CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU

26 February, 2020

CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU


Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần theo thống kê của tổ chức y tế thế giới. Loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loan thần. Khi một người sử dụng rượu một thời gian sẽ bị các rối loạn và bệnh lý sau:


A. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:

I. THAY ĐỔI CÁC PHẢN ỨNG CẢM XÚC: Rối loạn khí sắc, khoái cảm chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyên, khoác lác, hay đùa cợt, xàm sỡ, cáu gắt, công kích dọa nạt, chửi bới tấn công người khác.


II. TRẠNG THÁI KHÍ SẮC: Trong một số ngày có thể thay đổi từ vui nhộn, khoan khoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầy, nổi khùng, cau có, gây gổ, độc ác hoặc có thể chuyển sang buồn rầu, đầy những sợ hãi, lo lắng, mơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét.


III. TRÍ TUỆ, TRÍ NHỚ, KHẢ NĂNG SÁNG TẠO, SÁNG KIẾN: đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng xa sút tâm thần.


IV. BIẾN ĐỔI NHÂN CÁCH

1. VỚI GIA ĐÌNH:

Người bệnh ngày càng trở nên ích kỷ, mất đi những thích thú cũ,lãnh đạm hoàn toàn với người thân. Giảm sút tình cảm đạo đức,không quan tâm đến gia đình, tiêu sài tất cả tiền lương vào rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống. Người nghiện không cảm thấy xấu hổ vì đã ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng ân hận ân hận khi lấy cắp tiền của người thânđể uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dụng cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn không nghĩ đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ mắc nợ, hứa hão, bịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền.


Nợ nần thường không trả để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế mất đi, do giảm khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy ra, thiếu lịch sự và hành động quá khích.


Khả năng phê phán giảm rõ: đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ của gia đình mình.


Phủ nhận mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh hứa bỏ rượu một cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế không ý chỉ để từ chối các cuộc hẹn hò từ các bạn rượu, chiều đến người nghiện đứng ngồi không yên, đi tới đi lui chờ mong tín hiệu của bạn rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu.


Những biến đổi như trên ngày càng làm suy giảm những tập tính tốt.


Trong nghiện rượu mãn tính, thời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1 – 2 lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét khoái cảm, vui vẻ nhưng càng uống, càng về sau đó xuất hiện tình trạng say liên miên.


Trong cơn say cảm xúc giận dữ, dễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên bực dọc hay gây sự, vin cớ cãi cọ, cục cằn, thường tấn công đập phá đồ đạc, đánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn.


Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh sau đó phải giảm liều hoặc ngưng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy…). Cứ như vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngưng rồi lại uống … cuối cùng người bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường.


2. VỚI CÔNG VIỆC:

Người bệnh nghỉ việc thường xuyên, năng xuất công việc giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút. Mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu.


3. VỚI XÃ HỘI:

Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn thân muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú vui uống rượu nhất thời. Phẩm chất thoái hóa dần, thường vi phạm pháp luật.


 B. LOẠN THẦN DO RƯỢU

Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loạn thần mãn tính. Thuật ngữ loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu trên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu ngày gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hóa trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi nồng độ rượu trong máu không có hoặc rất thấp(Wictor M., 1953).


Về lâm sàng, loạn thần do rượu có thể chia ra:

+ Hoang tưởng và ảo giác do rượu

+ Hội chứng Korsakov do rượu

+ Bệnh não do rượu..v.v (Sumski N.G., 1963).

Ảo giác do rượu là hình thái lâm sàng thường gặp sau sảng rượu, chiếm tỉ lệ 5,6 – 22,5% các loạn thần có liên quan đến rượu mãn tính. (Marozov .G.V.,1974). Tuổi bị bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (Achte K., 1969). Ảo giác thường xuất hiện sau 10 năm sau khi uống rượu (Katra.A.K.,1973).mHoang tưởng do rượu thường gặp sau sảng rượu và ảo giác do rượu chiếm 1% loạn thần do rượu (Achte K., 1969). Hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông)


C. CÁC BỆNH LOẠN THẦN DO RƯỢU :

I. HOANG TƯỞNG VÀ ẢO GIÁC DO RƯỢU:

Hoang tưởng do rượu và ảo giác do rượu được biết đến từ lâu nhưng không được chú ý nhiều như sảng rượu và các bệnh não do rượu.

  • - Nhiều tác giả coi hoang tưởng và ảo giác là những thể riêng biệt trong loạn thần do rượu. Marozov lại cho rằng hoang tưởng chỉ là một hình thái trong ảo giác do rượu. Một số tác giả nhấn mạnh các hoang tưởng paranoia mà quên đi các hoang tưởng paranoid do rượu.

  • - Các tác giả Anh – Pháp quan niệm hoang tưởng, ảo giác là những biến chứng của nghiện rượu mãn tính nên chỉ chú ý nghiên cứu về nghiện rượu mà ít quan tâm tới hoang tưởng, ảo giác do rượu.

  • - Một số tác giả Đức (Meyer E., 1904) lại coi hoang tưởng, ảo giác do rượu là những thể tâm thầm phân liệt tiềm tàng có khởi phát muộn, về sau có một số ý kiến phản đối quan niệm này.

  • - Một số tác giả nghiên cứu nhằm xác định sự khác nhau giữa hoang tưởng, ảo giác do rượu và tâm thần phân liệt.

  • - Một số tác giả Nga (Sumski N.G) xếp hoang tưởng, ảo giác vào 2 trong số 4 thể cổ điển của loạn thần do rượu và đã chia hoang tưởng, ảo giác do rượu thành những thể theo lâm sàng và tiến triển.

  • - Gần đây theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) hoang tưởng, ảo giác do rượu là hậu quả của nhiễm độc rượu lâu dài, là biến chứng của nghiện rượu mãn tính.


Theo cách phân loại cổ điển thì ảo giác do rượu được chia ra ảo giác cấp, ảo giác kéo dài và ảo giác mãn tính:

- Ảo giác cấp là ảo giác tồn tại vài ngày đến một tháng.

- Ảo giác kéo dài là những ảo giác kéo dài từ 1 tháng đến 6 tháng.

- Ảo giác mãn tính là những ảo giác tồn tại trên 6 tháng.


1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG :

Đa số các tác giả đều thừa nhận loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (chiếm 61,3% số bệnh nhân).

Tỉ lệ nam, nữ có khác biệt (4:1). Theo nghiên cứu Marozov G.V hoang tưởng do rượu chủ yếu gặp ở nam giới, còn ảo giác do rượu gặp ở nữ nhiều hơn nam. Ở nước ta hoang tưởng, ảo giác do rượu rất ít gặp ở nữ.

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính sau 10 năm(chiếm 61,5% trường hợp), thường gặp ở những người có học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định, thường ở trong hoàn cảnh gia đình có người thân nghiện rượu.


  2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG :

ẢO GIÁC: có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhân, có thể ảo thanh, ảo thị, ảo giác, xúc giác, khứu giác …v.v


ẢO THANH: hay gặp nhất ở những bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển trên nên tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào lúc chiều tối hoặc lúc thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thô sơ hay ảo thanh lời nói.

Giọng nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhau. Cường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề liên quan đến nhau. Ảo thanh tăng lên về chiều tối, thoái triển đột ngọt sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số. Khi ảo thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.



ẢO THỊ: cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị cũng thường phù hợp với nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có kèm sảng thì bệnh nhân cảm thấy những côn trùng, động vật có kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường không hoàn chỉnh và mất tính thứ tự.


ẢO XÚC: ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị, bệnh nhân thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gặm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi là cảm giác những vật lạ trong miệng và trong họng.


ẢO KHỨU ẢO VỊ chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế.


HOANG TƯỞNG: Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hóa do rượu. Thoạt đầu những ý tưởng ghen tuông chỉ có trong khi say. Dần dần mới trở nên bền vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thủy. Bệnh nhân rình mò, tra khảo bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen biết. Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo haichủ đề chính:

- Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.

- Hoang tưởng bị thiệt hại vật chất (như vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có thể tự do với người yêu). Một số tác giả nhận thấy hoang tưởng ghen tuông thường xuất hiện sau loạn thần do rượu cấp tính ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế.


Thêm vào đó, Paranoid do rượu còn được nhắc nhiều là hoang tưởng bị theo dõi,hoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thị có tính hình tượng cao.

- Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vi, cảm xúc của bệnh nhân. Thường có ảo tưởng lời nói, ảo tưởng cảm xúcvà ảo thanh với những nội dung đe dọa. Hành vi có tính xung động nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh nhân bỏ chạy, phòng thủ, có khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành vi ít nguy hiểm hơn.

- Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một số tác giả hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng chiếm ưu thế. Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng không đặc hiệu cho loạn thần do rượu.


Ngoài ra bệnh nhân loạn thần do rượu còn thấy một số biểu hiện khácnhư hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng nghi bệnh..v.v nhưng với tỉ lệ thấp.


Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê cuẩ Soayle M. 1990 chỉ có 13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.


RỐI LOẠN CẢM XÚC VÀ HÀNH VI:
Hoang tưởng và ảo giác do rượu thườngchi phối mạnh mẽ hành vi, cảm xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bênh nhân lo âu, sợ hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránh, chạy trốn, hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.

Trong những trường hợp kéo dài mãm tính bệnh nhân thường bị ức chế, đôi khi trở nên cau có, giận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặcsững sờ, cảm giác không lối thoát nhưng cũng có khi trở nên độc ác, thô bạo với người thân.


CÁC BỆNH CƠ THỂ PHỐI HỢP:
Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm loét dạ dày, xơ gan, rối loạn huyết áp, và thần kinh thực vật. Ngoài ra có nhiều bệnh nhân biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.


II. HỘI CHỨNG KORSAKOV DO RƯỢU:
Là hội chứng của bệnh não Gayet-Wernicke.

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

  • - Mất nhớ những sự kiện mới

  • - Rối loạn định hướng không gian, thời gian

  • - Bịa chuyện

  • - Viêm dạ dày, viêm dây thần kinh ngoại vi (rối loạn cảm giác, vận động chi dưới).

Tiến triển: điều trị hầu như không kết quả, không thuyên giảm vì đó là di chứng của bệnh Gayet-Wernicke. Điều trị với vitamine B1.


III. BỆNH LOẠN THẦN KORSAKOV:

Được Korsakov mô tả năm 1887 như một bệnh loạn thần đặc biệt có viêm đa dây thần kinh. Đặc biệt có hội chứng quên Korsakov, khả năng ghi nhận và tái hiện trở ngại, người bệnh nhận thức đúng những gì xảy ra xung quanh nhưng lại quên hết ngay, mất định hướng không gian và thời gian. Người bệnh quên ai vừa mới gặp, không nhớ ngày tháng nơi ở nhưng trí nhớ về quá khứ còn tốt. Một nét đặc biệt khác là có bịa chuyện thay thế lỗ hổng trí nhớ.


Bệnh tiến triển nặng dần, bệnh nhân trở nên lờ đờ, vô cảm, giảm sút trí tuệ, mất khả năng phê phán. Viêm đa dây thần kinh biểu hiện liệt, đau nhức đàu ngón tay, ngón chân, cảm giác tê rát, kiến bò, mất phản xạ.


Loạn thần Korsakov xảy ra ở tuổi 50 – 60, uống rượu nhiều năm. Xuất hiện từ từ hoặc có thể sau cơn sảng run cấp.


Nếu thôi uống rượu và điều trị bằng vitamine nhóm B người bệnh khá dần; nếu người bệnh tiếp tục uống rượu thì toàn trạng tiến triển xấu nhanh hơn.


Cần phân biệt loạn thần do rươụ Korsakov với hội chứng Korsakov trong bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc, chấn thương, u não, teo não…


IV. CÁC BỆNH NÃO DO RƯỢU:

1. BỆNH NÃO GAYET-WERNIKE: Khá thường gặp do suy dinh dưỡng và thiếu vitamine nhóm B1 (thường do rối loạn chuyển hóa và rối loạn tiêu hóa).


  1.1 BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

  • - Tiến triển từ từ với tăng rối loạn tiêu hóa (chán ăn, nôn), gầy, khuynh hướng ngủ gà, thờ ơ, đôi khi có rối loạn vận động kết hợp.

  • - Rối loạn ý thức năng: chậm chạp, đờ đẫn, kích động, mê mộng (phân biệt với sảng rượu cấp), lú lẫn kèm theo rối loạn trí nhớ, tiến triển tới hội chứng Korsakoff với bịa chuyện.

  • - Các rối loạn vận nhãn: rung giật nhãn cầu ngang hoặc dọc, liệt dây 6 hai bên, mất quy tụ dây 3, liệt chức năng. Đôi khi xuất huyết võng mạc.

  • - Mất phối hợp vận động, rối loạn thăng bằng (hội chứng tiểu não).

  • - Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, ngất lịm.

  • - Các dấu hiệu viêm đa dây thần kinh (khoảng 70% trường hợp).


 1.2. TIẾN TRIỂN:

  • - Tiến tới tử vong sau hôn mê.

  • - Tiến tới hội chứng Korsakoff di chứng.

  • - Điều trị vitamine nhóm B liều cao: xem chương trình điều trị.


 2. BỆNH MARCHIAFAVA-BIGNAMI

  • - Biểu hiện đầu tiên bởi một cơn co giật giống động kinh hoặc một cơn hôn mê nhẹ.

  • - Biểu hiện tiếp theo sa sút trí tuệ, nói khó, tăng trương lực cơ đối lập.

  • - Tiến triển chắc chắn tới tử vong: hoặc nhanh chóng với hôn mê, câm, bất động hoặc dần dần kéo dài với nhiều lần tái phát lặp lại.


3. BỆNH NÃO GIẢ PELLAGRA (THIẾU VITAMINE PP)

  • - Rối loạn định hướng, rối loạn trí nhớ, ảo giác.

  • - Tăng trương lực cơ đối lập.

  • - Co giật

  • - Điều trị với vitamine PP.


4. BỆNH MYELINE TRUNG TÂM CỦA CẦU NÃO:

- Hội chứng giả hành não với liệt mềm tứ chi phối hợp với liệt nuốt lưỡi và phát âm.


5. TEO NÃO:

- Lâm sàng không đặc trưng


6. TEO TIỂU NÃO:

- Hội chứng mất thăng bằng tiểu não ưu thế chi dưới.


 7. BỆNH NÃO GAN MẠN TÍNH:

  • - Sa sút trí tuệ dần: tâm thần chậm chạp, mất hứng thú.

  • - Các rối loạn thần kinh: rối loạn phối hợp vận động, múa giật, run, nói khó.

  • - Tiến triển tới mất trí.

  • - Các tổn thương giống bệnh Wilson: tăng sản tế bào hình sao và những tổn thương noron thoái hóa ở vỏ não, vỏ tiểu não, các nhân cơ bản và các nhân viên.

  • - Viêm gan mãn, gan nhiễm mỡ, xơ gan có thể dẫn đến ung thư gan.