All posts by admin

SGGP – Phá đường dây buôn bán ma túy từ Lào về Việt Nam, thu giữ 120.000 viên ma túy tổng hợp


Phá đường dây buôn bán ma túy

từ Lào về Việt Nam,

thu giữ 120.000 viên ma túy tổng hợp

Rạng sáng 1-1-2014, tại thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn (Thanh Hoá), Phòng CSĐT tội phạm về ma túy (Công an tỉnh Thanh Hóa) đã phát hiện, bắt quả tang 4 đối tượng trong đường dây vận chuyển, buôn bán ma túy từ Lào về Việt Nam tiêu thụ, thu giữ tại chỗ 120.000 viên ma túy (hồng phiến) tổng hợp.4 đối tượng bị bắt giữ gồm 2 cặp vợ chồng: Nguyễn Ngọc Hưng (45 tuổi) và vợ là Thoan Thị Vy (44 tuổi) ở xóm Hạnh, xã Đông Tân, huyện Đông Sơn (Thanh Hoá); Lê Thị Ất (39 tuổi) ở xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương cùng chồng là Nguyễn Hữu Bằng (35 tuổi) ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

4 đối tượng: Hưng, Thoan, Ất, Bằng và số ma túy thu được

Các đối tượng trên khai nhận trong quá trình làm ăn buôn bán tại Lào, cả nhóm đã câu kết với 1 đối tượng người Lào mua số ma túy tổng hợp nói trên mang về Việt Nam tiêu thụ. Để vận chuyển số ma túy này, họ đã cho vào một cây xanh và chở bằng xe bán tải về Thanh Hóa. Khi đang giao nhận hàng thì bị phát hiện, bắt giữ. Riêng đối tượng người Lào đã bỏ trốn.Khám nhà vợ chồng Hưng và Vy tại xã Đông Tân, huyện Đông Sơn công an đã thu giữ 90 triệu đồng tiền mặt, 5 cuốn hộ chiếu cùng nhiều tang vật có liên quan.

Phong Hải

 

VNEXPRESS – 66 người trong đường dây buôn heroin đối mặt án tử hình


66 người trong đường dây buôn heroin đối mặt án tử hình

Sáng nay, TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử 89 người bị cáo buộc tham gia buôn bán hơn 5.000 bánh heroin qua Lào - Việt Nam - Trung Quốc, trong đó 66 nghi phạm bị truy tố ở khung hình phạt lên tới án tử hình.Ngoài hành vi mua bán vận chuyển trái phép chất ma túy, các bị cáo còn bị xét xử về tội Đưa hối lộ, Làm môi giới hối lộ, Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, Giả mạo trong công tác, Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, Kinh doanh trái phép, Không tố giác tội phạm…VKSND tỉnh Quảng Ninh nhận định đây là đường dây mua bán, vận chuyển ma tuý xuyên quốc gia với số lượng đặc biệt lớn, nhiều chủng loại (heroin, thuốc lắc, ma túy "đá"), thủ đoạn phạm tội tinh vi. Chúng sử dụng vũ khí và sẵn sàng chống trả khi bị phát hiện...

66 trong 89 bị cáo đang phải đối mặt khung hình phạt truy tố lên tới án tử hình. Ảnh: Xuân Tùng

Theo cáo buộc, có 4 đường dây liên quan vụ này. Đường dây thứ nhất do Sa Văn Cầu (đang trốn truy nã) cầm đầu, chuyên vận chuyển "hàng" từ Lào sang Việt Nam rồi đưa sang Trung Quốc. Đường dây thứ hai do bị cáo Nguyễn Hùng Dũng và Sồng A Lâu (tức Lau) cầm đầu, cung đường vận chuyển như với nhóm của Cầu.Đường dây thứ ba mua bán ma tuý heroin từ Việt Nam sang Trung Quốc do vợ chồng Nguyễn Thanh Tuân tổ chức. Đường dây thứ tư do Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn Ngọc Đoan (tức Lan) cầm đầu. Với bản cáo trạng dài hơn 100 trang, cơ quan công tố xác định từ năm 2006 các bị cáo bắt đầu đưa heroin từ Lào vào Việt Nam. Đến khi bị triệt phá (tháng 8/2013), các đường dây đã mua bán, vận chuyển trái phép hơn 5.000 bánh heroin cùng lượng lớn ma túy "đá" và thuốc lắc. Dự kiến phiên tòa kéo dài đến hết ngày 20/1.


Xuân Tùng

VNEXPRESS – Bên trong làng ma túy số một Trung Quốc


Bên trong làng ma túy số một Trung Quốc

Trưởng thôn cũng như dân chúng Bác Xã - hang ổ ma túy số 1 của Trung Quốc, nơi sản suất tới 30% lượng ma túy đá toàn quốc - đều tỏ thái độ dè dặt và khó chịu, sau chiến dịch triệt phá rầm rộ mới đây.

Tỉnh Quảng Đông điều động 3.000 cảnh sát để triệt phá làng ma túy lớn nhất Trung Quốc. Ảnh:Telegraph


Cánh cửa với ổ khóa bị bẻ gẫy, đồ nội thất bằng gỗ sưa đỏ bày khắp nhà. Đó là cảnh tượng bên trong ngôi biệt thự của ông Thái Đông Gia, cựu bí thư đảng ủy thôn Bác Xã, sào huyệt ma túy lớn nhất Trung Quốc sau đợt triệt phá vừa qua.


Thái không chỉ là một bí thư chi bộ 51 tuổi đơn thuần, mà còn là ông trùm, kẻ bảo kê cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ ma túy tại thôn làng có lịch sử hình thành từ thế kỷ 13 này.


"Thái Đông Gia là ông trùm hậu thuẫn cho mạng lưới tội phạm lớn tham gia vào việc sản xuất, tiêu thụ ma túy, có hành vi tham nhũng, lạm dụng quyền lực và lơ là nhiệm vụ", Xinhua cho biết.


Vương quốc ma túy của Thái sụp đổ từ đêm 29/12, khi 3.000 cảnh sát tỉnh Quảng Đông chia làm 109 tổ hành động, cùng sự yểm trợ của trực thăng và cảnh khuyển, bất ngờ tiến vào thôn Bác Xã thuộc thị trấn Giáp Tây, thành phố Lục Phong.


Ông Quách Thiếu Ba, phó giám đốc công an tỉnh Quảng Đông, cho biết kế hoạch hành động mang tên "Sấm chớp" và "là lần truy bắt tội phạm ma túy lớn nhất của tỉnh từ trước đến nay". Cảnh sát đã đập tan 77 xưởng sản xuất ma túy và một điểm chế tạo thuốc nổ. 182 người liên quan thuộc 18 nhóm buôn bán ma túy tại thôn này bị bắt, bao gồm cả Thái và 13 quan chức địa phương.


Thôn Bác Xã không phải là cái tên xa lạ với lực lượng phòng chống ma túy Trung Quốc. Nó được mệnh danh là "làng ma túy số một" của nước này. Một phần ba lượng ma túy đá của Trung Quốc được làm ra tại đây.


Theo báo cáo của cảnh sát, cứ 5 người dân Bác Xã thì có một người tham gia vào hoạt động sản xuất, vận chuyển và buôn bán ma túy, bao gồm cả người già về hưu, bà nội trợ và trẻ nhỏ.


China Daily hôm qua đưa tin, xe cảnh sát địa phương không chỉ bảo kê cho các băng nhóm tội phạm, mà còn trực tiếp tham gia vào việc vận chuyển ma túy. Trẻ em thì được giao nhiệm vụ bóc các viên thuốc con nhộng chống ho, bởi nhân thuốc là một thành phần để chế xuất ma túy đá.


Cùng với việc Bác Xã không ngừng mở rộng sản xuất ma túy, các chất thải liên quan được chất đống trên đường làng và cánh đồng, khiến đất và nước sông tại đây bị ô nhiễm nghiêm trọng.


Từ nhiều năm trở lại đây, Bác Xã trở thành một "pháo đài" bất khả xâm phạm đối với người ngoài. Lực lượng canh phòng cảnh báo cho tội phạm địa phương về các hoạt động khả nghi quanh thôn. Trong khi đó, các băng nhóm tội phạm được trang bị súng máy và lựu đạn để đe dọa. 9 khẩu súng, 62 viên đạn và một lựu đạn được thu giữ trong chiến dịch "Sấm chớp".


Trong một chuyến điều tra thực địa năm 2012, một phóng viên địa phương bị cảnh cáo không được phép chụp ảnh hoặc ghi hình về những chiếc xe siêu sang đỗ quanh thôn Bác Xã.


Không một ai ở đây dám tiết lộ với phóng viên về việc Thái Đông Gia và 13 quan chức khác bị bắt. "Tôi không biết" và "tôi không nhớ gì cả" là câu trả lời chung của tất cả các chủ cửa hàng và quan chức địa phương tại đây.


"Tôi thật sự không thể nói gì cả. Nếu tôi nói ra điều gì, thì có thể sẽ bị treo cổ", một người dân địa phương nói. Người ta kháo nhau rằng, một dân làng đã bị treo cổ một cách bí ẩn sau chiến dịch truy quét của cảnh sát.

182 người bị bắt giữ trong chiến dịch này, bao gồm cả ông trùm Thái Đông Gia, bí thư chi bộ thôn Bác Xã. Ảnh: Telegraph


Hàng loạt tấm áp phích kêu gọi tội phạm ma túy ra đầu thú trước ngày 15/2 do cảnh sát dán khắp thôn, đã bị dỡ xuống hoặc bôi nhòe. 400 cảnh sát tỉnh được lệnh sẽ phối hợp cùng cảnh sát địa phương tiến hành kiểm tra bắt giữ tội phạm ma túy tại đây trong thời gian một năm. Tuy nhiên, gần như không có cảnh sát nào xuất hiện ở Bác Xã tuần qua.


Một thanh niên địa phương thậm chí còn phủ nhận các cáo buộc chống lại Thái Đông Gia và cho biết con số 20% dân làng tham gia vào hoạt động sản xuất ma túy là quá cường điệu. "Bí thư chi bộ không phải là loại người như báo chí đã đưa", thanh niên này nói. "Các cáo buộc như thế xuất phát từ đối thủ chính trị của ông ấy".


Còn ông Thái Thủy Bảo, quyền bí thư chị bộ thôn Bác Xã mới được bổ nhiệm, rất khó chịu khi bị hỏi về hành vi phạm pháp của người tiền nhiệm, cũng như khi được yêu cầu cho xem các xưởng chế xuất ma túy.


"Tôi mới đến đây ba ngày. Tôi không biết cái gì hết", ông này nói, rồi quay người đi vào phòng làm việc cũ của Thái Đông Gia. Phía bên trên văn phòng là băng rôn mới được treo lên, với hàng chữ: "Thái độ tốt, tính kỷ luật và sự chăm chỉ sẽ giúp bạn tiến lên".


Đức Dương (Theo Telegraph)

VietNamNet – Gã nghiện sát hại dã man người yêu đang mang thai


Gã nghiện sát hại dã man người yêu đang mang thai

Ngày 7/1 công an huyện Bình Chánh, TP.HCM xác nhận bắt giữ và đang làm thủ tục chuyển giao Hà Quốc Tài (SN 1988, ngụ Q.1) cho công an TP.HCM điều tra, xử lý về hành vi “giết người”.

Đối tượng Hà Quốc Tài và hung khí gây án

Được biết, Tài từng có 1 tiền án về tội “cướp tài sản” và là dân nghiện ma túy nặng.

Nạn nhân chết dưới bàn tay tàn độc của Tài chính là người yêu của đối tượng này, chị Nguyễn Thị Cẩm N (SN 1997, quê Kiên Giang). Đáng nói lúc bị Tài sát hại, chị N đang mang thai hơn 4 tuần.


Theo điều tra, trước đây Tài từng chung sống với một phụ nữ ngụ tại Q.8 và có 1 con chung; do cuộc sống bế tắc, bị Tài đánh đập nên người phụ nữ trên đã ôm con bỏ đi. Tài nghiện ma túy nặng, mẹ ruột không cho ở nhà, là phòng trọ của gia đình ở ấp 4, xã Vĩnh Lộc A, nên Tài đến tỉnh Đồng Nai làm thuê cho 1 cơ sở mộc. Nạn nhân trong vụ án này, chị N vốn làm công nhân ở xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh gần nhà Tài.


Đầu tháng 9/2013, Tài quen biết sau đó có tình cảm với chị N. Cứ cuối tuần, Tài từ Đồng Nai về chở chị N đi chơi, 2 người thuê khách sạn sống như vợ chồng. Chính vì vậy, mới đây chị N phát hiện mình có thai. Qua điều tra xác định, sáng 6/1 chị N gọi điện cho Tài thông báo đã có thai. Ngay trong buổi sáng, Tài từ Đồng Nai về chở chị N đến bệnh viện đi khám thai rồi chở về phòng trọ của mẹ ruột mình.


Trưa cùng ngày, Tài rủ bạn là Nguyễn Hữu Đáp (SN 1983, ngụ Q.Bình Tân) đến phòng trọ của mẹ Tài ăn nhậu…Trong lúc ăn nhậu, giữa Tài và chị N phát sinh mâu thuẫn, cự cãi xung quanh việc chị N cho rằng Tài không có trách nhiệm với chị và cái thai trong bụng. Đồng thời Tài tỏ ra ghen tuông khi cho rằng, chị N đã phản bội người tình, đêm Giáng sinh đã từ chối đi chơi với Tài. Bất ngờ Tài chạy vào trong nhà trọ lấy ra 1 đoạn cây gỗ vuông, dài 0,7m đập liên tiếp vào đầu làm chị N chấn thương, gục xuống bất tỉnh tại chỗ. Lúc này mẹ ruột Tài vừa ra ngoài về phát hiện sự việc, chạy tới can ngăn và đưa N đi cấp cứu nhưng quá muộn. Khi nhận tin báo, công an huyện Bình Chánh đã vào cuộc điều tra. Đến 23h đêm công an đã bắt giữ được Tài.


Anh Sinh

Quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

CHÍNH PHỦ -------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ---------------

Số: 221/2013/NĐ-CP

Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2013

NGHỊ ĐỊNH

QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ ÁP DỤNG

BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH

ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC

Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
Chính phủ ban hành Nghị định quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc).

Chương 1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG


Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Nghị định này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh sống.

2. Học viên là người đang chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3. Người sử dụng ma túy trái phép là người đưa ma túy vào cơ thể mà không theo chỉ định của y, bác sỹ điều trị.

Điều 3. Đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính gồm:

1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy nhưng không có nơi cư trú ổn định.

Điều 4. Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định tại Điều 8 Nghị định này.

Điều 5. Không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau:

1. Người theo quy định tại Khoản 2 Điều 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

2. Người đang tham gia các chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng theo quy định tại Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.

3. Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

Điều 6. Những hành vi bị nghiêm cấm trong việc lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, đòi nhận tiền, tài sản, hạn chế quyền hợp pháp của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3. Giả mạo, làm sai lệch hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; hồ sơ đề nghị hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; hồ sơ đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

4. Lợi dụng, bóc lột sức lao động, giao khoán sản phẩm đối với người chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

5. Yêu cầu hoặc gợi ý người chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc gia đình họ đóng góp tiền hoặc vật chất khác ngoài các quy định của pháp luật.

6. Kéo dài quá thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong quyết định của Tòa án.

Điều 7. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bố trí trong dự toán chi thường xuyên hàng năm của các cơ quan, đơn vị theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành.


Chương 2.

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC LẬP HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC


Điều 8. Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm lập biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép của người đó và tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trường hợp cá nhân, tổ chức phát hiện người sử dụng ma túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an cấp xã nơi người có hành vi vi phạm để lập biên bản và xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ:

a) Trường hợp người vi phạm cư trú tại xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm và đã được giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này;

b) Trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và biên bản vi phạm cho cơ quan Công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Việc bàn giao phải được lập thành biên bản, mỗi bên giữ một bản;

c) Trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời gian 15 ngày làm việc, nếu xác định được nơi cư trú ổn định thì thực hiện theo Điểm a hoặc Điểm b Khoản 1 Điều này; nếu không xác định được nơi cư trú ổn định thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này.

2. Trong quá trình điều tra, thụ lý các vụ vi phạm pháp luật, cơ quan Công an cấp huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh phát hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép hoặc dấu hiệu nghiện ma túy của người vi phạm thì tiến hành lập biên bản, xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với người đó:

a) Trường hợp người vi phạm thuộc quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định này. Hồ sơ được gửi cho phòng Tư pháp cấp huyện nơi người đó cư trú.

b) Trường hợp người vi phạm thuộc quy định tại Khoản 2 Điều 3 Nghị định này thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này. Hồ sơ được gửi cho phòng Tư pháp cấp huyện nơi cơ quan lập hồ sơ đóng trụ sở.

Điều 9. Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định:

a) Bản tóm tắt lý lịch;

b) Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền quy định tại Khoản 1 Điều 10 Nghị định này về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

c) Biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép;

d) Bản tường trình của người vi phạm hoặc của người đại diện hợp pháp của họ;

đ) Tài liệu chứng minh đã chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm: Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy và Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

e) Giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma túy tại cộng đồng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc tài liệu chứng minh bị đưa ra khỏi chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế;

g) Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc giao cho gia đình quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

h) Văn bản của cơ quan lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định:

a) Hồ sơ đề nghị quy định tại Điểm a, b, c, d, h Khoản 1 Điều này;

b) Quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc giao cho tổ chức xã hội quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 10. Thẩm quyền xác định người nghiện ma túy.

1. Người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy là bác sỹ, y sĩ thuộc trạm Y tế cấp xã, bệnh xá Quân y, phòng khám khu vực, bệnh viện cấp huyện trở lên, phòng y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc có chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh và chứng chỉ tập huấn về điều trị cắt cơn nghiện ma túy do cơ quan có thẩm quyền cấp. Bộ Y tế hướng dẫn việc tập huấn và cấp chứng chỉ về điều trị cắt cơn nghiện ma túy.

2. Người có thẩm quyền xác định người nghiện ma túy phải chịu trách nhiệm về việc xác định của mình trước pháp luật.

Điều 11. Thông báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều 9 Nghị định này, cơ quan lập hồ sơ thông báo bằng văn bản về việc lập hồ sơ cho người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

2. Văn bản thông báo về việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm các nội dung cơ bản sau đây:

a) Họ và tên người vi phạm;

b) Lý do lập hồ sơ đề nghị;

c) Quyền của người được thông báo: người được thông báo có quyền đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ và phát biểu ý kiến về việc lập hồ sơ tại Tòa án nhân dân cấp huyện;

d) Địa điểm đọc hồ sơ;

đ) Thời gian đọc hồ sơ: thời gian đọc hồ sơ là 05 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.

Điều 12. Gửi hồ sơ để kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Hết thời hạn đọc hồ sơ quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 11 Nghị định này, cơ quan lập hồ sơ đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc gửi Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện để kiểm tra tính pháp lý, bản sao lưu tại cơ quan lập hồ sơ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra phải được thể hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cùng cấp.

3. Việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều này phải bảo đảm phù hợp, đầy đủ theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính đối với các vấn đề sau:

a) Các tài liệu, giấy tờ trong hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 9 Nghị định này;

b) Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 4 Nghị định này;

c) Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 3 Nghị định này;

d) Thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo quy định tại Khoản 2 Điều 7 của Luật xử lý vi phạm hành chính;

đ) Thẩm quyền lập hồ sơ;

e) Trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 8 Nghị định này.

Điều 13. Xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội đối chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị định này với nội dung văn bản kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện.

a) Trường hợp hồ sơ đầy đủ thì đánh bút lục và lập thành hai bản, bản gốc chuyển cho Tòa án nhân dân cấp huyện, bản sao lưu tại phòng Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định của pháp luật về lưu trữ;

b) Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ thì có văn bản đề nghị cơ quan lập hồ sơ bổ sung, trong đó nêu rõ lý do và các tài liệu cần bổ sung vào hồ sơ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, cơ quan lập hồ sơ phải bổ sung các tài liệu theo yêu cầu. Sau thời hạn trên, nếu hồ sơ không được bổ sung, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội trả lại hồ sơ cho cơ quan lập hồ sơ đồng thời thông báo bằng văn bản cho Trưởng phòng Tư pháp và người bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

a) Hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định tại Điều 9 Nghị định này;

b) Văn bản đề nghị của Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện về việc xem xét áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi Tòa án nhân dân cùng cấp. Văn bản nêu rõ tên cơ sở cai nghiện bắt buộc mà người bị đề nghị áp dụng biện pháp này sẽ phải thi hành.

3. Trường hợp Tòa án có văn bản đề nghị làm rõ một số nội dung trong hồ sơ, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Điều 14. Giao cho tổ chức xã hội quản lý người không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Tổ chức xã hội quản lý người không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải bảo đảm các điều kiện:

a) Về cơ sở vật chất, thiết bị: cơ sở phải xây dựng thành khu liên hoàn, cách ly với môi trường bên ngoài để tránh thẩm lậu ma túy và tối thiểuphải có 03 phòng chức năng và các thiết bị kèm theo như sau:

- Phòng khám và cấp cứu: diện tích tối thiểu 10 m2 trong đó có tủ thuốc với đầy đủ các danh mục thuốc, dụng cụ cấp cứu theo quy định của Bộ Y tế;

- Phòng lưu bệnh nhân: diện tích tối thiểu 8 m2 và bằng hoặc lớn hơn 4 m2/người điều trị; trong phòng có đủ mỗi bệnh nhân 01 bộ dụng cụ sinh hoạt gồm giường, chiếu, ga, gối, chăn, màn;

- Phòng thường trực của cán bộ y tế, bảo vệ;

b) Về nhân sự phải có tối thiểu 04 người gồm: phụ trách đơn vị điều trị cắt cơn là y, bác sỹ chuyên khoa tâm thần hoặc đa khoa có chứng chỉ hành nghề theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh và có chứng chỉ tập huấn về điều trị cắt cơn nghiện ma túy; 01 y, bác sỹ điều trị; 01 điều dưỡng viên; 01 bảo vệ.

2. Tổ chức xã hội có trách nhiệm quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục thực hiện theo quy định tại Điều 131 của Luật xử lý vi phạm hành chính và hỗ trợ điều trị cắt cơn nghiện theo quy định của Bộ Y tế.

3. Tổ chức xã hội tham gia quản lý tại Khoản 2 Điều này được hỗ trợ kinh phí trong quá trình quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bao gồm: hỗ trợ trực tiếp cho người của tổ chức xã hội được phân công quản lý, giúp đỡ người nghiện; hỗ trợ tiền ăn, tiền thuốc chữa bệnh thông thường và các chi phí sinh hoạt khác cho người nghiện.

4. Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Nội vụ hướng dẫn điều kiện đảm bảo cho việc tổ chức quản lý người không có nơi cư trú ổn định trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 3.

THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC



Điều 15. Đưa người đã có quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân cấp huyện, cơ quan Công an cấp huyện chủ trì, phối hợp với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội đưa người đi thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Việc đưa người chấp hành quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải được lập thành biên bản, có sự chứng kiến của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã và tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, ấp, bản hoặc tương đương nơi người phải chấp hành quyết định cư trú. Biên bản được lập thành 03 bản, một bản gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi ra quyết định, một bản gửi cơ quan lập hồ sơ và một bản lưu tại cơ quan công an cấp huyện theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

Điều 16. Thủ tục tiếp nhận người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Khi tiếp nhận người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc phải kiểm tra đối chiếu người, giấy chứng minh nhân dân (nếu có) hoặc dấu vân tay với các thông tin trong hồ sơ quy định tại Khoản 2 Điều này để bảo đảm đúng người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và lập biên bản giao nhận người, biên bản ghi rõ tình trạng sức khỏe của người đó, tài liệu, hồ sơ, tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo. Biên bản được lập thành 04 bản, mỗi bên giữ 01 bản, 01 bản gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện để lưu hồ sơ và 01 bản gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi ra quyết định.

2. Hồ sơ tiếp nhận người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm:

a) Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân cấp huyện;

b) Bản sao biên bản đưa người thi hành quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do cơ quan Công an cấp huyện cung cấp;

c) Bản sao tóm tắt lý lịch của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do cơ quan lập hồ sơ cung cấp.

3. Bộ phận Y tế của cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm kiểm tra sức khỏe và lập hồ sơ bệnh án của người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để theo dõi, quản lý; điều trị thích hợp.

Điều 17. Truy tìm đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn

1. Trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn trước khi đưa vào cơ sở, thì cơ quan Công an cấp huyện nơi Tòa án quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ra quyết định truy tìm.

2. Trường hợp người đang chấp hành tại cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc ra quyết định truy tìm đối tượng. Cơ quan Công an có trách nhiệm phối hợp với cơ sở cai nghiện bắt buộc trong việc truy tìm đối tượng để đưa người đó trở lại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

3. Trường hợp tìm được người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bỏ trốn mà không tự nguyện chấp hành yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền thì bị áp giải đưa trở lại cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 2 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất.

4. Thời gian bỏ trốn không được tính vào thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 18. Hoãn, miễn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Người phải chấp hành quyết định nhưng chưa đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận của bệnh viện;

b) Gia đình có khó khăn đặc biệt được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Gia đình có khó khăn đặc biệt là gia đình gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, không có tài sản có giá trị để tạo thu nhập phục vụ sinh hoạt hoặc có bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con bị ốm nặng kéo dài, không có người chăm sóc mà người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc làlao động duy nhất của gia đình đó và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Khi điều kiện hoãn chấp hành quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành.

2. Người phải chấp hành quyết định nhưng chưa đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được miễn chấp hành quyết định theo một trong các trường hợp sau đây:

a) Mắc bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của bệnh viện;

b) Trong thời gian hoãn chấp hành quyết định quy định tại Khoản 1 Điều này mà người đó có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công hoặc không còn nghiện ma túy;

Người tiến bộ rõ rệt là người tích cực lao động, học tập, tham gia các phong trào chung của địa phương, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Người lập công là người dũng cảm cứu người, cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác và được Ủy ban nhân dân cấp xã khen thưởng; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận; có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được tặng giấy khen của Công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên.

c) Đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện.

3. Thủ tục đề nghị hoãn miễn chấp hành quyết định:

a) Hồ sơ đề nghị hoãn miễn bao gồm:

Đơn đề nghị hoãn, miễn chấp hành quyết định của người phải chấp hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ;

Tài liệu chứng minh thuộc diện được hoãn, miễn chấp hành quyết định theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này.

b) Hồ sơ đề nghị gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 19. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Học viên đã chấp hành một nửa thời hạn quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

Học viên có tiến bộ rõ rệt là người nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế, quy trình cai nghiện tại cơ sở, tích cực lao động, học tập, tham gia các phong trào chung của cơ sở và được Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi tắt là Hội đồng) công nhận.

Học viên lập công là người dũng cảm cứu người, cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác và được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc khen thưởng; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận; có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được tặng giấy khen của Công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên;

2. Học viên bị mắc bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai trong thời gian chấp hành quyết định thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

3. Trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ốm nặng có xác nhận của bệnh viện mà được đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian điều trị được tính vào thời gian chấp hành quyết định; sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành; trong thời gian tạm đình chỉ thi hành quyết định mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

4. Định kỳ hàng quý hoặc đột xuất khi có học viên thuộc diện được giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị và tổ chức họp Hội đồng xem xét đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.

5. Căn cứ danh sách học viên được đề xuất, Hội đồng xem xét, biểu quyết đối với từng trường hợp cụ thể và kết luận theo đa số. Trường hợp số phiếu biểu quyết bằng nhau thì ý kiến của Chủ tịch Hội đồng là ý kiến quyết định.

6. Trong thời hạn 02 ngày, kể từ khi nhận được Biên bản họp của Hội đồng, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc lập hồ sơ đề nghị gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở xem xét quyết định.

Hồ sơ đề nghị gồm:

a) Văn bản đề nghị của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc;

b) Danh sách học viên được đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại;
c) Biên bản họp Hội đồng;
d) Kết quả nhận xét, đánh giá hàng tháng của tổ, đội và bản thành tích của từng học viên được đề nghị;
đ) Giấy xác nhận của bệnh viện về tình trạng sức khỏe đối với các trường hợp ốm nặng, bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai.

7. Trong thời gian chờ Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định, nếu người được đề nghị có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Giám đốc cơ sở có trách nhiệm tổ chức họp Hội đồng và làm văn bản đề nghị đưa người đó ra khỏi danh sách xem xét giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn phần thời gian còn lại gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi nhận hồ sơ. Trường hợp đã có quyết định giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn phần thời gian còn lại nhưng chưa thi hành thì đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét hủy quyết định.

Điều 20. Tạm thời đưa học viên ra khỏi cơ sở cai nghiện bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự

1. Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định tạm thời đưa người đang chấp hành quyết định ra khỏi cơ sở cai nghiện bắt buộc để tham gia tố tụng trong các vụ án có liên quan đến người đó. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là các cơ quan được quy định tại Khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự.

Yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải thể hiện bằng văn bản gửi Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc trước khi đưa người đang chấp hành quyết định ra khỏi cơ sở. Văn bản yêu cầu phải có các nội dung chủ yếu sau: họ tên học viên, lý do và thời gian đưa học viên ra khỏi cơ sở.

2. Cơ quan có yêu cầu đưa học viên ra khỏi cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu trách nhiệm đưa đối tượng đi và đưa đối tượng trở lại cơ sở đúng thời hạn đã ghi trong quyết định tạm thời đưa học viên ra khỏi cơ sở. Khi giao, nhận học viên phải lập biên bản theo quy định hiện hành.

3. Trường hợp cần gia hạn thì Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền phải có văn bản đề nghị Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc về việc gia hạn.

Điều 21. Giải quyết trường hợp học viên chết trong thời gian chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Trong thời gian đang chấp hành quyết định, nếu học viên bị chết thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải báo ngay cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân, cơ quan y tế gần nhất để lập biên bản xác nhận nguyên nhân chết. Việc lập biên bản phải có học viên làm chứng. Trong trường hợp cần thiết thì trưng cầu giám định pháp y.

2. Cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm thông báo ngay cho thân nhân học viên chết biết để mai táng. Trường hợp không có thân nhân hoặc thân nhân không đến trong vòng 24 giờ thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm tổ chức mai táng.

Điều 22. Quản lý học viên

1. Học viên được bố trí chỗ ở, sinh hoạt theo tổ, đội và phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Căn cứ nội quy, quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc, hàng tháng, quý, các tổ, đội tổ chức sinh hoạt để đánh giá kết quả rèn luyện, học tập, lao động của từng học viên và bình bầu, xếp loại theo 04 mức: tốt, khá, trung bình và yếu.

3. Tiêu chí xếp loại học viên do Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc xây dựng và ban hành. Học viên phải được tham gia vào quá trình xây dựng tiêu chí xếp loại học viên.

4. Thứ bảy tuần cuối cùng của mỗi tháng, các tổ, đội tiến hành họp bình xét, xếp loại cho từng thành viên. Căn cứ vào tiêu chí xếp loại học viên, từng học viên tự đánh giá xếp loại cho mình, các thành viên khác nhận xét và biểu quyết thông qua. Kết quả bình xét được thông qua khi có ít nhất 2/3 số người dự họp đồng ý. Việc bình xét phải được lập thành biên bản có chữ ký của Tổ trưởng hoặc Đội trưởng và cán bộ phụ trách.

5. Kết quả xếp loại học viên được thông báo công khai trên phương tiện thông tin của cơ sở cai nghiện bắt buộc trong 03 ngày tuần đầu của tháng tiếp theo để lấy ý kiến rộng rãi. Nếu không có ý kiến khiếu nại, Tổ trưởng gửi kết quả xếp loại về Phòng quản lý học viên để ghi vào Phiếu theo dõi đánh giá, xếp loại học viên trong bộ hồ sơ quản lý học viên.

6. Trường hợp có khiếu nại về kết quả xếp loại học viên, trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cán bộ phụ trách tổ, đội có học viên được xếp loại triệu tập họp tổ, đội để xem xét. Việc xem xét được lập thành biên bản gửi Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc để quyết định.

7. Học viên có thời gian cai nghiện, chữa trị tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ đủ ba tuần trở lên được xếp loại theo tháng; nếu từ đủ hai tháng trở lên được xếp loại theo quý. Việc xếp loại được thực hiện theo hướng dẫn tiêu chí xếp loại học viên.

Điều 23. Chế độ cai nghiện, chăm sóc sức khỏe

1. Học viên được sàng lọc, đánh giá mức độ nghiện để xây dựng và thực hiện kế hoạch cai nghiện phù hợp. Học viên được tư vấn, được tham gia sinh hoạt nhóm nhằm giúp họ thay đổi hành vi, nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết tình huống gặp phải trong quá trình cai nghiện và kỹ năng phòng chống tái nghiện.

2. Học viên được điều trị cắt cơn, giải độc; điều trị rối loạn tâm thần và điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Việc điều trị phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.

3. Học viên được lập hồ sơ theo dõi sức khỏe và định kỳ 06 tháng được khám, kiểm tra sức khỏe. Việc khám sức khỏe định kỳ phải được lập thành phiếu khám sức khỏe và được lưu trong hồ sơ theo dõi sức khỏe.

4. Học viên bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo vượt quá khả năng điều trị của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì được chuyển tới cơ sở y tế hoặc đưa về gia đình để chữa trị, chăm sóc. Chi phí điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do bản thân học viên hoặc gia đình học viên tự thanh toán.

Trường hợp học viên có bảo hiểm y tế còn thời hạn sử dụng thì được quỹ bảo hiểm y tế chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.

Trường hợp học viên không có bảo hiểm y tế, cơ sở cai nghiện bắt buộc hỗ trợ đối với học viên là thân nhân của người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng thuộc gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo. Mức hỗ trợ bằng mức quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho đối tượng tương ứng. Trường hợp học viên không thuộc đối tượng này nhưng không còn thân nhân, cơ sở cai nghiện bắt buộc hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo mức bằng mức quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho đối tượng thuộc hộ nghèo.

Điều 24. Chế độ ăn, mặc và sinh hoạt

1. Định mức ăn hàng tháng của học viên được quy định như sau: gạo 17 kg, thịt hoặc cá 1,5 kg, đường bình thường 0,5 kg, muối 1,0 kg, bột ngọt 0,5 kg, nước mắm 01 lít, rau xanh 15 kg, chất đốt 15 kg củi hoặc tương đương.

Ngày lễ, Tết dương lịch học viên được ăn thêm không quá 03 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết nguyên đán học viên được ăn thêm không quá 05 lần tiêu chuẩn ngày thường. Tiêu chuẩn ăn được tính theo giá thị trường của địa phương. Chế độ ăn đối với học viên bị ốm do Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc quyết định theo chỉ định của cơ quan y tế.

2. Học viên được trang bị quần áo và đồ dùng sinh hoạt thiết yếu như sau:

a) Chăn (phù hợp với điều kiện thời tiết tại nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở) và màn: sử dụng định kỳ 03 năm/lần;

b) Hàng năm, mỗi học viên được cấp hai chiếc chiếu, hai bộ quần áo mùa hè, hai bộ quần áo mùa đông, ba bộ quần áo lót, hai khăn mặt, hai đôidép nhựa, hai bàn chải đánh răng, một áo mưa ni lông, một chiếc mũ cứng, một chiếc mũ vải, hai đôi tất chân và một đôi găng tay. Hàng quý, mỗi học viên được cấp một hộp thuốc đánh răng 150 gam, một lọ dầu gội đầu loại 200 ml, 01 bánh xà phòng thơm và 01 kg xà phòng;

c) Băng vệ sinh đối với học viên nữ: 02 gói/người/tháng.

Căn cứ vào định mức hiện vật trang bị cho học viên, cơ sở cai nghiện bắt buộc lập dự toán hàng năm trên cơ sở giá cả thực tế trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

3. Cơ sở cai nghiện bắt buộc tổ chức tiếp sóng các chương trình thời sự trên hệ thống truyền thanh, truyền hình để học viên được tiếp cận các thông tin cần thiết hàng ngày; tổ chức cho học viên tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hoạt động vui chơi giải trí khác ngoài thời gian học tập và lao động. Căn cứ quy mô và điều kiện, cơ sở cai nghiện bắt buộc xây dựng tủ sách và phòng đọc cho học viên, định kỳ hàng tháng, hàng quý tổ chức giao lưu văn nghệ giữa các tổ, đội.

Điều 25. Chế độ học văn hóa

1. Học viên được tham gia các lớp học văn hóa phù hợp với trình độ của mình. Căn cứ vào khả năng và điều kiện thực tế, cơ sở cai nghiện bắt buộc tổ chức dạy văn hóa theo quy định của pháp luật. Cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm tổ chức các lớp học xóa mù chữ theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Cơ sở cai nghiện bắt buộc phối hợp với cơ quan quản lý giáo dục và đào tạo tại địa phương tổ chức thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, tuyển chọn học sinh giỏi và cấp văn bằng chứng chỉ học văn hóa theo định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

3. Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên quan đến việc học văn hóa ở cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Điều 26. Chế độ học nghề

1. Học viên chưa có nghề hoặc có nghề nhưng không phù hợp thì được tham gia học nghề.

2. Cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện hoạt động dạy nghề khi có đủ các điều kiện cần thiết về diện tích phòng học, diện tích nhà xưởng, thiết bị dạy nghề, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình và được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề.

3. Trường hợp không đảm bảo các điều kiện dạy nghề nêu trên, cơ sở cai nghiện bắt buộc được phép tổ chức liên kết đào tạo với các trường dạy nghề, các cơ sở dạy nghề khác tại địa phương. Hình thức liên kết và nội dung dạy nghề phải bảo đảm tuân thủ theo quy định của pháp luật về dạy nghề.

Điều 27. Chế độ lao động

1. Học viên được tham gia lao động trị liệu và được phân công công việc phù hợp với sức khỏe, độ tuổi, giới tính. Lao động trong cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm mục đích trị liệu, giúp cho học viên nhận thức được giá trị của lao động và phục hồi kỹ năng lao động đã bị suy giảm do nghiện ma túy.

2. Thời gian lao động của học viên không quá 03 giờ/ngày. Học viên được nghỉ lao động các ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật. Không tổ chức lao động cho học viên trong giai đoạn cắt cơn giải độc.

3. Học viên được hưởng tiền công lao động phù hợp với kết quả lao động của họ.

4. Trường hợp học viên bị tai nạn lao động thì cơ sở cai nghiện bắt buộc phải tổ chức cứu chữa kịp thời và làm các thủ tục cần thiết để giải quyết chế độ trợ cấp theo quy định của pháp luật.

Điều 28. Chế độ thăm, gặp thân nhân

1. Học viên được quyền thăm gặp thân nhân tại phòng thăm gặp của cơ sở cai nghiện bắt buộc, một tuần một lần, mỗi lần không quá 02 giờ và tối đa không quá 03 thân nhân. Trường hợp gặp lâu hơn phải được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc đồng ý và tối đa không quá 04 giờ. Học viên có vợ hoặc chồng, được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc xem xét, cho phép thăm gặp tại phòng riêng của cơ sở cai nghiện bắt buộc một lần trong tháng và tối đa không quá 48 giờ cho một lần gặp. Căn cứ quy mô và điều kiện, cơ sở cai nghiện xây dựng phòng để học viên thăm gặp gia đình.

2. Việc tổ chức thăm gặp thân nhân được thực hiện theo quy chế của cơ sở cai nghiện bắt buộc. Quy chế thăm gặp của cơ sở cai nghiện bắt buộc ban hành theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Điều 29. Giải quyết chế độ chịu tang

1. Khi có bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con chết thì học viên được phép về để chịu tang. Thời gian về chịu tang tối đa không quá 05 ngày, không kể thời gian đi đường và được tính vào thời hạn chấp hành quyết định.

2. Gia đình học viên phải làm đơn đề nghị cho học viên về chịu tang có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học viên cư trú gửi Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nội dung đơn phải nêu rõ họ tên, số chứng minh nhân dân, nơi cư trú, mối quan hệ với học viên, thời gian đề nghị cho học viên được về chịu tang và cam kết quản lý, giám sát không để học viên sử dụng ma túy trái phép hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác trong thời gian về chịu tang. Gia đình học viên có trách nhiệm đón học viên về và bàn giao học viên lại cho cơ sở cai nghiện bắt buộc khi hết thời gian chịu tang, mọi chi phí đưa đón học viên do gia đình học viên chi trả.

3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đơn, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm xem xét, quyết định việc cho học viên về chịu tang. Quyết định cho về phải được lập bằng văn bản, nêu rõ thời gian được về, trách nhiệm của gia đình trong việc đón, đưa và quản lý học viên trong thời gian về chịu tang. Quyết định được lập thành 03 bản: 01 bản gửi cho gia đình học viên, 01 bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để phối hợp quản lý và 01 bản lưu trong hồ sơ học viên.

4. Việc giao và nhận học viên giữa cơ sở cai nghiện bắt buộc với gia đình phải được lập thành biên bản ghi rõ họ tên học viên, thời gian, họ tên người giao, họ tên người nhận, biên bản lập thành 02 bản mỗi bên giữ một bản.

5. Hết thời hạn ghi trong quyết định tại Khoản 3 Điều này, học viên quay trở lại thì cơ sở cai nghiện bắt buộc phải thực hiện kiểm tra sức khỏe đối với học viên đó để có các can thiệp phù hợp. Trường hợp học viên không trở lại cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc ra quyết định truy tìm theo quy định của pháp luật.

Điều 30. Hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng

1. Trước khi hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 03 tháng, cán bộ tư vấn hướng dẫn học viên chuẩn bị xây dựng kế hoạch tái hòa nhập cộng đồng.

2. Trước khi hết thời hạn chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 45 ngày, cơ sở cai nghiện bắt buộc gửi thông báo về việc học viên chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học viên cư trú và kèm theo các nhu cầu của học viên cần sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng để xây dựng và thực hiện kế hoạch tái hòa nhập cộng đồng khi học viên trở về địa phương.

3. Cơ sở cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm tư vấn cho học viên về việc tái hòa nhập cộng đồng: các chế độ, các dịch vụ y tế liên quan đến cai nghiện ma túy và dự phòng lây nhiễm HIV; hỗ trợ tạo việc làm; các Câu lạc bộ sau cai, Tổ công tác cai nghiện, Đội công tác xã hội tình nguyện, Nhóm tự lực tại địa phương nơi học viên cư trú.

Điều 31. Hết hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Học viên đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc cấp Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Giấy chứng nhận được lập thành 04 bản, 01 bản cho học viên đó, 01 gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, 01 bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học viên đó cư trú và 01 bản lưu tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Học viên không xác định được nơi cư trú và không còn khả năng lao động thì sau khi hết thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì được đưa về cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc đóng trụ sở để chăm sóc.

3. Quyền và nghĩa vụ của học viên sau khi chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:

a) Được cấp chứng chỉ, bằng cấp học văn hóa, học nghề (nếu có);

b) Học viên là thân nhân của người có công với cách mạng, đối tượng bảo trợ xã hội, thuộc gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo được cấp tiền ăn đường, tiền tàu xe để trở về nơi cư trú;

c) Phải trả lại những vật dụng, trang thiết bị, công cụ lao động và bảo hộ lao động đã mượn, trường hợp làm mất hoặc hư hỏng thì phải bồi thường;

Điều 32. Khen thưởng, kỷ luật

1. Cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc tổ chức thực hiện biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen, khen thưởng.

2. Trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, học viên có tiến bộ hoặc có thành tích xuất sắc thì được khen thưởng bằng một trong các hình thức sau:

a) Biểu dương khen thưởng;

b) Đề nghị giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại;

c) Các hình thức khác theo quy định của pháp luật.

3. Trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, học viên vi phạm quy chế, nội quy của cơ sở cai nghiện bắt buộc thì bị kỷ luật bằng một trong các hình thức sau:

a) Phê bình;

b) Cảnh cáo;

c) Giáo dục tại phòng kỷ luật.

4. Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc ban hành quy chế khen thưởng, kỷ luật đối với học viên theo hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Chương 4.

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC



Điều 33. Thành lập, tổ chức lại, giải thể cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Cơ sở cai nghiện bắt buộc thành lập theo quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28 tháng 06 năm 2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập.

2. Cơ sở cai nghiện bắt buộc được thành lập theo địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.

3. Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc thành lập, giải thể cơ sở cai nghiện bắt buộc phù hợp quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Địa phương có ít người nghiện ma túy có thể gửi đối tượng đến cơ sở cai nghiện bắt buộc của địa phương khác trên cơ sở thống nhất giữa hai địa phương.

Điều 34. Nhiệm vụ của cơ sở cai nghiện bắt buộc

Cơ sở cai nghiện bắt buộc có nhiệm vụ:

1. Tổ chức chăm sóc sức khỏe, khám bệnh, chữa bệnh, điều trị cắt cơn nghiện ma túy, điều trị các rối loạn về thể chất và tâm thần cho học viên. Việc khám và điều trị thực hiện theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh.

2. Phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống ma túy, phòng, chống HIV/AIDS, vệ sinh môi trường và công tác đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội cho học viên.

3. Tư vấn, giáo dục nâng cao nhận thức, chuyển đổi hành vi phục hồi nhân cách, phòng, chống tái nghiện ma túy, dự phòng lây nhiễm HIV và các bệnh truyền nhiễm khác cho học viên.

4. Tổ chức dạy văn hóa, dạy nghề, lao động phù hợp với nhu cầu, đặc điểm của mỗi học viên và khả năng, điều kiện thực tế của cơ sở.

5. Bố trí địa điểm và thời gian cho học viên tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giao lưu văn nghệ và các hoạt động vui chơi giải trí khác.

6. Xây dựng tủ sách và phòng đọc, tạo điều kiện để học viên đọc sách báo xem truyền hình để cập nhật thông tin nâng cao hiểu biết và kỹ năng sống.

7. Phối hợp xây dựng mô hình, quy trình chữa trị, cai nghiện, phục hồi; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức và nhân viên của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

8. Quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí theo quy định; giữ gìn an ninh trật tự tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

9. Tổ chức khu vực dành riêng cho học viên là phụ nữ, học viên mắc bệnh truyền nhiễm.

Điều 35. Phối hợp, hỗ trợ trong việc bảo đảm an ninh trật tự và khám chữa bệnh tại cơ sở cai nghiện bắt buộc

1. Khi có vấn đề phức tạp về y tế, an ninh trật tự phát sinh tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản đề nghị Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Công an cấp tỉnh cử cán bộ hỗ trợ cơ sở cai nghiện bắt buộc để xử lý, giải quyết. Trường hợp cơ quan được đề nghị không cử cán bộ hỗ trợ, thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

2. Cán bộ được cử hỗ trợ cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự chỉ đạo và phân công của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 5.

TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC


Điều 36. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

1. Xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Ban hành các biểu mẫu về lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc để thống nhất thực hiện.

3. Chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật về xây dựng đối với các cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chức danh tiêu chuẩn cán bộ cơ sở cai nghiện bắt buộc và trách nhiệm, quyền hạn của Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Y tế xây dựng tài liệu và tổ chức, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về cai nghiện phục hồi tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; phối hợp với Bộ Tài chính quy định chế độ tài chính cho việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

4. Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình học tập, giảng dạy xóa mù chữ cho người bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

5. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cai nghiện ma túy.

Điều 37. Trách nhiệm của Bộ Y tế

1. Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy; chủ trì, phối hợp Bộ Công an hướng dẫn trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy.

2. Nghiên cứu các bài thuốc và phương pháp cai nghiện cho người nghiện ma túy.

3. Chỉ đạo tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế các địa phương về xác định tình trạng nghiện ma túy, điều trị hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy.

4. Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn, chỉ đạo, quản lý các hoạt động y tế trong cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 38. Trách nhiệm của Bộ Công an

1. Hướng dẫn, chỉ đạo cơ quan Công an các cấp trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tổ chức đưa người đã có quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn; đảm bảo an ninh trật tự của các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Tổ chức đào tạo, hướng dẫn việc sử dụng công cụ hỗ trợ và nghiệp vụ cho lực lượng bảo vệ của các cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 39. Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo

1. Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng chương trình học tập, giảng dạy xóa mù chữ cho người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; hướng dẫn, kiểm tra việc dạy văn hóa, tổ chức thi, cấp bằng, chứng chỉ học văn hóa và hỗ trợ giáo viên dạy xóa mù chữ tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Hướng dẫn, chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo địa phương tạo điều kiện cho học viên được tiếp tục học tập sau khi chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 40. Trách nhiệm của Bộ Tài chính

Chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; quản lý đối tượng không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ tục đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đưa người có quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; truy tìm đối tượng bỏ trốn và các khoản chi phí cho học viên trong thời gian chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Điều 41. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp

1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm:

a) Xây dựng và thực hiện Đề án thành lập, tổ chức lại, giải thể các cơ sở cai nghiện bắt buộc phù hợp với nhu cầu cai nghiện và quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;

b) Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trực thuộc, tổ chức phổ biến, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên trong ngành thực hiện việc lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

c) Bố trí nguồn lực cho công tác lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

d) Định kỳ kiểm tra việc lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

2. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm:

a) Chỉ đạo Phòng Tư pháp, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc lập hồ sơ đề nghị và thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

b) Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp xã tạo điều kiện cho những người đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tìm việc làm, tái hòa nhập cộng đồng và dự phòng tái nghiện.

3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm:

a) Tổ chức lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chỉ đạo quản lý người vi phạm trong quá trình lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

b) Phối hợp với cơ quan Công an cấp huyện trong việc tổ chức đưa người đã có quyết định vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

c) Hỗ trợ, tạo điều kiện để người chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tham gia các nhóm tự lực, câu lạc bộ của người sau cai, giúp họ có việc làm ổn định, tái hòa nhập cộng đồng, dự phòng tái nghiện.

Chương 6.

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH


Điều 42. Hiệu lực thi hành

1. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2014.

2. Đối với học viên đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh theo Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng biện pháp đối với người chưa thành niên người tự nguyện và cơ sở chữa bệnh thì tiếp tục thực hiện phần thời gian còn lại theo quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đã ban hành.

3. Bãi bỏ Nghị định số 43/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định việc đưa người nghiện ma túy, người bán dâm không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh.

4. Bãi bỏ các Điều 2, 3, 4, 5, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38 và Chương IV Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng biện pháp đối với người chưa thành niên người tự nguyện và cơ sở chữa bệnh.

5. Bãi bỏ Khoản 2, Khoản 3 Điều 1 Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2004 quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng biện pháp đối với người chưa thành niên người tự nguyện.

Điều 43. Trách nhiệm thi hành

Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này./.

 

Nơi nhận:
Ban Bí thư Trung ương Đảng;
Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
Văn phòng Tổng Bí thư;
Văn phòng Chủ tịch nước;
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội;
Văn phòng Quốc hội;
Tòa án nhân dân tối cao;
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
Kiểm toán Nhà nước;
Ngân hàng Chính sách xã hội;
Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTCP, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo;
Lưu: Văn thư, KGVX (3b).


TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng

VNEXPRESS – Xác cô gái lõa thể trong biệt thự


Xác cô gái lõa thể trong biệt thự

Nạn nhân nằm trên giường, cơ thể bị nhiều vết chém. Nghi can giết người ngồi co ro trong nhà vệ sinh, vẻ mặt sợ hãi, xung quanh la liệt dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Căn biệt thự nơi phát hiện xác cô gái. Ảnh: Phương Sơn

Án mạng được phát hiện vào sáng 14/12 tại căn biệt thự 2 tầng được chia làm nhiều phòng trọ trong ngõ 68 phố Ngọc Thụy (Long Biên, Hà Nội). Người quản lý biệt thự tên Dinh cho biết đêm 13/12, liên tiếp nghe thấy tiếng cãi vã của đôi nam nữ phát ra từ phòng của Nguyễn Hữu Chính (34 tuổi).Sáng hôm sau, thấy phòng này im ắng lạ thường, anh Dinh vào kiểm tra thì phát hiện xác một cô gái nằm ở trên giường. Chính ngồi co ro trong nhà vệ sinh, vẻ mặt sợ hãi. Không nói câu gì, thấy anh Dinh, Chính vội đi ra khỏi phòng nhưng bị giữ lại.


Cơ quan công an khám nghiệm tại hiện trường. Ảnh: Phương Sơn

Tại hiện trường, nhà chức trách ghi nhận, nạn nhân chết trong tư thế không áo quần. Trên người có nhiều vết chém, ngón tay và ngón chân có vết cứa sâu. Trong phòng có nhiều dụng cụ sử dụng ma túy đá.Cánh sát nghi ngờ Chính là nghi can gây án, khi bị dẫn giải về trụ sở công an, anh ta vẫn trong "trạng thái ngáo đá". Chính đang làm MC, ca sĩ nghiệp dư hát trong đám cưới, quán bar ở Hà Nội. Nạn nhân tên Tuyết, 29 tuổi.

Chiếc xe của nạn nhân tại phòng trọ. Ảnh: Phương Sơn

Chính thuê trọ trong căn biệt thự từ hơn 4 tháng qua. Người đàn ông đã có vợ và hai con ở quê này được cho là có quan hệ phức tạp, từng dẫn nhiều cô gái về đây. Gần một tháng nay, Chính thường xuyên đưa Tuyết về nơi trọ.Công an quận Long Biên đã tạm giữ Chính để điều tra nguyên nhân án mạng.


 Phương Sơn

VNEXPRESS – Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng


Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn

bậc nhất đất Cảng


Khi cảnh sát ập vào vũ trường UFO Club, một trong những điểm ăn chơi trác táng nhất tại Hải Phòng, 4 vũ nữ mặc bikini siêu nhỏ say sưa “múa cột” trong khi một số khác thọc vội tay vào áo ngực phi tang bao cao su và thuốc kích dục.

Chuyên án đột phá UFO Club mang bí số 108T được Cục CSĐT tội phạm về ma túy (C4, Bộ Công an) xác lập và tuyệt đối giữ bí mật đến phút cuối. Các phương án chống bạo động, chống cháy, thu gom dân chơi, kiểm tra dương tính ma tuý, chốt chặn các tuyến giao thông thuỷ bộ, khống chế kẻ manh động… đều được Ban chuyên án tính toán kỹ lưỡng.


Hơn 22h ngày 29/2/2008, khi Hải Phòng bắt đầu thưa bóng người trên các tuyến đường thì lực lượng đột kích từ nơi ém quân bí mật lặng lẽ lên các xe đặc chủng, tiến về hướng đường Lạch Tray và không hề biết họ đang đi đâu, làm gì. Chỉ vài cán bộ chủ chốt trong Ban chuyên án được biết trước thông tin về cuộc đột kích. Trước đó, các thành viên phá án được yêu cầu tắt điện thoại di động, thực hiện lệnh cấm trại, chỉ liên lạc bằng bộ đàm để đảm bảo thông tin được giữ bí mật một cách tuyệt đối. Các thành viên này chỉ biết nhiệm vụ của mình khi sát giờ G.


Trước giờ G, một mũi trinh sát đã lọt vào trong vũ trường, có mặt ở các vị trí then chốt: DJ (vị trí điều khiển nhạc), cửa bảo vệ, quầy bar... Các trinh sát khác trong vai “dân chơi”, ngồi gọn một bàn, vì kinh phí có hạn nên nhấm nháp Heineken chờ giờ tập kích. Mỗi trinh sát hoá trang này được phát một chiếc băng đỏ, sẽ được đeo vào tay khi lệnh tập kích phát ra để các lực lượng khác không nhầm lẫn với dân chơi.


23h, từ ngã 3 đường Lạch Tray với đường Thiên Lôi thuộc phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền dẫn vào UFO Club bị phong tỏa bởi cảnh sát giao thông và cảnh sát cơ động, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Thoáng thấy bóng xe đặc chủng lao vào từ lối duy nhất là đường Thiên Lôi, lực lượng bảo vệ của UFO đã hô nhau đóng sập cổng nhưng không kịp. Khi các chiến sỹ thuộc C17 và Công an Hải Phòng ập vào, 4 vũ nữ mặc bikini siêu nhỏ vẫn say sưa “múa cột”. Một số thiếu nữ trong trang phục thiếu vải thọc vội tay vào áo ngực phi tang bao cao su và thuốc kích dục.


Các mũi trinh sát vô hiệu DJ, nhân viên bảo vệ, nhân viên quầy bar và chốt chặt các cửa ra vào. Nhiều dân chơi và bảo vệ định manh động, lập tức bị quật ngã. Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm, trinh sát hoá trang và nhiều đơn vị khác xông vào. Dân chơi bị khống chế và ngồi ngay xuống chân bàn để cơ quan chức năng làm nhiệm vụ. Một vài kẻ tiếp tục nhắn tin, gọi điện hay tìm cách phi tang ma tuý tổng hợp ngay lập tức bị cảnh cáo và trấn áp lập tức.


Kiểm tra đến tủ đựng quần áo vũ nữ, lực lượng phá án lôi ra được một mớ trang phục 2 mảnh của vũ nữ. Các trang phục siêu tiết kiệm vải này chỉ bé hơn lòng bàn tay.


Ngay trong đêm, hơn 300 người bị tạm giữ, trong số này có 67 người là nữ giới  bị đưa lên xe đặc chủng về Trung tâm Bồi dưỡng huấn luyện nghiệp vụ CA Hải Phòng lấy lời khai và xét nghiệm kiểm tra sử dụng ma tuý. Xét nghiệm ban đầu đã xác định được hơn 50 người có phản ứng dương tính với ma tuý, 4 vũ nữ múa cột có sử dụng ma tuý tổng hợp.


Kiểm tra vũ trường, công an thu 35 viên ma túy tổng hợp, 30 gói Ketamin E, một khẩu súng ngắn, nhiều thuốc kích dục và hàng trăm chai rượu ngoại không tem...



Vũ trường UFO Club là một trong những tụ điểm ăn chơi trác táng nhất đất cảng Hải Phòng.


Một tụ điểm ăn chơi thác loạn khác được mệnh danh là “New Century” đất Cảng Hải Phòng cũng vừa được các trinh sát Cục CSĐT tội phạm về ma túy (C47), Bộ Công an và Công an TP Hải Phòng triệt xóa thành công. Đêm 1/6/2013, Công an quận Ngô Quyền (Hải Phòng) tập kích câu lạc bộ Thủy Cung, nằm trong khuôn viên Cung văn hóa, thể thao thanh niên, tạm giữ gần 30 người (chủ yếu là học sinh) tổ chức, sử dụng ma túy. Tuy nhiên, vụ bắt giữ này không làm các “dân chơi” trên địa bàn e ngại, họ vẫn đến với vũ trường M.O.S, vào karaoke Ánh Dương nằm trong khuôn viên này để “đập đá”, ăn “kẹo”… thể hiện “đẳng cấp”.


Một trinh sát của Cục C47, Bộ Công an đã chia sẻ rằng, các anh đã điều tra, khảo sát vũ trường M.O.S từ năm 2010 và nhận thấy, vũ trường này có nhiều hoạt động nhức nhối. Cho tới giữa năm 2013, khi nhận được nhiều đơn thư phản ánh của người dân trong khu vực vì những tệ nạn thường xuyên xảy ra tại đây, các trinh sát đã tập trung xác minh.


Phía bên ngoài vũ trường M.O.S là khoảng 10 nhân viên làm nhiệm vụ cảnh giới, bảo kê và hướng dẫn xe ra, xe vào. Số nhân viên này hoạt động theo ca, cứ tốp này nghỉ thì tốp kia thay, vậy nên khách lạ, khách quen, hoặc khách vãng lai tới đều được đám nhân viên phía ngoài nắm được hết và báo vào bên trong. Do vậy, thoạt đầu các trinh sát chỉ có thể đứng ở phía ngoài quan sát, tìm hiểu giờ giấc hoạt động, lượng khách ra vào vũ trường để nắm tình hình. Khi nắm được những thông tin phía ngoài, kế hoạch tiếp cận bên trong được triển khai.


Các trinh sát trẻ của Cục C47 trong vai những dân chơi vào đặt bàn trong M.O.S. Mỗi lần vào như vậy, các anh phải đi một tốp 4-5 người gồm cả trinh sát nam và trinh sát nữ, “nghiến răng” gọi bia, rượu mạnh ra uống và bắt đầu quan sát.


Một trinh sát chia sẻ, việc của trinh sát là khi vào trong phải ghi nhớ được cách sắp xếp, bố trí và sơ đồ của vũ trường. Để khi phá án không xảy ra sai sót, các trinh sát phải ghi nhớ thật kỹ những ngóc ngách trong vũ trường, đường đi lối lại, cách thức ra vào của dân chơi. Tuy nhiên, nếu cứ vào gọi rượu ra uống, mắt dáo dác nhìn khắp nơi thì chẳng mấy chốc sẽ bị các nhân viên trong vũ trường phát hiện. Chính bởi thế, các trinh sát thường xuyên thay đổi “vai diễn” cho nhau mỗi khi đến đây. Hôm thì người này sẽ kéo bạn đến mừng sinh nhật mình, hôm khác người kia do trúng mánh nên kéo nhau tới đập phá…


Theo tài liệu trinh sát báo về lãnh đạo đơn vị, để vào bên trong vũ trường, dân chơi phải đi qua một chiếc cầu bắc qua hồ. Khi vào trong, vũ trường được thiết kế là một bar lớn 2 tầng, mỗi tầng khoảng hai chục bàn rượu. Trên mỗi bàn là những bình hút shisa được bày ra cho dân chơi thoải mái xài. Các trinh sát cho biết, những chiếc bình shisa này để ngụy trang và tạo điều kiện cho dân chơi hút cỏ, hút ke… một cách thoải mái. Ở tầng 1, ngay trước quầy bar là khoảng 10 bàn VIP. Những bàn này dân "nhai kẹo", "đập đá" vẫn tụ tập bay tới sáng.


Nhớ lại những ngày ngược xuôi Hà Nội - Hải Phòng để trinh sát, xác minh vũ trường này, nhiều cán bộ Cục C47 vào vũ trường phải tự bỏ tiền túi ra mua rượu uống để làm “phí” quan sát. Mà giá cả trong vũ trường thì đắt đỏ kinh khủng, mỗi chai nước suối ở ngoài chỉ 5.000-10.000 đồng, nhưng vào vũ trường M.O.S giá đội lên 100.000 đồng. Đắt nhất là rượu. Một chai rượu ngoại do vũ trường M.O.S bán ra trung bình gần 4 triệu đồng, chưa kể những bình shisa bầy ở đó, khách chỉ cần sờ vào cũng mất tiền trăm...


Trong quá trình trinh sát, tổ công tác phát hiện, phía sau vũ trường là quán karaoke Ánh Dương cũng là một tụ điểm chứa chấp, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Các dân bay không chỉ vào vũ trường, mà sau nửa đêm, họ thường kéo vào các phòng karaoke ở đằng sau để bay lắc, thậm chí là xô xát đánh nhau. Sau gần 2 tháng tập trung trinh sát, cuối cùng việc khảo sát ở vũ trường M.O.S đã được tổ công tác hoàn tất. Theo đó, các anh đã báo cáo về Ban chuyên án xin ý kiến triển khai. Cục C47 đã xác lập chuyên án mang bí số 045M để tập trung lực lượng, phương tiện phục vụ công tác đấu tranh.


Hôm đó, 80 cán bộ chiến sỹ thuộc lực lượng phòng chống ma túy, Công an Hà Nội, Cục C47, C51, A69, Bộ Công an đã về Hải Phòng. Tại đây, có khoảng 100 chiến sỹ Cảnh sát cơ động và Phòng PC 47, Công an Hải Phòng… đã sẵn sàng, cùng đếm ngược chờ thời cơ phá án. Khoảng 1h, với lực lượng “nội công” được “ém” trong bar M.O.S từ trước, gần 200 cảnh sát của Công an Hà Nội, Hải Phòng và Cục C47, Bộ Công an đã ập vào khống chế các bàn rượu trong quá bar, hàng trăm dân chơi không kịp trở tay.


Khi tiếng nhạc dừng lại, ánh sáng được bật lên, nhưng không ít thanh niên vẫn còn quay cuồng vì phê thuốc. Phát hiện bị bắt giữ, hàng chục người  đã tìm đường tháo chạy ra ngoài. Nhưng lúc này, lối ra vào duy nhất của vũ trường đã bị án ngữ. Tuy nhiên, không ít “dân chơi” đã nhanh tay ném thuốc lắc, tài mà và ma túy đá sang các bàn khác bên cạnh và xuống sàn nhà. Trên sàn nhà vương vãi đầy ma túy gồm các loại như thuốc lắc, tài mà và ma túy đá.


Mất nhiều tiếng đồng hồ, lực lượng công an mới hoàn tất việc khám xét, phân loại, rồi đưa gần 200 "dân chơi" về Trung tâm Huấn luyện và Bồi dưỡng Nghiệp vụ, Công an  Hải Phòng (ở huyện An Dương) để tiếp tục xác minh, xử lý. Trong số này có một số chân dài 9X và dân chơi đến từ các tỉnh, thành phố khác.


Cùng thời điểm, quán karaoke Ánh Dương, nằm phía sau vũ trường M.O.S trong khuôn viên Cung văn hóa thể thao thanh niên cũng bị công an kiểm tra. Bởi một bàn VIP trong vũ trường M.O.S có một đám thanh niên xảy ra xô xát, sau đó đám này lại xuống quán karaoke Ánh Dương chơi ma túy tiếp và đánh lộn ở đây. Tại ba phòng hát của quán karaoke Ánh Dương, Ban chuyên án bắt giữ nhiều người vừa “phê” ma túy vừa “hát” bằng tay với các tiếp viên. Thậm chí, để tỏ rõ đẳng cấp dân chơi, các đối tượng này còn nghênh ngang để cả “đống” cỏ, bộ “ục” để chơi ma túy “đá” ngay trên bàn nước.


Công an tạm giữ gần 240 người có mặt tại vũ trường, tiến hành thử nhanh phát hiện 57 người dương tính với các chất ma túy. Kiểm tra tại vũ trường và quán karaoke, tổ công tác thu được 105 viên ma túy tổng hợp; 3 túi nilon đựng ma túy dạng bột ketamin; 4 túi nilon đựng ma túy dạng đá (20 gram); một gói cần sa; 2 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy tổng hợp, ketamin cùng các tang vật, tài liệu khác có liên quan đến hoạt động của tụ điểm này. Vũ trường M.O.S sau đó bị niêm phong để phục vụ công tác điều tra.


Theo Cảnh sát toàn cầu

VNEXPRESS – Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt


Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt


Thủy quân lục chiến Mexico vừa bắt được tên trùm ma túy đang bị truy nã toàn cầu và từng có tên trong danh sách những người quyền lực nhất thế giới, sau 13 năm truy lùng.


Hai lính thủy quân lục chiến áp giải trùm ma túy Guzman. Ảnh: AFP


AFP dẫn lời các quan chức cho biết Joaquin "El Chapo" Guzman cùng một đồng phạm bị bắt vào sáng sớm qua trong cuộc đột kích vào một khu chung cư ở thành phố nghỉ dưỡng Mazatlan, Mexico. Việc bắt giữ diễn ra mà không cần nổ súng.


"Không có tổn hại nào và không có ai bị thương", Bộ trưởng Tư pháp Mexico Jesus Murillo Karam phát biểu trong buổi họp báo tại nhà chứa máy bay của hải quân ở thành phố Mexico City. Đây cũng là nơi Guzman, 56 tuổi, xuất hiện trước máy quay truyền hình. Trùm ma túy bị hai lính thủy quân lục chiến che mặt khống chế, áp giải lên trực thăng cảnh sát để đưa về một nhà tù được canh gác cẩn mật nhất.


Bắt giữ Guzman là vụ việc liên quan đến ma túy lớn nhất mà chính quyền của Tổng thống Mexico Enrique Pena Nieto thực hiện trong 14 tháng qua. Ông Nieto ca ngợi lực lượng an ninh trên Twitter và "chúc mừng tất cả mọi người". Bộ trưởng Tư pháp Mỹ, Eric Holder, coi việc bắt giữ trùm ma túy "là thành tựu mang tính bước ngoặt, là chiến thắng cho cả người dân Mỹ cũng như Mexico".


Vụ bắt giữ, nhờ sự phối hợp giữa Mỹ với Mexico, đã giáng một đòn mạnh mẽ vào Sinaloa, tổ chức buôn ma túy lớn nhất ở quốc gia Trung Mỹ. Sinaloa thống trị vùng ven biển Thái Bình Dương và thường chuyển ma túy vào Mỹ, châu Âu, châu Á.


Guzman được ca ngợi là "huyền thoại" sau khi hắn thoát khỏi một nhà tù an ninh tối đa ở Mexico trong giỏ đựng đồ giặt hồi tháng 1/2001. Trùm ma túy này từng xuất hiện trong danh sách những người quyền lực nhất thế giới, đứng thứ 67, và trong danh sách tỷ phú của tạp chí Forbes.


Mỹ từng treo giải thưởng 5 triệu USD cho người cung cấp thông tin, giúp nhà chức trách bắt Guzman. Hắn bị cáo buộc là kẻ đứng đằng sau nhiều vụ bạo lực liên quan đến ma túy ở Mexico trong nhiều năm qua.


Nguyễn Tâm

Cai nghiện – ​Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ


Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì

tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ

"Đối với chị em tôi hạnh phúc gia đình là điều gì đó thật xa vời. Ước mơ giản đơn chỉ là mong một ngày không có tiếng mắng chửi của người say, tiếng khóc la của mẹ và chị em tôi, không có tiếng đồ đạc vỡ nát..."

Lúc nhỏ, tôi thấy hầu như cha tôi không bỏ qua cuộc nhậu nào, miễn là có ai đó nhậu cùng, với bất kỳ cái gì làm mồi nhậu, không cần phải sơn hào hải vị, chỉ cần có rượu.

Mỗi lần thấy cha chuẩn bị nhậu là chị em tôi lại nơm nớp lo sợ, không đứa nào dám đi chơi, ở nhà để cha tôi sai bảo: Nào là nấu ăn, dọn bàn, nào là mua thuốc, mua rượu, không biết phải mua bao nhiêu lần, bất kể giờ nào.

Từ nhỏ chị em tôi đã phải luôn sống trong nỗi sợ hãi, sợ khi cha tôi mỗi lần nhậu say có thể chửi vợ, chửi con; thậm chí là đánh đập khi có ai dám cãi lại. Mà thường chỉ có mẹ tôi, nhiều khi không chịu nổi những lời mắng chửi vô lý, bà dám nói lại vài câu là bị cha tôi đuổi đánh không thương tiếc.

Khi say, có lẽ cha tôi cũng không biết mình đang làm gì, mặc cho bốn chị em tôi khóc lóc, mẹ tôi van xin, cha tôi vẫn đập phá hết đồ đạc và đánh mẹ. Chúng tôi, vì quá sợ hãi có khi cũng không dám khóc, cũng không dám bênh vực cho mẹ.

Có những đêm mẹ tôi sợ quá phải về nhà bà ngoại ngủ lại, đợi sáng cha tôi tỉnh rượu mới dám về nhà. Đó là những đêm còn may mắn, có những đêm cha tôi xuống cả nhà bà ngoại tìm bằng được mẹ tôi về, cha tôi còn tuyên bố nếu mẹ tôi không về thì sẽ châm lửa đốt nhà. Có những hôm mẹ tôi sợ quá phải về, lại chịu những lời mắng chửi, những trận đòn thừa sống thiếu chết từ cha tôi.

Mỗi đêm, thường thì khoảng hơn 10 giờ đêm thì cha tôi mới về nhà, chỉ cần nghe tiếng cha tôi về là chị em tôi lại hồi hộp, sợ hãi, dù chưa ngủ cũng nằm im không nhúc nhích hoặc có khi vừa nghe tiếng cha ở đầu ngõ là chị em tôi đều tắt đèn lên giường giả vờ ngủ. Có những khi cha tôi đi làm ăn xa, vài tháng mới về, chị em tôi cứ mong cha đi lâu lâu thêm một chút.

Đối với chị em tôi hạnh phúc gia đình là điều gì đó thật xa vời. Ước mơ giản đơn đối với người ta nhưng sao đối với chị em tôi nó xa xôi quá, chỉ là mong một ngày không có tiếng mắng chửi của người say, tiếng khóc la của mẹ và chị em tôi, không có tiếng đồ đạc vỡ nát. Nhưng tất cả cũng chỉ là mơ ước, và cái mơ ước đó suốt tuổi thơ cũng không thể trở thành sự thật. Cũng vì chán nản, bế tắc chị em tôi đều bỏ học giữa chừng đi làm công nhân, sống xa gia đình xem như một sự giải thoát.

Tuổi thơ của chị em tôi thiếu thốn tình cha, nói là thiếu thốn bởi lẽ những khi tỉnh táo cha tôi rất lo làm ăn, thương yêu chị em tôi, nói chuyện với vợ con rất tình cảm. Từ nhỏ đến lớn ngày nào tôi cũng ước giá như không có rượu, giá như cha tôi không nghiện rượu thì cuộc sống của chị em tôi có lẽ đã khác đi, ít nhất là trong mỗi giấc mơ không còn ám ảnh, không còn sợ hãi, không còn giật mình khóc giữa đêm khuya. Nếu không có rượu hẳn cha tôi sẽ là người chồng, người cha tốt.

Chị em tôi lớn lên với những vết sẹo trong tâm hồn không thể nào xóa nhòa được. Bây giờ, mỗi lần nghĩ lại tôi đều sợ hãi, thỉnh thoảng tôi vẫn mơ những giấc mơ tuổi thơ hỗn độn. Và có lẽ, niềm tin vào hạnh phúc gia đình, vào tương lai tươi sáng ít nhiều đã bị bào mòn trong mỗi tâm hồn của chị em chúng tôi.

LÂM HIỀN

Tiền Phong – Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

TP - Gào thét, chửi bới, đập phá, đánh vợ con, thậm chí nhìn vợ thành “con ma”, là hành động của những người nghiện rượu. Nhiều người vì rượu mà mang trong mình nhiều căn bệnh nguy hiểm

Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu



TP - Gào thét, chửi bới, đập phá, đánh vợ con, thậm chí nhìn vợ thành “con ma”, là hành động của những người nghiện rượu. Nhiều người vì rượu mà mang trong mình nhiều căn bệnh nguy hiểm


Rượu bia quá đà có thể gây xích mích, bất hòa, làm tổn thương tình cảm với người thân, bạn bè. Rượu bia quá đà có thể gây bệnh, thay đổi tâm tính, tiêu tốn tiền bạc, băng hoại đạo đức. Rượu bia quá đà có thể cướp đi mạng sống người vô tội. Rượu ở ta có mặt mọi lúc, mọi nơi, chia vui cũng như giải sầu. Uống thế nào là đủ, là vui?


Gào thét, chửi bới, đập phá, đánh vợ con, thậm chí nhìn vợ thành “con ma”, là hành động của những người nghiện rượu. Nhiều người vì rượu mà mang trong mình nhiều căn bệnh nguy hiểm.


Cơm chan nước mắt

Ngồi thu mình một góc ở hành lang Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, chị Lương Thị Nga, 27 tuổi kể lại câu chuyện đời đầy nước mắt của mình. Chồng chị, anh Nguyễn Đức Dũng, 30 tuổi, nghiện rượu từ năm 2007.


“Hồi mới cưới, ai cũng mừng cho em vì lấy được chồng Hà Nội, đẹp trai. Nhưng hạnh phúc chả được bao lâu, thì em phát hiện chồng nghiện rượu nặng. Lúc đầu anh ấy còn chối bảo uống cho vui nhưng dần dần không thể chối được rượu, say xỉn suốt ngày, chửi bới mọi người”, chị Nga mở chuyện.


Tết 2008, tết đầu tiên, chị Nga dẫn chồng về quê Hưng Yên ra mắt gia đình, họ hàng. Sau một ngày chúc tụng say sưa, chiều tối 2 vợ chồng lên đường trở về Hà Nội. Do phải đi bộ một đoạn khá xa để ra bến đò, đang say lừng xừng đi được một lúc anh Dũng nằm lăn ra đường ăn vạ, bắt vợ gọi taxi đưa về.


“Ở quê gọi xe ôm còn khó, lấy đâu ra taxi, tôi cố động viên, nịnh nọt anh đứng dậy đi tiếp nhưng tôi càng nói anh càng gào lên chửi bới. Bao nhiêu người qua đường hiếu kỳ nhìn vào, có người thương tình vào dìu anh đứng dậy nhưng anh vẫn nằm lăn ra ăn vạ đến tận đêm, mặc cho tôi lúc đó đang mang bầu đứa con đầu lòng 4 tháng ngồi bên anh nài nỉ”, chị Nga kể lại.


Chị Nga rất đau khổ khi có người chồng nghiện rượu. Chị Nga rất đau khổ khi có người chồng nghiện rượu.


Kể từ đó, anh triền miên trong các cơn say, cuộc sống gia đình dần trở thành “địa ngục”. “Anh mua rượu về nhà ngồi tu ừng ực. Say. Anh ấy như người điên. Gào thét. Chửi bới. Đập nát tất cả mọi thứ. Giờ trong nhà tôi chẳng còn thứ gì nguyên vẹn. Bất cứ đồ vật nào, cái thì vỡ, cái sứt, cái gãy ngổn ngang…”, chị Nga nói trong nước mắt. Dường như chả có lúc nào anh tỉnh táo, 2-3 giờ sáng thức dậy, anh lại cầm chai uống, uống xong lại gào thét, chửi bới. Mỗi lần khuyên ngăn chồng là lại cãi lộn. Từ ngày nghiện rượu, cứ nhìn thấy mặt chị là anh “mày”, “tao” gây sự.


Sinh con gái được 4 tháng, vì sợ chồng ở nhà lên cơn say rồi đánh con, chị bế con ra chợ ngồi bán hoa quả. Khi con biết đi, chị không địu nữa cho con chạy theo mẹ cả ngày khắp các góc chợ, ngõ phố. Chị làm nghề bán hoa quả, sáng còn có chỗ ngồi ở góc chợ, chiều gánh bán hàng rong. Do có con nhỏ đi theo nên chị không dám đi xa.


 “Nhiều lúc say quá, ông ấy cầm dao đòi đâm tôi. Nhiều khi nhìn tôi ra bóng ma màu đen. May mắn những lần đó tôi đều chạy thoát được”.

Bà Nguyễn Thị Oanh, Đan Phượng (Hà Nội)

Thời buổi kinh tế khó khăn, mỗi ngày chị kiếm được 50 - 100 nghìn đồng tiền lãi đủ hai mẹ con qua ngày. Còn tiền mua rượu, tiền thuốc thang điều trị bệnh của anh phải nhờ nhà chồng lo liệu. Cả ngày vạ vật ở ngoài đường, đêm về nhà chồng lại chửi bới suốt đêm không cho ngủ. “Đặc biệt mỗi lần ăn cơm là anh ấy chửi, có hôm mâm cơm vừa mới bê ra chưa kịp ăn, anh bê cả hất tung đi, cơm, thức ăn vung vãi khắp nhà. Nhiều lúc bực mình không chịu được tôi cãi lại. Thế là cả nhà om sòm. Con gái đứng thu lu một góc hét lên “thôi bố mẹ đừng cãi nhau nữa”. Tôi sững người đau đớn”, chị Nga kể trong từng tiếng nấc nghẹn.


“Con không cần bố nữa”

 “Rượu đã cướp đi nhiều thứ quý giá của cuộc đời em. Gia đình em ly tán, con gái không dám chơi với bố. Giờ người em mang đầy bệnh tật, trước em bị xung huyết dạ dày, nôn ra không biết bao nhiêu là máu. Giờ em bị xơ gan, thi thoảng bụng lại trướng lên. Chân em cũng đi tập tễnh, vì say rượu em bị tai nạn xe máy gãy chân phải chốt đinh ở đầu gối từ năm 2008 nhưng giờ vẫn chưa lấy ra”.

Anh Nguyễn Đức Dũng, 30 tuổi

Cuộc sống vợ chồng căng thẳng, không thể chịu đựng nổi, sợ con gái ảnh hưởng tâm lý vì phải chứng kiến bố suốt ngày say xỉn, chị Nga bế con về Hưng Yên sống. Mỗi lần chị bỏ đi là anh gọi điện nài nỉ xin hai mẹ con về rồi anh sẽ bỏ rượu, sẽ thay đổi. Nhưng về được vài ngày là anh lại say, lại chửi bới, đập phá. Hè vừa rồi, chị mới ở Hưng Yên lên được mấy hôm, anh lại say, phá đồ xong, anh lôi chị ra đánh chảy máu cả đầu, chị phải đi viện khâu mất 5 mũi. Nhiều lần chị làm đơn ly dị nhưng rồi đành thôi không ra tòa vì thương con.


“Nhưng lần này thì thôi, nốt lần này nữa thôi, mẹ con tôi nhất quyết ra đi (ý chị Nga là sẽ chờ anh ra viện lần này là làm đơn ly dị). Tôi không thể chịu đựng được nữa. Từ khi lấy anh đến giờ anh chỉ có say xỉn, mỗi năm đi viện mấy lần. Cứ đi viện về anh lại uống, uống xong lại đi viện. Riêng năm 2013 này anh đã đi viện 4 lần, mỗi lần kéo dài cả tháng trời. Ai mà chịu nổi”, chị Nga nói.


Rượu đã cướp đi nhiều thứ quý giá của anh Nguyễn Đức Dũng

Rượu đã cướp đi nhiều thứ quý giá của anh Nguyễn Đức Dũng.


Chị Nga kể tiếp: “Tháng 7 vừa rồi, mẹ con tôi ở Hưng Yên, anh gọi điện về nhiều quá, tôi đành bảo con gái “con về ở với bố nhé”. Nó gào lên: “Không. Đó không phải bố của con. Ở lớp con có bạn Đức Anh chưa có bố, con cho bố đi làm bố của bạn ấy đấy. Con không cần bố nữa. Bố gì mà say suốt ngày thế”.


Tim tôi như vỡ thành từng mảnh. Suy nghĩ của con gái tôi mới gần 5 tuổi về bố tồi tệ như thế thì liệu sau này nó sẽ thế nào”, chị Nga khóc nấc từng tiếng. Đúng lúc đó, anh Dũng chồng chị thức giấc lên tiếng gọi vợ. Quệt vội nước mắt, chị lật đật chạy vào. Tôi vào theo cùng.


Uể oải và mệt mỏi, anh Dũng tiếp chuyện. Mắt anh hơi sưng, da vàng, những thao tác của anh chậm chạp. Nói chuyện xưng “em”. Anh nói: “Rượu đã cướp đi nhiều thứ quý giá của cuộc đời em. Gia đình em ly tán, con gái không dám chơi với bố.


Giờ người em mang đầy bệnh tật, trước em bị xung huyết dạ dày, nôn ra không biết bao nhiêu là máu. Giờ em bị xơ gan, thi thoảng bụng lại trướng lên. Chân em cũng đi tập tễnh, vì say rượu em bị tai nạn xe máy gãy chân phải chốt đinh ở đầu gối từ năm 2008 nhưng giờ vẫn chưa lấy ra”.


“Biết vậy sao anh không bỏ rượu đi”, tôi hỏi. Anh im lặng, cúi đầu, đưa tay rứt mấy sợi tóc. “Lần này ra viện anh có quyết tâm bỏ được rượu không”, tôi hỏi tiếp. Anh cười gượng: “Chị hỏi gì mà giống bác sĩ thế. Em đi nhiều bệnh viện lắm rồi. Lần nào ra viện bác sĩ cũng đều lặp lại câu hỏi đó. Thú thực, nhiều lần em cũng quyết tâm lắm nhưng được thời gian ngắn là đâu lại vào đấy. Chỉ cần có vài nghìn đồng trong tay là em đi mua rượu ngay”.



Nhìn vợ thấy “ma”

Dáng vẻ khắc khổ, tiều tụy ngồi cạnh chồng đang sốt li bì phải truyền nước, bà Nguyễn Thị Oanh, 45 tuổi (Đan Phượng, Hà Nội) nói thì thầm: “Khổ lắm, ông nhà tôi nghiện rượu 4 năm nay rồi. Cứ rượu vào là ông ấy nói nhảm, chửi bới ầm ĩ rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Giờ ông ốm quá mới nằm yên, hôm qua đỡ chút, ông cứ xồng xộc đòi ra ngoài để mua rượu”.


Ông Hoàng Trung Hiếu, chồng bà năm nay mới 47 tuổi nhưng nhìn dáng người hom hem, gương mặt nhàu nhĩ, người ngoài dễ nhầm tưởng ông đã ngoài 60 tuổi. Vợ chồng bà làm nghề nông, kinh tế gia đình chỉ trông vào mấy sào ruộng nhưng từ ngày ông nghiện rượu, trong nhà dù không có tiền ông vẫn xách chai đi mua rượu chịu.


Theo bà Oanh, mỗi ngày ông uống khoảng 1 lít rượu, không kể sáng trưa, cứ mở mắt là ông uống. Nhiều hôm ông uống rượu thay cơm. Từ ngày nghiện rượu, tâm tính ông thay đổi, cục cằn, chửi bới vợ con suốt ngày. Đặc biệt, cứ thấy mặt bà là ông xua đuổi. “Nhiều lúc say quá, ông cầm dao đòi đâm tôi. Nhiều khi nhìn tôi ra bóng ma màu đen. May những lần đó tôi đều chạy thoát được”, bà Oanh kể lại.


“Thời gian gần đây, sức khỏe của ông biểu hiện nhiều sự bất thường: Vàng da, tinh thần hoảng loạn, nói nhảm. Thi thoảng ông gào lên bảo có bóng ma màu đen trong nhà đang đuổi theo ông”, bà Oanh chia sẻ. Vào viện Sức khỏe Tâm thần, các bác sĩ cho biết, chồng bà bị men gan cao, tổn thương thần kinh, ảo giác do hậu quả của việc nghiện rượu lâu năm.


Theo các bác sĩ khoa điều trị nghiện chất, Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, tại đây hầu như ngày nào cũng có bệnh nhân bị nghiện rượu điều trị. Thường là những bệnh nhân nghiện rượu nặng và có những biến chứng về sức khỏe mới tìm đến điều trị và cai. Có bệnh nhân mới ngoài 30 tuổi nghiện rượu quá nặng, tinh thần hoảng loạn, gào thét suốt ngày. Vào viện điều trị 10 ngày rồi nhưng lúc nào cũng phải có 6-7 người canh trực. Mỗi lần tiêm là phải dùng dây thừng buộc lại nhưng bệnh nhân vẫn giãy giụa đến tứa máu.


Rượu hủy hoại thể chất, tinh thần chúng ta thế nào? PGS. TS Trần Hữu Bình, Trưởng phòng điều trị nghiện chất, nguyên Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội, Phó Chủ nhiệm bộ môn Tâm thần, ĐH Y Hà Nội và Bác sỹ Nguyễn Đàm Chính - Trung tâm chống độc BV Bạch Mai sẽ đưa ra câu trả lời ở bài sau.


Lưu Trinh
Còn nữa