All posts by admin

[Backup] CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY (2019)

CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)

A - MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN

  1. ĐỊNH NGHĨA:

*   Ma túy là một từ Hán - Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đây ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu.

*   Ngày nay ma túy được định nghĩa một cách rộng hơn: ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động vào hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.

  1. PHÂN LOẠI MA TÚY:

Tùy theo mục đích, có nhiều cách phân loại ma túy.

A. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:

  1. MA TÚY HỢP PHÁP:rượu, cà phê, thuốc lá….Một số dược phẩm được sử dụng để chữa trị bệnh, nếu sử dụng quá liều, kéo dài sẽ xảy ra tình trạng nghiện: Benzodiazepines, Secobarbital, Morphine, Amphetamine, Pseudoephedrine, Cocaine...
  2. MA TÚY BẤT HỢP PHÁP:Là những chất bị pháp luật quy định, liệt vào danh sách cấm sử dụng: thuốc phiện, Heroine, Estasy (MDMA).

B. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:

  1. MA TÚY CÓ NGUỒN GỐC THIÊN NHIÊN:thuốc phiện, cần sa, Cocaine ….
  2. MA TÚY BÁN TỔNG HỢP:Heroine, codeine, LSD…
  3. MA TÚY TỔNG HỢP:Methadone, Mépéridine, Amphetamine…

C. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ:

  1. CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (Stupefiantes):ma túy nhóm OMH (Á phiện, Heroine, Morphine, Codéine…) và các chất tổng hợp (Methadone, Mépéridine, Pethidine, Pentanyl,...).
  2.  CÁC CHẤT KÍCH THÍCH (Stimulantes): Cocaine, Amphetamine, Ecstasy, thuốc lắc, hàng đá…
  3. CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (Hallucinogens): LSD (D - Lysergic Acid Diethylamid), Cannabis, Phencyclidine, PCP, Mescaline,…
  4. CÁC THUỐC GIẢI LO ÂU - GÂY NGỦ(Anxiolytic/hypnotic): các loại Benzodiazépines, Barbiturates,…

B – CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

  1. DẤU HIỆU CỦA NGƯỜI NGHIỆNHEROIN
  2. CÁC BIỂU HIỆN THƯỜNG GẶP CỦA NGƯỜI VỪA SỬ DỤNG HEROIN:

Sau khi người sử dụng heroin vừa sử dụng xong một liều heroin thì nhìn chung tinh thần hưng phấn, vẻ mặt sung mãnđỏ mặtmắt đỏ và ướt, trông hoạt bát khác thường. Nếu tuổi còn trẻ, họ thường dễ bị khiêu khích, muốn tìm cảm giác mạnhgây gổ đánh nhau, tự rạch tay, dung thuốc lá đốt chân tay… Các dấu hiệu trên được biểu hiện cụ thể qua các giai đoạn sau:

  • Giai đoạn 1:sau khi dùng 5 – 10 phút, biểu hiện phổ biến nhất là mắt đỏ và trông ướt long lanh, sau đó chuyển qua sụp mi mắtngồi tại chỗmắt lim dimgãi chân tayvò đầu, bứt tóc… thể hiện rõ nhất trong trường hợp dùng thuốc phiện pha lẫn seduxen. Những biểu hiện này người nhà khó phát hiện ra vì nó thường xảy ra ở nơi hút, chích.
  • Giai đoạn 2:sau 10 – 20 phút, mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn khànuống nhiều nước lạnh, tâm lý ở trạng thái hưng phấn caonói nhiều, cử chỉ và động tác thiếu chính xác. Nếu có tật thì tật thường xuyên xuất hiện ở mức cao như vuốt mũinhổ râunặn mụncắn móng taylấy ráy tai
  • Giai đoạn 3:sau 90 phút, người sử dụng heroin tìm chỗ yên tĩnh để thưởng thức cơn phê. Lúc này họ nằm như ngủ, nhưng không ngủ, lại hút nhiều thuốc lá, tàn thuốc vung vãi. Quan sát nơi họ nằm thường thấy chăn màn thủng do tàn thuốc lá rơi vào, bề bộn đồ đạc, người sử dụng heroin sợ tắm, sợ ồn ào.
  1. DẤU HIỆU NHẬN BIẾT SỚM NGƯỜI NGHIỆN HEROIN:

Chúng ta có thể nhận biết sớm một người đã nghiện heroin qua các biểu hiện sau:

-       Thay đổi thất thường giời giấc sinh hoạt: thức khuya, đêm ngủ ít, dậy muộn, ngày ngủ nhiều…

-       Hay tụ tập, đi lại đàn đúm vơi người có đời sống sinh hoạt buông thả như không lao động, không học hành… hoặc chơi than với người sử dụng heroin.

-       Đi lại có quy luật: Mỗi ngày, cư đến một giờ nhất định nào đó, dù đang bận việc gì cũng tìm cách, kiếm cớ để đi khỏi nhà.

-       Thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả người thân trong gia đình).

-       Tâm trạng thường lo lắng, bồn chồn, đôi khi nói nhiều, hay nói dối loanh quoanh, hay có biểu hiện chống đối, cáu gắt hơn so với trước đây. Hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân. Nếu còn đi học thì thường đi học muộn, trốn học, bỏ giờ học (thường vào giờ nhất định): ngồi trong lớp hay ngủ gật, học lực giảm sút nhanh.

-       Nhu cầu tiêu tiền ngày một nhiều, sử dụng tiền không có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền người than và hay bán đồ đạt cá nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục túi người khác…

-       Trong túi quần, áo, cặp, phòng ngủ thường có các thứ giấy bạc, thuốc lá, kẹo cao su, bật lửa ga, bơm kim tiêm, uống thuốc, thuốc phiện, gói nhỏ heroin.

-       Có dấu kim trên mu bàn tay, cổ tay, mặt trong khuỷu tay, mặt trong mắt cá chân, ở bẹn, ở cổ…

-       Đối với người sử dụng heroin nặng, còn có biểu hiện giảm sút sức khoẻ rõ rệt, thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ngại tắm, ăn mặc lôi thôi lếch thếch…

-       Người nào càng có nhiều biểu hiện trên thì càng có khả năng mắc nghiện heroin. Bố, mẹ, người than trong gia đình, bạn bè, nhất là những người sống cùng phòng nên chú ý phát hiện sớm người sử dụng heroin để tìm cách giúp đỡ. Vì càng phát hiện sớm, cai sớm, thì càng có khả năng cai được và giảm được nguy cơ nhiễm HIV.

  1. DẤU HIỆU CỦA NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

Người nghiện ma tuý tổng hợp thường gặp các triệu chứng thể hiện qua hai mặt cơ thể và tâm thần như sau:

  1. VỀ CƠ THỂ:

+  Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa.

+  Nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.

  1. VỀ TÂM THẦN:

-     Người sử dụng ATS có các biểu hiện sau: bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệhoang tưởng và các ảo giác cũng có thể xảy ra.

-     Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các triệu chứng sau:

-     Triệu chứng ngắn hạnNhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh, mất men răng, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, cảm giác thân thiện, gần gũi, quan hệ với người khác.

-     Triệu chứng kéo dài: ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ, mệt mỏi, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh, khó tập trung chú ý, cảm giác thân thiện với người khác.

-     Ngoài ra hầu hết các chất ATS làm tăng nhu cầu tình dục nên người sử dụng ATS quan hệ nam nữ bừa bãihay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIV, viêm gan siêu vi, đồng thời do bị kích động người sử dụng ATS hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông cho chính mình và người khác.

CÁC LOẠI TEST NHANH PHÁT HIỆN MA TÚY TRONG NƯỚC TIỂU

 III. THỜI GIAN VÀ HÀM LƯỢNG TỐI THIỂU  ĐỂ CÓ THỂ PHÁT HIỆN MA TÚY TỒN TẠI TRONG NƯỚC TIỂU
CHẤT GÂY NGHIỆN THỜI GIAN PHÁT HIỆN SỚM NHẤT TRONG NƯỚC TIỂU THỜI GIAN CHẬM NHẤT CÒN TỒN TẠI TRONG NƯỚC TIỂU GIỚI HẠN LƯỢNG MA TÚY TỐI THIỂU ĐỂ PHÁT HIỆN TRONG NƯỚC TIỂU
OPIATES (HEROINE – MORPHINE – Á PHIỆN,…) (Hít) 6-8 giờ 2-5 ngày 300mg/ml
METHAMPHETA-MINE (Hút) 05-90 phút 2-4 ngày 1000mg/ml
MARIJUANA (Cần sa) (Hút) Khoảng 30 phút >1-2 điếu (2-3 ngày) >5 điếu (14-30 ngày) 100 mg/ml
COCAINE (Hút) Khoảng 05 phút 2-4 ngày 300mg/ml
BENZODIAZEPINS (Uống) 1 - 2 giờ 4-8 ngày, kéo dài vài tuần, ​khi lạm dụng kéo dài trầm trọng 300mg/ml
Theo NIDA SCREEN CUP OF USA (NIDA: National Institute on Drug of Abuse) Viện quốc gia về lạm dụng ma túy (Hoa Kỳ)
  1. HÌNH ẢNHTỔN THƯƠNG NÃO BỘ NGHIÊM TRỌNG TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

NÃO BỆNH NHÂN NGHIỆN HÀNG ĐÁ (METHAMPHETAMINE)

  ma tuy

  ma tuy ma tuy ma tuy ma tuy ma tuy ma tuy ma tuy  

Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy

Cận cảnh khuôn mặt biến dạng

do sử dụng ma túy tổng hợp

Amphetamin thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới. Loại ma túy này đang được nhiều người sử dụng vì nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, gây khoái cảm, phấn khíchtinh thần mẫn tiệpkhông còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủtăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và trí não. Amphetamin được phổ biến trong giới sinh viênbinh lính, lái xe đường dàicông nhân ca đêmvận động viên thể dục thể thao...v.v. Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine. Loại thuốc tây gây nghiện “crystal methamphetamine,” còn gọi là “crystal meth,” chính là chất gây nghiện cực mạnh, đến nổi nó có thể đánh lừa, gây nghiện và cám dỗ nạn nhân vào cơn mê, cảm thấy mình có thể làm mọi thứ hoặc trở nên bất cứ ai mà mình muốn. Trước và sau 8 tháng nghiện Methamphetamine. Bác sĩ tâm thần Steven Klevens đã có cuộc nghiên cứu về người nghiện “crystal meth,” khám phá ra loại thuốc này tiềm tàng nguy hiểm chết người và có sức tàn phá cơ thể khủng khiếp. Trước và sau 4 tháng nghiện Methamphetamine. Sau nhiều năm sử dụng thuốc, con nghiện biến đổi đến mức không ai nhận ra được. Trong một số trường hợp, những bức hình đối chiếu trước và sau một thời gian nghiện thuốc thật sự gây sửng sốt. Trước và sau 2 năm rưỡi nghiện Methamphetamine. “Thuốc có thể khiến người nghiện tự rạch da mình, vì họ cảm thấy những vật cộm ngứa bò trong người, và đó là tại sao chúng ta thấy người nghiện có nhiều vết lở loét, trầy xướt khắp người,” bác sĩ Klevens giải thích. Trước và sau 1 năm rưỡi nghiện Methamphetamine. “Crystal meth cực kỳ nguy hiểm,” theo lời bác sĩ Klevens, loại chất đó gây nghiện rất mau, có khi “chơi” một hai lần là bị ghiền luôn, không bỏ được. Trước và sau 4 năm nghiện Methamphetamine. Meth là loại ma túy được ghi nhận là đứng hàng đầu trong danh sách nghiện ngập được chữa trị trong hệ thống y tế công, theo chương trình phòng chống rượu và chất gây nghiện của California, Hoa Kỳ. Trước và sau 2 năm nghiện Methamphetamine. Người nghiện là cư dân California chiếm tới 40% số trường hợp được chữa trị trên toàn quốc. Trước và sau 3 tháng nghiện Methamphetamine. Các cuộc nghiên cứu cho thấy sự thiệt hại về sức lao động mỗi năm là $7 tỷ Mỹ kim, nếu chỉ tính riêng tiểu bang California. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Nếu nhìn vào các bức hình kèm theo với bài này, chúng ta có thể nhận ra một thông điệp dứt khoát: “Meth” là sự khởi đầu của chấm dứt và mất hết. (VietMediaAgency.com) Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. ​ Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trước và sau khi nghiện Methamphetamine. Trung Đỗ (Việt Media Agency)

CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ BỆNH TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ BỆNH TÂM THẦN DO SỬ DỤNG MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp năm 1999 định nghĩa: "Ma túy là những chất tác động tâm thần mà người lạm dụng sẽ gây ra cho mình sự lệ thuộc". Tình trạng lệ thuộc ma túy đòi hỏi sử dụng ma túy đều đặn như một phương thức sống. Người lệ thuộc sẽ bị những biến đổi về khí sắccảm xúccũng như nhận thức do những tổn thương trong não. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn sau khi ngưng sử dụng.


Sự rối loạn trên bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau: bản thân, gia đình, xã hội, tâm lý. Sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma túy dẫn đến tình trạng nghiện là triệu chứng cuối cùng hoàn tất quá trình rối loạn trên. Do vậy việc điều trị phục hồi nghiện ma túy bao gồm rất nhiều lĩnh vực y tế, tâm lý, giáo dục, quản lý.


Người nghiện bị lệ thuộc tâm lý và lệ thuộc cơ thể đối với ma túy. Nếu thiếu sẽ thèm muốn, đòi hỏi phải tái sử dụng để cảm thấy thoải mái. Khi được cung cấp đủ ma túy người nghiện ở trạng thái ngất ngây hoặc kích thích mạnh mẽgiảm bớt đau đớn thân xác cũng như tinh thần, cảm giác khoẻ mạnh yêu đời. Bởi tính chất ép buộc sử dụng ma túy, cuộc sống người nghiện suốt đời loanh quanh trong việc sử dụng nó. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.


Một phương thức sống như vậy sẽ làm xáo trộn và đảo lộn nhiều giá trị cá nhân cũng như gia đìnhxã hội cùng những chức năng tâm sinh lý.


Càng sử dụng ma túy lâu bao nhiêu hoặc sử dụng sớm bao nhiêu thì hậu quả càng nhiều và nặng nề bấy nhiêu. Mặt khác, những tác động của ma túy trên bộ não có thể gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn làm cho người nghiện suy giảm khả năng xử lý thông tin, xử lý những kinh nghiệm cũng như khả năng hiểu biết của đối tượng trong việc hướng đến một cuộc sống lành mạnh.


Như vậy, việc lạm dụng và lệ thuộc ma túy là một hội chứng trong một bối cảnh đa phương diện. Xét về mặt hành vi, người nghiện đã phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu. Chính những hành vi ấy ngăn cản đối tượng hoà nhịp với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm, không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Người nghiện ma túy không còn đủ nhận thức để sống một cách trong sạch, cũng như kỹ năng làm việc để sống bình ổn trong một xã hội trật tự. Nói chung, về mặt tinh thầnsức khoẻ, nghề nghiệpgia đình, xã hội,… có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị phục hồi cho đối tượng trở thành khó khăn.


Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma túy vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.


Ngoài trạng thái lạm dụng và lệ thuộc, các hội chứng lâm sàng liên quan đến các chất ma túy có thể gây các phản ứng tâm lý và rối loạn tâm trí thực thể sau:


I. CÁC PHẢN ỨNG TÂM LÝ:

Các hậu quả tâm lý của các chất ma túy phụ thuộc vào nhiều yếu tố quyết định phức tạp trong đó có cả các nhân tố dược lý và tâm lý:


- Các nhân tố dược lý tùy thuộc chất ma túy, liều lượng với phương thức sử dụng, với độ dung nạp, với các tương tác.


- Mức độ tác hại gồm nhiều yếu tố như: phối hợp nhiều chất ma túy với nhau, ảnh hưởng tính chất sinh lý của từng cá nhân, tác động bởi bối cảnh xã hội, phương thức dùng ma túy, nhân cách của chủ thể và trạng thái lâm sàng, các mong ước và tác động của xã hội trong việc phòng chống ma túy thông qua nhiều phương cách khác nhau.


II. CÁC RỐI LOẠN TÂM TRÍ THỰC TỔN:

Trong DSM – III mục phân loại các rối loạn này gồm những hội chứng tâm trí thực tổn khác nhau gây ra do hậu quả trực tiếp của nhiều chất ma túy trên hệ thần kinh trung ương. Đây là trạng thái nhiễm độc, lẫn các phản ứng loạn tâm thần trực tiếp do dùng ma túy.


1. TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC:

Mô tả trạng thái này như một rối loạn tâm trí bị gây ra do mới sử dụng ma túy, thể hiện qua các hành vi như hung dữ, thay đổi phán đoán, biến loạn hoạt động xã hội, và bằng hội chứng đặc hiệu thông thường nhất là các rối loạn về tri giác, về chú ý và sự tỉnh thức, về tư duy nhận đoán và vận động.


2. LÚ LẪN TÂM TRÍ:

Hội chứng lú lẫn hay mê sảng của DSM – III thể hiện bằng các rối loạn chú ý và tư duy nặng hơn trong trạng thái nhiễm độc, biểu hiện bằng các rối loạn tỉnh thức, rối loạn tư duy, mất định hướng thời gian, không gian và các rối loạn tri giác. Các triệu chứng trên liên quan với dùng quá liều các chất ma túy.


3. CÁC PHẢN ỨNG LOẠN TÂM THẦN:

Các phản ứng này thể hiện tính hoang tưởng hay ảo giác trong trạng thái tỉnh thức bình thường. Thời gian các phản ứng này thường ngắn từ vài giờ đến vài ngày. Phản ứng loạn tâm thần có thể kịch phát do dùng các chất kích thích, các chất gây ảo giác  cần sa.


4. HỘI CHỨNG HỒI TƯỞNG (SYNDROME DE REVISISCENCE):

Trong DSM – III – R gọi là rối loạn tri giác sau ảo giácđặc trưng cho hội chứng này là khi không dùng ma túy thì cảm thấy một hay nhiều triệu chứng đã xảy ra trong trạng thái nhiễm độc trước đây (Flashback).


Các triệu chứng này xảy ra đột ngột và thường chỉ kéo dài vài giây hay vài phút. Chúng có thể tái diễn ít hay nhiều lần trong ngày. Các triệu chứng này luôn kèm theo một phản ứng lo hãi, và có thể xuất hiện sau một lần dùng ma túy nhưng hay xảy ra sau khi dùng ma túy nhiều lần. Các triệu chứng nhiễm độc tái cấp diễn này được quan sát chủ yếu với các chất gây ảo giác, hiếm hơn nhưng còn gặp với cần sa. Các triệu chứng thường gặp nhất là các rối loạn tri giác và nhiều về thị giác.


III. LOẠN TÂM THẦN:

Việc dùng các chất ma túy thường gây hậu quả là một rối loạn tâm thần. Các mối liên hệ giữa sử dụng ma túy và các rối loạn tâm thần khá phức tạp.


Rối loạn tâm thần góp phần dẫn đến sử dụng ma túy, đồng thời có thể do cả hai yếu tố trên tác động lên nhau.


Sự phân biệt này khó xác định, một khi cùng xảy ra song song, việc sử dụng các chất ma túy và các rối loạn tâm thần sẽ tác động lẫn nhau thể hiện qua các biểu hiện và sự phát triển của chúng.


Phân biệt các rối loạn tâm thần tiên phát và thứ phát có thể dẫn đến các hành vi nghiện ngập và có thể ảnh hưởng đến các quyết định điều trị.


IV. TRẠNG THÁI TRẦM NHƯỢC:

Trầm nhược do rối loạn tâm thần có sự kết hợp do sử dụng các chất ma túy đã được nghiên cứu nhiều nhất. Lạm dụng ma túy kết hợp với trầm nhược thường gặp trong các quần thể của khoa lâm sàng. Lạm dụng rượu và ma túy luôn luôn kết hợp với các trầm nhược nặng.


Trong nghiên cứu Ryan và ctv (1987) về 92 ca trầm nhược nặng18% đối tượng có sử dụng thêm các chất ma tuý “dịu”, 4% ít nhất đã dùng các chất ma tuý, việc dùng rượu quá mức kết hợp với việc sử dụng ma tuý gây các trạng thái trầm nhược loạn tâm và các rối loạn nhân cách.


Trầm nhược luôn kết hợp với lạm dụng ma tuý. Các trường hợp trầm nhược hình như luôn luôn dẫn đến nghiện ma túy. Trong nghiên cứu của Deykin và ctv (1987), lạm dụng ma túy và rượu hầu như bao giờ cũng theo sau trạng thái trầm nhược nặng. Trong nghiên cứu của De Milio (1989) các triệu chứng trầm nhược khởi đầu trước khi lạm dụng ma tuý trong khoảng nửa số trường hợp. Các điều tra dịch tễ học đã khẳng định tần suất các tiền sử trầm nhược của chứng nghiện ma túy: các nghiên cứu này đã nhận định các triệu chứng trầm nhược như một nhân tố nguy cơ ở giai đoạn mới dùng ma túy (Bukstein và ctv, 1989).


Trầm nhược và sử dụng ma túy ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Các triệu chứng trầm nhược có thể dẫn đến sử dụng ma tuý. Là tiên phát hoặc thứ phát, trạng thái trầm nhược có thể làm nặng thêm hay duy trì lạm dụng ma túy.


V. TỰ SÁT VÀ CÁC Ý ĐỊNH TỰ SÁT:

Lạm dụng ma tuý đựơc công nhận là nguy cơ hàng đầu của các hành vi tự sát của thanh thiếu niên. Trong số 1824 đối tượng được gởi tới chữa bệnh vì lạm dụng ma tuý, 40,7% có ý tưởng tự sát thường xuyên (Harrison và Hoffiman, 1987).


Sử dụng hay lạm dụng ma tuý hoặc rượu còn là một trong các yếu tố kết hợp chính của các ý định tự sát ở thanh thiếu niên theo các nghiên cứu của Christoffel và ctv (1990).


Đa số các công trình có sự lên quan giữa tự sát, trầm nhược và lạm dụng ma túy. Lạm dụng ma túy có thể làm trầm trọng thêm trầm nhược và làm cho dễ chuyển sang hành động tự sát do tác dụng dược lý làm giải ức chế tính xung động và hung tính.

Cuối cùng, việc dùng ma tuý, trầm nhược và tự sát có thể làm bộc lộ cùng một bệnh lý phát triển.


VI. CÁC RỐI LOẠN HÀNH VI:

Ma tuý và rối loạn hành vi thường kết hợp với nhau. Các rối loạn hành vi thường gặp trong lạm dụng ma túy ở thanh thiếu niên: Rechrich và Gold (1986) thấy trong 41 đối tượng có 95% rối loạn hành vi liên quan đến sử dụng ma tuý. De Milio (1989) thấy 42% có rối loạn hành vi trong 57 thanh thiếu niên nằm viện vì ma túy.


Myers và Kemph (1990) khảo sát trên 14 thanh thiếu niên đã giết người (12 con trai và 2 con gái) tuổi từ 10 đến 17 (tuổi trung bình 15,2). Ở thời điểm chúng có hành vi giết người: 86% đã mắc một rối loạn hành vi.


Các nghiên cứu khác cho thấy mối tương quan giữa hành vi phạm pháp và sử dụng ma túy: Hundleby và ctv (1982) ghi nhận trên 100 thanh thiếu niên nam và 130 thanh thiếu niên nữ dùng ma tuý có hoạt động tình dục nhiều hơn, nhận thức về xã hội và học tập lệch lạc.


Các liên quan giữa rối loạn hành vi và dùng ma tuý rất phức tạp. Các rối loạn hành vi và sử dụng ma túy tác động lẫn nhau. Các rối loạn hành vi thường dẫn đến dùng ma túy.


Trong các nghiên cứu theo chiều dọc hậu cứu về các trẻ em hiếu động, đã nhận thấy rằng khuynh hướng chống đối xã hội thường dẫn đến các rối loạn liên quan đến việc sử dụng các chất ma túy.


Dùng ma tuý có thể dẫn đến các rối loạn hành vi: tác động của chất ma túy giải ức chế và làm tăng hung tính tạo điều kiện cho việc chuyển thành hành vi chống đối xã hội. Do lệ thuộc ma túy đối tượng gây nên những hành vi phạm pháp để tìm cho được chất ma túy: ăn cắp, buôn bán ma túy và làm gái điếm thường kết hợp (Tarr và Macklin, 1987).


Phạm pháp và lạm dụng ma túy đều liên quan đến các điều kiện xã hội, gia đình không êm ấm và các rối loạn xúc cảm. Thanh thiếu niên phạm pháp, nhất là khi chúng bị trầm nhược khai là sử dụng ma tuý hay các hoạt động bất hợp pháp để làm nhẹ nổi buồn chán và ưu phiền của họ.


Trong nghiên cứu của Farrow French (1990), khảo sát trên 89 thanh thiếu niên phạm pháp khai có dùng ma túy trong đó 74% trường hợp là để làm giảm các cảm nghĩ buồn chán và ưu phiền, 39% để quên các vấn đề của họ, 42% để được yên tĩnh, 65% để được thích thú và 45% vì nhiều bạn của họ dùng ma túy.


VII. CÁC RỐI LOẠN TẬP TRUNG:

Các rối loạn tập trung mang tính hiếu động có tiền sử dùng ma tuý thường xảy ra ở tuổi thanh thiếu niên: De Milio (1989) thấy trong 14% các trường hợp này, có rối loạn tập trung và hiếu động. Rối loạn tập trung cũng có thể là di chứng của sử dụng ma túy.


Trong 114 thanh thiếu niên phạm pháp, Halikas và ctv (1990) nhận thấy lạm dụng ma túy có trên 67%, trong đó không rối loạn tập trung 19% trường hợp, các rối loạn hành vi đa hung bạo trong 61% trường hợp.


VIII. CÁC RỐI LOẠN NHÂN CÁCH:

Lạm dụng ma túy liên quan đến một số rối loạn nhân cách.

Các rối loạn nhân cách bệnh lý và nghiện ma túy liên hệ và tác động với nhau. Các rối loạn nhân cách dễ dẫn đến sử dụng ma túy:

  • Các rối loạn về cảm xúc của trạng thái ranh giới.

  • Các cảm nghĩ trống rỗng và buồn phiền.

  • Tính xung động.


Ngược lại, việc dùng ma túy làm nặng thêm các rối loạn về tâm lý, về quan hệ và sinh học biểu hiện rõ nét nhân cách bệnh lý.


IX. CÁC BIỂU HIỆN LO HÃI:

Một nghiên cứu dịch tễ học của NIMH trên thanh niên (Christie và ctv...1988) cho thấy người có tiền sử rối loạn lo hãi mà tuổi khổi phát trung bình là 15, dẫn đến các nguy cơ lạm dụng hay lệ thuộc ma túy tăng gấp đôi với thanh niên không có tiền sử rối loạn lo hãi.


Trong nghiên cứu của Johnston và O'Malley, 41% học sinh trung học đã giải thích dùng ma túy do nhu cầu giảm căng thẳng


X. CÁC RỐI LOẠN ĂN UỐNG:

Lạm dụng ma túy và rượu còn gặp ở người háu ăn, người chán ăn và còn ở một mức độ thấp hơn trên những người chán ăn hạn chế (Garner và ctv,...1985). Kille và ctv.(1987) so sánh 57 thanh thiếu niên háu ăn, 59 thanh thiếu niên ăn kiêng dùng các biện pháp nôn, nhuận trường hay lợi tiểu đễ kiểm tra trọng lượng của họ và 444 thanh thiếu niên không có rối loạn hành vi ăn uống: Kết quả cho đối với 3 nhóm người: nhóm 1: háu ăn, nhóm 2: chán ăn, nhóm 3: ăn hạn chế say rượu ít nhất 1 lần mỗi tháng tỷ lệ lần lượt là 25, 21 và 17%, say rượu nhiều lần mỗi tháng là 10, 23 và 7% trường hợp, sử dụng mà ăn ít nhất mỗi tháng là 16, 9 và 10% trường hợp và ít nhất 1 lần mỗi tuần là 14, 12 và 6% trường hợp.


Dùng ma túy và các trạng thái say có tần suất vẫn cao hơn tần suất của nhóm chứng không trầm nhược có các rối loạn hành vi ăn uống.


XI. CÁC RỐI LOẠN NHÂN CÁCH:

Lạm dụng ma túy liên quan đến một số rối loạn nhân cách (Crumley, 1990). Trong số 57 thanh thiếu niên nghiện ma túy do De Milio khảo sát (1989), 16% cho thấy những nét rõ rệt về rối loạn nhân cách một cách rõ rệt, nhân cách phân liệt 2 ca, nhân cách ái kỷ 2 ca, nhân cách kiểu phân liệt 1 ca.


Các rối loạn nhân cách bệnh lý và nghiện ma túy liên hệ và tác động với nhau. Các rối loạn nhân cách dễ dẫn đến sử dụng ma túy:

  • Các rối loạn về cảm xúc của trạng thái ranh giới

  • Các cảm nghĩ trống rỗng và buồn phiền

  • Tính xung động

​Ngược lại, việc dùng ma túy là nặng thêm các rối loạn về tâm lý, về quan hệ và sinh học biểu hiện rõ nét nhân cách bệnh lý.


XII. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:

Các chất gây ảo giác, amphetamin, cocain, cần sa, phesncyclidin có thể gây các triệu chứng loạn tâm thần. Loạn tâm thần do amphetamin có thể gây các triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt ở thanh thiếu niên (Angrist, 1983).


Ngược lại bệnh tâm thần phân liệt của thanh thiếu niên có thể bộc lộ và nặng lên do ma túy. Một số ma túy được xem như có thể gây ra không nững các bệnh tâm thần phản ứng ngắnhay các rối loạn dạng phân liệt mà cả bệnh tâm thần phân liệt thực sự: dùng lâu dài các chất amphetamin có thể gây ra một số bệnh tâm thần phân liệt (Me - Lellam và ctv.1979), LSD xuất hiện đúng hơn như một nhân tố thúc đẩy (Vardy và Kay, 1983)


XIII. TỶ LỆ CHẾT:

Việc sử dụng có thể gây chết người, các biến chứng cơ thể và một ảnh hưởng tiêu cực trên đời sống tâm lý và quan hệ cũng như trên sự thích ứng xã hội.


Trong khi tỷ lệ chết của các nước công nghiệp hoá giảm, thì tỷ lệ chết lại tăng ở thanh thiếu niên và thanh niên: các tai nạn giao thông, các tai nạn khác, tự sát và giết người do ma túy là nguyên nhân gây tỷ lệ chết cao. Các tai nạn giao thông chiếm 70% nguyên nhân chết của những người 16 – 19 tuổi trong Cộng Đồng Châu Au: Rượu và các chất ma túy là những nguyên nhân chủ yếu.


Trong một nghiên cứu nam giới từ 15 -34 tuổi, chết do tai nạn giao thôngrượu được phát hiện trong 75% trường hợp, cần sa 37% và cocain 11%; trong đó kết hợp rượu và cần sa 85% trường hợp (Williams, 1985). Tác hại của ma túy ngoài các tai nạn và tự sát, nguy cơ lây nhiễm HIV/ AIDS qua tiêm chích tĩnh mạch các chất ma túy và quan hệ tình dục bừa bãi cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm.


XIV.TÁC HẠI CỦA CÁC LOẠI MA TÚY:

Xin xem mục MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN trên trang Web này của Trung tâm.


KẾT LUẬN:

Sử dụng các chất ma túy dẫn đến nhiều nguy cơ: tăng liều lượng và chuyển sang các chất ma túy mạnh hơnrối loạn phát triển, thất bại trong hoà nhập xã hội, các tổn thương thể chất, tinh thần và dẫn đến cái chết. Nếu đối tượng bị gạt ra bên lề xã hội do sử dụng ma túy thì nguy cơ tổn thương về thể chất dẫn đến cái chết có thể xảy ra sớm, do bệnh tật và thiếu sự chăm sóc.


BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI ĐIỀU TRỊ TRÊN ĐỐI TƯỢNG NGHIỆN MA TÚY:

1.Tổn thương hệ thống não bộ  và các vấn đề tâm thần của người nghiện ma túy.


2.Chấn thương tâm lý: đây không phải là một hành động nhất thời mà là một quá trình diễn biến đầy mâu thuẫn và phức tạp của nội tâm cũng như bối cảnh đa phương diện của người nghiện ma túy đối với bản thângia đình và xã hội.


3. Điều chỉnh, phục hồi những rối loạn và xuống cấp nhận thức – hành vi – nhân cách.Hình thành thói quen tốt, điều chỉnh lỗi sống buông thả, vô kỷ luật, thiếu trách nhiệm của người nghiện ma túy.


4.Trừ một số ít trường hợp nhẹ  người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện. Do ký ức hồi tưởng – phản xạ có điều kiện như: gặp lại bạn cũ, qua quán cà phê cũnghe nhạc cũthấy ma túy, rơi vào tâm trạng cũ(những yếu tố có liên quan đến việc sử dụng ma túy của họ trước đây) khiến người cai nghiện nghĩ ngay đến những cảm giác vô cùng khoái lạc, ngất ngây khi sử dụng ma túy. Do đó, họ sẽ rất khó kiềm chế dẫn đến việc tái sử dụng ma túy nếu không được trang bị một bản lãnh, kỹ năng sống vững chắc.


Tổn thương não bộ, chấn thương tâm lý, rối loạn, xuống cấp nhận thức hành vi nhân cách, hội chứng hồi tưởng, phản xạ có điều kiện rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy.

Vì những lý do trên, vai trò điều trị tổng hợp trong công tác cai nghiện cho người nghiện là vô cùng cần thiết, đòi hỏi những cán bộ điều trị phải có trình độ về lãnh vực của mình phụ trách và người cai nghiện ma túy phải được trang bị bản lãnh, kỹ năng sống đầy đủ.


Tóm lại, việc cai nghiện ma túy không thể thiếu được bất kỳ một trong các yếu tố nào sau đây:

  • Vai trò Y tế
  • Vai trò Tư vấn - Tâm lý trị liệu
  • Vai trò Giáo dục – Quản lý học viên
  • Và vai trò cuối cùng là quyết tâm cai nghiện cao của người cai nghiện, sự giúp đỡ, giáo dục chuẩn mực và trách nhiệm của gia đình và xã hội.

HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG NÃO BỘ NGHIÊM TRỌNG TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:  


NÃO BỆNH NHÂN NGHIỆN HÀNG ĐÁ (METHAMPHETAMINE)

TÁC ĐỘNG DÀI HẠN CỦA MA TÚY KÍCH THÍCH

NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH NÃO MÃN TÍNH – KHÓ CHỮA

Não bộ thể hiện những tổn thương một cách rõ ràng sau khi sử dụng ma túy và những tổn thương này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.



CẮT CƠN GIẢI ĐỘC KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY

Đó chỉ đơn giản là việc làm đầu tiên, quan trọng ĐỂ KHỞI ĐẦU CHO MỘT QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN LÂU DÀI, LIÊN TỤC.

ĐIỀU TRỊ SẼ CHO KẾT QUẢ TỐT

Nhưng với điều kiện:

*Đúng thuốc

*Đúng người bệnh

*Đúng thời gian

*Đúng phương pháp

Để CAI NGHIỆN MA TÚY THÀNH CÔNG, vấn đề GIÁO DỤC, ĐIỀU TRỊ nhằm ĐIỀU CHỈNH – PHỤC HỒI NHẬN THỨC, HÀNH VI, NHÂN CÁCH – GIẢI QUYẾT CÁC CHẤN THƯƠNG TÂM LÝ – MÂU THUẪN NỘI TÂM của đối tượng là QUAN TRỌNG NHẤT – UỐNG THUỐC LÀ BIỆN PHÁP HỔ TRỢ.
KHÔNG MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN ĐƠN THUẦN NÀO (uống thuốc – châm cứu – bấm huyệt – phẫu thuật thùy trán,…) CÓ THỂ CHỮA ĐƯỢC BỆNH NGHIỆN MA TÚY mà phải ĐIỀU TRỊ TOÀN DIỆN thông qua Sinh hoạt trị liệu – Hoạt động trị liệu – Lao động trị liệu – Tư vấn – Tâm lý trị liệu – Giáo dục trị liệu,…sinh hoạt cá nhân – nhóm – gia đình,… kết hợp với hóa dược.

Một TRUNG TÂM CAI NGHIỆN TỐT phải đạt được các tiêu chuẩn sau:

PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ: Khoa học – Tổng hợp – Toàn diện.

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC phải có tâm huyết, có trình độ - được đào tạo bài bản, hiểu biết sâu sắc về cai nghiện – phục hồi.

CƠ SỞ VẬT CHẤT ĐẦY ĐỦ để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của đối tượng.

CÔNG TÁC QUẢN LÝ phải chặt chẽ - kịp thời – năng động – tác nghiệp trên một thể thống nhất.

ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TRÊN Y VĂN THẾ GIỚI ĐÃ CHỈ RÕ:
1. Không có mô hình cai nghiện chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện mà chỉ có những nguyên tắc căn bản về điều trị - giáo dục – quản l‎ý đối với người nghiện. Mô hình điều trị tốt cho người này, chưa hẳn đã phù hợp với người khác, mà thậm chí kết quả còn ngược lại.


2. Trừ một số ít trường hợp nghiện nhẹđiều trị nghiện ma túy phải sử dụng một biện pháp tổng hợp, linh hoạt và kịp thờinhằm mục đích gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách - giải tỏa các chấn thương tâm l‎ý và để người cai nghiện không còn thèm nhớ ma túy phải sử dụng các liệu pháp sau:

  • - Tư vấn – Liệu pháp tâm l‎ý – Liệu pháp giáo dục – Liệu pháp xã hội - Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu – Hoạt động trị liệu – Sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình,…

  • - Đối với nhóm người nghiện Á phiện - Morphine -Héroine (OMH) cần phải uống thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ ma túy. Tuy nhiên, nếu chỉ uống thuốc Naltexone đơn thuần mà không sử dụng các liệu pháp trênngười cai nghiện sẽ không được phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách – giải quyết các chấn thương tâm l‎ý nên dễ bỏ chương trình điều trị và dễ tái sử dụng ma túyKết quả điều trị do đó sẽ rất hạn chế.

  • - Không có một liệu pháp đơn thuần nào (uống thuốc, châm cứu, bấm huyệt, phẫu thuật thùy não,…) có thể chữa được bệnh nghiện ma túy.


3. Chương trình điều trị phải được chuyển đổi kịp thời theo những rối loạn tâm sinh l‎ý của người nghiện ma túy mà chuyên môn ngành nào, ngành ấy giải quyết– nhưng phải phối hợp ở một thể thống nhất khi đánh giá và lập kế hoạch điều trị cho đối tượng, nhằm kết hợp lĩnh vực mình với lĩnh vực chuyên môn của người khác.


4. Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản l‎ý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.

MA TÚY – HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

MA TÚY -
HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI

 

TRẦN VIỆT TRUNG
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp
cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS


Ma túy đang hàng ngày hủy hoại biết bao tâm hồn, giết chết nhiều nhân mạng và hơn thế nữa, phá vỡ cuộc sống bình yên của hàng vạn gia đình và đe dọa an ninh trật tự xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng minh ma quỷ của ma túy là bệnh tật và HIV/AIDS. Ngày 26/6 hàng năm là ngày Liên Hợp Quốc lấy làm ngày Quốc tế phòng, chống ma túy và đối với nước ta là ngày Toàn dân phòng, chống ma túy. Nhân ngày 26/6/2013, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Việt Trung-nguyên Phó cục trưởng Cục Phòng, chống Tệ nạn xã hội, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS thuộc Hội Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam.


Đứng  trước  hiểm họa to lớn mang tính toàn cầu của tệ nạn ma túy đối với từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung, cách đây trên 26 năm, bắt đầu từ năm 1987, Liên Hợp Quốc đã ra Nghị quyết lấy ngày 26 tháng 6 làm ngày Quốc tế phòng chống ma túy và từ đó, nhân ngày này hàng năm, Liên Hợp Quốc đưa ra các thông điệp với các chủ đề khác nhau, mang ý nghĩa như một lời kêu gọi các quốc gia trên thế giới cần tập trung các hoạt động phòng chống, kiểm soát ma túy theo định hướng về một vấn đề bức xúc, cấp thiết trong từng thời kỳ.


Hưởng ứng ngày Quốc tế phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc, từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã quyết định lấy ngày 26/6 hàng năm là ngày “Toàn dân phòng chống ma túy”. Như vậy, song song với việc hưởng ứng thông điệp và chủ đề phòng chống, kiểm soát ma túy của Liên Hợp Quốc, hàng năm Chính phủ phát động những tháng cao điểm phòng chống ma túy với nhiều hoạt động trên các lĩnh vực công tác phòng chống, kiểm soát ma túy, trong đó có chỉ đạo trọng tâm theo từng chủ đề của Liên Hợp Quốc đưa ra hàng năm.


Gần đây, việc xuất hiện các chất mới có tác dụng tâm thần (tên tiếng Anh viết tắt là NPS), có đặc tính dược lý và tác dụng tương tự như các loại chất đã được biết đến trước đó nhưng nằm ngoài danh mục các chất bị kiểm soát theo Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc và được mua bán một cách hợp pháp tại nhiều quốc gia đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng. Do đó, năm nay Liên Hợp Quốc đưa ra Thông điệp nhân ngày 26/6 kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy xây dựng một cuộc sống lành mạnh, đề cao việc rèn luyện sức khỏe để tránh xa ma túy: “Hãy bằng sức khỏe của bạn “thăng hoa” trong cuộc sống, không cần ma túy” (Tên gốc tiếng Anh: “Make health your “new high” in life, not drugs”).



 1. SỰ TRỞ LẠI CỦA MỘT LOẠI TỆ NẠN:

Cho tới nay, không ai khẳng định được cây thuốc phiện (còn gọi là cây Anh túc) được đưa vào trồng ở Việt Nam bằng cách nào và từ bao giờ. Tuy nhiên, ta thấy trong các văn bản của Nhà Nguyễn để lại về các điều Luật và Hình phạt thì đã có nhiều nội dung liên quan tới những hành vi buôn bán và sử dụng thuốc phiện. Phải chăng vào cuối thế kỷ XIX, tương tự nhà Thanh bên Trung Quốc khi chịu khuất phục Đế quốc Anh sau hai cuộc Chiến tranh nha phiến Lần thứ nhất (năm 1840) và Lần thứ hai (năm 1855) đã phải để cho thuốc phiện tràn lan ở Trung Quốc thì ở Việt Nam, Triều đình nhà Nguyễn phải cay đắng chấp nhận dã tâm của thực dân Pháp cho trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta sau khi Bắc Kỳ trở thành thuộc địa của chúng. Với việc cho trồng, sử dụng tự do thuốc phiện ở nước ta, thực dân Pháp nhằm 2 mục đích: phục vụ bọn quan lại thực dân phong kiến cùng đội quân viễn chinh của chúng và đầu độc dân ta bằng ma túy cả về sức khỏe và tinh thần. Chúng định dùng ma túy làm tê liệt lòng yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng đã lầm, thời Pháp thuộc, người dùng thuốc phiện chỉ tập trung ở một vài thành phố lớn, trong hàng ngũ quan lại hoặc công chức, trí thức làm việc cho Pháp. Còn với đại đa số nhân dân ta, đó là trò chơi hoàn toàn xa lạ.


Sau Cách mạng tháng 8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cấm trồng , buôn bán và sử dụng ma túy ngoài mục đích y tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc xóa bỏ tệ nạn ma túy là một trong những nhiệm vụ cấp bách trước tiên của Nhà nước Việt Nam non trẻ. Người đã ra Lời kêu gọi: “Tôi đề nghị đồng bào tuyệt đối cấm hút thuốc phiện”. Sau Hiệp định hòa bình Giơ-ne-vơ (7/1954) miền Bắc bước vào con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, tiếp tục chủ trương kiên quyết xóa bỏ tệ nghiện ma túy ở nước ta. Cho tới đầu thập kỷ 80 (giai đoạn 1984-1985), tệ trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta đã giải quyết được cơ bản và có thể nói hầu như đã bị xóa bỏ. Chỉ còn rải rác một số tỉnh miền núi cao phía Bắc trồng với sản lượng không đáng kể và chủ yếu là người già dân tộc thiểu số hút theo thói quen lâu đời khó bỏ. Ở miền Nam, dưới chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, tệ nạn ma túy bùng phát với phạm vi, quy mô lớn để phục vụ cho mưu đồ làm giàu cá nhân của những tướng lĩnh ngụy quân, chóp bu ngụy quyền Sài Gòn. Họ chuyển ma túy bằng tàu xe, quân đội, thậm chí lợi dụng chuyên cơ buôn bán ma túy từ Tam giác Vàng về Việt Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, chế độ cũ đã để lại hơn 170.000 người nghiện hút, chích ma túy (xì ke) cùng với những vấn đề phức tạp nhiều mặt về kinh tế-xã hội đất nước. Một lần nữa, chúng ta lại bắt tay vào giải quyết những hậu quả của chiến tranh, trong đó có một công việc nặng nề là chữa trị, giáo dục và cai nghiện cho những người nghiện ma túy ở phía Nam. Với sự nỗ lực của toàn dân, toàn xã hội, chúng ta đã cải tạo, hoàn lương hơn 100.000 người nghiện, đưa họ trở lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc như các công dân khác trong xã hội. Kết quả, đầu những năm 80, theo số liệu của các cơ quan chức năng, cả nước chỉ còn khoảng 30.000 - 40.000 người nghiện ma túy.


Vào cuối những năm 80, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tệ nạn xã hội nói chung, tệ nghiện ma túy nói riêng lại hồi sinh, nảy nở và phát triển mau chóng. Sự mở cửa và những mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực tới một số lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nạn tái trồng cây thuốc phiện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc kéo theo tệ nghiện ma túy đã phục hồi và lây lan nhanh chóng nhiều nơi và trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt trong lứa tuổi thanh thiếu niên.



2. SỰ GIA TĂNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY.

Trong thời kỳ những năm 2000 - 2008, sự gia tăng nhanh chóng số lượng người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh một số người nghiện mới gia tăng, phần lớn là số người nghiện cũ nay mới được phát hiện hoặc tự khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện. Số liệu gia tăng người nghiện của thành phố Hồ Chí Minh là một biểu hiện rõ nét: vào cuối năm 2000 có 15.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2008 đã có hơn 32.000 người nghiện được cai tập trung tại 17 cơ sở cai nghiện của thành phố. Tại tỉnh Sơn La, một địa phương nghèo của miền núi phía Bắc, năm 2000 mới có khoảng 4.000 người nghiện có hồ sơ quản lý thì tới năm 2008 đã phát hiện trên 16.000 người nghiện và nếu kể cả số nghi nghiện thì con số trên lên tới 23.000 người! Tình hình ở nhiều địa phương khác cũng tương tự như vậy. Những năm gần đây, mặc dù chúng ta đạt được nhiều thành tích, kết quả đáng mừng trong các hoạt động ngăn chặn và triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển và ổ nhóm tổ chức sử dụng ma túy, trong công tác cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai nghiện nhưng tình hình tệ nạn ma túy vẫn diễn biến phức tạp, số người nghiện giảm không đáng kể, thậm chí có nhiều địa bàn, nhiều địa phương số người nghiện còn gia tăng nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2012, số người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước là 171.000 người, giảm so với năm 2007 (178.000 người) nhưng lại tăng so với năm 2010 (132.000 người).


Thời gian qua, mặc dù các đường dây, ổ nhóm buôn bán, vận chuyển ma túy lớn ở trong nước và cả xuyên quốc gia bị truy quét, triệt phá mạnh nhưng bằng nhiều con đường, ma tuý vẫn thẩm lậu khá nhiều vào nước ta và hệ thống, mạng lưới bán lẻ ly ti ở khắp nơi vẫn chưa bị xóa bỏ cơ bản, vẫn là nguồn cung cấp ma túy dồi dào cho dân nghiện. Điều nguy hiểm hơn là sự xuất hiện ngày càng nhiều ở một số địa phương, đặc biệt ở các thành phố lớn, các loại ma túy tổng hợp dạng kích thích (ATS, Estasy)… với mức độ độc hại rất cao, lại dễ vận chuyển, dễ bán lẻ trao tay, sử dụng bằng đường uống như các loại tân dược thông thường hoặc các dụng cụ hút hít đơn giản đang là nguy cơ làm gia tăng nhanh chóng số người nghiện ở nước ta, đặc biệt trong lứa tuổi trẻ. Gần đây, giới ăn chơi nhiều tiền trong thanh niên đang sử dụng loại ma túy mới được gọi là hàng “đá” (một dạng của Methammetamine) với cách hút, hít bằng các dụng cụ dễ tự chế. Đây là loại ma tuý hết sức nguy hiểm tới thần kinh và sức khỏe con người. Ma túy là kẻ đồng hành với tội phạm, bệnh tật và đại dịch HIV/AIDS. Khoảng trên 60% trong số trên 272.000 người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện cho tới nay còn sống bị lây truyền do qua con đường tiêm chích ma túy.


3. MỘT CUỘC CHIẾN GAY GO VÀ PHỨC TẠP:

Trước sự lây lan, phát triển nhanh chóng tệ nạn ma túy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối và chính sách kịp thời, kiên quyết về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Nghị quyết 06/CP ngày 29/1/1993 được mở đầu như hiệu lệnh cho một cuộc chiến mới với ma túy được chính thức phát động. Đồng thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng ban hành nhiều Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn sự lây lan, phát triển của tệ nạn ma túy, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Những nội dung công tác và cũng là nhiệm vụ chủ yếu được đặt ra là: Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân về tác hại, hiểm họa cả trước mắt và lâu dài của tệ nạn ma túy, về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và công tác phòng, chống tệ nạn ma túy để mọi người dân hiểu, đồng tình ủng hộ và tham gia cuộc đấu tranh chung; vận động, thuyết phục đồng bào miền núi không trồng cây thuốc phiện và chuyển sang trồng loại cây khác; tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề và tìm kiếm việc làm cho người nghiện ma túy; phát hiện và trừng trị nghiêm bọn tội phạm. Song song với sự ra đời các văn bản pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy từ cơ quan chỉ đạo, tham mưu giúp việc cho tới các cơ quan chuyên trách của các ngành chức năng được hình thành, củng cố. Công tác phòng, chống ma túy do Chính phủ phát động đã được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các Bộ, Ngành, Đoàn thể Trung ương, các địa phương và cơ sở cũng như của toàn dân và toàn xã hội.


​Tuy nhiên, ma túy tựa con quái vật khổng lồ chặt đứt vòi này, lại mọc vòi khác. Cũng như tệ nạn mại dâm, tệ buôn ma túy đem lại những món lợi lớn cho những kẻ ham tiền liều mạng. Với lãi suất thông thường từ 5-7 lần cho tới hàng chục lần nếu bán tận tay người nghiện (thậm chí nếu trung chuyển được sang một số quốc gia khác có thể lên tới hàng trăm lần) thì bọn tội phạm không trừ một thủ đoạn nào, một mưu mô, phương kế hiểm độc nào để thực hiện những hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật. Đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy ngày càng trở nên có quy mô, tổ chức lớn, phức tạp, từ những đường dây xuyên quốc gia, liên tỉnh cho tới mạng lưới bán lẻ với hàng vạn chiếc vòi nhỏ vươn tới từng ngõ hẻm, trường học, vườn hoa, nơi sinh hoạt công cộng… tại các đô thị, thành phố lớn đến tận những làng quê heo hút, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh với tệ nạn ma túy trên các lĩnh vực giảm cung giảm cầu đòi hỏi lòng quyết tâm, sự dũng cảm, tính kiên trì và linh hoạt của những người làm công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, trước hết là những người hàng ngày đối mặt trực tiếp với tệ nạn này. Cuộc chiến với ma túy vẫn đang là một mặt trận nóng bỏng, đầy hiểm nguy và đổ máu, hy sinh.


4. MỐI QUAN HỆ CUNG CẦU:

Trong cuộc đấu tranh này, cung và cầu về ma túy có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Nguồn cung bị chặt mạnh sẽ làm có tác động làm giảm cầu và ngược lại, giảm mạnh cầu có hiệu quả góp phần hạn chế cung. Một số địa phương tuy nghèo nhưng vì là vùng giáp biên hoặc nằm trên trục đường buôn bán, vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam nên có số người nghiện khá cao như Điện Biên, Sơn La, Lao Cai, Nghệ An…Mặt khác tại những thành phố lớn hoặc nơi tập trung dân cư, khu công nghiệp, du lịch v.v do các tệ nạn xã hội lây lan, phát triển mạnh đã kéo theo tệ buôn bán, tổ chức sử dụng ma túy trên nhiều địa bàn, trong nhiều lứa tuổi, dẫn tới gia tăng tệ nghiện hút, chích ma túy, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Không ít gia đình vừa có người nghiện ma túy vừa có người tham gia các tội phạm về buôn bán hoặc tổ chức sử dụng ma túy. Thực tế trên đòi hỏi trong cuộc đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn ma túy, không thể thiên về mặt nào và cũng không thể chỉ một Bộ, ngành nào đảm nhiệm, mà phải là sự đồng tâm, hiệp lực của toàn dân, toàn xã hội trong cuộc đấu tranh đầy gian khó, phức tạp này. Nếu không, mọi sự nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ chỉ là uổng công, vô nghĩa./.

PHIM TÀI LIỆU: TÁC HẠI CỦA MA TÚY

PHIM TÀI LIỆU: TÁC HẠI CỦA MA TÚY

  1. VTV9: Xem người nghiện ma túy là bệnh nhân
  2. VTV1: Chiến dịch chống ma túy gây tranh cãi ở Philippines
  3. VTC14: Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường
  4. VTC14: Chơi ma túy đá, tàn phá cuộc đời
  5. VTV1: Ma túy đá tác hại khôn lường
  6. VTV24: Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá
  7. NLĐ: Phóng sự: Ma túy đá biến con người thành ác quỷ
  8. VTV1: 90% Người nghiện ma túy tái nghiện
  9. VTV1: Bắt vụ vận chuyển ma túy số lượng lớn
  10. VTV1: Lạng Sơn bắt đối tượng vận chuyển 12kg ma túy đá
  11. VTV1: Gia tăng người trẻ nghiện ma túy
  12. Thanh Niên: Việt Nam bắt hơn 8 tấn ma túy chỉ trong năm 2019
  13. VGP: Cuộc chiến chống ma túy: thấy gì từ các vụ án khủng
  14. VTV1: Cai nghiện ma túy tổng hợp bằng biện pháp tâm lý: còn nhiều khó khăn, bất cập
  15. VTC14: Khi người nghiện kể chuyện cai nghiện
  16. VTC9: Methadone: Vị cứu tinh của người nghiện ma túy
  17. VTV9: Từ ngáo đá đến tâm thần - con đường cực ngắn
  18. VTC14: Ma túy tổng hợp được kinh doanh theo hình thức mới
  19. VTC1: ‘Cỏ Mỹ’- Chất cấm hành hạ giới trẻ Việt Nam
  20. VTC1: Mua ma túy tem giấy dễ như mua kẹo?
  21. THTPCT: Dùng cỏ Mỹ, bóng cười, 3 thanh niên lên cơn co giật
  22. VTV1: Cỏ Mỹ gây ảo giác mạnh, loạn thần
  23. ANTV: Thâm nhập chợ "cỏ Mỹ" công khai giữa Hà Nội
  24. VTC14: “Ngáo” cỏ Mỹ, thiếu niên cắn lìa tai bạn rồi nuốt vào bụng
  25. VTV24: Tác hại kinh hoàng khi sử dụng cỏ mỹ
  26. KTV: Sử dụng ma túy đá - Nghiện hay không nghiện?
  27. THTPCT: Ma tuý đá đang tấn công giới trẻ
  28. THĐT: Gần 1 năm để triệt phá xưởng sản xuất ma túy đá lớn nhất nước
  29. THĐT: Người nghiện ma túy đá tại TP. HCM ngày càng trẻ hóa
  30. VTC9: Tâm sự của bạn trẻ từng sa ngã vì ma túy
  31. VTV: Nghiện ma túy rất khó cai
  32. VTV24: Trầm cảm sau khi chơi ma túy đá
  33. VTC14: Ngộ độc vì “thử” ma túy thế hệ mới
  34. VTC14: Vì sao tôi dùng ma túy khi lái xe đường dài?
  35. VTV1: Hậu qua kinh hoàng từ "loạn thần" do ma túy đá
  36. VTV1: Những suy nghĩ sai lầm về ma túy đá
  37. VTV9: Dấu hiệu ban đầu nhận biết người sử dụng ma túy đá
  38. Báo NA: Triệt phá đường dây ma túy xuyên quốc gia, thu giữ 700kg ma túy đá
  39. Tuổi Trẻ: Buôn 8 bánh heroin và 4kg ma túy đá, lĩnh án tử hình
  40. VTV1: Ma túy "biến hình" thành hàng chục loại khác nhau
  41. ANTV: Nghe dân chơi trải lòng về ma dược “cỏ” Mỹ
  42. VTC14: Bóng cười, bùa lưỡi: Sành điệu hay chết người?
  43. ANTV: “Cỏ Mỹ” tàn phá, giới trẻ Việt “mê man, què quặt”
  44. ANTV: Đột nhập ‘ổ’ buôn cỏ Mỹ số lượng lớn, phát hiện ‘sốc’
  45. VTC9: Cảnh báo tình trạng buôn bán cỏ Mỹ tràn lan ở TPHCM
  46. Tuổi Trẻ: Ma túy “cỏ Mỹ” đang tàn phá ngư dân trẻ
  47. VTC1: Cỏ Mỹ: Cơn sóng ngầm khủng khiếp
  48. VietLive: 3 thanh niên chơi cỏ mỹ tobaco và cái kết khiến nhiều bậc phụ huynh giật mình
  49. VTC14: Vì sao ma túy gây ảo giác “lên ngôi?
  50. ANTV: Lời chứng người vợ có chồng nghiện ma túy
  51. VTC1: Anh Lê Trung Tuấn "trải lòng" với nỗi niềm về những năm tháng chiến đấu chống ma túy
  52. ANTV: Phút trải lòng của nữ sinh mất gia đình vì... ma túy
  53. ANTV: Cô Gái Nghiện : Cảm Thấy Bình Yên Hơn Khi Ở Trong Tù
  54. ANTV: Bí mật kho ma túy khủng của cặp vợ chồng “tài sắc”
  55. ANTV: Truy bắt nhóm "bố già" cộm cán buôn ma túy vùng "tam giác vàng"
  56. ANTV: Báo động "cỏ Mỹ" tàn phá học sinh nông thôn
  57. VTV1: Mục kích tụ điểm chuyên bán cỏ Mỹ tại TP.HCM
  58. ANTV: Lo ngại tình trạng thanh, thiếu niên dùng cỏ Mỹ
  59. VTC1: Ma túy đá: "Cơn phê" chết người
  60. VTC14: Thản nhiên tiêm chích giữa khu dân cư
  61. VTV24: Triệt phá đường dây ma túy buôn 300 kg ma túy đá xuyên quốc gia
  62. ANTD - Ma túy - Hiểm họa từ thế giới ảo

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY


Nghiện nói chung và nghiện ma túy nói riêng (hợp pháp và bất hợp pháp) do nhiều nguyên nhân phức tạp kết hợp chặt chẽ với nhau gây ra làm cho công tác điều trị và dự phòng gặp nhiều khó khăn và trở ngại.


A. NGUYÊN NHÂN NGHIỆN MA TÚY:

Hiện nay có 3 nguyên nhân chủ yếu thường được nhắc đến:

  • - Có tác nhân gây nghiện

  • - Có đối tượng có khuynh hướng lạm dụng các chất gây nghiện

  • - Có môi trường "gia đình và xã hội thuận lợi".

Ba nguyên nhân này kết hợp chặt chẽ với nhau theo mô hình sau


I. CHẤT GÂY NGHIỆN:

Ngoài những tác nhân gây nghiện đã mặc nhiên tồn tại, trên thế giới ngày càng ra đời nhiều loại chất gây nghiện mới làm cho công tác phòng chống lạm dụng chất gây nghiện đã khó nay càng khó hơn. Công tác triệt phá việc sản xuất, tàng trữ và buôn bán chất gây nghiện cũng diễn biến hết sức phức tạp. Theo báo cáo của cơ quan cảnh sát phòng chống chất gây nghiện, chúng ta mới khám phá thu giữ được khoảng 5%-10% lượng chất gây nghiện hợp pháp tiêu thụ trên thị trường.


Điều này có nhiều lý do:

  • - Do lợi nhuận quá cao của mặt hàng này nên không ít kẻ vẫn liều lĩnh buôn bán, sản xuất, tàng trữ. Thậm chí chúng lôi kéo gia đình, dòng họ, lợi dụng cả người già và trẻ em vào đường buôn bán chất gây nghiện này. Chúng không từ bất cứ thủ đoạn nào, từ mua chuộc các cơ quan chức năng tới việc chống trả quyết liệt khi bị phát hiện. Mặc dù hình phạt dành cho loại tội phạm này rất nghiêm khắc (tử hình) nhưng cũng không ngăn cản được lòng tham của chúng.


  • - Do đặc điểm địa lý của nước ta thuận lợi cho việc buôn lậu các chất gây nghiện: đó là nước ta nằm cạnh vùng tam giác vàng (Thái Lan, Lào, Miến Điện), một trong những trung tâm sản xuất chất gây nghiện lớn trên thế giới. Chúng ta có đường biên giới rất dài và nhiều cửa khẩu trên bộ, trên biển và hàng không với nhiều nước trên khu vực và thế giới, trong khi lực lượng phòng chống chất gây nghiện còn mỏng, trang thiết bị hiện đại còn thiếu, nên chất gây nghiện dễ dàng thẩm lậu vào nước ta.


  • - Do giao lưu quốc tế mở rộng, du lịch phát triển, mạng lưới thương mại rông khắp, hàng hóa xuất nhập khẩu, trung chuyển ngày càng gia tăng, đòi hỏi thời gian thông quan nhanh làm cho việc kiểm soát chất gây nghiện gặp nhiều khó khăn, nhất là khi chúng ta còn thiếu thông tin chính xác, kịp thời về loại hình tội phạm này.


  • - Việc toàn cầu hóa là một thuận lợi nhưng cũng là một thách thức to lớn trong công cuộc phòng chống chất gây nghiện. Nhiều loại chất gây nghiện mới không chỉ thâm nhập mà còn được sản xuất trong nước thông gia những chỉ dẫn trên mạng internet quốc tế như các điều chế, cách sử dụng... thậm chí được truyền bá bởi các khách du lịch quốc tế vào nước ta.


Những khó khăn chủ yếu nêu trên của nước ta đồng thời cũng là những khó khăn của các nước khác trên thế giới. Vì vậy đã có nhiều hiệp định song phương và đa phương giữa lực lượng công an nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm hợp lực đấu tranh với loại tội phạm liên quan tới chất gây nghiện. Tuy nhiên, triệt phá đường dây cung cấp chất gây nghiện không hề dễ dàng và đơn giản. Một thí dụ rõ nhất là Hoa Kỳ: cơ quan phòng chóng chất gây nghiện quốc gia được đầu tư rất nhiều tiền của, phương tiện hiện đại, huy động cả các cơ quan tình báo, thậm chí cả quân đội vào công tác này nhằm triệt phá các trung tâm sản xuất ma túy không chỉ ở trên đất Mỹ mà còn ở các nước hữu quan khác như Colombia, Apganistan, Panama, Mehico... Các chiến dịch này đã thu được nhiều kết quả: phá hủy nhiều trung tâm sản xuất chất gây nghiện, phát hiện và bắt giữ nhiều đường dây buôn lậu chất gây nghiện vào nước Mỹ và các nước khác. Tuy nhiên số lượng người Mỹ lạm dụng chất vẫn không giảm. Theo số liệu dịch tễ của Mỹ [Manual ò Therapeuties for Addictions 1997] có 16% dân Mỹ nghiện rượu (28% ở nam, 8% ở nữ), 8% nghiện ma túy (19% nam, 5% ở nữ), 30%-84% những người nghiện sử dụng rượu cùng với các loại chất khác như cần sa, cocaine, các chất dạng thuốc phiện...


Ở Việt Nam, đầu thập kỷ 90 thế kỷ 20, chúng ta đã thành công trong việc triệt phá các cánh đồng trồng cây anh túc (cây thuốc phiện) nhưng ngay lập tức heroin tràn vào nước ta và những người nghiện thuốc phiện trước kia nay chuyển sang nghiện heroin (một loại chất được tinh chế từ thuốc phiện) mạnh hơn và nguy hiểm hơn thuốc phiện. Vì vậy chúng ta phải thùa nhận rằng mọi nỗ lực của chúng ta chỉ mới có thể làm giảm được lượng chất gây nghiện trên thị trường chứ chưa thể loại trừ được hoàn toàn chất gây nghiện (mới giảm được cung chứ chưa loại được cung).

Do vậy chủ trương của nhiều nước trên thế giới là đi đôi với giảm cung cần có các giải pháp giảm cầu hữu hiệu, nghĩa là tác động vào những người có nguy cơ cao và đã nghiện từ bỏ việc sử dụng các chất gây nghiện.


II. YẾU TỐ CÁ NHÂN:

Đa số những người bắt đầu đi vào con đường nghiện ma túy ở nước ta phụ thuộc vào lứa tuổi thanh thiếu niên, lứa tuổi của giai đoạn khủng hoảng trong quá trình phát triển tâm lý và hoàn thiện nhân cách.


Thanh thiếu niên có thể đi vào con đường nghiện ma túy do tính tò mò và mạo hiểm của lứa tuổi, muốn thử trải nghiệm những cảm giác kỳ lạ của chất gây nghiện (do bạn bè kể lại) bất chấp sự ngăn cản của gia đình và xã hội, bất chấp những kiến thức tiếp thu về tác hại của chất gây nghiện qua thông tin truyền thông ở nhà trường, gia đình và xã hội cũng như trên các phương tiện thông tin truyền thông ở nhà trường, gia đình và xã hội cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, bất chấp những hậu quả nghiêm trọng mà bản thân cũng nhận thấy ở những người nghiện khác.


Một số thanh thiếu niên sử dụng các chất gây nghiện như một phương thức khẳng định mình, tự cho mình đã trưởng thành, được quyền chọn hành vi độc lập tùy thích.


Những thanh thiếu niên có những vấn đề bất mãn với gia đình và cộng đồng có thể sử dụng chất gây nghiện như một phản ứng chống đối.


Cũng có thể thanh thiếu niên tìm đến chất gây nghiện như một phương thức lẩn tránh khỏi tác động của các stressrất đa dạng trong đời sống hiện đại: stress trong gia đình (mâu thuẫn giữa các thế hệ, cha mẹ bất hòa, ly thân, ly hôn, mất người thân gắn bó với họ, bị bạo lực trong gia đình, bị lạm dụng tình dục, bố. mẹ hoặc anh chị em khác lạm dụng các chất gây nghiện...), stress trong môi trường học tập (thi hỏng, bị thi hành kỷ luật,...), stress trong tình yêu, stress trong công việc...


Một số do yếu tố sinh học và di truyền: thường gặp trong rối loạn liên quan tới rượu được phản ánh qua các nghiên cứu mối liên quan giữa con cái và cha mẹ nghiện rượu, sinh đôi cùng trứng và khác trứng, con nuôi...


Thường gặp nhất và nguy hại nhất trong thời đại hiện nay là thanh thiếu niện sử dụng chất gây nghiện do ảnh hưởng hay áp lực của các bạn đã nghiện trong cùng bằng nhóm theo các qui luật "hoặc đồng hóa theo nhóm hoặc bị loại trừ ra khỏi nhóm". Mà đặc điểm tâm lý của lứa tuổi thanh thiếu niên là không muốn và không thể sống lẻ loi ngoài nhóm.


Một số thanh thiếu niên tìm đến các chất gây nghiện do các trạng thái bệnh tâm lý tâm thần nhất thời hay trường diễn. Thường gặp nhất là các trạng thái lo âu, trầm cảm, rối loạn stress sau sang chấn, tâm thần phân liệt, rối loạn cảm xúc lưỡng cực hay nhân cách bệnh lý. Lo âu có thể do thất bại trong cuộc sống, chán nản với hoàn cảnh, không tìm được mô hình lý tưởng để theo... Trầm cảm lúc đầu có thể do các stress gây ra và thanh thiếu niên tưởng nhầm là các chất gây nghiện khác có thể giúp thanh toán được các trạng thái trầm cảm của mình. Và những nhân cách bệnh lý, nhất là nhân cách bệnh chống xã hội, thưởng có khuynh hướng lạm dụng các chất gây nghiện. Và cũng có những người tuy chưa phải là nhân cách bệnh lý nhưng cũng có khuynh hướng lạm dụng chất.


Như vậy thầy thuốc tâm thần có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị nghiện, đặc biệt những thầy thuốc có thể áp dụng được nhiều liệu pháp tâm lý, giúp đối tượng loại trừ ảnh hường của các tác nhân tâm lý đa dạng đã gây ra hay thúc đầy nghiện và/hoặc tái nghiện.


III. YẾU TỐ GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI:

Gia đình, trường học và địa bàn sinh sống (khu phố, cụm dân cư...) chứa đựng nhiều nhân tố có nguy cơ gây nghiện, duy trì nghiện và tạo điều kiện thuận lợi cho tái nghện ma túy.

Môi trường chính là cầu nối hay chất xúc tác cho sự gặp gỡ giữa con người có khuynh hướng nghiện với các tác nhân gây nghiện.


1. Nguyên nhân môi trường gia đình:

Phần lớn thanh thiếu nhiên nghiện ma túy thuộc về các gia đình lơ là trong nhiệm vụ giáo dục, chăm sóc và quản lý con em của mình. Không ít gia đình chỉ biết con em của mình bị nghiện hoặc phạm pháp sai khi chúng có vấn đề với cơ quan hành pháp.


Những gia đình có con em nghiện ma túy thường là những gia đình hoặc không có thái độ phê phán nghiêm khắc với con em khi chúng bắt đầu sử dụng chất gây nghiện hoặc mất cảnh giác cho chúng nhiều tiền để tự do tiêu xài, đua đòi cùng bạn bè hoặc không kiểm tra xem con em mình có sử dụng tiền đúng mục đích hay không.


Đặc biệt nguy hại là những gia đình do sĩ diện hay do nuông chiều con cái không dám thừa nhận với cộng đồng là chúng đã bị nghiện, không dám đưa chúng đi điều trị ở các cơ sở cai nghiện và chịu áp lực thường xuyên phải cung cấp tiền để chúng mua chất gây nghiện.


Một số gia đình bố. mẹ cũng nghiện chất như nghiện rượu, nghiện thuốc lá... Đa số thanh thiếu niên trước khi nghiện ma túy đã lạm dụng rượu hay thuốc lá một thời gian và tiếp sau đó là nghiện chất bất hợp pháp.


Một số gia đình thiếu kinh nghiệm trong giáo dục con cái như thiếu kiên quyết, quá nóng giận hoặc hay trừng phạy không phù hợp với mức độ và hoàn cảnh, sợ con cái tức giận bỏ đi, sợ tan vỡ gia đình... cũng là nhân tố thúc đẩy.


Như phần trên đã đề cập đến, các stress xuất hiện do nội bộ gia đình có nhiều xung đột thường xuyên cũng là nhân tố thúc đẩy con em mình đi vào con đường nghiện chất, được chúng xem như là một phương thức để thoát khỏi bầu không khí căng thẳng, nặng nề phải chịu đựng hằng ngày.


Như vậy trong quá trình điều trị, việc thầy thuốc thiết lập được mối quan hệ mật thiết và thường xuyên với gia đình và người bệnh có tầm quan trọng đặc biệt trong khâu phát hiện và khắc phục nguyên nhân. Nếu tiến hành được liệu pháp đình hệ thống thì kết quả chống nghiện và chống tái nghiện sẽ cao hơn và bệnh vững hơn.


2. Nguyên nhân môi trường xã hội:

Hiện nay có thể nói, chúng ta đang phải sống trong một môi trường xã hội bị ô nhiễm chất gây nghiện: các ổ nhóm và tuh điểm tiêm chích chất gây nghiện vẫn con tồn tại ở nhiều nơi, người nghiện vẫn có thể tìm mua chất gây nghiện tương đối dễ dàng.


Tình trạng này có nhiều nguyên nhân. Cơ chế thị trường và sự tăng trưởng kinh tế nhanh đã kéo theo nhiều biến đổi xã hội cả tích cực lẫn tiêu cực. Sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra, tốc độ đô thị hóa cũng gia tăng nhanh chóng. Trình độ nhận thức của một bộ phận xã hội không theo kịp sự phát triển kinh tế, sự thay đổi của xã hội làm không ít người, không ít gia đình đã bị mất phương hướng, lâm vào khủng hoảng bởi mất cân bằng nội môi.


Mặt khác, các chuẩn mực đạo đức xã hội cũng ít nhiều bị biến đổi, xói mòn. Một nguyên nhân xã hội nữa là việc tôn trọng và thực thi pháp luật chưa được nghiêm túc. Bọn tội phạm liên quan tới chất gây nghiện không ngừng tấn công vào các tầng lớp thanh thiếu niên, nhưng ở nhiều nơi chính quyền và các cơ quan chức năng chưa huy động được sức mạnh toàn dân trong cuộ chiến chống chất gây nghiện.


Hiện nay môi trường học đường từ tiểu học đến đại học đã và đang bị ma túy xâm nhập. Sức ép trong học tập cũng được coi như những stress quá lớn đối với một bộ phận học sinh không theo kịp, làm chúng chán nản và bỏ học và đi đến nghiện chất và các loại tệ nạn khác.


Những nguyên nhân xã hội nêu trên đã làm cho đội ngũ những người nghiện chất ngày càng đông hơn và trẻ hơn.


B. ĐẶC TÍNH CỦA NGHIỆN MA TÚY:

I. NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH NGUYÊN PHÁT:

Trước hết các rối loạn liên quan đến lạm dụng ma túy được phân loại vào mục F11 phần các rối loạn tâm thần của bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 của Tổ chức Y tế thế giới (1992) và trong sách thống kê chuẩn đoán các rối loạn tâm thần của hội Tâm thần học Mỹ (1994).


Nghiện ma túy không phải là một bệnh thứ phát sau một bệnh cơ thể hay tâm thần mà là một bệnh nguyên phát do chất gây nghiện gây ra, có 3 nguyên nhân (có chất gây nghiện, con người và môi trường).


Đã là bệnh thì trước tiên cần phải được điều trị. Có điều trị khỏi thì các vấn đề khác mới được cải thiện (sức khỏe, việc làm, quan hệ xã hội...).


II. NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH MÃN TÍNH:

Nghiện ma túy không thể chữa khỏi nhanh chóng được. Môi trường xung quanh còn có khả năng cung cấp chất gây nghiện thì đối tượng còn có nguy cơ tái nghiện và bệnh còn kéo dài (mạn tính). Chỉ khi nào liệu pháp sinh học làm cho hết thèm nhớ và liệu pháp tâm lý phát huy tác dụng, đối tượng rèn luyện có kết quả, có đầy đủ quyết tâm và nghị lực từ bỏ chất gây nghiện suốt đời thì bênh mới có thể xem như khỏi hẳn.


III. NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH TIẾN TRIỂN

Nghiện ma túy càng để lâu không điều trị thì bệnh tiến triển ngày càng xấu hơn do lượng chất gây nghiện vào cơ thể ngày càng cao gây nghiễm độc mạn tính, gây rối loạn hoạt động chức năng của não, gây rối loạn hành vi, gây suy kiệt cơ thể, mắc các bệnh khác...


IV. NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH CÓ THỂ GÂY CHẾT NGƯỜI

Nếu không được điều trị, nghiện ma túy có thể gây tử vong không phải chỉ do tác động của chất gây nghiện vào các cơ quan nội tạng mà còn do những rối loạn tâm thần và hành vi do chất gây nghiện gây ra như tai nạn giao thông, lao động, do hoang tưởng ảo giác chi phối, tự sát, lây nhiễm các bệnh qua đường tiêm chích hoặc quan hệ tình dục không an toàn (HIV, viêm gan B, C, nhiễm trùng máu, tim, phổi...).


V. NGHIỆN MA TÚY LÀ MỘT BỆNH CÓ THỂ CHỮA ĐƯỢC:

Nghiện ma túy là một bệnh khó chữa khỏi nhưng vẫn có thể chữa khỏi nếu có chiến lược điều trị thích hợp, đem lại lòng tin cho đối tượng, đưa dần đối tượng đến chỗ quyết tâm sửa chữa (không dùng chất gây nghiện nữa). Ngoài ra nếu có sự động viên giúp đỡ của gia đình và cộng đồng về các mặt (tài chính, việc làm, không kỳ thị...) thì điều trị có kết quả nhiều hơn.


VI. NGHIỆN MA TÚY KHÓ ĐIỀU TRỊ DO TÂM LÝ TỪ CHỐI CHỮA BỆNH CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Từ chối chữa bệnh là một đặc điểm tâm lý rất phổ biến của những đối tượng nghiện ma túy. Có nhiều lý do:

  • - Trước hết đối tượng không muốn và không thể từ bỏ cảm giác sảng khoái do chất gây nghiện đem lại.

  • - Đối tượng nghiện không chịu đựng nổi những phản ứng của gia đình và cộng đồng, những khó khăn của cuộc sống, tìm cách ngày càng lẩn trốn vào chất gây nghiện, không muốn và không dám điều trị để trở lại thực tại mà đối tượng không thích nghi được nữa.

  • - Nếu đối tượng cảm nhận được sự dung túng của người thân thì càng từ chối mạnh hơn và dai dẳng hơn.

  • - Chính sự từ chối chữa bệnh của đối tượng (và sự dung túng của người thân trong một số trường hợp) đã hình thành và duy trì phương thức điều trị bắt buộc ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.


VII. NGHIỆN MA TÚY TIẾN TRIỂN XẤU DO HÀNH VI DUNG TÚNG CỦA NGƯỜI THÂN:

Người thân ở đây bao gồm các thành viên trong gia đình, bạn bè thân cận và bạn đồng nghiệp của đối tượng nghiện.

Hành vi dung túng là những hành vi giúp cho người nghiện tiếp tục sử dụng chất gây nghiện mà không bị phê phán, lên án hoặc tránh bị rắc rối (phạt) bởi cơ quan hành pháp.

Hành vi dung túng rất đa dạng, bao gồm sử dụng nhiều loại như:

- Gia đình bảo lãnh cho con em mình khỏi phải đi điều trị bắt buộc, khỏi bị truy tố về những hành vi phạm pháp.

- Gia đình không theo dõi, kiểm tra những hành vi có liên quan đến sử dụng ma túy của con em mình, không nghiêm khắc phát hiện và đối chất với những lời nói dối của con em mình, vẫn cung cấp nhiều tiền cho chúng tiêu xài.

- Bạn đồng nghiệp che dấu hành vi sử dụng chất gây nghiện của đối tượng ở công sở.

- Bạn thân làm chứng giả cho những lời nói dối của đối tượng.


Như vậy, ta thấy rõ một nhiệm vụ quan trọng của liệu pháp gia đình là phát hiện và giúp sửa chữa những hành vi dung túng của các thành viên trong gia đình có người nghiện ma túy.


C. NGHIỆN MA TÚY KÈM THEO CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN:

Theo DSM IV, ở Mỹ (1991) có 76% nam, 65% nữ được chẩn đoán lạm dụng hoặc nghiện ma túy có thêm một chẩn đoán rối loạn tâm thần.


Các rối loạn tâm thần khác thường kết hợp với lạm dụng ma túy là: nhân cách bệnh chống xã hội, lo sợ ám ảnh và các rối loạn lo âu khác, trầm cảm nội sinh và tâm sinh.


Tính chất đồng bệnh lý tâm thần và lạm dụng ma túy thường gặp ở lạm dụng chát dạng thuốc phiện, cocain và marijuana.


90% người nghiện ma túy dạng thuốc phiện có thêm một chẩn đoán rối loạn tâm thần: 1/3-1/2 những người nghiện hoặc lạm dụng ma túy dạng thuốc phiện có kèm theo trầm cảm.


40% những người lạm dụng hoạc nghiện rượu có đủ tiêu chuẩn chuẩn đoán rối loạn trầm cảm điển hình vào một thời điểm trong cuộc sống của họ.


25-50% rối loạn liên quan tới rượu có đủ tiêu chuẩn chuẩn đoán rối loạn lo âu (thường gặp rối loạn lo sợ và hoảng sợ).


Có một tỉ lệ rất cao các bệnh nhân tâm thần hút thuốc lá: 50% bệnh nhân tâm thần ngoại trú, 70% bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực I ngoại trú, 90% bệnh nhân tâm thần phân liệt ngoại trú. Gần 1/2 doanh số bán thuốc lá hàng năm ở Mỹ (256 triệu USD/ năm) do bệnh nhân tâm thần tiêu thụ.


Lạm dụng ma túy cũng là một nhân tố thúc đẩy tự sát. Nguy cơ tự sát ở người lạm dụng ma túy cao hơn gần 20 lần so với dân số chung. Khoảng 15% người lạm dụng hoặc nghiện rượu nói họ đã toan tự sát (thường do thiếu trợ giúp tâm lý xã hội, bị các bệnh cơ thể, không có việc làm, sống độc thân). Tỉ lệ tự sát ở người lạm dụng hoặc nghiện chất đứng thứ hai sau tỉ lệ tự sát ở bệnh nhân trầm cảm.

PHIM TÀI LIỆU VỀ MA TÚY

PHIM TÀI LIỆU VỀ CAI NGHIỆN MA TÚY

 

  1. VTV9: Xem người nghiện ma túy là bệnh nhân
  2. VTV1: Chiến dịch chống ma túy gây tranh cãi ở Philippines
  3. VTC14: Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường
  4. VTC14: Chơi ma túy đá, tàn phá cuộc đời
  5. VTV1: Ma túy đá tác hại khôn lường
  6. VTV24: Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá
  7. NLĐ: Phóng sự: Ma túy đá biến con người thành ác quỷ
  8. VTV1: 90% Người nghiện ma túy tái nghiện
  9. VTV1: Bắt vụ vận chuyển ma túy số lượng lớn
  10. VTV1: Lạng Sơn bắt đối tượng vận chuyển 12kg ma túy đá
  11. VTV1: Gia tăng người trẻ nghiện ma túy
  12. Thanh Niên: Việt Nam bắt hơn 8 tấn ma túy chỉ trong năm 2019
  13. VGP: Cuộc chiến chống ma túy: thấy gì từ các vụ án khủng
  14. VTV1: Cai nghiện ma túy tổng hợp bằng biện pháp tâm lý: còn nhiều khó khăn, bất cập
  15. VTC14: Khi người nghiện kể chuyện cai nghiện
  16. VTC9: Methadone: Vị cứu tinh của người nghiện ma túy
  17. VTV9: Từ ngáo đá đến tâm thần - con đường cực ngắn
  18. VTC14: Ma túy tổng hợp được kinh doanh theo hình thức mới
  19. VTC1: ‘Cỏ Mỹ’- Chất cấm hành hạ giới trẻ Việt Nam
  20. VTC1: Mua ma túy tem giấy dễ như mua kẹo?
  21. THTPCT: Dùng cỏ Mỹ, bóng cười, 3 thanh niên lên cơn co giật
  22. VTV1: Cỏ Mỹ gây ảo giác mạnh, loạn thần
  23. ANTV: Thâm nhập chợ "cỏ Mỹ" công khai giữa Hà Nội
  24. VTC14: “Ngáo” cỏ Mỹ, thiếu niên cắn lìa tai bạn rồi nuốt vào bụng
  25. VTV24: Tác hại kinh hoàng khi sử dụng cỏ mỹ
  26. KTV: Sử dụng ma túy đá - Nghiện hay không nghiện?
  27. THTPCT: Ma tuý đá đang tấn công giới trẻ
  28. THĐT: Gần 1 năm để triệt phá xưởng sản xuất ma túy đá lớn nhất nước
  29. THĐT: Người nghiện ma túy đá tại TP. HCM ngày càng trẻ hóa
  30. VTC9: Tâm sự của bạn trẻ từng sa ngã vì ma túy
  31. VTV: Nghiện ma túy rất khó cai
  32. VTV24: Trầm cảm sau khi chơi ma túy đá
  33. VTC14: Ngộ độc vì “thử” ma túy thế hệ mới
  34. VTC14: Vì sao tôi dùng ma túy khi lái xe đường dài?
  35. VTV1: Hậu qua kinh hoàng từ "loạn thần" do ma túy đá
  36. VTV1: Những suy nghĩ sai lầm về ma túy đá
  37. VTV9: Dấu hiệu ban đầu nhận biết người sử dụng ma túy đá
  38. Báo NA: Triệt phá đường dây ma túy xuyên quốc gia, thu giữ 700kg ma túy đá
  39. Tuổi Trẻ: Buôn 8 bánh heroin và 4kg ma túy đá, lĩnh án tử hình
  40. VTV1: Ma túy "biến hình" thành hàng chục loại khác nhau
  41. ANTV: Nghe dân chơi trải lòng về ma dược “cỏ” Mỹ
  42. VTC14: Bóng cười, bùa lưỡi: Sành điệu hay chết người?
  43. ANTV: “Cỏ Mỹ” tàn phá, giới trẻ Việt “mê man, què quặt”
  44. ANTV: Đột nhập ‘ổ’ buôn cỏ Mỹ số lượng lớn, phát hiện ‘sốc’
  45. VTC9: Cảnh báo tình trạng buôn bán cỏ Mỹ tràn lan ở TPHCM
  46. Tuổi Trẻ: Ma túy “cỏ Mỹ” đang tàn phá ngư dân trẻ
  47. VTC1: Cỏ Mỹ: Cơn sóng ngầm khủng khiếp
  48. VietLive: 3 thanh niên chơi cỏ mỹ tobaco và cái kết khiến nhiều bậc phụ huynh giật mình
  49. VTC14: Vì sao ma túy gây ảo giác “lên ngôi?
  50. ANTV: Lời chứng người vợ có chồng nghiện ma túy
  51. VTC1: Anh Lê Trung Tuấn "trải lòng" với nỗi niềm về những năm tháng chiến đấu chống ma túy
  52. ANTV: Phút trải lòng của nữ sinh mất gia đình vì... ma túy
  53. ANTV: Cô Gái Nghiện : Cảm Thấy Bình Yên Hơn Khi Ở Trong Tù
  54. ANTV: Bí mật kho ma túy khủng của cặp vợ chồng “tài sắc”
  55. ANTV: Truy bắt nhóm "bố già" cộm cán buôn ma túy vùng "tam giác vàng"
  56. ANTV: Báo động "cỏ Mỹ" tàn phá học sinh nông thôn
  57. VTV1: Mục kích tụ điểm chuyên bán cỏ Mỹ tại TP.HCM
  58. ANTV: Lo ngại tình trạng thanh, thiếu niên dùng cỏ Mỹ
  59. VTC1: Ma túy đá: "Cơn phê" chết người
  60. VTC14: Thản nhiên tiêm chích giữa khu dân cư
  61. VTV24: Triệt phá đường dây ma túy buôn 300 kg ma túy đá xuyên quốc gia
  62. Mua bán và sử dụng ma túy tại Trung tâm điều trị Methadone
  63. HTV9 - MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN
  64. Phức tạp quanh Trung tâm điều trị nghiện bằng Methadone

Phim tài liệu về Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện Ma túy Thanh Đa

PHIM TÀI LIỆU VỀ TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

15. FBNC - Cai nghiện ma túy

16. VTV9 - Sống đẹp

17. VTC9 - Bác sĩ của người nghiện

18. HTV9 - Giành lại những con người 

19. HTV9 - Cuộc sống quanh ta

20. HTV7 - Vì cuộc sống cộng đồng

21. HTV9 - Điều kỳ diệu của sự yêu thương

22. HTV - Hoa cuộc sống

23. VTV9 - Cai nghiện chui

24. QPVN - Một trái tim rộng mở với đời

25. HTV9 - Ma túy và các chất gây nghiện

26. VTV2 - Hiểm họa ma túy đá

27. VTC14 - Hiểm họa ma túy

28. ANTV - Tác hại của ma túy đá

29. ANTD - Ma túy - Hiểm họa từ thế giới ảo

30. VTV2 - Tìm hiểu tác hại của ma túy đá - đập đá

31. O2TV - Ma túy tổng hợp và những tác hại

32. VTV9 - Thời sự và bình luận: Cai nghiện ma túy

33. VTV9 - Cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng

34. HTV7 - Các bác sĩ nói gì

35. VTC10 - Đường đến thành công

36. VTV1 - Tỏa sáng giữa đời thường

37. VTV6 - Sự lựa chọn của tôi

38. VIETNAMNET - Thác loạn vì ma túy

39. VTV2 - Vì cuộc sống - hiểm họa từ ma túy đá

40. VTV9 - Sáng Phương Nam

41. VTV6 - Điểm nóng - Có những sự "trở về" như thế

42. VTV9 - Sự kiện và bình luận: Cai nghiện ma túy

43. VTV9 - Tổng hợp cai nghiện ma túy tập trung

44. Người Sài Gòn | BS Nguyễn Hữu Khánh Duy - Khi cai nghiện ma túy đã trở thành cái nghiệp! Là cơ duyên...

45. VTV9 - SU DUNG MA TUY DA

46. VTV24 - Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá

47.

48.

49.

50.

51.

52.

53.

54.

Kỳ thị HIV/AIDS khiến cho số người nhiễm tăng gấp 3 lần

Kỳ thị HIV/AIDS khiến cho số người nhiễm tăng gấp 3 lần


(CAO)- Lẽ ra lúc đầu chỉ có 1 người nhiễm HIV nhưng kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho 3 người bị nhiễm.

Mạng lưới quốc gia những người sống chung với HIV Việt Nam vừa công bố một nghiên cứu cho thấy, có những thay đổi tích cực trong gần 5 năm qua về mặt pháp lý liên quan đến "người có H".

Cụ thể, tỷ lệ quyền bị vi phạm của "người có H" giảm từ 21,8% năm 2011 xuống còn 11,2% năm 2014 (giảm 10,6%). Đặc biệt, tỷ lệ này giảm đáng kể đối với nhóm phụ nữ hành nghề mại dâm nhiễm HIV, từ 41,1% xuống 16,6%, tức giảm 25,5%.

Người nhiễm HIV cần được tư vấn đầy đủ để phòng tránh lây nhiễm cho người thân, cộng đồng


Tuy nhiên, vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn ở mức cao và dưới nhiều hình thức khác nhau. Có đến 23,3% "người có H" bị xì xào bàn tán về tình trạng nhiễm của mình; 5,8% "người có H" bị xúc phạm; 4,2% bị mất việc làm hoặc mất nguồn thu nhập; 6,7% bị từ chối cơ hội việc làm vì tình trạng nhiễm HIV; 2,8% phụ nữ sống với HIV bị hành hung và 2,6% "người có H" bị loại ra khỏi các hoạt động của cộng đồng, xã hội.

Theo Tiến sĩ Kristan Schoultz, Giám đốc quốc gia Chương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS tại Việt Nam, vì sợ bị kì thị, người ta không muốn đi xét nghiệm HIV để phát hiện tình trạng nhiễm HIV của mình và sử dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV. Vì vậy, họ có thể vô tình truyền HIV sang những người thân của mình. Một người chồng có thể truyền HIV sang vợ. Người vợ ấy có thể truyền HIV sang đứa con mà họ sẽ sinh ra.

“Như thế, lẽ ra lúc đầu chỉ có 1 người nhiễm HIV nhưng kỳ thị và phân biệt đối xử khiến cho 3 người bị nhiễm. Điều này xảy ra bởi vì người ta sợ đi xét nghiệm HIV, bởi họ sợ mình bị phân biệt đối xử tại cơ sở y tế khi có kết quả xét nghiệm HIV dương tính”, bà Kristan Schoultz nói.