All posts by admin

MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ THEO PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP XÃ HỘI VÀ TỰ GIÚP ĐỠ

 MÔ HÌNH ĐIỀU TRỊ THEO PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP XÃ HỘI VÀ TỰ GIÚP ĐỠ 

(SELF – HELP SOCIAL LEANRING TREATMENT MODEL – SSLTM)
Từ những khái niệm của cộng đồng trị liệu mô hình SSLTM đã được phát triển:

   1.HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ẨN DANH (AA) – NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY ẨN DANH (NA):


Năm 1935 – Nhóm những người sử dụng rượu vô danh ( AL) được thành lập quan điểm của nhóm là cá nhân tự nhìn nhận bản thân, thừa nhận những khiếm khuyết về tính cách và sửa đổi.
  • Nguồn gốc bắt đầu từ hội AA (Alcoholics Annymous) Hiệp Hội Những Người Nghiện Ẩn Danh – ra đời năm 1935, tại Akron- Ohio- Mỹ, bởi ông Bill Wilson và bác sĩ Bob Smith – vốn là hai người nghiện rượu, đã tự cai, và rút ra 12 nguyên tắc điều trị, đồng thời lập ra hội AA.
  • Năm 1953, hội AA cho phép hội NA (Narcotics Anonymous) Hội những người nghiện ma túy ẩn danh được phép sử dụng các bước của chương trình nầy vào việc cai nghiện ma túy.
Nghiện rượu và nghiện ma túy có vấn đề chung là cùng đi đến hồi phục và từ bỏ nghiện, tính chất có tính truyền thống là những hình thành mối quan hệ hửu nghị giửa những người đang hồi phục.
  • Hơn 70 năm qua, chương trình 12 bước đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, dựa trên căn bản có tính truyền thống, và được bổ sung bởi nhiều bài viết chọn lọc của những người cai nghiện. Trụ sở trung ương Hội đặt tại Newyork và Châu Âu.
Tài liệu chính của Hội là chương trình 12 bước và một bộ sách giáo khoa kèm theo  (Basic Text).  Tài liệu đặc biệt nhấn mạnh vai trò của quy trình thảo luận – thu hoạch – giải đáp.

Giáo viên hướng dẫn và nhóm trợ lý đều là người cai nghiện thành công, xuất thân từ Trường Cai Nghiện và trở thành chuyên viên – một người thầy thực sự của chuyên ngành ma túy.


Việc học tập được tổ chức tại Trung Tâm Cai nghiện Ma Túy, chương trình bao gồm giai đoạn cắt cơn, giai đoạn học tập và rèn luyện theo chương trình 12 bước, kế tiếp là giai đoạn ‘bán thử thách và giai đoạn thử thách’ tại cộng đồng. 

Thời gian tổng quát là 6 tháng, có thể kéo dài một năm hay hơn nữa, tùy theo từng trường hợp.

Sau khi tái hòa nhập cộng đồng, mỗi người đều là hội viên của NA và giử sinh hoạt với hội, thân thiết, lâu dài để đem lại sự bền vững cho mình.

Tại Trung Tâm, học viên cũng được hưởng các dịch vụ sinh hoạt như: thể dục thể thao- vui chơi giải trí – nâng cao văn hóa, kỷ năng sống – các loại lao động trị liệu, hướng nghiệp.


NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH HỌC TẬP 12 BƯỚC


Chương trình 12 bước có nguồn gốc như đã trình bày trên. Đó là một hệ thống có tính khoa học, được xây dựng trên nền Tâm lý nhiều mặt, bao gồm nhiều ngã rẽ của tâm lý người nghiện, như sự phản ứng, thối động, che dấu, biện hộ, chối bỏ, không thừa nhận, buông xuôi, mất tự tin, hưng phấn giả tạo… qua từng giai đoạn, do tính chất căn bệnh gây nên, cộng với quán tính của hành vi tiêu cực lâu dài trong quá khứ.

Chương trình do chính những người nghiện đã phục hồi xây dựng nên và được tiếp tục bổ sung. Chương trình 12 bước bao gồm:

Bước 1: "Chúng ta chấp nhận rằng mình bất lực về sự nghiện ngập và cuộc sống của chúng ta trở nên không kiểm soát được"


Bước 2: "Chúng ta tin rằng có một quyền năng mạnh hơn bản thân mình có thể giúp chúng ta phục hồi lại sự bình thường"


Bước 3: "Chúng ta quyết định để ‎ý chí và cuộc sống của chúng ta cho sự chăm sóc của Thiên Chúa khi chúng ta hiểu Người"


Bước 4: "Chúng ta đã đánh giá đạo đức của chúng ta một cách chân thật và can đảm"


Bước 5: "Chúng ta đã thú nhận với Đấng tối cao với chính chúng ta, và với người khác về thực chất những hành động sai lầm của chúng ta"


Bước 6: "Chúng ta hoàn toàn để cho Đấng tối cao xóa bỏ đi tất cả những khuyết điểm của tính cách"


Bước 7: "Chúng ta khiêm tốn yêu cầu Đấng tối cao xóa bỏ những điều thiếu sót của chúng ta"


Bước 8: "Chúng ta viết ra danh sách những người mà chúng ta đã làm hại và chúng ta sẵn sàng sửa chữa tất cả"


Bước 9: "Chúng ta trực tiếp đền bù cho họ bất cứ nơi nào chúng ta có thể, ngoại trừ trường hợp nếu chúng ta làm điều đó sẽ tổn thương họ hoặc những người khác nữa"


Bước 10: "Chúng ta tiếp tục làm bảng kiểm tra cá nhân, để khi nào chúng ta sai, chúng ta sửa chữa những sai lầm ấy"


Bước 11: "Chúng ta thông qua cầu nguyện và thiền định cũng như chúng ta ………… tiếp cận với Chúa cũng như chúng ta hiểu được Người. Cầu nguyện để hiểu rõ Người luôn sẵn lòng vì chúng ta và để cho chúng ta có sức mạnh làm theo những cầu nguyện ấy"


Bước 12: "Chúng ta được đánh thức về mặt tâm linh như là kết quả của các bước mà chúng ta cố gắng thực hiện. Chúng ta cố gắng mang thông điệp này đến cho những người nghiện ma túy khác và thực hành các nguyên tắc trong cuộc sống thường trực của chúng ta"


 2.NHÓM HOẠT ĐỘNG OXFORD:


Do Fromk Buchman thành lập và là người có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng các giá trị nhân văn – chủ yếu của nhóm Oxford là cai nghiện Rượu – Hoạt động của nhóm bao gồm những nội dung như cùng chia sẻ thông tin, hướng dẫn, cam kết sự thay đổi và phục hồi.


Nhóm Oxford có những nổ lực trong việc truyền đạt các giá trị nhân văn tới các thành viên của nhóm. Trong số các giá trị này có 4 yếu tố cơ bản – đó là:

a/ Tính trung thực tuyệt đối

b/ Tính trong sạch tuyệt đối

c/ Không ích kỷ

d/ Yêu thương tuyệt đối


3.CHƯƠNG TRÌNH SYNANON:


Được thành lập vào năm 1958 tại California bởi một người đã từng nghiện rượu là Charles E. Dederich, sự phát triển của Synanon được xuất phát từ quan điểm của AA.

Để làm cho chương trình thích ứng và phù hợp với các trường hợp cai nghiện ma túy, chương trình Synanon và AA dần trở nên tách biệt và dẫn đến sự khác nhau hệ tư tưởng cũng như mối liên quan.


Mô hình điều trị cộng đồng chữa bệnh, bắt đầu là mô hình Synanon và đang phát triển thành nhiều chương trình ở Mỹ và khắp thế giới gồm chín thành phần cơ bản.

Những thành phần này dựa vào lý thuyết học tập xã hội, thông qua sử dụng cộng đồng để khuyến khích sự thay đổi về hành vi và thái độ: 9 thái độ cần thiết đó là:


THAM GIA TÍCH CỰC:


SSLTM tin rằng cộng đồng là một phương pháp và vì thể người nghiện tham gia chủ động trong các hoạt động trong cộng đồng chữa bệnh là cần thiết để thay đổi, trưởng thành và phát triển.

Điều này có nghĩa là người nghiện tham gia vào tất cả các hoạt động của cộng đồng, sẽ tăng cường mối liên kết giữa các thành viên và giữa thành viên với chương trình.

Các thành viên được yêu cầu đóng góp cho cộng đồng. Sự đóng góp này được thực hiện dựa trên khả năng của từng cá nhân cũng như giá trị của mỗi nhiệm vụ mà họ thực hiện đối với cộng đồng.


PHẢN HỒI CỦA THÀNH VIÊN:
Những thành viên nhóm phải đóng góp ‎ý kiến lẫn nhau một cách chân thật. Thông tin phản hồi của các thành viên được thực hiện một cách chính thức thông qua hoạt động trong nhóm và các buổi trị liệu. Hoặc phản hồi không chính thức như giao tiếp cá nhân. Mục đích của việc phản hồi là nhận thức về hành vi, suy nghĩ và ‎ ý tưởng. Phản hồi bao gồm cả sự phản hồi tích cực và phê bình có tính xây dựng.

NOI GƯƠNG:
Tất cả các cán bộ và thành viên cấp cao của cộng đồng phải thực hiện các hành vi trong cộng đồng để làm gương cho những thành viên khác như một phương tiện giáo dục. Đây là việc giáo dục thông qua hành động trên thực tế. Các thành viên của cộng đồng điều trị không chỉ “nói mà phải làm”.

TẬP THỂ HƯỚNG DẪN CÁ NHÂN THAY ĐỔI
Nhấn mạnh vào nhóm hoặc tác động cộng đồng để giúp cá nhân thay đổi. Tất cả các yếu tố trong mô hình SSLTM khuyến khích và hỗ trợ cho cá nhân trưởng thành và phát triển.

CÁC GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN MỰC CHUNG
Cộng đồng xây dựng các quy tắc và giá trị chung để tạp ra áp lực nhóm và cộng đồng để giúp đỡ từng thành viên của cộng đồng tuân thủ và dần tin vào những hành vi và quan niệm tích cực. “Triết lý TC” và “Những quy tắc bất thành văn” là những nội dung để thực hiện các giá trị và chuẩn mực.

KẾT CẤU VÀ HỆ THỐNG
Để hiện thực hóa các khái niệm và triết lý của SSLTM, các hoạt động cần được tổ chức theo một kết cấu và hệ thống. Kế hoạch hoạt động hàng ngày, gặp mặt, nội quy và quy định, tỉ lệ cán bộ và học viên, cấu trúc thứ bậc, công việc, nhóm mệnh lệnh, các giai đoạn điều trị là tất cả những nội dung để đạt được mục đích và mục tiêu của cộng đồng.

GIAO TIẾP MỞ
Hoạt động giao tiếp được tiến hành theo chiều ngang và chiều dọc. Cộng đồng duy trì sự thống nhất thông qua việc khuyến khích các thành viên bộc lộ cảm xúc và ý tưởng.

MỐI QUAN HỆ CÁC NHÂN VÀ NHÓM
SSLTM tạo ra một mạng lưới quan hệ, tạo điều kiện cho các học viên có nhiều cơ hội để hiểu rõ hơn về hành vi, cảm xúc và ý tưởng. Mối quan hệ với nhân viên, nhóm người chữa trị, nhóm tĩnh, cộng đồng sẽ giúp các cá nhân đảm nhận trách nhiệm, tăng cường hiểu biết và chấp nhận những thiếu sót của mình và làm cam kết thay đổi.

THUẬT NGỮ CHUYÊN DỤNG
Thuật ngữ sử dụng bởi SSLTM là cách giải thích đơn giản về quá trình và môi trường hoạt động. Đó là ngôn ngữ chung tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng.

   4.TỔ CHỨC DAYTOP QUỐC TẾ:


Được bắt đầu đưa vào điều trị từ năm 1963 và hiện có mặt trên 60 quốc gia trên thế giới. Tổ chức Daytop đã hỗ trợ rất nhiều người nghiện và thanh thiếu niên từ bỏ lệ thuộc vào ma túy và xây dựng một cuộc sống lành mạnh và có ích cho xã hội.
Tình trạng sử dụng ma túy và nghiện ma túy diễn ra ở hầu khắp các nước trên thế giới và có tác động lớn đến các thành viên, gia đình, cộng đồng và toàn thể xã hội.Tổ chức DAYTOP international được thành lập để cung cấp chương trình tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ các quốc gia đối phó với sự gia tăng của tình trạng sử dụng ma túy.
Để hiểu rõ tổ chức và các phương pháp điều trị của tổ chức này đề nghị các bạn tham khảo tại mục, bài: “Một mô hình cai nghiện có hiệu quả: Môi trường trị liệu – Cộng đồng trị liệu” tại trang web của Trung tâm Thanh Đa.

          5. CHƯƠNG TRÌNH MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU VÀ CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA:


Thông qua khảo sát các chương trình (SSLTM) chúng tôi nhận thất chương trình SSLTM của tổ chức Daytop: Phù hợp với Việt Nam nói chung và Thanh Đa nói riêng. Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh đa đã thực hiện chương trình này hơn 10 năm và có kết quả rõ rệt. Nhiều cán bộ nhân viên Trung tâm đã tham gia chương trình tập huấn tập trung 04 tháng do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội kết hợp với tổ chức Daytop Quốc tế thực hiện.
Khóa học có nội dung đồng bộ, phong phú và được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (người tài trợ chương trình này) đánh giá cao. Tuy nhiên để phù hợp với Việt Nam, chúng tôi qua nghiên cứu và qua thực tiễn đã có một số điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu điều trị của Trung tâm. Xem thêm “Quy trình cai nghiện tại Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện ma túy Thanh Đa”        

CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU

CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU


Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần theo thống kê của tổ chức y tế thế giới. Loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loan thần. Khi một người sử dụng rượu một thời gian sẽ bị các rối loạn và bệnh lý sau:


A. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:

I. THAY ĐỔI CÁC PHẢN ỨNG CẢM XÚC: Rối loạn khí sắc, khoái cảm chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyên, khoác lác, hay đùa cợt, xàm sỡ, cáu gắt, công kích dọa nạt, chửi bới tấn công người khác.


II. TRẠNG THÁI KHÍ SẮC: Trong một số ngày có thể thay đổi từ vui nhộn, khoan khoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầy, nổi khùng, cau có, gây gổ, độc ác hoặc có thể chuyển sang buồn rầu, đầy những sợ hãi, lo lắng, mơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét.


III. TRÍ TUỆ, TRÍ NHỚ, KHẢ NĂNG SÁNG TẠO, SÁNG KIẾN: đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng xa sút tâm thần.


IV. BIẾN ĐỔI NHÂN CÁCH

1. VỚI GIA ĐÌNH:

Người bệnh ngày càng trở nên ích kỷ, mất đi những thích thú cũ,lãnh đạm hoàn toàn với người thân. Giảm sút tình cảm đạo đức,không quan tâm đến gia đình, tiêu sài tất cả tiền lương vào rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống. Người nghiện không cảm thấy xấu hổ vì đã ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng ân hận ân hận khi lấy cắp tiền của người thânđể uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dụng cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn không nghĩ đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ mắc nợ, hứa hão, bịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền.


Nợ nần thường không trả để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế mất đi, do giảm khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy ra, thiếu lịch sự và hành động quá khích.


Khả năng phê phán giảm rõ: đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ của gia đình mình.


Phủ nhận mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh hứa bỏ rượu một cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế không ý chỉ để từ chối các cuộc hẹn hò từ các bạn rượu, chiều đến người nghiện đứng ngồi không yên, đi tới đi lui chờ mong tín hiệu của bạn rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu.


Những biến đổi như trên ngày càng làm suy giảm những tập tính tốt.


Trong nghiện rượu mãn tính, thời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1 – 2 lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét khoái cảm, vui vẻ nhưng càng uống, càng về sau đó xuất hiện tình trạng say liên miên.


Trong cơn say cảm xúc giận dữ, dễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên bực dọc hay gây sự, vin cớ cãi cọ, cục cằn, thường tấn công đập phá đồ đạc, đánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn.


Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh sau đó phải giảm liều hoặc ngưng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy…). Cứ như vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngưng rồi lại uống … cuối cùng người bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường.


2. VỚI CÔNG VIỆC:

Người bệnh nghỉ việc thường xuyên, năng xuất công việc giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút. Mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu.


3. VỚI XÃ HỘI:

Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn thân muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú vui uống rượu nhất thời. Phẩm chất thoái hóa dần, thường vi phạm pháp luật.


 B. LOẠN THẦN DO RƯỢU

Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loạn thần mãn tính. Thuật ngữ loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu trên não. Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu ngày gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hóa trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi nồng độ rượu trong máu không có hoặc rất thấp(Wictor M., 1953).


Về lâm sàng, loạn thần do rượu có thể chia ra:

+ Hoang tưởng và ảo giác do rượu

+ Hội chứng Korsakov do rượu

+ Bệnh não do rượu..v.v (Sumski N.G., 1963).

Ảo giác do rượu là hình thái lâm sàng thường gặp sau sảng rượu, chiếm tỉ lệ 5,6 – 22,5% các loạn thần có liên quan đến rượu mãn tính. (Marozov .G.V.,1974). Tuổi bị bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (Achte K., 1969). Ảo giác thường xuất hiện sau 10 năm sau khi uống rượu (Katra.A.K.,1973).mHoang tưởng do rượu thường gặp sau sảng rượu và ảo giác do rượu chiếm 1% loạn thần do rượu (Achte K., 1969). Hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông)


C. CÁC BỆNH LOẠN THẦN DO RƯỢU :

I. HOANG TƯỞNG VÀ ẢO GIÁC DO RƯỢU:

Hoang tưởng do rượu và ảo giác do rượu được biết đến từ lâu nhưng không được chú ý nhiều như sảng rượu và các bệnh não do rượu.

  • - Nhiều tác giả coi hoang tưởng và ảo giác là những thể riêng biệt trong loạn thần do rượu. Marozov lại cho rằng hoang tưởng chỉ là một hình thái trong ảo giác do rượu. Một số tác giả nhấn mạnh các hoang tưởng paranoia mà quên đi các hoang tưởng paranoid do rượu.

  • - Các tác giả Anh – Pháp quan niệm hoang tưởng, ảo giác là những biến chứng của nghiện rượu mãn tính nên chỉ chú ý nghiên cứu về nghiện rượu mà ít quan tâm tới hoang tưởng, ảo giác do rượu.

  • - Một số tác giả Đức (Meyer E., 1904) lại coi hoang tưởng, ảo giác do rượu là những thể tâm thầm phân liệt tiềm tàng có khởi phát muộn, về sau có một số ý kiến phản đối quan niệm này.

  • - Một số tác giả nghiên cứu nhằm xác định sự khác nhau giữa hoang tưởng, ảo giác do rượu và tâm thần phân liệt.

  • - Một số tác giả Nga (Sumski N.G) xếp hoang tưởng, ảo giác vào 2 trong số 4 thể cổ điển của loạn thần do rượu và đã chia hoang tưởng, ảo giác do rượu thành những thể theo lâm sàng và tiến triển.

  • - Gần đây theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) hoang tưởng, ảo giác do rượu là hậu quả của nhiễm độc rượu lâu dài, là biến chứng của nghiện rượu mãn tính.


Theo cách phân loại cổ điển thì ảo giác do rượu được chia ra ảo giác cấp, ảo giác kéo dài và ảo giác mãn tính:

- Ảo giác cấp là ảo giác tồn tại vài ngày đến một tháng.

- Ảo giác kéo dài là những ảo giác kéo dài từ 1 tháng đến 6 tháng.

- Ảo giác mãn tính là những ảo giác tồn tại trên 6 tháng.


1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG :

Đa số các tác giả đều thừa nhận loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở lứa tuổi 30 – 40 tuổi (chiếm 61,3% số bệnh nhân).

Tỉ lệ nam, nữ có khác biệt (4:1). Theo nghiên cứu Marozov G.V hoang tưởng do rượu chủ yếu gặp ở nam giới, còn ảo giác do rượu gặp ở nữ nhiều hơn nam. Ở nước ta hoang tưởng, ảo giác do rượu rất ít gặp ở nữ.

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính sau 10 năm(chiếm 61,5% trường hợp), thường gặp ở những người có học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định, thường ở trong hoàn cảnh gia đình có người thân nghiện rượu.


  2. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG :

ẢO GIÁC: có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhân, có thể ảo thanh, ảo thị, ảo giác, xúc giác, khứu giác …v.v


ẢO THANH: hay gặp nhất ở những bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển trên nên tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào lúc chiều tối hoặc lúc thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thô sơ hay ảo thanh lời nói.

Giọng nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhau. Cường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề liên quan đến nhau. Ảo thanh tăng lên về chiều tối, thoái triển đột ngọt sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số. Khi ảo thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.



ẢO THỊ: cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị cũng thường phù hợp với nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có kèm sảng thì bệnh nhân cảm thấy những côn trùng, động vật có kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường không hoàn chỉnh và mất tính thứ tự.


ẢO XÚC: ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị, bệnh nhân thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gặm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi là cảm giác những vật lạ trong miệng và trong họng.


ẢO KHỨU ẢO VỊ chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế.


HOANG TƯỞNG: Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hóa do rượu. Thoạt đầu những ý tưởng ghen tuông chỉ có trong khi say. Dần dần mới trở nên bền vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thủy. Bệnh nhân rình mò, tra khảo bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen biết. Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo haichủ đề chính:

- Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.

- Hoang tưởng bị thiệt hại vật chất (như vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có thể tự do với người yêu). Một số tác giả nhận thấy hoang tưởng ghen tuông thường xuất hiện sau loạn thần do rượu cấp tính ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế.


Thêm vào đó, Paranoid do rượu còn được nhắc nhiều là hoang tưởng bị theo dõi,hoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thị có tính hình tượng cao.

- Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vi, cảm xúc của bệnh nhân. Thường có ảo tưởng lời nói, ảo tưởng cảm xúcvà ảo thanh với những nội dung đe dọa. Hành vi có tính xung động nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh nhân bỏ chạy, phòng thủ, có khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành vi ít nguy hiểm hơn.

- Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một số tác giả hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng chiếm ưu thế. Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng không đặc hiệu cho loạn thần do rượu.


Ngoài ra bệnh nhân loạn thần do rượu còn thấy một số biểu hiện khácnhư hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng nghi bệnh..v.v nhưng với tỉ lệ thấp.


Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê cuẩ Soayle M. 1990 chỉ có 13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.


RỐI LOẠN CẢM XÚC VÀ HÀNH VI:
Hoang tưởng và ảo giác do rượu thườngchi phối mạnh mẽ hành vi, cảm xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bênh nhân lo âu, sợ hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránh, chạy trốn, hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.

Trong những trường hợp kéo dài mãm tính bệnh nhân thường bị ức chế, đôi khi trở nên cau có, giận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặcsững sờ, cảm giác không lối thoát nhưng cũng có khi trở nên độc ác, thô bạo với người thân.


CÁC BỆNH CƠ THỂ PHỐI HỢP:
Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm loét dạ dày, xơ gan, rối loạn huyết áp, và thần kinh thực vật. Ngoài ra có nhiều bệnh nhân biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.


II. HỘI CHỨNG KORSAKOV DO RƯỢU:
Là hội chứng của bệnh não Gayet-Wernicke.

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

  • - Mất nhớ những sự kiện mới

  • - Rối loạn định hướng không gian, thời gian

  • - Bịa chuyện

  • - Viêm dạ dày, viêm dây thần kinh ngoại vi (rối loạn cảm giác, vận động chi dưới).

Tiến triển: điều trị hầu như không kết quả, không thuyên giảm vì đó là di chứng của bệnh Gayet-Wernicke. Điều trị với vitamine B1.


III. BỆNH LOẠN THẦN KORSAKOV:

Được Korsakov mô tả năm 1887 như một bệnh loạn thần đặc biệt có viêm đa dây thần kinh. Đặc biệt có hội chứng quên Korsakov, khả năng ghi nhận và tái hiện trở ngại, người bệnh nhận thức đúng những gì xảy ra xung quanh nhưng lại quên hết ngay, mất định hướng không gian và thời gian. Người bệnh quên ai vừa mới gặp, không nhớ ngày tháng nơi ở nhưng trí nhớ về quá khứ còn tốt. Một nét đặc biệt khác là có bịa chuyện thay thế lỗ hổng trí nhớ.


Bệnh tiến triển nặng dần, bệnh nhân trở nên lờ đờ, vô cảm, giảm sút trí tuệ, mất khả năng phê phán. Viêm đa dây thần kinh biểu hiện liệt, đau nhức đàu ngón tay, ngón chân, cảm giác tê rát, kiến bò, mất phản xạ.


Loạn thần Korsakov xảy ra ở tuổi 50 – 60, uống rượu nhiều năm. Xuất hiện từ từ hoặc có thể sau cơn sảng run cấp.


Nếu thôi uống rượu và điều trị bằng vitamine nhóm B người bệnh khá dần; nếu người bệnh tiếp tục uống rượu thì toàn trạng tiến triển xấu nhanh hơn.


Cần phân biệt loạn thần do rươụ Korsakov với hội chứng Korsakov trong bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc, chấn thương, u não, teo não…


IV. CÁC BỆNH NÃO DO RƯỢU:

1. BỆNH NÃO GAYET-WERNIKE: Khá thường gặp do suy dinh dưỡng và thiếu vitamine nhóm B1 (thường do rối loạn chuyển hóa và rối loạn tiêu hóa).


  1.1 BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

  • - Tiến triển từ từ với tăng rối loạn tiêu hóa (chán ăn, nôn), gầy, khuynh hướng ngủ gà, thờ ơ, đôi khi có rối loạn vận động kết hợp.

  • - Rối loạn ý thức năng: chậm chạp, đờ đẫn, kích động, mê mộng (phân biệt với sảng rượu cấp), lú lẫn kèm theo rối loạn trí nhớ, tiến triển tới hội chứng Korsakoff với bịa chuyện.

  • - Các rối loạn vận nhãn: rung giật nhãn cầu ngang hoặc dọc, liệt dây 6 hai bên, mất quy tụ dây 3, liệt chức năng. Đôi khi xuất huyết võng mạc.

  • - Mất phối hợp vận động, rối loạn thăng bằng (hội chứng tiểu não).

  • - Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, ngất lịm.

  • - Các dấu hiệu viêm đa dây thần kinh (khoảng 70% trường hợp).


 1.2. TIẾN TRIỂN:

  • - Tiến tới tử vong sau hôn mê.

  • - Tiến tới hội chứng Korsakoff di chứng.

  • - Điều trị vitamine nhóm B liều cao: xem chương trình điều trị.


 2. BỆNH MARCHIAFAVA-BIGNAMI

  • - Biểu hiện đầu tiên bởi một cơn co giật giống động kinh hoặc một cơn hôn mê nhẹ.

  • - Biểu hiện tiếp theo sa sút trí tuệ, nói khó, tăng trương lực cơ đối lập.

  • - Tiến triển chắc chắn tới tử vong: hoặc nhanh chóng với hôn mê, câm, bất động hoặc dần dần kéo dài với nhiều lần tái phát lặp lại.


3. BỆNH NÃO GIẢ PELLAGRA (THIẾU VITAMINE PP)

  • - Rối loạn định hướng, rối loạn trí nhớ, ảo giác.

  • - Tăng trương lực cơ đối lập.

  • - Co giật

  • - Điều trị với vitamine PP.


4. BỆNH MYELINE TRUNG TÂM CỦA CẦU NÃO:

- Hội chứng giả hành não với liệt mềm tứ chi phối hợp với liệt nuốt lưỡi và phát âm.


5. TEO NÃO:

- Lâm sàng không đặc trưng


6. TEO TIỂU NÃO:

- Hội chứng mất thăng bằng tiểu não ưu thế chi dưới.


 7. BỆNH NÃO GAN MẠN TÍNH:

  • - Sa sút trí tuệ dần: tâm thần chậm chạp, mất hứng thú.

  • - Các rối loạn thần kinh: rối loạn phối hợp vận động, múa giật, run, nói khó.

  • - Tiến triển tới mất trí.

  • - Các tổn thương giống bệnh Wilson: tăng sản tế bào hình sao và những tổn thương noron thoái hóa ở vỏ não, vỏ tiểu não, các nhân cơ bản và các nhân viên.

  • - Viêm gan mãn, gan nhiễm mỡ, xơ gan có thể dẫn đến ung thư gan.

 NGHIỆN RƯỢU

 NGHIỆN RƯỢU

I. KHÁI NIỆM:

Buồn cũng uống, vui cũng uống – thành công cũng uống, thất bại cũng uống; đám cưới cũng uống, đám ma cũng uống – sáng uống, trưa uống, chiều uống, tối uống. Người nghèo uống rượu đế, nhâm nhi vài con sò, con ốc, trái cóc, trái xoài, người giàu uống rượu tây trong các nhà hàng sang trọng. Thanh niên uống la hét, người già uống nhâm nhi, ngẫm nghĩ sự đời. Chưa có một chất gây nghiện đặc biệt nào được sử dụng nhiều như rượu ở nước ta.


Rượu là một loại ma túy hợp pháp, sử dụng đặc biệt rất nhiều ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa và đặc biệt là trong các nghi lễ văn hóa, trong ma chay, cưới hỏi, giỗ tết…. Đa số rượu được sản xuất thủ công từ bột gạo, bột nếp đến vỏ cây, bã mía, củ sắn, lá rừng… Hầu như mọi nhà đều biết cách làm rượu. Chính phủ lại không kiểm soát được việc sản xuất rượu vì chưa có chính sách quốc gia phòng chống lạm dụng rượu, người dân chưa thấy hết tác hại của việc lạm dụng rượu và một phần do rào cản văn hóa, phong tục – tập quán, thiếu hiểu biết nên thậm chí nhiều người có trách nhiệm phòng chống ma túy, vạch định chính sách cũng lạm dụng rượu.


Lạm dụng rượu lâu ngày đưa đến chứng nghiện rượu, để lại nhiều tác hại cho cá nhân, gia đình và xã hội:

- Về cơ thể: rượu gây tổn thương hệ thống thần kinh, gây bệnh tim mạch, viêm loét dạ dày, gây suy gan dẫn đến xơ gan và thậm chí dẫn đến ung thư gan và tổn thương nhiều bộ phận khác trong cơ thể.

- Về mặt tâm thần: do phụ thuộc rượu, người nghiện rượu bị tổn thương hệ thống thần kinh não bộ, rối loạn nhận thức, hành vi, nhân cách, mất trí và phát sinh nhiều bệnh tâm thần. Thiếu rượu người nghiện bị hội chứng cai đôi khi rất nặng dẫn đến tình trạng sảng rượu, hôn mê.


Ngoài ra do sử dụng rượu người nghiện rượu bị mất khả năng lao động về trí tuệ cũng như thể chất.


II. NGUYÊN NHÂN NGHIỆN RƯỢU:


1. Nhiều người tin rằng rượu là một chất bổ dưỡng:

Nhất là khi dùng rượu ngâm với các loại thảo dược, bộ phận động vật để tăng cường năng lực, bổ thận, tráng dương. Chính phủ lại chưa có chính sách quốc gia, chưa kiểm soát được nguồn cung cũng như quản lý nhu cầu về rượu. Thậm chí nhiều quảng cáo rượu còn được phổ biến trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng. Nhiều loại rượu được ngâm với các loại lá cây, bộ phận động vật mà chưa xác định được độc tính.


2. Môi trường văn hóa – tâm lý – xã hội:

Nhiều quan niệm phải sử dụng rượu trong việc hiếu hỉ, khen thưởng, thi đua, thậm chí chiêu đãi tại các hội nghị, khánh thành cơ sở… Việc uống rượu trở nên quá bình thường trong tập quán dân gian, lễ hội, trong quan hệ hàng ngày, thậm chí còn có quan điểm uống rượu là củng cố tình bằng hữu. Số người bị stress, thất bại trong cuộc sống hoặc có lắm nỗi buồn cũng uống rượu tiêu sầu. Đa số các buổi họp mặt, liên hoan phải có rượu, uống "không say – không về"…


3. Di truyền và sinh học:

+ Trẻ có cha mẹ nghiện rượu có nguy cơ nghiện rượu cao hơn con những người không nghiện rượu.

+ Tiền sử những gia đình nghiện rượu, con cái họ có nguy cơ nghiện rượu nhiều hơn những gia đình không có người nghiện rượu.


4. Tính chất sinh lý:

Người có tư tưởng hay chống đối xã hội, rối loạn cảm xúc, rối loạn lo âu, trầm cảm, thiếu sự trợ giúp tâm lý – xã hội, thất bại trong cuộc sống, mất việc làm, buồn chán việc riêng, hoàn cảnh công việc, nhân cách cá nhân yếu có nguy cơ bị nghiện rượu.


III. DỊCH TỄ HỌC:


Ở nước ta các bệnh lý tâm thần do nghiện rượu chưa nhiều bằng một số các nước khác, các công trình nghiên cứu về nghiện rượu cũng rất ít. Khoảng hơn 20 năm gần đây do có một số trường hợp loạn thần do nghiện rượu phải vào điều trị tại các cơ sở điều trị tâm thần nên chúng ta mới bắt đầu nghiên cứu. Kết quả theo dõi sau đó cho thấy bệnh lý do nghiện rượu tăng một tỷ lệ đáng quan tâm. Theo PGT- Tiến sĩ Trần Viết Nghị, bệnh lý tâm thần do nghiện rượu, năm 1990 chiếm 0,31% bệnh nhân nằm viện. Năm 1994 tăng lên 6,99% gấp 22 lần. Theo một số tại địa phương tỷ lệ nghiện rượu tăng khoảng 2% mỗi năm trên tổng số bệnh nhân bị tâm thần nhập viện.


Ở Pháp bệnh lý tâm thần do nghiện rượu chiếm 22%; loạn thần do nghiện rượu chiếm 20% (TS Tancuchiev 1988).


Tại Nam Tư số bệnh nhân nằm bệnh viện tâm thần là 23,1% (D. Heroitic 1991).


Ở Mỹ 10% nữ, 20% nam lạm dụng rượu: 3% – 5% nữ, 10% nam chẩn đoán nghiện rượu. Khoảng 200.000 người tử vong hàng năm liên quan trực tiếp đến lạm dụng rượu. (DSM III R).


IV. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA RƯỢU:


Rượu là một loại ma túy thiên nhiên hợp pháp. Rượu tác động vào hệ thần kinh trung ương. Hội chứng cai rượu phụ thuộc vào tâm thần và cả cơ thể.


1. HẤP THU:


Công thức hóa học của rượu là Ethanol là : CH3 – CH2 – OH. Rượu được sử dụng với nồng độ rượu khác nhau, tên gọi khác nhau và có hương vị khác nhau… Sau khi uống, khoảng 10%  – 20% rượu được hấp thu tại dạ dày, phần còn lại hấp thu tại ruột non. Rượu hấp thu nhanh khi bụng đói và hấp thu chậm khi bụng no. Nồng độ rươu hấp thu trong máu cao nhất thông thường từ 40 đến 60 phút sau khi uống. Để bảo vệ chống tăng nồng độ rượu cơ thể có cơ chế tự điều chỉnh.
Khi nồng độ rượu quá cao trong dạ dày, dạ dày sẽ tiết dịch nhày làm giảm sự hấp thu rượu và đóng van môn vị lại gây hiện tượng nôn ói, hạn chế lượng rượu xuống ruột non, ngăn cản bớt sự hấp thu rượu, nên giảm lượng rượu hấp thu vào máu. Thức ăn chất đạm và chất béo làm chậm sự hấp thu rượu, trái lại nước uống làm tăng sự hấp thu rượu. Rượu vào máu và được phân bổ toàn cơ thể. Rượu hòa tan trong nước nên ở tất cả các mô, do đó gây nguy cơ nhiễm độc cao.


2. CHUYỂN HÓA:


Khoảng 90% rượu được hấp thu, chuyển hóa ở gan, 10% bài tiết ở thận qua nước tiểu và và qua hơi thở ở phổi.

Tại gan rượu bị oxy hóa khoảng 15mg/dl/giờ. Ở người uống rượu thường xuyên hiện tượng chuyển hóa nhanh hơn. Rượu được chuyển hóa nhờ enzym là Alcohol Dehydrogenase (ADH) biến đổi rượu thành acetaldehyde là một chất độc hại. Acetaldehyde được Enzym Aldehyde Dehydrogenase xúc tác chuyển đổi thành Acid Acetic. Ở phụ nữ lượng ADH thấp hơn nam giới nên dễ bị nhiễm độc hơn.


V. TÁC HẠI CỦA RƯỢU TRÊN CƠ THỂ:


1. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ THỐNG NÃO BỘ:


- Khác với nhiều người lầm tưởng, rượu không phải là chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Tuy nhiên do rượu làm sự ức chế giảm mạnh trong lúc sự hưng phấn giảm ít hơn nên gây ra quá trình hưng phấn giả tạo. Vì vậy người nghiện rượu cảm thấy giảm lo âu, hăng hái, nói nhiều, hoạt động nhiều nhưng thiếu chính xác, lời nói không được kiềm chế, xuồng xã hay khoe khoang, tự cao tự đại hoặc xúc phạm người khác.
Khi nồng độ rượu trong máu trên 0.3% sẽ bị rối loạn tư duy, tri giác, vận động, khi nồng độ rượu từ 0.4% đến 0,5% cả hai quá trình hưng phấn và ức chế bị suy giảm, người uống rượu có thể dẫn đến hôn mê. Khi nồng độ rượu đến 0,6 đến 0,7% người uống rượu có thể bị tử vong.


- Người uống rượu bị rối loạn cảm xúc, rối loạn lo âu, có tư tưởng chống đối cũng như tư tưởng tự sát, có thể bị liệt mềm mất trí. Gần 40% số người nghiện rượu bị trầm cảm.


2. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ TIM MẠCH – HÔ HẤP:


  • - Tăng huyết áp, mạch nhanh.

  • - Bệnh cơ tim trên người nghiện nặng.

  • - Thở nhanh, nông, hồi hộp

  • - Chán ăn, phù, dễ dẫn đến hội chứng suy tim.


3. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ TIÊU HÓA:


  • - Rượu gây kích thích, viêm niêm mạc dạ dày, viêm teo dạ dày, loét dạ dày và xuất huyết dạ dày, viêm loét hành tá tràng.

  • - Hiện tượng trào ngược thực quản do viêm cơ vòng thượng vị. Người nghiện cảm thấy nóng rát sau xương ức, cảm giác nôn, có thể gây ói. Trường hợp nặng có thể thủng bao tử ở vùng co thắt.

  • - Nếu bệnh nhân bị ngộ độc gan gây tăng áp lực tĩnh mạch sẽ bị giãn tĩnh mạch thực quản đôi khi gây vỡ tĩnh mạch thực quản gây chảy máu và có thể dẫn đến tử vong.

  • - Hấp thu kém, tiêu chảy thường gặp ở người nghiện rượu do rối loạn co bóp của dạ dày, bào mòn dịch nhày, rối loạn vận chuyển các vitamine và ion.


4. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN GAN:


Một lượng lớn rượu được chuyển hóa tại gan, do đó gan bị suy yếu, ngộ độc dẫn đến gan dễ bị nhiễm mỡ, có thể gây xơ gan do rượu. Viêm gan do rượu, người nghiện có hiện tượng vàng da, vàng mắt, chán ăn, đau hạ sườn phải và rối loạn tiêu hóa. Người nghiện rượu lâu năm bị xơ gan có dấu hiệu thường gặp là sút cân, mệt mỏi, chán ăn. Trường hợp nặng người nghiện rượu bị vàng da, lách to, cổ chướng, gan to hoặc teo nhỏ, teo tinh hoàn, phù…., chứng vú to. Xét nghiệm cho thấy Albumine máu giảm, Globuline máu tăng, men gan có thể tăng hoặc giảm.


5. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN TUYẾN YÊN:


Gây rối loạn tăng trưởng, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chuyển hóa iron, nước, muối khoáng.


6. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN TUYẾN TỤY:


Còn có thể viêm tụy mãn, đau bụng và nôn nhiều. Trường hợp tế bào đảo tụy do viêm mãn tính người nghiện có thể bị tiểu đường hoặc tăng đường huyết.


7. CÁC BIỂU HIỆN VỀ DINH DƯỠNG:


  • - Rượu cản trở sự hấp thu, chuyển hóa các chất dinh dưỡng

  • - Người nghiện rượu bị giảm acid folic gây thiếu máu.

  • - Giảm vitamine B1, vitamine B6, các ion, nhất là ion kẽm.

  • - Thiếu các vitamine hòa tan trong mỡ như vitamine A, vitamine D, vitamine H…

  • - Giảm đường máu gây run, co giật, mệt mỏi

  • - Viêm đây thần kinh ngoại vi gây liệt mềm, mất trí.


8. PHỤ NỮ NGHIỆN RƯỢU
Có thể sinh non, trẻ nhẹ cân, dị dạng.


9. TĂNG NGUY CƠ GÂY UNG THƯ
Vòm hầu, họng, thanh quản, thực quản và gan.


VI. NHIỄM ĐỘC RƯỢU:


Nhiễm độc rượu còn được gọi là say rượu, có 2 loại nhiễm độc rượu:

- Nhiễm độc (say rượu) thông thường

- Nhiễm độc (say rượu) bệnh lý


1. SAY RƯỢU THÔNG THƯỜNG:


Say rượu thông thường còn gọi là say rượu cấp ở những người lạm dụng rượu uống quá ngưỡng, dẫn đến những thay đổi hành vi, cảm xúc kèm theo trạng thái rối loạn ý thức.

Tùy theo lượng rượu uống, lượng hấp thu rượu, thời gian uống kéo dài bao lâu, uống lúc no hay đói và khả năng dung nạp của từng cá thể. Tình trạng say rượu có thể được biểu hiện ở 3 mức độ:


1.1 SAY RƯỢU MỨC ĐỘ NHẸ:

- Người say rượu nhẹ có tư duy chậm chạp, kém nhạy bén, thiếu chính xác vận động, giảm khéo léo, giảm nhiều kỹ năng lao động.Tình trạng hưng phấn tùy thuộc vào lượng rượu uống, khí sắc tăng nhẹ, cảm giác hưng phấn quá mức, khoái cảm thô lỗ, nói năng đùa cợt không phù hợp. Người say rượu thường cường điệu hóa vụ việc, ưa khoe khoang về mình, ưa công kích người khác. Ngoài ra người say rượu ưa chấp nhặt, hay gây sự, kiếm chuyện làm tăng khả năng xung đột với người xung quanh.

- Say rượu nhẹ có thể giải tỏa bản năng tình dục dễ dẫn đến hành vi thô bạo với người khác giới.


1.2 SAY RƯỢU TRUNG BÌNH:

- Liên tưởng hỗn độn, không kiềm chế được cảm xúc, dễ tức giận, nổi nóng dù những nguyên do không đáng kể.

- Người say rượu mức trung bình thường mất tế nhị, mất lịch sự có những hành vi thô bạo, nói to, ồn ào, ưa la hét, khó thực hiện các động tác đòi hỏi khéo léo, đi đứng xiêu vẹo.


1.3 SAY RƯỢU NẶNG:

- Thường biểu hiện nôn nhiều, vã mồ hôi, rối loạn thực vật, tăng tiết nước bọt, đái ra quần, ngã vật, nếu lượng rượu uống nhiều có thể dẫn đến hôn mê, mạch nhanh, thở nông, hạ huyết áp có thể dẫn đến tử vong.


*Xử trí:

- Các trường hợp ngộ độc rượu cấp thể nhẹ sau giai đoạn ngủ sâu, tự hồi phục.

- Trong những trường hợp ngộ độc cấp nặng (say rượu nặng) có các biểu hiện như:

  • + Hôn mê

  • + Suy hô hấp nặng

  • + Mạch nhanh, tụt huyết áp, hạ đường huyết.

Phải thực hiện, phác đồ cấp cứu ở các trung tâm cấp cứu gần nhất.

  • + Nếu đến sớm nên rửa dạ dày.

  • + Có suy hô hấp: đặt nội khí quản, thở oxy qua máy.

  • + Nếu hạ đường huyết, tụt huyết áp: truyền glucose 20 – 30%

  • + Nên có toan chuyển hóa truyền Natribicarbonate 1,4%

  • + Nếu bệnh nhân ngộ độc rượu cấp (say rượu nặng) có hiện tượng tăng Creatimin máu, tăng K+ máu dẫn đến  suy thận cấp, phải truyền dịch từ 400ml – 5000 ml ngày, cho lợi tiểu Lasix để duy trì lượng nước tiểu 3000 ml/24 giờ.

  • + Có chế độ theo dõi cấp cứu chăm sóc toàn diện, thích hợp.


2. SAY RƯỢU BỆNH LÝ:


2.1 KHÁI NIỆM:


- Say rượu bệnh lý là một trạng thái ngộ độc rượu cấp rất đặc biệt, hiếm gặp, có thể xảy ra ở những người uống lượng rượu không lớn.

– Theo Corsacop X.X và Xerbski V.P say rượu bệnh lý là tình trạng loạn thần cấp, diễn ra trong một thời gian ngắn, nhất thời với những triệu chứng bệnh lý rối loạn ý thức sâu sắc kiểu mù mờ, kèm theo những trạng thái căng thẳng cảm xúc do hoang tưởng và ảo giác.


 2.2 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA SAY RƯỢU BỆNH LÝ:


- Rượu chỉ là một tác nhân dẫn đến say rượu bệnh lý trong số nhiều yếu tố khác cần được kể đến như: Sự mệt nhọc, lo âu, sợ sệt, căng thẳng, thiếu ngủ, đói ăn, suy kiệt, nóng quá mức, khác quá mức, bệnh nhiễm trùng.

- Say rượu bệnh lý phát sinh sau uống rượu không phụ thuộc vào số lượng và loại rượu uống.

- Khởi phát có thể nhanh từ vài phút đến một giờ (ít khi xuất hiện muộn sau nhiều giờ).

- Khác với say rượu thông thường, người say rượu bệnh lý bị ngay những rối loạn ý thức trầm trọng, mất định hướng, không duy trì được sự tiếp xúc với người xung quanh.

- Trong say rượu bệnh lý phối hợp vận động vẫn còn tốt, người say rượu bệnh lý vẫn duy trì được thăng bằng, khả năng di chuyển.

- Trạng thái say rượu bệnh lý thường kéo dài khoảng một giờ đôi khi vài giờ kết thúc bằng giấc ngủ sâu.

- Thường phát sinh cảm xúc bất an, lo âu, hoảng sợ, đạt tới mức khủng khiếp; cảm xúc không thoải mái về quá khứ.

- Các nét đặc trưng khác với say rượu đơn thuần, lượng rượu uống vào ít hay rất ít. Thường gặp ở những người có trạng thái phụ thuộc vào rượu rõ rệt. Những người có nhân cách yếu.

- Cơn xảy ra đột ngột, bất ngờ với nhiều rối loạn hành vi, và có rối loạn ý thức (thường lú lẫn).


 3. LẠM DỤNG RƯỢU (ALCOHOL ABUSE)


- Một người uống rượu chưa hẳn đã nghiện, nhưng vẫn có thể làm hại đến sức khỏe của họ.

- Nhận thức được ý nghĩa này, mục đích để nhằm ngăn chặn sớm tác hại của rượu, nâng cao cảnh giác cho mọi người hiểu rằng nhiều khi vì thói quen, tuân thủ tập tục, dễ dàng biện hộ cho những hành vi mang tính chất lễ nghi quên mất rằng mình “lạm dụng rượu” trong giao tiếp, hội hè, ăn nhậu sẽ bị tác hại rất nhiều đến sức khỏe.


 4. NGHIỆN RƯỢU MÃN TÍNH:


- Nghiện rượu mãn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thường xuyên phải tìm rươu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượu thường xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mãn tính.

- Nghiện rượu mãn tính là một bệnh lý mà đối tượng sử dụng rượu bị lệ thuộc vào thể chất và tâm thần. Người nghiện rượu bị các triệu chứng sau:

  • + Hội chứng nghiện.

  • + Hội chứng cai rượu.

  • + Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu.

  • + Rối loạn tâm thần.

  • + Biến đổi nhân cách.

NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT TRUNG TÂM CAI NGHIỆN CÓ HIỆU QUẢ

NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT TRUNG TÂM CAI NGHIỆN CÓ HIỆU QUẢ

Phương pháp cai nghiện,  điều kiện môi trường và chất lượng cán bộ điều trị - giáo dục - quản lý là những yếu tố cần thiết giữ vai trò quan trọng cho công tác cai nghiện – phục hồi vô cùng quan trọng. Một trung tâm cai nghiện tốt phải đạt được các yếu tố sau:


       1.NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NGƯỜI XỨNG ĐÁNG VÀ MẪU MỰC:


      Đội ngũ điều trị phải làm thế nào để đối tượng tôn trọng. Họ phải là tấm gương sáng cho đối tượng để có thể ảnh hưởng giáo dục nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách của học viên.

Người nghiện ma tuý thường thực hiện nhiều hành vi không tốt, nhưng họ ít thấyhay biện minh cho bản thân mình, trong khi đó họ lại rất tinh ýnhạy bén nhận xét những điều không tốt của người khác. Do đó, nếu nhân viên điều trị không gương mẫu khó có thể chuyển đổi đối tượng.

      Đối với đồng nghiệp: nhân viên điều trị phải tuân thủ những quy định, những mối quan hệ thân thiện.

Đối với đối tượng nhân viên điều trị phải thương yêuđồng cảm nhưng cũng phải xác định một ranh giới không thể vượt qua của người quản lý và đối tượng.

Một điểm rất quan trọng là cán bộ điều trị phải có trình độ, được giáo dục bài bản và tự rèn luyện thường xuyên, phải có hiểu biết cai nghiện phục hồi và chuyên ngành đang công tác (Y tế - Tư vấn – Giáo dục – Quản lý học viên cai nghiện, …)


       2. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÓ TRÌNH ĐỘ VÀ NHIỆT TÌNH SẴN SÀNG ĐÁP ỨNG ĐƯỢC VÀ KỊP THỜI KHI XẢY RA CÁC TÌNH HUỐNG


      3. CƠ SỞ VẬT CHẤT PHẢI ĐẦY ĐỦ ĐỂ ĐÁP ỨNG CHO YÊU CẦU CAI NGHIỆN PHỤC HỒI. ĐẢM BẢO ĐỦ CÁC ĐIỀU KIỆN: QUẢN LÝ - Y TẾ - GIÁO DỤC – HOẠT ĐỘNG TRỊ LIỆU – HUẤN NGHIỆP TRỊ LIỆU – LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU – VUI CHƠI GIẢI TRÍ


        4. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI ĐẢM BẢO KHÔNG CÓ MA TUÝ HOẶC CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN KHÁC:


Một môi trường trị liệu để lọt ma tuý vào sẽ gây lây lan bệnh tật, tinh thần học viên không bình ổn, thiếu quyết tâm cai nghiện, dễ bức xúc phá vỡ chương trình điều trị. Luôn chờ mong ma túy nhất là khi tiếp nhận học viên mới ha chờ những cơ hội tiếp cận ma túy (gia đình, CBNV biến chất, kẻ xấu).

Do đó, đây là yếu tố tiên quyết vì nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ phá huỷ toàn bộ kế hoạch, hệ thống hoạt động của Trung Tâm.


       5.MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ MỘT NƠI AN TOÀN KHÔNG CÓ TÌNH TRẠNG BẠO LỰC:


Mọi hoạt động diễn ra một lối sống không có ma tuý, không có cảnh ức chế nhau, nơi mà hành vi của một người luôn được các người khác xem xét, góp ýkhông hề do một áp lực nào, một ý đồ xấu nào và được giáo dục liên tục về một nếp sống nề nếp chuẩn mực.


       6. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI CÓ NHỮNG CHUẨN MỰC VỀ HÀNH VI VÀ NHÂN CÁCH NHƯ MỘT XÃ HỘI GƯƠNG MẪU nhằm những tiêu chuẩn sau đây:

    • Trách nhiệm quan tâm đến người khác.
    • Trung thực, không dối trá.
    • Thương yêu, cởi mở, chân thành.
    • Đoàn kết.
    • Kỷ luật.
    • Nhận biết được bổn phận, trách nhiệm.

         7. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NƠI ĐỂ CÁC ĐỐI TƯỢNG CÓ THỂ GIÚP ĐỠ ĐIỀU CHỈNH SAI LẦM CHO NHAU.


        8. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU KHÔNG THỂ CÓ TÌNH TRẠNG BẠO LỰC: Mà phải giáo dục liên tục về một nếp sống nề nếp chuẩn mực


          9. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ CẦN CÓ MỘT THOẢ THUẬN ĐIỀU TRỊ NÓI LÊN QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VÀ NGƯỜI CAI NGHIỆN:


Thỏa thuận phải nêu rõ những mục tiêu điều trị mà hai phía đều quan tâm. Nội dung thoả thuận điều trị phải bao gồm những nội dung giúp đỡ người nghiện có kế hoạch cho đời sống hàng ngày nhằm tiến đến một sự phục hồi nhân cách, một cuộc sống hữu ích cho xã hội và thu thập những kỹ năng để vượt qua thử thách tái nghiện.


           10. NHỮNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ PHẢI ĐƯỢC THỰC HIỆN MỘT CÁCH NGHIÊM TÚC:


Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tích cực. Vai trò của những người có trách nhiệm, uy tín trợ giúp một cách hữu hiệu cho việc học tập của các thành viên.

Họ nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm của những người có vị trí trách nhiệm đối với các thành viên trong cộng đồng. Phải biết rằng các thành viên trong cộng đồng luôn theo dõi việc các cán bộ điều trị có tuân thủ các quy tắcgiá trị của cộng đồng hay không, cũng như theo dõi mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong cộng đồng, không được để các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong cộng đồng . Bất kỳ mâu thuẫn nào xảy ra giữa lời nóihành vi sẽ bộc lộ điểm yếu của hệ thống điều trịcó thể sẽ được người nghiện lợi dụng để có những biểu hiện, hành vi không đúng.



Để thực hiện tốt vai trò của mình, người cán bộ điều trị phải nắm rõ các quy tắc của cộng đồng. Những người quản lý thành công nhất là, những người luôn được đối tượng xem là tấm gương để họ học tập là những minh họa cụ thể trong giáo dục người nghiện. Những người quản lý không chỉ đảm bảo sự tồn tại, duy trì hoạt động của “ môi trường trị liệu cộng đồng” mà còn phải biến nó thành một môi trường học tập thật sự cho người nghiện ma túy.


        Người đã cai nghiện thành công là hiện thân của niềm hy vọng của người cai nghiện, đã và đang đấu tranh để vượt qua chính bản thân mình. Họ là bằng chứng sống của việc chiến thắng sự cám dỗ của ma tuý, mà chủ yếu họ là người rất thông hiểu suy nghĩcảm xúc của người nghiện. Khả năng của họ trong việc bày tỏ bản lĩnh của mình đối với những người nghiện khác là không gì sánh nổi.

Họ đoán trước được hành vi của người nghiện trong từng hoàn cảnh cụ thể. Điều này biến họ thành những người hướng dẫn rất có hiệu quả trong môi trường trị liệu cộng đồng – một môi trường điều trị mà việc thành công hay thất bại có liên quan chặt chẽ với việc thông hiểu những suy nghĩ , thậm chí cả những mánh lới của đối tượng. Tuy nhiên việc sử dụng người cai nghiện thành công vào công tác quản lý của Trung tâm là vấn đề phức tạp như việc dùng dao hai lưỡi có thể tốt nhưng cũng có thể rất nguy hiểm nếu họ có ý đồ xấu thiếu trình độ hoặc tái nghiện lại. Do đó, để xử lý tình huống, người cán bộ quản lý phải có khả năng đoán trước sự việc xảy ra và những nguyên nhân gây ra sự việc đó.


            11. NHÂN SỰ VÀ CƠ SỞ VẬT CHẤT PHẢI SẴN SÀNG VÀ ĐẦY ĐỦ VÌ SỰ PHỤC HỒI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN CÓ THỂ PHẢI MẤT THỜI GIAN DÀI VÀ YÊU CẦU VIỆC THAM GIA ĐIỀU TRỊ MÔT CÁCH THƯỜNG XUYÊN:


Người nghiện ma tuý thường ở tình trạng tái phát kinh niênđói ma túy trường diễn. Cũng tương tự như đối với những loại bệnh kinh niên khác, việc tái sử dụng ma tuý có thể xảy ra trong hoặc sau một quá trình cai nghiện thành công. Khi một đối tượng trở lại sử dụng ma tuý không có nghĩa rằng anh ta đã không học được gì từ chương trình điều trị mà thực ra là anh ta đã thất bại trong việc học đủ để giúp anh ta hoàn toàn tránh khỏi việc sử dụng ma tuý.

Quá trình cai nghiện phải kéo dài và gồm nhiều giai đoạn điều trị khác nhau để đạt được mục tiêu dài hạn là từ bỏ ma tuý và phục hồi đầy đủ các chức năng. Chính những người cai nghiện thành công nếu họ tham gia hỗ trợ các chương trình cai nghiệnquản lý sau cai thường giúp cho những đối tượng khác duy trì việc từ bỏ ma tuý.


           12. CAM KẾT CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN NÊN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI:


Hầu hết những đối tượng, đặc biệt là những người vị thành niên đều trở về gia đình sau khi họ rời khỏi Trung tâm cai nghiện. Gia đình thường là chổ dựa vững chắc giúp cho con cái họ yên tâm cai nghiện. Khi các gia đình không được cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề cai nghiện ma tuý và mục tiêu của chương trình điều trị - phục hồi thì họ sẽ dễ bị thuyết phục bởi những lý do của đối tượng đưa ra nhằm mục đích sớm rời bỏ chương trình điều trị.
Chính vì vậy các gia đình nên được hướng dẫn về nội quynguyên tắc của cơ sở điều trị, được giáo dục về triết lýphương pháp cơ bản của cai nghiện. Cán bộ điều trị có thể giúp đỡ tư vấn cho gia đình đối tượng để giải quyết một số khó khăn tồn tại không để nó ảnh hưởng đến việc điều trị của đối tượng.

 

MỘT MÔ HÌNH CAI NGHIỆN MA TÚY CÓ HIỆU QUẢ: MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU – CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU

MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU – CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU

Nghiện ma túy do nhiều nguyên nhân khác nhau: Tâm – sinh lý người nghiện, hoàn cảnh cá nhân ảnh hưởng do gia đìnhtác động của xã hội. Việc sử dụng lệ thuộc, rồi làm dụng ma túy dẫn đến tình trạng nghiện là triệu chứng cuối cùng của một quá trình dài đầy rối loạn trong một bối cảnh đa phương diện, do đó, việc điều trị phục hồi người nghiện ma túy phải là một phương pháp điều trị toàn diện bao gồm nhiều lãnh vực Y tế - Giáo dục - Tâm lý – Xã hội, … Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.


Từ những cơ sở trên cần phải có một chiến lược điều trị dài hạn nhằm gọt dũa hành vi nhân cách, điều chỉnh nhận thức – quan điểm sống tạo những thói quen tốt cho đối tượng trong một môi trường cộng đồng trị liệu dài hạn thông qua các hoạt động Tư vấn – Giáo dục – Lao động trị liệu – Huấn nghiệp trị liệu – Hoạt động trị liệu, …



     A. ĐỊNH NGHĨA:


         I. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU:


Môi trường trị liệusử dụng một cách khoa học môi trường nhằm mục đích trị liệu, tạo nên những thay đổi trong nhân cách của bệnh nhân. Danh từ môi trường trị liệu lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà tâm thần học BETTLEHEIM và SYLVERTER vào cuối những năm 1930 đầu những năm 1940 để miêu tả một môi trường kế hoạch khoa học nhằm mục đích thay đổi nhân cách của bệnh nhân.


Khi một bênh nhân bị căng thẳng, bức xúc, mất ngủ - người thầy thuốc khuyên bệnh nhân hãy nghỉ ngơi ở những nơi yên tĩnh. Bạn có thể lên cao nguyên hoặc về vùng biển một thời gian. Nơi yên tĩnh, cao nguyên, biển chính là thuốc để điều trị các chứng căng thẳng, bức xúc, mất ngủ của bạn. Sử dụng môi trường để điều trị bệnh được gọi là môi trường trị liệu.


Những khái niệm về môi trường trị liệu: Những cuộc nghiên cứu đã thực hiện đầu tiên về môi trường trị liệu hầu hết sử dụng những lý thuyết về tâm thần hay về tâm lý bệnh nhân để xác định loại môi trường nào là có tính cách trị liệu tốt nhất. Những nổ lực được thực hiện để tìm kiếm một môi trường tương tác giữa các cá nhân, được chi tiết hoá kỷ lưỡng, đặt nền tảng trên những nhu cầu tâm năng của một bệnh nhân đã được chẩn đoán kỹ càng. Mục đích của phương pháp này là cố gắng tìm ra những cách thức điều trị dựa vào thái độnhận thức của nhân viên cũng như của bệnh nhân.


+ Năm 1944 STANTON và SCHWARTZ cho rằng môi trường có thể là cách điều trị chủ yếu, cũng như có vai trò ảnh hưởng nâng đỡ hay bổ túc cho các hình thức điều trị khác. Môi trường có vai trò ảnh hưởng đến an sinh, hạnh phúc chung của cộng đồng.


+ Một tác giả khác là CUWDELL đã miêu tả tác động của các giá trị văn hoá, những chuẩn mựcphong tục của môi trường có thể ảnh hưởng trên sự săn sóc bệnh nhân.


+ Năm 1958 các tác giả FREEMAN, CAMERON đã cho rằng có mối liên hệ giữa tâm lý cá nhân và những đặc điểm của môi trường .


+ Mặc dầu đã thu nhập được nhiều kết quả trên đây, nhưng cho đến năm 1962 qua công  trình nghiên cứu của CUMMING đã đặt lại vấn đề trong việc đánh giá tác động của môi trường, vì môi trường có thể mang lại những thay đổi đặc thù trong hành vi của bệnh nhân. Các môi trường trị liệu có thể khác nhau tùy theo cách tổ chức, nhưng căn bản đều có những điểm chung trong các phương pháp trị liệu đối với các bệnh nhân điều trị nội trú. Môi trường trị liệu nhận định rằng:

    • Bệnh nhân có những sức mạnhmột phần nhân cách không bị xung đột. Những sức mạnh này được vận dụng để phát huy tối ưu bằng cách thiết lập một môi trường nội trú khoa học.
    • Bệnh nhân có những khả năng to lớn trong việc tự điều chỉnh chính mình, trên những bệnh nhân khác và mức độ nào đó có ảnh hưởng trên cơ cấu tổ chức của bệnh viện.
    • Tất cả các nhân viên của trung tâm có một khả năng rất lớn để tác động đến việc trị liệu cho người bệnh.

          II. CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:


Theo Crack, khác với môi trường trị liệu, cộng đồng trị liệu là một loại môi trường trị liệu đặc biệt trong đó toàn cơ cấu xã hội của đơn vị điều trị đều tham gia tiến trình giúp đỡ bệnh nhân.


Theo Jones, môi trường cộng đồng trị liệu được phân biệt với các chương trình trị liệu khác là do chương trình này huy động toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân và toàn bộ tập thể bệnh nhân và nhân viên đều tập trung vào mục đích điều trị. Như vậy, bệnh nhân cũng có một vị trí trong  chương trình điều trị này qua thay đổi tư thế của mình. Trong chương trình cộng đồng trị liệu, nhân viên  phải khuyến khích bệnh nhân tích cực tham gia trong kế hoạch săn sóc cho chính mình. Đây là một phương pháp rất khác với vai trò thụ động chữa trị trong bệnh viện cổ điển, quy ước trong đó chỉ có vai trò bác sĩ và bệnh nhân.
Jones cho rằng điểm đặc biệt của chương trình này là được đặt trên sự giao lưu, giao tiếp tự do trong trung tâm với các nhân viên và giữa các bệnh nhân với nhau. Mục đích của sự giao lưu tự do này là tìm ra được hành vi nào, ‎ý kiến nào, nhận xét nào, những vai trò nào  thích hợp để thay đổi nhận thức, thái độ,  lòng tin của bệnh nhân và những vấn đề nào không thích hợp cho điều trị (anti therapeutic).


Như vậy, cộng đồng trị liệu có tính chất dân chủ, tự do bàn bạc, thảo luận khác với phương pháp thường dùng là đặt vai trò trị liệu đặc biệt của người bác sĩ lên trên và cách điều trị phục hồi tuân thủ những quy định thứ lớp bắt buộc.


Trong mô hình cộng đồng trị liệu, môi trường thiết yếu là môi trường linh hoạt, những người tham gia không có vai trò chuyên biệt rõ ràng. Những hoạt động của bệnh nhân được cá thể hóa rất cao và sự tham gia của bệnh nhân là hoàn toàn tự nguyện. Một điều ngoại lệ đặc biệt là MỖI NGÀY PHẢI CÓ MỘT BUỔI HỌP CỘNG ĐỒNG: tất cả nhân viên và những bệnh nhân được khuyến khích phải hội họp, trách nhiệm tập thể được nhấn mạnh, những người tham dự được rút tỉa kinh nghiệm,


Vai trò chính của nhân viên là giúp đỡ bệnh nhân đạt được những thấu hiểu mới, những sáng kiến, hành vi mới. Jones tin rằng một đơn vị điều trị lý tưởng cần phải được tự do điều hành trong cách nào tốt nhất, với hướng tiếp cận riêng của mình. Tuy nhiên, Jones cũng đưa ra những yếu tố mang tính đặc trưng của cộng đồng trị liệu: đó là hội họp cộng đồng hàng ngày như là một phương thức để thảo luận đời sống hàng ngày của Trung Tâm nhằm đóng góp, giải quyết các thắc mắc, các yêu cầu của các bệnh nhân.


Một yếu tố nữa của cộng đồng trị liệu là quản lý bệnh nhân. Mục đích của sự quản lý bệnh nhân là để bàn bạc, thảo luận một cách chi tiết, cụ thể về trách nhiệm quyền lợi của từng bệnh nhân như: luân phiên dọn dẹplàm vệ sinh các phòng. Tất cả mọi quyết định cuối cùng phải được thống nhất lại trong các phiên họp cộng đồng. Jones cho rằng sinh hoạt nhóm nhằm ôn lại, kiểm điểm lạicần thiết cho sự uốn nắn, giáo dục tại chỗ (on-the ward training) đối với bệnh nhân. Trong buổi họp, các thành viên Trung Tâm phải xem xét những đáp ứng riêng,  mong đợi riêng, thành kiến riêng của mọi người.
Một đặc trưng quan trọng khác của môi trường cộng đồng trị liệu là những cơ hội học cách sống trong môi trường cộng đồng trị liệu. Như vậy, môi trường cộng đồng trị liệu là môi trường học sống cho những bệnh nhân học cách đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày. Theo Jones - phản hồi lại, là một trong những khái niệm căn bản, quan trọng nhất của cộng đồng trị liệu nhằm đạt được sự tiến bộ cho toàn thể cộng đồng, không có điều gì được coi là thuần túy bí mật trong môi trường cộng đồng trị liệu.
Những nhân viên của Trung tâm phải nhạy cảm trong vai trò của mình- phải biết phản hồi lại những thông tin trong cộng đồng lên cấp trên. Mặc dù ngày nay những khái niệm sơ khởi của Jones về cộng đồng trị liệu đã được nhìn nhận nhưng thực hiện dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau nhưng những nét cơ bản vẫn không thay đổi.


Nguyên tắc đầu tiên của cộng đồng trị liệu là trong môi tường trị liệu có sự liên quan lẫn nhau trong sự săn sóc nội trú. Không có ai nghi ngờ rằng ảnh hưởng của môi trường ảnh hưởng đến hành vicảm xúc. Năng động nhóm luôn luôn tác động nhằm tập trung về trách nhiệm – phục hồi – khuyến khích sự phát triển. Sự điều hành toàn diện là rất hiệu năng.


Những nhà điều trị đã sớm nhận được sức mạnh của động lực nhóm (dynamic group) trong việc điều chỉnh hành vi và củng cố các quy tắc của cộng đồng. Ngày nay, trong môi trường điều trị cộng đồng, sức mạnh ấy không còn nằm ở cá nhân hay một nhóm nhỏ nữa mà nó là sức mạnh của một cộng đồng.


        III. KẾT LUẬN:


Môi trường cộng đồng trị liệu không giống như môi trường cộng đồng mà chúng ta đang sống. Có một số những đặc tính khiến cho cộng đồng này trở nên độc đáokhông giống bất kỳ loại cộng đồng nào: đó chính là sự tổng hợp của các yếu tố: cơ cấu tổ chức, yếu tố con người, những quy định điều chỉnh mối quan hệ tương giao giữa các thành viên của cộng đồng và hệ thống chia sẻ thông tin đã tạo nên cộng đồng. Nó phải là: “Môi trường học tập”. Môi trường này chủ yếu đề cập đến mối quan hệ giữa các thành viên và không khí học tập.
Kết quả môi trường cộng đồng trị liệu là tạo ra một số những ảnh hưởng nhất định đến trạng thái tâm tư tình cảm, nhận thức về đạo đứcxã hội của người nghiện. Môi trường cộng đồng trị liệu tạo ra trật tự và một lối sống có mục đích trong các thành viên của nó. Chính bởi vì môi trường trị liệu cộng đồng thường có được cơ sở vật chất  cũng như cách tổ chức tốt nên nó là môi trường trị liệu tốt đối với các đối tượng tham gia chương trình. Tóm lại:


Môi trường cộng đồng trị liệu nhằm mục đích:

  • Bạn có thể thay đổibộc lộ bản thân mình.
  • Động lực của nhóm sẽ giúp đỡ cho sự thay đổi đó.
  • Tất cả các thành viên của cộng đồng cần phải có trách nhiệm.
  • Tự đặt mình vào hoàn cảnh người khác để đánh giá cảm xúc.
  • Phương pháp thực hiện bao gồm:
    • Quản lý giám sát hành vi.
    • Chuyển biến tâm tư – tình cảm.
    • Điều trị cắt cơn – bệnh cơ hội – bệnh tâm thần.
    • Sử dụng các phương pháp điều trị không dùng thuốc nhằm phục hồi nhận thức – hành vi nhân cách – tinh thần trách nhiệm – điều chỉnh những rối loạn tâm - sinh lý cho người nghiện ma túy.

     B. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG MỘT MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CÓ HIỆU QUẢ:

    Vì tính chất đa dạng của bệnh nghiện ma tuý nên nếu sử dụng một vài biện pháp cai nghiện thì không đảm bảo thoả mãn hết được mọi nhu cầu cho người nghiện mà phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều biện pháp điều trị. Tuy nhiên vẫn có một số nguyên tắc cơ bản như sau :


              I. XÂY DỰNG NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG:

      • Tôn trọng lẫn nhau.
      • trách nhiệm với gia đình, cộng đồng. Lòng biết ơn.
      • Tự tin vào giá trị bản thân.
      • Biết thương yêuquan tâm đến người khác.
      • Phối hợp trong công việc.
      • Trung thực – trách nhiệm – khiêm tốn – cởi mở.
      • Năng động sáng tạo – khả năng nhận thức tốt.
      • Tích cực lao động.

             II. XÂY DỰNG MỘT MÔI TRUỜNG ĐIỀU TRỊ AN TOÀN VÀ LÀNH MẠNH:

    • Không ma tuý.
    • Không có hành vi bạo lực hay đe dọa bạo lực.
    • Khônghành vi tình dục.
    • Không trộm cắp.
    • Luôn luôn nhắc nhởkiểm tra thực hiện các nguyên tắc cộng đồng đề ra.
    • Đặt ra những quy định mới nếu thấy cần thiết.

                   1. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC:

      • Việc tuân thủ lịch sinh hoạt 24h/ ngày được giám sát chặt chẽ.
      • Phân công công việc rõ ràng cho từng thành viên.
      • Có sự chỉ đạo thông suốt từ trên xuống dưới và sự phản ánh kịp thời từ dưới lên.
      • Đảm bảo tuân thủ những quy tắc, quy định. Mọi hành vi được giám sát chặt chẽ và thường xuyên.
      • Xây dựng được những tiêu chí trong cộng đồng nhằm khuyến khích việc tích cực điều chỉnh hành vi.
      • Phương pháp điều trị phải dựa trên nguyên tắc nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người nghiện.

                    2.NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:

        • Phương pháp điều trị không bao giờ được làm tổn thương đến nhân phẩm đối tượng và phải được xây dựng trên những hiểu biết sâu sắc về ma túy và người nghiện.
        • Phải áp dụng biện pháp điều trị toàn diện bao gồm nâng cao sức khoẻ nhằm điều chỉnh, phục hồi nhận thức - hành vi- nhân cách, giải quyết những vấn đề tâm lý, giáo dục, huấn nghiệp trị liệu, lao động trị liệu.
        • Đối tượng có lòng tin vào cán bộ điều trị.
        • Đối tượng cảm nhận được sự chăm sóc và giúp đỡ chân thành của cán bộ điều trị.
        • Đối tượng cảm nhận được sự chăm sóc của cả cộng đồng đối với quá trình tiến bộ của đối tượng.
        • Đối tượng luôn luôn cảm thấy an toàn cả về thể chất lẫn về tinh thần.
        • Phải tạo được môi trường điều trị – phục hồi an toàn.
        • Môi trường điều trị phải tạo ra được sự trung thựctính cởi mở trong nguyên tắc cộng đồng đề ra.

                     3. NHỮNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NHANH SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH ĐỐI TƯỢNG:

      • Phải có những nguyên tắc giải quyết mọi hành vi vi phạm có liên quan đến những quy định của cộng đồng mà không cần sử dụng đến vũ lực.
      • Phải có những hoạt động nhằm giúp đỡ về tâm tư tình cảm, khuyến khích việc bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận đối tượng một cách trung thực (ví dụ như tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hay các hình thức điều trị nhóm khác…).
      • Tổ chức những buổi nói chuyện cho đối tượng để họ có thể giải bày tâm sự về quá khứ của mình một cách cởi mở, trung thựckhông lo ngại có sự chế diễu hay phản đối từ phía đối tượng khác.
      • Giúp đối tượng cũng cố lòng tin vào bản thân và những người xung quanh qua biện pháp giáo dục tâm lý - xã hội cho dối tượng.

                      4. XÂY DỰNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HỮU HIỆU:

      • Sử dụng hệ thống quản lý trách nhiệm.
      • Đối tượng được nhóm, tổ chức phân công việc.
      • Sử dụng nhóm đồng đẳng quản lý lẫn nhau.
      • Sử dụng sổ nhật ký, sổ báo cáo, giao ban hay lịch phân công lao động để quản lý.
      • Giám sát nghiêm ngặt tuân thủ các loại quy định, nguyên tắc của cộng đồng.

                     5. XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ ĐIỀU TRỊ CỦA ĐỐI TƯỢNG:

      • Kế hoạch điều trị:
      • Xác định những vấn đề mấu chốt phải giải quyết trong quá trình điều trị.
      • Xây dựng một kế hoạch điều trị nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra.
      • Kế hoạch này phải có những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn điều trị.
      • Xác định những hoạt động diều trị cụ thểchỉ định người chịu trách nhiệm giúp đỡ đối tượng đạt được mục tiêu yêu cầu điều trị đề ra.
      • Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ.
      • Theo dõi tiến độ điều trị của đối tượng theo kế hoạch đã đề ra: Tổ chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm cho từng trường hơp đối tượng.
      • Sử dụng hồ sơ quản lý đối tượng,  phân công người quản lý theo dõi.
      • Nhận xét của nhân viên tư vấn về sự tiến bộ của đối tượng.
      • Biên bản của những buổi tư vấn cá nhân, nhóm, gia đình.
      • Báo cáo tiến độ điều trị thường kỳ hàng tháng.

                     6. XÂY DỰNG HỆ THỐNG KHEN THƯỞNG:

      • Dựa trên các tiêu chuẩn đề ra để khen thưởng các học viên tích cực.
      • Sử dụng một số ưu đãi làm phần thưởng như : viết thư, tặng quà lưu niệm, biểu dương trước tập thể…
      • Đi dã ngoại bên ngoài cơ sở điều trị.
      • Cho về thăm gia đình.

    Việc khen thưởng này tùy thuộc vào từng hoàn cảnh trung tâm - trường - trại - địa phương.


           III. CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ KẾT QUẢ:


                    1. NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NGƯỜI XỨNG ĐÁNG VÀ MẪU MỰC: Đôi ngũ điều trị phải làm thế nào để đối tượng tôn trọng. Họ phải là tấm gương sáng cho đối tượng để có thể ảnh hưởng giáo dục nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách của học viên.

    Người nghiện ma tuý thường thực hiện nhiều hành vi không tốt, nhưng họ ít thấyhay biện minh cho bản thân mình, trong khi đó họ lại rất tinh ýnhạy bén nhận xét những điều không tốt của người khác. Do đó, nếu nhân viên điều trị không gương mẫu khó có thể chuyển đổi đối tượng.

    Đối với đồng nghiệp nhân viên điều trị phải tuân thủ những quy định, những mối quan hệ thân thiện.

    Đối với đối tượng nhân viên điều trị phải thương yêuđồng cảm nhưng cũng phải xác định một ranh giới không thể vượt qua của người quản lý và đối tượng.


                     2. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI ĐẢM BẢO KHÔNG CÓ MA TUÝ HOẶC CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN KHÁC:

    Một môi trường trị liệu để lọt ma tuý vào sẽ gây lây lan bệnh tật, tinh thần học viên không bình ổn, thiếu quyết tâm cai nghiện, dễ bức xúc phá vỡ chương trình điều trị.

              Đây là yếu tố tiên quyết vì nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ phá huỷ toàn bộ kế hoạch, hệ thống hoạt động của Trung Tâm.


                      3. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ MỘT NƠI AN TOÀN KHÔNG CÓ TÌNH TRẠNG BẠO LỰC: mọi hoạt động diễn ra một lối sống không có ma tuý, không có cảnh ức chế nhau, nơi mà hành vi của một người luôn được các người khác xem xét, góp ýkhông hề do một áp lực nào, một ý đồ xấu nào và được giáo dục liên tục về một nếp sống nề nếp chuẩn mực.


                       4. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NƠI ĐỂ CÁC ĐỐI TƯỢNG CÓ THỂ GIÚP ĐỠ ĐIỀU CHỈNH SAI LẦM CHO NHAU .


                       5. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI CÓ NHỮNG CHUẨN MỰC VỀ HÀNH VI VÀ NHÂN CÁCH NHƯ MỘT XÃ HỘI GƯƠNG MẪU nhằm những tiêu chuẩn sau đây:

    • Trách nhiệm quan tâm đến người khác.
    • Trung thực, không dối trá.
    • Thương yêu, cởi mở, chân thành.
    • Đoàn kết.
    • Kỷ luật.
    • Nhận biết được bổn phận, trách nhiệm.

                       6. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU PHẢI DỰ KIẾN MỌI BIỆN PHÁP KHI CÓ TÌNH HUỐNG XẤU: Phải can thiệp ngay kịp thời khi xảy ra những vi phạm nghiêm trọng về những quy tắc xã hội và chuẩn mực hành vi.


                       7. CÁC ĐIỀU KIỆN QUẢN LÝ - Y TẾ - GIÁO DỤC - TRỊ LIỆU - CÁC BIỆN PHÁP TRỊ LIỆU KHÁC VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÓ TRÌNH ĐỘ VÀ NHIỆT TÌNH ĐỂ SẴN SÀNG ĐÁP ỨNG ĐƯỢC VÀ KỊP THỜI.


                       8. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ CẦN CÓ MỘT THOẢ THUẬN ĐIỀU TRỊ NÓI LÊN QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VÀ NGƯỜI NGHIỆN: Thỏa thuận phải nêu rõ những mục tiêu điều trị mà hai phía đều quan tâm. Nội dung thoả thuận điều trị phải bao gồm những nội dung giúp đỡ người nghiện có kế hoạch cho đời sống hàng ngày nhằm tiến đến một sự phục hồi nhân cách, một cuộc sống hữu ích cho xã hội và thu thập những kỹ năng để vượt qua thử thách tái nghiện.


           IV. NHỮNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ KẾT QUẢ:

      • Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tích cực. Vai trò của những người có trách nhiệm, uy tín trợ giúp một cách hữu hiệu cho việc học tập của các thành viên.

      • Họ nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm của những người có vị trí trách nhiệm đối với các thành viên trong cộng đồng. Phải biết rằng các thành viên trong cộng đồng luôn theo dõi việc các cán bộ điều trị có tuân thủ các quy tắcgiá trị của cộng đồng hay không, cũng như theo dõi mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong cộng đồng, không được để các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong cộng đồng . Bất kỳ mâu thuẫn nào xảy ra giữa lời nóihành vi sẽ bộc lộ điểm yếu của hệ thống điều trịcó thể sẽ được người nghiện lợi dụng để có những biểu hiện, hành vi không đúng.

      • Để thực hiện tốt vai trò của mình, người cán bộ điều trị phải nắm rõ các quy tắc của cộng đồng. Những người quản lý thành công nhất là, những người luôn được đối tượng xem là tấm gương để họ học tập là những minh họa cụ thể trong giáo dục người nghiện. Những người quản lý không chỉ đảm bảo sự tồn tại, duy trì hoạt động của “ môi trường trị liệu cộng đồng” mà còn phải biến nó thành một môi trường học tập thật sự cho người nghiện ma túy.

      • Người đã cai nghiện thành công là hiện thân của niềm hy vọng của người cai nghiện, đã và đang đấu tranh để vượt qua chính bản thân mình. Họ là bằng chứng sống của việc chiến thắng sự cám dỗ của ma tuý, mà chủ yếu họ là người rất thông hiểu suy nghĩcảm xúc của người nghiện. Khả năng của họ trong việc bày tỏ bản lĩnh của mình đối với những người nghiện khác là không gì sánh nổi. Họ đoán trước được hành vi của người nghiện trong từng hoàn cảnh cụ thể.
        Điều này biến họ thành những người hướng dẫn rất có hiệu quả trong môi trường trị liệu cộng đồng – một môi trường điều trị mà việc thành công hay thất bại có liên quan chặt chẽ với việc thông hiểu những suy nghĩ , thậm chí cả những mánh lới của đối tượng. Tuy nhiên việc sử dụng người cai nghiện thành công vào công tác quản lý của Trung tâm là vấn đề phức tạp như việc dùng dao hai lưỡi có thể tốt nhưng cũng có thể rất nguy hiểm nếu họ có ý đồ xấu thiếu trình độ hoặc tái nghiện lại. Do đó, để xử lý tình huống, người cán bộ quản lý phải có khả năng đoán trước sự việc xảy ra và những nguyên nhân gây ra sự việc đó.

             V. CÁC NGUYÊN TẮC TRONG MỖI QUAN HỆ:


                 1.NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ:

    Tình đồng đội và sự tôn trọng lẫn nhaunguyên tắc cơ bản của các nhân viên điều trị trong cộng đồng. Các đối tượng là thành viên của cộng đồng cũng phải coi hai nguyên tắc đó là nền tảng mối quan hệ trong công việc của mình.

    Để xây dựng được môi trường trị liệu cộng đồng có hiệu quả, các nhân viên điều trị phải có khả năng phối hợp làm việc trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Để tạo ra được một thái độ làm việc như vậy những người lãnh đạo tổ chức phải là tấm gương của cộng đồng trị liệu. Người cán bộ lãnh đạo phải tuân thủ nguyên tắc này trong khi giao tiếp với các nhân viên của mình.


                2. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VỚI ĐỐI TƯỢNG:

    Cộng đồng có mục tiêu là tạo một môi trường cho sự điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách của đối tượng. Cộng đồng sẽ thất bại nếu như thiếu đi lòng quyết tâm của những người lãnh đạo và những người có uy tín trong cộng đồng. Môi trường trị liệu cộng đồng bao gồm nhiều thành phần khác nhau: Có những đối tượng ích kỷ, mang chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng cũng có những sự hy sinh bản thân để giúp đỡ các đối tượng khác. Đa số người cai nghiện có trạng thái tình cảm không ổn định, nhưng điều đáng chú ý là chính những cán bộ điều trị chuyên đi hàn gắn vết thương này đôi khi không giải quyết được những khó khăn của chính bản thân mình.
    Tuy nhiên dù tình huống nào, người cán bộ điều trị, những người được xem là tấm gương sáng để toàn thể cộng đồng noi theo, luôn luôn phải cư xử với các thành viên của cộng đồng với một thái độ có trách nhiệm. Những cơ chế của cộng đồng được thể hiện ở những nghi thứcquy tắc xã hội, có thể giúp ngăn chặn việc vô tình hay cố tình sử dụng sai nguyên tắc về sức mạnhquyền hạn trong mọi đối tượng điều trị tại cộng đồng.

    Nhằm nâng cao những quy tắc, chuẩn mực của cộng đồng cần phải quan tâm đến việc đào tạo những cán bộ điều trị trở thành những nhân viên chuyên nghiệp có trình độ. Việc chuyên môn hóa đội ngũ điều trị có thể sẽ giúp cải thiện chất lượng điều trị của cộng đồng nói chung và của những người cán bộ quản lý nói riêng.


                3. CƠ CẤU CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI ĐỐI TƯỢNG:

    Môi trường trị liệu cộng đồng nổi tiếng là nhờ nó được sự tổ chức tốt, có nguyên tắc,  có cơ sở vật chất đầy đủ các yếu tố trên sẽ khích lệ những hành vi lành mạnh. Môi trường sẽ phản ánh bản chất của cộng đồng sống trong môi trường đó. Mặc dù có một vài mô hình cộng đồng buộc phải thích nghi với cơ sở vật chất sẵn có ví dụ như là nhà tù, các khu nhà cũ, cơ sở khám chữa bệnh thiếu thốn nhưng chúng ta phải quyết tâm từng bước nâng cấp môi trường sao cho phù hợp với yêu cầu của một môi trường trị liệu cộng đồng.


    Cộng đồng trị liệu phải mang dáng dấp một gia đình nhiều hơn là một trung tâm điều trị. Ngay cảtrong tù hay trong trại cải tạo, trại giáo dưỡng trẻ em vị thành niên: không khí “nhà tù” cũng không còn nữa, nhằm khiến cho cộng đồng trở thành một môi trường nhẹ nhàng, tin cậy cho việc điều trị – phục hồi, an toàn cả về thể chất lẫn tinh thần cho đối tượng: Đó phải là chỗ mà đối tượng có thể chịu trách nhiệm về sự lựa chọnhành vi của chính mình.
    https://www.cainghienmatuythanhda.com.vn/mot-mo-hinh-cai-nghien-co-hieu-qua/?amp=1Trong khi nhà tù tạo ra không khí thiếu an toàn, nơi mà đối tượng muốn sinh tồn thì phải dựa hoàn toàn vào mánh khoéluật rừng, thì môi trường cộng đồng tạo ra những hành vi xã hội lành mạnh như tin tưởnggiúp đỡ lẫn nhau trong bầu không khí gia đình.

    Những thành công lớn của môi trường trị liệu cộng đồng có được là nhờ một cơ cấu hoạt động chặt chẽ. Cần tổ chức tốt lịch sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng tùy theo người cũ hay người mới tham gia điều trị. Tuy nhiên, mọi đối tượng cai nghiện đều phải hiểu được trách nhiệm của mình và các mục tiêu chung do cộng đồng đề ra.

     

    NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH NGƯỜI CAI NGHIỆN

    NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH

    NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH NGƯỜI CAI NGHIỆN


                A.MỞ ĐẦU:

    Những biện pháp điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách trong môi trường trị liệu cộng đồng như kiểm điểm, phê bình, giao ban buổi sáng, nhóm đối kháng, họp gia đình hay họp chung v.v… được xây dựng nhằm sửa đổi những hành vi vi phạm những quy tắc mà cộng đồng đề ra. Việc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của cộng đồng hay những quy tắc cốt yếu điều hết sức quan trọng trong việc duy trì sự lành mạnh sự an toàn của môi trường điều trị. Những biện pháp điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách nhằm mục đích ngăn chặn, trừng phạt những hành động làm xói mòn tập quán, sự an toàntính lành mạnh của môi trường. Việc xử lý các vi phạm những quy tắc cơ bản - tạo ra cảm giác an toàn của cộng đồng.


    Tuy nhiên, nếu những biện pháp này bị lạm dụng sẽ gây ra những kết quả trái ngược. Nếu tổ chức môi trường trị liệu cộng đồng thiếu chuẩn mựcthiếu tinh thần trách nhiệm trong việc áp dụng những biện pháp này thì chúng trở nên có hại nhiều hơn có lợi. Vấn đề sử dụng biện pháp nào với mức độ vi phạm như thế nào được quyết định bởi mức độ điều chỉnh hành vi từ thấp đến cao.


    Biện pháp kiểm điểmtrao đổi (tư vấn trực tiếp) được áp dụng cho những hành vi nhẹ. Đối với những môi trường trị liệu được tổ chức tốt thì ít khi phải áp dụng những biện pháp mạnh.


    Việc phải tăng cường sử dụng những biện pháp mạnh là dấu hiệu cho thấy môi trường điều trị đó đang có nguy cơ không được tổ chức tốt, do đó phải xem xét lại trách nhiệm của các thành viên cộng đồng đối với những quy tắcchuẩn mực của cộng đồng cũng như nhận thức của những người quản lý.


    Những biện pháp điều chỉnh hành vi có hiệu quả nếu được sử dụng đúng sẽ làm tăng trách nhiệm của thành viên đối với việc tuân thủ các quy tắc mà cộng đồng đề ra. Khi một đối tượng bị gọi lên kiểm điểm trong một lần giao ban buổi sáng hay bị khiển trách trước tập thể để những thành viên khác trong cộng đồng phê bình sửa chữa hành vi không đúng của đối tượng, thì chính đối tượng vừa nói chuyện với cộng đồngvừa chính với bản thân mình. Trong quá trình áp dụng những biện pháp này điều căn bản là phải đảm bảo chỉ lên án những hành vi sai trái chứ không cố gắng đánh vào lòng tự trọng của đối tượng.
    Do vậy trong các buổi giao ban chỉ nên chú trọng vào phân tích sự vi phạm của đối tượngảnh hưởng của nó tới bản thân đối tượng cũng như tới những người khác. Điều này được thể hiện cảm giác biết ơn của đối tượng đối với sự quan tâmtình thương của các thành viên khác dành cho đối tượng, thông qua việc giúp đỡ anh ta sửa đổi những thái độ, hành vi không đúng.


    Việc kiểm điểm trong các buổi giao ban buổi sáng nhìn chung đã giải quyết được sự vi phạm quy tắc của các học viên. Khi những quy tắc này bảo đảm, việc học tập cũng trở nên thuận lợiđạt kết quả tốt. Nếu một học viên đã từng bị khiển trách vì đến muộn tại giao ban buổi sáng thì đối tượng thường ít khi lặp lại hành vi đó lần nữa. Bên cạnh những kiến thức mà họ nhận được từ bài giảng, họ còn nhận thức thêm được nhiều điều từ chính bản thân mình.


          B.NHỮNG BIỆN PHÁP CƠ BẢN ĐỂ VIỆC ĐIỀU TRỊ - PHỤC HỒI CÓ HIỆU QUẢ:


        Phải có một sự điều trị khoa học, tổng hợp, linh động, kịp thời và xuyên suốt: 


    Việc áp dụng những biện pháp điều trị tổng hợphết sức quan trọng trong công tác cai nghiện phục hồi. Không có mô hình cai nghiện chung nào cho đối tượng cai nghiện ma túy mà chỉ có những nguyên tắc cơ bản, mô hình tốt với người này chưa hẳn tốt với người khác.


       I. CÁC DỊCH VỤ ĐIỀU TRỊ PHẢI LUÔN SẴN SÀNG:

    Người nghiện luôn sẵn sàng nhận sự giúp đỡ khi đã suy sụp nhưng đến khi nào anh ta đến giai đoạn suy sụp thì ta không đoán trước được, vì vậy “ sự giúp đỡ” luôn luôn phải sẵn sàng vào những thời điểm mang tính quyết định – đó là khi anh ta tự nguyện đến điều trị cai nghiện. Những thủ tục phức tạp trong quá trình tiếp nhận đối tượng đến tham gia điều trị có thể khiến chúng ta bỏ sót những đối tượng đang cần sự giúp đỡ.


    II. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN CHỈ CÓ HIỆU QUẢ:

    Khi chúng ta đáp ứng được những nhu cầu phức tạp của đối tượng trong quá trình phục hồi. Để việc điều trị có hiệu quả phải xác định được các vấn đề liên quan đến khía cạnh, thái độ, hành vi, tâm tư tình cảm, khía cạnh đạo đức, yếu tố nghề nghiệpquan hệ xã hội của đối tượng bên cạnh tiền sử lạm dụng ma tuý của anh ta. Một chương trình điều trị phục hồi toàn diện phải bao gồm những hướng dẫn hoặc sự can thiệp đáp ứng được tính chất phức tạp của người nghiện ma tuý bao gồm cả những hoạt động chuẩn bị cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồngtrang bị cho đối tượng những kỷ năng phòng chống tái nghiện..


          III. MỘT KẾ HOẠCH CAI NGHIỆN CỦA CÁ NHÂN CẦN PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ THEO TỪNG THỜI KỲ VÀ ĐƯỢC SỬA ĐỔI KHI CẦN THIẾT:

    Để đảm bảo rằng kế hoạch đó luôn phù hợp với những nhu cầu thay đổi của đối tượng. Một kế hoạch điều trị cai nghiện cũng như là một bản đồ hướng dẫn hành trình của đối tượng đi đến phục hồi, trong đó có quy định đến những điểm mốc cho từng giai đoạn và đích cuối cùng của quá trình điều trị. Kế hoạch này cho chúng ta xác định được mục tiêu đề ra và đánh giá được những gì chúng ta đã đạt được hoặc những thất bại và những thiếu sót được sửa chữa và xác định những lĩnh vực mới cần phải được củng cố cho đối tượng của chúng ta.


      IV. DUY TRÌ VIỆC ĐIỀU TRỊ TRONG MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI MỚI CÓ THỂ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CAI NGHIỆN:

    Khoảng thời gian thích hợp với từng cá nhân trong việc duy trì cai nghiện phụ thuộc vào những khó khănnhu cầu của cá nhân đó. Nghiên cứu chỉ ra rằng đối với hầu hết đối tượng thời gian cần thiết để tạo ra những tiến bộ có ý nghĩa trong cai nghiện là khoảng 3 tháng (Day top ). Sau khi đạt đến ngưỡng này những biện pháp điều trị bổ sung có thể được áp dụng để đạt được những bước tiến xa hơn nhằm tiến đến phục hồi. Những điều trên chỉ đúng khi đối tượng được cung cấp đầy đủ các dịch vụ cai nghiện. Điều quan trọng là phải cũng cố được quyết tâm của đối tượng không cho họ rời bỏ điều trị một cách quá sớm. Thời gian cai nghiện lý tưởng trung bình khoảng hai năm, tối thiểu là 6 tháng.


         V. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC – LIỆU PHÁP HIỆU QUẢ CHÍNH TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI:



    Những đối tượng cai nghiện ma tuý có những cơ hội trong điều trị để thảo luận về những vấn đề liên quan đến động cơ điều trị, xây dựng kỹ năng xã hội và thói quen chống lại việc sử dụng ma tuý, học tập những hành vi mới, nhận thức được khó khăn và có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Trị liệu hành vi và trao đổi, thảo luận giúp nâng cao mối quan hệ giữa người với đối tượng trong gia đình và trong cộng đồng. Trao đổi, thảo luận là phương pháp quan trọng trong điều trị, nó giúp cho đối tượng đi từ quá trình học tập đến thích nghi với môi trường điều trị cũng như thích nghi với việc phải đương đầu với những khó khăn tồn tại khi quay trở lại gia đình hoặc cộng đồng, phòng chống tái nghiện.


        VI.TIẾN HÀNH SONG SONG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU KẾT HỢP VỚI ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN:



    Đối tượng cai nghiện thường có những rối loạn tâm thần kèm theo, tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh l‎ý tâm thần - phương pháp cộng đồng trị liệu phải linh động áp dụng cho đối tượng với những mức độ khác nhau.


    VII. CẮT CƠN NGHIÊN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY MÀ ĐÓ CHỈ LÀ GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ CHO MỘT QUÁ TRÌNH CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI LÂU DÀI:


    Không có một biện pháp điều trị đơn thuần (thuốc, châm cứu, bấm huyệt, …) nào có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà đòi hỏi phải có những biện pháp điều trị tổng hợp, đồng bộ lâu dài thông qua các liệu pháp không dùng thuốc như:

    • Tư vấn.
    • Liệu pháp tâm l‎ý.
    • Liệu pháp giáo dục.
    • Liệu pháp xã hội.

    Để nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm của các đối tượng.


    VIII. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN KHÔNG PHẢI TỰ NGUYỆN MỚI ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ:


    (Hai phần này coi lại bài: “Những nguyên tắc cơ bản trong cai nghiện phục hồi)

    Cho dù một người đến cai nghiện là do tự nguyện hay là do gia đình hoặc các cơ quan chức năng đưa vào, đối tượng đó cũng phải được giáo dục để họ đến với động cơ đúng đắn là cai nghiện. Thông thường, ngay cả đối với những người cai nghiện tình nguyện, thì cũng có những nguyên nhân bên trong hay bên ngoài buộc họ phải ẩn náu trong các Trung Tâm cai nghiện.
    Điều trị cai nghiện tự nguyện hay ép buộc không quan trọng bằng trên thực tế đối tượng có được cơ hội để tham gia điều trị trong một môi trường điều trị lành mạnh hay không.

    Với nhóm bị ép buộc họ cũng nhận được những dịch vụ săn sóc, tư vấn, giáo dục, giúp đỡ. Tuy nhiên việc chuyển đổi nhận thức của họ lâu hơn và khó khăn hơn.


       IX. SỰ PHỤC HỒI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN CÓ THỂ PHẢI MẤT THỜI GIAN DÀI VÀ YÊU CẦU VIỆC THAM GIA ĐIỀU TRỊ MÔT CÁCH THƯỜNG XUYÊN:

    Người nghiện ma tuý thường ở tình trạng tái phát kinh niênđói ma túy trường diễn. Cũng tương tự như đối với những loại bệnh kinh niên khác, việc tái sử dụng ma tuý có thể xảy ra trong hoặc sau một quá trình cai nghiện thành công. Khi một đối tượng trở lại sử dụng ma tuý không có nghĩa rằng anh ta đã không học được gì từ chương trình điều trị mà thực ra là anh ta đã thất bại trong việc học đủ để giúp anh ta hoàn toàn tránh khỏi việc sử dụng ma tuý. Quá trình cai nghiện phải kéo dài và gồm nhiều giai đoạn điều trị khác nhau để đạt được mục tiêu dài hạn là từ bỏ ma tuý và phục hồi đầy đủ các chức năng. Chính những người cai nghiện thành công nếu họ tham gia hỗ trợ các chương trình cai nghiệnquản lý sau cai thường giúp cho những đối tượng khác duy trì việc từ bỏ ma tuý.


       X.CAM KẾT CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN NÊN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI:

    Hầu hết những đối tượng, đặc biệt là những người vị thành niên đều trở về gia đình sau khi họ rời khỏi Trung tâm cai nghiện. Gia đình thường là chổ dựa vững chắc giúp cho con cái họ yên tâm cai nghiện Khi các gia đình không được cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề cai nghiện ma tuý và mục tiêu của chương trình điều trị - phục hồi thì họ sẽ dễ bị thuyết phục bởi những lý do của đối tượng đưa ra nhằm mục đích sớm rời bỏ chương trình điều trị.
    Chính vì vậy các gia đình nên được hướng dẫn về nội quynguyên tắc của cơ sở điều trị, được giáo dục về triết lýphương pháp cơ bản của cai nghiện. Cán bộ điều trị có thể giúp đỡ tư vấn cho gia đình đối tượng để giải quyết một số khó khăn tồn tại không để nó ảnh hưởng đến việc điều trị của đối tượng.


         XI. LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ - XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

    Vì người nghiện ma túy bị rối loạn tâm sinh lý, rối loạn nhận thức, đánh mất lòng tự trọng (xem phần I) do đó giáo dục trị liệu nhằm gọt dũa hành vi điều chỉnh nhận thứcnhân cáchvô cùng quan trọng. Đối tượng phải được giáo dục những suy nghĩ lành mạnh – làm chủ được bản thân khi gặp tình huống xấu và nhận thức được chân giá trị sống để có thể đối phó và định hướng cho chính bản thân .


            1. NHỮNG NÉT ĐẠI CƯƠNG:

      • Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tương tự xã hội.
      • Học tập thông qua thử thách hành động.
      • Học tập thông qua những điều kiện sống phản ảnh thế giới thực bên ngoàinội tâm đối tượng.
      • Học tập thông qua việc cởi mởbày tỏ công khai cảm xúc của mình.

              2. PHƯƠNG THỨC – MỤC TIÊU – VÀ MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC:

      • Xây dựng nhiều loại hình điều trị cá nhânđiều trị nhóm.
      • Nội dung sinh hoạt bao gồm nhiều mặt của cộng đồng ( cách thức dọn dẹp giừơng chiếu, giữ gìn tủ đựng sách, ăn mặc, giao tiếp, bày tỏ sự quan tâm đến người khác ), bộc lộ các suy tư vướng mắc của mình.
      • Tạo bầu không khí quan tâm, tôn trọngchấp nhận những thử thách của môi trường.
      • Học tậpthực hành tâm năng dưỡng sinh nhằm trợ giúp việc nâng cao nhận thức ( tư duy tích cực – làm chủ bản thân và hiểu các giá trị sống …… ).
      • Biểu tượng, nghi lễcách thức tiến hành công việc.

                 3. PHÁT HUY ĐỘNG LỰC TÍCH CỰC CỦA NHÓM ĐỒNG ĐẲNG.

    • Cán bộ lãnh đạo được đào tạo sâu về cộng đồng trị liệu.
    • Giáo dục về cộng đồng trị liệu cho các đối tượng.
    • Những nhân viên chuyên nghiêp được đào tạo về trị liệu cộng đồng : các bác sĩ, nhà giáo dục, nhà quản lý, nhà hướng nghiệp,…
    • Cần chia sẽ hệ thống niềm tingía trị cho các thành viên của cộng đồng.
    • Mô hình điều trị mang tính thực hành : học đi đôi với hành.

    Tất cả các động lực tích cực trên phải được đưa ra những quy định, quy tắc xã hội – nguyên tắc tổ chức bộ máy.


          XII. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI TỎA ẤM ỨC, HÀN GẮN, XOA DỊU VẾT THƯƠNG:


    Những biện pháp điều chỉnh hành vi chỉ là bước đầu trong quá trình kiểm soát, quản lý hành vi của thành viên cộng đồng. Hiệu quả của những biện pháp này hoàn toàn mang tính tạm thời và dựa chủ yếu vào những tập quán quy tắc cộng đồng xây dựng. Nhằm đạt được sự ổn định trong việc thay đổi hành vi cần phải chú ý phân tích nguyên nhân sâu xa để xây dựng mối liên hệ cần thiết giữa giá trị của hành vi với mục tiêu của lối sống đúng mực.

    • Những biện pháp điều chỉnh hành vi khiến cho đối tượng có thể có một cuộc sống bình thường.
    • Còn những biện pháp giải toả ấm ức, hàn gắn, xoa dịu vết thương giúp cho đối tượng có được nhận thức sâu sắc hơn về bản thân mình.

    Hai biện pháp này bổ sung, hổ trợ lẫn nhau. Việc quá chú trọng vào một biện pháp cụ thể nào đó cũng không cho kết quả tốt hơn là tiến hành cả hai biện pháp song song hổ trợ lẫn nhau. Nói một cách khác, nếu như chúng ta chỉ áp dụng các biện pháp điều chỉnh hành vi một cách đơn thuần, thì các đối tượng sẽ cư xử không khác gì người máy. Họ sẽ có hành vi đúng trong môi trường cuộc sống tập thể, nhưng những hành vi đó sẽ mất khi họ rời khỏi môi trường điều trị.


    XIII.TƯ VẤN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


    Tư vấn cho  nhóm và cá nhân đều đem lại cho đối tượng nhớ - hiểu biếtđánh giá được quá khứ, tiền sử cá nhânliên quan đến việc sử dụng ma túy của mình. Việc một ngừơi nghiện ma túy phủ nhận sự thật sẽ càng nhiều tuỳ theo bề dày của quá trình sử dụng ma túy. Xóa tan sự phủ nhận này cũng đồng nghĩa với việc bắt đối tượng phải đối đầu với sự thật của cuộc đời mà bấy lâu nay đối tượng vẫn thường né tránh.
    Một phần của sự phủ nhận thể hiện ở việc đối tượng thường biện minh hay hợp lý hóa các thất bại của mình trong việc từ bỏ ma túy. Việc tháo gở cho đối tượng những vướng mắc loại này cũng tương tự như khi chúng ta bóc vỏ hành từng lớp, một đối tượng từng bước hiểu rõ sai lầmbổn phận của cá nhân hơn. Biện pháp tư vấn điển hình được áp dụng trong môi trường cộng đồng trị liệu là biện pháp đối diện trực tiếp,thử thách niềm tintrách nhiệm cá nhân của mỗi người nghiện.


    Để đạt các mục tiêu trên – cần thành lập trong cộng đồng các loại nhóm với vai trò khác nhau :

    • Nhóm định hướng, nhóm điều tra,  nhóm mở rộng,  nhóm marathon và nhóm đối kháng.

    Môi trường cộng đồng trị liệu đã xây dựng một số liệu pháp nhóm từ đơn giản đến phức tạp nhằm nâng cao chất lượng của việc điều trị cai nghiện. Mỗi loại nhóm nhằm giải quyết một khía cạnh khác nhau. Có những mục tiêu nhất địnhngười cai nghiện buộc phải đạt được trong quá trình điều trị cai nghiện và phải tham gia sinh hoạt :


         XIV. TRANG BỊ BẢN LĨNH VÀ KỸ NĂNG SỐNG:

    1. TƯ DUY TÍCH CỰC:

    Khi ta làm những gì  - cảm nhận những gì cũng bắt đầu từ một suy nghĩ và đều nhận sau đó mọi hệ quả của nó tác động vào bản thânmôi trường, mối quan hệ chung quanh.

    Chúng ta có 4 loại suy nghĩ chính sau đây:

    Suy nghĩ tích cực: Suy nghĩ mang lại ích lợi cho chính bản thân bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ về sự chấp nhận, hòa bình, lạc quan, khoan dung,...Suy nghĩ tích cực là thấy một chiếc ly “đầy nửa ly” thay vì “vơi nửa ly”; nghĩa là thấy cái gì mà bạn có và tập trung vào đó thay vì cảm thấy thất vọng về những cái mà bạn không có. Suy nghĩ tích cực giúp bạn hạnh phúc hơn nhiều trong cuộc sống.


    Suy nghĩ tích cực giúp ta có hành động tốt. Hành động này tác động vào lòng tự tin, tính tự trọng ổn định cho bản thân đồng thời tác động với môi trườngmối quan hệ quanh ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ tiêu cực, ta sẽ phải trải qua những điều buồn chán, căng thẳngchính ta sẽ là người chịu đựng.

    Nếu ta thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng suy nghĩ tích cực ta sẽ có những niềm vui mới và nhiều thành công hơn.


    Sức mạnh và hiệu quả của ý nghĩ: giúp đối tượng

      • Có trách nhiệm về những ý nghĩ của mình.
      • Ý nghĩ có sức mạnh rất lớn, tạo nên cảm xúc dẫn tới hành động.
      • Sự lặp đi lặp lại thường xuyên của các ý nghĩ tích cực sẽ tạo niềm tin và thái độ rõ ràng.
      • Các ý nghĩ giống như những hạt giống gieo trồng trong tâm trí. Càng đầu tư càng thêm nhiều sức mạnh cho ý tưởng đó.
      • Các ý nghĩ tích cực cho ta nghị lựcsức mạnh.
      • Các ý nghĩ tiêu cực khiến ta đánh mất sức mạnh, khiến ta mệt mỏikiệt quệ.
      • Cần mất thời gian để thay đổi các tư duy cũ. Hãy kiên nhẫn với chính mình.

            2.TỰ KIỂM SOÁT LÀM CHỦ BẢN THÂN:


    + Người nghiện ma tuý vốn  rối loạn tâm sinh lý nên rất dễ bị lôi cuốn, kích động trước một vấn đề gì, đó là  một trong những cái cớ để họ trở lại với việc tái sử dụng ma tuý.

    + Bằng phương pháp tư duy tích cực đối tượng  có thể điều chỉnh được những hành động suy nghĩ của chính mình bằng sự  tự kiểm soát làm chủ bản thân.


    Hai yêu cầu chủ yếu của tự kiểm soát làm chủ bản thân là:

    - Tinh thần khách quan.

    - Bình tĩnh đánh giá sự việc và cách giải quyết.

    Tinh thần thần khách quan làm đối tượng nhìn nhận rõ hơn sự việc và con người của mình không làm sai lạc nhận thức và phán xét của mình.

    Từ những dữ kiện có được, đối tượng phải bình tĩnh đánh giá lại tình huống, sự việc một cách có tình có lý và từ đó vạch ra hướng giải quyết vấn đề.


    Để giáo dục người nghiện ma tuý, phải thực hiện việc này một cách thường xuyên  cho họ tự đánh giá và trình bày cách giải quyết và cách thực hiện.

    Động tác này được lập đi lập lại để trở thành một thói quen tốt.

    Để đạt được hai yêu cầu trên đối tượng cần phải tập các đức tính sau:


    Trách nhiệm: Khi đã quyết định và hành động đối tượng phải dũng cảm chấp nhận những hậu quả, việc làm của mình, không đổ lỗi nhưng cũng không phải khư khư giữ lấy ý kiến mình mà phải can đảm nhìn lại các mặt của vấn đề, phát huy những mặt tốt và cương quyết loại bỏ những cái sai, cái xấu để điều chỉnh lại quyết định và chương trình hành động.


    Tinh thần tập thể: “ Gieo là gặt ”” sự hợp tác sẽ dẫn đến sự hợp tác ” sức mạnh hợp tác sẽ tạo cho công việc dễ dàng và vui vẻ . Người nghiện ma tuý bản thân sống rất chủ quan và ích kỷ do hình thành nhũng thói quen xấu, tinh thần tập thể sẽ tạo cho họ sự thoải mái, nhận thức được chân giá trị của cộng đồng, trách nhiệm vai trò của cá nhân trong tập thể.

    Tự kiểm soát làm chủ bản thân là một sự tập luyện lâu dài, đối tượng phải được từng bước làm quen và tiến hành thực hiện bằng những tình huống do nhà quản lý đặt ra hoặc những công việc, vụ việc cụ thể trong đời sống cộng đồng .

    Đối tượng phải được đóng góp sự giúp đỡ của nhà quản lý , của tập thể thông qua tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hoặc trong giao ban buổi sáng tại các trung tâm cai nghiện.

    Khi đối tượng đạt được các đức tính trên họ có thể hi vọng đối phó với những nghịch cảnh , nhũng tình huống không thuận lợi.


           3.NHẬN THỨC VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG:


    CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG là một chương trình của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới – chương trình này được sự hỗ trợ của UNESCO – Nhóm giáo dục của UNICEF và nhiều tổ chức khác. Nội dung chương trình nhằm giáo dục các giá trị về cá nhân – xã hội bao gồm các đức tính: Hợp tác – Tự do - Hạnh phúc – Trung thực – Khiêm tốn – Tình yêu – Hòa bình – Tôn trọng – Trách nhiệm – Giản dị – Khoan dung và Đoàn kết.


         3.1.Mục đích của chương trình là:

      • Giúp đỡ các cá nhân suy nghĩ những giá trị cuộc sống – các tác động thực tế trong việc thể hiện những giá trị này khi liên hệ với chính mình, với người khác, với cộng đồng.
      • Để đối tượng hiểu sâu sắc hơn về động cơ, trách nhiệm liên quan đến những suy nghĩ - hành động của bản thân.
      • Điều chỉnh cho đối tượng nhận thức những giá trị cá nhân, xã hội về đạo đức, tinh thần, lối sống – phát triển và làm sâu sắc hơn các giá trị này.
      • Để các nhà quản lý, giáo dục thấy rõ phương pháp giáo dục là một phương pháp trị liệu quan trọng giúp đối tượng có thể hòa nhập vào cộng đồng với sự tôn trọng – tự tin và có mục đích.

             3.2. Chương trình được xây dựng trên 3 luận điểm cơ bản là:

      • Dạy sự tôn trọng nhân phẩm cho mỗi người và mọi người,
      • Khả năng sáng tạo và học tập một cách tích cực khi có cơ hội.
      • Phát triển trong một môi trường tích cực, an toàn, có sự tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau.

    XV. XÂY DỰNG NIỀM TIN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG: Danh ngôn ta có câu: “NIỀM TIN CHỞ ĐƯỢC NÚI”. Xây dựng được niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm điều trị và phục hồi cho đối tượng cai nghiện.

    • 1.NIỀM TIN VÀO SỰ TỒN TẠI CỦA LÒNG TỐT :

    Khi chúng ta dẫn dắt đối tượng của cộng đồng quay trở về quá khứ, chính chúng ta đã giúp đối tượng đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà đối tượng dấu diếm trong lòng để tìm cách học hỏi từ những vấp váp mà đối tượng đã từng gặp phải. Mặc dù gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì đối tượng cũng không nên đeo đẵng mãi những suy nghĩ về những điều đã xảy ra.
    Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà đối tượng đã làm trong quá khứ mà cần thái độ trung thực để sữa chữa những sai lầm của quá khứ. Người nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thật sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như đối tượng cố gắng nổ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà trị liệu cộng đồng tin tưởng.


                   2. NIỀM TIN VÀO KHẢ NĂNG HỐI CẢI VÀ PHỤC THIỆN CỦA CON NGƯỜI:


    Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng “  người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện”. Môi trường trị liệu cộng đồng đã bác bỏ điều này vì qua thực tiễn, nhiều người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma tuý và nay đang sống một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang  tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định.

     

                  3. NIỀM TIN VÀO VIỆC GIÚP NGƯỜI KHÁC CŨNG LÀ GIÚP CHÍNH BẢN THÂN MÌNH:


    Một trong những phẩm chất quý báu mà đối tượng sau khi điều trị ở môi trường trị liệu cộng đồng có được là việc luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm “cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lối sống lành mạnh thì đối tượng phải biết chia sẽ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thật sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả  được hết ý nghĩa của khái niệm “cho” trong môi trường trị liệu cộng đồng : “Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi  vấn đề trừ khi bạn chia sẽ với người khác”.


                    4. NIỀM TIN VÀO PHẨM GIÁ CỦA CON NGƯỜI:


    Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con người. Khi người nghiện có niềm tự  hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.

    Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một người tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy tắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về - phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma tuý và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.


           XVI. XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


    * Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong môi trường trị liệu cộng đồng hầu như người ta cũng dễ nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Nhằm tránh việc nhằm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là: “ bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người”. Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loại hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.


    Chương trình trị liệu cộng đồng không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần mà còn cần phải sử dụng nhiều biện pháp trị liệu khác. Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều quan trọng ở đây là sự góp phần điều trị nhằm tăng cường nhận thức cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.


    Cuộc sống trong cộng đồng là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma tuý để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về “mục đích và kết quả”. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị.

    Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong cộng đồng, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma tuý Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Đối tượng tỏ ra có triển vọng và trở nên có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta đã có cuộc sống đời thăng trầm chìm nổi nhưng đối tượng đã biết chấp nhận sự thật, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết.

    Đối tượng hiểu rằng cuộc chiến chống lại sự cám dỗ của ma tuý vẫn chưa chấm dứt và vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài. Một người nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma tuý mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy. Đối tượng phải biết có thể đốt thành tro tất cả những nổ lực bấy lâu nay nhằm đạt được sự phục hồi. Do đó phải tránh mọi mối liên quan dẫn đến quá khứ tội lỗi đó là yếu tố tiên quyết để duy trì cuộc sống lành mạnh không ma tuý.


    Để duy trì được những gì mà được học, đối tượng phải biết cách chia xẽ những quan điểm – hành vi đúng đắn cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời đối tượng. Vai trò của đối tượng trong cộng đồng bây giờ là dạy lại những điều mình được học. Chỉ có như vậy đối tượng mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng.


    KẾT LUẬN


    Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khó chữa, có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng. Do những tổn thương về hệ thống não bộ tạo nên những rối loạn về hành vi- nhân cách của người bệnh - suy giảm khả năng xét đoán - xử lý thông tin - mất khả năng tự chủ - hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Người nghiện ma túy là một người đa nhân cách.


    Lạm dụng ma túy là hội chứng rối loạn toàn cơ thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau : Tâm sinh lý người bệnh - hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội.

    Việc sử dụng thuốc chỉ có một tác dụng giới hạn mà cần những biện pháp điều trị tổng hợp: Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc cai nghiện của đối tượng mà phải giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan đến hành vi - nhân cách, hoàn cảnh cá nhân, gia đình xã hội và động cơ đã ảnh hưởng đến việc nghiện ma túy của từng đối tượng.


    Từ những lý do trên việc trị liệu cho người nghiện trong một môi trường trị liệu cộng đồng là rất cần thiết. Khác với những phương thức điều trị cổ điển, quy ước chỉ gồm thầy thuốc và bệnh nhân, trị liệu cộng đồng đã huy động được toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân - tập thể người bệnh cũng như toàn bộ nhân viên Trung Tâm tập trung vào mục đích điều trị cho mỗi bệnh nhân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp.
    Với thời gian điều trị dài và những biện pháp đúng đắn nhằm gọt dũa, phục hồi hành vi - nhân cách, tạo cho người cai nghiện những nhận thức đúng đắn, hình thành những thói quen, nếp sống tốt để khi trở về với xã hội họ được trang bị bản lĩnh sống với lòng tự tin và sự tự trọng. Họ sẽ từng bước tiến lên trong cuộc sống với sự hỗ trợ của toàn xã hội.

     

    NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TUÝ KHÔNG DÙNG THUỐC

    NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TUÝ KHÔNG DÙNG THUỐC


    A. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN


    Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính, khó chữa có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc điều trị phục hồi cho người nghiện ma túy đòi hỏi ngoài tình thươngthấu cảm đối với người cai nghiện còn phải kiên nhẫn và phải có kiến thức về cai nghiện ma túy.


    Việc tìm kiếm mô hình điều trị cho người nghiện ma túy rất khó khănkhông có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này chưa hẳn đã phù hợp với người khác. Một phương pháp điều trị hiệu quả phải dựa vào nguyên tắc cơ bảnlàm thế nào phương pháp cai nghiện đó đáp ứng được tính chất và yêu cầu đa dạng của người nghiện chứ không chỉ đơn thuần nhằm vào việc sử dụng ma túy của họ.


    Quá trình điều trị phải được đánh giá thường xuyên bởi một nhóm điều trị gồm các bác sĩ nội khoa có hiểu biết về chuyên ngành ma túy, bác sĩ tâm thần, bác sĩ điều dưỡng – phục hồi, các nhà giáo dục - hướng nghiệp, các nhà tư vấn - tâm lý học – xã hội học, các cán bộ quản lý…Quá trình điều trị này phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy phải giải quyết – nhưng bắt buộc các thành viên của nhóm điều trị phải phối hợp tác nghiệp ở một thể thống nhất khi đánh giálập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mìnhlĩnh vực chuyên môn của người khác.


    Khi người nghiện sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng tăng thì hậu quả tác hại càng nhiềucàng nặng nề bấy nhiêu. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện, làm người nghiện ma túy suy giảm khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin, khả năng tự chủ: người nghiện rất khó khăn khi đưa ra một quyết định đúng đắn.

    Thêm vào đó, họ lại thiếu nghị lực, thiếu sáng suốt, thiếu ý chí
    để thực hiện quyết định của mình. Do ký ức hồi tưởng, người nghiện rất dễbị gợi nhớ đến ma túy khi gặp lại những hình ảnh, vụ việc liên quan đến việc sử ma túy trước đây: gặp ống chích, kim chích, bạn bè cũ, quán café cũ, nghe nhạc cũ, gặp hoàn cảnh cũ, hay khi nghĩ đến những khoái cảm ngây ngất do sử dụng ma túy: họ bị kích động mạnh mẽ khiến đối tượng rất dễ tái nghiện.


    lệ thuộc vào ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh trong việc tìm kiếm, sử dụng ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.


    Về mặt hành vi, người nghiện phát triển những cách ứng xử không thích nghi và nhiều thói quen xấu – những hành vi đó đã ngăn cách người nghiện với cộng đồng, người nghiện mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm. Hầu hết người nghiện không cần hoặc không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi mình gây nên.


    Người nghiện ma túy không đủ nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, lành mạnh, có kỹ năng làm việc. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với gia đình, xã hội …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị - phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.


    Cai nghiện được gọi là thành công không chỉnhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹpthực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


    Tóm lại có 4 vấn đề chính cần phải giải quyết trên đối tượng nghiện ma túy đó là:


    • 1. Tổn thương hệ thống não bộvà các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.


    • 2. Rối loạnxuống cấp nhận thứchành vinhân cách.


    • 3. Chấn thương tâm lý: đâykhông phải một hành động nhất thời mà là một quá trình diễn biến đầy phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện đối với bản thân, gia đìnhxã hội của người nghiện ma túy.


    • 4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện. Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.


    Bốn vấn đề chính tác động qua lại lẫn nhau- chúng vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nếu chúng ta giải quyết không toàn diện và triệt để sẽ dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện.


    B. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI


    Qua bảng phân tích trên, chúng ta đã thấy cai nghiện ma túy rất khó khăn và phức tạp. Y VĂN đã rút ra một số kết luận sau:


    1. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:


     “Không có một loại thuốc, một biện pháp đơn thuần nào (châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật ….) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà phải đòi hỏi một liệu pháp tổng hợp, đồng bộ, xuyên suốt, khép kín, linh hoạt, kịp thời”.


    2. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:


     Trong điều trị bệnh nghiện ma túy những biện pháp đơn thuần như sử dụng thuốc, châm cứu, bấm huyệt chỉ là biện pháp hỗ trợ cho cắt cơn, giải độc cũng như chống tái nghiện. Biện pháp chủ yếu để cai nghiện thành công người nghiện phải được điều trị toàn diện: ngoài việc sử dụng thuốc người cai nghiện còn phải được gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết những chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm thông qua các biện pháp điều trị không dùng thuốc bao gồm:


    • + Tư vấn

    • + Liệu pháp Tâm lý

    • + Quản lý ca

    • + Liệu pháp Học tập Xã hội – Tự giúp đỡ (SSTLM)

     Một người nghiện nếu không được giải quyết các vấn đề nêu trên thì sau khi cai nghiện về, hầu hết sẽ tái nghiện. Điều này lý giải tại sao các chương trình cai nghiện thường thất bại và đạt kết quả thấp.


    Để hiểu rõ các phương pháp điều trị nêu trên, đề nghị các bạn tham khảo tại mục Nghiên cứu Khoa học - Bài 4:“Vai trò Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Quản l‎ý ca trong cai nghiện – phục hồi” và tại mục: “Các phương pháp điều trị nghiện ma túy” Phần 2 Bài 3: “Giai đoạn điều trị nội trú tập trung” tại trang web này của Trung tâm.



    3. YẾU TỐ QUYẾT TÂM CAI NGHIỆN CỦA ĐỐI TƯỢNG:


     Là yếu tố tiên quyết nhưng không phải yếu tố quyết định trong việc cai nghiện ma túy.

    Khi đối tượng không chịu cai nghiện thì khó có thể chữa được bệnh. Tuy nhiên, biện pháp cai nghiện bắt buộc không phải là không có kết quả. Tại các trung tâm cai nghiện cưỡng bức, đối tượng có thời gian cách ly với môi trường ma túy, sẽ có thời gian suy nghĩ lại mình.
    Nếu tại các trung tâm cai nghiện tốt, đối tượng sẽ được giúp đỡ, quan tâm, giáo dục đúng đắn; do đó nhận thức, tư tưởng đối tượng sẽ chuyển đổi dần thành cai nghiện tự nguyện.

    Trái lại, tại các trung tâm cai nghiện không tốttự nguyện hay không tự nguyện cũng sẽ dẫn đối tượng tới những đối kháng với trung tâm, dẫn tới đối kháng thêm với gia đình, dễ có những hành vi hung hăng, bạo loạn bộc phát. Tại các trung tâm không tốt trên, một số đối tượng khác không thể phản kháng được, âm thầm chấp nhận cai nghiện nhưng rất dễ dẫn đến trầm cảm phản ứng, phải chấp nhận thời gian cai nghiện nhưng sau khi rời trung tâm trở về dễ bùng phát dẫn đến tái nghiện nhanh.


    4. ĐIỀU TRỊ CÓ KẾT QUẢ PHẢI DUY TRÌ THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ ĐỦ DÀI:


    Để phục hồi hệ thống não bộ, gọt dũa, điều chỉnh lại nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm, trang bị bản lĩnh, kỹ năng sống, phát hiện các yếu tố nguy cơ và cácyếu tố bảo vệ để biết cách vươn lên, xa lánh môi trường xấu, phát huy lợi thế hoàn cảnh bản thân.


    Thời gian cai nghiện lý tưởngtừ 6 tháng đến 2 năm. Trong thời gian cai nghiện, một số trường hợp không nhất thiết phải cách ly hoàn toàn với xã hội mà nên dùng những biện pháp cai nghiện ngoại trú hoặc kết hợp giữa nội trúngoại trú, đồng thời áp dụng những phương cách để người nghiện không sử dụng ma túy (Ví dụ: giúp đỡ, hỗ trợ nhưng kèm theo những biện pháp quản lý chặt chẽ tại cộng đồng, điều trị kết hợp nội trúngoại trú bằng thuốc Naltrexone trong cai nghiện Heroine …) – tuy nhiên, dù biện pháp gì chăng nữa thì công tácgiáo dục, gọt dũa, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách và giải quyết cácchấn thương tâm lý không thể thiếu được.


    Một quan điểm rất sai lầm của nhiều người là cắt cơn nghiện là đã chữa xong bệnh nghiện ma túy. Thực chất cắt cơn nghiện ma túy chỉ là giai đoạn đầu để chuẩn bị cho mọi quy trình điều trị, cai nghiện rất khó khăn tiếp theo. Bản thân việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng mà cần phải điều trị sau cắt cơn một thời gian dài. Việc cắt cơn nghiện được ví như chiếc xe nổ máy nhưng chưa chạy được.


    Do các rối loạn tâm trí thực tổn, các phản ứng tâm sinh lý và đặc biệt là chứng hồi tưởng: dẫn người nghiện đến những cơn thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó và sự phản ứng yếu ớt của bản thân trước sự quyến rũ của ma túy. Nếu được điều trị tích cực, đúng cách, đủ thời gian, cách ly với môi trường ma túy: cường độ và tần số nhớ này sẽ giảm dần, tổn thương hệ thống não bộ được phục hồi, ngoài ra bệnh nhân còn được trang bịbản lĩnh và kỹ năng sống, biết được ưu nhược điểm bản thân đểvươn lên trong hoàn cảnh của mình. Tuy nhiên, cần lưu ý là ngay cả khi tạm gọi là cai nghiện thành công, người nghiện vẫn phải tiếp tục cai nghiện cả đời.


    C. GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ CẮT CƠN - GIẢI ĐỘC - NÂNG CAO SỨC KHỎE:


    • +  Tiến hành ghi chép bệnh án theo lời khai bệnh nhân - Bác sĩ khám bệnh và cho Y lệnh điều trị - chú ý phát hiện các bệnh tâm thần - bệnh cơ hội.

    • +  Xác định các loại ma tuý và liều lượng ma túy mà đối tượng đã sử dụng để định hướng cắt cơn.

    • +  Phát đồ cắt cơn: phác đồ an thần kinh của Bộ Y tế đối với bệnh nhân sử dụng Heroine.

    • +  Thực hiện tư vấn tâm lý trước khi cắt cơn

    • +  Kết hợp sử dụng thuốc với biện pháp tâm lý và các biện pháp phục hồi chức năng: cắt cơn trong phòng lạnh (lạnh trị liệu) - Massage - tắm hơi.

    • + Cắt cơn kết hợp với điều trị các bệnh cơ hội (Nếu cần thiết phải điều trị ngay).

    • +  Nâng cao sức khỏe.


     D. GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC NHẰM GỌT GIŨA - ĐIỀU CHỈNH - PHỤC HỒI NHẬN THỨC - HÀNH VI - NHÂN CÁCH bao gồm:


     1. NÂNG CAO NHẬN THỨC -TRÌNH ĐỘ học viên:


    1.1 DẠY VĂN HÓA:

    1.2 HỌC TẬP CÁC CHUYÊN ĐỀ: Giáo dục công dân + Giáo dục đạo đức + Giáo dục sức khỏe và cộng đồng + Giáo dục pháp luật, an ninh quốc phòng + Giáo dục truyền thống.

    1.3 GIÁO DỤC KẾT HỢP VỚI THỰC TIỄN: Xem phim - giao lưu - thăm viếng….

     

      2. GIÁO DỤC TRỊ LIỆU: nhằm nâng cao bản lĩnh và kỹ năng sống cho học viên.


    2.1 GIÁO DỤC TƯ DUY TÍCH CỰC – TỰ CHỦ, QUẢN LÝ BẢN THÂN – NHẬN THỨC CÁC GIÁ TRỊ SỐNG (Living values). Chương trình này được sự hỗ trợ của Tổ chức UNESCO và UNICEF (Liên hiệp quốc) và do CỤC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI - Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội huấn luyện.


     2.2 TƯ DUY TÍCH CỰC:

    Khi ta làm những gì  - cảm nhận những gì cũng bắt đầu từ một suy nghĩ và đều nhận sau đó mọi hệ quả của nó tác động vào bản thânmôi trường, mối quan hệ chung quanh.


    Chúng ta có 4 loại suy nghĩ chính sau đây:

    • - Suy nghĩ tích cực: Suy nghĩ mang lại ích lợi cho chính bản thân bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ về sự chấp nhận, hòa bình, lạc quan, khoan dung,...Suy nghĩ tích cực là thấy một chiếc ly “đầy nửa ly” thay vì “vơi nửa ly”; nghĩa là thấy cái gì mà bạn có và tập trung vào đó thay vì cảm thấy thất vọng về những cái mà bạn không có. Suy nghĩ tích cực giúp bạn hạnh phúc hơn nhiều trong cuộc sống.

    • - Suy nghĩ tiêu cực: Những suy nghĩ có hại cho chính bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ thể hiện sự giận dữ, không thể chịu đựng, chỉ trích, phân biệt ……

    • - Suy nghĩ vô ích: Suy nghĩ về quá khứ hay những thứ vượt qua kiểm soát của bạn: “Tại sao?”; “Giá như...”, ...Suy nghĩ loại này bao gồm cả sự nghi ngờ, hối tiếc, ảo vọng không thực tế, lo lắng về những việc nhỏ nhặt.

    • - Suy nghĩ cần thiết: Những suy nghĩ để lập kế hoạch cho ngày làm việc của bạn; “Tôi cần phải gặp người này vào thời điểm này, tôi cần phải đi đến nơi này,...”


    Suy nghĩ tích cực giúp ta có hành động tốt. Hành động này tác động tự tinổn định cho bản thân đồng thời tác động với môi trườngmối quan hệ quanh ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ tiêu cực, ta sẽ phải trải qua những điều buồn chán, căng thẳngchính ta sẽ là người chịu đựng. Ví dụ:


    Nếu ta thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng suy nghĩ tích cực ta sẽ có những niềm vui mới và nhiều thành công hơn:



    Những bước giúp thay đổi phản ứng tiêu cực sang tích cực:


    Bước 1: Tôi chú ý những gì tôi nói và cách tôi phản ứng người khác. Tôi kiểm tra và thay đổi chính tôichứ không phải những người khác.

    Bước 2: Nếu tôi thấy chính tôi chỉ tríchphản ứng những người khác, tôi thay thế những ý nghĩ này bằng những ý nghĩ, phản ứng hữu íchtích cực.

    Bước 3: Bất cứ khi nào tôi có những ý nghĩ tiêu cực về chính tôi, người khác và hoàn cảnh, tôi tập trung nhìn vào những khía cạnh tốttích cực.

    Bước 4: Khi tôi đối mặt với những thử thách – Tôi chấp nhận rằng tôi thể thay đổitập trung tìm kiếm những giải pháp có lợihiệu quả.

    Bước 5: Ngày hôm nay tôi ghi lại những điểm tích cực của mọi người xung quanh và tập sống tốt giống như vậy.

    Bước 6: Ngày hôm nay tôi đã xác định rằng những sức mạnh, khả năng cùng với mục tiêu của cuộc đời tôi là hiện thực. Tôi không quan tâm những lúc nản lòng và tôi cũng không bị tác động nào ảnh hưởng được trên con đường tự khẳng định hạnh phúc sẵn có của mình.


    Sức mạnh và hiệu quả của ý nghĩ: giúp đối tượng

    • - Có trách nhiệm về những ý nghĩ của mình.

    • -Ý nghĩ có sức mạnh rất lớn, tạo nên cảm xúc dẫn tới hành động.

    • -Sự lặp đi lặp lại thường xuyên của các ý nghĩ tích cực sẽ tạo niềm tin và thái độ rõ ràng.

    • -Các ý nghĩ giống như những hạt giống gieo trồng trong tâm trí. Càng đầu tư càng thêm nhiều sức mạnh cho ý tưởng đó.

    • -Các ý nghĩ tích cực cho ta nghị lựcsức mạnh.

    • -Các ý nghĩ tiêu cực khiến ta đánh mất sức mạnh, khiến ta mệt mỏikiệt quệ.

    • -Cần mất thời gian để thay đổi các tư duy cũ. Hãy kiên nhẫn với chính mình.


    2.3 TỰ KIỂM SOÁT BẢN THÂN:


    Người nghiện ma tuý vốn rối loạn tâm sinh lý nên rất dễ bị lôi cuốn, kích động trước một vấn đề gì, đó là  một trong những cái cớ để họ trở lại với việc tái sử dụng ma tuý.


    Bằng phương pháp tư duy tích cực đối tượng có thể điều chỉnh được những hành động suy nghĩ của chính mình bằng sự tự kiểm soát làm chủ bản thân.


    Hai yêu cầu chủ yếu của tự kiểm soát làm chủ bản thân là:


    Tinh thần khách quan: Tinh thần thần khách quan làm đối tượng nhìn nhận rõ hơn sự việc và con người của mình không làm sai lạc nhận thức và phán xét của mình.

    Bình tĩnh đánh giá sự việc và cách giải quyết:Từ những dữ kiện có được, đối tượng phải bình tĩnh đánh giá lại tình huống, sự việc một cách có tình có lý và từ đó vạch ra hướng giải quyết vấn đề.


    Để giáo dục người nghiện ma tuý, phải thực hiện việc này một cách thường xuyên  cho họ tự đánh giá và trình bày cách giải quyết và cách thực hiện. Động tác này được lặp đi lặp lại để trở thành một thói quen tốt.


    Để đạt được hai yêu cầu trên đối tượng cần phải tập các đức tính sau:


    Trách nhiệm : Khi đã quyết định và hành động đối tượng phải dũng cảm chấp nhận những hậu quả, việc làm của mình, không đổ lỗi nhưng cũng không phải khư khư giữ lấy ý kiến mình mà phải can đảm nhìn lại các mặt của vấn đề, phát huy những mặt tốt và cương quyết loại bỏ những cái sai, cái xấu để điều chỉnh lại quyết định và chương trình hành động.


    Tinh thần tập thể : “ Gieo là gặt ”, ” sự hợp tác sẽ dẫn đến sự hợp tác ” sức mạnh hợp tác sẽ tạo cho công việc dễ dàng và vui vẻ . Người nghiện ma tuý bản thân sống rất chủ quan và ích kỷ do hình thành nhũng thói quen xấu, tinh thần tập thể sẽ tạo cho họ sự thoải mái, nhận thức được chân giá trị của cộng đồng, trách nhiệm vai trò của cá nhân trong tập thể.


    Tự kiểm soát làm chủ bản thân là một sự tập luyện lâu dài, đối tượng phải được từng bước làm quen và tiến hành thực hiện bằng những tình huống do nhà quản lý đặt ra hoặc những công việc, vụ việc cụ thể trong đời sống cộng đồng .


    Đối tượng phải được đóng góp sự giúp đỡ của nhà quản lý , của tập thể thông qua tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hoặc trong giao ban buổi sáng tại các trung tâm cai nghiện.


    Khi đối tượng đạt được các đức tính trên họ có thể hi vọng đối phó với những nghịch cảnh , nhũng tình huống không thuận lợi.


    2.4. NHẬN THỨC VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG:


    CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG là một chương trình của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới – chương trình này được sự hỗ trợ của UNESCO – Nhóm giáo dục của UNICEF và nhiều tổ chức khác. Nội dung chương trình nhằm giáo dục các giá trị về cá nhân – xã hội bao gồm các đức tính: Hợp tác – Tự do - Hạnh phúc – Trung thực – Khiêm tốn – Tình yêu – Hòa bình – Tôn trọng – Trách nhiệm – Giản dị – Khoan dung và Đoàn kết. Mục đích của chương trình là:


    • - Giúp đỡ các cá nhân suy nghĩ những giá trị cuộc sống – các tác động thực tế trong việc thể hiện những giá trị này khi liên hệ với chính mình, với người khác, với cộng đồng.

    • - Để đối tượng hiểu sâu sắc hơn về động cơ, trách nhiệm liên quan đến những suy nghĩ  - hành động của bản thân.

    • - Điều chỉnh cho đối tượng nhận thức những giá trị cá nhân, xã hội về đạo đức, tinh thần, lối sống – phát triển và làm sâu sắc hơn các giá trị này.

    • - Để các nhà quản lý, giáo dục thấy rõ phương pháp giáo dục  là một phương pháp trị liệu quan trọng giúp đối tượng có thể hòa nhập vào cộng đồng với sự tôn trọng – tự tin và có mục đích.


    Chương trình được xây dựng trên 3 luận điểm cơ bản là:

    • - Dạy sự tôn trọng nhân phẩm cho mỗi người và mọi người

    • - Khả năng sáng tạo và học tập một cách tích cực khi có cơ hội.

    • - Phát triển trong một môi trường tích cực, an toàn, có sự tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau.


    3. XÂY DỰNG NIỀM TIN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


    Danh ngôn ta có câu: “NIỀM TIN CHỞ ĐƯỢC NÚI”. Xây dựng được niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm điều trị và phục hồi cho đối tượng cai nghiện.


    * Niềm tin vào sự tồn tại của lòng tốt:


    Khi chúng ta dẫn dắt đối tượng của cộng đồng quay trở về quá khứ, chính chúng ta đã giúp đối tượng đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà đối tượng dấu diếm trong lòng để tìm cách học hỏi từ những vấp váp mà đối tượng đã từng gặp phải.
    Mặc dù gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì đối tượng cũng không nên đeo đẵng mãi những suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà đối tượng đã làm trong quá khứ mà cần thái độ trung thực để sửa chữa những sai lầm của quá khứ.
    Người nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thật sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như đối tượng cố gắng nổ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà trị liệu cộng đồng tin tưởng.


    * Niềm tin vào khả năng hối cải và phục thiện của con người:


    Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng “người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện”. Môi trường trị liệu cộng đồng đã bác bỏ điều này vì qua thực tiễn, nhiều người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma tuý và nay đang sống một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang  tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định.


    * Niềm tin vào việc giúp người khác cũng là giúp chính bản thân mình:


    Một trong những phẩm chất quý báu mà đối tượng sau khi điều trị ở môi trường trị liệu cộng đồng có được là việc luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm “cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lối sống lành mạnh thì đối tượng phải biết chia sẽ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thật sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả được hết ý nghĩa của khái niệm “cho” trong môi trường trị liệu cộng đồng : “Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi vấn đề trừ khi bạn chia sẽ với người khác”.


    * Niềm tin vào phẩm giá của con người:


    Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con người. Khi người nghiện có niềm tự  hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.

    Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một người tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy tắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về - phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma tuý và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.


    4. XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


    Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong môi trường trị liệu cộng đồng hầu như người ta cũng dễ nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Nhằm tránh việc nhằm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là: “bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người”. Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loại hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.


    Chương trình trị liệu cộng đồng không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần mà còn cần phải sử dụng nhiều biện pháp trị liệu khác. Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều quan trọng ở đây là sự góp phần điều trị nhằm tăng cường nhận thức cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.


    Cuộc sống trong cộng đồng là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma tuý để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về “mục đích và kết quả”. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị.


    Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong cộng đồng, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma tuý Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Đối tượng tỏ ra có triển vọng và trở nên có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta đã có cuộc sống đời thăng trầm chìm nổi nhưng đối tượng đã biết chấp nhận sự thật, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết.

    Đối tượng hiểu rằng cuộc chiến chống lại sự cám dỗ của ma tuý vẫn chưa chấm dứt và vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài. Một người nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma tuý mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy. Đối tượng phải biết có thể đốt thành tro tất cả những nổ lực bấy lâu nay nhằm đạt được sự phục hồi. Do đó phải tránh mọi mối liên quan dẫn đến quá khứ tội lỗi đó là yếu tố tiên quyết để duy trì cuộc sống lành mạnh không ma tuý.


    Để duy trì được những gì mà được học, đối tượng phải biết cách chia xẽ những quan điểm – hành vi đúng đắn cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời đối tượng. Vai trò của đối tượng trong cộng đồng bây giờ là dạy lại những điều mình được học. Chỉ có như vậy đối tượng mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng.



    KẾT LUẬN

    Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khó chữa, có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng. Do những tổn thương về hệ thống não bộ tạo nên những rối loạn về hành vi- nhân cách của người bệnh - suy giảm khả năng xét đoán - xử lý thông tin - mất khả năng tự chủ - hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Người nghiện ma túy là một người đa nhân cách.


    Lạm dụng ma túy là hội chứng rối loạn toàn cơ thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau : Tâm sinh lý người bệnh - hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội.


    Việc sử dụng thuốc chỉ có một tác dụng giới hạn mà cần những biện pháp điều trị tổng hợp: Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc cai nghiện của đối tượng mà phải giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan đến hành vi - nhân cách, hoàn cảnh cá nhân, gia đình xã hội và động cơ đã ảnh hưởng đến việc nghiện ma túy của từng đối tượng.


    Từ những lý do trên việc trị liệu cho người nghiện trong một môi trường trị liệu cộng đồng là rất cần thiết. Khác với những phương thức điều trị cổ điển, quy ước chỉ gồm thầy thuốc và bệnh nhân, trị liệu cộng đồng đã huy động được toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân - tập thể người bệnh cũng như toàn bộ nhân viên Trung Tâm tập trung vào mục đích điều trị cho mỗi bệnh nhân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp.
    Với thời gian điều trị dài và những biện pháp đúng đắn nhằm gọt dũa, phục hồi hành vi - nhân cách, tạo cho người cai nghiện những nhận thức đúng đắn, hình thành những thói quen, nếp sống tốt để khi trở về với xã hội họ được trang bị bản lĩnh sống với lòng tự tin và sự tự trọng. Họ sẽ từng bước tiến lên trong cuộc sống với sự hỗ trợ của toàn xã hội.

     

    RỐI LOẠN TÂM – SINH LÝ TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

    RỐI LOẠN TÂM - SINH LÝ TRÊN
      NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:


    Ma túy là những chất tác động tâm thần mà người lạm dụng sẽ gây cho mình sự lệ thuộc. Do tình trạng lệ thuộc đó, người sử dụng ma túy sẽ bị những biến đổi về khí sắc, cảm xúc, nhận thức, hành vi do những tổn thương trong não. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn sau khi ngưng sử dụng ma túy.


    Người nghiện ma túy bị suy giảm khả năng xét đoán, khả năng xử lý thông tin, mất khả năng tự chủ, khả năng hiểu biết để hướng đến một cuộc sống lành mạnh. Người nghiện hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Liệu pháp điều trị - phục hồi là một vấn đề hết sức khó khăn vì người bệnh bị những rối nhiễu tâm sinh lý thực tổn - lú lẫn tâm trí - phản ứng loạn tâm thần - rối loạn sinh hoạt - trạng thái hưng trầm nhược - rối loạn hành vi - rối loạn tập trung - biểu hiện lo hãi - thiếu tự tin, kết hợp với các rối loạn nhân cách - rối loạn tâm thần và đặc biệt là hội chứng hồi tưởng dẫn đến thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó … Đa số người nghiện ma túy đều được xếp vào những người có vấn đề tâm thần.


    Sự rối loạn trên nguyên nhân từ nhiều lý do khác nhau : Tâm - sinh lý người nghiện, hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội. Việc sử dụng, lệ thuộc, rồi lạm dụng ma tuý dẫn đến tình trạng nghiện là triệu chứng cuối cùng của một quá trình dài đầy rối loạn trong một bối cảnh đa phương diệndo đó, việc điều trị phục hồi người nghiện ma tuý phải là một phương pháp điều trị toàn diện bao gồm nhiều  lãnh vực Y tế - Tâm lý - Xã hội… Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma tuý vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.


    Để giải quyết những vấn đề này, ngoài vấn đề sử dụng thuốc - cần có những liệu pháp gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giáo dục tâm lý - xã hội lâu dài cho người nghiện nhằm mục đích chuyển đổi thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phục hồi hệ thống não bộ và giải quyết các mâu thuẫn và các chấn thương tâm lý của đối tượng.


    Nếu được điều trị và phục hồi đúng cách, người nghiện sau khi cai nghiện sẽ bước vào cuộc sống với những thói quen tốt, những nhận thức đúng đắn - biết tự trọng và tự tin hơn để với sự giúp đỡ của cộng đồng sẽ có thể từng bước, bước đi chính trên đôi chân của mình.


    Từ những cơ sở trên cần phải có một chiến lược điều trị dài hạn nhằm gọt dũa hành vi nhân cách, điều chỉnh nhận thức - quan điểm sống tạo những thói quen tốt cho đối tượng trong một môi trường cộng đồng trị liệu dài hạn thông qua các hoạt động tư vấn - giáo dục - lao động trị liệu - huấn nghiệp trị liệu - hoạt động trị liệu.


    Đối với những người nghiện nhóm OMH (thuốc phiện – morphine – heroine) để người nghiện không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy, nếu được sử dụng kết hợp với thuốc hổ trợ chống tái nghiện Naltrexone kết quả rất khả quan.