Tag Archives: LSD

CÁC CHẤT GÂY HOANG TƯỞNG (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY HOANG TƯỞNG (HALLUCINOGENS)


(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


Chất gây ảo giác là những chất khi đưa vào cơ thể, người sử dụng bị tác động mạnh trên hệ thần kinh trung ươnggây ảo giác với cường độ mãnh liệt nhất là đối với âm thanh và ánh sáng. Người sử dụng không còn liên hệ với thế giới bên ngoài nhưng lại có cảm tưởng ảo giác là thật (đây là một vấn đề rất nguy hiểm có thể dẫn đến tự sát hoặc giết người).   Hầu hết chất gây ảo giác đều dùng qua đường uống. Người sử dụng không dùng chất này thường xuyên mà tùy loại chất sử dụng. Sau khi uống 20 – 30 phút người sử dụng cảm thấy khoan khoáithay đổi nhận thức và xuất hiện ảo giácCảm giác khoan khoái thường chuyển nhanh qua cảm giác khó chịu. Ngoài ảo giác người sử dụng còn có các tác dụng nguy hại như sau:
-   Cảm giác bực bộilo âu, sợ hãi, hoang tưởng, trầm cảm hay cuồng loạn.
-   Rối loạn nhận thức, xuất hiện các cơn hồi phát hậu ảo giác.
-   Rối loạn hoang tưởng, người sử dụng tin rằng những suy nghĩ khi sử dụng chất gây ảo giác đều là sự thật.
Hiện tượng hoang tưởng trên có thể kéo dài nhiều ngày sau khi ngưng sử dụng ma túy. Người sử dụng ma túy có cảm giác bất lực trước sự biến đổi của mình và biểu hiện cảm giác sợ hãi. Một số chất gây ảo giác được sử dụng như thuốc điều trị tâm lý nhưng do tác hại của thuốc nên nhiều nước hạn chế hoặc cấm sử dụng. Các chất gây ảo giác thường được sử dụng là:

- LSD

- PHENCYCLIDINE (PCP)

CÂY CẦN SA (CANNABIS)

 - CỎ MỸ

CÂY XƯƠNG RỒNG PEYOTE

 
I. LSD (D – Lysergic acid diethylamide):

Công thức hóa học của LSD là D – lysergic acid diethylamide.Lysergide là một chất bán tổng hợp từ acid lysergic hay các loại alkaloide của loài nấm cựa gà ergot. LSD được phát hiện năm 1938, được sử dụng là thuốc chữa bệnh tâm thần với tên Delyside nhưng sau đó vì những tác dụng phụ nguy hại nên bị cấm sử dụng.

LSD được giới thanh niên Châu âu và Mỹ sử dụng rất nhiều vào những năm 1960. LSD được bào chế dưới các dạng:

+ Giấy tẩm

+ Gellatine

+ Miếng nhỏ

+ Viên nén hay viên nang.

Liều thường dùng là 30-50 micrograme. Được sử dụng bằng đường uống hay tiêm.

Thuốc có tác dụng sau 30 – 60 phút và kéo dài 8 – 12 giờ.

- Về cơ thể: người sử dụng bị tim đập nhanhhạ thân nhiệtgiãn đồng tửbuồn nônói mửađổ mồ hôi.

- Về tâm thần: Thuốc gây ảo giác cực mạnh tác dụng trên tâm trạngý nghĩcảm xúc của người sử dụng. Người sử dụng trở nên thích nói năng, trò chuyệncường phát cảm thụ về màu sắcâm thanh và xúc giác. Ngoài ra người sử dụng còn bị cảm giác lo lắng,hoang tưởngchóng mặtmất định hướngnhận thứccảm xúc lệch lạc.

Sau khi ngưng thuốc LSD thường có cảm giác bất anrối loạn nhận thức hậu ảo giác, có thể kéo dài nhiều ngày thận chí nhiều tháng. Người sử dụng dung nạp nhanh với LSD. Không thấy biểu hiện cơ thể bị lệ thuộc hay xuất hiện hội chứng cai sau khi ngưng sử dụng LSD.


II. PHENCYCLIDINE (PCP):

- Thuốc tác động vào hệ thần kinh trung ương gây trầm cảmkích thíchgiảm đau và gây ảo giác.

- Trong y học thuốc được sử dụng như một loại thuốc mê nhưng sau đó bị cấm sử dụng vì làm người bệnh mất phương hướngkích động và hoang tưởng. PCP có tác dụng tương tự Dexoxadrol và Ketamine. Khi sử dụng làm ma túy, thuốc được sử dụng dưới dạng uống, hút, tiêm tĩnh mạch.

- Thuốc có tác dụng sau 5 phútđỉnh điểm sau 30 phútKéo dài 4- 6 giờ.

- Lúc đầu người nghiện có cảm giác ấm ápđê mêsung sướngbồng bềnh, có ảo giácảo thanhnhận thức lệch lạc về không gian và thời gianrối loạn tư duyhình ảnh méo mó.

- Sau đó người sử dụng bị tăng huyết ápgiãn đồng tửđổ mồ hôi, hạ thân nhiệthôn mêbất động, mất phản ứng đauco cứng cơ và có thể đột quỵ. Ảnh hưởng thuốc có thể kéo dài nhiều ngày. Người sử dụng sau đó dễ có những hành vi hung bạo hoặc tự hủy hoại cơ thể.

 
III. CANNABIS (CẦN SA):

- Là tên gọi một số chế phẩm làm từ cây cần sa (Cannalis Sativa) (còn gọi là cây gai mèo) gồm nhựa, hoa cần sa. Cây cần sa là một loại cây bụi, mọc hoang ở các vùng ôn đới và nhiệt đới. Sản phẩm của cần sa bao gồm: hoanhựa cần sa (nhựa Hashish) và dầu Hashish (chế từ lá và nhựa cần sa cô đặc).

- Lá và hoa cần sa được hút như thuốc lá gọi là marijuana hoặc làm thành bột trộn với các thức ăn khác. Rễ được làm thành bánh gọi là Haschich được hút bằng ống điếu hay tẩm hoặc trộn mật, bánh, đường để ăn.

- Nhựa cần sa được tinh chế từ ngọn cây đang ra hoa của cây cần sa. Đập dập, ngâm vào nước sôi rồi lấy lớp dầu trên mặt, tên thường gọi là CharasHash.. Nhựa cần sa thường dùng để húttrộn lẫn với thuốc lá hoặc uống như uống trà.

- Cần sa ở các dạng thông thường như sợi rờiép thành bánhcuốn thành điếu bọc ngoài bằng lá thô, hoặc ve thành điếu cuốn trong giấy thuốc lá. Sau khi hút cần sa sẽ có tác dụng sau vài phútđạt đỉnh cao sau khoảng 30 phút và tác dụng kéo dài từ 2 đến 4 giờ.

- Khi sử dụng cần sa, người sử dụng có cảm giác hưng phấnkhoan khoáivui vẻ và hòa nhã với mọi người, tim đập nhanh, khô miệngmất tập trung tư tưởngphản xạ kémgiảm sự khéo léokhông còn khái niệm về thời gian, không giantăng cảm giác thị giácthính giác và xúc giác, đôi khi tăng ham muốn tình dục. Dùng lâu ngày, người sử dụng bị suy giảm trí nhớ, suy giảm năng lực học tậpkhả năng nhận thứcgiảm thị lực, gây tâm lý lo âu, sợ hãi và ảo giác, tâm thần phân liệthoang tưởng. Xuất hiện những cơn hoảng loạn, trong cơn có hành vi gây hấnđi lang thang không mục đích.

- Hút cần sa thường xuyên dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp và ung thư phổirối loạn giấc ngủ, đau đầuchóng mặt.

Hoạt chất chính của cần sa là Tetrahydrocanno Biton (THC), có thể phát hiện trong nước tiểu và có thể kéo dài trong vài tuần.

 
IV. CỎ MỸ

CỎ MỸ
MA DƯỢC GIẾT NGƯỜI MANG TÊN CỎ MỸ
'CỎ MỸ’ NGUY HIỂM HƠN CẦN SA ĐANG HÚT GIỚI TRẺ


  V. CÂY XƯƠNG RỒNG PEYOTE:  

Các loại xương rồng gây ảo giác có tên khoa học là Lophophora williamsii và Anhalonium lewinii ở một số khu vực miền nam Texas và Mexico. Do đó còn có tên gọi là cây xương rồng MehicoThành phần tác dụng của cây xương rồng Peyote là mescalin. Cây xương rồng Peyote còn có tên là “Mescal buttons”.

 

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

Nhựa cần sa (Nhựa Hashish)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

 

TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG – LSD

TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG - LSD

LYSERGIC ACID DIETHYLAMIDE( LSD)

Bác sĩ Chuyên khoa II - Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn


A. DỊCH TỄ HỌC:

Theo số liệu dịch tễ của Mỹ năm 1991, khoảng 8,1% dân số Mỹ đã sử dụng chất gây ảo giác ít nhất một lần, 1,2% đã sử dụng trong năm vừa qua, 0,3% đã sử dụng trong tháng qua. Sử dụng chất gây ảo giác khá phổ biến ở nam giới da trắng lứa tuổi từ 15-35 tuổi. Theo số liệu của viện nghiên cứu quốc gia Hoa kỳ về lạm dụng chất (NIDA) công bố năm 1991, khoảng 13,1% người lớn, 7,8% người già và 3,3 % thanh niên nói rằng họ đã sử dụng chất gây ảo giác.


Số liệu của Pháp (EROPP, OFDT): Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi 18-75, năm 2002.


Bảng 5-1: Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi từ 18-75, năm 2002 ở Pháp.
Tuổi 18-75 18-25 26-44 45-75 Nam Nữ
Nấm 1,1% 2,3% 1,6% 0,3% 1,4% 0,9%
LSD 1,1% 1,2% 1,9% 0,5% 2,1% 0,2%

Số liệu của Pháp ( ESCAPAD, OFDT): Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và Ketamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002.


Bảng 5-2. Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và kétamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002
Nữ Nam Tổng số Nữ Nam Tổng số
Nấm 2,6% 5,9% 4,3% 0,6% 1,4% 1,0%
LSD 0,9% 1,9% 1,4% 0,3% 0,7% 0,5%
Kétamine 0,4% 0,7% 0,6%

B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:

Sự tranh luận về việc có hay không tác động của LSD như một chất đối vận hoặc đồng vận với hệ thống serotoninergic. Các số liệu hiện nay gợi ý rằng tác động của LSD như một chất đồng vận một phần của các receptor serotonine hậu synapse.


Phần lớn các chất gây ảo giác hấp thu tốt sau khi uống, đỉnh huyết tương của LSD trong vòng 60 phút sau khi uống và thải trừ chậm qua đường nước tiểu và phát hiện chất chuyển hóa của nó trong nước tiểu có thể sau 3-4 ngày. Tuy nhiên, một liều rất nhỏ cần thiết để gây ra một hiệu quả loạn thần rất khó phát hiện trong nước tiểu. Mặc dù một số loạichất gây ảo giác được sủ dụng bằng đường hút, hít hoặc tim tĩnh mạch, sự dung nạp với LSD hoặc các chất gây ảo giác khác sảy ra nhanh và hầu như hoàn toàn sau 3 hoặc 4 ngày sử dụng liên tiếp. Sự dung nạp cũng quay lại nhanh, thông thường trong 4 đến 7 ngày. Không có sự phụ thuộc về cơ thể và không có hội chứng cai. Tuy nhiên sự phụ thuộc về tâm thần có thể phát triển thấy được.


C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

Tri giác trở nên rực rỡ và mãnh liệt khác thường. Màu sắc và cấu trúc phong phú hơn so với trước,  các đường nét bên ngoài trở nên sắc nét hơn và xúc động hơn và tăng cảm giác về mùi vị. Thường gặp loạn cảm giác, có thể tô điểm thêm tiếng nói hoặc âm thanh. Có nhiều biến đổi về hình ảnh cơ thể và rối loạn định hướng về không gian và thời gian. Các ảo giác thông thường là thị giác ( thường là hình thái và hình ảnh), nhưng ảo thanh và ảo giác xúc giác đôi khi cũng xúc hiện. Cảm xúc thường trở nên mãnh liệt và có thể thay đổi đột ngột và thường xuyên.


Các nét lâm sàng chủ yếu của nhiễm độc các chất gây ảo giác đó là sự xuất hiện của lo âu hoặc trầm cảm, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí nhớ, ý tưởng paranoid, biến đổi tri giác, mất ngủ hoàn toàn và tăng tỉnh táo, suy giảm lý lẽ hoặc suy giảm các chức năng xã hội nghề nghiệp diễn ra trong hoặc ngay khi sử dụng các chất gây ảo giác.Những sự thay đổi này bao gồm sự tăng cường mang tính cá thể của tri giác, giải thể  nhân cách, tri giác sai thực tại, ảo tưởng, ảo giác và loại cảm giác bản thể. Ở người nghiện còn có các biểu hiện cơ thể khác như giãn đồng tử, mạch nhanh, vã mồ hôi, đánh trống ngực, mờ mắt, run và mất phối hợp động tác. Sự nhiễm độc các chất gây ảo giác thường bắt đầu bằng các hoạt động không ngừng, tăng hoạt hệ thống thần kinh thực vật và buồn nôn.


Các rối loạn cấp: cảm xúc không ổn định hoặc dễ thay đổi với cảm giác khoái cảm nhanh chóng được thay thế bằng cười khó hiểu, trầm cảm hoặc hưng cảm cũng thường thấy. Ảo tưởng thị giác lúc đầu hoặc lúc nặng hơn có thể dẫn tới ảo giác. Ở liều cao hơn, sự thay đổi tri giác bao gồm loạn cmar giác bản thể (rối loạn hỗn hợp cảm giác quan) và ảo giác. Thường là các ảo thị thật, thường biến đổi hình thể, đôi khi thấy con người và đồ  vật cũng bị biến đổi và họ hành động theo những biến đổi này. Hiếm gặp hơn là các ảo thanh và ảo giác xúc giác.


Nguyên nhân gây tử vong có thể liên quan tới bệnh lý tim mạch hoặc bệnh lý mạch máu não kết hợp với tăng huyết áp hoặc tăng huyết áp hoặc tăng thân nhiệt , triệu chứng giống hội chứng an thần kinh ác tính.


D. CHẨN ĐOÁN:

1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng

Xem chương trước, chung cho mọi chất.


2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc chất gây ảo giác (DSM IV)

a. Vừa mới sử dụng chất gây ảo giác.

b. Có các biểu hiện thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp ( lo âu hoặc trầm cảm rõ rệt, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí, ý tưởng paranoid, suy giảm lý lẽ hoặc các chức năng nghề nghiệp, xã hội) diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.

c. Thay đổi nhận thức xảy ra với biểu hiện mất ngủ hoàn toàn và tỉnh táo ( tăng nhận thức chủ quan, giải thể nhận cách, mất liên hệ thực tại, ảo tưởng, ảo giác, loạn cảm giác bản thể) diễn ra trong khi hoặc ngay khi sử dụng chất gây ảo giác.

d. Có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau đây diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.

  • (1) Giãn đồng tử.

  • (2) Nhịp tim nhanh

  • (3) Vã mồ hôi

  • (4) Đánh trống ngực

  • (5) Mờ mắt

  • (6) Run

  • (7) Mất điều phối

  • Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rồi loạn tâm thần khác gây ra.


    3. Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nhận thức dai dẳng do chất gây ảo giác

    a. Sau khi ngừng sử dụng chất gây ảo giác, tái xuất hiện một hoặc nhiều các triệu chứng nhận thức đã được biểu lộ khi bị nhiễm độc chất gây ảo giác (ảo giác hình thể hoặc nhận thức sai lệch về sự chuyển động ở thị trường ngoại vi, sự lóe sáng của màu sắc, màu săc rực rỡ, hình ảnh đồ vật chuyển động, lưu giữ hình ảnh dương bản, vầng sáng xung quanh đồ vật, hình ảnh khổng lồ hoặc tí hon)


    b. Các  triệu chứng ở tiêu chuẩn gây ra đau khổ rõ rệt hoặc giảm sút các chức năng nghề nghiệp, xã hội và các lĩnh vực quan trọng khác.


    c. Các triệu chứng trên không do các bệnh cơ thể (tổn thương giải phẩu và nhiễm trùng não, động kinh với biểu hiện rối loạn thị giác) và các dấu hiệu tâm thần khác gây ra (sảng run, sa sút trí tuệ, tâm thần phân liệt) hoặc các thuốc ngủ gây ảo giác.


    4. Sảng run do nhiễm độc chất gây ảo giác

    Rối loạn này tương đối hiếm, nó thường xảy ra trong giai đoạn nhiễm độc khi người bệnh sử dụng nguyên chất. Tuy nhiên, các chất gây ảo giác thường pha trộn với các chất hay các hợp chất khác, tương tác của chúng có thể gây ra sảng run.


    5. Các rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác

    Tác dụng có hại lớn nhất của LSD và các chất liên quan là một sự say thuốc tồi tệ, nó tương tự như là một phản ứng hoảng sợ cấp của cannabis nhưng có thể nặng hơn; sự say thuốc tồi tệ có thể ngẫu nhiên gây ra các triệu chứng loạn thần rõ rệt. Sự say thuốc tồi tệ này thông thường kết thúc khi tác động tức thi của chất gây ảo giác mất đi. Tuy nhiên, diễn biến của tình trạng này thay đổi, thường là một giai đoạn loạn thần kéo dài khó phân biệt với rối loạn loạn thần không thực tổn.


    Thông thường rối loạn loạn thần kéo dài, đặc biệt ở những người trước đó đã có rối loạn nhân cách bệnh dạng phân liệt và nhân cách tiền loạn thần.


    6. Rối loạn cảm xúc do chất gây ảo giác

    Những người lạm dụng chất gây ảo giác có thể có các triệu chứng tương tự như hưng cảm bao gồm hoang tưởng tự cao hoặc giống như trầm cảm với các triệu chứng hỗn hợp. Tương tự như các triệu chứng rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác, các triệu chứng của rối loạn cảm xúc do các chất gây ảo giác hầu như rất giá trị một khi xét nghiệm phát hiện được chúng chất này trong cơ thể người bệnh.


    7. Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác

    Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác cũng rất thay đổi trong các biểu hiện các triệu chứng. Ví dụ có người bệnh vào cấp cứu vì rối loạn liên quan đến chất gây ảo giác tuy nhiên các triệu chứng gây biểu hiện lại là rối loạn hoảng sợ với chứng sợ không rộng.