyền và hiện các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ. Chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm về công tác phối hợp để không xảy ra trường hợp tương tự. Chúng tôi tiếp tục mong người dân hợp tác với chúng tôi phát hiện tội phạm.

TBT Báo SGGP Nguyễn Tấn Phong (giữa) tặng hoa các vị khách mời tham gia buổi giao lưu.

SGGP Online
Ảnh: Việt Dũng

Nghiên cứu thực trạng tái nghiện rượu giai đoạn 2006 – 2010

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TÁI NGHIỆN RƯỢU

TRÊN NHỮNG BỆNH NHÂN NGHIỆN RƯỢU

ĐÃ ĐIỀU TRỊ TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN

GIAI ĐOẠN 2006 - 2010


Tóm tắt:

Mục tiêu: Mô tả thực trạng tái nghiện rượu trên những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần (VSKTT) giai đoạn 2006 - 2010 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu ở những bệnh nhân trên.
Đối tượng và phương pháp : Nghiên cứu mô tả các bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại VSKTT - giai đoạn 2006 - 2010, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Thời gian nghiên cứu: 04 - 08/2011.
Kết quả và kết luận: 62,8% đối tượng nghiên cứu đã tái nghiện rượu trong thời gian 12 tháng sau điều trị tại VSKTT, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong 3 tháng đầu sau điều trị (42,9 %). Trong nhóm đối tượng tái nghiện rượu, phần lớn có số lần cai nghiện từ 4 lần trở lên (51,9%); lượng rượu uống trung bình trong ngày, tính theo đơn vị rượu chuẩn: 15,01±13,54; rượu trắng 30-400 là loại rượu sử dụng phổ biến nhất. Lý do tái nghiện rượu chủ yếu là thèm nhớ (61,9%). 74,1% đối tượng tái nghiện rượu hút thuốc lá thường xuyên. Rối loạn trầm cảm làm tăng tỷ lệ tái nghiện rượu. Việc điều trị chống tái nghiện rượu chưa được hướng dẫn và chưa có hệ thống , hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao.


I. Đặt vấn đề


Lạm dụng và nghiện rượu làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tật, tai nạn thương tích và ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm ( 2005) lạm dụng rượu chiếm 4% gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Chi phí để giải quyết các hậu quả do rượu gây ra  ở Anh và Nhật Bản chiếm khoảng 6 tỷ USD/năm, ở Mỹ con số này là 190 tỷ USD/năm. Ở Việt Nam chi phí cho rượu hàng năm vào khoảng 6.000 tỷ đồng.


Mặc dù trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã có các chương trình tuyên truyền về tác hại của việc lạm dụng rượu cũng như áp dụng nhiều biện pháp điều trị cai nghiện và chống tái nghiện nhưng tỉ lệ lạm dụng và nghiện rượu vẫn tiếp tục gia tăng . Một phần do số người mới nghiện  tăng lên nhưng mặt khác do số người sau khi đã cai rượu, vì lí do nào đó quay trở lại sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Một số nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến vấn đề tái nghiện rượu sau cai và đều thấy rằng phần lớn những người nghiện rượu tái nghiện trong vòng sáu tháng. Việc tái nghiện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng các tác giả thường đề cập đến bốn nhóm  chính: yếu tố sinh học, các đặc điểm tâm lý cá nhân, ảnh hưởng của gia đình, xã hội và vấn đề điều trị dự phòng chống tái nghiện rượu.


Ở Việt Nam đến nay chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu sâu về vấn đề tái nghiện rượu ở những người đã được cai nghiện tại cơ sở y tế. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng tái nghiện trên những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần giai đoạn 2006 - 2010 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu ở những bệnh nhân trên.


II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu theo ICD-10F, đã được điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2006 - 2010, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Thời gian nghiên cứu: 04 - 08/2011.


- Phương pháp nghiên cứu:


+ Nghiên cứu mô tả những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện SKTT.


+ Phương pháp thu thập số liệu: Nghiên cứu bệnh án các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu đã được điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ năm 2006 đến 2010 lưu tại phòng Kế hoạch tổng hợp - Bệnh viện Bạch Mai, lựa chọn những bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn, từ địa chỉ và số điện thoại ghi trong hồ sơ bệnh án liên hệ trước với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân để hẹn phỏng vấn trực tiếp. Hướng dẫn bệnh nhân làm trắc nghiệm tâm lý: test Beck, test Zung.


+ Số liệu thu thập được phân tích và xử bằng phần mềm SPSS 16.0.


III. Kết quả


Trong giai đoạn 2006 - 2010, Viện Sức khỏe Tâm thần có 95 bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu theo ICD-10F, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Sau khi tiến hành thu thập số liệu, chúng tôi thấy có 32 bệnh nhân không liên lạc được (do địa chỉ và số điện thoại lưu trong hồ sơ bệnh án không chính xác), 5 bệnh nhân hiện không ở Hà Nội, 6 bệnh nhân không hợp tác, 2 bệnh nhân đang đi trại cai nghiện Heroin, 7 bệnh nhân đã mất và chỉ có 43 bệnh nhân được lấy vào mẫu nghiên cứu.


1. Thực trạng tái nghiện rượu


. Tỉ lệ tái  nghiện rượu: Số đối tượng tái nghiện rượu là 27/43, chiếm tỷ lệ cao 62,8%.


. Loại rượu thường sử dụng và lượng rượu uống trung bình/ngày ở nhóm tái nghiện


Bảng 1: Loại rượu bia thường sử dụng và lượng rượu uống trung bình/ngày

Loại rượu bia thường sử dụng

Tái nghiện

Số lượng

Tỉ lệ %

Rượu 40 độ

13

48,2

Rượu 30 độ

12

44,4

Rượu vang, sâm banh 20 độ

1

3,7

Rượu vang, sâm banh 13 độ

5

18,5

Bia lon 4 - 5 độ

0

0

Bia hơi dưới 3 độ

9

33,3

Khác

1

3,7

Lượng rượu trung bình/ngày (đơn vị rượu chuẩn) *±SD: 15,01 ± 13,54

- Loại rượu các đối tượng tái nghiện thường sử dụng nhất là rượu trắng 30-400


- Lượng rượu uống trung bình trong ngày rất cao: 15,01 ± 13,54


Sử dụng chất gây nghiện kết hợp


Bảng 2. Sử dụng chất gây nghiện kết hợp

Chất gây nghiện

Tái nghiện

Số lượng

Tỉ lệ %

Thuốc lá

20

74,1

Chất khác

0

0

Không sử dụng

7

25,9

Tổng

27

100

- Chất gây nghiện duy nhất được sử dụng kết hợp ở những đối tượng nghiên cứu tái nghiện rượu là thuốc lá, chiếm 74,1%.


Một số yếu tố ảnh hưởng đến tái  nghiện rượu


Bảng 3.  Mối liên quan giữa số lần cai nghiện rượu và tái nghiện rượu

Số lần cai

nghiện rượu

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

n

%

n

%

1 lần

8

29,6

11

68,8

< 0,05

2 lần

3

11,1

3

18,8

3 lần

2

7,4

1

6,2

≥ 4 lần

14

51,9

1

6,2

- Nhóm tái nghiện có số lần cai nghiện rượu từ 4 lần trở lên cao hơn đáng kể so với nhóm chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.


Bảng 4.  Mối liên quan giữa sang chấn tâm lý, cảm giác thèm nhớ và tái nghiện rượu

Biến số

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

n

%

n

%

SCTL

10

37

1

6,3

< 0,05

Không

17

63

15

93,7

Cảm giác thèm nhớ

20

74,1

6

37,5

< 0,05

Không

7

25,9

10

62,5

- Tỷ lệ gặp sang chấn tâm lý ở nhóm tái nghiện cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.


- Tỷ lệ xuất hiện cảm giác thèm nhớ ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với nhóm đối tượng chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.


 

Bảng 5.  Mối liên quan giữa rối loạn tâm thần phối hợp và tái nghiện rượu

 

Rối loạn tâm thần

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

 

p

n

%

n

%

Rối loạn trầm cảm

Không

16

59,3

15

93,8

< 0,05

Nhẹ

5

18,5

1

6,2

Vừa

6

22,2

0

0

Nặng

0

0

0

0

 - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về rối loạn trầm cảm giữa nhóm tái nghiện và nhóm chưa tái nghiện rượu, với p < 0,05. Tỷ lệ rối loạn trầm cảm mức độ nhẹ và vừa gặp nhiều hơn rõ rệt ở nhóm đối tượng đã tái nghiện so với nhóm chưa tái nghiện.


Bảng 6 .  Mối liên quan giữa điều trị dự phòng chống tái nghiện và tái nghiện rượu

Biến số

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

n

%

n

%

Có điều trị

13

48,2

2

12,5

< 0,05

Không điều trị

14

51,8

14

87,5

- Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về việc điều trị chống tái nghiện rượu giữa hai nhóm đối tượng, p < 0,05. Tỷ lệ có điều trị ở nhóm tái nghiện cao hơn nhóm chưa tái nghiện.


IV. Bàn luận


1. Thực trạng tái nghiện rượu


- Khi đánh giá tình hình tái nghiện rượu ở 43 đối tượng nghiên cứu trong thời gian 12 tháng sau khi điều trị tại VSKTT gần thời điểm nghiên cứu nhất, có 62,8% đối tượng tái nghiện rượu. Kết quả này tương tự một số nghiên cứu trên thế giới như Miller và cộng sự (2001), Bradizza và cộng sự (2006), Walitzer và Dearing (2006) [3], [10]. Như vậy, tỷ lệ tái nghiện rượu nhìn chung vẫn ở mức tương đối cao, điều này chứng tỏ vấn đề duy trì, kéo dài khoảng thời gian không sử dụng rượu sau khi đã cai nghiện vẫn là mục tiêu hết sức khó khăn trong kế hoạch điều trị chống tái nghiện rượu của nhiều quốc gia trên thế giới.


- Tỷ lệ tái nghiện rượu cao nhất trong khoảng dưới 3 tháng đầu sau khi cai nghiện rượu, chiếm khoảng 41,9%, sau đó giảm dần theo thời gian. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Domingos Neto và cộng sự (2008) [6]. Điều này đòi hỏi cần có các biện pháp điều trị dự phòng tái nghiện tích cực cho các đối tượng nghiện rượu ngay sau khi cai nghiện.


- Số lần cai nghiện rượu ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu: 51,9% đối tượng đã cai nghiện rượu từ 4 lần trở lên, chiếm tỷ lệ cao nhất. Như vậy, nhiều đối tượng nghiện rượu đã cai nghiện và sau đó lại tái sử dụng rượu nhiều lần, chứng tỏ rượu là một chất gây nghiện rất khó từ bỏ, dễ gây tái nghiện trở lại.


- Lượng rượu uống trung bình trong ngày của các đối tượng nghiên cứu tái nghiện rượu, tính theo đơn vị rượu chuẩn là 15,01±13,54. Đây là một vấn đề đáng báo động đối với việc nghiện rượu và tái nghiện rượu ở nước ta hiện nay do mức độ tiêu thụ rượu của các đối tượng là rất cao, vượt quá nhiều so với mức sử dụng rượu an toàn đối với sức khỏe, do Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là không quá 3 đơn vị rượu chuẩn/ngày đối với nam và không quá 2 đơn vị rượu chuẩn/ngày đối với nữ.


- Loại rượu bia các đối tượng tái nghiện thường sử dụng không thay đổi trước và sau khi tái nghiện, phổ biến nhất vẫn là rượu trắng 30-400. Kết quả này không khác biệt so với nhiều nghiên cứu khác ở trong nước như nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng (2009) [1]. Trên thị trường Việt Nam hiện nay, rượu trắng bao gồm rượu do tư nhân tự nấu và do nhà máy sản xuất, trong đó chủ yếu là loại rượu tự nấu với giá thành rẻ, sẵn có ở mọi nơi, mọi lúc, nên người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận hơn. Tuy nhiên, rượu trắng tự cất thường không đảm bảo các yêu cầu an toàn thực phẩm, có hàm lượng aldehyde cao, hầu hết đều dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người chủ sản xuất. Hơn nữa, việc thiếu kiến thức và ý thức chấp hành luật pháp, vì lợi nhuận mà sản xuất rượu giả, rượu không bảo đảm chất lượng, đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng người dân và sức khoẻ cộng đồng.


- Chúng tôi nhận thấy rằng có rất nhiều lý do mà những người tái nghiện rượu đưa ra để giải thích cho việc tái sử dụng rượu thường xuyên của mình, trong đó chiếm tỷ lệ lớn nhất là do thèm nhớ (61,9%). Cũng vì lý do này mà trên thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị duy trì, chống tái nghiện rượu bằng cách tác động làm mất cảm giác thèm nhớ, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.


- Chất gây nghiện duy nhất được sử dụng kết hợp ở những người hiện đã tái nghiện rượu trong nghiên cứu của chúng tôi là thuốc lá. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới, nó phản ánh tính chất đa nghiện ở những đối tượng nghiện rượu.


2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tái nghiện rượu


- Những đối tượng tái nghiện có số lần cai nghiện rượu càng nhiều thì khả năng tái nghiện càng cao. Thực tế nhiều đối tượng nghiện rượu ngoài những lần nhập viện điều trị các rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng rượu đồng thời cai nghiện rượu, họ cũng có nhiều lần tự cai nghiện tại nhà. Tuy nhiên, phần lớn sẽ quay trở lại sử dụng rượu trong thời gian ngắn, chứng tỏ họ chưa tiếp cận được với những phương pháp điều trị chống tái nghiện hiệu quả.


- Tỷ lệ gặp sang chấn tâm lý ở nhóm tái nghiện cao hơn nhóm chưa tái nghiện. Điều này chứng tỏ các sang chấn tâm lý có ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu. Kết quả trên cũng phù hợp với nghiên cứu của Brown, S. A và cộng sự (1995) [4]. Phần lớn những người nghiện rượu sau khi cai nghiện, trở về với gia đình và cộng đồng gặp rất nhiều áp lực tâm lý xã hội. Những lúc đó một số người vẫn xem rượu như cách để giải quyết hay đối phó với các vấn đề khó khăn trong cuộc sống và dễ dàng sử dụng trở lại.


- Tỷ lệ xuất hiện cảm giác thèm nhớ ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với nhóm đối tượng chưa tái nghiện. Việc thèm nhớ rượu mạnh mẽ được nhiều tác giả nghiên cứu xem như một trong những yếu tố tiên lượng tái nghiện rượu [2], [8].


- Tỷ lệ rối loạn trầm cảm mức độ nhẹ và vừa gặp nhiều hơn rõ rệt ở nhóm đối tượng đã tái nghiện so với nhóm chưa tái nghiện, khi đánh giá các đối tượng ở thời điểm nghiên cứu, dựa trên thang điểm đánh giá trầm cảm của Beck. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Conor K. Farren và Sharon Mc Elroy (2010), Gamble và cộng sự (2010), Hasin và cộng sự (2002) [5], [7], [9]. Chính vì vậy, việc phát hiện, điều trị sớm và đồng thời trầm cảm ở những bệnh nhân nghiện rượu sẽ góp phần làm giảm nguy cơ tái nghiện.


- Trong nghiên cứu của chúng tôi, phương pháp điều trị chống tái nghiện mà một số đối tượng nghiện rượu  áp dụng chỉ là liệu pháp hoá dược không hệ thống .Tỷ lệ có điều trị ở nhóm tái nghiện lại cao hơn nhóm chưa tái nghiện, chứng tỏ hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao. Điều này có thể được giải thích là do nhiều bệnh nhân sau khi ra viện chỉ theo đuổi điều trị chống tái nghiện trong một thời gian ngắn hoặc điều trị không thường xuyên, phần lớn không nhớ rõ tên thuốc, không theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc hoặc nhận được phương pháp điều trị chưa phù hợp, trong khi những bệnh nhân chưa tái nghiện có thể do tác động của những yếu tố bảo vệ khác.


V. Kết luận


- 62,8% đối tượng tham gia nghiên cứu đã tái nghiện rượu trong thời gian 12 tháng sau khi điều trị tại VSKTT, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong 3 tháng đầu sau khi điều trị (42,9 %).


- Trong nhóm đối tượng tái nghiện rượu, phần lớn có số lần cai nghiện từ 4 lần trở lên (51,9%); lượng rượu uống trung bình trong ngày, tính theo đơn vị rượu chuẩn: 15,01±13,54; rượu trắng 30-400 là loại rượu sử dụng phổ biến nhất.


- Lý do tái nghiện rượu chủ yếu là thèm nhớ (61,9%).


- Thuốc lá là chất gây nghiện sử dụng kết hợp với rượu duy nhất ở những đối tượng nghiên cứu, trong đó 74,1% đối tượng tái nghiện rượu hút thuốc lá thường xuyên.


- Số lần cai nghiện rượu càng nhiều, các sang chấn tâm lý, cảm giác thèm nhớ rượu và sự xuất hiện đồng thời rối loạn trầm cảm làm tăng tỷ lệ tái nghiện rượu.


- Có mối liên quan giữa vấn đề điều trị chống tái nghiện rượu và việc tái nghiện. Tuy nhiên điều trị chống tái nghiện rượu chưa được hướng dẫn và chưa có hệ thống , hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao.


.  

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.  Hoàng Thị Phượng (2009), Thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng và tác hại của lạm dụng rượu bia ở một số vùng sinh thái của Việt Nam, Luận án tiến sỹ y tế công cộng, Viện vệ sinh dịch tễ trung ương, Hà Nội, tr. 29, 31, 59-81.


2. Bottlender Miriam and Soyka Michael (2004), "Impact of craving on alcohol relapse during and 12 months following, outpatient treatment", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 39(4), pp. 357-361.


3. Bradizza C. M.; Stasiewicz P. R. and Paas N. D. (2006), "Relapse to alcohol and drug use among individuals diagnosed with co-occurring mental health and substance use disorders: a review", American Clinical Psychology Review, 26, pp. 162-178.


4. Conor K. F. and Sharon Mc. (2010), " Predictive factors for relapse after an integrated inpatient treatment programme for unipolar depressed and bipolar alcoholics", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 45(6), pp. 527-533.


5. Domingos Neto; Rita Lambaz et al (2008), "Effectiveness of sequential combined treatment in comparison with treatment as usual in preventing relapse in alcohol dependence", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 43(6), pp. 661-668.


6. Gamble S. A.; Conner K. R. et al (2010), "Effects of pretreatment and posttreatment depressive symptoms on alcohol consumption following treatment in project Match", Am J Study Alcohol Drugs, 71, pp. 71-77.


7. Gordon S.M.; Sterling R. et al (2006), "Inpatient desire to drink as a predictor to alcohol use following treatment", Am J Addict, 15, pp. 242-245.


8. Hasin D. S.; Liu X et al (2002), "Effect of major depression on remission and relapse of substance dependence", Arch Gen Psychiatry, 59, pp. 375-380.


9.  Kimberly S. Walitzer; Ronda L. Dearing (2006), "Gender differences in alcohol and substance use relapse", Clinical psychology review 26, pp. 128-148. Research Institute on Addictions/University at Buffalo, 1021 Main St., Buffalo, NY 14203, United States.


 

Ảnh hưởng của sử dụng rượu/bia của các nạn nhân bị tai nạn giao thông nhập viện VIỆT ĐỨC và SAINT–PAUL

ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA

CỦA CÁC NẠN NHÂN BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG

NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL

(Đề tài do Ủy ban An toàn Giao thông và GRSP đề nghị)


   Chủ nhiệm đề tài: 

 PGS.TS. Nguyễn Thị Thiềng  Thành viên nhóm nghiên cứu:

 TS. Nguyễn Thị Minh Hoà; ThS. Hà Tuấn Anh


1.  Lý do nghiên cứu 

Vai trò của rượu bia trong tai nạn thương tích được nhấn mạnh trong nhiều tài liệu đang được lưu giữ ở các nước kinh tế phát triển. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vai trò của rượu bia liên quan đến tai nạn thương tích đặc biệt đáng báo động ở các nước đang phát triển, nơi mà việc tiêu thụ rượu bia và tai nạn thương tích ngày càng tăng trong khi các chính sách về y tế công cộng vẫn còn tỏ ra thiếu hiệu quả. Ở Việt Nam, thiếu dữ liệu mang tính khoa học về tiêu thụ rượu bia và mối quan hệ giữa sử dụng rượu bia với tai nạn thương tích, để có thể đưa ra chính sách phòng chống sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Tác động của nồng độ cồn đến tai nạn thương tích không được ghi lại một cách hệ thống và đầy đủ. Điều này đã được các bệnh viện, cảnh sát hoặc các nhân viên điều tra xác nhận. Hiện nay, chưa có một nghiên cứu ở tầm quốc gia và chưa có một hệ thống giám sát theo dõi những ảnh hưởng của sử dụng rượu bia đến tai nạn giao thông. Hơn nữa, mặc dù các thương tích do tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước về mức độ phổ biến và mức độ nghiêm trọng trong số các loại hình thương tích, hệ thống báo cáo hiện nay đã không đánh giá đúng khía cạnh quan trọng nhất của vấn đề này.


Giống như tốc độ, sự tiêu thụ rượu bia làm tăng xác suất xảy ra các vụ va chạm và gây hậu quả tử vong hoặc các thương tích nghiêm trọng. Sự suy yếu gây ra bởi rượu bia là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cả nguy cơ gây ra tai nạn trên đường cũng như tính khốc liệt của các chấn thương gây ra bởi các vụ tai nạn đó. Mức độ thường xuyên của việc uống rượu bia trong khi lái xe có sự khác nhau giữa các quốc gia, nhưng dù ở đâu thì đó cũng là một nguy cơ rất lớn gây ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ. Phạm vi ảnh hưởng của rượu bia đến tai nạn giao thông đường bộ cũng khác nhau giữa các quốc gia, và do đó việc so sánh trực tiếp giữa các quốc gia là việc làm khó khăn. Ở nhiều quốc gia có thu nhập cao, khoảng 20% số lái xe bị chấn thương nghiêm trọng gây tử vong đều có nồng độ cồn trong máu vượt quá giới hạn cho phép (nghĩa là ở phía trên của giới hạn theo quy định của pháp luật). Các nghiên cứu tại các nước có thu nhập thấp đã chỉ ra rằng nồng độ cồn trong máu của những lái xe bị chấn thương nghiêm trọng dẫn đến tử vong là ở trong khoảng giữa 33% và 69%.


Tai nạn giao thông đường bộ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra chấn thương và tử vong tại Việt Nam. Hơn một triệu người tử vong và hàng chục triệu người bị chấn thương mỗi năm do tai nạn giao thông đường bộ. Để tìm giải pháp hạn chế tai nạn giao thông đường bộ, nghiên cứu này hướng đến mục tiêu tăng cường việc tuân thủ quy định của Luật Giao thông đường bộ về sử dụng rượu bia của những người tham gia giao thông đường bộ.


2.  Mục tiêu nghiên cứu

1.   Tổng hợp các hoạt động, dự án can thiệp phòng chống lạm dụng rượu bia trong điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Việt Nam từ 2002 tới nay;


2.   Tiến hành các biện pháp thu thập số liệu về sử dụng rượu/bia của các nạn nhân tai nạn giao thông đến cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Việt Đức và St. Paul, Hà nội;


3.   Đánh giá hiện trạng sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông của các nạn nhân nhập viện;


4.   Đánh giá một số yếu tố liên quan giữa việc sử dụng rượu bia và tình trạng sức khỏe, chi phí của nạn nhân khi nhập viện


3.  Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này sử dụng kết hợp các phương pháp: nghiên cứu tài liệu có sẵn, nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Thông tin định lượng được thu thập theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp dựa vào bảng hỏi đã được thiết kế sẵn.


3.1  Phương pháp nghiên cứu tài liệu có sẵn

Các chuyên gia đã thực hiện thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn của các dự án, chương trình can thiệp, các nghiên cứu đã tiến hành từ 2002 đến nay ở Việt Nam liên quan đến việc phòng tránh lạm dụng bia rượu trong quá trình tham gia giao thông đường bộ, ảnh hưởng của việc sử dụng bia rượu đến tai nạn giao thông đường bộ cũng như hậu quả kinh tếxã hội của nó đối với gia đình và xã hội.


3.2  Phương pháp nghiên cứu định lượng

Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng nhằm thu thập thông tin đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng rượu bia đối với tai nạn giao thông đường bộ. Ảnh hưởng của mức độ sử dụng rượu bia đối với việc gây ra tai nạn giao thông đường bộ được phân tích không chỉ đối với người điều khiển mà cả đối với người không điều khiển phương tiện. Phân tích này cũng được tiến hành đồng thời cả với người có và không sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông đường bộ. Trên thực tế, đôi khi người tham gia giao thông đường bộ không sử dụng rượu bia lại là nạn nhân của người có sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Ngoài ra, để phân tích hậu quả kinh tế-xã hội của tai nạn thương tích trong giao thông đường bộ đối với xã hội và gia đình, nghiên cứu này còn thu thập thông tin về các chi phí thực tế và chi phí cơ hội khi bị tai nạn thương tích do va chạm/tai nạn trong giao thông đường bộ.


3.2.1  Đối tượng thu thập thông tin

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nói trên đối tượng thu thập thông tin trong nghiên cứu này là:


1.   Những người từ 16 tuổi trở lên;

2.   Bị tai nạn giao thông đường bộ, thời gian bắt đầu xảy ra va chạm/tai nạn trong vòng 8 tiếng đồng hồ;

3.   Là những người đã nhập viện, nằm lưu ở phòng khám, phải xử lý tiểu phẫu thuật, kể cả những bệnh nhân tử vong trong bệnh viện và tử vong trong khi nằm ở phòng khám.

Không điều tra những người đến khám rồi về ngay hoặc tử vong trước khi đến bệnh viện.


3.2.2  Phương pháp chọn mẫu

Tất cả những người thuộc các tiêu chuẩn nói trên, đồng ý trả lời phỏng vấn hoặc được người nhà đồng ý phỏng vấn được đưa vào mẫu điều tra


3.2.3  Cỡ mẫu nghiên cứu

Để đảm báo kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê, cỡ mẫu được xác định theo công thức:



o Trong đó:

z = 1,96 tương ứng với mức tin cậy  = 0,05;

p: ước lượng tỷ lệ nạn nhân bị tai nạn giao thông có sử dụng rượu trong vòng 8 tiếng trước thời điểm xảy ra tai nạn (ước lượng p = 0,4);

D: là độ chính xác chấp nhận được (lấy d = 0,035).

Kết quả tính toán n = 753 người, dự tính có 5% đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu, tổng số đối tượng nghiên cứu là: 800 người và được phân bố: 500 người tại BV Việt Đức và 300 người tại BV Saint Paul.

Trên thực tế, chúng tôi đã thu thập được 775 phiếu đủ tiêu chuẩn (tại BV Việt Đức điều tra 509 người và BV Saint Paul: 266 người)


3.2.4  Địa điểm tiến hành thu thập thông tin

Nghiên cứu được tiến hành tại 02 bệnh viện Việt Đức và Saint Paul Hà Nội. Đây là hai bệnh viện có số bệnh nhân bị tai nạn thương tích do giao thông đường bộ lớn.


4.  Kết luận và Khuyến nghị 
4.1  Kết luận

a.  Kết luận về rà soát chính sách và nghiên cứu tài liệu sẵn có

- Việc giảm thiểu sử dụng rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã được đưa vào Bộ luật Hình sự của Việt Nam năm 1999. Điều này cho thấy rằng chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề này.


- Cho đến nay, đã có 5 lần chính phủ Việt Nam sửa đổi các quy định về xử phạt người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sử dụng bia rượu quá nồng độ cho phép. Tuy nhiên, các quy định trước chưa có cơ chế rõ ràng để buộc người tham gia giao thông phải thi hành những quy định về sử dụng rượu bia. Tại Bộ Luật giao thông 2001 đã quy định cụ thể chỉ số về nồng độ cồn nhưng chậm triển khai các chế tài thực hiện (quy định mức xử phạt hành chính, quy định cho phép cảnh sát có quyền thử nồng độ cồn của người điều khiển PTGT). Tại Bộ Luật 2008 mức quy định nồng độ cồn cho phép giảm xuống. Hướng dẫn cụ thể đang được soạn thảo để thực hiện.


- Các nghiên cứu khoa học trước đây đã chỉ ra rằng tai nạn giao thông là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tai nạn thương tích hiện nay. Trong đó, uống rượu bia là một nguyên nhân quan trọng. Đặc biệt là tình trạng uống rượu bia khi lái xe mô tô, xe gắn máy đa số phổ biến ở những người trong độ tuổi lao động. Mặt khác, điều trị chấn thương sọ não gây tổn hại không chỉ về kinh tế mà cả về tinh thần cho nạn nhân và gia đình. Cần đưa lên truyền hình những vụ tai nạn giao thông gây ra do người lái xe hoặc nạn nhân đã sử dụng rượu bia quá liều lượng. Đồng thời, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia phát trên truyền hình vào giờ vàng để tuyên truyền, giáo dục, răn đe.


- Các giải pháp tỏ ra hữu hiệu nhất hiện nay là kết hợp giữa tuyên truyền, xây dựng hạ tầng cơ sở (các biển báo, vạch báo giảm tốc độ khi đi qua đường dân sinh) và xử phạt nghiêm minh, công bằng và minh bạch các hiện tượng vi phạm. Muốn vậy, Nhà nước cần hoàn thiện quy định pháp lý về xử lý hành vi uống rượu bia quá nồng độ quy định và sử dụng chất kích thích mà pháp luật cấm sử dụng đối với người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khi tham gia giao thông để cảnh sát có thể thi hành nhiệm vụ dễ dàng và minh bạch, công tâm. Mặt khác, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông đường bộ một cách khoa học, đầy đủ, chính xác và thuận tiện khi khai thác là một đòi hỏi tất yếu để các nhà hoạch định chính sách có cơ sở ra những quyết sách đúng và sát với thực tế.


- Một số cơ quan chính phủ: Uỷ ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia; Lực lượng Cảnh sát giao thông; Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số tổ chức quốc tế: Jica Nhật Bản; Tổ chức Y tế thế giới; một số công ty sản xuất phương tiên giao thông như công ty Honda Việt Nam và Hội Bảo hiểm Việt Nam, đã có những hoạt động nhằm tuyên truyền và cưỡng chế thực hiện quy định về sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Tuy nhiên, các dự án đó đều mới được tiến hành và chưa có nghiên cứu đánh giá nào về hiệu quả của nó. Hiện nay Cục Y tế dự phòng đã thực hiện nghiên cứu đánh giá kết quả mô hình nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng chống tai nạn giao thông tại các huyện thực hiện dự án. Những kết quả nghiên cứu mới chỉ nặng về đánh giá mô hình cung cấp dịch vụ cấp cứu ban đầu mà chưa đi sâu vào đánh giá kết quả hoạt động và tác động lan tỏa của các câu lạc bộ không sử dụng rượu bia khi lái xe. Còn ít dự án thực hiện việc nâng cao năng lực cưỡng chế cho lực lượng cảnh sát về vấn đề này.


b.  Kết luận về kết quả nghiên cứu tại hai bệnh viện

- Nghiên cứu tại hai bệnh viện được thông qua bảng hỏi bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp do các nhân viên y tế thực hiện. Các kết quả phân tích được rút ra như sau:


- Đa số (75,7%) nạn nhân tai nạn giao thông có độ tuổi dưới 45 (đây là những người thuộc độ tuổi lao động, là người làm ra của cải vật chất. Chính vì vậy mà tai nạn giao thông gây tổn hại lớn cho quốc gia và từng gia đình nạn nhân);


- Đa số (82,8%) nạn nhân sử dụng mô tô và xe gắn máy và khoảng 70% số nạn nhân là người điều khiển phương tiện. Khoảng một nửa số phương tiện va chạm với nạn nhân là xe máy;


- Trong số nạn nhân tai nạn giao thông đường bộ, tỷ lệ có cồn trong máu cao (56,4%), chủ yếu là nam giới (86,3%);


- Những người có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học có mức độ sử dụng rượu bia cao hơn những người có trình độ học vấn cao (từ đại học cao đẳng trở lên). Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy một điều gây ngạc nhiên là, mức độ sử dụng bia rượu của những nạn nhân tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học lại cao hơn những người có trình độ học vấn thấp (không đi học và chưa tốt nghiệp trung học cơ sở);


- Mặc dù số lượng nạn nhân làm nghề lái xe trong mẫu không cao, nhưng cần nhấn mạnh rằng, họ là những người có nồng độ trong máu nhiều hơn các nghề khác. Đây là một phát hiện cần lưu ý. Bởi vì lái xe là một nghề liên quan đến mạng sống của nhiều người khác khi họ điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Ngoài nghề lái xe, thì lao động tự do cũng là một nghề có tỷ lệ người bị tai nạn giao thông cao;


- Ngày cuối tuần (thứ 6), những ngày lễ (thứ 7, chủ nhật) và thứ 2 có số lượng tai nạn giao thông cao hơn các ngày khác trong tuần. Các giờ cao điểm tai nạn xảy ra ít hơn so với giờ làm việc và giờ đi chơi buổi tối. Đây cũng là một phát hiện đáng lưu ý;


- Tỷ lệ nạn nhân cho biết có thói quen uống đồ uống có cồn tương đối cao (trên 50%), chủ yếu là nam giới. Số người thừa nhận có sử dụng rượu bia 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn cao (37,2%), chủ yếu là nam giới. Khoảng trên một phần ba nam giới không nhớ rõ số lượng rượu bia đã uống trong vòng 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn;


- Có đến 60% nạn nhân là người điều khiển phương tiện có cồn trong máu cao. Tỷ lệ đội mũ bảo hiểm cũng chỉ đạt mức 65,5%. Điều này cho thấy ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ của công dân Việt Nam chưa cao. Cần phải tiếp tục có chế cưỡng chế và tuyên truyền không nên lơi lỏng;


- Nguy cơ bị thương, và tỷ lệ bị thương ở đầu, mặt ở người có cồn trong máu cao hơn nhiều so với người không có cồn trong máu;


- Hơn 50% nạn nhân giao thông sau xử trí ở phòng khám, cấp cứu phải nhập viện. Loại tổn thương cuối cùng chủ yếu là chấn thương sọ não 42,3% và gãy xương chi 38,1%. Tỷ lệ chuyển viện để điều trị tiếp nhóm nạn nhân có cồn trong máu cao hơn rất nhiều so với nhóm không có cồn;


- Khoảng 50% nạn nhân cho biết đã từng ngồi trên phương tiện giao thông đường bộ do người điều khiển có sử dụng bia rượu;


- Tỷ lệ nạn nhân không biết quy định về lượng cồn trong máu và trong hơi thở rất cao (81,3%). Đây là một khoảng trống trong tuyên truyền về Luật GT;


- 61,9% nạn nhân không có bảo hiểm y tế. Nạn nhân có cồn trong máu có chi phí điều trị tại bệnh viện cao hơn nạn nhân không có cồn trong máu. Chi phí trung bình cho một nạn nhân nhập viên gấp khoảng 5 lần mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định hiện nay (2.900.000 đồng trong khi lương tối thiểu là 540.000 đồng). Đây mới chỉ là số chi phí mà nạn nhân phải nộp cho bệnh viện chưa kể đến cả chi phí thuốc men mà người nhà phải mua theo đơn của bác sỹ và chi phí ăn ở đi lại của người chăm sóc chính. Nếu ước lượng theo mức chi do hai bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức cung cấp thì với số lượng 23.000 người bị tai nạn một năm như công bố của Bộ Y tế, cả nước sẽ phải chi vào chữa trị tai nạn giao thông là 65 tỷ đồng;


- Chi phí cơ hội được nạn nhân và người nhà nạn nhân nói đến nhiều nhất là mất cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh cao nhất (bản thân người bị tai nạn 48,4% và người chăm sóc chính 41,9%). Thứ hai là con cái không có người chăm sóc (31,5% số nạn nhân có ý kiến này và 35,7% người chăm sóc chính). Thứ ba là, cha mẹ già đau yếu không có người chăm sóc (43,9% người bị tai nạn và 27,4% người chăm sóc chính). Ngoài ra, số nạn nhân có độ tuổi từ 16 đến 24 còn cho biết chi phí cơ hội lớn nhất đối với họ là mất cơ hội học hành và một số người còn vĩnh viễn không thể tham gia đào tạo nghề, không đủ điều kiện tham gia lao động;


- Đa số nạn nhân đồng tình với quan điểm uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông dễ xảy ra tai nạn. Tỷ lệ người cho rằng không nên uống rượu bia khi điều khiển phương tiện rất cao (85%). Đa số nạn nhân tai nạn giao thông cho rằng cần xử phạt những người uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông và cần tuyên truyền rộng rãi về phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Điều này cho thấy đa số người dân đã có ý thức về hạn chế sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện. Tuy nhiên, từ chỗ ý thức được vấn đề đến chuyển đổi hành vi và thực hành không sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện là một khoảng cách lớn mà muốn có sự chuyển đổi hành vi này thì Nhà nước và nhân dân cần mất nhiều công sức và tiền bạc.


4.2  Khuyến nghị

Dựa vào các kết luận của các nghiên cứu trước và kết luận rút ra từ nghiên cứu thực nghiệm tại bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức, nhóm nghiên cứu cho rằng để chuyển đổi hành vi từ chấp nhận không sử rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đến chuyển đổi hành vi thực hành không sử dụng rượu bia và chất có cồn khi điều khiển phương tiện là một hành trình khó khăn, đòi hỏi nhiều tâm huyết, thời gian và sức lực của toàn Đảng toàn dân, của các cơ quan nhà nước và tổ chức quốc tế. Vì vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa hai giải pháp:


Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi và cưỡng chế để chuyển đổi hành vi.


Sau đây là một số giải pháp cụ thể:


a.  Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính quyền

- Có thể nói đây là giải pháp tiên quyết để thực hiện thành công mọi mục tiêu Chiến lược kinh tế-xã hội. Đảng lãnh đạo, các cơ quan chính quyền phải vào cuộc để chỉ đạo thực hiện các quy định về nồng độ cồn trong máu đã được quy đinh trong luật giao thông đường bộ thì mới có cơ hội thành công. Kinh nghiệm cho thấy, bất kỳ việc gì, ở đâu, nếu có Đảng lãnh đạo, Chính quyền trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện thì công việc đó thành công. Việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một minh chứng rõ ràng chứng minh giả thuyết trên.


- Việc công bố luật giao thông đường bộ cần tiến hành đồng thời trong cùng một thời điểm với việc công bố nghị định hướng dẫn. Điều này giúp cho các cơ quan thi hành công vụ có đủ công cụ luật pháp trong tay để có thể thực hiện nhiệm vụ một cách minh bạch.


b.  Tăng cường cưỡng chế để chuyển đổi hành vi

- Cần có chế tài rõ ràng để cảnh sát giao thông có thể làm việc nghiêm minh và công tâm: quy định cảnh sát giao thông có quyền kiểm tra nồng độ cồn ngay cả khi không vi phạm luật giao thông.


- Tăng cường trang bị thiết bị đo nồng độ cồn và đảm bảo các thiết bị này đạt tiêu chuẩn về vệ sinh.


- Tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông và tăng cường kiểm tra nồng độ cồn vào các giờ có thể xảy ra tai nạn cao.


- Có chế độ khuyến khích cho lực lượng cảnh sát.


- Xây dựng hình ảnh người cảnh sát nhân dân tận tụy vì dân.


c.   Tăng cường truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi

Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi khác với truyền thông giáo dục. Nếu thực hiện truyền thông giáo dục là việc tuyên truyền cho người dân mà chưa theo dõi xem họ đã thực sự nhận thức được vấn đề chưa và họ có thực hành vấn đề cần tuyên truyền hay không. Còn truyền thông chuyển đổi hành vi là việc tuyên truyền kết hợp với theo dõi, hướng dẫn người dân chuyển đổi từ chưa nhận thức được vấn đề đến nhận thức được vấn đề (từ chưa biết đến biết); tiếp tục theo dõi và tuyên truyền cho đến khi người dân chuyển từ nhận thức sang thái độ (từ chưa chấp nhận đến chấp nhận); tiếp tục tuyên truyền và theo dõi để người dân chuyển thái độ chấp nhận sang thực hành (chuyển từ không thực hiện sang thực hiện). Trong trường hợp này là chuyển hành vi từ uống bia rượu vẫn điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sang nếu đã uống bia rượu thì không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Trong giải pháp truyền thông phải chú trọng cải tiến cả hình thức và nội dung truyền thông.


v Hình thức tuyên truyền: đa dạng, hấp dẫn

- Tiếp tục đưa nội dung quy định về nồng độ rượu bia vào chương trình sát hạch lấy bằng điều khiển phương tiện giao thông.


- Tiếp tục hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa vào các chương trình truyền hình nhiều người ưa thích.


- Tiếp tục đưa chương trình an toàn giao thông vào môn giáo dục công dân trong các trường phổ thông từ lớp mẫu giáo đến lớp 12 với nội dung thích hợp. Trong đó nhấn mạnh nội dung phòng chống lạm dụng rượu bia.


- Xây dựng và nhân rộng mô hình tuyên truyền trong cộng đồng về an toàn giao thông (một số tổ chức phi chính phủ đã tài trợ thực hiện, những mới chỉ trên quy mô nhỏ). Lấy những người mẹ, người vợ làm trung tâm giáo dục chuyển đổi hành vi. Kinh nghiệm của một số nước, trong đó có kinh nghiệm của Nhật Bản thì đây là hình thức truyền thông rẻ tiền mà rất có hiệu quả.


- Tiếp tục phát hành và phân phối sách nhỏ “Những điều lái xe cần biết”, các tờ rơi, áp phích cổ động tuyên truyền… không chỉ cho lái xe mà cho mọi người dân.


v Nội dung truyền thông


+ Trước hết cần tuyên truyền rộng rãi quy định về nồng độ rượu bia khi tham gia điều khiển phương tiện giao thông theo luật giao thông 2008. Trên thực tế, mặc dù các kỳ thi lấy bằng lái xe, thí sinh đều phải trải qua các cuộc sát hạch về luật giao thông, nhưng số người không biết quy định về nồng độ cồn trong máu lớn. Điều này cho thấy, cần thắt chặt hơn nữa yêu cầu hiểu biết về luật giao thông đường bộ đối với người thi lấy bằng lái xe.


+ Đưa các thông tin về thực trạng cũng như hậu quả của những vụ tai nạn giao thông, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia.


+ Tạo dư luận hình thành chuẩn mực xã hội phản đối việc sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện và phản đối ngồi trên xe mà người điều khiển sử dụng bia rượu

+ Khẩu hiệu đưa ra là: “Uống rượu bia – Không lái xe”


d. Tổ chức thực hiện

- Cần có giải pháp khuyến khích các nhà tài trợ tập hợp vồn đầu tư để có các dự án lớn đủ tầm triển khai các hoạt động can thiệp đồng bộ và dài hạn. Hiện nay đã có một vài can thiệp cho lĩnh vực này. Các can thiệp này còn nhỏ lẻ do vốn đầu tư nhỏ. Nếu có cơ chế tập hợp các nhà đầu tư lại, có thể có một quỹ lớn hơn để thực hiện các can thiệp ở quy mô lớn hơn và dài hơi hơn. Bởi vì can thiệp phá vỡ một thói quen không phải chỉ trong một đợt chiến dịch là có thể hoàn thành mà phải liên tục, dài hạn tốn kém về sức người sức của mới hy vọng thành công.


- Để có thể xây dựng kế hoạch tuyên truyền và cưỡng chế thành công việc hạn chế sử dụng bia rượu trong giao thông đường bộ cần thiết phải tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu chính xác và toàn diện nhằm tạo thuận tiện khai thác cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học về tai nạn giao thông đường bộ. Chỉ có trên cơ sở dữ liệu khoa học thì các chính sách can thiệp mới được xây dựng sát với thực tế và phù hợp với người Việt Nam.


- Sau các can thiệp hỗ trợ phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, nên tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả và tác động lan tỏa, tính bền vững của dự án làm cơ sở khoa học để thiết kế dự án cán thiệp và các chính sách cho thời kỳ tiếp theo.


(Nguồn: Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Kỷ yếu khoa học 20 năm thành lập Viện Dân số và các vấn đề xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội - tháng 3/2012)

Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

 
Mức độ nghiêm trọng của các vấn đề liên quan đến việc uống rượu cũng như mức độ nguy hại đến sức khoẻ và tâm lý do việc tiêu thụ rượu đang ở tình trạng báo động ở nhiều nước trên thế giới. Giấy phép này cung cấp các tiêu chuẩn đánh giá sức khoẻ nhằm nhận biết, quản lý và ngăn ngừa các vấn đề liên quan đến rượu.


ICD-10, do WHO xuất bản vào năm 1992, đã phân loại các vấn đề liên quan đến rượu theo 4 đề mục sau:
• Ngộ độc cấp tính do dùng rượu
• Việc sử dụng có tính nguy hại
• Hội chứng nghiện
• Tình trạng rút thuốc

Trong cuốn sách của mình nói về các rối loạn tinh thần thông qua các số liệu thống kê và chuẩn đoán, tái bản lần thứ 4, năm 1994 (DSM-IV), Hiệp hội Tâm thần học Mỹ đã coi rượu và các rối loạn do lạm dụng thuốc khác có liên quan đến nhau. Cuốn sách này đã được phổ biến trên toàn thế giới, và giữa ICD-10 và các tiêu chuẩn DSM-IV có rất nhiều điểm giống nhau.

Ngộ độc rượu cấp tính do dùng rượu: Việc tiêu thụ rượu đã dẫn đến sự thay đổi hành vi và các tác động khác do giảm các hoạt động của thần kinh trung ương(CNS). Các biểu hiện của ngộ độc rượu cấp tính bao gồm các hành vi khác thường và cảm thấy khó khăn khi thực hiện những hành động thông thường của cơ thể chẳng hạn như nói, đi bộ hoặc lái xe. Mức độ suy yếu của CNS, các hành vi do đó mà có cũng như những tác hại trên cơ thể đều chịu tác động của nồng độ cồn trong máu (BAC). Bạn cần nhớ rằng sự suy yếu trong các động tác chẳng hạn rất cần thiết khi lái xe sẽ bắt đầu xảy ra khi nồng độ cồn trong máu là 30 mg/dl( thấp hơn nồng độ cồn cho phép trong máu) khi đang lái xe ở nhiều nước.

Việc sử dụng rượu có tính nguy hại: Thuật ngữ sử dụng rượu có tính nguy hại được dùng để mô tả tình trạng khi có bằng chứng cho thấy cồn là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của ít nhất một chức năng trong cuộc sống hàng ngày nghĩa là sức khoẻ về thể chất, sức khoẻ về tinh thần, cuộc sống gia đình hoặc giữa cá nhân với nhau hoặc các vấn đề về luật pháp hoặc hoạt động nghề nghiệp hay xã hội.

Hội chứng nghiện rượu: Khi bị nghiện rượu, người đó sẽ uống rượu thường xuyên và đều đặn trong ngày, và điều đó sẽ trở thành nhu cầu bắt buộc. Việc uống rượu sẽ được ưu tiên lên hàng đầu so với việc thực hiện nghĩa vụ gia đình, công việc và các hoạt động xã hội. Có thể nhận thấy rõ sự giảm sút trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội, pháp luật giữa các cá nhân với nhau cũng như trong công việc.
Thường thì việc nghiện rượu luôn đi cùng với các biến chứng về tâm thần và y học cùng xảy ra một lúc.

Giáo sư Jellinek là người đầu tiên coi sự nghiện rượu như là một loại bệnh giống như bao loại bệnh khác và đã đưa ra “khái niệm về chứng nghiện rượu” vào năm 1960. Nó đã miêu tả có hệ thống các vấn đề liên quan đến rượu. Sự mô tả đầu tiên về hội chứng nghiện rượu là vào năm 1976 do Edwards và Gross đưa ra. Họ đã nhấn mạnh đến việc không thể kiểm soát được lượng rượu tiêu thụ, luôn tìm rượu để uống, và thu hẹp hành vi uống rượu như là một đặc điểm bên cạnh hiện tượng chịu được thuốc và cai nghiện. Trong ICD-10, hội chứng bị nghiện được định nghĩa là “một nhóm các hiện tượng liên quan đến nhận thức, hành vi và tâm lý trong đó việc dùng rượu được ưu tiên hơn các hành vi khác mà đã từng có ý nghĩa rất quan trọng”. Đặc điểm của chứng nghiện rượu đã được mô tả trong đường lối chỉ đạo về việc chuẩn đoán bệnh trong ICD-10 nhằm mục đích hành động hoá.

Đường lối chỉ đạo về phép chuẩn đoán hội chứng nghiện do lạm dụng rượu và các chất khác trong ICD-10:
Có ít nhất 3 trong số các biểu hiện sau đây sẽ xảy ra cùng một thời điểm trong thời gian ít nhất 1 tháng hoặc nếu chúng xảy ra trong thời gian ít hơn 1 tháng thì sẽ xảy ra liên tục trong vòng 12 tháng:

1. Thèm khát hoặc buộc phải dùng chất đó.
2. Khả năng kiểm soát việc sử dụng chất đó bị suy yếu ngay từ lúc bắt đầu, chấm dứt, bằng chứng là: chất đó được sử dụng với số lượng lớn hoặc kéo dài hơn thời gian dự định; hoặc luôn thèm khát hoặc thất bại trong việc giảm hoặc kiểm soát việc sử dụng chất đó.
3. Tình trạng cai nghiện về mặt sinh lý học khi việc sử dụng chất đó giảm hoặc dừng lại, bằng chứng là: hội chứng rút thuốc tiêu biểu đối với chất dó; hoặc sử dụng chất tương tự( hoặc có liên quan mật thiết) với ý định giảm hoặc tránh các hội chứng rút thuốc.
4. Bằng chứng về việc chịu được các tác dụng của chất đó, do đó cần lượng lớn hơn của chất đó để rơi vào tình trạng say sưa hoặc tác dụng như mong muốn hoặc tác dụng bị giảm bớt khi tiếp tục dùng lượng tương tự của chất đó.
5. Luôn nghĩ đến việc sử dụng chất đó là một biểu hiện của cảm giác khoái lạc hoặc thích thú khi dùng chất đó đang mất đi hoặc giảm xuống do dùng chất đó; hoặc dành nhiều thời gian vào các hoạt động cần thiết để có được, uống và phục hồi khỏi những tác động của chất đó.
6. Liên tục dùng thuốc bất kể biết rõ nó có hại, chẳng hạn như tiếp tục dùng khi cá nhân đó ý thức được bản chất và mức độ độc hại.


Nhu cầu sử dụng các tiêu chuẩn được định nghĩa đầy đủ về sự nghiện rượu không nên được cường điệu quá mức vì các khái niệm về việc chăm sóc sức khoẻ có thể thay đổi khi một người lạm dụng rượu hoặc nghiện rượu có thể đến để tìm kiếm sự trợ giúp. Số bệnh nhân nghiện rượu tại trung tâm điều trị chuyên môn chỉ là một phần nhỏ trong tổng số những người như vậy trong cộng đồng. Do vậy, cần phải sớm nhận biết đúng việc lạm dụng và chứng nghiện rượu ở mọi cấp độ( và trong cộng đồng) ngay cả khi một cá nhân xuất hiện không phải để phàn nàn về việc uống rượu mà về hậu quả do việc uống rượu.

Tình trạng cai nghiện rượu: Việc giảm lượng rượu được tiêu thụ bởi một người bị nghiện rượu đã đột ngột dừng lại chắc chắn sẽ dẫn đến một số hội chứng tiêu biểu mà được gọi là hội chứng rút thuốc. Những hội chứng này bao gồm tay và người bị run, mất ngủ, lo lắng, buồn nôn, ói mửa, lo âu, đổ mồ hôi và huyết áp, nhịp tin, nhiệt độ cơ thể tăng và nhịp thở cũng tăng. Những hội chứng này thường bắt đầu trong khoảng 8-12 giờ uống rượu cuối cùng và lên đến đỉnh điểm vào ngày thứ hai hoặc thứ ba và giảm bớt vào ngày thứ 4 hoặc thứ 5. Tâm trạng bị xáo trộn, vô cùng lo lắng, buồn bã và tức giận là những hội chứng phổ phiến sau khi triệu chứng cấp tính giảm bớt. Nói chung, tất cả các triệu chứng về tâm lý và thể chất và các dấu hiệu của việc cai nghiện rượu sẽ giảm bớt trong thời gian 2 tuần, ngay cả khi không được điều trị. Nếu được điều trị, các triệu chứng và dấu hiệu đó sẽ kéo dài nhiều nhất là một tuần. Trong một số ít trường hợp, một số triệu chứng rút thuốc có thể kéo dài từ 3-6 tháng. Các triệu chứng phổ biến của hội chứng rút thuốc kéo dài là đau đầu và mất ngủ.

Các chỉ báo về việc uống rượu và các vấn đề liên quan
Các cuộc điều tra về dịch tễ học: Cách giải quyết trực tiếp nhất đối với việc dùng rượu và các vấn đề có liên quan trong cộng đồng là tiến hành các cuộc điều tra về dịch tễ học để đánh giá tầm quan trọng của việc sử dụng rượu và sự nghiện rượu. Những cuộc điều tra đó được coi là biện pháp đúng đắn về mặt khoa học để giải quyết các vấn đề sử dụng rượu, nhưng nó đòi hỏi phải có những cuộc nghiên cứu tốn kém và trên phạm vi rộng lớn, điều này rất khó được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Mức độ tiêu thụ rượu trên đầu người: Một dấu hiệu khác của việc uống rượu là sự ước tính mức độ tiêu thụ rượu trên đầu người. Mặc dầu có nhiều vấn đề với việc tính toán chính xác, mức độ tiêu thụ trên đầu người được coi là chỉ báo đầy đủ về các vấn đề liên quan đến rượu ở nhiều quốc gia.

Việc sử dụng các số liệu thống kê chính thức, cảnh sát và sức khoẻ: Một phương pháp khác là phát triển chỉ báo về các nguy hại liên quan đến rượu từ những số liệu thống kê chính thức, của sát và về sức khoẻ. Có vẻ như đó là một thách thực lớn khi mà các số liệu thống kê chính thức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, hiếm khi ghi lại mối liên hệ giữa rượu và các hậu quả của nó. Tuy nhiên, với một số giải pháp sáng tạo, các số liệu thống kê chính thức có thể cung cấp các dấu hiệu về sự nguy hại do rượu gây ra.
Một số giải pháp sáng tạo được báo cáo trong các số liệu thống kê bao gồm:
- Chỉ tập trung vào các trường hợp riêng về rượu: các điều kiện cụ thể, chẳng hạn như bệnh xơ gan do uống rượu hoặc bệnh viêm dạ dày do uống rượu, và có mối liên hệ trực tiếp đến việc dùng quá nhiều rượu. Mặc dù những điều kiện này không được báo cáo, chúng là một phần của toàn bộ dấu hiệu nguy hại
- Nhận biết tập hợp con của các sự kiện được ghi chép hoặc các điều kiện mà được coi là có liên quan chặt chẽ đến rượu: Nhằm kiểm soát sức khoẻ, có thể áp dụng một số điều kiện cụ thể mà được coi là có liên quan chặt chẽ đến rượu, chẳng hạn như các tai nạn trên đường vào ban đêm khi đi xe một mình thường có liên quan đến việc uống rượu. Mặc dầu cảnh sát có thể không ghi chép về rượu trong các tai nạn giao thông, nhưng họ lại ghi chép thời gian và tình trạng của mỗi vụ tai nạn. Các biện pháp thay thế đó cũng có thể là một phần của toàn bộ dấu hiệu cho biết các nguy hại liên quan đến rượu
- Giám sát các điều kiện được coi là không liên quan đến rượu: giám sát các phương hướng trong các điều kiện được coi là không liên quan đến rượu và việc đối chiếu những phương hướng này trong các điều kiện được coi là có liên quan đến rượu có thể cho biết liệu các phương hướng được quan sát có thực hay không
- Điều chỉnh các dấu hiệu dựa trên các cuộc nghiên cứu nhỏ: các cuộc nghiên cứu nhỏ nhưng chi tiết có thể tạo ra mức độ báo cáo sai trong các số liệu thống kê chính thức. Do mức độ nghiêm trọng của việc báo cáo sai nên ta có thể ước tính được mức độ nguy hại liên quan đến rượu
- Triển khai các dấu hiệu tổng hợp. Không có dấu hiệu nào có thể đo được chính xác mức độ nghiêm trọng của các tác hại do rượu gây ra. Do vậy, việc đánh giá nhiều dấu hiệu và mối quan hệ giữa chúng cần phải được kiểm tra. Một số những dấu hiệu này có thể được kết hợp với dấu hiệu tổng hợp.
Các yếu tố trong xã hội: Các nhân tố xã hội như trợ cấp phúc lợi, lương hưu cho người tàn tật (liên quan đến rượu), bị thương tại nơi làm việc, vắng mặt tại nơi làm việc, thất nghiệp, các vụ vi phạm liên quan đến say rượu cũng có thể là dấu hiệu cho biết mức độ nghiêm trọng của các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu trong cộng đồng.

Hình thức rút thuốc nghiêm trọng được gọi là chứng mê sảng của người nghiện rượu nặng(DT). Các đặc điểm của DT bao gồm sự bồn chồn, nghe và nhìn thấy những vật tưởng tượng, bị ảo giác, và vô cùng lo sợ, mất ngủ, mạch đập tăng và đôi khi bị chứng co giật. DT không xảy ra không nhiều (5% số người bị nghiện rượu), nhưng một khi nó xảy ra, nó thường kèm theo các bệnh khác, chẳng hạn như hỏng gan, nghẽn máu trong sọ hoặc chỗ xương gãy, viêm phổi. Thường thì nó bắt đầu 48-72 giờ sau lần uống cuối cùng và giảm bớt trong vòng 1-5 ngày. Khoảng 20% người bị chết nếu không được điều trị và 3.5% người vẫn bị chết dù đã được chữa trị.

Sự tự lực: Liệu việc dùng rượu có thể ảnh hưởng đến bạn?
Lượng rượu được tiêu thụ tăng lên dần dần ở một số người. Thỉnh thoảng, có thể do một nguyên nhân nào đó, người nào đó đã tăng lượng rượu tiêu thụ, chẳng hạn như mối bất hoà trong gia đình, thất nghiệp, làm ăn thua lỗ hoặc các tình huống không có lợi trong cuộc sống. Ban đầu, người đó không nhận thức được rằng việc dùng rượu tăng lên đó có thể dẫn đến hậu quả không tốt. Đôi khi, họ đưa ra một số lời biện hộ cho việc tăng lượng rượu tiêu thụ, chẳng hạn như “Nó giúp tôi quên đi buồn phiền”, “Nó giúp tôi thư giãn”, “Nó giúp tôi ngủ ngon”. Những người vợ/chồng có thể nhận biết tác hại của việc tăng cường uống rượu đối với con người. Điều này có thể dẫn đến cuộc cãi vã và mối bất hoà trong gia đình.

Một người có thể trở nên tốt hơn nếu tự suy xét xem liệu việc tăng cường uống rượu như vậy có ảnh hưởng đến cuộc sống của anh ta/cô ta hay không. Bốn câu hỏi đơn giản bao gồm bài kiểm tra CAGE có thể giúp một người quyết định liệu cô ta/anh ta có gặp vấn đề về rượu hay không. Nếu câu trả lời cho ít nhất 2 câu hỏi là “có” thì chắc chắn người đó cần sự giúp đỡ để giải quyết các vấn đề liên quan đến rượu và phải tìm kiếm sự giúp đỡ đó.

Bài kiểm tra CAGE :
Giảm bớt: Bạn đã bao giờ cảm thấy bạn nên giảm bớt việc uống rượu chưa?
Khó chịu: bạn có cảm thấy khó chịu khi có người chỉ trích việc bạn uống rượu?
Có tội: bạn đã bao giờ cảm thấy xấu xa hoặc tội lỗi vì uống rượu chưa?
Mở mắt: bạn đã bao giờ uống rượu đầu tiên vào buổi sáng để ổn định thần kinh hoặc loại bỏ cảm giác khó chịu do uống rượu nồng độ cao chưa?
Một câu hỏi rất đơn giản khác giúp bạn biết được liệu bạn có gặp vấn đề về rượu không là hãy tự hỏi chính bạn: “Tôi có thực sự CẦN uống rượu không?”
Câu hỏi này có vẻ rất đơn giản nhưng nếu câu trả lời thành thật của bạn là “có” thì rượu đang ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn ở mức độ bạn không thể làm việc đạt kết quả cao mà không có nó. Đây là dấu hiệu giúp bạn tìm kiếm sự trợ giúp để giải quyết vấn đề liên quan đến rượu.

Nhận biết các cá nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu 
Việc quản lý những người gặp phải các vấnđề liên quan đến rượu gồm có 2 bước: đầu tiên là nhận biết và đánh giá người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, thứ hai là điều trị cho họ. Những người dùng quá nhiều rượu sẽ khiến họ rơi vào nhiều tình huống và tình trạng khác nhau ở nhiều mức độ khác nhau và cần sự trợ giúp khác nhau.

Các thầy thuốc lâm sàng hành nghề trong các phòng cấp cứu hoặc tại các trung tâm y tế khác đều bị chìm ngập trong công việc và thường hạn chế họ trong việc điều trị các tình trạng sức khoẻ cấp tính mặc dầu những tình trạng này có mối liên hệ trực tiếp với việc uống rượu. Các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu hiếm khi được nhận biết. Ngành tâm thần học nhận thức rõ hơn các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu nhưng các nhà tâm thần học lại thường không điều trị cho các bệnh nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu. Thường thì có các bộ phận điều trị gắn liền với ngành tâm thần học. Các bộ phận này cung cấp các dịch vụ tổng thể đối với các vấn đề liên quan đến rượu. Có nhiều tổ chức NGOs tích cực trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, chất lượng chăm sóc rất khác nhau. Cảnh sát thường tuân theo luật pháp để giải quyết và nếu một người phá tan sự yên bình, họ sẽ không xét đến khả năng người đó đang gặp vấn đề về rượu hay không. Một tình huống cực đoan khác là cảnh sát có thể dùng vũ lực ép buộc một người đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu mà cô hoặc anh ta đã mất khả năng kiểm soát.

Do vậy, một cá nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu có thể không phàn nàn gì về vấn đề sử dụng rượu của anh ta nhưng lại phàn nàn về những hậu quả có liên quan đến việc dùng rượu. Trong những trường hợp như vậy, vấn đề sử dụng rượu sẽ bị bỏ qua nếu không được nghiên cứu cẩn thận.

Bước 1: Nghi ngờ
Mối nghi ngờ các vấn đề liên quan đến rượu có thể nẩy sinh khi có những bằng chứng về các vấn đề trong phạm vi công việc, hôn nhân, tài chính hoặc luật pháp. Báo cáo về việc uống quá nhiều rượu, ngay cả khi dưới dạng phê bình của chồng hoặc vợ bệnh nhân hoặc các thành viên khác trong gia đình có thể là dấu hiệu cho biết có vấn đề. Sự xuất hiện các đặc điểm cai nghiện nên được báo cho các thầy thuốc lâm sàng. Một số triệu chứng về mặt tâm lý và y học hoặc các tình trạng như bệnh gan, triệu chứng tiêu hoá chua, lo lắng, sa sút về trí nhớ, tìm cách tự tử, các tai nạn lặp đi lặp lại, và bạo lực là những dấu hiệu phổ biến đi cùng với chứng nghiện rượu. Mối nghi ngờ chưa rõ ràng đã phát sinh cần phải được khắc phục bằng những các phương pháp nhận biết.

Bước 2: Điều tra tình hình
Việc điều tra chứng nghiện và lạm dụng rượu có thể dựa trên các thiết bị sàng lọc(bảng câu hỏi) hoặc các cuộc kiểm tra phòng thí nghiệm.
Dùng các thiết bị sàng lọc để nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu
Các thiết bị sàng lọc được dùng trong các nghiên cứu dịch tễ học khi nhiều người được sàng lọc để xem có gặp phải vấn đề liên quan đến rượu không. Chúng cũng rất hữu ích trong các hoạt động y tế chẳng hạn như phẫu thuật cho bệnh nhân ngoại trú khi khó thu được lịch sử chi tiết về việc sử dụng thuốc ở mỗi bệnh nhân do thời gian hạn hẹp. Chẳng hạn như, trong khi dùng bảng câu hỏi CAGE được miêu tả trước đó, bác sĩ chỉ hỏi 4 câu hỏi rất đơn giản và dựa trên các câu trả lời có/không, thầy thuốc lâm sàng có thể kết luận liệu cá nhân đó có đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu. Việc sàng lọc bảng câu hỏi giống như CAGE được coi là đáng tin cậy và khả thi hơn là các bài kiểm tra phòng thí nghiệm, đặc biệt là ở những nước đang phát triển và trong cộng đồng.
Nhiều thiết bị sàng lọc đã được triển khai để đánh giá các khía cạnh khác nhau của các vấn đề liên quan đến rượu. AUDIT là một bảng câu hỏi tự thực hiện do WHO triển khai. Các bảng câu hỏi khác phải được thực hiện bởi hoặc là bác sĩ hoặc là một người am hiểu lĩnh vực lạm dụng rượu. Những bảng câu hỏi này nhằm thu được những thông tin về rượu và các tác dụng của nó đối với cuộc sống của cá nhân theo cách thức khách quan.

Các thiết bị sàng lọc đối với sự rối loạn do dùng rượu:
• Máy đo sự nghiện rượu (ADS)
• Bài kiểm tra nhận biết các rối loạn do dùng rượu (AUDIT)
• Bài kiểm tra khung
• Máy đánh giá việc rút thuốc của viện y tế (CIWA-Ar)
• Bài kiểm tra chứng nghiện rượu Munich (MALT)
• Bài kiểm tra việc sàng lọc chứng nghiện rượu Michigan (MAST)
• MAST ngắn
• Máy đo việc uống rượu do ám ảnh hoặc do không kiểm soát được (OCDS)
• Sự sẵn sàng thay đổi bảng câu hỏi (RTCQ)
• Bài kiểm tra ngắn về sự sàng lọc chứng nghiện rượu Michigan (sMAST)
• T-ACE các câu hỏi TLFB: Alcohol Time Line Follow Back
• Các câu hỏi TWEAK
• Phụ lục về sự nghiêm trọng của rượu

Việc sử dụng các bài kiểm tra phòng thí nghiệm để nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

Vật đánh dấu sinh học về chứng nghiện rượu: Vật đánh dấu sinh học là các thông số về cơ thể mà khi được báo đều có liên quan đến các rối loạn cụ thể. Những vật đánh dấu này có thể là các vật đánh dấu tiêu biểu hoặc các vật đánh dấu tình trạng. Các vật đánh dấu tiêu biểu cho biết khả năng dễ bị tổn thương của một người bị rối loạn đặc biệt. Nhiều vật đánh dấu tiêu biểu cho các vấn đề liên quan đến rượu đã được nhận biết. Các vật đánh dấu tình trạng cho biết giai đoạn hoạt động của bệnh và được bao động chỉ khi bệnh bắt đầu xuất hiện. Các vật đánh dấu tình trạng đều rất hữu ích để nhận biết bệnh nhân bị rối loạn do dùng rượu trong các nghiên cứu dịch tễ học cũng như trong việc khám và điều trị bệnh. Chúng cũng rất hữu ích trong việc kiểm soát sự kiêng khem vì nhiều vật đánh dấu tình trạng cho biết việc dùng rượu gần đây. Nhiều vật đánh dấu này rất hữu ích khi được dùng cùng với bảng câu hỏi sàng lọc và đánh giá lâm sàng.

Vật đánh dấu về chứng nghiện rượu
1. Asparate Aminotransferase (AST) và Alanine Aminotranferase (ALT)
Nếu chỉ số ALT tăng, sẽ cho biết gan bị hỏng vì bất kỳ nguyên nhân nào. Hữu ích khi được kết hợp với các bài kiểm tra khác
2. Gammaglutamyl Transferase (GGT)
Bài kiểm tra được dùng phổ biến nhất. Chỉ số GGT tăng cao cho thấy khả năng gan bị hư hại nặng do rượu hoặc cũng có thể do các nguyên nhân khác. Bài kiểm tra hữu ích kết hợp với các bài kiểm tra khác cũng là để giám sát các kết quả điều trị bệnh hoặc khuyến khích bệnh nhân không uống nhiều rượu nữa.
3. Thể tích Corpuscular trung bình(MCV)
Thường được dùng với GGT. Bài kiểm tra hữu ích kết hợp với các bài kiểm tra khác.
4. Erythrocyte Aldehyde Dehydrogenase (ADH)
Các mức độ được giảm đối với người sử dụng rượu quá nhiều trong thời gian dài.
5. Chuyển đổi carbohydrate không đầy đủ (CDT)
Các mức độ tăng ở người lạm dụng rượu trong thời gian dài. Có thể phân biệt việc uống uống rượu quá nhiều trong thời gian gần đây với việc kiêng khem và uống rượu ở mức độ nhẹ.

Bước 3: Tiêu thụ
Việc khẳng định lần cuối về sự nghiện rượu ở mỗi cá nhân mà được nhận biết thông qua bài kiểm tra sàng lọc sẽ phải được tiến hành thông qua ít nhất một cuộc phỏng vấn về khám và điều trị, tìm hiểu các chi tiết về việc dùng rượu và các tác dụng của nó lên các mặt khác nhau của đời sống. Phương pháp tiếp cận có tính thuyết phục và nhẹ nhàng đối với người phỏng phần là rất cần thiết, tránh đối đầu hay khiêu khích. Các tiêu chuẩn và đường lối chỉ đạo chẳng hạn như những tiêu chuẩn của ICD-10 hoặc DSM-IV nên được áp dụng để chuẩn đoán được khách quan. Có thể đào tạo những người hành nghề y nói chung và các nhân viên trợ lý có thể thực hiện cuộc phỏng vấn nhằm đánh giá bệnh nhân theo các tiêu chuẩn này để chuẩn đoán sự nghiện rượu và các vấn đề khác liên quan đến rượu.

Đánh giá một người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu
Ngay khi một cá nhân được khẳng định là đang lạm dụng, nghiện rượu hoặc đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, thì việc đánh giá chi tiết trường hợp đó cần phải được thực hiện trước khi lên kế hoạch điều trị. Việc đánh giá đó bao gồm:
• Các chi tiết về việc dùng rượu: bắt đầu, khoảng thời gian, việc tiêu thụ trung bình mỗi ngày, sự xuất hiện của triệu chứng rút thuốc nếu không được sử dụng, say rượu túy luý, lạm dụng các loại ma tuý khác, những thay đổi gần đây về việc uống rượu.
• Các lý do bắt đầu và tiếp tục uống rượu
• Sức khoẻ suy giảm do rượu: các dấu hiệu cho biết các hậu quả do dùng rượu
• Các vấn đề về hành vi kèm theo việc dùng rượu: đau buồn, các vấn đề về trí nhớ, đa nghi, các vấn đề giữa các cá nhân
• Các hậu quả về mặt luật pháp, xã hội và gia đình do dùng rượu: như được miêu tả trong mục trước và sự giúp đỡ về mặt xã hội hiện có.
• Các hậu quả về tài chính và nghề nghiệp: bao gồm các tình trạng tài chính hiện tại và các tình trạng nghề nghiệp hiện tại.
• Nỗ lực điều trị trước đó: lý do tìm kiếm sự giúp đỡ lần này, động lực để thay đổi

Các rào cản trong việc đánh giá
Không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng có được những thông tin nhạy cảm cần thiết để đánh giá việc dùng rượu được chính xác và hoàn chỉnh. Một số rào cản cụ thể trong việc đánh giá bao gồm:
- Bệnh nhân phủ nhận vấn đề cũng như sự mâu thuẫn về nhu cầu cần sự giúp đỡ ở bên ngoài
- Cảm thấy có tội vì đã dùng rượu và các hành vi liên quan đến việc dùng rượu đã dẫn đến việc giấu kín thông tin
- Cảm thấy xấu hổ vì bị “yếu” hoặc “thất bại” dẫn đến động cơ thúc đẩy không đủ mạnh
- Sự kỳ thị của bệnh nhân và gia đình đã gây cản trở cho quá trình tìm kiếm sự giúp đỡ tích cực
- Các vấn đề khó xử về vai trò của thầy thuốc và các phản ứng có thể gây cản trở cho bệnh nhân tìm kiếm sự trợ giúp
- Sự tiếp thu các hậu quả về mặt luật pháp và các hậu quả khắc nghiệt khác có thể ngăn cản một người tiếp cận với các trung tâm điều trị.
Thậm chí các đặc điểm cá nhân của một bác sĩ lâm sàng cũng có thể là một cản trở trong việc đánh giá các bệnh nhân tiềm năng. Một số vấn đề quan trọng là:
- Kiến thức khoa học về các vấn đề liên quan đến rượu, mặc dầu đang mở rộng nhưng vẫn còn hạn chế
- Thái độ đánh giá đối với những người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu ảnh hưởng đến việc cung cấp việc điều trị hiệu quả
- Ý kiến sai lệch về phép điều trị không có thực về các vấn đề liên quan đến rượu dẫn đến các nỗ lực thiếu nhiệt tâm và không hăng hái về phía đội ngũ điều trị
- Lo sợ mất khả năng kiểm soát các vấn đề liên quan đến rượu thậm chí ở giai đoạn đánh giá sớm nhất

Các phương pháp khắc phục đối với các rào cản trong việc đánh giá
Các rào cản trong việc đánh giá có thể được khắc phục hiệu quả nhờ và các biện pháp tiếp cận việc đánh giá những người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, chẳng hạn như
• Đảm bảo tính riêng tư và bí mật
• Duy trì tính khách quan
• Bày tỏ mối quan tâm và sự sôi nổi
• Bày tỏ sự đồng cảm và thái độ lạc quan
• Sẵn sàng lắng nghe và hiểu trước khi đưa ra kết luận
• Tránh các thông điệp mơ hồ
• Rõ ràng và kiên định đối với vai trò, khả năng và giới hạn của chính mình
• Phát triển khả năng tự xem xét thông qua người trợ giúp (thầy thuốc, nhân viên y tế và bất kỳ người nào khác)

Exit mobile version