All posts by admin

(BAK) SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỖ TRỢ CHỐNG TÁI NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG NALTREXONE VỚI THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG METHADONE

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỖ TRỢ CHỐNG TÁI NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG NALTREXONE VỚI THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG METHADONE

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

   -  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

   -  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

   + Hấp thu nhanh qua đường uống

   + Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

   * Phân bổ trong các mô và huyết tương.

   * Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexone, chất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

   *Thời gian bán hủy của Naltrexone khoảng 4 giờ.Thời gian bán hủy của  6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thận,nước tiểu.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

   + Hấp thu nhanh qua đường uống

   + Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

   * Phân bổ trong các mô và huyết tương.

   * Chuyển hóa ở gan thông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

   * Thời gian bán hủy của Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thận, nước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày)

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

 

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh  quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.
 

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Không sử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơ gây ngủ gà, đờ đẫn, ngộ độc.

 

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV (Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng của Methadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

BIỂU HIỆN TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

CÁC BỆNH TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

Ma túy là những chất tác động tâm thần, nếu lạm dụng sẽ gây ra cho mình sự lệ thuộc và gây những tổn thương trên hệ thống não bộ.
Tình trạng lệ thuộc ma túy đòi hỏi phải sử dụng ma túy đều đặn như một phương thức sống. Người lệ thuộc bị những biến đổi về khí sắc, cảm xúc cũng như nhận thức do những tổn thương hệ thống não bộ. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn ngay cả sau khi ngưng sử dụng các chất này.

Việc sử dụng ma túy bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: bản thân, gia đình, xã hội. Người nghiện từ sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma túy dẫn đến tình trạng nghiện, gây ra rất nhiều rối loạn về tâm thần, ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Việc điều trị, phục hồi nghiện ma túy bao gồm rất nhiều lĩnh vực y tế, tâm lý, giáo dục, quản lý, …
Người nghiện bị lệ thuộc tâm lý và lệ thuộc cơ thể đối với ma túy, nếu thiếu sẽ thèm muốn tột độ, đòi hỏi phải tái sử dụng để cảm thấy thoải mái.
Khi được cung cấp đủ ma túy - người nghiện ở trạng thái ngất ngây hoặc kích thích mạnh mẽ, giảm bớt đau đớn thân xác, tinh thần, cảm giác khỏe mạnh, yêu đời, …
Bởi tính chất ép buộc phải sử dụng ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh bằng mọi cách trong việc tìm kiếm cho có được ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.
Một phương thức sống như vậy sẽ làm xáo trộn và đảo lộn nhiều giá trị cá nhân cũng như gia đình, xã hội cùng những chức năng tâm sinh lý của bản thân.

Càng sử dụng ma túy càng lâu, hàm lượng càng tăng thì hậu quả càng nhiều và nặng nề bấy nhiêu. Mặt khác, những tác động của ma túy trên bộ não có thể gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn làm cho người nghiện suy giảm khả năng xử lý thông tin, rối loạn nhận thức cũng như thiếu khả năng hiểu biết của đối tượng trong việc hướng đến một cuộc sống lành mạnh.

Xét về mặt hành vi, người nghiện đã phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu. Chính những hành vi ấy ngăn cản đối tượng hoà nhịp với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Người nghiện ma túy không còn đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, cũng như kỹ năng làm việc để sống bình ổn trong một xã hội trật tự. Nói chung, về mặt tinh thần, sức khoẻ, nghề nghiệp, gia đình, xã hội, …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị phục hồi cho đối tượng trở thành khó khăn.
Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.



SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH NGHIỆN MA TÚY


Ngoài trạng thái lạm dụng và lệ thuộc, các hội chứng lâm sàng liên quan đến các chất ma túy có thể gây các phản ứng tâm lý và rối loạn tâm trí thực tổn sau:

I- CÁC PHẢN ỨNG TÂM LÝ:
Các phản ứng tâm lý do sử dụng các chất ma túy phụ thuộc vào:
- Loại ma túy sử dụng
- Liều lượng sử dụng
- Phương thức sử dụng (uống, hút, hít, chích, …)
- Mức độ tác hại còn gồm nhiều yếu tố như: phối hợp nhiều chất ma túy với nhau, ảnh hưởng tính chất sinh lý, nhân cách của người sử dụng ma túy và những tác động bởi bối cảnh gia đình, xã hội …

II- CÁC RỐI LOẠN TÂM TRÍ THỰC TỔN:
Các rối loạn gây ra do tác động của các chất ma túy trên hệ thần kinh trung ương. Đây là trạng thái nhiễm độc và các phản ứng loạn tâm thần do dùng ma túy.

1- TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC:
Thể hiện qua các hành vi như hung dữ, thay đổi phán đoán, biến loạn hoạt động xã hội, rối loạn về tri giác, sự chú ý, sự phán đoán, …

2- LÚ LẪN TÂM TRÍ:
Nặng hơn trạng thái nhiễm độc. Hội chứng lú lẫn hay mê sảng thể hiện bằng các rối loạn chú ý, tư duy, mất định hướng thời gian, không gian và các rối lọan tri giác. Các triệu chứng trên do dùng quá liều các chất ma túy.

3- HỘI CHỨNG HỒI TƯỞNG:
Các triệu chứng này xảy ra đột ngột ngay cả khi người nghiện không dùng ma túy và thường chỉ kéo dài vài giây hay vài phút. Chúng có thể tái diễn ít hay nhiều lần trong ngày. Các triệu chứng này luôn kèm theo phản ứng lo hãi, và có thể xuất hiện sau một lần dùng ma túy nhưng hay xảy ra sau khi dùng ma túy nhiều lần. Các triệu chứng thường gặp nhất là các rối loạn tri giác và nhiều về thị giác.

4- PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN:
Khi đối tượng nghiện nhìn thấy, nghe thấy những hình ảnh, âm thanh gợi nhớ đến những ngày tháng trước đây đã sử dụng ma túy như: rơi vào tâm trạng cũ, gặp bạn cũ, qua nơi hút chích cũ, gặp ống chích, kim chích, nghe bản nhạc cũ mà đã từng nghe trong những lần chơi ma túy…, tự nhiên đối tượng nghĩ đến những khoái cảm ngất ngây của ma túy và tìm mọi cách để sử dụng lại ma túy.

III- TRẠNG THÁI TRẦM NHƯỢC:
Trầm nhược do sử dụng các chất ma túy đã được nghiên cứu nhiều nhất.
Hầu hết những người nghiện ma túy đều bị trầm nhược và ngược lại người bị trầm nhược dễ bị dẫn đến nghiện ma túy.
Trầm nhược và sử dụng ma túy ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Các triệu chứng trầm nhược có thể dẫn đến sử dụng ma tuý, là tiên phát hoặc thứ phát. Trạng thái trầm nhược có thể làm nặng thêm tình trạng lạm dụng ma túy.

IV- TỰ SÁT VÀ CÁC Ý ĐỊNH TỰ SÁT:
Lạm dụng ma tuý đựơc công nhận là nguy cơ hàng đầu của các hành vi tự sát của thanh thiếu niên. Trong số 1824 đối tượng được gởi tới chữa bệnh vì lạm dụng ma tuý, 40,7% có ý tưởng tự sát thường xuyên - từ thấp lên cao (Harrison và Hoffiman, 1987).
Đa số các công trình có sự lên quan giữa tự sát, trầm nhược và lạm dụng ma túy đều đánh giá rằng: lạm dụng ma túy có thể làm trầm trọng thêm trầm nhược và làm cho dễ chuyển sang hành động tự sát.

V- CÁC RỐI LOẠN HÀNH VI:
- Ma tuý và rối loạn hành vi thường kết hợp với nhau.
- Các rối loạn hành vi thường gặp trong lạm dụng ma túy ở thanh thiếu niên, có khả năng dẫn đến giết người.
- Hundleby và ctv (1982) ghi nhận trên 100 thanh thiếu niên nam và 130 thanh thiếu niên nữ dùng ma tuý có hoạt động tình dục nhiều hơn, nhận thức về xã hội và học tập lệch lạc.
Các liên quan giữa rối loạn hành vi và dùng ma tuý rất phức tạp. Các rối loạn hành vi và sử dụng ma túy tác động lẫn nhau. Các rối loạn hành vi thường dẫn đến dùng ma túy và ngược lại.
Các nghiên cứu trên đã nhận thấy rằng thanh thiếu niên có khuynh hướng chống đối xã hội thường dẫn đến việc sử dụng các chất ma túy.
Dùng ma tuý có thể dẫn đến các rối loạn hành vi: tác động của chất ma túy giải ức chế và làm tăng hung tính tạo điều kiện cho việc chuyển thành hành vi chống đối xã hội. Do lệ thuộc ma túy đối tượng gây nên những hành vi phạm pháp để tìm cho được chất ma túy: ăn cắp, buôn bán ma túy và làm gái điếm thường kết hợp.
Phạm pháp và lạm dụng ma túy đều liên quan đến các điều kiện xã hội không lành mạnh, gia đình không êm ấm và các rối loạn xúc cảm của đối tượng. Thanh thiếu niên phạm pháp, nhất là khi chúng bị trầm nhược khai là sử dụng ma tuý hay các hoạt động bất hợp pháp để làm nhẹ nỗi buồn chán và ưu phiền của họ.

Trong nghiên cứu của Farrow French (1990), khảo sát trên 89 thanh thiếu niên phạm pháp khai có dùng ma túy trong đó 74% trường hợp là để làm giảm các cảm nghĩ buồn chán và ưu phiền, 39% để quên các vấn đề của họ, 42% để được yên tĩnh, 65% để được thích thú và 45% vì nhiều bạn của họ dùng ma túy.

VI- CÁC RỐI LOẠN TẬP TRUNG:
Trong 114 thanh thiếu niên phạm pháp, Halikas và ctv (1990) nhận thấy lạm dụng ma túy có trên 67% bị rối loạn tập trung, các rối loạn tập trung có hành vi hung bạo chiếm 61% trường hợp.

VII- CÁC RỐI LOẠN NHÂN CÁCH:
Lạm dụng ma túy liên quan đến một số rối loạn nhân cách.
Các rối loạn nhân cách bệnh lý và nghiện ma túy liên hệ và tác động với nhau. Các rối loạn nhân cách dễ dẫn đến sử dụng ma túy và ngược lại. Việc dùng ma túy làm tăng thêm các rối loạn về tâm lý, về quan hệ và sinh hoạt biểu hiện rõ nét nhân cách bệnh lý. Người bị rối loạn nhân cách thường bị:
- Tính xung động
- Các rối loạn về cảm xúc
- Các cảm nghĩ trống rỗng và buồn phiền

VIII- CÁC BIỂU HIỆN LO HÃI:
Người có tiền sử rối loạn lo hãi nhất là tuổi thanh thiếu niên dễ dẫn đến các nguy cơ lạm dụng hay lệ thuộc ma túy và ngược lại.

IX- CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:
Việc dùng các chất ma túy thường gây hậu quả là rối loạn tâm thần.
Ngược lại, các rối loạn tâm thần góp phần dẫn đến sử dụng ma túy, đồng thời có thể do cả hai yếu tố trên tác động lên nhau.
Sự phân biệt này khó xác định, một khi cùng xảy ra song song, việc sử dụng các chất ma túy và các rối loạn tâm thần sẽ tác động lẫn nhau làm trầm trọng thêm việc sử dụng ma túy.
Do đó cần phải phân biệt các rối loạn tâm thần tiên phát và thứ phát, có thể dẫn đến các hành vi nghiện ngập và có thể ảnh hưởng đến các quyết định điều trị.
Người nghiện có thể có những hành vi dễ bị kích động, hung dữ, nhận thức lệch lạc, rối loạn hoạt động, rối loạn tri giác, rối loạn tỉnh – thức, rối loạn tư duy, mất định hướng thời gian, không gian, có thể bị hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, có tư tưởng tự sát, tư tưởng bị ám hại dễ dẫn đến các hành vi hung bạo, chống đối xã hội – gia đình. Thậm chí giết người nhưng không ý thức được việc làm của mình.

X- TỶ LỆ CHẾT:
Việc sử dụng có thể gây chết người, các biến chứng cơ thể và một ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống tâm lý và quan hệ cũng như trên sự thích ứng xã hội.
Tỷ lệ chết cao ở thanh thiếu niên và thanh niên do các tai nạn giao thông, các tai nạn khác, tự sát và các hành vi hung bạo đánh giết lẫn nhau do ma túy. Các tai nạn giao thông chiếm 70% nguyên nhân chết của những người 16 -19 tuổi trong Cộng Đồng Châu Âu: Rượu và các chất ma túy là những nguyên nhân chủ yếu.
Trong một nghiên cứu nam giới từ 15-34 tuổi, chết do tai nạn giao thông: rượu được phát hiện trong 75% trường hợp, cần sa 37% và cocain 11%; trong đó kết hợp rượu và cần sa 85% trường hợp (Williams, 1985). Tác hại của ma túy ngoài các tai nạn và tự sát nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS qua tiêm chích tĩnh mạch các chất ma túy và quan hệ tình dục bừa bãi cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.

KẾT LUẬN:
Sử dụng các chất ma túy dẫn đến nhiều nguy cơ:
- Tăng liều lượng
- Chuyển sang các chất ma túy mạnh hơn
- Nhiễm trùng do các bệnh cơ hội HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B, C, …
- Thất bại trong hoà nhập xã hội
- Các bệnh tâm thần có thể dẫn đến tự sát, có hành vi hung bạo, giết người trong gia đình và xung quanh.
- Các tổn thương thể chất, tinh thần và dẫn đến cái chết
- Nếu đối tượng bị gạt ra bên lề xã hội do sử dụng ma túy thì nguy cơ tổn thương về thể chất dẫn đến cái chết có thể xảy ra sớm, do bệnh tật và thiếu sự chăm sóc.


 

KHEN THƯỞNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN 2012

KHEN THƯỞNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN 2021

HUÂN CHƯƠNG LAO ĐỘNG HẠNG BA DO CHỦ TỊCH NƯỚC TẶNG

BẰNG KHEN DO  THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TẶNG

Ban Tuyên giáo Trung ương – Văn phòng Chính phủ - Ban Thi đua khen thưởng Trung ương tặng huy hiệu và danh hiệu “Doanh nhân Việt Nam làm theo lời Bác”Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) tặng Bảng vàng danh hiệu Đơn vị điển hình về thực hiện trách nhiệm xã hội và phát huy bản sắc văn hóa Việt NamỦy ban nhân dân Thành phố tặng Bằng khen cho Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy vì đã thành tích xuất sắc trong 4 năm thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (2007 - 2010). 01 Chứng nhận “Chiến sĩ thi đua cấp Thành phố” (2010) và 07 Bằng khen cho tập thể và cá nhân vì đã có thành tích xuất sắc trong quá trình hoạt động góp phần tích cực và có hiệu quả trong công tác cai nghiện, phục hồi và chống tái nghiện cho người nghiện ma túy nhân kỷ niệm 10 năm hoạt động (2000-2010). Ban Tuyên giáo Trung ương – Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam - Ủy ban quốc gia hợp tác kinh tế quốc tế - Bộ Công Thương tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp hội nhập và phát triển”. Bộ Công Thương tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp vì cộng đồng” và “Doanh nhân vì cộng đồng”Bộ Y tế tặng Cúp vàng danh hiệu “Vì sức khỏe người Việt” và “Trái tim vì sức khỏe người Việt”. Cúp vàng danh hiệu “Vì sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng” và Top 10 doanh nhân tiêu biểu vì cộng đồng”Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trao tặng Cúp vàng danh hiệu “Vì sự nghiệp phát triển doanh nhân Việt Nam”Đài Tiếng nói Việt Nam, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng Cúp vàng danh hiệu “Thương hiệu - Nhãn hiệu” và “Doanh nhân Tâm Tài”. Bộ Công an tặng Bằng khenTổng cục An ninh + Công An TP.Hồ Chí Minh tặng giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào Bảo vệ an ninh tổ quốc. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tặng 3 Bằng khen và cờ danh hiệu Công đoàn cơ sở vững mạnh có phong trào thi đua xuất sắc năm 2011Liên đoàn Lao động TP. Hồ Chí Minh tặng 5 cờ danh hiệu Cộng đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc liên tục các năm 2007 – 2008 – 2009 – 2010 – 2011Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tặng bằng khen, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tặng giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc 10 năm liền trong công tác cai nghiện, phục hồi cho người nghiện ma túy.Trung ương Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam tặng bằng khen danh hiệu “Doanh nhân Cựu chiến binh thành đạt” và danh hiệu “Doanh nhân Cựu chiến binh giàu lòng nhân ái”Hội Cựu chiến binh Việt Nam TP. Hồ Chí Minh tặng 3 bằng khen cho Hội Cựu chiến binh Công ty vì đã có thành tích xuất sắc 5 năm 2005 – 2009 và 02 Bằng khen cho Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy vì đã có thành tích tiêu biểu trong cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” 03 năm (2007 – 2009),4 năm (2007 – 2010) và công nhận 4 năm liền là Chiến sĩ thi đua cấp cơ sởBộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống ma túy, HIV/AIDS trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên và Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác an ninh, trật tự, an toàn giao thông, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong trường học giai đoạn 1998 - 2008Bộ Y tế, Bộ Văn hóa Thể thao - Du lịch, Bộ Công Thương, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc tặng Cúp vàng danh hiệu “Doanh nghiệp tiêu biểu Việt Nam”“Thương hiệu – Nhãn hiệu” và “Lãnh đạo xuất sắc”Đài truyền hình Việt Nam đưa Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy - Giám đốc Trung tâm vào chương trình“Người đương thời”.

KHEN THƯỞNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

DANH HIỆU​ "DOANH NGHIỆP TIÊU BIỂU VIỆT NAM"

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

DANH HIỆU "DOANH NGHIỆP HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN"

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

DANH HIỆU "THƯƠNG HIỆU NHÃN HIỆU"

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

DANH HIỆU "LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC"

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

DANH HIỆU "DOANH NHÂN TÂM TÀI"

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BAN CHẤP HÀNH TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG TP.HỒ CHÍ MINH
TẶNG CỜ THI ĐUA LIÊN TỤC CÁC NĂM

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

CHỨNG NHẬN ĐÃ CHĂM LO TỐT CHO ĐỜI SỐNG CÁN BỘ CÔNG NHÂN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

CHỨNG NHẬN DOANH NGHIỆP THỰC HIỆN TỐT
CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN TỔNG CỤC AN NINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

CÔNG AN TP. HỒ CHÍ MINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TRAO TẶNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

HỘI CỰU CHIẾN BINH TP. HỒ CHÍ MINH TRAO TẶNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH & XÃ HỘI
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BỘ Y TẾ TRAO TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

SỞ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH & XÃ HỘI TP. HỒ CHÍ MINH
SỞ VĂN HÓA THÔNG TIN TP. HỒ CHÍ MINH TRAO TẶNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ MINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ MINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

ỦY BAN NHÂN DÂN TP. HỒ CHÍ MINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

ỦY BAN NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ MINH TẶNG BẰNG KHEN

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - VĂN PHÒNG CHÍNH PHÚ
BAN THI ĐUA KHEN THƯỞNG TRUNG ƯƠNG TẶNG
HUY HIỆU VÀ DANH HIỆU DOANH NHÂN VIỆT NAM LÀM THEO LỜI BÁC
CHO BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BÁC SĨ NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
NHẬN HUÂN CHƯƠNG LAO ĐỘNG HẠNG III

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BAN GIÁM ĐỐC
CTY TNHH ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
NH
ẬN HUÂN CHƯƠNG LAO ĐỘNG HẠNG III &
BẰNG KHEN THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

TẬP THỂ KHOA - PHÒNG - CÁN BỘ NHÂN VIÊN
CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
NHẬN BẰNG KHEN CỦA UBND THÀNH PHỐ

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Đ/C NGUYỄN THIỆN NHÂN - ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ -
PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
TRAO TẶNG BẰNG KHEN VÌ ĐÃ CÓ THÀNH TÍCH XUẤT SẮC
LIÊN TỤC TRONG 10 NĂM TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC
VÌ TƯƠNG LAI TUỔI TRẺ HỌC ĐƯỜNG
CHO BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Đ/C NGUYỄN THIỆN NHÂN - ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ -
PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
TRAO TẶNG BẰNG KHEN "ĐẠT THÀNH TÍCH XUẤT SẮC
TRONG CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG MA TÚY, HIV/AIDS
TRONG THANH THIẾU NIÊN, HỌC SINH, SINH VIÊN"
CHO BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY 
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI - NGUYỄN ĐỨC KIÊN TRAO BẰNG VÀNG
DANH HIỆU ĐƠN VỊ ĐIỂN HÌNH THỰC HIỆN
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI & PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
DO TỔ CHỨC UNESCO THẾ GIỚI
TẶNG BS. NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC NGUYỄN THỊ DOAN TRAO
CÚP VÀNG DANH HIỆU "DOANH NGHIỆP VÌ CỘNG ĐỒNG" CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN SINH HÙNG TRAO TẶNG
CÚP VÀNG DANH HIỆU "DOANH NHÂN TÂM TÀI" CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI - NGUYỄN ĐỨC KIÊN TRAO TẶNG
CÚP VÀNG THƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ CHỦ TỊCH NƯỚC - NGUYỄN THỊ DOAN TRAO TẶNG CÚP VÀNG
DANH HIỆU "VÌ SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN DOANH NHÂN VIỆT NAM" CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ THỦ TƯỚNG NGUYỄN MẠNH CẦM TRAO TẶNG
CÚP VÀNG THƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU CHO
ÔNG NGUYỄN PHAN MINH
P.GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI NGUYỄN SINH HÙNG TRAO TẶNG
CÚP VÀNG LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

TRUNG ƯƠNG HỘI CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TRAO TẶNG
DANH HIỆU "DOANH NHÂN CỰU CHIẾN BINH THÀNH ĐẠT"
CHO BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

PHÓ CHỦ TỊCH UBND TP.HCM - NGUYỄN THỊ HỒNG TRAO TẶNG
DANH HIỆU "DOANH NHÂN CỰU CHIẾN BINH GIÀU LÒNG NHÂN ÁI"
CHO BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

HỘI CỰU CHIẾN BINH TP.HCM TRAO TẶNG BẰNG KHEN
"CỰU CHIẾN BINH GƯƠNG MẪU" 5 NĂM (2005-2010) CHO
BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BS NGUYỄN HỮU KHÁNH DUY
GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
NH
ẬN CÚP VÀNG DANH HIỆU "VÌ SỨC KHỎE NGƯỜI VIỆT"
DO BỘ Y TẾ TRAO TẶNG

Hoạt động Trung tâm cai nghiện Thanh Đa

BỘ TRƯỞNG BỘ LD-TB&XH - PHẬM THỊ HẢI CHUYỀN
TRAO TẶNG DANH HIỆU "NHỮNG TẤM LÒNG CAO CẢ" CHO
ÔNG NGUYỄN PHAN MINH
P.GIÁM ĐỐC CÔNG TY ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

Tổng quan phương pháp
​phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

​​

Cỏ Mỹ – Một loại ma túy cực nguy hiểm

Cỏ Mỹ là một loại ma túy cực mạnh, nguy hiểm hơn cả cần sa. Do đó Bộ Y tế đã đưa cỏ Mỹ vào danh mục các chất ma túy từ ngày 1-2-2016.


Gọi là cỏ Mỹ bởi nó có xuất xứ từ nước Mỹ. Cỏ Mỹ vốn là một hỗn hợp thực vật được sao khô, cắt nhỏ, được tẩm ướp một số hoá chất cho cảm giác giống như cần sa. Loại hỗn hợp này được cuốn vào giấy rồi hút như hút thuốc lá.


Lâu nay, trên các phương tiện báo chí, trang mạng xã hội tràn ngập nhiều bài viết, hình ảnh về những kẻ ngáo đá. Có người leo lên mái nhà vì nghĩ mình là chim hay nằm giữa sân tập bơi bởi cho rằng mình là cá. Nguy hiểm hơn là những đối tượng ngáo đá ra tay giết người trong trạng thái loạn thần…

                           

Ảo giác do ma túy đá gây ra có thể biến một người hiền lành, thật thà thành con quỷ giết người trong nháy mắt. Loại ma túy mới có tên cỏ Mỹ cũng gây ra những tác hại tương tự ma túy đá, thậm chí mức độ ảnh hưởng còn nhanh và mạnh hơn. Sử dụng cỏ Mỹ là thú chơi vô cùng nguy hiểm nhưng nó lại đang rất hút một bộ phận giới trẻ.


Khủng khiếp hơn, các bạn trẻ còn có xu hướng sử dụng cùng một lúc nhiều loại ma túy tổng hợp để tăng cảm giác “phê”. Hành động này đồng nghĩa với việc họ đang tự đầu độc chính bản thân một cách nhanh và mạnh hơn.


Thạc sỹ Hoàng Văn Nghĩa – Giám đốc Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định - cho biết: Cỏ Mỹ có tác dụng giống như cần sa nhưng gây nghiện, gây hại gấp nhiều lần so với cần sa. Người sử dụng cỏ Mỹ, trước hết sẽ bị rối loạn tâm thần, tức là ý thức thoát ly thực tại xung quanh.


Thứ hai là bị rối loạn về cảm xúc, tức người bệnh có những lo lắng, căng thẳng, đặc biệt là có những ảo giác (nghe thấy tiếng nói xúi giục trong đầu, nghĩ mình bị ai đó theo dõi, truy sát...) gây nguy hại cho bản thân và mọi người xung quanh. Thứ nữa là gây hại về cơ thể như gây teo não, suy giảm khả năng miễn dịch, mắc nhiều bệnh, có thể bị ung thư.


Hiện nay, Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định đang điều trị cho 4 bệnh nhân bị ảo giác, hoang tưởng do sử dụng cỏ Mỹ. Có bệnh nhân đã được về nhà sau đợt điều trị. Tuy nhiên thời gian ngắn sau lại nhập viện, tiếp tục điều trị bởi những ảo giác vẫn xuất hiện trong đầu.


Có thể thấy, tác hại của ma túy tổng hợp, của cỏ Mỹ là cực kỳ khủng khiếp và rất khó để có thể trở lại minh mẫn như ban đầu. Một bệnh nhân đang điều trị tại bệnh viện đã kể với chúng tôi về cảm giác khi phê cỏ Mỹ: “Vừa hút cỏ Mỹ sau có 2 giây là em đã thấy đầu óc hưng phấn, không biết gì nữa, chỉ biết nhảy nhót, la hét theo tiếng nhạc thật to.


Lần ấy bọn em đã đập phá tan tành phòng hát, đập vỡ ti vi. Khi ấy nhìn cái gì cũng khác lắm, không biết sợ, trong đầu thì như có ai đó nói chuyện, xúi giục mình; chỉ nhìn người khác làm hành động bình thường thôi cũng nghĩ là họ đang truy sát mình rồi phản kháng lại".


Loạn thần, ảo giác gây hại cho bản thân và người khác, giãn đồng tử, kích động, căng thẳng, lo lắng, nhảy múa, gào thét điên loạn, không làm chủ được hành động, thậm chí là tử vong. Đó là triệu chứng của người sử dụng cỏ Mỹ. Hoạt chất có trong "cỏ Mỹ" là XLR-11 – đây là chất gây nghiện, gây ảo giác giống như cần sa nhưng tác dụng thì mạnh hơn cần sa nhiều lần.


Tác hại của cỏ Mỹ là cực kỳ khủng khiếp. Do đó, Nghị định 126/2015/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/2/2016 về ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất đã đưa cỏ Mỹ (XLR-11) vào danh mục các chất ma túy.


Nghị định 73/2018/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 15/5/2018 đưa cỏ Mỹ  vào danh mục các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội. Theo đó, mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng cỏ Mỹ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.


Số cỏ Mỹ này thu giữ trong vụ bắt Lại Thế Huề (đóng gói vào 150 túi nhỏ và cuộn thành 15 điếu thiếu)

Để ngăn chặn và phòng ngừa tệ nạn ma túy, lực lượng cảnh sát ĐTTP về ma túy toàn tỉnh luôn chủ động tham mưu, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội triển khai nhiều biện pháp; chủ động tổ chức các đợt ra quân, trấn áp quyết liệt tội phạm ma túy. Mỗi năm đều triệt xóa hàng trăm vụ việc; bắt giữ, xử phạt nghiêm theo quy định của pháp luật hàng trăm đối tượng phạm tội; thu giữ, tiêu hủy một lượng lớn tang vật ma túy các loại.


Tính riêng 12 ngày cao điểm ra quân hưởng ứng Tháng hành động phòng, chống ma tuý và Ngày quốc tế phòng, chống ma tuý (ngày 26-6), toàn tỉnh có 40 vụ, 42 đối tượng phạm tội về ma túy bị bắt giữ. Tang vật thu giữ tới 1 bánh, 10,5g heroin; 61,5g MTTH dạng đá; 1,2kg và 15 điếu cỏ Mỹ.


1,6 kg cỏ Mỹ này là tang vật trong vụ bắt đối tượng Lại Thế Huề, sinh 1995, trú tại xã Nghĩa Hải, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Số cỏ Mỹ này được Lại Thế Huề đóng gói vào 150 túi nhỏ và cuộn thành 15 điếu thuốc. Cũng theo Lại Thế Huề khai nhận, hiện nay, cỏ Mỹ đang rất được các bạn trẻ ưu chuộng sử dụng.


Vùi mình vào thứ ảo giác sinh ra từ ma túy, từ cỏ Mỹ, giới trẻ không ngờ rằng chính mình đang trở thành mầm mống cho các loại tội phạm nguy hiểm trong xã hội.


Nói đến ma túy và những tác hại của ma túy – hẳn ai trong chúng ta cũng từng chứng kiến những hình ảnh thảm thương vì nghiện hút, tiêm chích. Những nam thanh nữ tú, những con người giỏi giang, thật thà bỗng trở nên ngây dại với những hành động ngây ngô như leo mái nhà, leo cột điện, thậm chí tự cào cấu bản thân đến tóe máu.


Rồi giết người, cướp của, trộm tài sản. Rồi lây lan căn bệnh thế kỷ HIV… thậm chí là những án mạng thương tâm. Thấu hiểu tác hại khủng khiếp của ma túy, toàn nhân loại đã hiệp sức, hiệp trí cùng bài trừ. Pháp luật thì răn đe, xử phạt nghiêm khắc những kẻ dính líu tới ma túy. 

Nguồn: Báo An Ninh Hải Phòng

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN
(AMPHETAMIN VÀ AMPHETAMIN - LIKE)


Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy
GĐ. Trung tâm Điều Dưỡng & Cai Nghiện Ma Túy Thanh Đa


Nghiện là trạng thái lệ thuộc, thèm muốn bất thường, kéo dài, không kiểm soát được đối với chất gây nghiện mà người nghiện sử dụng để tìm kiếm sự khoái cảm, êm dịu hoặc hưng phấn, gây hậu quả nặng nề cho bản thân, gia đình và xã hội.


I. PHÂN LOẠI MA TÚY: Có nhiều cách phân loại


1. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:


Ma túy hợp phápbất hợp pháp


2. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:


    • Ma túy có nguồn gốc thiên nhiên: Thuốc phiện, Cần sa, Cocaine, …
    • Ma túy bán tổng hợp: Morphin, Heroin, Codeine…
    • Ma túy tổng hợp: Dolargan, Promedol, Amphetamine, Ecstasy …

3. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ LÂM SÀNG:

    • Ma túy êm dịu: Thuốc phiện, Morphine, Heroin…
    • Ma túy kích thích: Cocaine, Amphetamin, Ecstasy…
    • Ma túy gây ảo giác: LSD, Mescaline, Phencyclidine…
    • Thuốc giảm đau, gây ngủ: Bezodiazepine, Phénobarbital, Iménoctal …

II. AMPHETAMIN VÀ MỘT SỐ CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN:


Amphetamin và các chất giống amphetamin là chất ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích.


Các loại ma túy này chủ yếu là chất tổng hợp có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau và có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau lên hệ thần kinh trung ương. Dựa trên các cơ sở tác dụng dược lý điển hình ở liều thông thường, nhóm chất này bao gồm các chất kích thích hệ thần kinh trung ương như AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHYLPHNIDAT và các chất Entactogen còn gọi là các chất dạng “Ecstasy” như MDMA, MDA, và MDEA.



1.AMPHETAMIN CỔ ĐIỂN:


Là một chất thuộc nhóm ma túy tổng hợp lớn có tác dụng kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh trung ương. Các loại ma túy phổ biến nhất của nhóm này là AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHCATHINON.


Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ice” (methamphetamin), và “cat” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màu, dạng kết tinh (như “ice”), viên néndung dịch (như “methcathinon”).


Amphetamin thường sử dụng qua đường miệng, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.


Sở dĩ loại ma túy này được nhiều người ưa chuộng bởi nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, tâm trạng phấn khích, lâng lâng khoái cảm, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và làm việc trí não. Đây chính là nguyên nhân khiến amphetamin trở nên hết sức phổ biến đối với các đối tượng là sinh viên, vận động viên thể dục thể thao, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, binh lính...vv.

Ảnh hưởng đặc thù của amphetamin đối với cơ thể người dùng là khi sử dụng liều thấp nó sẽ làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết ápthân nhiệt, đổ mồ hôi, giãn đồng tử, ráo miệng, tiêu chảy, ăn kém ngon. Liều cao amphetamin làm cho tất cả các triệu chứng nói trên trở nên cường phát và dẫn đến hậu quả khiến người dùng trở nên lắm lời, hung hăng, táo tợn, mất ngủ và không còn khả năng suy xét.

Sử dụng amphetamin lâu ngày thường dẫn đến hậu quả thay đổi hành vi tâm tính, có hành động khác lạ, bồn chồn hiếu động, cảm giác khó chịu, trở nên hung hãn; đôi khi dẫn đến hoảng loạn, tâm thần hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốc hay dùng liều cao sẽ gây phản ứng xuất hiện hội chứng cai: buồn chán, u uất, cơ thể mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và hay mê sảng.


Ngay từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Sau đó có rất nhiều người phủ nhận tác dụng chữa bệnh của nó, bởi lẽ có quá nhiều bằng chứng hiển nhiên cho thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng.
Nhiều nước trên thế giới nhận thấy sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn phân phối hợp pháp.
Hiện nay, amphetamin và các chất liên quan chỉ được hạn chế sử dụng để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamin để làm thuốc biếng ăn chữa bệnh béo phì.


2. AMPHETAMIN MỚI:


2.1 MDMA/ THUỐC LẮC


Methylendioxymethylamphetamin, còn gọi là “ecstasy” là chất kích thích tổng hợp dòng amphetamin. Lần đầu tiên được tổng hợp năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng chưa bao giờ được công nhận là thuốc đã đăng k‎ý. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới.
MDMA bị quốc tế kiểm soát.

MDMA được chế tạo tại những địa điểm bí mật dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn. Liều dùng từ 75 đến 150 mg.


Ecstasy là một chất kích thích tuy có khác so với các chất kích thích dạng amphetamin cổ điển. Nó có tác dụng gây ảo giác nhẹ. Gây cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích, thích giao đãi, tiếp xúc trò chuyện.


MDMA liều thấp gây bồn chồn, lo lắng; khi dùng liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ. Nó cũng làm tăng huyết ápnhịp đập tim, gây buồn nôn, ói mửa. Dùng thường xuyên trong một thời gian dài gây nên những ảnh hưởng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.


Ít thấy các trường hợp ngộ độc cấp MDMA; tử vong do sử dụng ecstasy cũng rất hiếm. Tuy nhiên đã có báo cáo về các trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm; những trường hợp này xảy ra là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng.


2.2 MDA:


Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng amphetamin rất giống ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được tung ra thị trường như một loại thuốc hợp pháp. Tác dụng của nó đối với hành vi nhân cách đã được nghiên cứu vào thập niên 1960, và bắt đầu từ đó xuất hiện trên thị trường bất hợp pháp đầu tiên ở Mỹ rồi lan ra toàn thế giới.
Tác dụng giống như tác dụng của MDMA, tuy có hơi khác một chút. Nó gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMAcó thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 tiếng so với MDMA chỉ có 3 – 5 tiếng). MDA thường được chế tạo tại những địa điểm bí mật để thay thế cho MDMA và tung ra thị trường dưới dạng độc lập hay kết hợp với các loại ma túy khác.


2.3 MDEA:


Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này chưa bao giờ được công nhận là thuốc hợp pháp. Tiếng lóng gọi là “Eve”, MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, trốn tránh kiểm soát và buôn bán dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng chính của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. Để đối phó với dịch ecstasy ở Mỹ và Châu Âu, MDEA được liệt kê vào trong bảng xếp hạng các chất bị quốc tế kiểm soát.


III. DỊCH TỄ HỌC


Nghiện Amphetamin thấy ở mọi tầng lớp xã hội.

Phổ biến hơn ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng…


Lúc đầu, dùng APT để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện APT.


Ở Mỹ:

  • Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
  • Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo.
  • Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
  • Sử dụng ATS trong các cuộc chiến gần đây.
  • Binh lính được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
  • Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
  • 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.

Năm 1991: 7% dân số dùng APT ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất, nhóm 12- 17 có tỷ lệ nghiện đáng bao động (tỷ lệ tiêm chích chiếm 22%).


Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng nghiện APT và năm 1994: tăng đến 15,7%.


Ở Nhật:

Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25  nghiện APT và APT hiện vẫn là chất ma túy chủ yếu.


Năm 1994 – 1995: số người nghiện APT ở Thụy Sĩ là 8%., Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%. Australia 25% nam, 12% nữ tuổi từ 20 – 24 đã thử dùng APT...


5% sinh viên ở Sao Paolo, Brazil nghiện APT. Chi Lê 4,5% dân tuổi 12 – 64 nghiện APT...


Xuất hiện bất hợp pháp tại Việt Nam từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.


ATS được dùng phổ biến ở Việt NamMethamphetamineEctasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..


ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.


  • Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
  • Tại Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa, thống kê cho thấy số học viên sử dụng nhóm ATS như sau:

Thời gian

Số học viên sử dụng ATS

Số học viên

sử dụng ATS

 

 

          Tổng số  học viên nhập

Trung tâm

Số học viên được Bệnh viện Tâm thần điều trị

Số học viên

được Bệnh viện

Tâm thần

điều trị

 

Tổng

số  học viên

sử dụng ATS

2005

04

0,56%

00

0%

2006

05

0.9%

00

0%

2007

22

2.1%

00

0%

2008

43

2,93%

02

 

4.65%

 

2009

69

4.75%

04

 

5.79%

 

2010

140

9.7%

29

20.71%

2011

255

16.95 %

55

21.57%

2012

361

22,83%

67

18.56%

Kết quả trên cho thấy:

  • Số học viên sử dụng ma túy ATS tăng đều mỗi năm. Hiện nay khoảng 17% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy tại Trung tâm.
  • Số học viên có vấn đề tâm thần buộc điều trị từ 20 – 25 % trên tổng số học viên sử dụng ma túy nhóm ATS.

IV. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:


Tất cả các loại Amphetamin đều hấp thu nhanh qua đường uốngtác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy  ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.


  • Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.

  • Các loại amphetamine mới ( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điểngây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotoninức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.

  • MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …

V. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:

    1. VỀ CƠ THỂ:
  • Hiệu quả trên mạch máu não, tim, dạ dày và ruột là một trong những tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất khi sử dụng amphetamine.
  • Tình trạng đe dọa cuộc sống đặc trưng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu nãoviêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng amphetamine thường có hành vi tình dục không an toàn.
  • Các tác dụng không mong muốn ít đe dọa cuộc sống hơn bao gồm nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
  • Ở phụ nữ có thai lạm dụng amphetamine thường có thai nhi nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, đẻ non, thai chậm lớn.

    1. VỀ TÂM THẦN:

Tác dụng không mong muốn về tâm thần liên quan tới sử dụng amphetamin bao gồm bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, trở nên thù địch và lú lẫn. các triệu chứng của rối loạn lo âu như rối loạn lo âu toàn thể và rối loạn hoảng sợ có thể do amphetamin gây ra. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể do sử dụng amphetamin gây ra.

  • Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các tác dụng sau:

Hiệu quả ngắn hạn: cảm giác quan hệ với người khác, co cơ, nhịp tim nhanh, mất men răng, khô miệng, hay giật mình, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, run, đánh trống ngực, vã mồ hôi, dị cảm, khó tập trung, mất ngủ, có cơn nóng lạnh, tăng nhạy cảm với lạnh, choáng váng hoặc chóng mặt, ảo thị, nhìn mờ.

Hiệu quả trung hạn: tình trạng ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ hoặc mệt mỏi, cảm giác thân thiện với người khác, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), khó tập trung chú ý, đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh.


VI. CHẨN ĐOÁN NGHIỆN VÀ LẠM DỤNG APT:

  • tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ma túy chung của ICD-10.
  • Sử dụng APT (và giống APT) người nghiện không có sự lệ thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể nên có thể có vài ngày hay vài tuần không dùng thuốc.
  • Nghiện APT có thể gây giảm sút nhanh khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống.
  • Người nghiện APT luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác phê trước đó.

VII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.

  1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
  2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
    • Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
    • Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
    • Các hành vi có tính định hình
    • Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.

Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.

  1. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:

+       Giãn đồng tử

+       Tăng, giảm nhịp tim

+       Tăng, giảm huyết áp

+       Toát mồ hôi, rét run

+       Buồn nôn, nôn

 

+       Sút cân

+       Kích động, ức chế trung tâm vận động.

+       Đau ngực, ức chế hô hấp

+       Lú lẫn hay hôn mê

+       Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.


    Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.

VIII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:

(Amphetamine Inducd Psychosis)

  • Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
    • Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
    • Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
    • Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
  • Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
  • Tăng tình dục (hypersexuality)
  • Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
  • Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
  • Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.

IX. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:

  • Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
  • Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sauhết sau khoảng một tuần.
    • Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ‎ý tưởng và hành vi tự sát.

1.Chẩn đoán hội chứng cai (DSM - IV):

  • Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...)
  • rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
    • Mệt mỏi
    • Có những giấc mơ đáng sợ.
    • Mất ngủ hay ngủ nhiều.
    • Tăng cảm giác ngon miệng.
    • Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

2.  Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.


3.  Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.


X. ĐIỀU TRỊ: Phương pháp điều trị.

  • Điều trị hội chứng cai - giải độc - chống tái nghiện.
  • Các rối loạn loạn thần do Amphetamin
  • Trầm cảm, ủ rũ…LQ Amphetamin
  • Phương pháp dựa trên cộng đồng.

  1. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI - GIẢI ĐỘC - CHỐNG TÁI NGHIỆN:
  • Lệ thuộc về cơ thể ở nhiện APT không nặng như nghiện chất ma túy khác (Opiod…).
  • Việc tái nghiện vẫn rất phổ biến vì tác động trên tâm thần của thuốc rất mạnh tăng thêm sau mỗi lần dùng => “đói chất ma túy trường diễn” trong não.
  • Điều trị hội chứng cai và chống tái nghiện cần phải phối hợp nhiều liệu pháp: hóa dược, tâm l‎ý cá nhân, gia đình, nhóm, lao động, tái thích ứng cộng đồng…
  • Cần thiết lập tốt mối quan hệ điều trị sau cai để giúp giải quyết các rối loạn trầm cảm, nhân cách…kéo dài.
  • Điều trị bằng thuốc để giải độc có thể dùng:
  • Chất đồng vận hệ Dopamine như:
    • Amantadine 100mg x 2 lần/ngày…
    • Bromocriptine 2,5mg x 2 lần/ngày…
  • Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
  • Các thuốc chỉnh khí sắc; carbamazepine…

  1. ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
  • Các rối loạn, loạn thần sẽ thoái triển một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụng APT.
  • Rối loạn, loạn thần nặng có thể dùng các thuốc đặc hiệu: các ATK (Haloperiol, Phenothianol,…)
  • Thuốc giải lo âu: Benzodiazepine… thường cần sử dụng trong một thời gian ngắn (7 ngày).

  1. ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM, Ủ RŨ:

Cân nhắc chọn loại thuốc chống trầm cảm (có thể dùng chống trầm cảm 3 vòng).

  • Có thể dùng từ giai đoạn điều trị giải độc
  • Cân nhắc điều trị duy trì nếu kéo dài.

  1. PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN CỘNG ĐỒNG:

4.1. Các quy tắc giảm nguy cơ (tác hại):

  • Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”
  • Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.
  • Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

4.2. Giảm nguy cơ, các nấc thang mục tiêu:

  • Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:
    • Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).
    • Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).
    • Không tiêm chích ma túy
    • Nếu tiêm chích, không chích chung.
    • Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

4.3. Giảm nguy cơ/ giảm tác hại:


Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

  • Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).
  • Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).
  • Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

4.4. Các chiến lược giảm tác hại cụ thể:

  • Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:
    • Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).
    • Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).
    • Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).
  • Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:
    • Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.
    • Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.
    • Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

4.5.Chương trình giảm tác hại cho người sử dụng chất kích thích:

  • Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:
    • Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng đồng
    • Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp
  • Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại
    • Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích
  • Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấnxét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.
  • Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

4.6. Các giải pháp khác:

  • Khuyến nghị:
    • Củng cố luật pháp
    • Giải quyết bạo lực gia đình
    • Vấn đề y tế công cộng STD/HIV
    • Phúc lợi cho trẻ em
    • Các bệnh nhiễm trùng
    • Lạm dụng chất gây nghiện
    • Sức khỏe tâm thần
    • Đào tạo cán bộ điều trị
    • Giáo dục
    • Thông tin đại chúng

XI. TÓM TẮT

  • Sử dụng ATS theo đường nuốt là đường dùng phổ biến nhất tại Việt Nam và đang gia tăng
  • Hãy duy trì đường sử dụng như vậy
  • Can thiệp sớm và dự phòng
  • Nguy cơ tiêm chích có thể giảm nếu tiếp cận được các dụng cụ để hút (dự phòng Viêm gan B, C, HIV).
  • Giảm nguy cơ tình dục không an toàn
  • Dự phòng sử dụng gây loạn thần.

CÁC BIỆN PHÁP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

CÁC BIỆN PHÁP PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

     Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính, khó chữa có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc điều trị phục hồi cho người nghiện ma túy đòi hỏi ngoài tình thươngthấu cảm đối với người cai nghiện còn phải kiên nhẫn và phải có kiến thức về cai nghiện ma túy.


     Việc tìm kiếm mô hình điều trị cho người nghiện ma túy rất khó khănkhông có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này chưa hẳn đã phù hợp với người khác. Một phương pháp điều trị hiệu quả phải dựa vào nguyên tắc cơ bảnlàm thế nào phương pháp cai nghiện đó đáp ứng được tính chất và yêu cầu đa dạng của người nghiện chứ không chỉ đơn thuần nhằm vào việc sử dụng ma túy của họ.


    Quá trình điều trị phải được đánh giá thường xuyên bởi một nhóm điều trị gồm các bác sĩ nội khoa có hiểu biết về chuyên ngành ma túy, bác sĩ tâm thần, bác sĩ điều dưỡng – phục hồi, các nhà giáo dục - hướng nghiệp, các nhà tư vấn - tâm lý học – xã hội học, các cán bộ quản lý
Quá trình điều trị này phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh lý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy phải giải quyết – nhưng bắt buộc các thành viên của nhóm điều trị phải phối hợp tác nghiệp ở một thể thống nhất khi đánh giálập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mìnhlĩnh vực chuyên môn của người khác.


     Khi người nghiện sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng tăng thì hậu quả tác hại càng nhiềucàng nặng nề bấy nhiêu. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện, làm người nghiện ma túy suy giảm khả năng phán đoán, phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin, khả năng tự chủ: người nghiện rất khó khăn khi đưa ra một quyết định đúng đắn.
Thêm vào đó, họ lại thiếu nghị lực, thiếu sáng suốt, thiếu ý chí
để thực hiện quyết định của mình. Do ký ức hồi tưởng, người nghiện rất dễbị gợi nhớ đến ma túy khi gặp lại những hình ảnh, vụ việc liên quan đến việc sử ma túy trước đây: gặp ống chích, kim chích, bạn bè cũ, quán café cũ, nghe nhạc cũ, gặp hoàn cảnh cũ, hay khi nghĩ đến những khoái cảm ngây ngất do sử dụng ma túy: họ bị kích động mạnh mẽ khiến đối tượng rất dễ tái nghiện.


     Vì lệ thuộc vào ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh trong việc tìm kiếm, sử dụng ma túy. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.

     Về mặt hành vi, người nghiện phát triển những cách ứng xử không thích nghi và nhiều thói quen xấu – những hành vi đó đã ngăn cách người nghiện với cộng đồng, người nghiện mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm. Hầu hết người nghiện không cần hoặc không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi mình gây nên.


     Người nghiện ma túy không đủ nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, lành mạnh, có kỹ năng làm việc. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với gia đình, xã hội …có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị - phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.

     Cai nghiện được gọi là thành công không chỉnhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹpthực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


     Tóm lại có 4 vấn đề chính cần phải giải quyết trên đối tượng nghiện ma túy đó là:


1. Tổn thương hệ thống não bộ và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.

2. Rối loạnxuống cấp nhận thứchành vinhân cách.

3. Chấn thương tâm lý: đây không phải một hành động nhất thời mà là một quá trình diễn biến đầy phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện đối với bản thân, gia đìnhxã hội của người nghiện ma túy.

4. Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện. Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.


     Bốn vấn đề chính tác động qua lại lẫn nhau - chúng vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nếu chúng ta giải quyết không toàn diện và triệt để sẽ dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện.


I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI


     Qua bảng phân tích trên, chúng ta đã thấy cai nghiện ma túy rất khó khăn và phức tạp. Y VĂN đã rút ra một số kết luận sau:

  1. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:

     “Không có một loại thuốc, một biện pháp đơn thuần nào (châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật ….) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà phải đòi hỏi một liệu pháp tổng hợp, đồng bộ, xuyên suốt, khép kín, linh hoạt, kịp thời”.

  1. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

     Trong điều trị bệnh nghiện ma túy những biện pháp đơn thuần như sử dụng thuốc, châm cứu, bấm huyệt chỉ là biện pháp hỗ trợ cho cắt cơn, giải độc cũng như chống tái nghiện.
Biện pháp chủ yếu để cai nghiện thành công người nghiện phải được điều trị toàn diện: ngoài việc sử dụng thuốc người cai nghiện còn phải được gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết những chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm thông qua các biện pháp điều trị không dùng thuốc bao gồm:

  • Tư vấn

  • Liệu pháp Tâm lý

  • Quản lý ca

  • Liệu pháp Học tập Xã hội – Tự giúp đỡ (SSTLM)

     Một người nghiện nếu không được giải quyết các vấn đề nêu trên thì sau khi cai nghiện về, hầu hết sẽ tái nghiện. Điều này lý giải tại sao các chương trình cai nghiện thường thất bại và đạt kết quả thấp.


Để hiểu rõ các phương pháp điều trị nêu trên, đề nghị các bạn tham khảo tại mục Nghiên cứu Khoa học - Bài 4: “Vai trò Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Quản l‎ý ca trong cai nghiện – phục hồi” và tại mục: “Các phương pháp điều trị nghiện ma túy” Phần 2 Bài 3: “Giai đoạn điều trị nội trú tập trung” tại trang web này của Trung tâm.

  1. YẾU TỐ QUYẾT TÂM CAI NGHIỆN CỦA ĐỐI TƯỢNG:

     Là yếu tố tiên quyết nhưng không phải  yếu tố quyết định trong việc cai nghiện ma túy.

     Khi đối tượng không chịu cai nghiện thì khó có thể chữa được bệnh. Tuy nhiên, biện pháp cai nghiện bắt buộc không phải là không có kết quả. Tại các trung tâm cai nghiện cưỡng bức, đối tượng có thời gian cách ly với môi trường ma túy, sẽ có thời gian suy nghĩ lại mình. Nếu tại các trung tâm cai nghiện tốt, đối tượng sẽ được giúp đỡ, quan tâm, giáo dục đúng đắn; do đó nhận thức, tư tưởng đối tượng sẽ chuyển đổi dần thành cai nghiện tự nguyện.

Trái lại, tại các trung tâm cai nghiện không tốttự nguyện hay không tự nguyện cũng sẽ dẫn đối tượng tới những đối kháng với trung tâm, dẫn tới đối kháng thêm với gia đình, dễ có những hành vi hung hăng, bạo loạn bộc phát. Tại các trung tâm không tốt trên, một số đối tượng khác không thể phản kháng được, âm thầm chấp nhận cai nghiện nhưng rất dễ dẫn đến trầm cảm phản ứng, phải chấp nhận thời gian cai nghiện nhưng sau khi rời trung tâm trở về dễ bùng phát dẫn đến tái nghiện nhanh.

  1. ĐIỀU TRỊ CÓ KẾT QUẢ PHẢI DUY TRÌ THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ ĐỦ DÀI:

     Để phục hồi hệ thống não bộ, gọt dũa, điều chỉnh lại nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm, trang bị bản lĩnh, kỹ năng sống, phát hiện các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bảo vệ để biết cách vươn lên, xa lánh môi trường xấu, phát huy lợi thế hoàn cảnh bản thân.


     Thời gian cai nghiện lý tưởng từ 6 tháng đến 2 năm. Trong thời gian cai nghiện, một số trường hợp không nhất thiết phải cách ly hoàn toàn với xã hội mà nên dùng những biện pháp cai nghiện ngoại trú hoặc kết hợp giữa nội trúngoại trú, đồng thời áp dụng những phương cách để người nghiện không sử dụng ma túy (Ví dụ: giúp đỡ, hỗ trợ nhưng kèm theo những biện pháp quản lý chặt chẽ tại cộng đồng, điều trị kết hợp nội trúngoại trú bằng thuốc Naltrexone trong cai nghiện Heroine …) – tuy nhiên, dù biện pháp gì chăng nữa thì công tác giáo dục, gọt dũa, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách và giải quyết các chấn thương tâm lý không thể thiếu được.


     Một quan điểm rất sai lầm của nhiều người là cắt cơn nghiện là đã chữa xong bệnh nghiện ma túy. Thực chất cắt cơn nghiện ma túy chỉ là giai đoạn đầu để chuẩn bị cho mọi quy trình điều trị, cai nghiện rất khó khăn tiếp theo. Bản thân việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng mà cần phải điều trị sau cắt cơn một thời gian dài. Việc cắt cơn nghiện được ví như chiếc xe nổ máy nhưng chưa chạy được.


     Do các rối loạn tâm trí thực tổn, các phản ứng tâm sinh lý và đặc biệt là chứng hồi tưởng: dẫn người nghiện đến những cơn thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó và sự phản ứng yếu ớt của bản thân trước sự quyến rũ của ma túy. Nếu được điều trị tích cực, đúng cách, đủ thời gian, cách ly với môi trường ma túy: cường độ và tần số nhớ này sẽ giảm dần, tổn thương hệ thống não bộ được phục hồi, ngoài ra bệnh nhân còn được trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống, biết được ưu nhược điểm bản thân đểvươn lên trong hoàn cảnh của mình. Tuy nhiên, cần lưu ý là ngay cả khi tạm gọi là cai nghiện thành công, người nghiện vẫn phải tiếp tục cai nghiện cả đời.


II. CÁC GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ

  1. GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ CẮT CƠN - GIẢI ĐỘC - NÂNG CAO SỨC KHỎE:
  • Tiến hành ghi chép bệnh án theo lời khai bệnh nhân - Bác sĩ khám bệnh và cho Y lệnh điều trị - chú ý phát hiện các bệnh tâm thần - bệnh cơ hội.

  • Xác định các loại ma tuý và liều lượng ma túy mà đối tượng đã sử dụng để định hướng cắt cơn.

  • Phác đồ cắt cơn: phác đồ an thần kinh của Bộ Y tế đối với bệnh nhân sử dụng Heroine.

  • Thực hiện tư vấn tâm lý trước khi cắt cơn

  • Kết hợp sử dụng thuốc với biện pháp tâm lý và các biện pháp phục hồi chức năng: cắt cơn trong phòng lạnh (lạnh trị liệu) - Massage - tắm hơi.

  • Cắt cơn kết hợp với điều trị các bệnh cơ hội (Nếu cần thiết phải điều trị ngay).

  • Nâng cao sức khỏe.

  1. GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC NHẰM GỌT GIŨA - ĐIỀU CHỈNH - PHỤC HỒI NHẬN THỨC - HÀNH VI - NHÂN CÁCH 

Bao gồm:

  1. NÂNG CAO NHẬN THỨC -TRÌNH ĐỘ CỦA HỌC VIÊN:

1.1 DẠY VĂN HÓA:


1.2 HỌC TẬP CÁC CHUYÊN ĐỀ: Giáo dục công dân + Giáo dục đạo đức + Giáo dục sức khỏe và cộng đồng + Giáo dục pháp luật, an ninh quốc phòng + Giáo dục truyền thống.


1.3 GIÁO DỤC KẾT HỢP VỚI THỰC TIỄN: Xem phim - giao lưu - thăm viếng….

  1. GIÁO DỤC TRỊ LIỆU: nhằm nâng cao bản lĩnhvà kỹ năng sống cho học viên.

2.1.GIÁO DỤC TƯ DUY TÍCH CỰC – TỰ CHỦ, QUẢN LÝ BẢN THÂN – NHẬN THỨC CÁC GIÁ TRỊ SỐNG (Living values).


     Chương trình này được sự hỗ trợ của Tổ chức UNESCO và UNICEF (Liên hiệp quốc) và do CỤC PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI - Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội huấn luyện.


2.2.TƯ DUY TÍCH CỰC:


     Khi ta làm những gì - cảm nhận những gì cũng bắt đầu từ một suy nghĩ và đều nhận sau đó mọi hệ quả của nó tác động vào bản thânmôi trường, mối quan hệ xung quanh.  

     Chúng ta có 4 loại suy nghĩ chính sau đây:

  • Suy nghĩ tích cực: Suy nghĩ mang lại ích lợi cho chính bản thân bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ về sự chấp nhận, hòa bình, lạc quan, khoan dung,...Suy nghĩ tích cực là thấy một chiếc ly “đầy nửa ly” thay vì “vơi nửa ly”; nghĩa là thấy cái gì mà bạn có và tập trung vào đó thay vì cảm thấy thất vọng về những cái mà bạn không có. Suy nghĩ tích cực giúp bạn hạnh phúc hơn nhiều trong cuộc sống.
  • Suy nghĩ tiêu cực: Những suy nghĩ có hại cho chính bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ thể hiện sự giận dữ, không thể chịu đựng, chỉ trích, phân biệt ……
  • Suy nghĩ vô ích: Suy nghĩ về quá khứ hay những thứ vượt qua kiểm soát của bạn: “Tại sao?”; “Giá như...”, ...Suy nghĩ loại này bao gồm cả sự nghi ngờ, hối tiếc, ảo vọng không thực tế, lo lắng về những việc nhỏ nhặt.
  • Suy nghĩ cần thiết: Những suy nghĩ để lập kế hoạch cho ngày làm việc của bạn; “Tôi cần phải gặp người này vào thời điểm này, tôi cần phải đi đến nơi này,...”

     Suy nghĩ tích cực giúp ta có hành động tốt. Hành động này tác động tự tinổn định cho bản thân đồng thời tác động với môi trườngmối quan hệ quanh ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ tiêu cực, ta sẽ phải trải qua những điều buồn chán, căng thẳngchính ta sẽ là người chịu đựng.
Ví dụ:

     Nếu ta thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng suy nghĩ tích cực ta sẽ có những niềm vui mới và nhiều thành công hơn.


     Những bước giúp thay đổi phản ứng tiêu cực sang tích cực:


Bước 1: Tôi chú ý những gì tôi nói và cách tôi phản ứng người khác. Tôi kiểm tra và thay đổi chính tôichứ không phải những người khác.

Bước 2: Nếu tôi thấy chính tôi chỉ tríchphản ứng những người khác, tôi thay thế những ý nghĩ này bằng những ý nghĩ, phản ứng hữu íchtích cực.

Bước 3: Bất cứ khi nào tôi có những ý nghĩ tiêu cực về chính tôi, người khác và hoàn cảnh, tôi tập trung nhìn vào những khía cạnh tốttích cực.

Bước 4: Khi tôi đối mặt với những thử thách – Tôi chấp nhận rằng tôi thể thay đổitập trung tìm kiếm những giải pháp có lợihiệu quả.

Bước 5: Ngày hôm nay tôi ghi lại những điểm tích cực của mọi người xung quanh và tập sống tốt giống như vậy.

Bước 6: Ngày hôm nay tôi đã xác định rằng những sức mạnh, khả năng cùng với mục tiêu của cuộc đời tôi là hiện thực. Tôi không quan tâm những lúc nản lòng và tôi cũng không bị tác động nào ảnh hưởng được trên con đường tự khẳng định hạnh phúc sẵn có của mình.


     Sức mạnh và hiệu quả của ý nghĩ: giúp đối tượng

  • Có trách nhiệm về những ý nghĩ của mình.
  • Ý nghĩ có sức mạnh rất lớn, tạo nên cảm xúc dẫn tới hành động.
  • Sự lặp đi lặp lại thường xuyên của các ý nghĩ tích cực sẽ tạo niềm tin và thái độ rõ ràng.
  • Các ý nghĩ giống như những hạt giống gieo trồng trong tâm trí. Càng đầu tư càng thêm nhiều sức mạnh cho ý tưởng đó.
  • Các ý nghĩ tích cực cho ta nghị lựcsức mạnh.
  • Các ý nghĩ tiêu cực khiến ta đánh mất sức mạnh, khiến ta mệt mỏikiệt quệ.
  • Cần mất thời gian để thay đổi các tư duy cũ. Hãy kiên nhẫn với chính mình.
  • Tự kiểm soát làm chủ bản thân:

      + Người nghiện ma tuý vốn  rối loạn tâm sinh lý nên rất dễ bị lôi cuốn, kích động trước một vấn đề gì, đó là  một trong những cái cớ để họ trở lại với việc tái sử dụng ma tuý.

      + Bằng phương pháp tư duy tích cực đối tượng  có thể điều chỉnh được những hành động suy nghĩ của chính mình bằng sự  tự kiểm soát làm chủ bản thân. 


     Hai yêu cầu chủ yếu của tự kiểm soát làm chủ bản thân là:

           - Tinh thần khách quan.

           - Bình tĩnh đánh giá sự việc và cách giải quyết.


     Tinh thần thần khách quan làm đối tượng nhìn nhận rõ hơn sự việc và con người của mình không làm sai lạc nhận thức và phán xét của mình.

     Từ những dữ kiện có được, đối tượng phải bình tĩnh đánh giá lại tình huống, sự việc một cách có tình có lý và từ đó vạch ra hướng giải quyết vấn đề.


     Để giáo dục người nghiện ma tuý, phải thực hiện việc này một cách thường xuyên  cho họ tự đánh giá và trình bày cách giải quyết và cách thực hiện.

     Động tác này được lặp đi lặp lại để trở thành một thói quen tốt.


     Để đạt được hai yêu cầu trên đối tượng cần phải tập các đức tính sau:


       Trách nhiệm: Khi đã quyết định và hành động đối tượng phải dũng cảm chấp nhận những hậu quả, việc làm của mình, không đổ lỗi nhưng cũng không phải khư khư giữ lấy ý kiến mình mà phải can đảm nhìn lại các mặt của vấn đề, phát huy những mặt tốt và cương quyết loại bỏ những cái sai, cái xấu để điều chỉnh lại quyết định và chương trình hành động.


       Tinh thần tập thể: “Gieo là gặt ” “sự hợp tác sẽ dẫn đến sự hợp tác” sức mạnh hợp tác sẽ tạo cho công việc dễ dàng và vui vẻ. Người nghiện ma tuý bản thân sống rất chủ quan và ích kỷ do hình thành nhũng thói quen xấu, tinh thần tập thể sẽ tạo cho họ sự thoải mái, nhận thức được chân giá trị của cộng đồng, trách nhiệm vai trò của cá nhân trong tập thể.


     Tự kiểm soát làm chủ bản thân là một sự tập luyện lâu dài, đối tượng phải được từng bước làm quen và tiến hành thực hiện bằng những tình huống do nhà quản lý đặt ra hoặc những công việc, vụ việc cụ thể trong đời sống cộng đồng .

     Đối tượng phải được đóng góp sự giúp đỡ của nhà quản lý, của tập thể thông qua tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hoặc trong giao ban buổi sáng tại các trung tâm cai nghiện.

     Khi đối tượng đạt được các đức tính trên họ có thể hi vọng đối phó với những nghịch cảnh, những tình huống không thuận lợi.


2.3 NHẬN THỨC VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG


     CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG là một chương trình của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới – chương trình này được sự hỗ trợ của UNESCO – Nhóm giáo dục của UNICEF và nhiều tổ chức khác.
Nội dung chương trình nhằm giáo dục các giá trị về cá nhân – xã hội bao gồm các đức tính: Hợp tác – Tự do - Hạnh phúc – Trung thực – Khiêm tốn – Tình yêu – Hòa bình – Tôn trọng – Trách nhiệm – Giản dị – Khoan dung và Đoàn kết.

  • Mục đích của chương trình là:

     - Giúp đỡ các cá nhân suy nghĩ những giá trị cuộc sống – các tác động thực tế trong việc thể hiện những giá trị này khi liên hệ với chính mình, với người khác, với cộng đồng.

     - Để đối tượng hiểu sâu sắc hơn về động cơ, trách nhiệm liên quan đến những suy nghĩ - hành động của bản thân.

     - Điều chỉnh cho đối tượng nhận thức những giá trị cá nhân, xã hội về đạo đức, tinh thần, lối sống – phát triển và làm sâu sắc hơn các giá trị này.

     - Để các nhà quản lý, giáo dục thấy rõ phương pháp giáo dục  là một phương pháp trị liệu quan trọng giúp đối tượng có thể hòa nhập vào cộng đồng với sự tôn trọng – tự tin và có mục đích.

  • Chương trình được xây dựng trên 3 luận điểm cơ bản là:
  • - Dạy sự tôn trọng nhân phẩm cho mỗi người và mọi người. - Khả năng sáng tạo và học tập một cách tích cực khi có cơ hội.

     - Phát triển trong một môi trường tích cực, an toàn, có sự tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau.


2.4 XÂY DỰNG NIỀM TIN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


     Danh ngôn ta có câu: “NIỀM TIN CHỞ ĐƯỢC NÚI”. Xây dựng được niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng là một trong những yếu tố quan trọng nhằm điều trị và phục hồi cho đối tượng cai nghiện.


         * Niềm tin vào sự tồn tại của lòng tốt:

     Khi chúng ta dẫn dắt đối tượng của cộng đồng quay trở về quá khứ, chính chúng ta đã giúp đối tượng đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà đối tượng dấu diếm trong lòng để tìm cách học hỏi từ những vấp váp mà đối tượng đã từng gặp phải. Mặc dù gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì đối tượng cũng không nên đeo đẵng mãi những suy nghĩ về những điều đã xảy ra.
Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà đối tượng đã làm trong quá khứ mà cần thái độ trung thực để sữa chữa những sai lầm của quá khứ. Người nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thật sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như đối tượng cố gắng nỗ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà trị liệu cộng đồng tin tưởng.


       * Niềm tin vào khả năng hối cải và phục thiện của con người:


     Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng “người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện”. Môi trường trị liệu cộng đồng đã bác bỏ điều này vì qua thực tiễn, nhiều người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma tuý và nay đang sống một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang  tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định.


        * Niềm tin vào việc giúp người khác cũng là giúp chính bản thân mình:


     Một trong những phẩm chất quý báu mà đối tượng sau khi điều trị ở môi trường trị liệu cộng đồng có được là việc luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm “cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lối sống lành mạnh thì đối tượng phải biết chia sẽ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thật sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả được hết ý nghĩa của khái niệm “cho” trong môi trường trị liệu cộng đồng: “Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi vấn đề trừ khi bạn chia sẽ với người khác”.


        * Niềm tin vào phẩm giá của con người:


     Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con người. Khi người nghiện có niềm tự hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.


     Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một người tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy tắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về - phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma tuý và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.


2.5 XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:


        * Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong môi trường trị liệu cộng đồng hầu như người ta cũng dễ nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Nhằm tránh việc nhằm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là: “bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người”. Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loại hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.


     Chương trình trị liệu cộng đồng không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần mà còn cần phải sử dụng nhiều biện pháp trị liệu khác.
Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều quan trọng ở đây là sự góp phần điều trị nhằm tăng cường nhận thức cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.


     Cuộc sống trong cộng đồng là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma tuý để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về “mục đích và kết quả”. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị.


     Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong cộng đồng, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma tuý.

Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Đối tượng tỏ ra có triển vọng và trở nên có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta đã có cuộc sống đời thăng trầm chìm nổi nhưng đối tượng đã biết chấp nhận sự thật, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết. Đối tượng hiểu rằng cuộc chiến chống lại sự cám dỗ của ma tuý vẫn chưa chấm dứt và vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài.

Một người nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma tuý mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy. Đối tượng phải biết có thể đốt thành tro tất cả những nổ lực bấy lâu nay nhằm đạt được sự phục hồi. Do đó phải tránh mọi mối liên quan dẫn đến quá khứ tội lỗi đó là yếu tố tiên quyết để duy trì cuộc sống lành mạnh không ma tuý.


     Để duy trì được những gì mà được học, đối tượng phải biết cách chia xẽ những quan điểm – hành vi đúng đắn cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời đối tượng.
Vai trò của đối tượng trong cộng đồng bây giờ là dạy lại những điều mình được học. Chỉ có như vậy đối tượng mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong môi trường trị liệu cộng đồng. 


III.  KẾT LUẬN


     Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khó chữa, có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng. Do những tổn thương về hệ thống não bộ tạo nên những rối loạn về hành vi - nhân cách của người bệnh - suy giảm khả năng xét đoán - xử lý thông tin - mất khả năng tự chủ - hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Người nghiện ma túy là một người đa nhân cách.

     Lạm dụng ma túy là hội chứng rối loạn toàn cơ thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: Tâm sinh lý người bệnh - hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội.


     Việc sử dụng thuốc chỉ có một tác dụng giới hạn mà cần những biện pháp điều trị tổng hợp: Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc cai nghiện của đối tượng mà phải giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan đến hành vi - nhân cách, hoàn cảnh cá nhân, gia đình xã hội và động cơ đã ảnh hưởng đến việc nghiện ma túy của từng đối tượng.

     Từ những lý do trên việc trị liệu cho người nghiện trong một môi trường trị liệu cộng đồng là rất cần thiết. Khác với những phương thức điều trị cổ điển, quy ước chỉ gồm thầy thuốc và bệnh nhân, trị liệu cộng đồng đã huy động được toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân - tập thể người bệnh cũng như toàn bộ nhân viên Trung Tâm tập trung vào mục đích điều trị cho mỗi bệnh nhân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp.

Với thời gian điều trị dài và những biện pháp đúng đắn nhằm gọt dũa, phục hồi hành vi - nhân cách, tạo cho người cai nghiện những nhận thức đúng đắn, hình thành những thói quen, nếp sống tốt để khi trở về với xã hội họ được trang bị bản lĩnh sống với lòng tự tin và sự tự trọng. Họ sẽ từng bước tiến lên trong cuộc sống với sự hỗ trợ của toàn xã hội.

 

 

SÀNG LỌC – ĐÁNH GIÁ VÀ LẬP KẾ HOẠCH CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

SÀNG LỌC – ĐÁNH GIÁ VÀ LẬP KẾ HOẠCH CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY


Để công tác cai nghiện thành công, việc phân loại, đánh giá và lập kế hoạch cho người nghiện ma túy là vô cùng cần thiết. Để đạt được kết quả tốt phải thực hiện các bước sau:
  1. TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ HAY MỨC ĐỘ ĐIỀU TRỊ
  2. TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ HAY MỨC ĐỘ CHĂM SÓC LÀ GÌ?
Bệnh tật có mức độ nặng nhẹ khác nhau, cho nên việc cung điều trị cũng có nhiều mức độ khác nhau. Mỗi người nghiện đều được chăm sóc phù hợp.
Giữa nhân viên chuyên môn và cán bộ quản lý luôn luôn phải giữ mối liên hệ thông tin thường xuyên, qua đó việc thay đổi cách điều trị do những tình hình hiện tại của học viên đã thay đổi.
Việc đồng ý cho người nghiện có quyền ý kiến và tham gia vào môi trường điều trị của mình là điều nên làm, bởi bằng cách đó, học viên thể hiện trách nhiệm thamn gia của mình.

CÁC KHÍA CẠNH ĐÁNH GIÁ ĐỂ QUYẾT ĐỊNH MỨC ĐỘ CHĂM SÓC:

Việc đánh giá người nghiện gồm 6 điều cơ bản:
  1. Nguy cơ xuất hiện hội chứng cai:
- Có khả năng xảy ra tai biến do một bẹnh khác lúc lên cơn vã thuốc.
- Đang có dấu hiệu của hội chứng cai.
- Có thể cắt cơn được không?
  1. Rối loạn sinh học: Ngoài hội chứng cai người nghiện có
- Bệnh cơ hội hoặc các bệnh mãn tính từ trước không?
  1. Trạng thái cảm xúc/ hành vi và những biến chứng:
- Có bệnh tâm thần.
- Có vấn đề tâm lý ảnh hưởng đến việc điều trị để trở nên phức tạp.
- Nếu có thì những bệnh trên có cản trở quá trình điều trị không?
  1. Chấp nhận/ Không tiếp nhận điều trị:
- Người nghiện có tự nguyện điều trị hay bị cưỡng bức điều trị?
- Thái độ người nghiện với việc điều trị: có chán nãn, lo lắng hay quyết tâm cai nghiện.  
  1. Tái nghiện/ Nguy cơ tiếp tục sử dụng ma túy:
- Tâm trạng người nghiện cực kỳ chán nản.
- Thiếu tin tưởng vào việc cai nghiện.
- Còn nhiều vấn đề tồn tại chưa giải quyết được ảnh hưởng đến tâm lý người nghiện khi đến trung tâm cai nghiện.
- Yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ cho đối tượng cai nghiện.
- Người nghiện tin tưởng gì sau khi rời trung tâm.
  1. Môi trường cho sự phục hồi:
- Thái độ của các thành viên trong trung tâm tác động trên tư tưởng người nghiện.
- Sự giúp đỡ sau khi ở trung tâm về của gia đình, xã hội thế nào?
- Người nghiện có tự tin, có khả năng giải quyết các khó khăn không?

CÁC MỨC ĐỘ CHĂM SÓC:

Gồm 5 mức độ chăm sóc:
- Mức độ I:       nhẹ, dựa vào cộng đồng.
- Mức độ II:      nhẹ, dựa vào cộng đồng học viên được điều trị 9 giờ/ tuần.
Mức độ II.1   : Tương đối nhẹ, điều trị, giáo dục trên 9 giờ / tuần
Mức độ II.2   :Tương đối đã nặng, điều trị giáo dục trên 3 giờ / ngày.
- Mức độ III:     còn nhẹ, cơ may khỏi còn cao, dựa vào cộng đồng
Mức độ III.1 : Nhập Trung tâm nhận chương trình điều trị
Mức độ III.2 :       Nhập Trung tâm phải theo dõi 24/24. Có khả năng điều trị bằng methadone.
- Mức độ IV:     Nghiện nặng phải vào trung tâm
- Mức độ V:      Nghiện nặng + bệnh tâm thần
Theo dõi chăm sóc 24/24, điều trị phục hồi
Đồng thời chữa bệnh tâm thần.
  • ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ:
Đánh giá kết quả điều trị là điều không thể thiếu được trong kế hoạch điều trị. Việc đánh giá định kỳ sẽ giúp chúng ta:
  1. Hiểu rõ hơn về đối tượng, ưu khuyết nhược điểm – các vấn đề tâm sinh lý còn tiềm tàng, từ đó thay đổi chương trình điều trị cho phù hợp.
  2. Xác định lại mức độ chăm sóc đối tượng. Ví dụ: qua phân loại và điều trị ban đầu, chúng ta nghĩ rằng đối tượng nghiện nhẹ. Song sau một thời gian, chúng ta phải thay đổi mức độ chăm sóc và biện pháp điều trị nếu có dấu hiệu chứng tỏ bệnh nhân đã không khai thật từ lúc ban đầu.
  3. Từ hai điều nhận thức trên, hiệu quả điều trị sẽ được nâng cao.

CÁC THỜI ĐIỂM PHẢI ĐÁNH GIÁ:

Việc đánh giá kết quả đòi hỏi phải sử dụng một biểu mẫu câu hỏi giống nhau để hỏi đối tượng trong từng thời điểm như sau:
  1. Bệnh nhân bắt đầu điều trị
Ngoài việc điều tra để nắm bắt thông tin về toàn bộ con người của đối tường, cũng như tình trạng nghiện của đối tượng, công tác đánh giá cần được tiến hành ngay khi đối tượng được bắt đầu điều trị cắt cơn. Đây là bảng đánh giá đầu tiên. Những thông tin trên này sẽ được sử dụng làm mốc so sánh với những bảng đánh giá sau này.
  1. Khi bệnh nhân nhập khu sinh hoạt hằng ngày
Họ đước đánh giá lần thứ hai, và kết quả này được đem ra so sánh với lần đầu tiên.
  1. Khi bệnh nhân đang ở giai đoạn điều trị.
Họ được đánh giá lần thứ 3. Các thông tin này cũng được so sánh với những lần trước.
  1. Khi bệnh nhân ở cuối chương trình điều trị
Họ được đánh giá lần cuối trước khi rời trung tâm – các thông tin này sẽ được so sánh với các thông tin lần đầu để hiểu được quá trình tiến bộ của họ.
  1. Theo dõi đánh giá ba tháng sau cai khi bệnh nhân trở về nhà.
Đây là thời điểm thích hợp với điều kiện của chúng ta. Nếu bệnh nhân đã tái nghiện, rõ ràng họ cần tư vấn và động viên tái cai, còn nếu họ đang tốt đẹp, chúng ta giúp đỡ họ củng cố nhận thức hành vi.

NHỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀO CẦN ĐÁNH GIÁ:


Về nguyên tắc, tất cả mọi đối tượng được điều trị đều được đánh giá. Trong thực tế nếu đối tượng quá đông, trường hợp này rất khó đánh giá, chúng ta nên phân loại những nhóm người nghiện, và sau đó đánh giá mẫu đối tượng đại diện mà thôi. Ví dụ:
  • Đánh giá những đối tượng được chọn làm điểm.
  • Hoặc đánh giá những đối tượng tỏ ra hợp tác với kế hoạch điều trị, hoàn tất chương trình điều trị.
  • Hoặc đánh giá những đối tượng tỏ ra bất hợp tác, bỏ dở điều trị.

CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ:

    Có rất nhiều hệ thống đánh giá cực kì phức tạp, chưa thích hợp với chúng ta. Chúng ta nên đặt ra một hệ thống đánh giá đơn giản. một hệ thống đánh giá đơn giản cần qua những khía cạnh sau:
    • Các đối tượng tham gia duy trì điều trị, số ngày tham gia.
    • Các đối tượng kết thúc chương trình điều trị, số ngày tham gia.
    • Sự hài lòng của đối tượng đối với chương trình điều trị.
    Chúng ta đều biết rằng không một người nghiện nào hài lòng khi họ bắt đầu điều trị và càng tăng lên nếu đối tượng muốn bỏ dở điều trị. Kết quả sự đánh giá khách quan với mức độ hài lòng của đối tượng cho phép chúng ta dự báo người nào sẽ bỏ dỡ điều trị, người nào đạt được kết quả. Kết quả của sự đánh giá không chỉ nhằm mục đích thu thập thông tin để thống kê hay báo cáo, mà những kết quả ấy còn phải được sử dụng để nâng cao chất lượng điều trị hay thay đổi chương trình điều trị cho thích hợp với đối tượng. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, sự đánh giá cần được tiến hành trên 3 khía cạnh:

    Hiệu lực của điều trị căn cứ vào các tiêu chuẩn sau:


    Bảng tự đánh giá của đối tượng gồm các mặt hành vi, cảm xúc, thái độ, mức độ thèm ma túy. Kinh nghiệm cho thấy trong 3 tháng đầu, bệnh nhân rất cường điệu, tự đánh giá rất cao. Sau đó sự trung thực dần trở lại, mức độ đánh giá sẽ thấp hơn.
    1. Đánh giá tinh thần và thái độ lao động.
    2. Đánh giá tinh thần chấp hành nội quy.
    3. Đánh giá các mối quan hệ với tập thể.
    4. Đánh giá mối quan hệ với nhân viên tư vấn.
    5. Đánh giá mức đội cảm xúc tâm lý.
    6. Đánh giá mức độ tình cảm với gia đình.
    7. Đánh giá khía cạnh giáo dục dạy nghề.
    8. Đánh giá y khoa về sức khỏe chung.
    9. Hiệu quả của điều trị
    Nên sử dụng cách đơn giản như sau:
    • Tự nguyện thực sự: cộng tác với chương trình điều trị, có tiến bộ.
    • Còn lưỡng lự chưa dứt khoát trong việc cai nghiện ma túy.
    • Không muốn cai: không có dấu hiệu tiến bộ.

    Sự hài lòng của đối tượng


    Cho phép chúng ta dự đoán trước về kết quả điều trị.

    MỘT VÍ DỤ VỀ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ SAU 5 GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRỊ

    • Thời gian điều trị chưa đủ/đủ.
    • Sử dụng ma túy giảm/ tăng/ ngừng hẳn sau khi điều trị.
    • Dính líu đến luật pháp trước và sau điều trị.
    • Hoạt động có ích với xã hội trước và sau điều trị.
    • Mức độ hài lòng về lối sống của mình trước và sau điều trị.
    • Thất bại trong điều trị (biện pháp thay thế mesthadone như một biện pháp nhân bản hơn là cho bệnh nhân vào tù).

    LẬP KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ:


    Việc lập kế hoạch được tiến hành ngay sau khi đã nắm bắt những thông tin về người nghiện. Cần cho đối tượng tham gia vào việc xây dựng kế hoạch điều trị cho chính mình. Chính người nghiện là thành viên có trạch nhiệm trong việc điều trị cho chính mình, thậm chí ngay cả khi họ không muốn điều trị, chúng ta cũng phải để họ tham gia bước đầu vào những mục tiêu sơ khởi, và sẽ nâng dần trách nhiệm họ lên cao trong quá trình tiến hành kế hoạch.
    1. Lập kế hoạch điều trị : cần 3 giai đoạn :
    • Mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn.
    • Yêu cầu bệnh nhân tuân thủ các mục tiêu đề ra.
    • Phương pháp tiến hành và cung ứng dịch vụ.
    1.1 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn : Mỗi bệnh nhân, phải có một kế hoạch đề ra mục tiêu theo từng giai đoạn, theo dữ liệu thông tin có được, ví dụ một bệnh nhân bệnh nặng, tâm lý tuyệt vọng thì có thể 3 mục tiêu như sau :
    • Ngưng sử dụng ma túy, tăng cường sức khỏe
    • Cải thiện tâm trạng qua tâm lý, giáo dục, thuyết phục.
    • Về khía cạnh y khoa, điều trị những bệnh kèm theo.
    1.2 Yêu cầu bệnh nhân tuân thủ các mục tiêu đề ra. Mục tiêu ngưng sử dụng ma túy: làm trong sạch môi trường yêu cầu bệnh nhân duy trì tình trạng cai, cộng tác với kế hoạch điều trị, sinh hoạt tư vấn cá nhân hay tư vấn nhóm, sinh hoạt nhóm.
    • Mục tiêu điều chỉnh tâm lý: yêu cầukhuyến khích bệnh nhân phát biểu, bảy tỏ cảm xúc, ước muốn – để động viên – giải thích và có biện pháp giúp đỡ hữu hiệu.
    • Với mục tiêu điều trị bệnh : bắt buộc khám chữa bệnh.
    1.3 Phương pháp : Phương pháp thực hiện tùy theo mục tiêuyêu cầu. Nhóm chuyên viên điều trị sẽ phác thảo kế hoạch thực hiện như :
    • Giúp đỡ bệnh nhân cắt cơn, hồi phục sức khỏe.
    • Điều chỉnh tâm lý, cần nắm vững những thông tin bệnh nhân còn ẩn giấu, khuyến khích, thuyết phục.
    • Điều trị các bệnh mãn tính – Các bệnh cơ hội và các rối loạn tâm sinh lý sau cắt cơn.
    1. Các thời điểm thực hiện kế hoạch điều trị :
    • Trong việc lập kế hoạch điều trị cần tiến hành ngay khi đối tượng vào Trung Tâm.
    • Định hướng cho điều trị, bao gồm việc hướng dẫnbám sát đối tượng trong quá trình điều trị.
    • Theo dõi sau cai (khi đối tượng trở về cộng đồng)
    2.1 Tiến hành ngay khi đối tượng vào Trung tâm : Nhân viên tiếp nhận phải đánh giá tức thời tình trạng của đối tượng, và căn cứ vào đó đề ra kế hoạch cụ thể: phân loại, định múc độ chăm sóc thích hợp và đánh giá kết quả điều trị
      2.1.1.Xác định mức độ chăm sóc thích hợp : đánh giá sơ bộ ban đầu. 2.1.2.Đánh giá sau khi cắt cơn xong :
    • Đối tượng đã ổn định chưa?
    • Những triệu chứng gì đang còn tồn tại hiện nay?
    • Tình trạng hiện tại và ước muốn?
    2.2 Thành lập đội ngũ điều trị cho đối tượng. Mỗi đối tượng có những vấn đề riêng biệt Việc điều trị toàn diện bệnh lý – tâm lý – sinh học – xã hội đòi hỏi một đội ngũ điều trị chuyên nghiệp, đa năng. Tùy theo rối loạn của đối tượngchuyên môn ngành nào, ngành ấy phải giải quyết. Việc phối hợp công tác phải ở một thể thống nhất khi đánh giá nhu cầu điều trị cho đối tượng.
      2.2.1. Mỗi đối tượng phải có và phải hiểu mô hình điều trị của mình, mục tiêu mình muốn đạt đến.
      2.2.2.Hiểu được mô hình điều trị của nhân viên khác, cũng như mục tiêu chung của cả nhóm.
      2.2.3. Hiểu rõ cách kết hợp lĩnh vực của mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.
      2.2.4.Tránh được biện pháp của mìnhmâu thuẫn với biện pháp của nhân viên khác.
    Sau đây là ví dụ phối hợp của nhóm điều trị gắn bó về một trường hợp cắt cơn xong 2 tháng: đối tượng suy sụp, không cộng tác với điều trị:
    • Nhân viên giáo dục tìm hiểu ngoài sự suy sụp sinh lý sau khi cắt cơn còn có vấn đề gì nữa không, động viên khích lệ đối tượng: an ủi họ rằng thời điểm của giai đoạn phục hồi, tâm trạng chán nản là điều thường thấy.
    • Nhân viên y tế xác định tình trạng bệnh lý của đối tượng.
    • Thảo luận với nhân viên dạy nghề về tình trạng của đối tượng.
    • Trao đổi với nhân viên quản lý để tìm hiểu liệu môi trường quản lý có làm thương tổn tâm lý đối tượng không.
    • Trao đổi với nhân viên tâm lý để đánh giá phân tích sâu hơn.
    • Sau cùng đưa ra được cơ cấu và định hướng cho điều trị tiếp theo với đối tượng, giám sát đối tượng trong suốt quá trình điều trị.
    1. Các lợi ích của việc lập kế hoạch điều trị:
    Một kế hoạch điều trị đúng sẽ phải triển khai điều trị theo hướng tốttoàn diện. Qua kế hoạch điều trị, cả đối tượng lẫn nhân viên điều trị đều có lợi ích.
    • Đa số những người nghiện đều không biết làm sao để cai. Việc cho họ tham gia vào nhóm điều trị sẽ làm họ yên tâm và cộng tác với kế hoạch. Như vậy cơ may thành công rất cao.
    • Người nghiện hiểu những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn do chương trình đề ra. Họ được thông báo trước những kế hoạch mà họ phải vượt qua. Vì vậy họ có chuẩn bị về tâm lý để phấn đấu.
    • Người nghiện hiểu được những mục tiêu dài hạn dành cho họ, cũng như các mục tiêu họ phải phấn đấu để vươn tới như một điều kiện tiên quyết để được trở về với gia đình.

    CÁC TIÊU CHUẨN ĐIỀU TRỊ VÀ CÁC HÌNH THỨC CHĂM SÓC :


    ĐỊNH NGHĨA:


    Những tài liệu (Phần II+III) sẽ được trình bày ở đây là tóm tắt một phần hay trích dẫn nguyên văn tài liệu : “Đánh giá tiêu chuẩn của người nghiện trong việc điều trị tình trạng tối loạn do việc sử dụng các chất ma túy gây ra” năm 1991 và tài liệu “Đánh giá tiêu chuẩn của người nghiện trong việc điều trị những rối loạn có liên quan đến ma túy” tái bản lần 2 năm 1996 của HIỆP HỘI NGHIÊN CỨU VỀ NGHIỆN MA TÚY CỦA HOA KỲ.

    Những tiêu chuẩn này đại diện cho những phương pháp được nghiên cứuáp dụng nhiều nhất trong việc xác định chính xác mức độ chăm sóc cho đối tượng nghiện ma túy. Đây là kết quả nghiên cứu trong suốt 10 năm của những tổ chức Quốc gia, Tổ chức Liên Bang trên toàn nước Mỹ và nó đã được công nhận của hầu hết các Cơ sở Y tế, tổ chức điều trị cai nghiện, các Công ty Bảo hiểm (Tổ chức quản lý dịch vụ chăm sóc), những tổ chức bảo đảm quyền lợi của người nghiện trong việc điều trị.

    1/ Việc đánh giá tiêu chuẩn điều trị cho phép chúng ta tìm ra mức độ chăm sóc thích hợp cho người nghiện ma túy.
    2/ “Mức độ chăm sóc” này được định nghĩa là “Mức độ tăng dần các dịch vụ trợ giúp của môi trường và lâm sàng phối hợp lẫn nhau hoặc riêng rẽ với nhau”
    3/ Mức độ chăm sóc được xây dựng dựa trên một danh mục mà ta gọi là “Các hình thức chăm sóc”

    CÁC HÌNH THỨC SĂN SÓC VÀ ĐIỀU TRỊ :


    Một số nét cơ bản :
    1/ Bệnh lý thì có mức độ nặng nhẹ khác nhau và việc cung cấp dịch vụ điều trị cũng có mức độ khác nhau tương ứng (Mức độ chăm sóc)
    2/ Thống nhất đồng bộ giữa những người cung cấp dịch vụ điều trị (nhân viên chuyên môn và cán bộ quản lý) ở từng mức độ chăm sóc khác nhau.
    3/ Việc điều trị dựa vào cộng đồng luôn luôn là xuất phát điểm cho bất kỳ đối tượng nào cần được chăm sóc.
    4/ Những tiêu chuẩn đánh giá đối tượng càng cụ thể thì danh mục các dịch vụ chăm sóc càng khách quan, dễ nhận biết.
    5/ Tiến trình thực hiện biện pháp trong danh mục theo nhu cầu của đối tượng và điều đó là hoàn toàn hợp lý.
    6/ Không có thời gian cố định cho bất kỳ mức độ chăm sóc cụ thể nào.
    7/ Bất kỳ khi nào có thể, người nghiện đều có quyền được tham gia một môi trường điều trị ít bị gò bó, ức chế nhất, nơi mà việc điều trị cai nghiện được tổ chức sao co có thể tối đa hóa những vấn đề sau:
    - Tiếp tục tham gia cùng với sự trợ giúp của cộng đồng.
    - Tham gia quyết định chương trình điều trị của riêng mình.

    CÁC GIAI ĐOẠN CẦN CAN THIỆP:


    1/ Can thiệp giai đoạn sớm:
    • Dựa vào cộng đồng
    • Đánh giáđề xuất điều trị
    • Can thiệp sớm
    • Giảm tác hại
    • Vươn xa hơn: Tích cực tuyên truyền bệnh nhân đi điều trị
    • Giáo dục tác hại tệ nạn nghiện ma túy để quần chúng cảnh giác, đối tượng nhận biết tác hại ma túy.
    • Chăm sóc sau cai
    • Phòng ngừa tái nghiện.
    2/ Can thiệp mức độ I :
    • Dựa vào cộng đồng
    • Dịch vụ cho người nghiện ngoại trú
    • Dịch vụ điều trị và phục hồi
    • Mỗi người nghiện được điều trị dưới 9 giờ 1 tuần
    3/ Can thiệp mức độ II :
    • Dựa vào cộng đồng
    * Mức độ II.1 :
    • Dịch vụ chăm sóc tích cực người nghiện ngoại trú
    • Dịch vụ điều trịphục hồi
    • Mỗi người nghiện được điều trị trên 9 giờ tuần
    * Mức độ II.2 :
    • Người nghiện ngoại trú có nằm viện một thời gian
    • Việc điều trị lâm sàng tích cực được tiến hành trên 20 giờ 1 tuần
    4/ Can thiệp mức độ III - Không dựa vào cộng đồng * Mức độ III.1 :
    • Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý về lâm sàng ở mức độ trung bình
    • Mô hình “Điều trị mở”
    • Tối thiểu 5 giờ điều trị mỗi tuần
    • Tập trung vào việc tái hoà nhập cộng đồng trong tình trạng không sử dụng ma túy, quay lại làm việc, học tập và cuộc sống gia đình.
    • Gặp mặt song phương, họp nhóm bạn giúp bạn.
    * Mức độ III.2:
    • Dành cho đối tượng nặng
    • Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về lâm sàng
    • Mô hình “Cộng đồng trị liệu”
    • Môi trường phục hồi được thiết kế chặt chẽ
    • Dịch vụ điều trị lâm sàng với trình độ chuyên môn từ trung bình đến cao
    • Niềm tin rằng cộng đồng trị liệu là một yếu tố điều trị
    • Nâng cao ý thức trách nhiệm của đối tượng, thay đổi cá tính.
    * Mức độ III.3:
    • Dành cho đối tượng rất nặng
    • Dịch vụ chăm sóc điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về mặt y tế
    • Tập trung vào mô hình điều trị y tế
    • Môi trường phục hồi được thiết kế chặt chẽ
    • Đội ngũ nhân viên điều trị có ý thức kỷ luật cung cấp dịch vụ theo dõi 24 giờ / ngày
    • Người nghiện với những rối loạn y – sinh học và những biến chứng về cảm giác, hành vi
    • Phương pháp trị liệu bằng chất đối kháng
    5/  Can thiệp mức độ IV:
    • Dịch vụ điều trị nội trú có sự quản lý tích cực về y tế
    • Lên kế hoạch theo dõi y khoa suốt 24 giờ bao gồm đánh giá, chăm sóc và điều trị.
    • Mức độ chăm sóc này có ở:
      • Dịch vụ cấp cứu ở bệnh viện đa khoa cho người nội trú
      • Viện cấp cứu tâm thần hay bộ phận cấp cứu tâm thần trong bệnh viện đa khoa
      • Cơ sở, đơn vị được chỉ định làm công tác cai nghiện (Trung tâm cai nghiện)
    6/ Những khía cạnh của việc đánh giá:
    Gồm 6 vấn đề được đánh giá với mức độ khác nhau – từ đó cho phép:
    • Chuyển người nghiện từ chương trình điều trị dựa vào cộng đồng này sang một chường trình điều trị dựa vào cộng đồng khác hay một mức độ chăm sóc khác phù hợp hơn.
    1. Đánh giá mức độ điều trị :
    2. Ngộ độc cấp tínhnguy cơ xuất hiện hội chứng cai
    3. Những rối loạn y – sinh họcbiến chứng (các bệnh phối hợp)
    4. Tình trạng cảm xúc hành vinhững biến chứng
    5. Viêc chấp nhận/ không chấp nhận điều trị
    6. Tái nghiện/ nguy cơ tiếp tục sử dụng ma tuý
    7. Môi trường: Cộng đồng, tình hình ma tuý ở địa phương

    Những khía cạnh của việc đánh giá:

    1. NGỘ ĐỘC CẤP TÍNH NGUY CƠ XUẤT HIỆN HỘI CHỨNG CAI VÀ CÁC BỆNH CƠ HỘI KÈM THEO:
    2. Những nguy cơ đi kèm với tình trạng ngộ độc cấp tính
    3. Nguy cơ hội chứng cai (Số lượng, số lần sử dụng, gần đây đối tượng cai nghiện như thế nào?)
    4. Có xuất hiện những dấu hiệu của hội chứng cai hay không?
    5. Được giúp đỡ trong quá trình cắt cơn giải độc
    6. Rối loạn y – sinh học và những biến chứng
    7. Các bệnh cơ hội khác ngoại hội chứng cai
    8. Các bệnh mãn tính ngoài hội chứng cai
    9. Chăm sóc tình trạng bệnh lýhội chứng cai
    10. TRẠNG THÁI CẢM XÚC/ HÀNH VI VÀ NHỮNG BIẾN CHỨNG:
    11. Việc điều trị trở nên phức tạp nếu người nghiện mắc bệnh tâm thần hay rối loạn cảm xúc – tâm lý hành vi
    12. Người nghiện có mắc những bệnh mãn tính, bệnh cơ hội đều ảnh hưởng đến công tác điều trị - Không được bỏ sót các bệnh này.
    13. VIỆC CHẤP NHẬN, KHÔNG CHẤP NHẬN ĐIỀU TRỊ CẦN XÁC ĐỊNH RÕ:
    14. Người nghiện quyết tâm điều trị không?
    15. Người nghiện có cảm thấy bị cưỡng bức khi phải điều trị không?
    16. Người nghiện đã sẵn sàng thay đổi như thế nào khi được giải thích rõ các vấn đề?
    17. Người nghiện có biểu hiện chấp nhận điều trị là do bị cưỡng ép hay tự nguyện?
    18. Người bệnh lo âu, chán nản về vấn đề nghiện của mình như thế nào?
    19. VIỆC TÁI NGHIỆN VÀ NGUY CƠ TIẾP TỤC SỬ DỤNG MA TUÝ:
    20. Người nghiện có tâm trạng cực kỳ chán nản không?
    21. Người nghiện có tiếp tục sử dụng ma tuý không?
    22. Người nghiện có nắm được kỹ năng nhằm đương đầu với nguy cơ tái nghiện hay tiếp tục sử dụng ma tuý không?
    23. Những vấn đề tồn đọngtác nhân gây ức chế đã được giải quyết trước khi họ được an toàn xuất viện như thế nào?
    24. Nhận thức của đối tượng về nguyên nhân và quá trình cai nghiện, về cách đối phó với cảm giác thèm thuốc và kiểm soát tính bốc đồng.
       

    ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA CỦA CÁC NẠN NHÂN BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL

    ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA

    ĐỐI VỚI CÁC NẠN NHÂN

    BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG

    NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL


    (Đề tài do Ủy ban An toàn Giao thông và GRSP đề nghị)

       Chủ nhiệm đề tài: 

     PGS.TS. Nguyễn Thị Thiềng 
    Thành viên nhóm nghiên cứu:

     TS. Nguyễn Thị Minh Hoà; ThS. Hà Tuấn Anh


    1.  Lý do nghiên cứu 


    Vai trò của rượu bia trong tai nạn thương tích được nhấn mạnh trong nhiều tài liệu đang được lưu giữ ở các nước kinh tế phát triển. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vai trò của rượu bia liên quan đến tai nạn thương tích đặc biệt đáng báo động ở các nước đang phát triển, nơi mà việc tiêu thụ rượu bia và tai nạn thương tích ngày càng tăng trong khi các chính sách về y tế công cộng vẫn còn tỏ ra thiếu hiệu quả.

    Ở Việt Nam, thiếu dữ liệu mang tính khoa học về tiêu thụ rượu bia và mối quan hệ giữa sử dụng rượu bia với tai nạn thương tích, để có thể đưa ra chính sách phòng chống sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Tác động của nồng độ cồn đến tai nạn thương tích không được ghi lại một cách hệ thống và đầy đủ. Điều này đã được các bệnh viện, cảnh sát hoặc các nhân viên điều tra xác nhận.

    Hiện nay, chưa có một nghiên cứu ở tầm quốc gia và chưa có một hệ thống giám sát theo dõi những ảnh hưởng của sử dụng rượu bia đến tai nạn giao thông. Hơn nữa, mặc dù các thương tích do tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước về mức độ phổ biến và mức độ nghiêm trọng trong số các loại hình thương tích, hệ thống báo cáo hiện nay đã không đánh giá đúng khía cạnh quan trọng nhất của vấn đề này.


    Giống như tốc độ, sự tiêu thụ rượu bia làm tăng xác suất xảy ra các vụ va chạm và gây hậu quả tử vong hoặc các thương tích nghiêm trọng. Sự suy yếu gây ra bởi rượu bia là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cả nguy cơ gây ra tai nạn trên đường cũng như tính khốc liệt của các chấn thương gây ra bởi các vụ tai nạn đó.

    Mức độ thường xuyên của việc uống rượu bia trong khi lái xe có sự khác nhau giữa các quốc gia, nhưng dù ở đâu thì đó cũng là một nguy cơ rất lớn gây ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ. Phạm vi ảnh hưởng của rượu bia đến tai nạn giao thông đường bộ cũng khác nhau giữa các quốc gia, và do đó việc so sánh trực tiếp giữa các quốc gia là việc làm khó khăn.

    Ở nhiều quốc gia có thu nhập cao, khoảng 20% số lái xe bị chấn thương nghiêm trọng gây tử vong đều có nồng độ cồn trong máu vượt quá giới hạn cho phép (nghĩa là ở phía trên của giới hạn theo quy định của pháp luật). Các nghiên cứu tại các nước có thu nhập thấp đã chỉ ra rằng nồng độ cồn trong máu của những lái xe bị chấn thương nghiêm trọng dẫn đến tử vong là ở trong khoảng giữa 33% và 69%. 


    Tai nạn giao thông đường bộ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra chấn thương và tử vong tại Việt Nam. Hơn một triệu người tử vong và hàng chục triệu người bị chấn thương mỗi năm do tai nạn giao thông đường bộ. Để tìm giải pháp hạn chế tai nạn giao thông đường bộ, nghiên cứu này hướng đến mục tiêu tăng cường việc tuân thủ quy định của Luật Giao thông đường bộ về sử dụng rượu bia của những người tham gia giao thông đường bộ. 


    2.  Mục tiêu nghiên cứu


    1.   Tổng hợp các hoạt động, dự án can thiệp phòng chống lạm dụng rượu bia trong điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Việt Nam từ 2002 tới nay;


    2.   Tiến hành các biện pháp thu thập số liệu về sử dụng rượu/bia của các nạn nhân tai nạn giao thông đến cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Việt Đức và St. Paul, Hà nội;


    3.   Đánh giá hiện trạng sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông của các nạn nhân nhập viện;


    4.   Đánh giá một số yếu tố liên quan giữa việc sử dụng rượu bia và tình trạng sức khỏe, chi phí của nạn nhân khi nhập viện


    3.  Phương pháp nghiên cứu


    Nghiên cứu này sử dụng kết hợp các phương pháp: nghiên cứu tài liệu có sẵn, nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Thông tin định lượng được thu thập theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp dựa vào bảng hỏi đã được thiết kế sẵn.


    3.1  Phương pháp nghiên cứu tài liệu có sẵn


    Các chuyên gia đã thực hiện thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn của các dự án, chương trình can thiệp, các nghiên cứu đã tiến hành từ 2002 đến nay ở Việt Nam liên quan đến việc phòng tránh lạm dụng bia rượu trong quá trình tham gia giao thông đường bộ, ảnh hưởng của việc sử dụng bia rượu đến tai nạn giao thông đường bộ cũng như hậu quả kinh tếxã hội của nó đối với gia đình và xã hội. 


    3.2  Phương pháp nghiên cứu định lượng


    Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng nhằm thu thập thông tin đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng rượu bia đối với tai nạn giao thông đường bộ. Ảnh hưởng của mức độ sử dụng rượu bia đối với việc gây ra tai nạn giao thông đường bộ được phân tích không chỉ đối với người điều khiển mà cả đối với người không điều khiển phương tiện.

    Phân tích này cũng được tiến hành đồng thời cả với người có và không sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông đường bộ. Trên thực tế, đôi khi người tham gia giao thông đường bộ không sử dụng rượu bia lại là nạn nhân của người có sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông.
    Ngoài ra, để phân tích hậu quả kinh tế-xã hội của tai nạn thương tích trong giao thông đường bộ đối với xã hội và gia đình, nghiên cứu này còn thu thập thông tin về các chi phí thực tế và chi phí cơ hội khi bị tai nạn thương tích do va chạm/tai nạn trong giao thông đường bộ.


    3.2.1  Đối tượng thu thập thông tin


    Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nói trên đối tượng thu thập thông tin trong nghiên cứu này là:

    1.   Những người từ 16 tuổi trở lên;

    2.   Bị tai nạn giao thông đường bộ, thời gian bắt đầu xảy ra va chạm/tai nạn trong vòng 8 tiếng đồng hồ;

    3.   Là những người đã nhập viện, nằm lưu ở phòng khám, phải xử lý tiểu phẫu thuật, kể cả những bệnh nhân tử vong trong bệnh viện và tử vong trong khi nằm ở phòng khám.

    Không điều tra những người đến khám rồi về ngay hoặc tử vong trước khi đến bệnh viện.


    3.2.2  Phương pháp chọn mẫu


    Tất cả những người thuộc các tiêu chuẩn nói trên, đồng ý trả lời phỏng vấn hoặc được người nhà đồng ý phỏng vấn được đưa vào mẫu điều tra


    3.2.3  Cỡ mẫu nghiên cứu


    Để đảm báo kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê, cỡ mẫu được xác định theo công thức: 

    o Trong đó: 

    z = 1,96 tương ứng với mức tin cậy  = 0,05;

    p: ước lượng tỷ lệ nạn nhân bị tai nạn giao thông có sử dụng rượu trong vòng 8 tiếng trước thời điểm xảy ra tai nạn (ước lượng p = 0,4);

    D: là độ chính xác chấp nhận được (lấy d = 0,035).


    Kết quả tính toán n = 753 người, dự tính có 5% đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu, tổng số đối tượng nghiên cứu là: 800 người và được phân bố: 500 người tại BV Việt Đức và 300 người tại BV Saint Paul.


    Trên thực tế, chúng tôi đã thu thập được 775 phiếu đủ tiêu chuẩn (tại BV Việt Đức điều tra 509 người và BV Saint Paul: 266 người) 


    3.2.4  Địa điểm tiến hành thu thập thông tin


    Nghiên cứu được tiến hành tại 02 bệnh viện Việt Đức và Saint Paul Hà Nội. Đây là hai bệnh viện có số bệnh nhân bị tai nạn thương tích do giao thông đường bộ lớn. 


    4.  Kết luận và Khuyến nghị 


    4.1  Kết luận


    a.  Kết luận về rà soát chính sách và nghiên cứu tài liệu sẵn có


    - Việc giảm thiểu sử dụng rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã được đưa vào Bộ luật Hình sự của Việt Nam năm 1999. Điều này cho thấy rằng chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề này.


    - Cho đến nay, đã có 5 lần chính phủ Việt Nam sửa đổi các quy định về xử phạt người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sử dụng bia rượu quá nồng độ cho phép. Tuy nhiên, các quy định trước chưa có cơ chế rõ ràng để buộc người tham gia giao thông phải thi hành những quy định về sử dụng rượu bia.
    Tại Bộ Luật giao thông 2001 đã quy định cụ thể chỉ số về nồng độ cồn nhưng chậm triển khai các chế tài thực hiện (quy định mức xử phạt hành chính, quy định cho phép cảnh sát có quyền thử nồng độ cồn của người điều khiển PTGT). Tại Bộ Luật 2008 mức quy định nồng độ cồn cho phép giảm xuống. Hướng dẫn cụ thể đang được soạn thảo để thực hiện.


    - Các nghiên cứu khoa học trước đây đã chỉ ra rằng tai nạn giao thông là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tai nạn thương tích hiện nay. Trong đó, uống rượu bia là một nguyên nhân quan trọng. Đặc biệt là tình trạng uống rượu bia khi lái xe mô tô, xe gắn máy đa số phổ biến ở những người trong độ tuổi lao động.
    Mặt khác, điều trị chấn thương sọ não gây tổn hại không chỉ về kinh tế mà cả về tinh thần cho nạn nhân và gia đình. Cần đưa lên truyền hình những vụ tai nạn giao thông gây ra do người lái xe hoặc nạn nhân đã sử dụng rượu bia quá liều lượng. Đồng thời, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia phát trên truyền hình vào giờ vàng để tuyên truyền, giáo dục, răn đe.


    - Các giải pháp tỏ ra hữu hiệu nhất hiện nay là kết hợp giữa tuyên truyền, xây dựng hạ tầng cơ sở (các biển báo, vạch báo giảm tốc độ khi đi qua đường dân sinh) và xử phạt nghiêm minh, công bằng và minh bạch các hiện tượng vi phạm.
    Muốn vậy, Nhà nước cần hoàn thiện quy định pháp lý về xử lý hành vi uống rượu bia quá nồng độ quy định và sử dụng chất kích thích mà pháp luật cấm sử dụng đối với người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khi tham gia giao thông để cảnh sát có thể thi hành nhiệm vụ dễ dàng và minh bạch, công tâm.
    Mặt khác, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông đường bộ một cách khoa học, đầy đủ, chính xác và thuận tiện khi khai thác là một đòi hỏi tất yếu để các nhà hoạch định chính sách có cơ sở ra những quyết sách đúng và sát với thực tế. 


    - Một số cơ quan chính phủ: Uỷ ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia; Lực lượng Cảnh sát giao thông; Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số tổ chức quốc tế: Jica Nhật Bản; Tổ chức Y tế thế giới; một số công ty sản xuất phương tiên giao thông như công ty Honda Việt Nam và Hội Bảo hiểm Việt Nam, đã có những hoạt động nhằm tuyên truyền và cưỡng chế thực hiện quy định về sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

    Tuy nhiên, các dự án đó đều mới được tiến hành và chưa có nghiên cứu đánh giá nào về hiệu quả của nó. Hiện nay Cục Y tế dự phòng đã thực hiện nghiên cứu đánh giá kết quả mô hình nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng chống tai nạn giao thông tại các huyện thực hiện dự án. Những kết quả nghiên cứu mới chỉ nặng về đánh giá mô hình cung cấp dịch vụ cấp cứu ban đầu mà chưa đi sâu vào đánh giá kết quả hoạt động và tác động lan tỏa của các câu lạc bộ không sử dụng rượu bia khi lái xe. Còn ít dự án thực hiện việc nâng cao năng lực cưỡng chế cho lực lượng cảnh sát về vấn đề này. 


    b.  Kết luận về kết quả nghiên cứu tại hai bệnh viện


    - Nghiên cứu tại hai bệnh viện được thông qua bảng hỏi bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp do các nhân viên y tế thực hiện. Các kết quả phân tích được rút ra như sau:


    - Đa số (75,7%) nạn nhân tai nạn giao thông có độ tuổi dưới 45 (đây là những người thuộc độ tuổi lao động, là người làm ra của cải vật chất. Chính vì vậy mà tai nạn giao thông gây tổn hại lớn cho quốc gia và từng gia đình nạn nhân);  


    - Đa số (82,8%) nạn nhân sử dụng mô tô và xe gắn máy và khoảng 70% số nạn nhân là người điều khiển phương tiện. Khoảng một nửa số phương tiện va chạm với nạn nhân là xe máy;  


    - Trong số nạn nhân tai nạn giao thông đường bộ, tỷ lệ có cồn trong máu cao (56,4%), chủ yếu là nam giới (86,3%);


    - Những người có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học có mức độ sử dụng rượu bia cao hơn những người có trình độ học vấn cao (từ đại học cao đẳng trở lên). Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy một điều gây ngạc nhiên là, mức độ sử dụng bia rượu của những nạn nhân tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học lại cao hơn những người có trình độ học vấn thấp (không đi học và chưa tốt nghiệp trung học cơ sở); 


    - Mặc dù số lượng nạn nhân làm nghề lái xe trong mẫu không cao, nhưng cần nhấn mạnh rằng, họ là những người có nồng độ trong máu nhiều hơn các nghề khác. Đây là một phát hiện cần lưu ý. Bởi vì lái xe là một nghề liên quan đến mạng sống của nhiều người khác khi họ điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Ngoài nghề lái xe, thì lao động tự do cũng là một nghề có tỷ lệ người bị tai nạn giao thông cao;


    - Ngày cuối tuần (thứ 6), những ngày lễ (thứ 7, chủ nhật) và thứ 2 có số lượng tai nạn giao thông cao hơn các ngày khác trong tuần. Các giờ cao điểm tai nạn xảy ra ít hơn so với giờ làm việc và giờ đi chơi buổi tối. Đây cũng là một phát hiện đáng lưu ý;  


    - Tỷ lệ nạn nhân cho biết có thói quen uống đồ uống có cồn tương đối cao (trên 50%), chủ yếu là nam giới. Số người thừa nhận có sử dụng rượu bia 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn cao (37,2%), chủ yếu là nam giới. Khoảng trên một phần ba nam giới không nhớ rõ số lượng rượu bia đã uống trong vòng 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn;


    - Có đến 60% nạn nhân là người điều khiển phương tiện có cồn trong máu cao. Tỷ lệ đội mũ bảo hiểm cũng chỉ đạt mức 65,5%. Điều này cho thấy ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ của công dân Việt Nam chưa cao. Cần phải tiếp tục có chế cưỡng chế và tuyên truyền không nên lơi lỏng;


    - Nguy cơ bị thương, và tỷ lệ bị thương ở đầu, mặt ở người có cồn trong máu cao hơn nhiều so với người không có cồn trong máu; 


    - Hơn 50% nạn nhân giao thông sau xử trí ở phòng khám, cấp cứu phải nhập viện. Loại tổn thương cuối cùng chủ yếu là chấn thương sọ não 42,3% và gãy xương chi 38,1%. Tỷ lệ chuyển viện để điều trị tiếp nhóm nạn nhân có cồn trong máu cao hơn rất nhiều so với nhóm không có cồn; 


    - Khoảng 50% nạn nhân cho biết đã từng ngồi trên phương tiện giao thông đường bộ do người điều khiển có sử dụng bia rượu;


    - Tỷ lệ nạn nhân không biết quy định về lượng cồn trong máu và trong hơi thở rất cao (81,3%). Đây là một khoảng trống trong tuyên truyền về Luật GT;


    - 61,9% nạn nhân không có bảo hiểm y tế. Nạn nhân có cồn trong máu có chi phí điều trị tại bệnh viện cao hơn nạn nhân không có cồn trong máu. Chi phí trung bình cho một nạn nhân nhập viên gấp khoảng 5 lần mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định hiện nay (2.900.000 đồng trong khi lương tối thiểu là 540.000 đồng).
    Đây mới chỉ là số chi phí mà nạn nhân phải nộp cho bệnh viện chưa kể đến cả chi phí thuốc men mà người nhà phải mua theo đơn của bác sỹ và chi phí ăn ở đi lại của người chăm sóc chính. Nếu ước lượng theo mức chi do hai bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức cung cấp thì với số lượng 23.000 người bị tai nạn một năm như công bố của Bộ Y tế, cả nước sẽ phải chi vào chữa trị tai nạn giao thông là 65 tỷ đồng; 


    - Chi phí cơ hội được nạn nhân và người nhà nạn nhân nói đến nhiều nhất là mất cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh cao nhất (bản thân người bị tai nạn 48,4% và người chăm sóc chính 41,9%). Thứ hai là con cái không có người chăm sóc (31,5% số nạn nhân có ý kiến này và 35,7% người chăm sóc chính). Thứ ba là, cha mẹ già đau yếu không có người chăm sóc (43,9% người bị tai nạn và 27,4% người chăm sóc chính).
    Ngoài ra, số nạn nhân có độ tuổi từ 16 đến 24 còn cho biết chi phí cơ hội lớn nhất đối với họ là mất cơ hội học hành và một số người còn vĩnh viễn không thể tham gia đào tạo nghề, không đủ điều kiện tham gia lao động;


    - Đa số nạn nhân đồng tình với quan điểm uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông dễ xảy ra tai nạn. Tỷ lệ người cho rằng không nên uống rượu bia khi điều khiển phương tiện rất cao (85%). Đa số nạn nhân tai nạn giao thông cho rằng cần xử phạt những người uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông và cần tuyên truyền rộng rãi về phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
    Điều này cho thấy đa số người dân đã có ý thức về hạn chế sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện. Tuy nhiên, từ chỗ ý thức được vấn đề đến chuyển đổi hành vi và thực hành không sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện là một khoảng cách lớn mà muốn có sự chuyển đổi hành vi này thì Nhà nước và nhân dân cần mất nhiều công sức và tiền bạc. 


    4.2  Khuyến nghị


    Dựa vào các kết luận của các nghiên cứu trước và kết luận rút ra từ nghiên cứu thực nghiệm tại bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức, nhóm nghiên cứu cho rằng để chuyển đổi hành vi từ chấp nhận không sử rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đến chuyển đổi hành vi thực hành không sử dụng rượu bia và chất có cồn khi điều khiển phương tiện là một hành trình khó khăn, đòi hỏi nhiều tâm huyết, thời gian và sức lực của toàn Đảng toàn dân, của các cơ quan nhà nước và tổ chức quốc tế.
    Vì vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa hai giải pháp:

    truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi và cưỡng chế để chuyển đổi hành vi.


    Sau đây là một số giải pháp cụ thể:


    a.  Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính quyền


    - Có thể nói đây là giải pháp tiên quyết để thực hiện thành công mọi mục tiêu Chiến lược kinh tế-xã hội. Đảng lãnh đạo, các cơ quan chính quyền phải vào cuộc để chỉ đạo thực hiện các quy định về nồng độ cồn trong máu đã được quy đinh trong luật giao thông đường bộ thì mới có cơ hội thành công. Kinh nghiệm cho thấy, bất kỳ việc gì, ở đâu, nếu có Đảng lãnh đạo, Chính quyền trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện thì công việc đó thành công. Việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một minh chứng rõ ràng chứng minh giả thuyết trên.


    - Việc công bố luật giao thông đường bộ cần tiến hành đồng thời trong cùng một thời điểm với việc công bố nghị định hướng dẫn. Điều này giúp cho các cơ quan thi hành công vụ có đủ công cụ luật pháp trong tay để có thể thực hiện nhiệm vụ một cách minh bạch.


    b.  Tăng cường cưỡng chế để chuyển đổi hành vi


    - Cần có chế tài rõ ràng để cảnh sát giao thông có thể làm việc nghiêm minh và công tâm: quy định cảnh sát giao thông có quyền kiểm tra nồng độ cồn ngay cả khi không vi phạm luật giao thông.


    - Tăng cường trang bị thiết bị đo nồng độ cồn và đảm bảo các thiết bị này đạt tiêu chuẩn về vệ sinh.


    - Tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông và tăng cường kiểm tra nồng độ cồn vào các giờ có thể xảy ra tai nạn cao.


    - Có chế độ khuyến khích cho lực lượng cảnh sát.  


    - Xây dựng hình ảnh người cảnh sát nhân dân tận tụy vì dân. 


    c.   Tăng cường truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi


    Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi khác với truyền thông giáo dục. Nếu thực hiện truyền thông giáo dục là việc tuyên truyền cho người dân mà chưa theo dõi xem họ đã thực sự nhận thức được vấn đề chưa và họ có thực hành vấn đề cần tuyên truyền hay không.

    Còn truyền thông chuyển đổi hành vi là việc tuyên truyền kết hợp với theo dõi, hướng dẫn người dân chuyển đổi từ chưa nhận thức được vấn đề đến nhận thức được vấn đề (từ chưa biết đến biết); tiếp tục theo dõi và tuyên truyền cho đến khi người dân chuyển từ nhận thức sang thái độ (từ chưa chấp nhận đến chấp nhận); tiếp tục tuyên truyền và theo dõi để người dân chuyển thái độ chấp nhận sang thực hành (chuyển từ không thực hiện sang thực hiện).

    Trong trường hợp này là chuyển hành vi từ uống bia rượu vẫn điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sang nếu đã uống bia rượu thì không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Trong giải pháp truyền thông phải chú trọng cải tiến cả hình thức và nội dung truyền thông. 


    v Hình thức tuyên truyền: đa dạng, hấp dẫn


    - Tiếp tục đưa nội dung quy định về nồng độ rượu bia vào chương trình sát hạch lấy bằng điều khiển phương tiện giao thông. 


    - Tiếp tục hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa vào các chương trình truyền hình nhiều người ưa thích.


    - Tiếp tục đưa chương trình an toàn giao thông vào môn giáo dục công dân trong các trường phổ thông từ lớp mẫu giáo đến lớp 12 với nội dung thích hợp. Trong đó nhấn mạnh nội dung phòng chống lạm dụng rượu bia.


    - Xây dựng và nhân rộng mô hình tuyên truyền trong cộng đồng về an toàn giao thông (một số tổ chức phi chính phủ đã tài trợ thực hiện, những mới chỉ trên quy mô nhỏ).
    Lấy những người mẹ, người vợ làm trung tâm giáo dục chuyển đổi hành vi. Kinh nghiệm của một số nước, trong đó có kinh nghiệm của Nhật Bản thì đây là hình thức truyền thông rẻ tiền mà rất có hiệu quả. 


    - Tiếp tục phát hành và phân phối sách nhỏ “Những điều lái xe cần biết”, các tờ rơi, áp phích cổ động tuyên truyền… không chỉ cho lái xe mà cho mọi người dân.


    v Nội dung truyền thông


    + Trước hết cần tuyên truyền rộng rãi quy định về nồng độ rượu bia khi tham gia điều khiển phương tiện giao thông theo luật giao thông 2008.
    Trên thực tế, mặc dù các kỳ thi lấy bằng lái xe, thí sinh đều phải trải qua các cuộc sát hạch về luật giao thông, nhưng số người không biết quy định về nồng độ cồn trong máu lớn. Điều này cho thấy, cần thắt chặt hơn nữa yêu cầu hiểu biết về luật giao thông đường bộ đối với người thi lấy bằng lái xe.


    + Đưa các thông tin về thực trạng cũng như hậu quả của những vụ tai nạn giao thông, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia.


    + Tạo dư luận hình thành chuẩn mực xã hội phản đối việc sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện và phản đối ngồi trên xe mà người điều khiển sử dụng bia rượu


    + Khẩu hiệu đưa ra là: “Uống rượu bia – Không lái xe”


    d. Tổ chức thực hiện


    - Cần có giải pháp khuyến khích các nhà tài trợ tập hợp vồn đầu tư để có các dự án lớn đủ tầm triển khai các hoạt động can thiệp đồng bộ và dài hạn. Hiện nay đã có một vài can thiệp cho lĩnh vực này. Các can thiệp này còn nhỏ lẻ do vốn đầu tư nhỏ.
    Nếu có cơ chế tập hợp các nhà đầu tư lại, có thể có một quỹ lớn hơn để thực hiện các can thiệp ở quy mô lớn hơn và dài hơi hơn. Bởi vì can thiệp phá vỡ một thói quen không phải chỉ trong một đợt chiến dịch là có thể hoàn thành mà phải liên tục, dài hạn tốn kém về sức người sức của mới hy vọng thành công.


    - Để có thể xây dựng kế hoạch tuyên truyền và cưỡng chế thành công việc hạn chế sử dụng bia rượu trong giao thông đường bộ cần thiết phải tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu chính xác và toàn diện nhằm tạo thuận tiện khai thác cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học về tai nạn giao thông đường bộ. Chỉ có trên cơ sở dữ liệu khoa học thì các chính sách can thiệp mới được xây dựng sát với thực tế và phù hợp với người Việt Nam.


    - Sau các can thiệp hỗ trợ phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, nên tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả và tác động lan tỏa, tính bền vững của dự án làm cơ sở khoa học để thiết kế dự án cán thiệp và các chính sách cho thời kỳ tiếp theo.

     

    (Nguồn: Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Kỷ yếu khoa học 20 năm thành lập Viện Dân số và các vấn đề xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội - tháng 3/2012)