Tag Archives: ma túy thiên nhiên dạng kích thích

CÁC LOẠI MA TUÝ DẠNG KÍCH THÍCH

CÁC LOẠI MA TUÝ DẠNG KÍCH THÍCH

 

A. ĐẶC TÍNH CHUNG:

Chất kích thích thần kinh là các chất khi đưa vào cơ thể làm tăng cường hoạt động của hệ thần kinh trung ương.  CHẤT KÍCH THÍCH bao gồm :


1/ MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH: Amphetamine  các chất giống Amphetamine (Amphetamine and Amphetamine - like).

2/ MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH:

- Cocaine

- Các ma túy hợp pháp: cà phê, thuốc lá …

3/ MỘT SỐ HÓA DƯỢC DẠNG KÍCH THÍCH:

- Một số thuốc chống trầm cảm,thuốc chống tiết Acetylcholine khi dùng liều cao, kéo dài.

B. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:


- Thay đổi nhịp timhuyết ápgiãn đồng tử,đổ mồ hôi, ớn lạnh, nôn, ói mửa.

- Tăng hoạt độngnhận xét sai lệch, dễ bị kích động.

- Lạm dụng kéo dài sẽ thay đổi hành vi: hung hăngliều lĩnhnóng giậnnghi ngờ. Trường hợp nặng bị loạn thầnhoang tưởng kịch phát.

- Ngừng thuốc sau một thời gian dài sử dụngvới liều cao sẽ bị hội chứng cai: cơ thể mệt mỏiủ rũmất ngủ, có thể dẫn đến mê sảng.


C. PHÂN LOẠI:

I. MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH:


Amphetamine và một số chất giống amphetamine là ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích. Các loại ma túy này có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau nhưng có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau trên hệ thần kinh trung ương. Nhóm này bao gồm:

1. AMPHETAMINE CỔ ĐIỂN: AMPHETAMINE, METHAMPHETAMINE (hàng đá) và METHCATHINONE:

- Là ma túy tổng hợp thông dụng có tác dụng  kích thích mạnh lên hệ thần kinh trung ương


- Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ ice ” (hàng đá) (methamphetamin), và “ cat ” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay  bột nhuộm màu dạng kết tinh (như “ice”),  viên nén và dung dịch (như “methcathinone”)


- Amphetamin thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.


- Loại ma túy này đang được nhiều người sử dụng vì nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, gây khoái cảm, phấn khíchtinh thần mẫn tiệpkhông còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủtăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và trí não. Amphetamin được phổ biến trong giới sinh viênbinh lính, lái xe đường dàicông nhân ca đêmvận động viên thể dục thể thao...v.v.


- Khi sử dụng liều thấp Amphetamine làm tăng nhịp timnhịp thởtăng huyết áp và thân nhiệtkhô miệngđổ mồ hôigiãn đồng tửtiêu chảy, ăn kém ngon.


- Khi sử dụng liều cao Amphetamine làm các triệu chứng nói trên trở nên cường phát, người dùng trở nên lắm lời, hiếu động, hung bạo, mất ngủ, không còn khả năng suy xét, người sử dụng Amphetamine tăng nhu cầu tình dục nên quan hệ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIVviêm gan siêu vi, ngoài ra do bị kích động người sử dụng Amphetamine hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông.


- Sử dụng amphetamine lâu ngày người sử dụng thay đổi hành vi tâm tínhbồn chồn, hiếu độngcảm giác khó chịu, hung bạođôi khi dẫn đến hoảng loạn, hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốchay sau khi dùng liều cao sẽ xuất hiện hội chứng cai: ủ rũ, u uấtbuồn chán,mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và có những cơn mê sảng.


Từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Tuy nhiên, do nhận thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng nên hiện nay, amphetamin và các chất liên quan được hạn chế sử dụng chỉ để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamine để làm thuốc biếng ănchữa bệnh béo phì. Sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn sản xuất phân phối hợp pháp.

 

2. AMPHETAMIN MỚI

2.1 MDMA/ (Ecstasy - Thuốc lắc):

- Thuốc được tổng hợp từ năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng không được công nhận là thuốc chính thức. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. ECSTASY là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới. MDMA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.


- MDMA được chế tạo dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn.


- MDMA làm tăng huyết áptăng nhịp tim, gây ảo giác, tăng tự tin, cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích nhất là khi kèm âm thanh có cường độ lớn, thích giao tiếp, trò chuyện.


- MDMA liều thấp gây bồn chồnlo lắng; Liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ, có hành vi lắc lư, quay cuồng, la hét, đập phá, quan hệ tình dục tập thể, thích cảm giác bay bổng, lái xe tốc độ cao.


- Sử dụng thường xuyên một thời gian dài sẽ có các triệu chứng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.MDMA ít gây ngộ độc cấp, một số trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng


- Tuy nhiên, do quan hệ tình dục tập thể bừa bãi, thường chích chung kim nên người sử dụng MDMA dễ lây nhiễm HIVviêm gan siêu vi và do bị kích động, người sử dụng ưa phóng xe tốc độ cao, lạng lách, gây tai nạn giao thông.


2.2 MDA:

Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng Amphetamin rất giống Ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được chấp nhận là một loại thuốc hợp pháp. MDA tác dụng gần giống MDMA nhưng gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMA và có thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 giờ so với MDMA chỉ có 3 – 5 giờ). MDA thường được đưa ra thị trường dưới dạng thuần chất hay kết hợp với các loại ma túy khác.


2.3 MDEA/(AVE):

Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này không được công nhận là thuốc hợp pháp. MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, được bào chế  dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. MDEA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.

 

II. MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH:

1. COCAINE:

- Cocaine là một chất kích thích  dưới dạng Alkoloide lấy từ cây Côca hay tổng hợp từ chất Ecgonine và các dẫn xuất của nó. Cocaine được sử dụng từ thế kỷ 19 làm thuốc tê trong nha khoa, nhãn khoa, ngoại khoa tai, mũi, họng do tác dụng co mạch tại chỗ, giảm xuất huyết cục bộ. Vì Cocaine gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nên hiện nay không được sử dụng nữa

.

- Cocaine được bán dưới dạng tinh bột hay tinh thể màu trắng trong. Cocaine được sử dụng bằng đường hítPha trộn Cocaine với heroine được sử dụng qua đường chích

.

- Cocaine là chất  kích thích hệ thần kinh mạnhgiải ức chếgây khoái cảmđê mêtỉnh ngủtăng hoạt độngnói nhiềutăng nhu cầu tình dục. Sử dụng Cocaine liên tục dẫn đến hiện tượng suy sụp:mất ngủ dẫn đến nghiện thuốc ngủrối loạn hoang tưởng liên hệrối loạn ảo giác, sa sút tâm thần

.

- Hội chứng ngộ độc cấpcơn mê sảnghoảng hốt, huyết áp cao, nghẽn mạch và loạn nhịp tim, có những biểu hiện bệnh tâm thần như hoang tưởngảo thanhảo giáccó cảm giác thấy hình ảnh lấp lánh như mặt trời hay bông tuyết

.

- HỘI CHỨNG CAI: Ngưng sử dụng Cocaine sẽ gây hội chứng caicảm giác sợ hãitrầm uấttrì trệbuồn ngủ


2. CAO BỘT NHÃO CÔCA:

Là sản phẩm của công đoạn đầu tiên quá trình triết xuất cocaine từ lá Côca. Người Nam Mỹ dùng bột nhão Côca để hút, hay hút cùng với marijuana và thuốc lá.


3. CRACK HAY ROCK:

Crack được chiết xuất từ Cocaine Hydrochloride để chế biến thành dạng hút. Người sử dụng sẽ có ngay cảm giác hân hoanphấn khíchlo âu, ưu phiền tan biến, cảm giác tự tinhãnh diện. Lúc này khả năng xét đoán giảm sút, người nghiện có những hành vi bừa bãiphạm phápnguy hạibất chấp hậu quảnói năng lắp bắpthiếu rành mạchKhoái cảm kéo dài 5 -7 phút, sau đó tâm trạng suy sụp nhanh chóng, người sử dụng có cảm giác khó chịubồn chồnlo lắng. Lúc này người nghiện chỉ thèm khát mãnh liệt là tiếp tục dùng ma túy để có cảm giác như khi “phê” thuốc.


D. TÁC HẠI CỦA MA TÚY DẠNG KÍCH THÍCH


I. TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH:


1. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:


ATS gây ra các triệu chứng sau:

+ Giãn đồng tử
+ Khô miệng, khô môi
+ Tăng, giảm nhịp tim
+ Tăng, giảm huyết áp
+ Đau ngực, ức chế hô hấp
+ Toát mồ hôi, rét run
+ Mất trí nhớ
+ Giảm khả năng xét đoán, tập trung
+ Giảm khả năng lao động xã hội.
+ Buồn nôn, nôn
+ Mất ngủ
+ Sút cân
+ Giảm ăn, biếng ăn
+ Hỏng răng, nuốt khó
+ Kích động, ức chế trung tâm vận động.
+ Trầm cảm, lo lắng
+ Căng thẳng, giận dữ, bồn chồn.
+ Hoang tưởng, ảo thanh, phản ứng hoảng sợ
+ Lú lẫn hay hôn mê
+ Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
+ Đột quỵ, nhũn não, đau đầu
+ Có ý tưởng tự sát.

Tóm lại, triệu chứng lâm sàng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:

1.1.  VỀ CƠ THỂ:

+ Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.

+ Các biểu hiện lâm sàng đáng chú ý bao gồm: nhồi máu cơ timtăng huyết áp kịch phátbệnh lý mạch máu não và viêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng ATS thường có hành vi tình dục không an toàn.

+ Các tác dụng không mong muốn và ít nguy hiểm là: nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.

  + Ở phụ nữ có thai thường thai nhi chậm lớn, nhẹ cânvòng đầu nhỏsinh non

.

1.2. VỀ TÂM THẦN:

Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau: bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệhoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể xảy ra. Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:

- Triệu chứng ngắn hạnNhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.


- Triệu chứng kéo dài: ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.


Ngoài ra hầu hết các chất ATS làm tăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.

 

2. TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC


a) Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.

b) Có các thay đổi về tâm l‎ý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:

- Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.

- Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ

- Các hành vi có tính định hình

- Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.

Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.

 c) Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:

- Giãn đồng tử

- Tăng, giảm nhịp tim

- Tăng, giảm huyết áp

- Toát mồ hôi, rét run

- Buồn nôn, nôn

- Sút cân

- Kích động, ức chế trung tâm vận động.

- Đau ngực, ức chế hô hấp

- Lú lẫn hay hôn mê

- Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.

  d) Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.

 

 3. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:(Amphetamine Inducd Psychosis)


- Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:

+ Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.

+ Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.

+ Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.

+ Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối

+ Tăng tình dục (hypersexuality)

+ Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.

Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.

Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.

 

4. HỘI CHỨNG CAI


Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện  từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.

Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sau hết sau khoảng một tuần.

Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngàysử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ‎ý tưởng và hành vi tự sát.

 

5. CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG CAI (DSM - IV):

a) Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...) APT.

b) Có rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).

Mệt mỏi

- Có những giấc mơ đáng sợ.

- Mất ngủ hay ngủ nhiều.

- Tăng cảm giác ngon miệng.

- Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

c) Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.

d) Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.

Methamphetamine CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) cai nghiện ma túy CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES)  

TÁC HẠI CỦA MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH – COCAINE

TÁC HẠI CỦA MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH - COCAINE

Cocaine là một trong những chất gây nghiện bị lạm dụng phổ biến và nguy hiểm nhất ở các nước châu Mỹ và châu Âu. Ở Việt Nam hiện chưa phát hiện tình trạng buôn bán, lạm dụng cocaine, có thể do cocaine chưa thâm nhập vào thị trường Việt Nam vì lý do nào đó.


Cocaine thường bị lạm dụng ở chế phẩm mạnh nhất của nó, freebase và crack (crack cocaine). Cocaine được chiết xuất từ cây coca có nguồn gốc từ Nam Mỹ, ở đó các cư dân địa phương thường nhai lá và cành nhỏ để có được hiệu quả kích thích.


Các alkaloid cocaine được chiết xuất đầu tiên vào năm 1860 và được sử dụng trong y học như là một chất gây tê cục bộ, chủ yếu trong phẩu thuật mắt, mũi và họng vì nó giúp gây tác dụng co mạch. Năm 1884 Sigmund Freud đã tiến hành nghiên cứu tác dụng dược lý chung của cocaine và coi nó như một loại thuốc chông trầm cảm.


Từ 1880-1890, cocaine được biết đến như loại thuốc chữa khỏi nhiều bệnh. Tuy nhiên vào năm 1914 cocaine đã được xếp vào loại các chất gây nghiện tiếp theo morphine và heroin, vì tác dụng gây hại và gây nghiện của nó.


A. DỊCH TỄ HỌC:

Ở Mỹ, khoảng 1,9 triệu người Mỹ, bao gồm 1,9% học sinh trung học phổ thông đã sử dụng cocaine trong tháng qua, tuy nhiên sử dụng cocaine hiện nay có chiều hướng thuyên giảm do nhận thức về nguy cơ liên quan đến sử dụng cocaine trong dân chúng tăng lên qua các chiến dịch truyền thông về cocaine và tác hại của nó.


Tuy nhiên, trong thời gian gần đây ở một mức độ nào đó lại gia tăng hiện tượng sử dụng crack, một dạng mạnh hơn cocaine rất nhiều. Sử dụng Crack phổ biến nhất ở lứa tuổi 18-25, do giá rẻ hơn cocaine 10 lần. Ở Mỹ, năm 1991 có khoảng 12% dân số Mỹ đã sử dụng cocaine ít nhất 1 lần và 1,9% đã sử dụng crack ít nhất một lần, 0,5% đã sử dụng crack trong năm qua, 0,2% đã sử dụng crack trong tháng qua.


Lứa tuổi sử dụng nhiều nhất từ 18-25 tuổi (18% đã sử dụng cocaine ít nhất 1 lần và 2% vẫn đang sử dụng cocaine; 3,8% đã sử dụng crack ít nhất một lần). Mặc dù sử dụng cocaine có tỷ lệ cao nhất ở nhóm người không có việc làm nhưng nó cũng được sử dụng ở nhóm người có học vấn và kinh tế xã hội cao.


Tỉ lệ nam giới sử dụng cocaine cao hơn 2 lần so với nữ giới (NIDA, 1991). Ở Pháp, tỉ lệ sử dụng cocaine ở lứa tuối 18-75 là 2% (EROPP 2002); ở lứa tưởi 17-18 là 2,3%, và sử dụng trong tháng qua là 0,9%. Tỉ lệ sử dụng crack ở lứa tuổi 17-18 là 0,9%, và sử dụng trong tháng qua là 0,3% (ESCAPAD 2003, OFDT).


B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:

Cocaine nhanh chóng được hấp thu và chuyển hóa bởi esterase huyêt thanh và ở gan. Thời gian kích thích của nó ngắn, từ 3-45 phút, phụ thuộc vào liều lượng và đường sử dụng. Hiệu quả dược động học đầu tiên của cocaine (liên quan tới hiệu quả trên hành vi của thuốc) do phong tỏa cạnh tranh việc thu hồi dopamine bởi hệ thống vận chuyển dopamine. Việc phong tỏa thu hồi dopamine làm tăng độ tập trung dopamine ở synapse và dẫn tới tăng hoạt tính của receptor D1 và D2, ngoài ra cocaine cũng gây ra ức chế thu hồi catecolamine, norepinephrine và serotonin. Hiệu quả trên hành vi thông qua hoạt tính này, gây tăng cường sự chú ý.


Cocaine làm giảm lưu lượng máu não và sử dụng glucose ở não. Hiệu quả trên hành vi của cocaine hầu như ngay lập tức và kéo dài khoảng 30-60 phút, vì vây cần thiết phải sử dụng lặp lại để duy trì hiệu quả nhiễm độc. Mặc dù hiệu quả của cocaine trên hành vi thì ngắn những chất chuyển hóa của nó có thể tồn tại trong máu và nước tiểu tới 10 ngày.


Cocaine là một chất gây nghiện mạnh, sự phụ thuộc về tâm thần có thể xảy ra sau 1 lần sử dụng bởi vì hiệu quả mạnh của nó có tác dụng củng cố dương tính trên hành vi. Khi sử dụng lặp lại, sự dung nạp và sự nhạy cảm tăng lên, mặc dù sự dung nạp và nhạy cảm hiển nhiên do nhiều yếu tố và không dễ dàng đoán trước. Có sự phụ thuộc về cơ thể, tuy nhiên hội chứng cai của cocaine nhẹ hơn so với hội chứng cai của các chất dạng thuốc phiện


C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

Cocaine thường được sử dụng qua đường hít trực tiếp, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm kết hợp với hút. Hít cocaine ít nguy hiểm hơn tiêm chích và hút cocaine.


Crack là một chất cực kỳ mạnh, là chất tinh chế của cocaine. Nó được bán số lượng nhỏ và sẵn sàng để hút (thường được gọi là rock). Crack gât nghiện rất mạnh, thậm chí chỉ với 1 hoặc 2 lần sử dụng là đã gây thèm muốn mãnh liệt nên người nghiện thường sử dụng bạo lực để có tiền mua crack hút. Biểu hiện lâm sàng có nhiều loại khác nhau (tham khảo trong phần tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc cocaine ở mục sau).


Tác hại phổ biến do sử dụng cocaine đường mũi (hít trực tiếp) làm xung huyết niêm mạc mũi, cũng có thể viêm tấy nghiêm trọng, căng phồng lên, chảy máu, và loét niêm mạc mũi. Sử dụng lây ngày cocaine cũng có thể dẫn đến loét sâu do nhiễm khuẩn mũi. Việc sử dụng free-base (tên đường phố của cocaine chuyển từ dạng muối sang base) và crack có thể gây tổn thương nghiêm trọng phế quản và phổi. Tiêm tĩnh mạch cocaine thường kết hợp với nhiễm khuẩn, tắc mạch, lây truyển viêm gan B, C và HIV. Các biến chứng thần kinh nhẹ như loạn trương lực cơ, tic và đau đầu kiểu migraine. Tuy nhiên biến chứng nặng do sử dụng cocaine là tác động trên mạch máu não, động kinh, tim mạch.


Các tác dụng trên mạch máu não: bệnh mạch máu não phổ biến liên quan tới sử dụng cocaine là nhồi máu não không xuất huyết. Khi có nhồi máu não xuất huyết xảy ra, chúng có thể bao gồm xuất huyết dưới nhện, xuất huyết não, xuất huyết não thất. Có các cơn thiếu máu tạm thời thường kết hợp với sử dụng cocaine. Tất cả những rối loạn mạch não nêu trên thường liên quan tới tác động gây co mạch của cocaine.


Các cơn co giật: gặp khoảng 3-8% trường hợp cấp cứu do cocaine ở các phòng cấp cứu. Cocaine là chất gây nghiện thường gây ra cơn co giật nhiều nhất, tiếp theo đó là amphetamine. Cơn co giật cocaine có nguy cơ cao hơn ở những người cơ tiền sử động kinh, sử dụng liều cao cocaine, sử dụng crack.


Các tác dụng trên tim mạch: nhồi máu cơ tim và ngoại tâm thu thất có thể là những bất thường về tim mạch thường gặp nhất do cocaine. Các bệnh cơ tim có thể xảy ra do sử dụng kéo dài cocaine. Nhồi máu não, nhồi máu tim có thể là những biến chứng gia tăng của rối loạn chức năng tim mạch do cocaine.


Tử vong: sử dụng liều cao cocaine kết hợp với cơn co giật, suy hô hấp, bệnh mạch máu não và nhồi máu cơ tim, tất cả biên chứng vừa nêu trên có thể dẫn tới tử vong ở những người sử dụng cocaine. Những người sử dụng cocaine có thể có các dấu hiệu cảnh báo như ngất xỉu hoặc đau thắt ngực nhưng cũng có thể họ không để ý đến các dấu hiệu này bởi vì họ không thể kìm chế được thèm muốn sử dụng cocaine. Tử vong cũng có thể do sử dụng kết hợp các chất dạng thuốc phiện với cocaine.


D. CHẨN ĐOÁN:

1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng cocaine

Theo tiêu chuẩn chẩn đoán chung ở phần trước (DSM IV).


2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc cocaine

a. Vừa mới sử dụng cocaine.

b. Thay đổi hành vi hoặc tâm lý không thích hợp, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng cocaine (ví dụ khoái cảm hoặc cảm xúc cùn mòn; thay đổi sự hòa đồng, tăng tỉnh táo; tăng nhạy cảm trong quan hệ; lo âu; căng thẳng hoặc cáu giận; hành vi vô nghĩa; giảm sút lý lẽ hoặc giảm sút các chức năng xã hội nghề nghiệp).

c. Có ít nhất 2 trong số các triệu chứng sau, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng cocaine:

  • (1) Nhịp tim tăng nhanh hoặc chậm.

  • (2) Giãn đồng tử.

  • (3) Tăng hoặc giảm huyết áp.

  • (4) Vã mồ hôi hoặc giảm cảm giác lạnh.

  • (5) Buồn nôn hoặc nôn.

  • (6) Sút cân rõ rệt.

  • (7) Kích động tâm thần vận động hoặc chậm chạp.

  • (8) Yếu cơ, suy hô hấp, đau ngực, hoặc mất nhịp tim.

  • (9) Lú lẫn, co giật, loạn động, loạn trương lực cơ hoặc hôn mê.

d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc rối loạn tâm thần khác gây ra.

Đặc trưng nếu kèm theo rồi loạn nhận thức.


3. Tiêu chuẩn chẩn đôán hội chứng cai cocaine

a. Ngừng hoặc giảm mạnh sử dụng cocaine hoặc giảm sử dụng kéo dài

b. Loạn cảm xúc và có ít nhất 2 sự thay đổi tâm lý sau đây, xuất hiện từ vài giờ tới vài ngày theo tiêu chuẩn

  • (1) Mệt mỏi.

  • (2) Ác mộng.

  • (3) Mất ngủ hoặc ngủ nhiều.

  • (4) Tăng khẩu vị.

  • (5) Kích động hoặc tâm thần vận động chậm.

c. Triệu chứng ở tiêu chuẩn b gây ra buồn phiền hoặc giảm sút rõ rệt các chức năng nghề nghiệp, xã hội hoặc các chức năng quan trọng khác.

d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc rối loạn tâm thần khác gây ra.


4. Các rối loạn loạn thần liên quan tới cocaine

Hoang tưởng paranoid và ảo thanh có thể xảy ra ở 50% những người sử dụng cocaine. Việc xuất hiện các triệu chứng này phụ thuộc vào liều sử dụng, thời gian sử dụng và tính mẫn cảm của mỗi cá nhân đối với cocaine. Các rối loạn loạn thần do cocaine thường phổ biến ở những người tiêm tĩnh mạch cocaine và sử dụng crack. Nam giới thường bị nhiều hơn nữ giới. Thường gặp hoang tưởng paranoid và ảo thanh, còn ảo giác xúc giác và ảo thị ít gặp hơn.


5. Rối loạn cảm xúc liên quan tới cocaine

Rối loạn cảm xúc liên quan tới cocaine có thể khởi phát trong giai đoạn nhiễm độc hoặc cai cocaine. Thường gặp hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm trong giai đoạn nhiễm độc cocaine, còn trầm cảm thường gặp trong giai đoạn cai cocaine.


6. Rối loạn lo âu liên quan tới cocaine

Các rối loạn hoảng sợ, lo sợ ám ảnh và ám ảnh cưỡng bức thường gặp trong giai đoạn nhiễm độc hoặc cai cocaine.


7. Rối loạn chức năng tình dục liên quan đến cocaine

Rối loạn chức năng tình dục có thể bắt đầu khi bị nhiễm độc cocaine. Mặc dù cocaine được sử dụng như một thuốc kích dục và như một cách để làm chậm khoái cảm, nhưng việc sử dụng lặp lại chúng có thể gây ra bất lực.


8. Rối loạn giấc ngủ liên quan tới cocaine

Rối loạn giấc ngủ có thể xảy ra trong khi bị nhiễm độc (mất ngủ) hoặc hội chứng cai cocaine (ngủ nhiều).