All posts by admin

LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

BS. Nguyễn Minh Tuấn - Viện Phó Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia

Đơn vị Nghiên cứu Điều trị Nghiện Ma túy

I. VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN
1. Định nghĩa liệu pháp tâm lý
Định nghĩa mở rộng: Liệu pháp tâm lý bao gồm toàn bộ những liệu pháp không sử dụng các nhân tố lý hóa mà sử dụng các phương tiện và kỹ thuật tác động tâm lý.
Định nghĩa chính xác hơn (Wolberg): Liệu pháp tâm lý là một cách điều trị sử dụng các phương tiện tác động tâm lý, trong đó một nhà điều trị thiết lập mối quan hệ hành nghề với một hay nhiều bệnh nhân nhằm 3 mục tiêu:
(1) Làm giảm hay mất các triệu chứng hiện có.
(2) Làm thay đổi các tập tính không thích ứng.
(3) Tạo thuận lợi cho nhân các bệnh nhân phát triển hài hòa.

2. Nhu cầu về liệu pháp tâm lý của bệnh nhân nghiện heroin (liên hệ với 3 mục tiêu của Wolberg)
(1) Bệnh nhân nghiện heroin có nhiều biểu hiện tâm thần có thể điều trị có kết quả bằng liệu pháp tâm lý: lo âu, trầm cảm, mất tự tin, không tin tưởng vào gia đình, cộng đồng và thầy thuốc, thiếu động cơ chữa bệnh, từ chối chữa bệnh v.v.
(2) Nghiện heroin là một bệnh tập nhiễm hình thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện thực thi. Tập tính này cần và có thể loại trừ bằng các kỹ thuật khử điều kiện và khử tập nhiễm.
(3) Nhân cách người nghiện thường biến đổi, không còn thích ứng với gia đình và cộng đồng nữa. Biến đổi do cơ chế hóa với các thành viên nghiện khác trong nhóm, do thoát khỏi ảnh hưởng điều hòa của gia đình và bạn tốt. Phải áp dụng các liệu pháp tâm lý thích hợp, bền bỉ mới có thể giúp nhân cách trở lại hoạt động hài hòa như trước khi nghiện

II. CÁC LIỆU PHÁP TÂM LÝ THƯỜNG ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN

Từ xưa đến nay có rất nhiều liệu pháp tâm lý ra đời dựa vào các cơ sở lý thuyết khác nhau nhiều khi mâu thuẫn với nhau. Bà phần tư đầu của thế kỷ 20 đã chứng kiến những cuộc bút chiến liên miên giữa các trường phái về liệu pháp tâm lý. Mãi đến một phần tư cuối của thế kỷ 20, trên cơ sở những kết quả lầm sàng rõ rệt đạt được của từng liệu pháp, đa số các tác giả dần dần theo quan điểm chiết trung và lồng ghép.
Nhà điều trị tâm lý hiện đại tìm hiểu và áp dụng các kỹ thuật có hiệu quả của tất cả các liệu pháp tâm lý chứ không gò bó như trước trong khuôn khổ một liệu pháp mà mình tin tưởng và gắn bó tử lâu. Và khi thực hành, nhà điều trị có thể lồng ghép nhiều liệu pháp tâm lý khác nhau cho một bệnh nhân hay một nhóm bệnh nhân chứ không cứng nhắc chỉ dùng một liệu pháp. Các liệu pháp tâm lý thưởng được lồng ghép để điều trị nghiện heroin bao gồm: liệu pháp nâng đỡ, liệu pháp gia đình, liệu pháp nhận thức, liệu pháp tập tính, liệu pháp tâm lý nhóm, liệu pháp thư giãn luyện tập ..v.v
Trước kia trong liệu pháp tâm lý nhóm nhất là trong cộng đồng điều trị, nhiều tác giả chủ trương không kết hợp với thuốc men. Nhưng hiện nay trong chống tái nghiện đa số tác giả thường kết hợp liệu pháp thay thế methadone hay liệu pháp đối kháng naltrexone. Kết quả thực tế đã minh chứng cho quan điểm này.
Trong bất kỳ liệu pháp tâm lý nào, điều quan trọng bậc nhất là thiết lập được mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân tốt từ đó bệnh nhân sẽ tự nguyện bộc lộ nội tâm và tuân thủ những chỉ dẫn chủa thầy thuốc. Thứ đến là áp dụng liệu pháp nâng đỡ (trấn an, giải thích, hướng dẫn, khuyến khích, lắng nghe v.v) rồi cuối cùng mới áp dụng các liệu pháp tâm lý đặc hiệu.
Sau đây xin lần lượt trình bày các liệu pháp gia đình, liệu pháp nhận thức tập tính và cộng đồng điều trin là những liệu pháp đặc hiệu được quan tâm hàng đầu trong điều trị nghiện heroin ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.

III. LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH
Liệu pháp gia đình cũng như các liệu pháp nhận thức - tập tính, liệu pháp tâm lý nhóm là những lĩnh vực chuyên sâu cần được đào tạo lâu dài về lý thuyết và thực hành mới có thể đem lại kết quả tối đa. Trong hoàn cảnh nước ta, thầy thước chuyên sâu về liệu pháp tâm lý đang còn ít nên ở đây chỉ đề cập đến các nguyên tắc điều trị chuyên sâu và giới thiệu qua các liệu pháp thông thường và giản đơn cho các thầy thuốc không chuyên sâu. Trong liệu pháp gia đình cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đối với nghiện ma túy, có 2 cách tiếp cận được quan tâm nhiều nhất:
- Tiếp cận theo mô hình gia đình hệ thống
_ Tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh

1. Cách tiếp cận theo mô hình gia đình hệ thống
- Gia đình xem như một hệ thống, mỗi thành viên trong gia đình tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ theo quy luật của một hệ thống.
- Gia đình là một nhân tố thúc đầy quá trình nghiện ma túy. Nghiện ma túy thường xuất hiện vào những thời điểm gia đình có vấn đề gây tress (ly dị, ly thân, xung đột, kiện cáo, tai nạn v.v).
- Đối tượng nghiện ma túy tác động trở lại các thành viên trong gia đình, gây các rối loạn về chức năng, ranh giới, trật tự v.v... đặc việt làm mất cân bằng trong sự hằng định nội môi của gia đình.
- Như vậy liệu pháp gia đình nhằm điều trị gia đình như một hệ thống chứ không riêng thành viên nghiện ma túy, phải cùng các thành viên tìm các nhân tố chủ yếu gây mất cân bằng nội môi và tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng này.

2. Cách tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh
- Cách tiếp cận này xem nghiện ma túy là một bệnh và tác động qua lại lâu ngày giữa các thành viên nghiện và các thành viên khác sẽ gây ra nhiều biến đổi về tập tính, về thái độ ứng xử, về nhận thức v.v... mang tính chất bệnh lý (bệnh lý tâm thần là chủ yếu) cho những thành viên khác trong gia đình.
- Các hiện tượng có tính bệnh lý thường gặp:
+ Hiện tượng từ chối: Các thành biên trong gia đình không thừa nhận tính chất tai hại của nghiện ma túy (vợ bảo vệ cho chồng, mẹ bảo vệ cho con).
+ Hiện tượng dung túng: Các thành viên tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên nghiện tiếp tục sử dungh heroin (cho tiền, tránh kiểm tra những việc làm ngoài gia đình của đối tượng, xin cho đối tượng khỏi đến các trung tâm điều trị bắt buộc v.v). Dung túng và từ chối có liên quan chặt chẽ với nhau.
+ Hiện tượng cùng lệ thuộc: Thường là vợ hay mẹ của đối tượng có hiện tượng này. Thành viên gai đình có hiện tượng cùng lệ thuộc chăm lo quá mức cho đối tượng nghiện, tổ chức cuộc sống của mình xoay quanh đối tượng, lơ là đối với thành viên khác và cả đối với bản thân.
Tất cả những hiện tượng nói trên là những trở ngại lớn cho quyết tâm từ bỏ heroin của thành viên nghiện.

3. Các nguyên tắc điều trị chuyên sâu
Liệu pháp gia đình là một loại liệu pháp tâm lý rất khó thực hiện vì phải tiếp xúc riêng với từng thành viên và họp chung với toàn gia đình, phải biết cách làm cho tất cả đều tự nguyện hợp tác, không bỏ cuộc.
Do vậy, nhà điều trị tâm lý:
- Phải biết thu thập thông tin chi tiết từ bệnh nhân và các thành viên gia đình để cấu trúc lại một cách đầy đủ và chính xác trạng thái bệnh lý của bệnh nhân cũng như của các thành viên khác. Từ đó mới đề ra được chiến lược điều trị có hiệu quả.
- Phải phát hiện những nhân tố làm mất cân bằng nội môi xuất hiện trước và sau khi một thành viên bị nghiện.
- Phải khám phá các hiện tượng từ chối, dung túng hay cùng lệ thuộc của các thành viên và đề ra các việ pháp khắc phục (thí dụ: biện pháp tách rời ảnh hưởng giữa thành viên nghiện và thành viên cùng lệ thuộc).
- Phải dần dần đưa thành viên nghiện và các thành viên khác đến chỗ thống nhất thực hiện hợp đồng dài hạn "từ bỏ heroin và chống tái nghiện" với các biện pháp cụ thể và khả thi.
Muốn đạt được các nguyên tắc hay mục tiêu nêu ra ở trên nhà điều trị tâm lý phái sử dụng nhiều phương pháp và kỹ năng tâm lý (không có điều kiện mô tả ở đây).

4. Các biện pháp không chuyên sâu
Các biện pháp này không thực hiện riêng lẻ mà thường kết hợp với liệu pháp methadone hay naltrexone để đạt được kết quả cao. Có thể do thầy thuốc không chuyên khoa tâm thần thực hiện.
a. Trong điều trị ngoại trú tại cộng đồng, đối với mỗi bệnh nhân nghiện heroin, yêu cầu phải có một thành viên gia đình đi kèm. Thành viên này phải chọn trong những người mà bệnh nhân tôn trọng và tín nhiệm.
b. Thành viên gia đình đến mấy lần trong tuần và mỗi lần trong thời gian bao lâu sẽ được quy định thông qua bàn bạc giữa thầy thuốc và thành viên gia đình.
c. Trường hợp đặc biệt trong gia đình có thành viên xung đột sâu sắc với bệnh nhân gây trở ngại cho tiến trình điều trị thì thầy thuốc sẽ dành thì giờ gặp thêm thành viên này.
d. Bệnh nhân và thành viên gia đình phải được thầy thuốc giải thích đầy đủ về:
  • Tác hại của nghiện heroin.
  • Nhu cầu cấp thiết phải sớm được điều trị và điều trị lâu dài.
  • Các điều kiện cần thiết để có thể bỏ hẳn heroin.
  • Các bước trong kết hoạch điều trị.
  • Những điều mà bệnh nhân và thành viên gia đình nhất thiết phải tuân thủ thực hiện.
​đ. Sau kho được giả thích, bệnh nhân và thành viên gia đình phải có đơn tự nguyện xin điều trị và tự nuyện chấp hành nội quy điều trị của Trung tâm.
e. Thành viên gia đình và bệnh nhân được thông báo về các hình thức khen thưởng khi bệnh nhân thực hiện tốt nội quy điều trị và xử phạt khi không thực hiện. Gia đình có phần đóng góp trong các hình thức khen thưởng và xử phạt này.
g. Thành viên gia đình phải thường xuyên thông báo với thầy thuốc về các hành vi không bình thường của bệnh nhân tại gia đình và tại cộng đồng nhất là hành vi sử dụng lại heroin.
h. Thầy thuốc giải thích cho thành viên gia đình về hiện tượng "từ chối", "dung túng" , "cùng lệ thuộc" cũng như các rối loạn trong gia đình (mât tôn ti trật tự, thành viên không thực hiện những chức năng của mình, trở ngại và bế tắc trong tiếp xúc giữa các thành vien v.v) và yêu cầu phát hiện và thông báo đầy đủ các hiện tượng và rối loạn trên.
i. Thầy thuốc cùng thành viên gia đình bàn bạc về kế hoạch giải quyết dần dần từng bước các hiện tượng và rối loạn trên bằng những biện pháp phù hợp với các điều kiện cụ thể của gia đình.

IV. LIỆU PHÁP NHẬN THỨC TẬP TÍNH
Lúc đầu liệu pháp tập tính và liệu pháp nhận thức là hai liệu pháp tâm lý riêng biệt, do những tác giả khác nhau khởi xướng, mỗi liệu pháp được xây dựng trên cơ sở lý thuyết riêng.
Về sau qua quá trình thực hành trong nhiều thập kỷ, đa số tác giả nhận thấy hai liệu pháp này có tác dụng bổ sung cho nhau và có thể kết hợp chặt chẽ với nhau nên lồng ghép vào nhau và đặt tên chung là liệu pháp nhận thức - tập tính.
1. Liệu pháp tập tính đối với nghiện heroin
Các nhà điều trị tập tính xem nghiện ma túy như là một tập tính lệch lạc hình thành trên cơ sở tập nhiễm trong môi trường xã hội, theo cơ chế phản xạ có điều kiện đáp ứng của Pavlov và phản xạ có điều kiện thực thi của Skinner. Đã là hành vi tập nhiễm thì nghiện ma túy có thể loại trừ băng các kỹ thuật khử điều kiện và khử tập nhiễm.
Từ đó nhiều kỹ thuật tập tính đã được áp dụng có kết quả trong điều trị nghiện heroin ở nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên một nược điểm của liệu pháp tập tính là qua chú trọng vào biểu hiện bề mặt của tập tính lệch lạc và không quan tâm đúng mức đến nhân tố chiều sâu là nguồn gốc nhận thức của rối loạn tập tính. Chính vì thế mà nó cần được liệu pháp nhận thức bổ sung.
2. Liệu pháp nhận thức đối với người nghiện heroin
Các nhà điều trị nhận thức cho rằng mọi tập tính (hay hành vi) đều có mối liên quan mật thiết với quá trình nhận thức. Từ nhận thức sinh ra cảm xúc và từ cảm xúc phát sinh hành vi (hay tập tính). Một ví dụ: một bà nội trợ đang từ nhà đi ra chợ bỗng thấy mây đen kéo trời sinh ra ý nghĩ "trời sắp mưa to" (nhận thức) rồi cảm thấy lo lằng về quần áo đang phơi ở nhà (cảm xúc) và chạy vội về nhà (hành vi).
Tập tính sử dụng heroin cũng như những hành vi lệch lạc trong quá trình điều trị (từ chối, chống đối, bỏ cuộc, sử dụng lại heroin v.v...) cũng thường phát ính từ những nhận thức lệch lạc rất đa dạng/
- Có những ý nghĩ lệch lạc dễ nhận dạng
+ Ý nghĩ lệch lạc tiêm nhiễm qua tiếp xúc với những đối tượng nghiện cùng nhóm.
+ Ý nghĩ lệch lạc do các quá trình tư duy không đúng như: suy luận độc đoán, khái quát hóa quá rộng. trừu tượng hóa chọn lọc, phóng đại hay thu nhỏ quá mức, liên hệ vào mình vô căn cứ v.v...
- Có những ý nghĩ lệch lạc khó nhận dạng nên xem như là tự phát (hay tự động). Thực ra chúng thường xuất hiện có liên quan đến những hoàn cảnh có sang chấn tâm lý nặng nề (xung đột trong gia đình, thái độ xúc phạm của cộng đồng v.v).
Phát hiện những ý nghĩ lệch lạc nói trên, đặc biệt những ý nghĩ lệch lạc tự phát, là mục tiêu chủ yếu của liệu pháp nhận thức.
Còn sửa chữa những hành vi sai trái xuất hiện từ những ý nghĩ lệch lạc thì phải sử dụng cả những kỹ thuật  nhận thức lẫn những kỹ thuật tập tính. Đó cũng  là lý do cần sát nhập hai liệu pháp này.

3. Các kỹ thuật nhận thức và tập tính chuyên sâu
a. Các kỹ thuật nhận thức
- Hướng dẫn bệnh nhân phan tích cái hại khi sử dụng heroin.
- Xác định và hướng dẫn bệnh nhân quy kết trách nhiệm nghiện heroin vào bản thân.
- Hướng dẫn bệnh nhân ghi lại hoạt động tư duy hàng ngày, chú trộng đến các ý nghĩ tự phát.
- Hướng dẫn bệnh nhân tưởng tượng những hình ảnh có liên quan đến sử dụng heroin và thay thế dần bằng những hình ảnh tích cực, lạc quan, dễ chịu.
b. Các kỹ thuật tập tính
- Phương pháp gây ghét sợ heroin (dùng kích thích điện hay apomorphine).
- Giải cảm ứng có hệ thống (đối với cảm giác nhớ và thèm heroin).
- Huấn luyện thư giãn luyện tập (của Viện Sức khỏe Tâm thần) nhằm giải lo âu và giải thèm heroin.
- Liệt kê và giám sát hoạt động hằng ngày có dính líu đến heroin.
- Thử nghiệm các ý tưởng lệch lạc (mà bệnh nhân tin là đúng) về sử dụng heroin.
- Lập lại tập tính (hay đóng vai diễn) nhằm loại trừ dân tập tính lệch lạc và hình thành những phương thức ứng xử có hiệu quả.
- Giao làm bài tập ở nhà có nhiều mức độ (thí dụ: các tìm những người bạn mới thay cho bạn nghiện cũ).
- Huấn luyện cách giải quyết những vấn đề khó xử.
- Áp dụng kỹ thuật tăng cường (hay củng cố) dương tính (thí dụ: khen thưởng) và tăng cường âm tính (thí dụ: phê bình, xử phạt).
- Huấn luyện phương pháp khẳng định bản thân (nhằm ứng phó với sự lôi kéo của bạn nghiện trong nhóm).
4. Các phương pháp tâm lý không chuyên sâu
a. Các biện pháp nhận thức
- Áp dụng phương pháp giải thích hợp lý thông dụng và đơn giản nhằm chỉnh lý những nhận thức lệch lạc và bổ sung những nhận thức đúng cho bệnh nhân nghiện heroin
- Giải thích phải hợp lý và có nghĩa là nội dung giải thích phải phù hopwk với các đặc điểm bệnh lý, đặc điểm nhân cách và trình độ tiếp thu của bệnh nhân.
- Tùy trường hợp có thể giải thích riêng cho một bệnh nhân hay giải thích cho cả nhóm trong buổi sinh hoạt chung.
- Nội dung giải thích có thể đề cập đến những vấn đề như:
+ Tác hại nhiều mặt của nghiện heroin.
+ Có thể từ bỏ hẳn heroin và những điều kiện để từ bỏ hẳn.
+ Những nguyên nhân thường gây trở ngại cho việc  từ bỏ hẳn heroin.
+ Vai trò quyết định của bản thân bệnh nhân trong quá trình từ bỏ heroin (ý muốn từ bỏ, quyết tâm từ bỏ và kiên trì từ bỏ).
+ Những ý tưởng lệch lạc (mà bệnh nhân tin là đúng) có liên quan đến nghiện heroin và điều trị nghiện heroin.
b. Các biện pháp tập tính
- Áp dụng liệu pháp thư giãn luyện tập (có thể tham gia tập luyện tại Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai).
- Giao cho bệnh nhân thực hiện bài tập ở nhà (thí dụ: tập các giai đoạn tìm bạn mới dể thay thế bạn nghiện cũ, tập các trả lời trước sự lôi kéo của bạn nghiện cũ).
- Áp dụng phương pháp tăng cường dương tính (thí dụ: khen thưởng trong sinh hoạt nhóm) và tăng cường âm tính (thí dụ: phê bình hay xử phạt trong sinh hoạt nhóm) nhất là đối với những người sử dụng lại heroin.
- Thảo luận nhóm về cách giải quyết những khó khăn có liên quan đến nghiện heroin.

V. PHƯƠNG PHÁP CỘNG ĐỒNG ĐIỀU TRỊ
Phương pháp (hay chương trình) cộng đồng điều trị được phân loại vào nhóm tự giúp nhau (self - help group) chứ không xếp vào nhóm liệu pháp tâm lý đích thực và đặc hiệu vì vai trò chủ yếu ở đây là các bệnh nhân tự tác động qua lại với nhau còn thầy thuốc không có vai trò gì hoặc chỉ có vai trò tư vấn ẩn.
Chương trình cộng đồng điều trị đầu tiên do Deiderich khởi xướng vào cuối năm 1954.
1. Cơ sở lý thuyết của phương pháp
- Bệnh nhân nghiện ma túy được xem như là những nhân cách chưa trưởng thành và có tập tính xâm phạm.
- Do đó cần được đưa vào một tổ chức có cấu trức và hoạt động chặt chẽ nhằm động viên khía cạnh tích cực của nhân cách để biến đổi tập tính tai hại (sử dụng chất ma túy).
2. Chỉ định điều trị chính
- Những bệnh nhân nghiện ma túy mà nhân cách còn có khía cạnh tích cực, đã được điều trị bằng các phương pháp khác nhưng không có kết quả.
3. Mục tiêu điều trị
- Rèn luyện nhân cách và biến đổi nếp sống/
- Đề cao tinh thần trách nhiêm đối với cộng đồng.
- Khai thác và tằng cường các khía cạnh hướng thiện của bệnh nhân.
- Xây dụng dần và củng cố quyết tâm từ bỏ chất ma túy.
4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
- Bệnh nhân tự nguyện xin vào sống trong cộng đồng từ 6 đến 18 tháng.
- Điều khiển chương trình là những bệnh nhân cũ đã điềut trị thành công tại cộng đồng điều trị này và tự nguyện ở lại phục vụ.
5. Sinh hoạt và hoạt động
- Các thành viên của cộng đồng điều trị phải tham gia các dịch vụ phục vụ đời sống của cộng đồng.
- Còn phải tham gia các hoạt động phục hồi chức năng tâm lý xã hội và các sinh hoạt nhóm trong cộng đồng.
6. Nội dung sinh hoạt nhóm
- Sinh hoạt nhóm mang tính chất đối đầu: phân tích và phê phán những tập tính và thái độ sai trái của các thành viên trong cộng đồng.
- Đối đầu nhưng vẫn phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Thông cảm với hoàn cảnh của nhau.
+ Biểu hiện tình cảm thân thiết như những người trong cùng một gia đình.
+ Luôn tôn trọng nhân cách và tự do cá nhân của các thành viên khác.
+ Bảo đảm sinh hoạt vật chất đầy đủ.
- Nghiêm cấm
+ Dùng lại chất ma túy.
+ Gây gổ hay xâm phạm thành viên khác.
+ Nếu vi phạm sẽ phải chịu kỷ luật do tập thể bỏ phiếu (từ phê bình đến loại trừ ra khỏi cộng đồng).
- Các thành viên tự điều khiển chương trình, không có vai trog của thầy thuốc. Nếu có, chỉ là vai trò tư vấn ẩn phía sau.
- Không sử dụng các liệu pháp sinh học.
7. Kết quả điều trị của phương pháp này trong thời kỳ đầu
+ 90 ngày đầu: 50% bỏ cuộc.
+ 6 tháng đầu: 70% bỏ cuộc.
+ 12 tháng đầu: 90% bỏ cuộc.
8. Các cải tiến gần đây
- Chính phủ nhiều nước áp dụng chính sách mền dẻo đối với các đối tượng vi phạm pháp luật nhẹ: nếu đến điều trị tại các cộng đồng điều trị khỏi bị giam; nếu điều trị khỏi thì được trở về nhà không phải chịu án hình sự.
- Nhiều cộng đồng điều trị không áp dụng phương thức đối đầu cứng rắn nhất là đối với thanh thiếu niên.
- Do vậy, hiện nay chương trình cộng đồng điều trị vẫn tồn tại ở nhiều nước, số người xin vào ngày càng tăng, số người bỏ cuộc ngày càng giảm.
- Ở nước ta, phương thức điều trị bắt buộc tại cái trung tâm Lao động thương binh và xã hội có một số điểm gần gũi với chương trình cộng đồng điều trị, có thể nghiên cứu mô hình này nhằm cải tiến tổ chức và phương pháp điều trị để kết quả đặt được cao hơn.

VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC CÓ TÁC ĐỘNG TÂM LÝ
Thông tư liên bộ Y tế Lao động thương binh xã hội còn đề cập đến một số phương pháp sau đây cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các bệnh nhân nghiện heroin cần được tham khảo áp dụng:
- Liệu pháp tâm lý tập thể (giáo dục phục hồi hành vi, nhân cách).
- Liệu pháp tâm lý nhóm (trao đổi tâm tư thắc mắc giúp nhau sửa chữa sai lầm).
- Liệu pháp tâm lý cá nhân (hoạt động tư vấn cho từng bệnh nhân).
- Chính phủ nhiều nước áp dụng chính sách mền dẻo đối với các đối tượng vi phạm pháp luật nhẹ: nếu đến điều trị tại các cộng đồng điều trị thì khỏi bị giam; nếu điều trị khỏi thì được trở về nhà không phải chịu án hình sự.
- Nhiều cộng đồng điều trị không áp dụng phương thức đối đầu cứng rắn nhất là đối với thanh thiếu niên.
- Do vậy, hiện nay chương trình cộng đồng điều trị vẫn tồn tại ở nhiều nước, số người xin vào ngày càng tăng, số người bỏ cuộc ngày càng giảm.
- Ở nước ta, phương thức điều trị bắt buộc tại các trung tâm Lao động thương binh và xã hội có một số điểm gần gũi với chương trình cộng đồng điều trị, có thể nghiên cứu mô hình này nhằm cải tiến tổ chức và phương pháp điều trị để kết quả đạt được cao hơn.

VII. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC CÓ TÁC ĐỘNG TÂM LÝ
Thông tư liên bộ Y tế Lao động thương binh xã hội còn đề cập đến một số phương pháp sau đây cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các bệnh nhân nghiện heroin cần được tham khảo áp dụng:
- Liệu pháp tâm lý tập thể (giáo dục phục hồi hành vi, nhân cách).
- Liệu pháp tâm lý nhóm (trao đổi tâm tư thắc mắc giúp nhau sửa chữa sai lầm).
- Liệu pháp tâm lý cá nhân (hoạt động tư vấn cho từng bệnh nhân).
- Liệu pháp lao động, dạy nghề, tạo việc làm.
- Tổ chức thể thao thể dục, vui chơi giải trí.

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TRẺ VÀ GIA ĐÌNH

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TRẺ VÀ GIA ĐÌNH

Jean-Paul Roussaux: Giáo sư, Trưởng khoa Tâm lý bệnh học Bệnh viện Đại học Saint Luc Bruxelles

Luôn luôn nguy hiểm khi định giải thích chung chung các hiện tượng đặc biệt, nhât là trong lĩnh vực nghiện ma túy. từ một kinh nghiệm lâm sàn ở Bỉ, đối chiếu với y văn khoa học của Bắc Mỹ, có thể nói điều gì để làm sáng tỏ một tình huống trong một thành phố lớn ở Đông Nam Á? Chắc chắn là, mô hình về nguyên nhân dùng trong y tế cộng đồng giúp chúng ta biến đổi các ý muốn theo thông số dù liên quan đến chủ thể (người nghiện), đến tác nhân (sản phẩm sử dụng), và môi trường (xã hội loài người). Cũng vậy, các cấu trúc gia đình Châu Âu cũng tham gia vào cùng các mô hình. Các hoàn cảnh kinh tế hoặc xã hội ít nhiều thuận lợi chỉ có thể làm tăng thêm cường đôh các yếu tố nguy cơ của các gia đình này.Chúng ta sẽ xem xét chi tiết khái niệm chình về nghiện ma túy ở tuổi thanh thiếu niên đến tuổi trưởng thành, sự tự chủ hóa cũng như các biến đổi của nó quyết định tính chuyên biệt của thể lâm sàn cũng như sự đáp ứng với trị liệu thích hợp.Quá trinh điều trị nhằm giúp hội nhập xã hội - về mặt cá nhân (bằng tình yêu) cũng như số đông (bằng việc làm). Trong lĩnh vực nghiện ma túy, vấn đề "tái hội nhập" trước hết phải trải qua sự hội nhập của gia đình gốc, tạo ra một sự đầu tư xã hội (tình cảm và nghề nghiệp) trong chiều hướng một sự hội nhập ban đầu của thiếu niên trong xã hội.Trong báo cáo của chúng tôi, chúng tôi sẽ lần lượt xem xét khái niệm tự chủ hóa, nạn nghiện ma túy như là "thời thơ ấu kéo dài" và ba ví dụ về các tổng thể xã hội - gia đình thường gặp trong gia đình nghiện ma túy. Tiếp theo chúng tôi đã xem xét nhu cầu điều trị và các thể thức chăm sóc trước khi đưa ra kết luận.


Khái niệm tự chủ hóa

Freud đã nói rằng tình yêu và công việc tạo thành hai trụ cột của sức khỏe và tâm thần. Hai chiều hướng này của con người sẽ giúp chúng ta lượng giá sự tự chủ hóa. Tự chủ có nghĩa là quyền lực riêng tư, sự hình thành và sự xác định thân nhân riêng. Được tự chủ có nghĩa là chính mình nhận trách nhiệm, có khả năng quản lý cuộc sống của mình, là đảm bảo thân nhân của mình và sự liên tục của nó, duy trì các giới hạn và xác định sự khác biệt. Như vậy, người tự chủ là người tự chỉ huy, tự tạo ra quyền lực để có thể vạch ra và tôn trọng các giới hạn của mình, phát họa phạm vi hành động, suy nghĩ và lời nói. Giai đoạn đặc biệt, đánh dấu sự chuyển từ tuổi thiếu niên đến tuổi trưởng thành, chịu ảnh hưởng của nhiều sự bất ngờ và thể hiện một vùng xáo trộn trong đó có sự bùng nổ nhiều bệnh lý cho thấy sự mất khả năng vượt qua giai đoạn này. Mô hình phức tạp nhất và được phân hóa tốt nhất của giai đoạn chuyển tiếp này được đề xuất bởi H.Stierlin. Mô hình này đặc biệt thú vị đối với chúng ta vì nó sử dụng một sự hiểu biết phân tích các hiện tượng gia đình, như vậy đi theo lộ trình riêng của tác giả (Stierlin, 1975).


Stierlin trình bày 3 quan hệ mô tả trò chơi liên kết các lực hướng tâm và ly tâm thúc đẩy cuộc sống gia đình. Khi các lực hướng tâm chiếm ưu thế, những người trẻ vẫn bị gắn chặt ở nhà, chỉ ràng buộc ít quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi. Họ chứng tỏ hoàn toàn tập trung tinh thần vào chính họ hoặc cha mẹ họ. Stierlin phân biệt các mối liên kết ở cái ấy (ca) (cái đó: xúc cảm), ở tôi (bản ngã: nhận thức) và trên tôi (siêu ngã: trung thành). Khi các lực mạnh và tác động theo hai hướng đối ngược nhau, người ta nhận thấy một "sự ủy quyền" của người thanh niên hướng về phía ngoài, được ủy quyền cho một sứ mạng bởi cha hoặc mẹ. Khi các lực ly tâm ưu thế, sự ra đi sẽ rất sớm, thường vội vàng, với sự trung thành yếu ớt và cuối cùng là sự tự chủ giảm sút (bệnh cảnh của nhân cách bệnh xã hội). Đối với Stierlin, những người trẻ tuổi sử dụng ma túy biểu hiện một ví dụ điển hình về một quan hệ cảm xúc quá mức: ở ngoài gia đình, những người này không tìm được những người cùng trang lứa để thắt chặt một quan hệ tình cảm thực sự. Do đó họ sẽ đi tìm những người khác chấp nhận những đòi hỏi thoái lui của họ. Các chất ma túy thể hiện những con đường vạch ra sẵn để thoát khỏi thế đôi ngả là từ giã gia đình và thắt chặt các quan hệ xã hội.Đối với chúng tôi, từ quan điểm xã hội và gia đình, 3 nhiệm vụ cần được hoàn tất và thể hiện sự đặt được tự chủ:


1. Công việc:

Sự độc lập tài chính được đảm bảo bằng một công việc được trả lương, sau khi có bằng cấp hoặc đặt được sự học nghề. Không thể nói đến độc lập thực sự nếu không có độc lập tài chính - nghề nghiệp - "công việc bên ngoài" được xem như là dấu hiệu hòa nhập xã hội, đôi khi tối thiểu, một khả năng quan hệ đối với những người chủ, các đồng nghiệp (cùng trang lứa), những người dưới quyền.


Sự không hội nhập trong môi trường làm việc, ngoài các hoàn cảnh kinh tế ngoại lệ, trái lại minh chứng cho một khó khăn về quan hệ.


2. Tình yêu:

Cuối thời thiếu niên được đánh dấu bằng một sự thay đổi đối tượng về tình cảm của giới trẻ. Trong khi cha mẹ thể hiện sự đầu tư tình cảm chính cho họ, người thanh niên sẽ chuyển hướng đầu tư này ra bên ngoài và chọn các đối tượng thay thế trong số những bạn bè cũng lứa tuổi. Tiếp theo, trong một sự thắt chặt tình cảm chọn lọc được tạo điều kiện thuận lợi trong nền văn hóa chúng ta, người thanh niên sẽ chọn ngoại hôn một người yêu. Việc chọn ngoại hôn này quyết định sự tạo thành xã hội, nhóm xã hội và xa hơn là một tổ ấm. Sự thất bại sinh ra nhiều bệnh lý, tạo thành trong mọi trường hợp sự lệ thuộc cảm xúc và một sự gắn bó không thích hợp vào cha mẹ kiểu trẻ con. Chúng tôi có thói quen sử dụng thuật ngữ "ràng buộc xã hội" để chỉ hai kinh nghiệm cơ bản này, đó là các hội nhập trong môi trường làm việc và thiết lập tình cảm ngoại hôn bền vững.


3. Khoảng cách:

Nhiệm vụ thứ ba được tạo lập do sự cần thiết có một khoảng cách liên quan đến các nơi sống của các gia đình gốc. Sự xa cách này có thể rất đa dạng, một số người trẻ tuổi chỉ phải thay đổi tầng lầu trong cùng một ngôi nhà, một số khác thay đổi đường phố, khu phố, thành phố, quốc gia và ngay cả lục địa. Khoảng cách được chọn bởi mỗi người thể hiện sự hoạt động về sự trung thành của họ và các mong muốn được giải phóng. Sự phân hóa của bản thân tùy thuộc vào khoảng cách so với gia đình gốc, dù là đạt được bằng các cơ chế nội tâm hoặc bằng sự xa cách về vật lý.


Sự hoàn tất 3 nhiệm vụ này thể hiện một hoạt động tinh thần đáng kể đối với thanh thiếu niên cũng như với gia đình. Stierlin (1975 nhận thấy sự hoàn tất về cảm xúc của sự tự chủ hóa tùy thuộc phần lớn vào sự tin tưởng của cha mẹ về khả năng thực hiện mà con cái họ có được).


Khi sử dụng khái niệm tự chủ hóa này, chúng tôi ý thức được sự khó khăn để định nghĩa phẩm chất chủ quan của một cá nhân so với khái niệm "tích cực". Sự tự chủ cảm nhận dễ dàng hơn sự "mất tự chủ" giống như khái niệm tự do thường liên quan đến sự mất tự do Tâm lý bệnh học, trong cách khía cạnh có lợi nhất, chủ yếu đã đặt ra các khái niệm "tiêu cực": trầm cảm, phân ly, tư duy phân tán. Theo truyền thống, việc khảo sát các điểm yếu và các đường nứt được phát triển bằng bệnh lý chứng tỏ phong phú nhất để khám phá các cấu trúc. Theo nghĩa này, tự chủ hóa phải được nghĩ như là một ý đồ, trong đó người ta chỉ có thể duy trì một mối quan hệ tiệm cận và nó liên quan chủ yếu đến các thiếu sót: ở đây là sự lệ thuộc.


Tần suất về việc sử dụng các thuốc hướng tâm thần trước hoặc sau sự hoàn tất nhiệm vụ tự chủ hóa quyết định hình thức nghiện ma túy. Vả lại đối với một số thanh niên, nghiện ma túy có thể can thiệp làm mất đau khổ sinh ra do chính quá trình tự chủ hóa, được cảm thấy như là chấn thương tâm lý. Dù do bất kỳ nguyên nhân nào, đó là lúc nhờ vào "giải pháp ma túy" đối với hoàn cảnh xã hội - gia đình là quan trọng và sẽ quyết định hình thức nghiện ma túy.


Sau cùng, nguyên nhân của nghiện ma túy chỉ có thể được xem như là do nhiều yếu tố: di truyền, men, gia đình, xã hội, tâm lý bệnh... Các yêu tố nguyên nhân này thường không rõ ràng, khó xác định trong mỗi trường hợp và việc làm sáng tỏ chúng thường không phải là một đòn bẩy điều trị tốt. Ví dụ: có thể chờ đợi gì từ sự hiểu biết về nguy cơ di truyền đối với con cháu của người bị nghiện rượu?


Do đó trong giai đoạn đầu của sự chăm sóc, thường vấn đề nguyên nhân không được đặt ra: không phải các nguồn gốc của bệnh cần được điều trị trước tiên mà chính cơ chế duy trì bệnh này. Điều quan tâm hàng đầu của chúng ta, đó là tổng thể xã hội - gia đình, lượng giá các khả năng hiện có, quá khứ và các tiềm năng.


Nghiện ma túy như là thời thiếu niên được kéo dài

Chúng tôi mô tả ở đây nghiện ma túy của thiếu niên hoặc thanh niên xuất hiện trước khi thực hiện các nhiệm vụ tự chủ hóa và sự có mặt của các ràng buộc xã hội. Giai đoạn thay đổi này, chuyển từ thời thiếu niên sang vị trí người lớn tỏ ra dễ bị tổn thương với mọi loại biến đổi. Sự nhờ cậy quá nhiều vào thuốc hướng thần vào lúc này có tác dụng ngăn cản sự thực hiện các nhiệm vụ để đạt đến sự tự chủ.


Nó có thể làm chậm lại thậm chí hủy bỏ quá trình tự chủ hóa này, nếu nhóm gia đình không sẵn sàng để cho một trong các thành viên ra đi (Haley, 1980) hoặc nếu thanh niên không thể giải quyết các xung đột liên quan đến sự xa cách của mình (Stierlin, 1975). Có một sự tương đồng giữa quan hệ oelip của thanh niên nghiện rượu với người mẹ và truyền thuyết Tristian và Ysenet trong đó đôi tình nhân muốn tin rằng chính bùa yêu đã tạo ra dục vọng và họ không làm gì cả. Cũng như thế, sự hiện diện và sự nhờ cậy có tính lạm dụng vào một thuốc hướng thần cho phép kéo dài mối quan hệ, chỉ rõ một cách chủ quan và không biết gì về sự lệ thuộc vào cảm xúc.


Được sử dụng rộng rãi hơn ma túy, ban đầu rượu được sử dụng không liên tục nhưng nhiều. Say rượu đi kèm theo các hành vi phạm pháp và bạo hành, các giai đoạn mất ý thức cũng thường xảy ra. Loại nghiện rượu này dẫn đến "hư hỏng", thường sử dụng các loại rượu mạnh (ở Bỉ là Whiskey hay Vodka). Theo cách tương tự như dùng Heroin thể hiện sự luân phiên bất hợp pháp lạm dụng các thuốc hướng thần. Vấn đề đặt ra là nghiện rượu ở giới trẻ tương đương với nghiện ma túy.


Người trẻ nghiện ma túy không thể đạt được một trình độ cao học tập hoặc học nghề, cũng không thể tạo ra một quan hệ cảm xúc bền vững. Bị bó chặt trong gia đình gốc mà người ấy lệ thuộc cả về tài chính lẫn cảm xúc. Stanton và Todd đã cho thấy những người nghiện ma túy trẻ, các quan hệ với gia đình gốc là quan trọng như thế nào về tần suất và cường độ so với trong các gia đình thuộc nhóm chứng của các thanh niên không nghiện ma túy cùng tuổi. Hành vi chống đối, được coi là nông cạn, là biến thể đơn giản nhất của sự lệ thuộc. Sự tương đồng hoàn cảnh của thanh niên nghiện rượu và thanh niên nghiện ma túy, đã lôi cuốn sự chú ý của công chúng trong những năm gần đây, dường như chứng minh cho chúng ta thấy thuật ngữ "người nghiện ma túy giả" để chỉ sự nghiện rượu sớm của thanh niên trẻ (Roussaux 1989).


Không bao giờ được giải phóng, bệnh nhân thanh niên trẻ sống trong trạng thái lệ thuộc đối với gia đình gốc và kéo dài tình trạng thiếu niên của họ. Vấn đề đặt ra theo chiều đứng, giữa gia đình và bệnh nhân, không thể tạo ra mối quan hệ với bạn cùng trang lứa và không thể gắn vào môi trường làm việc. Gia đình cố gắng một cách tuyệt vọng tìm kiếm cho thanh niên này một việc làm đơn giản như bảo vệ hoặc làm vườn cho hàng xóm, nhưng cứ thất bại liên tục. Hơn nữa hành vi lệch lạc càng gia tăng thì khoảng trống về tự chủ hóa càng được đào sâu thêm so với lứa tuổi (ví dụ người ta không xin cha mẹ tiền dằn túi khi 25 tuổi). Quá trình này ngược lại với một sự hội nhập động lực trong xã hội: sự chi phối của gia đình trên thanh niên tăng lên, thay vi lúc này họ phải phát triển để hội nhập với xã hội.


Tập trung chủ yếu vào trò chuyện gia đình, sách của J.Haley (1980) đưa ra nhiều chỉ định lâm sàng về các bệnh lý của lứa tuổi này, dẫu rằng phần lớn các ví dụ của ông thuộc lĩnh vực loạn thần. Đôi với tác giả này, vai trò của nhà trị liệu là tái khởi động cơ chế tự chủ hóa bị bế tắc, tái cấu trúc lại gia đình bị rối loạn hoạt động chức năng nghĩa là ấn định phạm vi rõ ràng các kế hoạch được hình thành.


Y văn khoa học tập trung chủ yêu vào đề tài xác nhận có một tâm lý bệnh ẩn dưới nghiện ma túy ở thiếu niên. Tâm lý bệnh này có thể rất đa dạng: trầm cảm, loạn thần kinh, bắt chước, tự điều trị, trạng thái ranh giới, nhân cách bệnh hay cả loạn thần.


Về quan điểm điều trị, đối với một số kinh nghiệm tạo ra việc sử dụng một thuốc hướng thần, ngay cả bất hợp pháp, điều cấp thiết là phải duy trì thanh niên và gia đình trong một cấu trúc chăm sóc, không chuyên biệt, không riêng trong các vấn đề lệ thuộc. Việc thăm khám mở cho vấn đề chung của thanh niên, sẽ không cho phép ta vội vàng xác định nghiện ma túy hoặc nghiện rượu.


Tuy nhiên trong trường hợp chuyên biệt nghiện ma túy hoặc nghiện rượu giả ma túy đã tiến triển nặng, sự cố gắng điều trị, giáo dục và hoàn thiện cảm xúc sễ dựa một cách chọn lọc trên việc hoàn tất các nhiệm vụ tự chủ hóa. Đối với những trường hợp nặng nề nhất khi bệnh nhân và chất gây nghiện đang trong tương quan tan rã, giá phải trả có thể là một sự lưu lại trong một cộng đồng điều trị cần thiết để thực hiện việc cắt đứt với gia đình gốc cũng như để thực hiên chức năng giáo dục với xã hội.


Tổng thể gia đình - xã hội

Giống như nghiện rượu, nghiện ma túy ở thiếu niên là một thảm kịch mà những tác động đầu tiên diễn ra trong bối cảnh gia đình.


Mô hình nguyên nhân tam giác, kinh điển trong sức khỏe cộng đồng cho phép chúng ta xem xét mọi lạm dụng các thuốc hướng thần theo 3 biến số: xã hội trong đó việc lạm dụng xảy ra, tác nhân hoặc sản phẩm được sử dụng, và cuối cùng là cá nhân đặc biệt có liên quan. Trong mô hình này, gia đình có tác động chọn lọc như dải truyền giữa xã hội và cá nhân qua đình xã hội truyền các quy tắc và luật lệ xã hội đến cá nhân. Dĩ nhiên gia đình cũng có khả năng riêng ảnh hưởng về mặt di truyền cũng như tâm lý và xã hội.


Ý kiến của Heinrice Boll, có thích đáng để dự định thiết lập một "chân dung gia đình với người nghiện ma túy không?".


Như chúng ta phác họa ở phần mở đầu, chân dung này thay đổi và tiến triển theo thời gian, cũng như chính việc nghiện ma túy, trong chừng mực là một hiện tượng nhân loại liên quan đến một nơi chốn và một thời kỳ. Như vậy chúng ta hạn chế báo cáo một số tổng thể gia đình - xã hội mà chúng ta thường gặp trong lâm sàng hiện nay.


1. Gia đình thích nghiện

Gia đình con người như một thể chế, di truyền đi một phương thức tổ chức, quyền lực, các liên minh và các cuộc hôn nhân, các luật thừa kế và nối dõi. Việc sử dụng, sử dụng đúng hoặc sử dụng sai các thuốc hướng thần nằm trong các sự truyền mang tính gia đình này.


Các lâm sàng điều có trong số bệnh nhân của họ, một người nghiện heroin mà người cha nghiện rượu nặng hoặc người mẹ bị nghiện thuốc men. Nghiện ma túy khi đó là một chiến lược chọn lựa một cách không cố ý bởi gia đình trong việc giả quyết các xung đột. Trước đây chúng tôi đã báo cáo rằng trong một nhóm 5 cặp (10 người), cha mẹ bị nghiện heroin, 2 nghiện rượu, 6 uống thuốc ngủ mỗi đêm, 8 dùng thuốc giảm đau ít nhất  lần một tuần. Một người cha đã cho chúng tôi nhận xét không quyên này "khi có những vấn đề, một người bình thường sẽ uống say, chỉ có điên mới dùng ma túy". Những cha mẹ này bản thân bị say mê bởi các chất, hoạt động trên sự huyễn tưởng "Tất cả ngay lập tức". "Tất cả ngay lập tức" sau khi đã được dùng làm khẩu hiệu trên các bức tường của thủ đô Paris vào tháng 5/1968 đã không ngừng được dùng trong thương mại hóa các dược phẩm, như là giải pháp tức thì cho các khó khăn hiện có. Không phải chúng ta đang ở vào thời đại vào ngủ ngay lập tức, một loại chốt chặn sinh lý, nhờ vào thế hệ mới các loại thuốc ngủ có thời gian tác dụng rất ngắn sao?


2. Gia đình "cá nhân hóa":

Trong một tạp chí tâm thần Pháp dành một số đặc biệt cho nạn nghiện ma túy, người ta có thể đọc được những lời này của một người mẹ có con gái nghiện ma túy. Mà một đặc điểm của cô ta chỉ gây phiền toái ở nhà "Nó tự giam mình trong phòng, tôi có thể làm được gì? Người ta có thể xâm phạm vào lĩnh vực riêng tư của một ai đó được không? Cần phải ngăn cấm nó làm điều đó không?", bà mẹ của nữ bệnh nhân hỏi. Lĩnh vực riêng tư được tôn trọng dẫu rằng cái chết sẽ đến, phải chăng là hệ biến hóa của một nghịch lý "xã hội cá nhân"; trong đó có sự quyết đinh của mỗi người về những giá trị riêng sẽ trở thành một đòi hỏi tuyệt đối. "Sự riêng hóa đời sống xã hội" được nhận thấy rõ rệt trong các hiện tượng ngày nay như không gia nhập công đoàn (desyndicalisation), sự độc quyền của các sở thích truyền hình hoặc sự giảm các thực hành tôn giáo tập thể truyền thống. Ngày nay, đó là phải tìm vị trí cho mình, xác định mình quyết định, xuất phát từ những tham khảo được bịa ra hoàn toàn bởi con người hay được nhận từ tục lệ hoặc truyền thống. Bất cứ ai cũng phải "sáng tạo thường xuyên ra lịch sử của mình, tự tìm vị trí của mình trong xã hội và nhân thân của mình thay vì được áp đặt trước tiên bởi thần thánh, thiên nhiên hoặc qui chế theo thứ bậc (Ehrenberg 1991)".


Gia đình, dải truyền các biểu tượng xã hội, nguồn của các xác định hợp thành cá nhân, có thể biết được về mặt này mọi loại bất ngờ. Như chúng ta đã nêu, (Roussaux 1989), sự đòi hỏi cá nhân hóa và tự chủ hóa, tạo thành trong lòng một áp lực gia đình mạnh mẽ: thật vậy nó giả định trong các gia đình một khả năng giải thích và tưởng tượng để giải quyết sự chờ đợi một định nghĩa mới về các vai trò gốc (Haley 1980). Sự điều chỉnh này đòi hỏi nhiều năng lượng hơn vì sau cùng là khả năng quan hệ cần thiết trong một xã hội mang nhiều truyền thống.


Một lần nữa, thuốc hướng thần có thể cầu cứu đến để làm giảm các căng thẳng do các đối đầu và các nghiên cứu này lạc vào những vai trò mới. Đôi khi chất độc tạo ra ảo tưởng về một sự giả độc lập (Staton 1982) và như thể ngăn cản một sự giữ khoảng cách thật sự. Nghiện ma túy khi đó mới đúng ra là tạo thành một cái thắng cứu nạn trên đường trượt chóng mặt của sự cá nhân hóa.


Đó là những gia đình bị nhấn chìm trong "sự thiếu thốn", không có khoảng cách so với các đòi hỏi của xã hội, không có sự tiên nghiệm trong thế giới của họ, phân định một vị trí hoàn toàn không chủ quan với đứa trẻ, dù rằng bề ngoài hầu như có một sự tôn sùng "khoảng riêng tư" đucợ chuyển thành không gian khủng khiếp. Được xem như kẻ tiêu thụ, người nghiện ma túy sẽ liều thân nếu mối quan hệ với đối tượng bị mất đi: "nếu mày không nghiện, mày sẽ không là gì cả". Mỗi nhà có người nghiện ma túy đã trên một lần nghe các cha mẹ thú nhận là họ đã thường có suy nghĩ là con họ bị chết hơn là bị nghiện ma túy.


3. Gia đình mù:

Giống như người mẹ không muốn can thiệp mặc dù biết tất cả, có một loại tri thức khác đối với các gia đình, nhưng có tính chất vô thức, tiếp sau một sự dồn nén mà tính chất có thể là loạn thần kinh. Mặc dù những lời kêu gọi giúp đỡ trực tiếp và gián tiếp, những kim tiêm kéo dài, những vẻ mặt nhợt nhạt, những dấu chích, tiền bạc mất đi, một số cha mẹ không "muốn" biết. Đứa con khi đó phải "tăng thêm tiền đặt" đáp ứng sự tăng liều, nhưng điều này đưa đến nguy cơ cho cuộc sống của chính nó. Sự không biết này góp phần làm chậm trễ mọi sự can thiệp trong tình huống nghiện ma túy, làm cho tiên lượng xấu đi.


4. Gia đình được cứu:

Thanh niên nghiện ma túy được chỉ định để đảm nhận sự cứu giúp đối với cha mẹ trong cơn khủng hoảng: bằng "sự hy sinh" của mình, giúp cho gia đình, đặc biệt là cha mẹ, quên đi sự bất hòa và các mâu thuẫn đang đe dọa sự gắn bó của họ. Thông điệp vang rền của thanh niên nghiện ma túy có thể tóm tắt như sau: "Hãy quên đi những vấn đề của cha mẹ và cha mẹ hãy chăm sóc con". Khi nào có một sự rối ren khi nghiện ma túy, các vấn đề của vợ chồng sẽ được gác sang một bên.


5. Gia đình nô lệ:

Thanh niên nghiện ma túy trở thành người chủ tuyệt đối của gia đình. Do sợ làm gia tăng tình trạng của con, cha mẹ sẵn sàng nhượng bộ tất cả, như họ phải tự đi mua ma túy ở chợ đem cho con, miễn là con khỏi bỏ nhà ra đi. Một tình trạng tương tự về sự toàn quyền của anh thanh niên cũng thường gặp trong các gia đình có bệnh nhân chán ăn.


6. Đứa trẻ con kéo dài:

Giống như tình trạng chậm phát triển tâm thần hoặc bệnh thực thể nặng, việc nghiện ma túy có thể "đảm bảo" sự bế tắc trong gai đình gốc của trẻ mang triệu chứng. Sự tự chủ hóa được những người chủ chốt xem như là không nghĩ tới  được và hiện trạng được tạo ra, tôn trọng sự bình ổn gia đình. Khi đó, người nghiện ma túy không thể chết cũng không được chữa lành, họ phải còn là người bệnh và cuộc sống gia đình cứng nhắc sẽ xoay quanh người này.


Yêu cầu điều trị

Về cơ cấu, yêu cầu chăm sóc có thể có ba nguồn gốc: chính từ người nghiện, gia đình người nghiện hoặc một người thứ ba. Ví dụ: một người bạn, nhà trường, tòa án, cảnh sát...


Yêu cầu bởi người nghiện cần sự đánh giá kỹ lưỡng tình huống tự chủ của người này đối với gia đình. Trái với những điều mà Staton và Todd đã nghĩ năm 1982, ngày nay không nên tiếp xúc với gia đình người nghiện một cách hệ thống. Tiến triển về mặt dân số học của nghiện ma túy cũng làm chúng ta liên quan đến những thanh niên trr tham gia đều đặn vào môi trường làm việc và độc lập một cách phù hợp với gia đình gốc về mặt cảm xúc, trong một tình huống tương tự với những người nghiện rượu "truyền thống" ở Châu Âu.


Đối với những thanh niên trẻ nghiện ma túy, sẽ không nên kêu gọi gia đình lần nữa vì có nguy cơ phủ nhận công việc tự chủ của họ. Yêu cầu của họ phải được lắng nghe như yêu cầu của cá nhân và cần được đối xử như thế, giống như yêu cầu của một cá nhân được chăm sóc vì bị một bệnh loạn thần kinh hoặc trầm cảm hoặc một bệnh nghiện rượu kết hợp, thường gặp ở tuổi người lớn (Roussaux 1996).


Rủi thay, mặc dù gặp nhiều hơn ngày nay, loại người nghiện ma túy có trách nhiệm và tự giác, chỉ chiếm một thiểu số những người đến khám bệnh.


Ngay cả khi đến một mình, người nghiện ma túy phát hiện nhanh chóng những người nhà, có thật hay tưởng tượng, thúc đầy mình hoặc theo mình. Khi ấy yêu cầu của anh ta trở thành yêu cầu của người khác, người khác này không nghiện ma túy (thường là gia đình), để chăm sóc anh ta, người nghiện ma túy. Khi ấy cần phải tiếp xúc gia đình và thiết lập bối cảnh phức tạp của các tương tác, để đặt lại người thanh niên trong các điều kiện thực hiện có thể được sự tự chủ của anh ta.


Ngược lại, các nhà trị liệ có thể nhanh chóng thực hiện dù rằng người thanh niên lệ thuộc vào tài chính và tình cảm gia đình mình, gia đình này không muốn tham gia vào một chương trình điều trị được sắp xếp hoặc tái thích ứng người thanh niên nghiện. Bài báo nổi tiếng của Stanton và Todd "Đưa những gia đình đề kháng vào điều trị" (1982) nói rõ 24 nguyên tác để lôi cuốn gia đình vào hóa trị liệu gia đình.


Tình huống hoàn toàn khác nếu chính gia đình đó gừi đến chúng tôi điều mà trong trung tâm sức khỏe tâm thàn không phải là một tình huống hiếm gặp. Khi đó, cần xem xét như cầu của gia đình theo đúng tên riêng và áp dụng theo các người nghiện rượu (Roussaux 1989).


Đặc biệt, nên chú ý duy trì sự phân định về thế hệ, ngay cả việc thiết lập lại các lứa tuổi, đặc biệt trong các cặp ly thân hoặc các gia đình tái lập lại.


Quá trình của sự tự chủ hóa chỉ có thể bắt đầu lại khi gia đình có thể cho phép người con của họ ra đi trên con đường riêng của mình.


Sau cùng, trong tình huống thứ ba có thể xảy ra đã đề cập ở trên, khi đó là nhu cầu xuất phát từ một người thứ ba, sự hiện diện của gia đình là cần thiết trong phần lớn các trường hợp, đặc biệt trong các giai đoạn hiệu chỉnh, trước khi đề xuất một sự chăm sóc chuyên biệt. Khi đó gia đình sẽ được mời đến như một sự tham khảo ưu tiên về một khó khăn mà người thanh niên gặp phải.


Các thể thức chăm sóc:Chúng ta có thể phân loại các phương pháp chăm sóc các gia đình người nghiện ma túy thành 3 mục: các nhóm nhiều gia đình, các trị liệu gia đình kết hợp và các trị liệu gia đình vắng mặt.


1.Phương thức đầu tiên hầu như chỉ được dùng cho những thanh niên ở lại hoặc sắp ở lại trong một cơ sở chăm sóc, nơi tạo ra mối quan hệ giữa các gia đình này. Hiện nay nhiều nhóm hoạt động ở Bỉ, đặc biệt trong các cộng đồng điều trị.

Chính chúng tôi đã mô tả chi tiết tiến triển của một nhóm như thế nào trong hai năm rưỡi (Roussaux 1982). Lợi ích ở chỗ cha mẹ hiểu biết nhiều hơn về sự điều trị được đề xuất cho người thanh niên, điều này cho phép họ chịu đựng những sự thiếu vắng liên quan đến sự ra đi của đứa con và phối hợp hành động với nơi chăm sóc. Các gia đình khác giúp cho việc khẳng định vị thế cha mẹ của những người lớn này bằng cách cho phép một sự nhận dạng cha mẹ ở bên cạnh.


Các sáng kiến mới đây của nhóm cha mẹ không có nhà trị liệu bắt đầu hoạt động theo kiểu tự giúp nhau (NARCONON) và với chúng tôi dường như đầy hứa hẹn.


2. Gia đình hạt nhân với người nghiện ma túy

Đó là tính huống tạo ra phương pháp quen thuộc của trị liệu gia đình kinh điển. Khó khăn chính cho các gia đình với những người nghiện ma túy đối với chúng tôi dường như là sự dữ dội tột độ trong các trao đổi với sự chuyển thành hành động và sự vắng mặt cố ý của người này hoặc người kia, làm cho các buổi này hết sức lộn xộn và khó quản lý. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, đó là một thể thúc tiếp xúc đúng thời gian (lúc khởi đầy chương trình điều trị) hoặc bố trí gia đình trong gia đoạn cuối của điều trị người nghiện (ví dụ trong giai đoạn cuối của việc lưu lại trong cộng đồng trị liệu).


3. Gia đình hạt nhân không có người nghiện (vắng mặt):

Thường xả ra như thế trong lần tiếp xúc đầu tiên: người mẹ đến hẹn để nói về tình trạng của đứa con nghiện ma túy.Nên đòi hỏi có một sự tiếp xúc với tất cả những người đóng vai trò phị huynh: cha hoặc mẹ, cùng lúc hoặc không cùng lúc nếu họ đã chia tay, ông bà... Đồi khi, một số trị liệu có thể đạt đến sự ngưng sử dụng, chỉ từ khi có các can thiệp về phía cha mẹ, công việc trị liệu luôn luôn phải nhằm tái lập các điều kiện của một sự tự chủ hóa ban đầu có thể được. Như vậy, cố gắng trị liệu lớn nhất sẽ dựa trên sự phân hóa thế hệ, tốt nhất là trong chăm sóc toàn bộ các tác giả của thảm kịch. Nên cố định các ràng buộc xã hội mà công việc và tình yêu đã tạo ra và tạo thuận lợi cho sự tái lập các đầu tư bên ngoài gia đình và như thế tạo ra một khoảng cách, một không gian riêng trong đó một cuộc sống tự lập có thể phát triển. Sự chăm sóc này có thể xem như là theo chiều dọc vì bao gồm đối tượng và gia đình gốc, ngược với sự chăm sóc theo chiều ngang, liên quan đến đối tượng là vợ (chồng), thường được khuyên dùng trong các trường hợp nghiện ma túy lâu hơn. Đối với nghiện rượu mới cũng như nghiện các chất ma túy nặng, khả năng "tàn phế" ngang với một bệnh loạn thần. Do đó, các đòn bẩy trị liệu được dùng phải đủ mạnh để làm lung lay tình huống bệnh lý. Thường thì sự tự chủ hóa sẽ chỉ được thiết lập dựa vào sự sắp đặt trị liệu mạnh mẽ nhất cũng nặng nề nhất của hệ thống thích hợp: cộng đồng trị liệu chuyên biệt hoặc trung tâm ban ngày cho người nghiện ma túy.


Kinh nghiệm riêng về lâm sàng của chúng tối và một nghiên cứu về tương lai của một dân số bệnh nhân lệ thuộc ma túy được nhận ở cộng đồng trị liệu đã thuyết phục chúng tôi rằng công việc của cơ sở điều trị trở nên bấp bênh và mong manh, nếu các cuộc trò chuyện gia đình không đưa đến một sự biến đổi chiều sâu của toàn bộ gia đình. Đặc biệt, dường như đối với chúng tôi hoàn toàn cốt yếu là mỗi thành viên gia đình có thể tìm thất một sự đầu tư hiện hữu khác hơn là lo lắng cho bệnh nhân. Để cho phép bệnh nhân tham gia vào cộng đồng trị liệu cũng như đạt được một tình trạng tự chủ, cần đồng hành và nâng đỡ một các kiên nhẫn các gia đình trong quá trình thay đổi lâu dài này. Công việc này cũng có thể thực hiện ở trung tâm ban này, nếu nơi ở đủ ổn định.


Để kết luận:

Đến với cuốc hành trình này, đối với chúng tối dường như sự chăm sóc các thanh niên nghiện ma túy là một công việc rất phức tạp: chính trong lúc làm giảm nhẹ bất kỳ một "phương thức trị liệu" nào, tốt nhất có thể tiếp nhận người nghiện ma túy bà gia đình trong sựu đặc thù của họ. Một lần nữa, hiệu quả điều trị không đo lường bằng sự thích đáng lệ thuộc vào một kỹ thuật nhưng thể hiện trong một kết hợp cẩn thận các tổng thể gia đình khác nhau ở những thể thức trị liệu sẵn có khác nhau. Sự tự do này chính nó tạo nên một sự biến hóa trị liệu đối lại sự lệ thuộc.


Tài liệu tham khảo:
1. Erhenberg A., Sự tôn thờ thành tích, Calmann-Levy, Paris, 1991.
2. Haley J., Rời khỏi nhà, Mc-Graw-Hill, New-York, 1980, Trad. Franc. ESF, Paris, 1991.
3. Roussaux J.P, Derely M., Nghiện rượu và nghiện ma túy, Deboeck, Bruxelles, 1989.
4. Roussaux J.P, Faoro-Kreit B., Hers D., Người nghiện tại gia đình, Deboeck, Bruxelles, 996, ấn bản lần 2 năm 2000.
5. Stanton M.D, Todd T.C, Trị liệu gia đình của lạm dụng ma túy và nghiện, Guilford Press, New-York, 1982.
6. Stierlin H., Từ phân tâm đến trị liệu gia đình, ESF, Paris, 1975.

LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY


BS. Nguyễn Minh Tuấn

Viện Sức khỏe Tâm thần quốc gia

Đơn vị Nghiên cứu Điều trị Nghiện Ma túy


Liệu pháp gia đình cũng như các liệu pháp nhận thức - tập tính, liệu pháp tâm lý nhóm là những lĩnh vực chuyên sâu cần được đào tạo lâu dài về lý thuyết và thực hành mới có thể đem lại kết quả tối đa. Trong hoàn cảnh nước ta, thầy thước chuyên sâu về liệu pháp tâm lý đang còn ít nên ở đây chỉ đề cập đến các nguyên tắc điều trị chuyên sâu và giới thiệu qua các liệu pháp thông thường và giản đơn cho các thầy thuốc không chuyên sâu. Trong liệu pháp gia đình cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đối với nghiện ma túy, có 2 cách tiếp cận được quan tâm nhiều nhất:
- Tiếp cận theo mô hình gia đình hệ thống
- Tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh

1. Cách tiếp cận theeo mô hình gia đình hệ thống
- Gia đình xem như một hệ thống, mỗi thành viên trong gia đình tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ theo quy luật của một hệ thống.
- Gia đình là một nhân tố thúc đầy quá trình nghiện ma túy. Nghiện ma túy thường xuất hiện vào những thời điểm gia đình có vấn đề gây tress (ly dị, ly thân, xung đột, kiện cáo, tai nạn v.v).
- Đối tượng nghiện ma túy tác động trở lại các thành viên trong gia đình, gây các rối loạn về chức năng, ranh giới, trật tự v.v... đặc việt làm mất cân bằng trong sự hằng định nội môi của gia đình.
- Như vậy liệu pháp gia đình nhằm điều trị gia đình như một hệ thống chứ không riêng thành viên nghiện ma túy, phải cùng các thành viên tìm các nhân tố chủ yếu gây mất cân bằng nội môi và tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng này.

2. Cách tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh
- Cách tiếp cận này xem nghiện ma túy là một bệnh và tác động qua lại lâu ngày giữa các thành viên nghiện và các thành viên khác sẽ gây ra nhiều biến đổi về tập tính, về thái độ ứng xử, về nhận thức v.v... mang tính chất bệnh lý (bệnh lý tâm thần là chủ yếu) cho những thành viên khác trong gia đình.
- Các hiện tượng có tính bệnh lý thường gặp:
+ Hiện tượng từ chối: Các thành biên trong gia đình không thừa nhận tính chất tai hại của nghiện ma túy (vợ bảo vệ cho chồng, mẹ bảo vệ cho con).
+ Hiện tượng dung túng: Các thành viên tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên nghiện tiếp tục sử dungh heroin (cho tiền, tránh kiểm tra những việc làm ngoài gia đình của đối tượng, xin cho đối tượng khỏi đến các trung tâm điều trị bắt buộc v.v). Dung túng và từ chối có liên quan chặt chẽ với nhau.
+ Hiện tượng cùng lệ thuộc: Thường là vợ hay mẹ của đối tượng có hiện tượng này. Thành viên gai đình có hiện tượng cùng lệ thuộc chăm lo quá mức cho đối tượng nghiện, tổ chức cuộc sống của mình xoay quanh đối tượng, lơ là đối với thành viên khác và cả đối với bản thân.
Tất cả những hiện tượng nói trên là những trở ngại lớn cho quyết tâm từ bỏ heroin của thành viên nghiện.

3. Các nguyên tắc điều trị chuyên sâu
Liệu pháp gia đình là một loại liệu pháp tâm lý rất khó thực hiện vì phải tiếp xúc riêng với từng thành viên và họp chung với toàn gia đình, phải biết cách làm cho tất cả đều tự nguyện hợp tác, không bỏ cuộc.
Do vậy, nhà điều trị tâm lý:
- Phải biết thu thập thông tin chi tiết từ bệnh nhân và các thành viên gia đình để cấu trúc lại một cách đầy đủ và chính xác trạng thái bệnh lý của bệnh nhân cũng như của các thành viên khác. Từ đó mới đề ra được chiến lược điều trị có hiệu quả.
- Phải phát hiện những nhân tố làm mất cân bằng nội môi xuất hiện trước và sau khi một thành viên bị nghiện.
- Phải khám phá các hiện tượng từ chối, dung túng hay cùng lệ thuộc của các thành viên và đề ra các việ pháp khắc phục (thí dụ: biện pháp tách rời ảnh hưởng giữa thành viên nghiện và thành viên cùng lệ thuộc).
- Phải dần dần đưa thành viên nghiện và các thành viên khác đến chỗ thống nhất thực hiện hợp đồng dài hạn "từ bỏ heroin và chống tái nghiện" với các biện pháp cụ thể và khả thi.
Muốn đạt được các nguyên tắc hay mục tiêu nêu ra ở trên nhà điều trị tâm lý phái sử dụng nhiều phương pháp và kỹ năng tâm lý (không có điều kiện mô tả ở đây).

4. Các biện pháp không chuyên sâu
Các biện pháp này không thực hiện riêng lẻ mà thường kết hợp với liệu pháp methadone hay naltrexone để đạt được kết quả cao. Có thể do thầy thuốc không chuyên khoa tâm thần thực hiện.
a. Trong điều trị ngoại trú tại cộng đồng, đối với mỗi bệnh nhân nghiện heroin, yêu cầu phải có một thành viên gia đình đi kèm. Thành viên này phải chọn trong những người mà bệnh nhân tôn trọng và tín nhiệm.
b. Thành viên gia đình đến mấy lần trong tuần và mỗi lần trong thời gian bao lâu sẽ được quy định thông qua bàn bạc giữa thầy thuốc và thành viên gia đình.
c. Trường hợp đặc biệt trong gia đình có thành viên xung đột sâu sắc với bệnh nhân gây trở ngại cho tiến trình điều trị thì thầy thuốc sẽ dành thì giờ gặp thêm thành viên này.
d. Bệnh nhân và thành viên gia đình phải được thầy thuốc giải thích đầy đủ về:
  • Tác hại của nghiện heroin.
  • Nhu cầu cấp thiết phải sớm được điều trị và điều trị lâu dài.
  • Các điều kiện cần thiết để có thể bỏ hẳn heroin.
  • Các bước trong kết hoạch điều trị.
  • Những điều mà bệnh nhân và thành viên gia đình nhất thiết phải tuân thủ thực hiện.
​đ. Sau kho được giả thích, bệnh nhân và thành viên gia đình phải có đơn tự nguyện xin điều trị và tự nuyện chấp hành nội quy điều trị của Trung tâm.
e. Thành viên gia đình và bệnh nhân được thông báo về các hình thức khen thưởng khi bệnh nhân thực hiện tốt nội quy điều trị và xử phạt khi không thực hiện. Gia đình có phần đóng góp trong các hình thức khen thưởng và xử phạt này.
g. Thành viên gia đình phải thường xuyên thông báo với thầy thuốc về các hành vi không bình thường của bệnh nhân tại gia đình và tại cộng đồng nhất là hành vi sử dụng lại heroin.
h. Thầy thuốc giải thích cho thành viên gia đình về hiện tượng "từ chối", "dung túng" , "cùng lệ thuộc" cũng như các rối loạn trong gia đình (mât tôn ti trật tự, thành viên không thực hiện những chức năng của mình, trở ngại và bế tắc trong tiếp xúc giữa các thành vien v.v) và yêu cầu phát hiện và thông báo đầy đủ các hiện tượng và rối loạn trên.
i. Thầy thuốc cùng thành viên gia đình bàn bạc về kế hoạch giải quyết dần dần từng bước các hiện tượng và rối loạn trên bằng những biện pháp phù hợp với các điều kiện cụ thể của gia đình.

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY

Nghiện nói chung và nghiện ma túy nói riêng (hợp pháp và bất hợp pháp) do nhiều nguyên nhân phức tạp kết hợp chặt chẽ với nhau gây ra làm cho công tác điều trị và dự phòng gặp nhiều khó khăn và trở ngại.

I. NGUYÊN NHÂN NGHIỆN MA TÚY:
Hiện nay có 3 nguyên nhân chủ yếu thường được nhắc đến:
- Có tác nhân gây nghiện
- Có đối tượng có khuynh hướng lạm dụng các chất gây nghiện
- Có môi trường "gia đình và xã hội thuận lợi".
Ba nguyên nhân này kết hợp chặt chẽ với nhau theo mô hình sai

A. CHẤT GÂY NGHIỆN:

Ngoài những tác nhân gây nghiện đã mặc nhiên tồn tại, trên thế giới ngày càng ra đời nhiều loại chất gây nghiện mới làm cho công tác phòng chống lạm dụng chất gây nghiện đã khó nay càng khó hơn. Công tác triệt phá việc sản xuất, tàng trữ và buôn bán chất gây nghiện cũng diễn biến hết sức phức tạp. Theo báo cáo của cơ quan cảnh sát phòng chống chất gây nghiện, chúng ta mới khám phá thu giữ được khoảng 5%-10% lượng chất gây nghiện hợp pháp tiêu thụ trên thị trường.


Điều này có nhiều lý do:

- Do lợi nhuận quá cao của mặt hàng này nên không ít kẻ vẫn liều lĩnh buôn bán, sản xuất, tàng trữ. Thậm chí chúng lôi kéo gia đình, dòng họ, lợi dụng cả người già và trẻ em vào đường buôn bán chất gây nghiện này. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào, từ mua chuộc các cơ quan chức năng tới việc chống trả quyết liệt khi bị phát hiện. Mặc dù hình phạt dành cho loại tội phạm này rất nghiêm khắc (tử hình) nhưng cũng không ngăn cản được lòng tham của chúng.


- Do đặc điểm địa lý của nước ta thuận lợi cho việc buôn lậu các chất gây nghiện: đó là nước ta nằm cạnh vùng tam giác vàng (Thái Lan, Lào, Miến điện), một trong những trung tâm sản xuất chất gây nghiện lớn trên thế giới. Chúng ta có đường biên giới rất dài và nhiều cửa khẩu trên bộ, trên biển và hàng không với nhiều nước trên khu vực và thế giới, trong khi lực lượng phòng chống chất gây nghiện còn mỏng, trang thiết bị hiện đại còn thiếu, nên chất gây nghiện dễ dàng thẩm lậu vào nước ta.


- Do giao lưu quốc tế mở rộng, du lịch phát triển, mạng lưới thương mại rông khắp, hàng hóa xuất nhập khẩu, trung chuyển ngày càng gia tăng, đòi hỏi thời gian thông quan nhanh làm cho việc kiểm soát chất gây nghiện gặp nhiều khó khăn, nhất là khi chúng ta còn thiếu thông tin chính xác, kịp thời về loại hình tội phạm này.


- Việc toàn cầu hóa là một thuận lợi nhưng cũng là một thách thức to lớn trong công cuộc phòng chống chất gây nghiện. Nhiều loại chất gây nghiện mới không chỉ thâm nhập mà còn được sản xuất trong nước thông gia những chỉ dẫn trên mạng internet quốc tế như các điều chế, cách sử dụng... thậm chí được truyền bá bởi các khách du lịch quốc tế vào nước ta.


Những khó khăn chủ yếu nêu trên của nước ta đồng thời cũng là những khó khăn của các nước khác trên thế giới. Vì vậy đã có nhiều hiệp định song phương và đa phương giữa lực lượng công an nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm hợp lực đấu tranh với loại tội phạm liên quan tới chất gây nghiện. Tuy nhiên, triệt phá đường dây cung cấp chất gây nghiện không hề dễ dàng và đơn giản.


Một thí dụ rõ nhất là Hoa Kỳ: cơ quan phòng chóng chất gây nghiện quốc gia được đầu tư rất nhiều tiền của, phương tiện hiện đại, huy động cả các cơ quan tình báo, thậm chí cả quân đội vào công tác này nhằm triệt phá các trung tâm sản xuất ma túy không chỉ ở trên đất Mỹ mà còn ở các nước hữu quan khác như Colombia, Apganistan, Panama, Mehico... Các chiến dịch này đã thu được nhiều kết quả: phá hủy nhiều trung tâm sản xuất chất gây nghiện, phát hiện và bắt giữ nhiều đường dây buôn lậu chất gây nghiện vào nước Mỹ và các nước khác. Tuy nhiên số lượng người Mỹ lạm dụng chất vẫn không giảm. Theo số liệu dịch tễ của Mỹ [Manual ò Therapeuties for Addictions 1997] có 16% dân Mỹ nghiện rượu (28% ở nam, 8% ở nữ), 8% nghiện ma túy (19% nam, 5% ở nữ), 30%-84% những người nghiện sử dụng rượu cùng với các loại chất khác như cần sa, cocaine, các chất dạng thuốc phiện...


Ở Việt Nam, đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20, chúng ta đã thành công trong việc triệt phá các cánh đồng trồng cây anh túc (cây thuốc phiện) nhưng ngay lập tức heroin tràn vào nước ta và những người nghiện thuốc phiện trước kia nay chuyển sang nghiện heroin (một loại chất được tinh chế từ thuốc phiện) mạnh hơn và nguy hiểm hơn thuốc phiện. Vì vậy chúng ta phải thùa nhận rằng mọi nỗ lực của chúng ta chỉ mới có thể làm giảm được lượng chất gây nghiện trên thị trường chứ chưa thể loại trừ được hoàn toàn chất gây nghiện (mới giảm được cung chứ chưa loại được cung).


Do vậy chủ trương của nhiều nước trên thế giới là đi đôi với giảm cung cần có các giải pháp giảm cầu hữu hiệu, nghĩa là tác động vào những người có nguy cơ cao và đã nghiện từ bỏ việc sử dụng các chất gây nghiện.



B. YẾU TỐ CÁ NHÂN:

Đa số những người bắt đầu đi vào con đường nghiện ma túy ở nước ta phụ thuộc vào lứa tuổi thanh thiếu niên, lứa tuổi của giai đoạn khủng hoảng trong quá trình phát triển tâm lý và hoàn thiện nhân cách.


Thanh thiếu niên có thể đi vào con đường nghiện ma túy do tính tò mò và mạo hiểm của lứa tuổi, muốn thử trải nghiệm những cảm giác kỳ lạ của chất gây nghiện (do bạn bè kể lại) bất chấp sự ngăn cản của gia đình và xã hội, bất chấp những kiến thức tiếp thu về tác hại của chất gây nghiện qua thông tin truyền thông ở nhà trường, gia đình và xã hội cũng như trên các phương tiện thông tin truyền thông ở nhà trường, gia đình và xã hội cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, bất chấp những hậu quả nghiêm trọng mà bản thân cũng nhận thấy ở những người nghiện khác.


Một số thanh thiếu niên sử dụng các chất gây nghiện như một phương thức khẳng định mình, tự cho mình đã trưởng thành, được quyền chọn hành vi độc lập tùy thích.


Những thanh thiếu niên có những vấn đề bất mãn với gia đình và cộng đồng có thể sử dụng chất gây nghiện như một phản ứng chống đối.


Cũng có thể thanh thiếu niên tìm đến chất gây nghiện như một phương thức lẩn tránh khỏi tác động của các stress rất đa dạng trong đời sống hiện đại: stress trong gia đình (mâu thuẫn giữa các thế hệ, cha mẹ bất hòa, ly thân, ly hôn, mất người thân gắn bó với họ, bị bạo lực trong gia đình, bị lạm dụng tình dục, bố. mẹ hoặc anh chị em khác lạm dụng các chất gây nghiện...), stress trong môi trường học tập (thi hỏng, bị thi hành kỷ luật,...), stress trong tình yêu, stress trong công việc...


Một số do yếu tố sinh học và di truyền: thường gặp trong rối loạn liên quan tới rượu được phản ánh qua các nghiên cứu mối liên quan giữa con cái và cha mẹ nghiện rượu, sinh đôi cùng trứng và khác trứng, con nuôi...


Thường gặp nhất và nguy hại nhất trong thời đại hiện nay là thanh thiếu niện sử dụng chất gây nghiện do ảnh hưởng hay áp lực của các bạn đã nghiện trong cùng bằng nhóm theo các qui luật "hoặc đồng hóa theo nhóm hoặc bị loại trừ ra khỏi nhóm". Mà đặc điểm tâm lý của lứa tuổi thanh thiếu niên là không muốn và không thể sống lẻ loi ngoài nhóm.


Một số thanh thiếu niên tìm đến các chất gây nghiện do các trạng thái bệnh tâm lý tâm thần nhất thời hay trường diễn. Thường gặp nhất là các trạng thái lo âu, trầm cảm, rối loạn stress sau sang chấn, tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay nhân cách bệnh lý. Lo âu có thể do thất bại trong cuộc sống, chán nản với hoàn cảnh, không tìm được mô hình lý tưởng để theo... Trầm cảm lúc đầu có thể do các stress gây ra và thanh thiếu niên tưởng nhầm là các chất gây nghiện khác có thể giúp thanh toán được các trạng thái trầm cảm của mình. Và những nhân cách bệnh lý, nhất là nhân cách bệnh chống xã hội, thưởng có khuynh hướng lạm dụng các chất gây nghiện. Và cũng có những người tuy chưa phải là nhân cách bệnh lý nhưng cũng có khuynh hướng lạm dụng chất.


Như vậy thầy thuốc tâm thần có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị nghiện, đặc biệt những thầy thuốc có thể áp dụng được nhiều liệu pháp tâm lý, giúp đối tượng loại trừ ảnh hường của các tác nhân tâm lý đa dạng đã gây ra hay thúc đầy nghiện và/hoặc tái nghiện.



C. YẾU TỐ GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI:

Gia đình, trường học và địa bàn sinh sống (khu phố, cụm dân cư...) chứa đựng nhiều nhân tố có nguy cơ gây nghiện, duy trì nghiện và tạo điều kiện thuận lợi cho tái nghện ma túy.


Môi trường chính là cầu nối hay chất xúc tác cho sự gặp gỡ giữa con người có khuynh hướng nghiện với các tác nhân gây nghiện.


1. Nguyên nhân môi trường gia đình:

Phần lớn thanh thiếu nhiên nghiện ma túy thuộc về các gia đình lơ là trong nhiệm vụ giáo dục, chăm sóc và quản lý con em của mình. Không ít gia đình chỉ biết con em của mình bị nghiện hoặc phạm pháp sai khi chúng có vấn đề với cơ quan hành pháp.


Những gia đình có con em nghiện ma túy thường là những gia đình hoặc không có thái độ phê phán nghiêm khắc với con em khi chúng bắt đầu sử dụng chất gây nghiện hoặc mất cảnh giác cho chúng nhiều tiền để tự do tiêu xài, đua đòi cùng bạn bè hoặc không kiểm tra xem con em mình có sử dụng tiền đúng mục đích hay không.


Đặc biệt nguy hại là những gia đình do sĩ diện hay do nuông chiều con cái không dám thừa nhận với cộng đồng là chúng đã bị nghiện, không dám đưa chúng đi điều trị ở các cơ sở cai nghiện và chịu áp lực thường xuyên phải cung cấp tiền để chúng mua chất gây nghiện.


Một số gia đình bố. mẹ cũng nghiện chất như nghiện rượu, nghiện thuốc lá... Đa số thanh thiếu niên trước khi nghiện ma túy đã lạm dụng rượu hay thuốc lá một thời gian và tiếp sau đó là nghiện chất bất hợp pháp.


Một số gia đình thiếu kinh nghiệm trong giáo dục con cái như thiếu kiên quyết, quá nóng giận hoặc hay trừng phạy không phù hợp với mức độ và hoàn cảnh, sợ con cái tức giận bỏ đi, sợ tan vỡ gia đình... cũng là nhân tố thúc đẩy.


Như phần trên đã đề cập đến, các stress xuất hiện do nội bộ gia đình có nhiều xung đột thường xuyên cũng là nhân tố thúc đẩy con em mình đi vào con đường nghiện chất, được chúng xem như là một phương thức để thoát khỏi bầu không khí căng thẳng, nặng nề phải chịu đựng hằng ngày.


Như vậy trong quá trình điều trị, việc thầy thuốc thiết lập được mối quan hệ mật thiết và thường xuyên với gia đình và người bệnh có tầm quan trọng đặc biệt trong khâu phát hiện và khắc phục nguyên nhân. Nếu tiến hành được liệu pháp đình hệ thống thì kết quả chống nghiện và chống tái nghiện sẽ cao hơn và bệnh vững hơn.



2. Nguyên nhân môi trường xã hội:

Hiện nay có thể nói, chúng ta đang phải sống trong một môi trường xã hội bị ô nhiễm chất gây nghiện: các ổ nhóm và tuh điểm tiêm chích chất gây nghiện vẫn con tồn tại ở nhiều nơi, người nghiện vẫn có thể tìm mua chất gây nghiện tương đối dễ dàng.


Tình trạng này có nhiều nguyên nhân. Cơ chế thị trường và sự tăng trưởng kinh tế nhanh đã kéo theo nhiều biến đổi xã hội cả tích cực lẫn tiêu cực. Sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra, tốc độ đô thị hóa cũng gia tăng nhanh chóng. Trình độ nhận thức của một bộ phận xã hội không theo kịp sự phát triển kinh tế, sự thay đổi của xã hội làm không ít người, không ít gia đình đã bị mất phương hướng, lâm vào khủng hoảng bởi mất cân bằng nội môi.


Mặt khác, các chuẩn mực đạo đức xã hội cũng ít nhiều bị biến đổi, xói mòn. Một nguyên nhân xã hội nữa là việc tôn trọng và thực thi pháp luật chưa được nghiêm túc. Bọn tội phạm liên quan tới chất gây nghiện không ngừng tấn công vào các tầng lớp thanh thiếu niên, nhưng ở nhiều nơi chính quyền và các cơ quan chức năng chưa huy động được sức mạnh toàn dân trong cuộ chiến chống chất gây nghiện.


Hiện nay môi trường học đường từ tiểu học đến đại học đã và đang bị ma túy xâm nhập. Sức ép trong học tập cũng được coi như những stress quá lớn đối với một bộ phận học sinh không theo kịp, làm chúng chán nản và bỏ học và đi đến nghiện chất và các loại tệ nạn khác.


Những nguyên nhân xã hội nêu trên đã làm cho đội ngũ những người nghiện chất ngày càng đông hơn và trẻ hơn.



II. ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY:
1. Nghiện ma túy là một bệnh nguyên phát:

Trước hết các rối loạn liên quan đến lạm dụng ma túy được phân loại vào mục F11 phần các rối loạn tâm thần của bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 của Tổ chức Y tế thế giới (1992) và trong sách thống kê chuẩn đoán các rối loạn tâm thần của hội Tâm thần học Mỹ (1994).


Nghiện ma túy không phải là một bệnh thứ phát sau một bệnh cơ thể hay tâm thần mà là một bệnh nguyên phát do chất gây nghiện gây ra, có 3 nguyên nhân (có chất gây nghiện, con người và môi trường).


Đã là bệnh thì trước tiên cần phải được điều trị. Có điều trị khỏi thì các vấn đề khác mới được cải thiện (sức khỏe, việc làm, quan hệ xã hội...).



2. Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính:

Nghiện ma túy không thể chữa khỏi nhanh chóng được. Môi trường xung quanh còn có khả năng cung cấp chất gây nghiện thì đối tượng còn có nguy cơ tái nghiện và bệnh còn kéo dài (mạn tính). Chỉ khi nào liệu pháp sinh học làm cho hết thèm nhớ và liệu pháp tâm lý phát huy tác dụng, đối tượng rèn luyện có kết quả, có đầy đủ quyết tâm và nghị lực từ bỏ chất gây nghiện suốt đời thì bênh mới có thể xem như khỏi hẳn.



3. Nghiện ma túy là một bệnh tiến triển:

Nghiện ma túy càng để lâu không điều trị thì bệnh tiến triển ngày càng xấu hơn do lượng chất gây nghiện vào cơ thể ngày càng cao gây nghiễm độc mạn tính, gây rối loạn hoạt động chức năng của não, gây rối loạn hành vi, gây suy kiệt cơ thể, mắc các bệnh khác...



4. Nghiện ma túy là một bệnh có thể gây chết người:

Nếu không được điều trị, nghiện ma túy có thể gây tử vong không phải chỉ do tác động của chất gây nghiện vào các cơ quan nội tạng mà còn do những rối loạn tâm thần và hành vi do chất gây nghiện gây ra như tai nạn giao thông, lao động, do hoang tưởng ảo giác chi phối, tự sát, lây nhiễm các bệnh qua đường tiêm chích hoặc quan hệ tình dục không an toàn (HIV, viêm gan B, C, nhiễm trùng máu, tim, phổi...).



5. Nghiện ma túy là một bệnh có thể chữa được:

Nghiện ma túy là một bệnh khó chữa khỏi nhưng vẫn có thể chữa khỏi nếu có chiến lược điều trị thích hợp, đem lại lòng tin cho đối tượng, đưa dần đối tượng đến chỗ quyết tâm sửa chữa (không dùng chất gây nghiện nữa). Ngoài ra nếu có sự động viên giúp đỡ của gia đình và cộng đồng về các mặt (tài chính, việc làm, không kỳ thị...) thì điều trị có kết quả nhiều hơn.



6. Nghiện ma túy khó điều trị do tâm lý từ chối chữa bệnh của đối tượng:

Từ chối chữa bệnh là một đặc điểm tâm lý rất phổ biến của những đối tượng nghiện ma túy. Có nhiều lý do:


- Trước hết đối tượng không muốn và không thể từ bỏ cảm giác sảng khoái do chất gây nghiện đem lại.


- Đối tượng nghiện không chịu đựng nổi những phản ứng của gia đình và cộng đồng, những khó khăn của cuộc sống, tìm cách ngày càng lẩn trốn vào chất gây nghiện, không muốn và không dám điều trị để trở lại thực tại mà đối tượng không thích nghi được nữa.


- Nếu đối tượng cảm nhận được sự dung túng của người thân thì càng từ chối mạnh hơn và dai dẳng hơn.


- Chính sự từ chối chữa bệnh của đối tượng (và sự dung túng của người thân trong một số trường hợp) đã hình thành và duy trì phương thức điều trị bắt buộc ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.



7. Nghiện ma túy tiến triển xấu do hành vi dung túng của người thân:

Người thân ở đây bao gồm các thành viên trong gia đình, bạn bè thân cận và bạn đồng nghiệp của đối tượng nghiện.


Hành vi dung túng là những hành vi giúp cho người nghiện tiếp tục sử dụng chất gây nghiện mà không bị phê phán, lên án hoặc tránh bị rắc rối (phạt) bởi cơ quan hành pháp.


Hành vi dung túng rất đa dạng, bao gồm sử dụng nhiều loại như:


- Gia đình che dấu việc sử dụng chất gây nghiện của con em mình với các cơ quan chức năng theo qui định của pháp luật.


- Gia đình bảo lãnh cho con em mình khỏi phải đi điều trị bắt buộc, khỏi bị truy tố về những hành vi phạm pháp.


- Gia đình không theo dõi, kiểm tra những hành vi có liên quan đến sử dụng ma túy của con em mình, không nghiêm khắc phát hiện và đối chất với những lời nói dối của con em mình, vẫn cung cấp nhiều tiền cho chúng iêu xài.


- Bạn đồng nghiệp che dấu hành vi sử dụng chất gây nghiện của đối tượng ở công sở.


- Bạn thân làm chứng giả cho những lời nói dối của đối tượng.


Như vậy, ta thấy rõ một nhiệm vụ quan trọng của liệu pháp gia đình là phát hiện và giúp sửa chữa những hành vi dung túng của các thành viên trong gia đình có người nghiện ma túy.



III. NGHIỆN MA TÚY KÈM THEO CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:

- Theo DSM IV, ở Mỹ (1991) có 76% nam, 65% nữ được chẩn đoán lạm dụng hoặc nghiện ma túy có thêm một chẩn đoán rối loạn tâm thần.

- Các rối loạn tâm thần khác thường kết hợp với lạm dụng ma túy là: nhân cách bệnh chống xã hội, lo sợ ám ảnh và các rối loạn lo âu khác, trầm cảm nội sinh và tâm sinh.


- Tính chất đồng bệnh lý tâm thần và lạm dụng ma túy thường gặp ở lạm dụng chát dạng thuốc phiện, cocain và marijuana.


- 90% người nghiện ma túy dạng thuốc phiện có thêm một chẩn đoán rối loạn tâm thần: 1/3-1/2 những người nghiện hoặc lạm dụng ma túy dạng thuốc phiện có kèm theo trầm cảm.


- 40% những người lạm dụng hoạc nghiện rượu có đủ tiêu chuẩn chuẩn đoán rối loạn trầm cảm điển hình vào một thời điểm trong cuộc sống của họ.

- 25-50% rối loạn liên quan tới rượu có đủ tiêu chuẩn chuẩn đoán rối loạn lo âu (thường gặp rối loạn lo sợ và hoảng sợ).


- Có một tỉ lệ rất cao các bệnh nhân tâm thần hút thuốc lá: 50% bệnh nhân tâm thần ngoại trú, 70% bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực I ngoại trú, 90% bệnh nhân tâm thần phân liệt ngoại trú. Gần 1/2 doanh số bán thuốc lá hàng năm ở Mỹ (256 triệu USD/ năm) do bệnh nhân tâm thần tiêu thụ.


- Lạm dụng ma túy cũng là một nhân tố thúc đẩy tự sát. Nguy cơ tự sát ở người lạm dụng ma túy cao hơn gần 20 lần so với dân số chung. Khoảng 15% người lạm dụng hoặc nghiện rượu nói họ đã toan tự sát (thường do thiếu trợ giúp tâm lý xã hội, bị các bệnh cơ thể, không có việc làm, sống độc thân). Tỉ lệ tự sát ở người lạm dụng hoặc nghiện chất đứng thứ hai sau tỉ lệ tự sát ở bệnh nhân trầm cảm.


PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY HIỆN NAY

neove.org.vn

PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY HIỆN NAY

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nghiện ma túy là căn bệnh mạn tính của não bộ, khó điều trị và dễ tái phát. Chính vì vậy, điều trị nghiện ma túy cần thực hiện một số bước sau:

  • Giải độc (quá trình mà cơ thể ngừng dung nạp một chất ma túy vào cơ thể)
  • Sử dụng thuốc cai nghiện (đối với thuốc phiện, thuốc lá hoặc nghiện rượu);
  • Đánh giá và điều trị  các vấn đề sức khỏe tâm thần xảy ra: rối nhiễu tâm lý như trầm cảm và lo âu ở người sử dụng ma túy;
  • Can thiệp về nhận thức - hành vi;
  • Theo dõi dài hạn để ngăn ngừa tái phát.

Trong quá trình điều trị cần có một loạt các dịch vụ chăm sóc với một chương trình điều trị phù hợp và theo dõi diễn biến rất quan trọng để thành công. Điều trị bao gồm cả các dịch vụ sức khỏe y tế và tinh thần khi cần thiết. Theo dõi chăm sóc có thể bao gồm các hệ thống hỗ trợ phục hồi cộng đồng hoặc tại gia đình.

Can thiệp nhận thức - hành vi chính là hỗ trợ, giúp đỡ bệnh nhân - người sử dụng ma túy nhận ra:

  • Thái độ và hành vi liên quan đến việc sử dụng ma túy của bản thân;
  • Nâng cao kỹ năng sống lành mạnh và tích cực hơn;
  • Sử dụng một số loại thuốc hỗ trợ cho công tác điều trị nghiện ma túy.

Bệnh nhân có thể điều trị ở các môi trường khác nhau:

1.      Điều trị ngoại trú:

Điều trị ngoại trú là hình thức điều trị bao gồm một loạt các chương trình dành cho những bệnh nhân được nhân viên tư vấn sức khỏe hành vi quản lý, theo dõi và hỗ trợ trong một kế hoạch cụ thể và trình thường xuyên. Hầu hết các chương trình liên quan đến tư vấn thuốc cá nhân hoặc nhóm, hoặc cả hai. Các chương trình này thường cung cấp các hình thức trị liệu hành vi như:

Liệu pháp nhận thức hành vi,  giúp bệnh nhân nhận biết, tránh và đối phó với những tình huống mà ở đó họ có nhiều khả năng sử dụng ma túy;

Liệu pháp gia đình đa chiều – được phát triển dành cho thanh thiếu niên với vấn đề lạm dụng ma túy cũng như những gia đình chịu ảnh hưởng bởi người thân là người sử sụng ma túy và được thiết kế để cải thiện chức năng của gia đình một cách toàn diện để hỗ trợ tốt nhất cho người thân của mình;

Phỏng vấn động lực, tác động làm cho hầu hết người bệnh, người sử dụng ma túy sẵn sàng thay đổi hành vi của họ và tham gia điều trị;

Khuyến khích động lực (quản lý dự phòng), trong đó tăng cường tích cực và khuyến khích từ bỏ ma túy cũng như các chất gây nghiện khác.

Điều trị đôi khi cần chuyên sâu ở lần điều trị đầu tiên, sau đó các bệnh nhân tham gia điều trị ngoại trí mỗi tuần theo lịch đã được sắp xếp. Sau khi hoàn thành điều trị có hiệu quả tích cực, bệnh nhân chuyển sang điều trị ngoại trú thường xuyên, sau đó, dần dần ít thường xuyên hơn và ít thời gian điều trị hơn để giúp duy trì sự phục hồi của họ.

2.      Điều trị nội trú

Loại hình điều trị này đặc biệt phù hợp cho những người có vấn đề nghiêm trọng hơn (ngoài việc lạm dụng chất gây nghiện bệnh nhân còn có nhiều rối loạn tâm lý khác). Các cơ sở điều trị nội trú được cấp phép cung cấp dịch vụ 24 giờ có tổ chức và phương pháp hỗ trợ và chăm sóc đặc biệt, bao gồm cả nhà ở an toàn và chăm sóc y tế. Các cơ sở điều trị tại nhà có thể sử dụng một loạt các phương pháp điều trị, và họ thường nhắm mục đích giúp bệnh nhân sống một lối sống tội phạm tự do không có ma túy sau khi điều trị. Các phương pháp điều trị nội trú bao gồm:

Điều trị nghiện dựa vào cộng đồng, được xây dựng một cách chặt chẽ giữa các chương trình hoạt động trong đó bệnh nhân vẫn có một nơi cư trú, thường từ 6 đến 12 tháng. Toàn bộ cộng đồng, bao gồm cả nhân viên điều trị và những người trong cộng động làm công tác hỗ trợ chính cho những thay đổi, ảnh hưởng của bệnh nhân: thái độ, sự hiểu biết, và các hành vi liên quan đến sử dụng.

Điều trị nội trú ngắn hạn, thường tập trung vào quá trình cắt cơn, giải độc cũng như cung cấp tư vấn chuyên sâu ban đầu và chuẩn bị điều trị trong một môi trường dựa vào cộng đồng.

Cai nghiện tại nhà, cung cấp nhà ở có giám sát, ngắn hạn cho bệnh nhân, thường sau các loại điều trị nội trú hoặc để ở. Phục hồi tại nhà có thể giúp mọi người chuyển đổi sang một cuộc sống tích cực hơn ví dụ như độc lập, biết cách quản lý tài chính hoặc tìm kiếm việc làm, cũng như kết nối chúng để hỗ trợ các dịch vụ trong cộng đồng.

Nghiên cứu khoa học từ giữa năm 1970 cho thấy: điều trị lạm dụng chất gây nghiện có thể giúp những người phạm tội sử dụng ma túy thay đổi thái độ, niềm tin và hành vi đối với việc lạm dụng ma túy; tránh tái phát; và thành công loại bỏ mình khỏi một cuộc sống lạm dụng ma túy và tội phạm. Tuy nhiên, nhiều người phạm tội không có quyền truy cập vào các loại hình dịch vụ mà họ cần. Cách điều trị có chất lượng kém hoặc không tốt phù hợp với nhu cầu của người phạm tội có thể không có hiệu quả trong việc giảm sử dụng ma túy và hành vi tội phạm.

Ngoài những nguyên tắc chung của điều trị, một số cân nhắc cụ thể đến người phạm tội bao gồm:

  • Điều trị bao gồm phát triển các kỹ năng nhận thức cụ thể để giúp người phạm tội điều chỉnh thái độ và niềm tin dẫn đến lạm dụng ma túy và tội phạm, chẳng hạn như cảm giác được có những thứ của một người theo cách riêng hoặc không hiểu biết những hậu quả của hành vi của một người. Điều này bao gồm các kỹ năng liên quan đến suy nghĩ, hiểu biết, học hỏi, và ghi nhớ.
  • Lập kế hoạch điều trị bao gồm tất cả các dịch vụ nhằm chuyển đổi phù hợp với quy trình điều trị cai nghiện dựa vào cộng đồng;
  • Phối hợp tác giữa các nhà cung cấp dịch vụ điều trị lạm dụng chất ma túy và tòa án hoặc viện kiểm soát cũng như các cán bộ quản chế là rất quan trọng trong việc giải quyết những nhu cầu phức tạp của người phạm tội tái nhập xã hội đặc biệt là người phạm tội liên quan đến ma túy; 

Như chúng ta đã biết, lạm dụng các chất gây nghiện (ma túy) sẽ làm thay đổi chức năng của não bộ, có thể “kích hoạt” cơn thèm nhớ trong não của người sử dụng. Điều quan trọng đối với những người đang điều trị, đặc biệt là những người điều trị tại một cơ sở điều trị nội trú hay nhà tù là giúp họ nhận biết được kiến thức tốt, trang bị một số kỹ năng phòng tránh và đối phó với các tình huống nguy cơ sau khi điều trị.

     

Tuy nhiên, nghiện ma túy có thể điều trị được nếu chúng ta thực hiện đúng, đầy đủ các nguyên tắc sau:

  • Nghiện là một bệnh phức tạp nhưng có thể điều trị, tuy nhiên có ảnh hưởng đến chức năng của não và hành vi của người nghiện;
  • Không có phương pháp điều trị duy nhất là đúng cho tất cả mọi người;
  • Mọi người cần phải được cung cấp thông tin nhanh chóng để điều trị;
  • Điều kiện đảm bảo việc điều trị hiệu quả tất cả các nhu cầu của bệnh nhân, không chỉ với người sử dụng ma túy mà bao gồm cả người xung quanh họ;
  • Điều trị cần quá trinh đủ dài là rất quan trọng;
  • Tư vấn và các liệu pháp hành vi khác là những hình thức phổ biến nhất được sử dụng trong điều trị cai nghiện chống tái nghiện;
  • Thuốc thường là một phần quan trọng trong điều trị, đặc biệt là khi kết hợp với các liệu pháp hành vi;
  • Kế hoạch điều trị phải được xem xét thường xuyên và sửa đổi để phù hợp với nhu cầu thay đổi của bệnh nhân;
  • Điều trị phải giải quyết các rối loạn tâm thần khác có thể xảy ra đối với người bệnh;
  • Cắt cơn, giải độc chỉ là giai đoạn đầu điều trị;
  • Điều trị phải là tự nguyện như vậy mới có hiệu quả tích cực và bền vững;
  • Sử dụng ma túy trong thời gian vì vậy điều trị cần phải được theo dõi thường xuyên và liên tục;
  • Chương trình điều trị cho người sử dụng ma túy cần kiểm tra sức khỏe bệnh nhân. Đặc biệt lưu ý đối với người bệnh có HIV/AIDS, Viêm gan B, C, Lao phổi và các bệnh truyền nhiễm khác. Nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm bệnh cho người xung quanh và điều trị hiệu quả.

        Vũ Bền

Theo Drugabuse.gov

SỬ DỤNG LIỆU PHÁP NHẬN THỨC – HÀNH VI TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN

trangtamly.wordpress.com

SỬ DỤNG LIỆU PHÁP NHẬN THỨC – HÀNH VI TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN

Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) trong điều trị nghiện là một dạng phương pháp trị liệu thông qua trò chuyện, dựa trên các nguyên tắc tâm lý học hành vi và các học thuyết về nhận thức. Thuyết hành vi tập trung vào các hành vi hay hành động do một người thực hiện. Học thuyết về nhận thức thì tập trung vào tri giác của con người – những thứ ta nhìn, nghe, cảm nhận, những suy nghĩ và cảm xúc.

Cognitive Behavioral Therapy for addiction, also known as Cognitive Behavior Therapy or CBT for short, is a type of “talk” therapy, based on the psychological principles of behaviorism and theories of cognition. Behaviorism focuses on the behaviors or actions a person takes, whereas theories of cognition focus on people’s perceptions — what they see, hear, and feel, their thoughts, and their emotions.

cbtblue-new

Nguồn: Central London

CBT là một biến thể của liệu pháp hành vi, tập trung vào việc thay đổi hành vi thông qua các tác nhân củng cố tích cực – tiêu cực, thưởng – phạt áp dụng lên các hành vi mà người đó muốn tăng cường hay giảm thiểu.

CBT is a variation of behavior therapy, which focuses on changing behavior through pairing positive and negative reinforcement, or rewards and punishments, with behaviors that the person wants to increase or decrease.

Các trải nghiệm của con người về mặt nhận thức bao gồm tri giác, suy nghĩ, cảm xúc và sự thấu hiểu. Việc thêm phân tích nhận thức vào liệu pháp hành vi dẫn tới sự hình thành của CBT, tức là ta sẽ xem xét cả những suy nghĩ và cảm nhận của con người về hành vi của họ. CBT đặc biệt khai phá các xung đột giữa cái ta muốn làm và cái ta thực sự làm.

The human experience of cognition includes our perceptions, thoughts, emotions and understanding. Adding analysis of cognition to behavior therapy led to the development of cognitive behavioral therapy by taking into account people’s thoughts and feelings about their behaviors. CBT particularly explores the conflicts between what we want to do and what we actually do.

CBT trong điều trị nghiện. Cognitive Behavioral Therapy for Addiction

Nghiện là một ví dụ điển hình về một dạng hành vi đi ngược lại với cái mà người ta muốn làm. Những người đang vượt qua căn bệnh này thường nói rằng họ muốn thay đổi những hành vi đó và có thể họ thực sự muốn ngưng sử dụng rượu, ma túy hoặc chấm dứt các hành vi mang tính ép buộc sử dụng các chất này, gây ra các vấn đề cho cuộc sống của họ. Tuy nhiên, những người này cũng thừa nhận thực hiện được những điều này là cực kỳ khăn.

Addiction is a clear example of a pattern of behavior which goes against what the person experiencing it wants to do. While people trying to overcome addictive behaviors will often say they want to change those  behaviors, and may genuinely want to quit alcohol, drugs, or other compulsive behaviors that are causing them problems, they find it extremely difficult to do so.

Ở CBT, các hành vi nghiện, như uống rượu bia, sử dụng ma túy, bài bạc, mua sắm không kiểm soát, nghiện game, nghiện ăn và các loại hành vi vượt mức khác là kết quả của các suy nghĩ lệch lạc và các cảm xúc tiêu cực kèm theo khác.

According to the cognitive behavioral therapy approach, addictive behaviors, such as drinking, drug use, problem gambling, compulsive shopping, video game addiction, food addiction, and other types of harmful excessive behavior, are the result of inaccurate thoughts and subsequent negative feelings.

CBT giải thích điều này bằng cách điều chỉnh mối tương tác giữa những suy nghĩ và cảm xúc của người bệnh. Các nhà tâm lý học nhận ra rằng rất nhiều người có những suy nghĩ dựa trên các niềm tin sai lệch, phi thực tế hoặc bất khả thi và những suy nghĩ này lần lượt sẽ gây ra các cảm xúc tiêu cực dọn đường cho lo âu, trầm cảm và các bệnh lý như nghiện. Bằng cách ghi nhận một cách có hệ thống các suy nghĩ và các cảm xúc, các sự kiện khiến ta nhớ đến chúng, và kết quả hành vi của các suy nghĩ và cảm xúc này, ta có thể bắt đầu thay đổi các quá trình phá hoại nỗ lực thay đổi hành vi của chúng ta.

Cognitive behavioral therapy explains this by clarifying the way that people’s thoughts and emotions interact. Psychologists realized that many of us have thoughts, based on beliefs that are untrue, unrealistic, or impossible to live up to, and these thoughts, in turn, cause negative feelings which feed anxiety, depression and conditions like addiction. By systematically recording our thoughts and associated feelings, along with the events that trigger those thoughts and feelings, and the behavior that we carry out as a result, we can begin to change the automatic processes that sabotage our efforts at changing our behaviors.

Bằng cách xem xét các kiểu suy nghĩ và cảm xúc thường gặp, ta có thể bắt đầu thay đổi suy nghĩ bằng cách chủ động xem xét hoàn cảnh một cách thực tế hơn, tránh dẫn đến các cảm xúc tiêu cực và chu kỳ lặp đi lặp lại của các hành vi có hại. Áp dụng các phần thưởng cho mỗi hành vi tốt sẽ giúp ta dần dần thay thế các hành vi đó, các hành vi tốt sẽ liên kết tạo ra các cảm xúc tích cực, và rồi mọi thức sẽ tự động diễn ra theo chiều hướng tốt hơn.

By looking at patterns of thoughts and feelings that we repeatedly experience, we can begin to change those thoughts by consciously looking at situations in more realistic ways, that do not automatically lead to negative emotions and resulting cycles of harmful behaviors. By rewarding ourselves for the healthier behaviors we replace those harmful behaviors with, over time, the healthier behaviors become associated with more positive emotions, and become more automatic.

CBT có khả năng theo dõi hành vi rất tốt, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tính hiệu quả của nó trong việc điều trị trầm cảm, lo âu và các bệnh lý khác, bao gồm cả nghiện.

CBT has an excellent track record, with numerous studies demonstrating its effectiveness in treating depression, anxiety and other conditions, including addiction.

CBT trở nên phổ biến cho đến cuối thế kỷ XX, sau đó liệu pháp này được định hình lại và thay thế bởi các liệu pháp hành vi “làn sóng thứ ba”, tập trung nhiều hơn vào chánh niệm, học cách chấp nhận và sống cho thực tại. Một số liệu pháp có thể liệt kê ở đây là Liệu pháp Tiếp nhận và Cam kết (ACT), Liệu pháp Hành vi Biện chứng (DBT), Liệu pháp Nhận thức dựa trên Chánh niệm và Liệu pháp tâm lý Phân tích Chức năng.

The CBT approaches that became popularized towards the end of the 20th century are themselves being refined and replaced by so-called “third wave” of behavior therapy, which focus on mindfulness, acceptance and being in the moment. These approaches include Acceptance and Commitment Therapy (ACT), Dialectical Behavioral Therapy (DBT), Mindfulness-Based Cognitive Therapy, and Functional Analytic Psychotherapy.

Nguồn: https://www.verywell.com/cognitive-behavioral-therapy-for-addiction-21953

Như Trang.

TÚI MA TÚY TIỀN TỶ ĐƯỢC VẬN CHUYỂN BẰNG XE MÁY Ở SÀI GÒN

http://vnexpress.net

TÚI MA TÚY TIỀN TỶ ĐƯỢC VẬN CHUYỂN BẰNG XE MÁY Ở SÀI GÒN

Chặn người đàn ông đi xe máy ở quận Bình Thạnh, trinh sát phát hiện hơn 10 kg hàng đá trong đường dây buôn ma túy từ Campuchia về TP HCM.  

Ngày 28/3, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng cho biết vừa phối hợp cùng Cục cảnh sát ma túy (Bộ Công an), Công an TP HCM phá chuyên án ma túy cực lớn, bắt Trần Xuân Dũng và Trương Minh Thanh (41 tuổi, quê Bến Tre).

tui-ma-tuy-tien-ty-duoc-van-chuyen-bang-xe-may-o-sai-gon

Túi ma túy ban chuyên án thu được. Ảnh: Q.T

Tuần trước, Thanh đi xe máy chở 10 kg hàng đá đến giao lộ Nguyễn Cửu Vân - Xô Viết Nghệ Tĩnh (quận Bình Thạnh) thì bị trinh sát chặn bắt. Ước tính số ma tuý này có giá thị trường nhiều tỷ đồng.

Từ lời khai của người đàn ông này, Dũng bị bắt giữ. Một kg ketamine, 5.000 viên ma túy tổng hợp, gần 3 tỷ đồng... tại nhà kẻ này trên đường Ngô Tất Tố (phường 22, quận Bình Thạnh) được thu giữ.

Theo cơ quan điều tra, đây là đường dây ma túy từ Campuchia đưa TP HCM tiêu thụ sau khi qua các địa bàn Tây Ninh, Long An. Hiện vụ án được mở rộng điều tra.

Hàng nghìn viên ma túy tổng hợp tại nhà Số tiền tỷ cơ quan điều tra thu giữ của nhóm này. Ảnh: Q.T

Hàng nghìn viên ma túy tổng hợp và số tiền cơ quan điều tra thu giữ. Ảnh: Q.T

Với chiến công này, chiều cùng ngày, thiếu tướng Lê Thái Ngọc - Phó Tư lệnh Bộ đội biên phòng - đã thưởng nóng cho các đơn vị tham gia chuyên án