






Cơ Sở 1 : 245 Bình Quới (1051 Xô Viết Nghệ Tĩnh), Phường 28, Bình Thạnh, Tp.HCM
Cơ Sở 2 : 978 Nguyễn Duy Trinh, P. Phú Hữu - Tp.Thủ Đức, Tp.HCM
Điện thoại: (028) 6270 0119 - (028) 3898 6513 - 0982 120 908
THỜI GIAN LÀM VIỆC 24/24
Ma túy là một từ Hán – Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đó ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu. Ngày nay ma túy được định nghĩa một cách rộng hơn: ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động và hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.
Tùy theo mục đích, có nhiều cách phân loại ma túy.
A. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:
1. MA TÚY HỢP PHÁP: rượu, cà phê, thuốc lá … Một số dược phẩm được sử dụng để chữa trị bệnh, nếu sử dụng quá liều, kéo dài sẽ xảy ra tình trạng nghiện: Benzodiazepines, secobabital, Morphine, Amphetamine, Pseudoepdrine, Cocaine …
2. MA TÚY BẤT HỢP PHÁP: là những chất bị pháp luật quy định, liệt và danh sách cấm sử dụng; thuốc phiện, Heroine, Estasy (MDMA).
B. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:
1. MA TÚY CÓ NGUỒN GỐC THIÊN NHIÊN: Thuốc phiện, Cần sa, Cocaine
2. MA TÚY BÁN TỔNG HỢP: Heroine, Codeine, LSD …
3. MA TÚY TỔNG HỢP: Methadone, Meperidine, Amphetamine …
C. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ:
1. CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (Stupefiantes): ma túy nhóm OMH (Á phiện, Heroine, Morphine, Codeine…) và các chất tổng hợp (Methadone, Meperidine, Pethidine, Pentanyl, …)
2. CÁC CHẤT KÍCH THÍCH (Stimulantes): Cocaine, Amphetamine, Ecstasy, thuốc lắc, hàng đá...
3. CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (Hallucinogens): LSD (D – Lysergic Acid Diethylamid), Cannabis, Phencyclidine, PCP, Mescaline, …)
4. CÁC THUỐC GIẢI LO ÂU–GÂY NGỦ (Anxiolytic/hypnotic): các loại Benzodiazepines (Alprazolam, Chlordiazepoxide,...), Barbiturates, …
A. ĐẶC TÍNH CHUNG:
Chất kích thích thần kinh là các chất khi đưa vào cơ thể làm tăng cường hoạt động của hệ thần kinh trung ương. CHẤT KÍCH THÍCH bao gồm :
1/ MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH: Amphetamine và các chất giống Amphetamine (Amphetamine and Amphetamine - like).
2/ MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH:- Cocaine
- Các ma túy hợp pháp: cà phê, thuốc lá …
3/ MỘT SỐ HÓA DƯỢC DẠNG KÍCH THÍCH:
- Một số thuốc chống trầm cảm,thuốc chống tiết Acetylcholine khi dùng liều cao, kéo dài.
B. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:
- Thay đổi nhịp tim, huyết áp, giãn đồng tử,đổ mồ hôi, ớn lạnh, nôn, ói mửa.
- Tăng hoạt động, nhận xét sai lệch, dễ bị kích động.
- Lạm dụng kéo dài sẽ thay đổi hành vi: hung hăng, liều lĩnh, nóng giận, nghi ngờ. Trường hợp nặng bị loạn thần, hoang tưởng kịch phát.
- Ngừng thuốc sau một thời gian dài sử dụng, với liều cao sẽ bị hội chứng cai: cơ thể mệt mỏi, ủ rũ, mất ngủ, có thể dẫn đến mê sảng.
C. PHÂN LOẠI:
I. MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH:
1. AMPHETAMINE CỔ ĐIỂN: AMPHETAMINE, METHAMPHETAMINE (hàng đá) và METHCATHINONE:
- Là ma túy tổng hợp thông dụng có tác dụng kích thích mạnh lên hệ thần kinh trung ương
- Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ ice ” (hàng đá) (methamphetamin), và “ cat ” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màu, dạng kết tinh (như “ice”), viên nén và dung dịch (như “methcathinone”)
- Amphetamin thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.
- Loại ma túy này đang được nhiều người sử dụng vì nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, gây khoái cảm, phấn khích, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và trí não. Amphetamin được phổ biến trong giới sinh viên, binh lính, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, vận động viên thể dục thể thao...v.v.
- Khi sử dụng liều thấp Amphetamine làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết áp và thân nhiệt, khô miệng, đổ mồ hôi, giãn đồng tử, tiêu chảy, ăn kém ngon.
- Khi sử dụng liều cao Amphetamine làm các triệu chứng nói trên trở nên cường phát, người dùng trở nên lắm lời, hiếu động, hung bạo, mất ngủ, không còn khả năng suy xét, người sử dụng Amphetamine tăng nhu cầu tình dục nên quan hệ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, ngoài ra do bị kích động người sử dụng Amphetamine hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông.
- Sử dụng amphetamine lâu ngày người sử dụng thay đổi hành vi tâm tính, bồn chồn, hiếu động, cảm giác khó chịu, hung bạo; đôi khi dẫn đến hoảng loạn, hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốchay sau khi dùng liều cao sẽ xuất hiện hội chứng cai: ủ rũ, u uất, buồn chán,mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và có những cơn mê sảng.
Từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Tuy nhiên, do nhận thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng nên hiện nay, amphetamin và các chất liên quan được hạn chế sử dụng chỉ để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamine để làm thuốc biếng ăn, chữa bệnh béo phì. Sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn sản xuất phân phối hợp pháp.
2. AMPHETAMIN MỚI
2.1 MDMA/ (Ecstasy - Thuốc lắc):- Thuốc được tổng hợp từ năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng không được công nhận là thuốc chính thức. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. ECSTASY là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới. MDMA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.
- MDMA được chế tạo dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn.
- MDMA làm tăng huyết áp, tăng nhịp tim, gây ảo giác, tăng tự tin, cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích nhất là khi kèm âm thanh có cường độ lớn, thích giao tiếp, trò chuyện.
- MDMA liều thấp gây bồn chồn, lo lắng; Liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ, có hành vi lắc lư, quay cuồng, la hét, đập phá, quan hệ tình dục tập thể, thích cảm giác bay bổng, lái xe tốc độ cao.
- Sử dụng thường xuyên một thời gian dài sẽ có các triệu chứng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.MDMA ít gây ngộ độc cấp, một số trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng
- Tuy nhiên, do quan hệ tình dục tập thể bừa bãi, thường chích chung kim nên người sử dụng MDMA dễ lây nhiễm HIV, viêm gan siêu vi và do bị kích động, người sử dụng ưa phóng xe tốc độ cao, lạng lách, gây tai nạn giao thông.
2.2 MDA:
Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng Amphetamin rất giống Ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được chấp nhận là một loại thuốc hợp pháp. MDA tác dụng gần giống MDMA nhưng gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMA và có thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 giờ so với MDMA chỉ có 3 – 5 giờ). MDA thường được đưa ra thị trường dưới dạng thuần chất hay kết hợp với các loại ma túy khác.
2.3 MDEA/(AVE):
Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này không được công nhận là thuốc hợp pháp. MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, được bào chế dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. MDEA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.
II. MA TÚY THIÊN NHIÊN DẠNG KÍCH THÍCH:
1. COCAINE:
- Cocaine là một chất kích thích dưới dạng Alkoloide lấy từ cây Côca hay tổng hợp từ chất Ecgonine và các dẫn xuất của nó. Cocaine được sử dụng từ thế kỷ 19 làm thuốc tê trong nha khoa, nhãn khoa, ngoại khoa tai, mũi, họng do tác dụng co mạch tại chỗ, giảm xuất huyết cục bộ. Vì Cocaine gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nên hiện nay không được sử dụng nữa
.- Cocaine được bán dưới dạng tinh bột hay tinh thể màu trắng trong. Cocaine được sử dụng bằng đường hít. Pha trộn Cocaine với heroine được sử dụng qua đường chích
.- Cocaine là chất kích thích hệ thần kinh mạnh: giải ức chế, gây khoái cảm, đê mê, tỉnh ngủ, tăng hoạt động, nói nhiều, tăng nhu cầu tình dục. Sử dụng Cocaine liên tục dẫn đến hiện tượng suy sụp:mất ngủ dẫn đến nghiện thuốc ngủ, rối loạn hoang tưởng liên hệ, rối loạn ảo giác, sa sút tâm thần
.- Hội chứng ngộ độc cấp: cơn mê sảng, hoảng hốt, huyết áp cao, nghẽn mạch và loạn nhịp tim, có những biểu hiện bệnh tâm thần như hoang tưởng, ảo thanh, ảo giác, có cảm giác thấy hình ảnh lấp lánh như mặt trời hay bông tuyết
.- HỘI CHỨNG CAI: Ngưng sử dụng Cocaine sẽ gây hội chứng cai: cảm giác sợ hãi, trầm uất, trì trệ, buồn ngủ…
2. CAO BỘT NHÃO CÔCA:
Là sản phẩm của công đoạn đầu tiên quá trình triết xuất cocaine từ lá Côca. Người Nam Mỹ dùng bột nhão Côca để hút, hay hút cùng với marijuana và thuốc lá.
3. CRACK HAY ROCK:
Crack được chiết xuất từ Cocaine Hydrochloride để chế biến thành dạng hút. Người sử dụng sẽ có ngay cảm giác hân hoan, phấn khích, lo âu, ưu phiền tan biến, cảm giác tự tin, hãnh diện. Lúc này khả năng xét đoán giảm sút, người nghiện có những hành vi bừa bãi, phạm pháp, nguy hại, bất chấp hậu quả; nói năng lắp bắp, thiếu rành mạch. Khoái cảm kéo dài 5 -7 phút, sau đó tâm trạng suy sụp nhanh chóng, người sử dụng có cảm giác khó chịu, bồn chồn, lo lắng. Lúc này người nghiện chỉ thèm khát mãnh liệt là tiếp tục dùng ma túy để có cảm giác như khi “phê” thuốc.
D. TÁC HẠI CỦA MA TÚY DẠNG KÍCH THÍCH
I. TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH:
1. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:
ATS gây ra các triệu chứng sau:
+ Giãn đồng tử + Khô miệng, khô môi + Tăng, giảm nhịp tim + Tăng, giảm huyết áp + Đau ngực, ức chế hô hấp + Toát mồ hôi, rét run + Mất trí nhớ + Giảm khả năng xét đoán, tập trung + Giảm khả năng lao động xã hội. + Buồn nôn, nôn + Mất ngủ |
+ Sút cân + Giảm ăn, biếng ăn + Hỏng răng, nuốt khó + Kích động, ức chế trung tâm vận động. + Trầm cảm, lo lắng + Căng thẳng, giận dữ, bồn chồn. + Hoang tưởng, ảo thanh, phản ứng hoảng sợ + Lú lẫn hay hôn mê + Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ. + Đột quỵ, nhũn não, đau đầu + Có ý tưởng tự sát. |
Tóm lại, triệu chứng lâm sàng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:
1.1. VỀ CƠ THỂ:
+ Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.
+ Các biểu hiện lâm sàng đáng chú ý bao gồm: nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu não và viêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng ATS thường có hành vi tình dục không an toàn.
+ Các tác dụng không mong muốn và ít nguy hiểm là: nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
+ Ở phụ nữ có thai thường thai nhi chậm lớn, nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, sinh non
.1.2. VỀ TÂM THẦN:
Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau: bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể xảy ra. Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:
- Triệu chứng ngắn hạn: Nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.
- Triệu chứng kéo dài: ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.
Ngoài ra hầu hết các chất ATS làm tăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.
2. TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC
a) Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
b) Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
- Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
- Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
- Các hành vi có tính định hình
- Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.
Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.
c) Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:
- Giãn đồng tử
- Tăng, giảm nhịp tim
- Tăng, giảm huyết áp
- Toát mồ hôi, rét run
- Buồn nôn, nôn
- Sút cân
- Kích động, ức chế trung tâm vận động.
- Đau ngực, ức chế hô hấp
- Lú lẫn hay hôn mê
- Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.
d) Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.
3. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:(Amphetamine Inducd Psychosis)
- Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
+ Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
+ Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
+ Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
+ Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
+ Tăng tình dục (hypersexuality)
+ Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.
4. HỘI CHỨNG CAI
Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sau và hết sau khoảng một tuần.
Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát.
5. CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG CAI (DSM - IV):
a) Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...) APT.
b) Có rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
- Mệt mỏi
- Có những giấc mơ đáng sợ.
- Mất ngủ hay ngủ nhiều.
- Tăng cảm giác ngon miệng.
- Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.
c) Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.
d) Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.
A. ĐẶC TÍNH CHUNG:
Các chất gây đê mê (Opiates) bao gồm:
CÁC CHẤT OPIATES CÓ CÁC ĐẶC TÍNH SAU:
B. PHÂN LOẠI:
I. CÁC LOẠI TỪ CÂY THUỐC PHIỆN:
Được điều chế và sử dụng dưới nhiều hình thức:
II. CÁC CHẤT BÁN TỔNG HỢP TỪ CÂY THUỐC PHIỆN: HEROINE
Là chất ma túy dạng thuốc phiện được bán tổng hợp từ Morphine. Tên hóa học của Heroine là Diacethylmorphine. Heroine là loại ma túy được bán tổng hợp từ thuốc phiện, được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới vì giá thành tương đối rẻ, tác dụng mạnh, được sử dụng dưới nhiều hình thức (hút, hít, chích) là chất dễ tan trong nước để tiêm chích, xâm nhập vào máu, não nhanh. Heroine được bào chế dưới nhiều dạng khác nhau:
III. CÁC CHẤT TỔNG HỢP:
1. METHADONE: là một loại thuốc á phiện tổng hợp dùng để điều trị duy trì cho các người nghiện thuốc phiện. Thời gian bán hủy khá dài, chỉ cần dùng mỗi ngày một lần dưới sự giám sát chặt chẽ. Kết quả nghiên cứu quan sát cho thấy phương pháp duy trì bằng Methadone đã cắt giảm được tỷ lệ sử dụng Heroine, tỷ lệ phạm tội, cũng như giảm bớt các hành vi nguy cơ liên quan đến tiêm chích ma túy và tỷ lệ tử vong sớm ở các đối tượng nghiện chất á phiện.
2. LAAM: là chữ viết tắt tên hóa học của chất levo-alpha-acetyl-methadol. LAAM là một chất chủ vận á phiện tổng hợp (giống methadone) thuộc dòng moosoocphin. Chất này được nghiên cứu rất nhiều vào thập niên 1970 để thay thế cho Methadone vì có ưu điểm chính là tác dụng lâu hơn.
3. BUPRENORPHIN: hỗn hợp chất đồng vận với chất đối vận á phiện dùng trong điều trị thay thế cai nghiện thuốc phiện như Methadone.
1. BIỂU HIỆN NHIỄM ĐỘC CẤP:
Chất dạng thuốc phiện (thuốc phiện, morphine, codeine, heroin...) có thể được sử dụng theo đường uống, hút, hít qua mũi, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da. Chất dạng thuốc phiện gây nghiện, gây khoái cảm nhất là khi sử dụng qua đường tiêm chích. Triệu chứng ban đầu biểu hiện bằng một giai đoạn yên dịu, ngủ gật. Đối với những người sử dụng chất dạng thuốc phiện lần đầu hoặc thỉnh thoảng có thể có loạn khí sắc, buồn nôn và nôn. Các biểu hiện cơ thể bao gồm: suy hô hấp, co đồng tử, co các cơ trơn, vòng (co các cơ thắt), giảm huyết áp, giảm nhịp tim, giảm thân nhiệt. Các biểu hiện tâm thần: gây khoái cảm, ngây ngất, giảm đau, nó còn có tác dụng như một chất giải lo âu mạnh và chống trầm cảm. Đặc biệt, để đạt được hiệu quả như trước người bệnh phải tăng liều sử dụng.
2. BIỂU HIỆN NHIỄM ĐỘC MẠN TÍNH:
Nghiện chất dạng thuốc phiện là một trạng thái nhiễm độc mạn tính chất dạng thuốc phiện. Các rối loạn bao gồm:
- Các rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, nôn, táo bón xen kẽ với đi rửa.
- Các rối loạn tiết niệu: đái khó, đái rắt.
- Các rối loạn thần kinh: nhức đầu, chóng mặt, run, giật cơ, dị cảm.
- Nhiễm khuẩn các loại: ghẻ lở, áp-xe, loét tĩnh mạch, viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng máu, viêm gan B, C, đặc biệt là lây nhiễm HIV do sử dụng chung bơm kim tiêm.
3. CÁC BIỂU HIỆN HỘI CHỨNG CAI:
- Giai đoạn đầu (6-8 giờ sau lần tiêm heroin cuối cùng): người bệnh bắt đầu ngáp, vã mồ hôi, chảy nước mắt, chảy nước mũi và lo lắng cao độ. Người bệnh cảm thấy thèm heroin, xuất hiện xung động tìm heroin mỗi lúc một tăng. Tiếp đến giãn đồng tử, nổi da gà, trong người cảm thấy lúc nóng, lúc lạnh, co thắt cơ, run, mất ngủ hay giấc ngủ không yên, luôn thức giấc.
- Giai đoạn tiếp theo (18-24 giờ sau lần tiêm heroin cuối cùng): xuất hiện buồn nôn hay nôn, mạch huyết áp, nhịp thở đều tăng, có thể có sốt nhẹ.
- Sau từ 24-48 giờ: xuất hiện đi rửa và trạng thái mất nước, dị cảm mạnh.
- Sau 48-72 giờ: các triệu chứng ở các giai đoạn nói trên tăng đến đỉnh điểm sau đó giảm dần.
- Sau 7-10 ngày: mặc dù không điều trị, các triệu chứng nêu trên cũng dần dần biến mất. Một số rối loạn chức năng nhẹ có thể còn tồn tại nhiều tháng ở một số trường hợp.
4. CÁC BIỂU HIỆN KHÔNG MONG MUỐN:
Thường gặp là ngủ gật gà, lú lẫn, nôn, buồn bôn, táo bón. Cũng có thể thấy yên dịu, trạng thái kích thích, ác mộng (đặc biệt ở người già có thể có ảo giác), suy hô hấp, tăng áp lực nội sọ, bí tiểu nhất là khi bị u xơ tuyến tiền liệt. Có gây ra rối loạn nặng hệ thần kinh thực vật, kích động, hôn mê, co giật và tử vong. Phản ứng dị ứng với các chất dạng thuộc phiện cũng có thể xảy ra sốc phản vệ, phù phổi cấp, và tử vong nếu bệnh nhân không được điều trị kịp thời và thích hợp.
5. QUÁ LIỀU:
Tử vong do sử dụng quá liều các chất dạng thuốc phiện thường gặp là do tác dụng gây ngừng thở của các chất dạng thuốc phiện.
TÁC HẠI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY DẠNG ĐÊ MÊ:
1. VỀ SỨC KHỎE:
Người nghiện chán ăn dẫn đến gầy sút, sợ lạnh nên lười vệ sinh thân thể, dễ bị các bệnh da liễu, bệnh lao, các bệnh nhiễm khuẩn do tiêm chích không vô trùng (viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng máu...). Luôn có nguy cơ bị sốc thuốc do tiêm thuốc nhanh và quá liều nhằm tìm lại khoái cảm như trước. Đặc biệt dùng chung bơm kim tiêm và tình dục không an toàn dễ bị lây truyền các bệnh hoa liễu, viêm gan B, C và HIV/AIDS.
Về mặt tâm thần nghiện heroin thường gây biến đổi nhân cách theo hướng xấu do ảnh hường của nhóm bạn nghiện: thiếu kiềm chế cảm xúc, thường xuyên xung đột với gia đình, lừa dối mọi người, không quan tâm tới con cái, từ bỏ mọi ham muốn sở thích trước kia, thiếu tinh thần trách nhiệm, thường xuyên ở trong tình trạng nhiễm độc heroin (tâm thần lơ mơ, đi loạng choạng, dễ bị tai nạn hoặc gây tai nạn cho người khác). Ngoài ra còn có thể có các rối loạn tâm thần khác như lo âu, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác...
2. VỀ CÔNG VIỆC:
Do phần lớn thời gian dành cho việc tìm kiếm và sử dụng heroin nhằm giải quyết tình trạng đói thuốc, người nghiện luôn chểnh mảng, không tập trung vào công việc và học tập, không tuân thủ giờ giấc, nội qui nên dẫn đến mất việc hoặc phải bỏ học.
3. VỀ KINH TẾ:
Số tiền người nghiện phải chi cho heroin ngày càng nhiều do phải tăng liều và tăng số lần sử dụng trong khi thu nhập từ lao động ngày càng giảm, thậm chí không kiếm ra tiền. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn tới chỗ lừa dối mọi người để có tiền tiêu cho heroin. Tiếp theo đó là bán đồ đạc cá nhân rồi đồ đạc của gia đình. Khi không còn gì để bán nữa thì ăn cắp, ăn trôm ngoài xã hội, cướp giật, giết người, mại dâm, buôn bán ma túy...
4. VỀ GIA ĐÌNH:
Người nghiện thường xuyên nói dối, thức đêm, ngủ ngày, ăn kém, không tôn trọng giờ giấc sinh hoạt trong gia đình, luôn đi đêm về hôm, thay đổi thái độ với người trong gia đình, không hoàn thành trách nhiệm của mình với các thành viên khác trong gia đình.
5. VỀ MẶT XÃ HỘI:
Một số người nghiện bắt đầu buôn bán chất gây nghiện để có tiền mua heroin. Số khác có thể lao vào từ mại dâm, ăn trộm, ăn cắp, đến tham gia các băng nhóm tội phạm, cướp giật, giết người. Một số người nghiện thuộc gia đình có tài sản, đầu tiên bán đồ dùng, rồi lừa dối người nhân để có tiền, rồi lấy trộm tiền của gia đình, bán đồ đạc của gia đình. Số khác được thừa kế tài sản lớn cũng dần bán đi hết để chi cho heroin và kết cục là sống ngoài lề xã hội. Những thiệt hại do người nghiện gây ra cho xã hội bao gồm nhiều mặt:
- Về kinh tế: giảm sút nguồn lực lao động, gây phí tổn to lớn trong công tác cai nghiện và chống tái nghiện cũng như công tác dự phòng.
- Về trật tự an toàn xã hội: bị đe dọa do các hành vi tội phạm rất đa dạng (buôn bán chất gây nghiện, lừa đảo, cướp giật, băng nhóm xã hội đen...).
- Về mặt văn hóa: hủy hoại nếp sống lành mạnh trong các gia đình và trong cộng đồng.
Ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động vào hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.
A - CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY
I. DẤU HIỆU NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN HEROIN:
1. CÁC DẤU HIỆU BẤT THƯỜNG CỦA NGƯỜI VỪA MỚI SỬ DỤNG HEROIN:
Sau khi người sử dụng heroin vừa sử dụng xong một liều heroin thì nhìn chung tinh thần hưng phấn, vẻ mặt sung mãn, đỏ mặt, mắt đỏ và ướt, trông hoạt bát khác thường. Nếu tuổi còn trẻ, họ thường dễ bị khiêu khích, muốn tìm cảm giác mạnh, gây gổ đánh nhau, tự rạch tay, dùng thuốc lá đốt chân tay… Các dấu hiệu trên được biểu hiện cụ thể qua các giai đoạn sau:
*Giai đoạn 1: Sau khi dùng 5 – 10 phút, biểu hiện phổ biến nhất là mắt đỏ và trông ướt long lanh, sau đó chuyển qua sụp mi mắt, ngồi tại chỗ, mắt lim dim, gãi chân tay, vò đầu, bứt tóc… thể hiện rõ nhất trong trường hợp dùng thuốc phiện pha lẫn seduxen. Những biểu hiện này người nhà khó phát hiện ra vì nó thường xảy ra ở nơi hút, chích.
*Giai đoạn 2: Sau 10 – 20 phút, mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn khàn, uống nhiều nước lạnh, tâm lý ở trạng thái hưng phấn cao, nói nhiều, cử chỉ và động tác thiếu chính xác. Nếu có tật thì tật thường xuyên xuất hiện ở mức cao như vuốt mũi, nhổ râu, nặn mụn, cắn móng tay, lấy ráy tai…
*Giai đoạn 3: Sau 90 phút, người sử dụng heroin tìm chỗ yên tĩnh để thưởng thức cơn phê. Lúc này họ nằm như ngủ, nhưng không ngủ, lại hút nhiều thuốc lá, tàn thuốc vung vãi. Quan sát nơi họ nằm thường thấy chăn màn thủng do tàn thuốc lá rơi vào, bề bộn đồ đạc, người sử dụng heroin sợ tắm, sợ ồn ào.
2. CÁC DẤU HIỆU BẤT THƯỜNG CỦA NGƯỜI NGHIỆN HEROIN:
Chúng ta có thể nhận biết sớm một người đã nghiện heroin qua các biểu hiện sau:
- Thay đổi thất thường giời giấc sinh hoạt
: thức khuya, đêm ngủ ít, dậy muộn, ngày ngủ nhiều…- Hay tụ tập
, đi lại đàn đúm vơi người có đời sống sinh hoạt buông thả như không lao động, không học hành… hoặc chơi than với người sử dụng heroin.- Đi lại có quy luật
: Mỗi ngày, cư đến một giờ nhất định nào đó, dù đang bận việc gì cũng tìm cách, kiếm cớ để đi khỏi nhà.- Thích ở một mình
, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả người thân trong gia đình).- Tâm trạng
thường lo lắng, bồn chồn, đôi khi nói nhiều, hay nói dối loanh quoanh, hay có biểu hiện chống đối, cáu gắt hơn so với trước đây. Hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân. Nếu còn đi học thì thường đi học muộn, trốn học, bỏ giờ học (thường vào giờ nhất định): ngồi trong lớp hay ngủ gật, học lực giảm sút nhanh.- Nhu cầu tiêu tiền ngày một nhiều
, sử dụng tiền không có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền người thân và hay bán đồ đạt cá nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục túi người khác…- Trong túi quần, áo, cặp, phòng ngủ thường có các thứ giấy bạc, thuốc lá, kẹo cao su, bật lửa ga, bơm kim tiêm, uống thuốc, thuốc phiện, gói nhỏ heroin.
- Có dấu kim trên mu bàn tay, cổ tay, mặt trong khuỷu tay, mặt trong mắt cá chân, ở bẹn, ở cổ…
- Đối với người sử dụng heroin nặng, còn có biểu hiện giảm sút sức khoẻ rõ rệt, thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ngại tắm, ăn mặc lôi thôi lếch thếch…
- Người nào càng có nhiều biểu hiện trên thì càng có khả năng mắc nghiện heroin. Bố, mẹ, người than trong gia đình, bạn bè, nhất là những người sống cùng phòng nên chú ý phát hiện sớm người sử dụng heroin để tìm cách giúp đỡ. Vì càng phát hiện sớm, cai sớm, thì càng có khả năng cai được và giảm được nguy cơ nhiễm HIV.
II. CÁC DẤU HIỆU BẤT THƯỜNG CỦA NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH:
Người nghiện ma tuý tổng hợp thường gặp các triệu chứng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:
1. VỀ CƠ THỂ:
+ Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.
+ Nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
2. VỀ TÂM THẦN:
Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau: bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng và các ảo giác cũng có thể xảy ra.
Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:
- Triệu chứng ngắn hạn: Nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.
- Triệu chứng kéo dài: ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.
- Ngoài ra hầu hết các chất ATS làm tăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.
B - CÁCH XÁC ĐỊNH NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY
I. CÁC LOẠI TEST NHANH PHÁT HIỆN MA TÚY TRONG NƯỚC TIỂU
II. CÁC XÉT NGHIỆM PHÁT HIỆN MA TÚY TRONG MÁU
A.TỔNG QUAN NHỮNG THƯƠNG TỔN TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:
B.NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY:
Qua bảng phân tích trên, chúng ta đã thấy cai nghiện ma túy rất khó khăn và phức tạp. Y VĂN đã rút ra một số kết luận sau:1. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:
“Không có một loại thuốc, một biện pháp đơn thuần nào (châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật….) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà phải đòi hỏi một liệu pháp tổng hợp, đồng bộ, xuyên suốt, khép kín, linh hoạt, kịp thời”.2. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Trong điều trị bệnh nghiện ma túy những biện pháp đơn thuần như sử dụng thuốc, châm cứu, bấm huyệt chỉ là biện pháp hỗ trợ cho cắt cơn, giải độc cũng như chống tái nghiện.3. YẾU TỐ QUYẾT TÂM CAI NGHIỆN CỦA ĐỐI TƯỢNG:
4. ĐIỀU TRỊ CÓ KẾT QUẢ PHẢI DUY TRÌ THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ ĐỦ DÀI
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY
Việc sử dụng ma túy ở thanh - thiếu niên liên quan với các yếu tố phức tạp về xã hội, gia đình, bản thân của đối tượng và biến đổi theo từng trường hợp. Các yếu tố trên tạo thành hệ thống tác động trên người bệnh và hậu quả việc sử dụng các chất ma túy sẽ tác động trở lại với xã hội, gia đình đối tượng. Do nhữnghậu quả việc sử dụng ma túy ban đầu tác động trở lại trên các nhân tố đã sinh ra nó: Các yếu tố quyết định ban đầu sẽ phát sinh các yếu tố quyết định thứ phát và chúng kết hợp với nhau làm hậu quả càng nặng nề hơn.
Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình, bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức và mang tính đặc thù riêng cho mỗi trường hợp.
Các yếu tố này còn có sự tác động của quá khứ và hiện tại, của các thực tế bên trong và bên ngoài.
Các xung đột nội tâm và xung đột trong quan hệ hiện tại của đối tượng với gia đình - xã hội có thể kéo dài từ thời thơ ấu.
Các chấn thương hiện tại nhắc lại các chấn thương của quá khứ.
Các sự kiện bên ngoài tác động các lo sợ bên trong là bị gạt bỏ, bị bỏ rơi, cám dỗ hay bị hủy diệt trong suy nghĩ đầy huyễn tưởng của đối tượng.
Quá trình nghiện ma túy là một tổng hợp phức tạp. Những yếu tố bất lợi bên ngoài (gia đình - xã hội) làm trầm trọng thêm và gây hậu quả xấu về hành vi tâm lý của đối tượng.
Tại gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng, đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.
Ngoài xã hội, dễ có định kiến, khinh rẻ gạt ra bên lề. Nếu có giúp đỡ thì thường mang tính kinh điển, giáo điều.
Những tác động này góp phần làm công tác phòng chống ma túy trở thành đơn điệu - cứng nhắc, khó động viên giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy.
A/ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG VÀO VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY
I. SỬ DỤNG MA TÚY DO CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI:
Tuổi, giới, nguồn gốc dân số, nơi ở, nguồn gốc xã hội, hoàn cảnh học tập hay nghề nghiệp và ảnh hưởng của bạn bè đều có liên quan đến việc sử dụng ma túy ở thanh thiếu niên.
1. TUỔI:
Việc dùng rượu và các chất ma túy bất hợp pháp phụ thuộc rất nhiều vào lứa tuổi: Hiếm gặp ở trẻ em rồi tần suất sử dụng tăng lên trong tuổi thanh thiếu niên, đạt mức cao giữa khoảng 18 đến 28 tuổi và sau đó giảm khá đột ngột.
2. GIỚI TÍNH:
Nói chung tỷ lệ ở con trai cao hơn ở con gái về sử dụng các chất ma túy. Độ chênh lệch giữa hai giới tăng lên theo lứa tuổi. Tại Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa, số học viên vào cai nghiện tỷ lệ nghiện Heroine giữa Nam và Nữ chênh lệch khá cao: Bình quân là 90% ở Nam và 10% ở Nữ.
3. NGUỒN GỐC SẮC TỘC:
Các nghiên cứu dịch tễ học thực hiện tại Mỹ cho thấy sự khác nhau về sắc tộc trong phân bố sử dụng các chất ma túy. Khó giải thích các kết quả này vì còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau về xã hội, kinh tế và văn hóa, chính trị của mỗi sắc tộc.
4. NƠI Ở:
Các nghiên cứu cho thấy việc dùng các chất ma túy bất hợp pháp thường gặp ở các khu vực thành thị nhiều hơn nông thôn nguy cơ có thể tăng với các thành phố lớn.
Sự khác nhau trong việc sử dụng các chất ma túy bị ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau: Văn hóa, kinh tế, chính trị, pháp luật và địa lý (như là quan hệ gần nơi trồng ma túy, nơi có nguồn sản xuất ma túy hay nơi có đường dây vận chuyển ma túy thuận lợi).
5. NGUỒN GỐC XÃ HỘI:
Đa số các nghiên cứu đều cho thấy mọi tầng lớp xã hội đều liên quan đến nghiện ma túy, thành phần xã hội không ảnh hưởng rõ đến việc sử dụng ma túycủa thanh - thiếu niên. Không có mối quan hệ rõ rệt giữa nguồn gốc xã hội và việc sử dụng ma túy. Thống kê cho thấy các tầng lớp sung túc thường sử dụng các chất ma túy đắt tiền và tầng lớp nghèo khó thường sử dụng các chất có giá rẻ hơn.
6. HOÀN CẢNH TRƯỜNG HỌC HAY NGHỀ NGHIỆP:
Trường học có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Môi trường học: Vô kỷ luật, giáo viên dạy không hiệu quả, học trò gây rối, không có sự động viên thi đua, thường tần suất sử dụng ma túy lớn hơn.
Các thanh niên đang giai đoạn tập sự, thường có các khó khăn lớn về xã hội và bản thân hơn là các thanh niên đang làm việc nên sử dụng nhiều hơn các loại ma túy: say rượu nhiều hơn, tiêu thụ các chất ma túy thường xuyên hơn. Số người làm việc bằng trí óc và giới kinh doanh thường sử dụng các thuốc chống mất ngủ hoặc thuốc chống căng thẳng thần kinh.
7. ẢNH HƯỞNG CỦA BẠN BÈ:
Các yếu tố bạn bè đã liên quan đến việc sử dụng các chất ma túy. Ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy là: Sự thúc bách phải sử dụng ma túy, các thái độ đối với ma túy và sử dụng ma túy bởi bạn bè.
Nghiên cứu của NIDA cho thấy số người sử dụng ma túy giảm rõ rệt, do có phong trào rất nhiều học sinh trong trường bài xích, phê phán việc sử dụng ma túy kịch liệt.
* Có sự liên quan chặt chẽ việc sử dụng ma túy do bạn bè: Đối tượng thường bắt đầu sử dụng ma túy là do ảnh hưởng của một bạn thân hơn là do đề nghị của một người xa lạ. Các nghiên cứu cho thấy việc bạn bè sử dụng ma túy dễ dẫn thanh - thiếu niên đến việc sử dụng ma túy cho chính mình. Một theo dõi một số thanh - thiếu niên lúc đầu không sử dụng rượu cho thấy dần dần việc sử dụng trở nên đều đặn trong các lần gặp gỡ bạn bè hay sử dụng rượu sau đó và việc sử dụng ma túy cũng có kết quả tương tự.
* Ảnh hưởng của bạn bè chủ yếu là do bắt chước, tự ái hoặc do bị khiêu khích. Sử dụng các chất ma túy và sự buông thả của thanh thiếu niên có tác động lẫn nhau: Một người nghiện ma túy có khuynh hướng kết bạn với các bạn bè cũng sử dụng ma túy thì việc sử dụng ma túy càng ngày càng tăng liều và càng trầm trọng hơn.
* Các yếu tố khác như việc đối tượng gặp khó khăn trong học tập so với bạn bè cùng lớp.
* Các thanh - thiếu niên thường xuyên hoạt động nhóm nhưng không được giám sát và không có định hướng theo một mục đích thường sử dụng rượu và ma túy nhiều hơn. Trong khi đó các thanh - thiếu niên tham gia các hoạt động nhóm có giám sát và có định hướng theo một mục đích thường ít sử dụng rượu và ma túy hơn.
* Bạn thân và gia đình là yếu tố có thể làm giảm ảnh hưởng của các bạn bè khác.
* Cha mẹ có thể làm giảm ảnh hưởng của bạn bè có sử dụng ma túy. Việc dùng ma túy thường gặp nhiều hơn khi cả cha mẹ và bạn bè đều sử dụng ma túy.
Ảnh hưởng của bạn bè tăng khi đối tượng quan hệ với bạn bè nhiều hơn là với cha mẹ. Người sử dụng ma túy thường ít quan hệ với người lớn và kết bạn nhiều hơn với số cùng lứa tuổi.
Các nhìn nhận, đánh giá liên quan đến rượu, lạm dụng ma túy và các hành vi lệch lạc thường tăng lên sự bất đồng do cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống giữa cha mẹ và bạn bè với đối tượng. Đối tượng sử dụng ma túy dễ tin vào lời khuyên của bạn bè xấu hơn lời khuyên của cha mẹ.
II. SỬ DỤNG MA TÚY DO CÁC YẾU TỐ GIA ĐÌNH:
Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: Việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của chamẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối cha mẹ con cái là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Rối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng đến tới toàn bộ các yếu tố khác.Việc dùng ma túy của thanh - thiếu niên cũng có thể là do thái độ phản ứng lại cách nhìn nhận - đối xử của cha mẹ mà đối tượng không đồng ý.
1. GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY:
Không ít trường hợp gia đình có hơn hai người sử dụng hoặc buôn bán ma túy cùng lúc. Đây là một vấn đề rất khó khăn cho công tác điều trị khi rời Trung tâm về. Khả năng tái nghiện là hầu như chắc chắn.
Trong gia đình nếu có hơn hai anh chị em nghiện ma túy mà chỉ có một người chịu cai nghiện thì việc phục hồi rất khó khăn.
Trường hợp này phải:
- Xem xét hoàn cảnh gia đình đối tượng cùng những ảnh hưởng của nó tới cơ hội phục hồi của đối tượng.
- Động viên tất cả những thành viên trong gia đình, nhất là những người có nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của đối tượng.
- Phải tính đến một môi trường khác, nếu trở về gia đình việc chống tái nghiện bị đe dọa.
2. CHA MẸ SỬ DỤNG MA TÚY:
Khi cha hoặc mẹ sử dụng ma túy, việc cai nghiện của đối tượng vô cùng khó khăn: nhân tố bảo vệ đã mất một hoặc cả hai. Cha mẹ nghiện thì không thể giúp đỡ về tình cảmcũng như đạo đức cho con mình.
Trường hợp này phải:
- Nói rõ với cha mẹ: nếu muốn con cái họ từ bỏ được ma túy, trước tiên họ phải cai nghiện.
- Nếu không tạo được môi trường gia đình tốt cho đối tượng, thì khi đối tượng về cần nghĩ đến việc để đối tượng sống với những người thân khác.
* Các nghiên cứu về các chất ma túy cho thấy các bà mẹ (chứ không phải các ông bố) sử dụng ma túy thì con cái thường dùng các chất ma túy nhiều hơn các đối tượng có mẹ không dùng ma túy.
* Các yếu tố khác có thể tăng nguy cơ sử dụng ma túy ở con cái các người nghiện rượu, nghiện ma túy hoặc do bị ngược đãi về cơ thể hay bị lạm dụng tình dục hoặc bị bỏ rơi.
3. HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH QUÁ KHÓ KHĂN VỀ KINH TẾ:
Người nghiện ma túy thuộc thành phần nghèo khó thường cha mẹ ít quan tâm đến việc điều trị cho con cái. Họ phó mặc tất cả cho Nhà nước hoặc các Trung tâm Cai nghiện và dễ dàng bỏ điều trị ngay khi con cái họ có yêu cầu.
Trường hợp này cần giải thích với gia đình người nghiện về những tác hại và lợi ích của việc cai nghiện nhằm mục đích lôi kéo sự tham gia của gia đình vào việc điều trị. Gia đình phải được thường xuyên thông báo tiến trình điều trị của đối tượng nhằm kích thích sự quan tâm của gia đình đối với con cái.
Nếu có điều kiện kêu gọi sự hỗ trợ của xã hội giúp đỡ họ bằng những biện pháp cụ thể, để họ có thể tiếp tục thực hiện những yêu cầu điều trị.
4. THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CÁI NGHIỆN MA TÚY:
Một số gia đình khi biết con cái nghiện ma túy thường có cảm giác bất lực, xấu hổ, thất bại, thiếu bổn phận và rất ngại để lộ vấn đề này ra ngoài gia đình, một số khác không nhận thức được mức độ trầm trọng của việc nghiện ma túy. Vì những suy nghĩ này, cha mẹ không có hành động thích hợp bằng cách chỉ cho con cái họ điều trị ngay tại gia đình thay vì đưa đến các Trung tâm Cai nghiện.
Trong trường hợp này, cần tư vấn, giúp đỡ cho các bậc cha mẹ hiểu rõ tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy nếu để tình trạng nghiện ngập con em họ kéo dài, sẽ càng thêm tác hại và càng làm gia đình họ thêm tan nát.
5. TÂM BỆNH LÝ CỦA CHA MẸ:
Các đối tượng nào có cha hay mẹ mắc bệnh tâm trí thường có khuynh hướng sử dụng ma túy nhiều hơn người khác. Trường hợp cha mẹ bị trầm nhược thì có tăng nguy cơ con cái dễ sử dụng các chất ma túy.
6. SỰ ĐỔ VỠ CỦA GIA ĐÌNH:
- Sự phân ly gia đình do có người thân mất, ly thân hay ly dị là một yếu tố nguy cơ cho việc lạm dụng ma túy ở thanh - thiếu niên.
- Một số đối tượng đã nghiện ma túy do những tổn thương tình cảm phát sinh từ gia đình, do đổ vỡ của cha mẹ. Việc cha mẹ chia tay thường đi kèm những bất hòa, xích mích tác động vào đối tượng.
- Một hậu quả của những gia đình tan vỡ là sự buông lỏng kỷ luật trong gia đình, khiến cho đối tượng vượt ra khỏi tầm quản lý của cha mẹ.
- Có những trường hợp đối tượng đã sử dụng ma túy như một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc hôn nhân của cha mẹ bằng cách nghiện để buộc cha mẹ thôi bất hòa nhau mà quan tâm đến đối tượng hơn.
- Ảnh hưởng của việc gia đình tan vỡ đối với vấn đề lạm dụng ma túy của đối tượng cần phải được giải quyết suốt trong quá trình điều trị. Nhân viên tư vấn cố gắng giúp đối tượng chấp nhận vấn đề và phải trang bị cho đối tượng những tư tưởng ổn định khi rời Trung tâm Cai nghiện về sống với một trong hai người. Việc sử dụng ma túy gặp nhiều lần hơn trong các gia đình bị tan vỡ. Nghiên cứu của Stocker & Swadi (1989) thấy 21% thanh - thiếu niên sử dụng ma túy có cha mẹ chết, 47% có cha mẹ ly thân.
7. GIA ĐÌNH KHÔNG HÒA THUẬN:
- Sự bất hòa của cha mẹ liên quan đến việc dùng ma túy ở tuổi thanh - thiếu niên. Sự liên quan không tốt giữa cha mẹ làm tăng việc sử dụng ma túytrong thanh - thiếu niên. Qua nghiên cứu cho thấy cha mẹ cãi nhau con cái thường sử dụng ma túy nhiều hơn các gia đình hòa thuận.
- Một người nghiện ma túy thường gây nên những đổ nát trong gia đình. Sau bao năm cố gắng chung sống và chịu đựng với người nghiện, gia đình luôn luôn sống trong tình tạng bất hòa, xáo trộn nhiều mặt. Nếu gia đình trước đó đã gặp khó khăn, tình trạng nghiện của đối tượng càng làm cho gia đình trở nên tồi tệ hơn.
- Một gia đình bất hòa sẽ khó lòng nhất trí với Trung tâm biện pháp cai nghiện cho đối tượng. Các thành viên quan trọng trong gia đình này thường có những quyết định mâu thuẫn nhau làm cho chương trình điều trị bị phá hoại, săn sóc hậu cai không thực hiện được.
- Trong một số trường hợp khác nữa, người nghiện bị giằng co giữa các thế lực trong gia đình và họ thường lợi dụng khe hở này để bỏ dở việc điều trị.Với các gia đình này, nhân viên tư vấn phải:
+ Thông qua người cai nghiện, người điều trị phải nắm được một cách sâu sắc động cơ gây ra bất hòa trong gia đình họ. Vấn đề sau đó là giúp đối tượng thoát ra khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh từ phía gia đình không ổn định của mình.
+ Tìm ra người có ảnh hưởng lớn nhất trong gia đình, hướng họ đến cộng tác với chương trình điều trị như một trợ thủ cho Trung tâm.
8. CÁC MỐI QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI:
8.1 PHONG CÁCH GIÁO DỤC:
- Có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm tra của gia đình: các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi , việc học tập của họ.
- Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn.
- Sự lơ là trong tình cảm của cha mẹ cũng dễ dẫn con cái tới việc sử dụng ma túy.
8.2 CÁC MỐI QUAN HỆ TÌNH CẢM:
- Quan hệ xung đột ở cha mẹ luôn ảnh hưởng lớn đến số thanh - thiếu niên sử dụng ma túy.
- Sự thương yêu giữa cha mẹ giảm việc dùng ma túy ở thanh - thiếu niên. Trong nghiên cứu của Bob và CTV (1990), 43% thanh thiếu niên hút ma túy không cảm thấy “được cha mẹ yêu mến nhiều”.
- Các hậu quả của các mối quan hệ với cha và mẹ qua tổng kết cho thấy rằng sự thiếu thốn tình cảm thân thiết với cha ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy, mối quan hệ nồng ấm với cha làm giảm việc sử dụng các chất ma túy. Trong nghiên cứu của Mellinger và CTV (1975), các thanh niên sinh viên không sử dụng ma túy cảm thấy gần gũi với cha họ hơn và ít xung đột với cha.
- Việc nuông chiều của người mẹ liên quan tới các nguy cơ sau này của việc dùng thuốc lá, rượu và ma túy. Sự nuông chiều của cha mẹ với thanh thiếu niên tạo điều kiện xấu cho việc sử dụng ma túy.
9. CÁC HÀNH HẠ VỀ CƠ THỂ VÀ TÌNH DỤC:
Các hành hạ về thể xác và tình dục thường kết hợp với lạm dụng và lệ thuộc ma túy của thanh - thiếu niên. Trong nghiên cứu của Edwad và CTV (1989), 597 thanh thiếu niên được điều trị vì lạm dụng ma túy, tự khai là nạn nhân của các vụ hành hạ tình dục trong và ngoài gia đình: 7,2% trường hợp bị hành hạ trong gia đình 7,9% trượng hợp bị hành hạ tình dục ngoài gia đình.
Các thanh thiếu niên nghiện ma túy nạn nhân của các hành hạ tình dụcbiểu hiện các rối loạn tâm bệnh lý nặng hơn đặc biệt một tần suất lớn hơn về các hành vi tự sát: ý định tự sát đã được thực hiện trên 56,5% nạn nhân của loạn luân, 35,7% nạn nhân của tệ hành hạ tình dục trong gia đình, so với 20,4% số thanh thiếu niên nghiện ma túy không phải là nạn nhân của các hành hạ tình dục.
III. CÁC YẾU TỐ BẢN THÂN:
Sự ham muốn các chất kích thích, nhân cách lúc còn nhỏ và nhân cách khi trưởng thành ảnh hưởng lớn đến các quyết định sử dụng ma túy của đối tượng.
1. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CÁC CHẤT MA TÚY:
Sau khi nghiên cứu số học sinh sử dụng ma túy, cho thấy: đa số học sinh trung học thừa nhận sử dụng đều đặn các chất ma túy là nguy hiểm. Nguy cơ thử sử dụng do sự tin tưởng sai lầm bởi đa số thanh niên tin rằng với ý chí và sức mạnh tính cách của mình có thể thắng được nhu cầu sử dụng chất ma túy sau này.
Sự phát triển các thái độ ham muốn gắn liền với việc cha mẹ thiếu giáo dục kỹ cho con cái cách phòng bệnh và đối phó với tác hại của các chất ma túy.
Các ảnh hưởng không tốt của xã hội, bản chất của đối tượng dễ xúc cảm, lòng tự tin và trầm nhược lo lắng ở mức độ cao cũng như do cha mẹ thiếu giáo dục kỹ cho con cái tác hại của các chất ma túy cũng như giáo dục con cái tự bảo vệ sức khỏe - an toàn trong quan hệ tình dục dễ dẫn đối tượng đến sử dụng ma túy.
2. NHÂN CÁCH BẢN THÂN:
2.1 LÚC TRẺ:
Một vài nghiên cứu đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn thanh - thiếu niên tới việc sử dụng ma túy: sự ưa tìm cái mới, không quan tâm đối với thành tích học tập,tính ngang bướng và hung bạo dẫn đến dùng ma túy và làm tăng xác suất liên can ngày càng sâu vào việc sử dụng ma túy, nhân cách ở tuổi trẻ là trung gian của các nét nhân cách ở tuổi thanh niên tiếp nối.
2.2 LÚC TRƯỞNG THÀNH:
Các nghiên cứu có hệ thống đã nêu rõ vai trò nhân cách trong việc sử dụng ma túy ở tuổi Thanh - Thiếu niên: sự ưa tìm cái mới, sự tìm kiếm quá đáng các cảm giác mới, các khó khăn trong tự chủ về cảm xúc và tính xung động, nỗi đau về tâm lý, sự thiếu hụt lòng tin, lòng tự chủ và các kỹ năng giao tiếp xã hội dẫn đến việc sử dụng ma túy của thanh - thiếu niên.
Một số yếu tố khác dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy: ngang bướng hơn, ưa thể hiện hơn các hành vi lập dị, đòi hỏi sự độc lập, thiếu trách nhiệm, ít quan tâm và ít tham vọng học tập là những yếu tố báo trước việc sử dụng ma túy.
Việc tìm các cảm giác mạnh, cảm giác hưng phấn, hành vi ưa mạo hiểmhay thiếu tự chủ về cảm xúc, tính tình chưa thuần thục, tính xung đột, tính hung bạo, tâm lý như lo hãi, khí chất trầm nhược và thiếu tự tin, không có bản lĩnh tự làm chủ và các khả năng thích ứng, các cảm giác bất lực và thiếu sót dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy của thanh - thiếu niên.
Các khảo sát cho thấy đối tượng không dùng ma túy có một bản lĩnh và các đáp ứng thích nghi tốt hơn so với các đối tượng sử dụng ma túy.
Các đối tượng hay rụt rè và bị ức chế về xã hội có nhiều nguy cơ sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp hơn những người khác.
Ngoài ra những nỗi đau về tâm lý, các khó khăn trong điều chỉnh các cảm xúc của cá nhân và các khó khăn trong các quan hệ cũng như dự báo việc sử dụng ma túy sớm cũng như sự gia tăng sử dụng ma túy sau này.
B. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY
I. NGUYÊN NHÂN:
Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình, bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức và mang tính đặc thù riêng cho mỗi trường hợp.
- Các yếu tố này còn có sự tác động của quá khứ và hiện tại, của các thực tế bên trong và bên ngoài.
- Các xung đột nội tâm và xung đột trong quan hệ hiện tại của đối tượng với gia đình - xã hội có thể kéo dài từ thời thơ ấu.
- Các chấn thương hiện tại nhắc lại các chấn thương của quá khứ.
- Các sự kiện bên ngoài tác động các lo sợ bên trong là bị gạt bỏ, bị bỏ rơi, cám dỗ hay bị hủy diệt trong suy nghĩ đầy huyễn tưởng của đối tượng.
- Quá trình nghiện ma túy là một tổng hợp phức tạp. Những yếu tố bất lợi bên ngoài (gia đình - xã hội) làm trầm trọng thêm và gây hậu quả xấu về hành vi tâm lý của đối tượng.
Tại gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng, đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.
Ngoài xã hội, dễ có định kiến, khinh rẻ gạt ra bên lề. Nếu có giúp đỡ thì thường mang tính kinh điển, giáo điều.
Những tác động này góp phần làm công tác phòng chống ma túy trở thành đơn điệu - cứng nhắc, khó động viên giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy.
II. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:
Có nhiều yếu tố nguy cơ đưa đẩy một người đến tình trạng nghiện ngập, nhưng cũng có nhiều tác nhân bảo vệ giúp một người không bao giờ sử dụng ma túy hoặc đã lạm dụng mà thoát ra được. Trong một gia đình có nhiều người con nhưng chỉ có một người nghiện, còn những người khác thành đạt. Trong trường hợp này, yếu tố gia đình không phải là yếu tố nguy cơ của người nghiện mà trái lại, đây là một yếu tố bảo vệ.
Ngoài ra, phải tìm hiểu những yếu tố nguy cơ khác thuộc về nội tâm, cũng như các quan hệ cá nhân của đối tượng. Đối với một người nghiện, có rất nhiều yếu tố bảo vệ cũng như những yếu tố nguy cơ tác động xen kẽ vào nhau trước khi dẫn đến tình trạng lạm dụng ma túy. Nếu yếu tố nguy cơ càng cao trong lúc yếu tố bảo vệ kém, người ta dễ bị đưa đến trình trạng lạm dụng ma túy với những mức độ nặng nhẹ khác nhau tuỳ thuộc hai yếu tố trên.
Trong hai loại yếu tố trên, việc cân nhắc hai phía, kinh nghiệm cho thấy các yếu tố nguy cơ có khả năng lôi kéo mạnh mẽ hơn đối với việc sử dụng ma túy. Ví dụ một người có tiền sử nghiện sẽ rất dễ tái nghiện nếu đối tượng ở trong một môi trường ma túy sẵn sàng, cho dù có nhiều yếu tố bảo vệ giúp đỡ đối tượng. Một người phải đương đầu với quá nhiều yếu tố nguy cơ thì đối tượng càng dễ lạm dụng ma túy, mặc dù các yếu tố bảo vệ có thể giúp anh ta ngăn chặn, hạn chế việc sử dụng ấy. Nếu chúng ta biết và có nhiều dữ liệu về người nghiện, chúng ta có thể dự đoán đối tượng có thể dễ dàng thoát khỏi ma tuý hay không.
Có hai nhóm tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc lạm dụng ma túy:
1. ĐẶC ĐIỂM NỘI TÂM:
Một người với nội tâm bất thường, sẽ có những nhận thức thất thường dẫn đến những biểu hiện qua hành vi. Các nghiên cứu tâm lý cho thấy đặc điểm bất thường nội tâm bao gồm các yếu tố sau:
- Khát vọng học tập: Những học sinh gắn bó với học tập thì ít sử dụng ma túy hơn so với nhóm học sinh lười học. Khát vọng học tập là một yếu tố bảo vệ mạnh, song không phải luôn luôn như vậy. Một học sinh rất ham học nhưng kém may mắn trong thi cử hoặc có thể bị giáo viên ghét bỏ thì việc học tập trở thành nặng nề với anh ta. Vì khát khao học tập mà đối tượng có thể trở nên bất mãn, chán đời rồi tự tìm lối thoát.
- Khát vọng vươn lên trong cuộc sống để tự khẳng định mình, khi nó suôn sẻ sẽ tạo nên hưng phấn. Song một khi cá nhân thất bại, sẽ dễ dàng sợ hãi, thất vọng với thực tại và sẽ tìm lối thoát, thường là rượu hoặc ma túy.
- Lý tưởng và tín ngưỡng là yếu tố bảo vệ. Những tín đồ tốt luôn luôn tránh xa ma túy.
- Cuộc sống không mục đích, không biết phải làm gì, thích hưởng thụ vui chơi là một yếu tố nội tâm rất nguy hiểm. Một tình trạng lãnh đạm, bi quan cũng là một yếu tố nguy cơ, nhất là khi nó phối hợp với những triệu chứng tâm thần.
- Tâm hồn nổi loạn, ưa thích những chuyện trái với thuần phong mỹ tục, xu hướng có những hành vi vô luân thường được coi là một nguyên nhân (đồng thời cũng là hậu quả) của việc lạm dụng ma túy.
- Nội tâm thiếu tự chủ, thiếu tự trọng cũng là yếu tố nguy cơ, trong khi sự tự chủ, tự trọng là yếu tố bảo vệ.
- Tâm hồn cô độc, xung khắc với mọi người, luôn buồn chán và bất mãn với tất cả, dễ là nạn nhân của ma túy.
2. MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN:
Tuỳ thuộc hoàn cảnh mỗi người, mối quan hệ cá nhân có thể là những yếu tố bảo vệ mà cũng có thể là những nguy cơ rõ nét:
- Thái độ và hành vi của cha mẹ: Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái dễ là tiền đề cho sự nghiện ngập của con cái.
- Trình trạng nghiện ngập của bạn bè gây nguy cơ ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy của nhóm. Ngược lại, bạn bè sống mẫu mực lại là yếu tố bảo vệ cho cả nhóm.
- Thái độ của xã hội, của cộng đồng đối với ma túy có ảnh hưởng mạnh đến việc sử dụng ma túy. Nếu tất cả mọi gia đình đều quyết tâm chống ma túy, chắc chắn sẽ giảm được số lượng ngưởi sử dụng ma túy.
- Một nền văn hoá chống ma túy luôn gây ảnh hưởng tốt đối với nhân dân trong việc phòng chống ma túy.
III. KẾT LUẬN:
Những yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ việc sử dụng ma túy của thanh thiếu niên bao gồm các yếu tố chủ yếu như sau:
1. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ:
- Trình độ học vấn, mức độ nhận thức.
- Ý thức tuân thủ Luật pháp.
- Lý tưởng - Tín ngưỡng.
- Có sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.
- Sự tự bằng lòng với chính mình.
- Gia đình hoà thuận - có điều kiện tiến lên.
- Quan điểm dứt khoát với ma túy
2. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ:
Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.
- Môi trường sống có trắc trở, khó khăn quá sức
- Môi trường sống có nhiều tệ nạn xã hội.
- Bạn bè hoặc quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.
- Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái.
- Thiếu sự giúp đỡ từ cộng đồng và người có trình độ bản lĩnh
- Môi trường sẵn có ma túy
Bằng phép suy luận và qua kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta thấy đối tượng được tiếp xúc với càng nhiều yếu tố bảo vệ, giảm thiểu các yếu tố nguy cơ sẽ tạo điều kiện cai nghiện thuận lợi cho đối tượng.
Để có cơ sở định hướng trong điều trị và giáo dục phải biết được nguyên nhân dẫn đối tượng đến việc sử dụng ma túy - phải điều tra đầy đủ cuộc sống của đối tượng, từ gia đình, môi trường sống đến bản thân người nghiện và ta phải thiết lập được chân dung - những yếu tố bảo vệ và những yếu tố nguy cơ của đối tượng.
Ngoài yếu tố giáo dục phải củng cố, phát huy các yếu tố bảo vệ, làm giảm nhẹ các yếu tố nguy cơ và giúp cho đối tượng các kỹ năng để vượt qua những đe dọa lôi kéo anh ta trở về con đường cũ.
* Các Thanh - Thiếu niên thường xuyên hoạt động nhóm nhưng không được giám sát và không có định hướng theo một mục đích thường sử dụng rượu và ma túy nhiều hơn.
Trong khi đó các Thanh - Thiếu niên tham gia các hoạt động nhóm có giám sát và có định hướng theo một mục đích thường ít sử dụng rượu và ma túy hơn.
Việc tìm các cảm giác mạnh, cảm giác hưng phấn, hay thiếu tự chủ về cảm xúc, tính tình chưa thuần thục, tính xung đột, tính hung bạo, tâm lý như lo hãi, khí chất trầm nhược và thiếu tự tin, không có bản lĩnh tự làm chủ và các khả năng thích ứng, các cảm giác bất lực và thiếu sót dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy của Thanh - Thiếu niên.
* Trường học có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Môi trường học: Vô kỷ luật, giáo viên dạy không hiệu quả, học trò gây rối, không có sự động viên thi đua, thường tần suất sử dụng ma túy lớn hơn.
Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: Việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của cha mẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối quan hệ cha mẹ và con cái là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Rối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng đến tới toàn bộ các yếu tố khác.
- Có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm tra của gia đình: các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi, việc học tập của họ.
- Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn.
*Cha mẹ ly dị, ly thân, bất hòa dễ dẫn đến việc dùng ma túy của con cái. Qua nghiên cứu cho thấy cha mẹ cãi nhau con cái thường sử dụng ma túy nhiều hơn các gia đình hòa thuận.
CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ ĐỂ THANH - THIẾU NIÊN TRÁNH XA ĐƯỢC MA TÚY:
- Trình độ học vấn, mức độ nhận thức
- Ý thức tuân thủ Luật pháp.
- Lý tưởng - Tín ngưỡng.
- Có sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.
- Sự tự bằng lòng với chính mình.
- Gia đình hòa thuận - có điều kiện tiến lên.
- Quan điểm dứt khoát với ma túy.
CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ DỄ DẪN THANH - THIẾU NIÊN ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:
- Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.
- Môi trường sống có trắc trở, khó khăn quá sức.
- Môi trường sống có nhiều tệ nạn xã hội.
- Có bạn bè hoặc có quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.
- Có cha mẹ sử dụng ma túy.
- Gia đình bất hòa.
- Môi trường sẵn có ma túy.