Chưa được phân loại

  1. CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC

  2. NGHIỆN RƯỢU

  3. Kết quả tìm kiếm

  4. cách nhận biết

  5. VGP: Cuộc chiến chống ma túy: thấy gì từ các vụ án khủng

  6. Những nhận thức cơ bản về cai nghiện phục hồi theo GS Jon Currie

  7. Kỳ thị HIV/AIDS khiến cho số người nhiễm tăng gấp 3 lần

  8. THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SẼ LÀ ĐÔ THỊ TĂNG TRƯỞNG NHANH BẬC NHẤT CHÂU Á TRONG 5 NĂM TỚI

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC


I.LSD (D – Lysergic acid diethylamide):

1. LSD được phát hiện năm 1938, được sử dụng là thuốc chữa bệnh tâm thần với tên Delyside nhưng sau đó vì những tác dụng phụ nguy hại nên bị cấm sử dụng.

2. Được sử dụng bằng đường uống hay tiêm. Thuốc có tác dụng sau 30 – 60 phút và kéo dài 8 – 12 giờ.

3. Về cơ thể: người sử dụng bị tim đập nhanh, hạ thân nhiệt, giãn đồng tử, buồn nôn, ói mửa, đổ mồ hôi.

4. LSD tác động mạnh trên hệ thần kinh trung ương: gây ảo giác với cường độ mãnh liệt nhất là đối với âm thanh và ánh sáng. Người sử dụng không còn liên hệ với thế giới bên ngoài nhưng lại có cảm tưởng ảo giác là thật (đây là một vấn đề rất nguy hiểm có thể dẫn đến tự sát hoặc giết người).

5. Sau khi uống 20 – 30 phút người sử dụng cảm thấy khoan khoái, thay đổi nhận thức và xuất hiện ảo giácCảm giác khoan khoái thường chuyển nhanh qua cảm giác khó chịu.

6.

  ◦ Ảo giác

  ◦ Cảm giác bực bội, lo âu, sợ hãi, hoang tưởng, trầm cảm hay cuồng loạn.

Rối loạn nhận thức, xuất hiện các cơn hồi phát hậu ảo giác.

7. Hội chứng cai:

Sau khi ngưng thuốc LSD không thấy biểu hiện lệ thuộc cơ thể, chỉ lệ thuộc tâm thần bao gồm: cảm giác bất an, rối loạn nhận thức, cảm giác sợ hãi, hậu ảo giác, có thể kéo dài nhiều ngày thậm chí nhiều tháng.

Người sử dụng dung nạp nhanh với LSD.


II. PHENCYCLIDINE (PCP):

Thuốc tác động vào hệ thần kinh trung ương gây trầm cảm, kích thích, giảm đau và gây ảo giác.

Trong y học thuốc được sử dụng như một loại thuốc mê nhưng sau đó bị cấm sử dụng vì làm người bệnh mất phương hướng, kích động và hoang tưởng.

PCP có tác dụng  tương tự Dexoxadrol và Ketamine. Khi sử dụng làm ma túy, thuốc được sử dụng dưới dạng uống, hút, tiêm tĩnh mạch.

Thuốc có tác dụng sau 5 phút, đỉnh điểm sau 30 phút. Kéo dài 4- 6 giờ.

Lúc đầu người nghiện có cảm giác ấm áp, đê mê, sung sướng, bồng bềnh, có ảo giác, ảo thanh, nhận thức lệch lạc về không gian và thời gian, rối loạn tư duy, hình ảnh méo mó.

Sau đó người sử dụng bị tăng huyết áp, giãn đồng tử, đổ mồ hôi, hạ thân nhiệt, hôm mê, bất động, mất phản ứng đau, co cứng cơ và có thể đột quỵ. Ảnh hưởng thuốc có thể kéo dài nhiều ngày. Người sử dụng sau đó dễ có những hành vi hung bạo hoặc tự hủy hoại cơ thể.


III. CANNABIS (CẦN SA):

Là tên gọi một số chế phẩm làm từ cây cần sa (Cannalis Sativa) (còn gọi là cây gai mèo) gồm lá, nhựa, hoa cần sa. Cây cần sa là một loại cây bụi, mọc hoang ở các vùng ôn đới và nhiệt đới. Sản phẩm của cần sa bao gồm: lá, hoa, nhựa cần sa (nhựa Hashish) và dầu Hashish (chế từ lá và nhựa cần sa cô đặc).

 và hoa cần sa được hút như thuốc lá gọi là marijuana hoặc làm thành bột trộn với các thức ăn khác. Rễ được làm thành bánh gọi là Haschich được hút bằng ống điếu hay tẩm hoặc trộn mật, bánh, đường để ăn.

Nhựa cần sa được tinh chế từ ngọn cây đang ra hoa của cây cần sa. Đập dập, ngâm vào nước sôi rồi lấy lớp dầu trên mặt, tên thường gọi là Charas, Hash.

Nhựa cần sa thường dùng để hút, trộn lẫn với thuốc lá hoặc uống như uống trà.

Cần sa ở các dạng thông thường như sợi rời, ép thành bánh, cuốn thành điếu bọc ngoài bằng lá thô hoặc ve thành điếu cuốn trong giấy thuốc lá. Sau khi hút cần sa sẽ có tác dụng sau vài phút, đạt đỉnh cao sau khoảng 30 phút và tác dụng kéo dài từ 2 đến 4 giờ.

Khi sử dụng cần sa, người sử dụng có cảm giác hưng phấn, khoan khoái, vui vẻ và hòa nhã với mọi người, tim đập nhanh, khô miệng, mất tập trung tư tưởng, phản xạ kém, giảm sự khéo léo, không còn khái niện về thời gian, không gian, tăng cảm giác thị giác, thính giác và xúc giác, đôi khi tăng ham muốn tình dục. Dùng lâu ngày, người sử dụng bị suy giảm trí nhớ, suy giảm năng lực học tập, khả năng nhận thức, giảm thị lực, gây tâm lý lo âu, sợ hãi và ảo giác, tâm thần phân liệt, hoang tưởng. Xuất hiện những cơn hoảng loạn, trong cơn có hành vi gây hấn, đi lang thang không mục đích.

Hút cần sa thường xuyên dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp và ung thư phổi, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, chóng mặt.

Hoạt chất chính của cần sa là Tetrahydrocanno Biton (THC), có thể phát hiện trong nước tiểu và có thể kéo dài trong vài tuần.

IV.CÂY XƯƠNG RỒNG PEYOTE:

Các loại xương rồng gây ảo giác có tên khoa học là Lophophora williamsii và Anhalonium lewinii ở một số khu vực miền nam Texas và Mexico. Do đó còn có tên gọi là cây xương rồng Mehico. Thành phần tác dụng của cây xương rồng Peyote là mescalin. Cây xương rồng Peyote còn có tên là “Mescal buttons”.

  ​
Hình ảnh minh họa
Hình ảnh minh họa
Nhựa cần sa (Nhựa Hashish) ​

NGHIỆN RƯỢU

Hoang tưởng do rượu (paranoid do rượu) gồm các hoang tưởng khác nhau có thể cấp tính, có thể kéo dài. Paranoia chủ yếu nghiên cứu về các hoang tưởng ghen tuông do rượu.
Trong ICD 10, hoang tưởng, ảo giác do rượu được xếp vào mục rối loạn tâm thần do rượu (F10.5), trong đó hoang tưởng chiếm ưu thế ở mục F10.51 và ảo giác chiếm ưu thế ở mục F10.52. Trong DSM-IV của Mỹ, hoang tưởng và ảo giác do rượu được xếp vào mục rối loạn loạn thần do rượu (291), trong đó ảo giác chiếm ưu thế ở mục (291.3) và hoang tưởng chiếm ưu thế ở mục (291.5).

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế có thể khởi phát cấp tỉnh hay từ từ. Giai đoạn tiền triệu ngắn với khí sắc hoang tưởng, ảo tưởng lời nói và lo âu. Đa số tác giả cho rằng khởi phát cấp tính đạt đến đỉnh cao của bệnh trong khoảng vài giờ đến vài ngày (92,4% các trường hợp khởi phát trong khoảng vài ngày). Ít thấy các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối bằng vật lý như trong tâm thần phân liệt. Theo Soayka H., 1990 người hoang tưởng bị theo dõi chiếm 32% bệnh nhân ảo giác do rượu.

I.CHẨN ĐOÁN

1. CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH:

• Các hoang tưởng ảo giác chiếm vị trí hàng đầu.
• Không chuẩn đoán khi có một sự ngộ độc hoặc cai rượu phối hợp, không tính đến những ảo giác do sử dụng chất gây ảo giác.
• Có những bằng chứng hiển nhiên nghiện rượu là nguyên nhân gây bệnh.
• Những biểu hiện sau cho phép nghĩ đến một loạn thần không do rượu: hoang tưởng ảo giác có trước khi dùng rượu, những giai đoạn tái diễn không liên quan đến rượu.
• Bệnh cảnh không diễn ra theo chiều hướng của một trạng thái sảng tiến triển.

2. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:

• Với tâm thần phân liệt:
Về khởi phát hoang tưởng, ảo giác do đùng rượu thường cấp tính, đi đến toàn phát trong khoảng vài giờ đến vai ngày . Còn trong tâm thần phân liệt khởi phát từ từ hơn, thường có giai đoạn ủ bênh trước khi hoang tưởng ảo giác phát triển rầm rộ.
Ảo giác do rượu thường là những ảo giác thật, ảo giác trong tâm thần phân liệt thường là những ảo giác giả có khi có ảo giác thật. Ảo thanh ra lện, bình phẩm đặc trưng trong tâm thần phân liệt ít thấy ở bệnh nhân loạn thần do rượu.
• Với sảng rượu:
Sảng rượu là một tình trạng cấp cứu, rối loạn toàn thần nặng nề hơn có nhiều rối loạn chuyển hóa cơ thể, dễ dẫn đến tử vong.
Sảng rượu thường kèm theo rối loạn ý thức đặc thù. Sảng rượu thường gặp hiện tượng run gọi là sảng run.
Ảo giác thường gặp trong sảng rượu thường gọi là ảo thị, thấy những con vật kích thước thu nhỏ.

II. PHÂN LOẠI:

1. SẢNG RƯỢU CẤP:

• Hội chứng mê sản kích động:
• Rối loạn định hướng không gian, thời gian nặng.
• Hội chứng loạn thần đa dạng, ảo tưởng, ảo ảnh kỳ lạ, ảo thị rung rợn đe dọa, phối hợp với các hoang tưởng cảm thụ (thường có nội dung bị hại).
• Hành vi bị chi phối mạnh bởi các ảo tưởng, ảo giác nên thường mang tính chất kích động nguy hiểm (tự vệ hay tấn công hoặc bỏ trốn, nhảy qua cửa sổ).
• Rối loạn cảm xúc mạnh, lo âu, hoảng hốt.
• Các biểu hiện trên tăng về chiều tối, thỉnh thoảng có giai đoạn ngắn ý thức trở lại sáng sủa.
• Sau cơn nhớ rời rạc từng mảng.
• Hội chứng thần kinh:
• Run: mạnh, thường xuyên, không đều, run toàn bộ cơ thể.
• Nói khó, mất phối hợp với các cử chỉ vụng về, bước đi chệnh choạng, hay ngã.
• Trường hợp nặng hơn, rối loạn nuốt, tăng trương lực cơ.
• Hội chứng toàn thể: (biểu hiện trạng thái nặng của cơn).
• Sốt cao dao động
• Nhịp tim nhanh
• Mất nước: lưỡi khô, khát nước, vã mồ hôi, nôn, tiêu chảy.
• Rối loạn điện giải, cần xét nghiệm điện giải nhiều lần.
• Rối loạn chức năng gan.
• Tiến triển:
- Thuận lợi: Khỏi trong vòng 2- 4 ngày, giấc ngủ trở lại bình thường, yên dịu, tỉnh táo.
- Tử vong: nếu có hôn mê gan, xuất huyết tiêu hóa, viêm phổi, tổn thương não (xung huyết lan tỏa, không đặc trưng).

2. SẢNG RƯỢU BÁN CẤP:

• Thường gặp hơn là thể cấp vừa mô tả.
• Cần cảnh giác vì có thể chuyển thành thể cấp điển hình.
Cũng có các triệu chứng như mô tả trên nhưng ít trầm trọng hơn và thoái triển dần.

3. CHẨN ĐOÁN:

Chẩn đoán nghiện rượu mãn tính dựa vào các biểu hiện sau:
1. Thường xuyên thèm muốn uống rượu
2. Hội chứng cai rượu
3. Sự thay đổi về khả năng dung nạp rượu ngày một tăng
4. Sự biến đổi nhân cách và sa sút tâm thần

4. ĐIỀU TRỊ:

• Với các trường hợp cấp tính:
• Nhập viện và ngừng uống rượu
• Điều trị rối loạn nước điện giải
• Giải quyết tình trạng nhiễm trùng nếu có
• Giải quyết các rối loạn tim mach, hô hấp (nếu có)
• Săn sóc, bồi dưỡng cơ thể (truyền đường, đạm, vitamine, chất khoáng, chất xơ)
• Thuốc tăng cường chức năng thần kinh:
Centrophenéxine (Lucidrill) tiêm bắp hoặc tĩnh mạch mg mỗi 3 giờ (thuốc này giúp tế bào thần kinh tăng hấp thụ đường, dưỡng khí, tăng sức đề kháng)
• Trấn tĩnh:
Clorodiazepoxid (Librium) 40 – 200 mg/ngày từ 1 đến 3 ngày.
Meprobamat 40 mg tiêm bắp hoặc uống.
Chlopromazin 75 mg từ 1 – 3v/ ngày.
Haloperidol 1,3 – 10 mg/ ngày.
Các thuốc và liều lượng thay đổi tùy từng người bệnh. Nên phối hợp 1 trấn tĩnh với 1 an thần mạnh (nếu có hoang tưởng, ảo giác).

III. VỚI TRƯỜNG HỢP MÃN TÍNH:

Phải tiến hành điều trị lâu dài, cần có sự hợp tác giữa thầy thuốc, bẹnh nhân, người nhà và xã hội.
Nhập viện thời gian ngắn để cách ly rượu, đẻ làm xét nghiệm và điều trị mất nước, suy kiệt sau đó điều trị ngoại trú.

1. Tạo phản xạ nôn:

a. Phương pháp gây nôn bằng Apormorphim:
Tiêm dưới da 0,25 – 0,3 ml dung dịch Apormorphim 1% sau 1 – 3 phút bệnh nhân thấy mùi rượu sẽ nôn rất nhiều. Khó khăn là không có sẵn Apormorphim và người bệnh có tự giác để cho chích không?
b. Phương pháp gây nôn bằng Antabuse – Spéral (Disulfuran):
Khi người bệnh uống một lượng Antabuse vào cơ thể Antabuse sẽ cản trở sự phân hủy rượu khi chỉ dừng ở giai đoạn Anxetandehyt làm cơ thể bị ngộ độc và có phản ứng rượu. Antabuse gây nôn rất nhiều và đau đầu, chóng mặt, tim đập nhanh, hồi hộp, trụy tim mạch, vã mồ hôi, người bệnh thấy sợ hãi sẽ không dám uống rượu nữa.
Người bệnh phải tự giác ngừng uống rượu, chấp nhận điều trị. Có thể cho bệnh nhân uống thuốc như là chữa bệnh gì đó, khi có phản ứng thì chứng minh là cơ thể người bệnh đã không chấp nhận rượu nữa, cần phải ngưng uống rượu, cũng để chứng minh cho bạn bè của bệnh nhân thấy mà không rủ rê, mài ép bệnh nhân uống rượu nữa.
Antabuse có loại viên 250 mg và 500mg, 2 - 3 ngày đầu uống 1- 2v/250mg – 500mg sau đó giảm xuống ½ số liền 7- 8 ngày sau lại giảm xuống ¼ kéo dài khoảng 14 – 15 ngày thì thôi khi người bệnh đã yên tâm là mình không uống được rượu nữa.
Vì Antabuse là loại Sulfa chậm nên có thể gây dị ứng, gây tai biến ở người già, người có bệnh gan, thận, tim mạch nên phải hết sức thận trọng.
Có thể dùng Aortal; Stablon để giảm sự thèm rượu.

2. Tâm lý liệu pháp:

Rất quan trọng nếu người nghiện không tự giác cai nghiện bỏ rượu hoặc bỏ ma túy thì khó mà cai nghiện thành công được.
Phải cách ly họ với rượu với bạn nhậu. Phải làm cho họ hiểu tác hại của rượu đối với sức khỏe, đối với gia đình, đối với xã hội.
Phải tạo công ăn việc làm và mối quan hệ xã hội lành mạnh.
Phải phối hợp tốt gia đình, xã hội vào vận động thuyết phục bệnh nhân cai rượu.

Phòng bệnh:
a) Truyền thông rộng rãi trong nhân dân những tác hại của rượu đối với sức khỏe tâm thần, thể chất, đặc biệt rượu làm hủy hoại nhân cách người nghiện rượu; làm cho người nghiện rượu mãn tính tha hóa về nhân cách, sa sút về tâm thần, mất hết khả năng làm việc, trở thành người vô dụng, là gánh nặng cho gia đình, xã hội.
b) Có quy chế quản lý, kiểm soát chặt chẽ trong việc sản xuất, bán mua và tiêu thụ các loại rượu, nước giải khát có rượu, thuốc uống có rượu.
c) Giáo dục thanh thiếu niên có lối sống lành mạnh, tránh lạm dụng rượu.

Kỳ thị HIV/AIDS khiến cho số người nhiễm tăng gấp 3 lần

Kỳ thị HIV/AIDS khiến cho số người nhiễm tăng gấp 3 lần


(CAO)- Lẽ ra lúc đầu chỉ có 1 người nhiễm HIV nhưng kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho 3 người bị nhiễm.

Mạng lưới quốc gia những người sống chung với HIV Việt Nam vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, có những thay đổi tích cực trong gần 5 năm qua về mặt pháp lý liên quan đến "người có H".

Cụ thể, tỷ lệ quyền bị vi phạm của "người có H" giảm từ 21,8% năm 2011 xuống còn 11,2% năm 2014 (giảm 10,6%). Đặc biệt, tỷ lệ này giảm đáng kể đối với nhóm phụ nữ hành nghề mại dâm nhiễm HIV, từ 41,1% xuống 16,6%, tức giảm 25,5%.

Người nhiễm HIV cần được tư vấn đầy đủ để phòng tránh lây nhiễm cho người thân, cộng đồng


Tuy nhiên, vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn ở mức cao và dưới nhiều hình thức khác nhau. Có đến 23,3% "người có H" bị xì xào bàn tán về tình trạng nhiễm của mình; 5,8% "người có H" bị xúc phạm; 4,2% bị mất việc làm hoặc mất nguồn thu nhập; 6,7% bị từ chối cơ hội việc làm vì tình trạng nhiễm HIV; 2,8% phụ nữ sống với HIV bị hành hung và 2,6% "người có H" bị loại ra khỏi các hoạt động của cộng đồng, xã hội.

Theo Tiến sĩ Kristan Schoultz, Giám đốc quốc gia Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS tại Việt Nam, vì sợ bị kì thị, người ta không muốn đi xét nghiệm HIV để phát hiện tình trạng nhiễm HIV của mình và sử dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV. Vì vậy, họ có thể vô tình truyền HIV sang những người thân của mình. Một người chồng có thể truyền HIV sang vợ. Người vợ ấy có thể truyền HIV sang đứa con mà họ sẽ sinh ra.

“Như thế, lẽ ra lúc đầu chỉ có 1 người nhiễm HIV nhưng kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho 3 người bị nhiễm. Điều này xảy ra bởi vì người ta sợ đi xét nghiệm HIV, bởi họ sợ mình bị phân biệt đối xử tại cơ sở y tế khi có kết quả xét nghiệm HIV dương tính”, bà Kristan Schoultz nói.

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SẼ LÀ ĐÔ THỊ TĂNG TRƯỞNG NHANH BẬC NHẤT CHÂU Á TRONG 5 NĂM TỚI

Thành phố Hồ Chí Minh được dự báo đứng thứ 2 trong số 30 thành phố châu Á có tốc độ tăng trưởng GDP mạnh nhất trong giai đoạn 2017-2021. CĂN CỨ MỸ Ở ĐẢO GUAM CÓ THỰC SỰ LÀ 'MỒI NGON' CỦA TÊN LỬA TRIỀU TIÊN? TRUNG QUỐC TÁI HIỆN KỊCH BẢN "MAI PHỤC LÍNH LIÊN XÔ" VỚI ẤN ĐỘ? Theo kết quả nghiên cứu mới được công bố từ Oxford Economics, Delhi, Ấn Độ sẽ là thành phố phát triển nhanh nhất châu Á trong 5 năm tới. Đứng ngay sau nó là Thành phố HỒ CHÍ MINH của Việt Nam. Vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng này thuộc về Chennai, một thành phố khác của Ấn Độ. Tổng cộng 6/7 vị trí dẫn đầu bảng đánh giá của Oxford Economics đều là thành phố của quốc gia đông dân thứ 2 thế giới. Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị duy nhất ngoài Ấn Độ nằm trong nhóm 7 thành phố dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng. Điều này phản ánh thành công của thành phố trong việc chuyển mình trở thành một trung tâm sản xuất và dịch vụ. Dự đoán tới năm 2021, tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đạt tới xấp xỉ 8%. Ngoài 7 thành phố của Ấn Độ, bảng xếp hạng còn có sự hiện diện của 6 thành phố ASEAN, 7 thành phố Trung Quốc và các vùng lãnh thổ, 5 thành phố Đông Á và 6 thành phố của Australia và New Zealand. Việt Nam chỉ có đại diện duy nhất là Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong bảng xếp hạng này. Lý giải cho sự lên ngôi của các thành phố Ấn Độ, Mark Britton, nhà kinh tế học trực tiếp xây dựng báo cáo, cho rằng: “Hạn chế về quyền sở hữu của nước ngoài với các công ty Ấn Độ đang được giảm dần hoặc loại bỏ. Trong ngắn hạn, điều này có lợi cho tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực dịch vụ chuyên nghiệp còn về dài hạn, nó có nghĩa là doanh thu ổn định cho các doanh nghiệp”. Các công ty tiêu dùng như Muji của Nhật Bản cũng đang đặt cược vào sự thay đổi đó. Công ty mẹ của nó là Ryohin Keikaku Co. nhìn thấy Ấn Độ đang trở thành thị trường quốc tế lớn thứ 2 sau Trung Quốc. Trong khi đó, sự mở rộng của Trung Quốc sẽ chậm lại, dù năm thành phố lớn nhất của nó vẫn đạt mức tăng trưởng từ 6% trở lên. Sẽ có sự suy thoái nhẹ trên toàn khu vực do nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc giảm và tốc độ tăng trưởng trung bình dự kiến đạt 4,2%/năm trong 5 năm tới, giảm từ 4,5% trong giai đoạn 2012-2016. Thiên Tân được dự báo có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất ở Trung Quốc do đóng vai trò lớn trong sản xuất đồng thời là một trong những cảng bận rộn bậc nhất của quốc gia này. Tuy nhiên, khi lĩnh vực dịch vụ mở rộng, ngành sản xuất và vận tải biển có thể không còn đóng vai trò hỗ trợ quan trọng như hiện nay. Với Nhật Bản, triển vọng tăng trưởng vẫn sẽ ở mức thấp trong bối cảnh triển vọng nhân khẩu học ở quốc gia này không lấy gì làm lạc quan. Osaka lọt vào bảng xếp hạng của Oxford Economics khi dân số trong độ tuổi lao động của thành phố giảm khoảng 1%/năm.