PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

  1. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

  2. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

  3. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

  4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

  5. CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

  6. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN

  7. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN NHÓM OMH (OPIATES) (OPIUM – MORPHINE – HÉROINE)

  8. CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP 
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. CÁCH PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được vạch định kỹ lưỡng tùy theo từng đối tượng. Họ được học tập và trang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ.


Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.


Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


I/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:

Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quá trình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.


Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.


Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.


Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau:


tái nghiện ma túy

Về hành vi, bệnh nhân có những biểu hiện:


-  Sử dụng những chấy gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….


-  Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.


-  Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


II/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:

Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.


1/ VỀ CẢM XÚC:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấnHai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.


2/ VỀ HÀNH VI:

·         Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.


·         Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấuthấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).


3/ VỀ NHẬN THỨC:

·         Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.


·         Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.


·         Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.


4/ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ QUAN HỆ CÁ NHÂN:

·         Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.


·         Bị áp lực của bạn bè xấu.


·         Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.


·         Để thì thời gian nhàn rỗi quá nhiều.


5/ VỀ MẶT SINH LÝ HỌC:

·         Không thắng được cảm giác thèm thuốc.


·         Có bệnh đau mãn tính.


6/ VỀ MẶT TÂM THẦN, TÂM LINH:

·         Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.


·         Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì


7/ VỀ TRUNG TÂM CAI NGHIỆN:

·         Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.


·         Kế hoạch điều trị không thích ứng.


·         Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


III/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:

1/ PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN:

1.1 MỤC TIÊU:

-   Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.


-   Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.


-   Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C


-   Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng


-   Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữtâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.


-   Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.


-   Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.


ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM * MORPHINE * HEROIN)

(THUỐC PHIỆN * MOCPHIN * HÊ-RÔ-IN)

CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủycủa Naltrexone khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của  6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơ gây ngủ gà, đờ đẫn, ngộ độc.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng của Methadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

1.2/ KẾ HOẠCH:

-      Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.


-      Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.


-      Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.


-      Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.


-      Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.


-      Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.


-      Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.


-      Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.


-      Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.


-      Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.


1.3/ BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được.


Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.


Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:


+ Đúng phương pháp


+ Đúng thời gian


+ Đúng thuốc


+ Đúng người bệnh


Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆNsau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.


Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trịcủa đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.


Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặt hạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.


Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

+ Không tái sử dụng ma túy


+ Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân


+ Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức


+ Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.


2. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

2.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”


Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.


- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.


2.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:


-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).


-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).


-  Không tiêm chích ma túy


-  Nếu tiêm chích, không chích chung.


-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.


2.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:


- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).


-  Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).


-  Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).


2.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:


Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).


Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).


Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).


Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:


- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.


- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.


- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.


2.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:


- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng


Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp


- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại


Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích


- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.


- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.


2.6. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:

Khuyến nghị:


- Củng cố luật pháp


- Giải quyết bạo lực gia đình


- Vấn đề y tế công cộng STD/HIV


- Phúc lợi cho trẻ em


- Các bệnh nhiễm trùng


- Lạm dụng chất gây nghiện


- Sức khỏe tâm thần


- Đào tạo cán bộ điều trị


- Giáo dục


- Thông tin đại chúng


B. KẾT LUẬN:

Bốn vấn đề chính yếu trong công tác điều trị nghiện ma túy là:


1.   Sớm nhận biết các dấu hiệu của người sử dụng ma túy để điều trị kịp thời


2.   Trong phương pháp điều trị vấn đề gọt dũa, phục hồi nhận thức hành vi nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẫn nội tâm là quan trọng nhất thông qua tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, lao động trị liệu, hoạt động trị liệu, giải trí trị liệu là rất cần thiết.


3.   Với người nghiện heroin, liệu pháp sử dụng thuốc giữ một vai trò quan trọng.


4.   Với người nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích do chưa có thuốc điều trị nên việc giảm nguy cơ, giảm tác hại là vô cùng cần thiết.

 

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP 
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. CÁCH PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được vạch định kỹ lưỡng tùy theo từng đối tượng. Họ được học tập và trang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ.


Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.


Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


I/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:

Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quá trình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.


Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.


Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.


Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau:


tái nghiện ma túy​​

Về hành vi, bệnh nhân có những biểu hiện:


-  Sử dụng những chấy gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….


-  Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.


-  Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


II/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:

Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.


1/ VỀ CẢM XÚC:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấnHai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.


2/ VỀ HÀNH VI:

·         Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.


·         Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấuthấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).


3/ VỀ NHẬN THỨC:

·         Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.


·         Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.


·         Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.


4/ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ QUAN HỆ CÁ NHÂN:

·         Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.


·         Bị áp lực của bạn bè xấu.


·         Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.


·         Để thì thời gian nhàn rỗi quá nhiều.


5/ VỀ MẶT SINH LÝ HỌC:

·         Không thắng được cảm giác thèm thuốc.


·         Có bệnh đau mãn tính.


6/ VỀ MẶT TÂM THẦN, TÂM LINH:

·         Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.


·         Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì


7/ VỀ TRUNG TÂM CAI NGHIỆN:

·         Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.


·         Kế hoạch điều trị không thích ứng.


·         Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


III/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:

1/ PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN:

1.1 MỤC TIÊU:

-   Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.


-   Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.


-   Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C


-   Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng


-   Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữtâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.


-   Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.


-   Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.


ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM * MORPHINE * HEROIN)

(THUỐC PHIỆN * MOCPHIN * HÊ-RÔ-IN)

CHỐNG TÁI NGHIỆN 
MA TÚY NHÓM OMH
BẰNG THUỐC NALTREXONE
THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ
 
NGHIỆN NHÓM OMH
BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất 
đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng
để loại trừ cảm giác
thèm nhớ ma túy
 nhóm OMH.

3. Naltrexone không
gây nghiện
.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone 
bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủycủa Naltrexone khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của  6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơ gây ngủ gà, đờ đẫn, ngộ độc.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng của Methadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

1.2/ KẾ HOẠCH:

-      Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.


-      Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.


-      Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.


-      Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.


-      Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.


-      Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.


-      Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.


-      Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.


-      Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.


-      Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.


1.3/ BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được.


Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.


Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:


+ Đúng phương pháp


+ Đúng thời gian


+ Đúng thuốc


+ Đúng người bệnh


Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆNsau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.


Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trịcủa đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.


Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặt hạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.


Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

+ Không tái sử dụng ma túy


+ Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân


+ Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức


+ Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.


2. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

2.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”


Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.


- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.


2.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:


-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).


-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).


-  Không tiêm chích ma túy


-  Nếu tiêm chích, không chích chung.


-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.


2.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:


- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).


-  Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).


-  Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).


2.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:


Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).


Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).


Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).


Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:


- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.


- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.


- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.


2.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:


- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng


Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp


- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại


Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích


- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.


- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.


2.6. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:

Khuyến nghị:


- Củng cố luật pháp


- Giải quyết bạo lực gia đình


- Vấn đề y tế công cộng STD/HIV


- Phúc lợi cho trẻ em


- Các bệnh nhiễm trùng


- Lạm dụng chất gây nghiện


- Sức khỏe tâm thần


- Đào tạo cán bộ điều trị


- Giáo dục


- Thông tin đại chúng


B. KẾT LUẬN:

Bốn vấn đề chính yếu trong công tác điều trị nghiện ma túy là:


1.   Sớm nhận biết các dấu hiệu của người sử dụng ma túy để điều trị kịp thời


2.   Trong phương pháp điều trị vấn đề gọt dũa, phục hồi nhận thức hành vi nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẫn nội tâm là quan trọng nhất thông qua tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, lao động trị liệu, hoạt động trị liệu, giải trí trị liệu là rất cần thiết.


3.   Với người nghiện heroin, liệu pháp sử dụng thuốc giữ một vai trò quan trọng.


4.   Với người nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích do chưa có thuốc điều trị nên việc giảm nguy cơ, giảm tác hại là vô cùng cần thiết.

 

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN
(AMPHETAMIN VÀ AMPHETAMIN - LIKE)


Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy
GĐ. Trung tâm Điều Dưỡng & Cai Nghiện Ma Túy Thanh Đa


Nghiện là trạng thái lệ thuộc, thèm muốn bất thường, kéo dài, không kiểm soát được đối với chất gây nghiện mà người nghiện sử dụng để tìm kiếm sự khoái cảm, êm dịu hoặc hưng phấn, gây hậu quả nặng nề cho bản thân, gia đình và xã hội.


I. PHÂN LOẠI MA TÚY: Có nhiều cách phân loại


1. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:


Ma túy hợp phápbất hợp pháp


2. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:


    • Ma túy có nguồn gốc thiên nhiên: Thuốc phiện, Cần sa, Cocaine, …
    • Ma túy bán tổng hợp: Morphin, Heroin, Codeine…
    • Ma túy tổng hợp: Dolargan, Promedol, Amphetamine, Ecstasy …

3. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ LÂM SÀNG:

    • Ma túy êm dịu: Thuốc phiện, Morphine, Heroin…
    • Ma túy kích thích: Cocaine, Amphetamin, Ecstasy…
    • Ma túy gây ảo giác: LSD, Mescaline, Phencyclidine…
    • Thuốc giảm đau, gây ngủ: Bezodiazepine, Phénobarbital, Iménoctal …

II. AMPHETAMIN VÀ MỘT SỐ CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN:


Amphetamin và các chất giống amphetamin là chất ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích.


Các loại ma túy này chủ yếu là chất tổng hợp có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau và có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau lên hệ thần kinh trung ương. Dựa trên các cơ sở tác dụng dược lý điển hình ở liều thông thường, nhóm chất này bao gồm các chất kích thích hệ thần kinh trung ương như AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHYLPHNIDAT và các chất Entactogen còn gọi là các chất dạng “Ecstasy” như MDMA, MDA, và MDEA.



1.AMPHETAMIN CỔ ĐIỂN:


Là một chất thuộc nhóm ma túy tổng hợp lớn có tác dụng kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh trung ương. Các loại ma túy phổ biến nhất của nhóm này là AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHCATHINON.


Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ice” (methamphetamin), và “cat” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màu, dạng kết tinh (như “ice”), viên néndung dịch (như “methcathinon”).


Amphetamin thường sử dụng qua đường miệng, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.


Sở dĩ loại ma túy này được nhiều người ưa chuộng bởi nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, tâm trạng phấn khích, lâng lâng khoái cảm, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và làm việc trí não. Đây chính là nguyên nhân khiến amphetamin trở nên hết sức phổ biến đối với các đối tượng là sinh viên, vận động viên thể dục thể thao, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, binh lính...vv.

Ảnh hưởng đặc thù của amphetamin đối với cơ thể người dùng là khi sử dụng liều thấp nó sẽ làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết ápthân nhiệt, đổ mồ hôi, giãn đồng tử, ráo miệng, tiêu chảy, ăn kém ngon. Liều cao amphetamin làm cho tất cả các triệu chứng nói trên trở nên cường phát và dẫn đến hậu quả khiến người dùng trở nên lắm lời, hung hăng, táo tợn, mất ngủ và không còn khả năng suy xét.

Sử dụng amphetamin lâu ngày thường dẫn đến hậu quả thay đổi hành vi tâm tính, có hành động khác lạ, bồn chồn hiếu động, cảm giác khó chịu, trở nên hung hãn; đôi khi dẫn đến hoảng loạn, tâm thần hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốc hay dùng liều cao sẽ gây phản ứng xuất hiện hội chứng cai: buồn chán, u uất, cơ thể mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và hay mê sảng.


Ngay từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Sau đó có rất nhiều người phủ nhận tác dụng chữa bệnh của nó, bởi lẽ có quá nhiều bằng chứng hiển nhiên cho thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng.
Nhiều nước trên thế giới nhận thấy sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn phân phối hợp pháp.
Hiện nay, amphetamin và các chất liên quan chỉ được hạn chế sử dụng để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamin để làm thuốc biếng ăn chữa bệnh béo phì.


2. AMPHETAMIN MỚI:


2.1 MDMA/ THUỐC LẮC


Methylendioxymethylamphetamin, còn gọi là “ecstasy” là chất kích thích tổng hợp dòng amphetamin. Lần đầu tiên được tổng hợp năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng chưa bao giờ được công nhận là thuốc đã đăng k‎ý. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới.
MDMA bị quốc tế kiểm soát.

MDMA được chế tạo tại những địa điểm bí mật dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn. Liều dùng từ 75 đến 150 mg.


Ecstasy là một chất kích thích tuy có khác so với các chất kích thích dạng amphetamin cổ điển. Nó có tác dụng gây ảo giác nhẹ. Gây cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích, thích giao đãi, tiếp xúc trò chuyện.


MDMA liều thấp gây bồn chồn, lo lắng; khi dùng liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ. Nó cũng làm tăng huyết ápnhịp đập tim, gây buồn nôn, ói mửa. Dùng thường xuyên trong một thời gian dài gây nên những ảnh hưởng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.


Ít thấy các trường hợp ngộ độc cấp MDMA; tử vong do sử dụng ecstasy cũng rất hiếm. Tuy nhiên đã có báo cáo về các trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm; những trường hợp này xảy ra là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng.


2.2 MDA:


Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng amphetamin rất giống ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được tung ra thị trường như một loại thuốc hợp pháp. Tác dụng của nó đối với hành vi nhân cách đã được nghiên cứu vào thập niên 1960, và bắt đầu từ đó xuất hiện trên thị trường bất hợp pháp đầu tiên ở Mỹ rồi lan ra toàn thế giới.
Tác dụng giống như tác dụng của MDMA, tuy có hơi khác một chút. Nó gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMAcó thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 tiếng so với MDMA chỉ có 3 – 5 tiếng). MDA thường được chế tạo tại những địa điểm bí mật để thay thế cho MDMA và tung ra thị trường dưới dạng độc lập hay kết hợp với các loại ma túy khác.


2.3 MDEA:


Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này chưa bao giờ được công nhận là thuốc hợp pháp. Tiếng lóng gọi là “Eve”, MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, trốn tránh kiểm soát và buôn bán dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng chính của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. Để đối phó với dịch ecstasy ở Mỹ và Châu Âu, MDEA được liệt kê vào trong bảng xếp hạng các chất bị quốc tế kiểm soát.


III. DỊCH TỄ HỌC


Nghiện Amphetamin thấy ở mọi tầng lớp xã hội.

Phổ biến hơn ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng…


Lúc đầu, dùng APT để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện APT.


Ở Mỹ:

  • Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
  • Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo.
  • Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
  • Sử dụng ATS trong các cuộc chiến gần đây.
  • Binh lính được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
  • Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
  • 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.

Năm 1991: 7% dân số dùng APT ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất, nhóm 12- 17 có tỷ lệ nghiện đáng bao động (tỷ lệ tiêm chích chiếm 22%).


Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng nghiện APT và năm 1994: tăng đến 15,7%.


Ở Nhật:

Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25  nghiện APT và APT hiện vẫn là chất ma túy chủ yếu.


Năm 1994 – 1995: số người nghiện APT ở Thụy Sĩ là 8%., Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%. Australia 25% nam, 12% nữ tuổi từ 20 – 24 đã thử dùng APT...


5% sinh viên ở Sao Paolo, Brazil nghiện APT. Chi Lê 4,5% dân tuổi 12 – 64 nghiện APT...


Xuất hiện bất hợp pháp tại Việt Nam từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.


ATS được dùng phổ biến ở Việt NamMethamphetamineEctasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..


ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.


  • Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
  • Tại Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa, thống kê cho thấy số học viên sử dụng nhóm ATS như sau:

Thời gian

Số học viên sử dụng ATS

Số học viên

sử dụng ATS

 

 

          Tổng số  học viên nhập

Trung tâm

Số học viên được Bệnh viện Tâm thần điều trị

Số học viên

được Bệnh viện

Tâm thần

điều trị

 

Tổng

số  học viên

sử dụng ATS

2005

04

0,56%

00

0%

2006

05

0.9%

00

0%

2007

22

2.1%

00

0%

2008

43

2,93%

02

 

4.65%

 

2009

69

4.75%

04

 

5.79%

 

2010

140

9.7%

29

20.71%

2011

255

16.95 %

55

21.57%

2012

361

22,83%

67

18.56%

Kết quả trên cho thấy:

  • Số học viên sử dụng ma túy ATS tăng đều mỗi năm. Hiện nay khoảng 17% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy tại Trung tâm.
  • Số học viên có vấn đề tâm thần buộc điều trị từ 20 – 25 % trên tổng số học viên sử dụng ma túy nhóm ATS.

IV. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:


Tất cả các loại Amphetamin đều hấp thu nhanh qua đường uốngtác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy  ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.


  • Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.

  • Các loại amphetamine mới ( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điểngây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotoninức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.

  • MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …

V. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:

    1. VỀ CƠ THỂ:
  • Hiệu quả trên mạch máu não, tim, dạ dày và ruột là một trong những tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất khi sử dụng amphetamine.
  • Tình trạng đe dọa cuộc sống đặc trưng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu nãoviêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng amphetamine thường có hành vi tình dục không an toàn.
  • Các tác dụng không mong muốn ít đe dọa cuộc sống hơn bao gồm nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
  • Ở phụ nữ có thai lạm dụng amphetamine thường có thai nhi nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, đẻ non, thai chậm lớn.

    1. VỀ TÂM THẦN:

Tác dụng không mong muốn về tâm thần liên quan tới sử dụng amphetamin bao gồm bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, trở nên thù địch và lú lẫn. các triệu chứng của rối loạn lo âu như rối loạn lo âu toàn thể và rối loạn hoảng sợ có thể do amphetamin gây ra. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể do sử dụng amphetamin gây ra.

  • Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các tác dụng sau:

Hiệu quả ngắn hạn: cảm giác quan hệ với người khác, co cơ, nhịp tim nhanh, mất men răng, khô miệng, hay giật mình, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, run, đánh trống ngực, vã mồ hôi, dị cảm, khó tập trung, mất ngủ, có cơn nóng lạnh, tăng nhạy cảm với lạnh, choáng váng hoặc chóng mặt, ảo thị, nhìn mờ.

Hiệu quả trung hạn: tình trạng ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ hoặc mệt mỏi, cảm giác thân thiện với người khác, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), khó tập trung chú ý, đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh.


VI. CHẨN ĐOÁN NGHIỆN VÀ LẠM DỤNG APT:

  • tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ma túy chung của ICD-10.
  • Sử dụng APT (và giống APT) người nghiện không có sự lệ thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể nên có thể có vài ngày hay vài tuần không dùng thuốc.
  • Nghiện APT có thể gây giảm sút nhanh khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống.
  • Người nghiện APT luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác phê trước đó.

VII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.

  1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
  2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
    • Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
    • Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
    • Các hành vi có tính định hình
    • Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.

Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.

  1. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:

+       Giãn đồng tử

+       Tăng, giảm nhịp tim

+       Tăng, giảm huyết áp

+       Toát mồ hôi, rét run

+       Buồn nôn, nôn

 

+       Sút cân

+       Kích động, ức chế trung tâm vận động.

+       Đau ngực, ức chế hô hấp

+       Lú lẫn hay hôn mê

+       Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.


    Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.

VIII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:

(Amphetamine Inducd Psychosis)

  • Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
    • Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
    • Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
    • Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
  • Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
  • Tăng tình dục (hypersexuality)
  • Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
  • Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
  • Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.

IX. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:

  • Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
  • Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sauhết sau khoảng một tuần.
    • Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ‎ý tưởng và hành vi tự sát.

1.Chẩn đoán hội chứng cai (DSM - IV):

  • Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...)
  • rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
    • Mệt mỏi
    • Có những giấc mơ đáng sợ.
    • Mất ngủ hay ngủ nhiều.
    • Tăng cảm giác ngon miệng.
    • Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

2.  Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.


3.  Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.


X. ĐIỀU TRỊ: Phương pháp điều trị.

  • Điều trị hội chứng cai - giải độc - chống tái nghiện.
  • Các rối loạn loạn thần do Amphetamin
  • Trầm cảm, ủ rũ…LQ Amphetamin
  • Phương pháp dựa trên cộng đồng.

  1. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI - GIẢI ĐỘC - CHỐNG TÁI NGHIỆN:
  • Lệ thuộc về cơ thể ở nhiện APT không nặng như nghiện chất ma túy khác (Opiod…).
  • Việc tái nghiện vẫn rất phổ biến vì tác động trên tâm thần của thuốc rất mạnh tăng thêm sau mỗi lần dùng => “đói chất ma túy trường diễn” trong não.
  • Điều trị hội chứng cai và chống tái nghiện cần phải phối hợp nhiều liệu pháp: hóa dược, tâm l‎ý cá nhân, gia đình, nhóm, lao động, tái thích ứng cộng đồng…
  • Cần thiết lập tốt mối quan hệ điều trị sau cai để giúp giải quyết các rối loạn trầm cảm, nhân cách…kéo dài.
  • Điều trị bằng thuốc để giải độc có thể dùng:
  • Chất đồng vận hệ Dopamine như:
    • Amantadine 100mg x 2 lần/ngày…
    • Bromocriptine 2,5mg x 2 lần/ngày…
  • Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
  • Các thuốc chỉnh khí sắc; carbamazepine…

  1. ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
  • Các rối loạn, loạn thần sẽ thoái triển một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụng APT.
  • Rối loạn, loạn thần nặng có thể dùng các thuốc đặc hiệu: các ATK (Haloperiol, Phenothianol,…)
  • Thuốc giải lo âu: Benzodiazepine… thường cần sử dụng trong một thời gian ngắn (7 ngày).

  1. ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM, Ủ RŨ:

Cân nhắc chọn loại thuốc chống trầm cảm (có thể dùng chống trầm cảm 3 vòng).

  • Có thể dùng từ giai đoạn điều trị giải độc
  • Cân nhắc điều trị duy trì nếu kéo dài.

  1. PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN CỘNG ĐỒNG:

4.1. Các quy tắc giảm nguy cơ (tác hại):

  • Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”
  • Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.
  • Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

4.2. Giảm nguy cơ, các nấc thang mục tiêu:

  • Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:
    • Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).
    • Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).
    • Không tiêm chích ma túy
    • Nếu tiêm chích, không chích chung.
    • Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

4.3. Giảm nguy cơ/ giảm tác hại:


Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

  • Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).
  • Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).
  • Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

4.4. Các chiến lược giảm tác hại cụ thể:

  • Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:
    • Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).
    • Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).
    • Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).
  • Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:
    • Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.
    • Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.
    • Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

4.5.Chương trình giảm tác hại cho người sử dụng chất kích thích:

  • Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:
    • Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng đồng
    • Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp
  • Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại
    • Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích
  • Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấnxét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.
  • Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

4.6. Các giải pháp khác:

  • Khuyến nghị:
    • Củng cố luật pháp
    • Giải quyết bạo lực gia đình
    • Vấn đề y tế công cộng STD/HIV
    • Phúc lợi cho trẻ em
    • Các bệnh nhiễm trùng
    • Lạm dụng chất gây nghiện
    • Sức khỏe tâm thần
    • Đào tạo cán bộ điều trị
    • Giáo dục
    • Thông tin đại chúng

XI. TÓM TẮT

  • Sử dụng ATS theo đường nuốt là đường dùng phổ biến nhất tại Việt Nam và đang gia tăng
  • Hãy duy trì đường sử dụng như vậy
  • Can thiệp sớm và dự phòng
  • Nguy cơ tiêm chích có thể giảm nếu tiếp cận được các dụng cụ để hút (dự phòng Viêm gan B, C, HIV).
  • Giảm nguy cơ tình dục không an toàn
  • Dự phòng sử dụng gây loạn thần.

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY


Việc sử dụng ma túy ở thanh - thiếu niên liên quan với các yếu tố phức tạp về xã hội, gia đình, bản thân của đối tượng và biến đổi theo từng trường hợp. Các yếu tố trên tạo thành hệ thống tác động trên người bệnh và hậu quả việc sử dụng các chất ma túy sẽ tác động trở lại với xã hội, gia đình đối tượng. Do nhữnghậu quả việc sử dụng ma túy ban đầu tác động trở lại trên các nhân tố đã sinh ra nó: Các yếu tố quyết định ban đầu sẽ phát sinh các yếu tố quyết định thứ phát và chúng kết hợp với nhau làm hậu quả càng nặng nề hơn.


Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình, bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức  mang tính đặc thù riêng cho mỗi trường hợp.


Các yếu tố này còn có sự tác động của quá khứ và hiện tại, của các thực tế bên trong  bên ngoài.


Các xung đột nội tâm và  xung  đột trong quan hệ hiện tại của đối tượng với gia đình - xã hội có thể kéo dài từ thời thơ ấu.


Các chấn thương hiện tại nhắc lại các chấn thương của quá khứ.


Các sự kiện bên ngoài tác động các lo sợ bên trong là bị gạt bỏ, bị bỏ rơi, cám dỗ hay bị hủy diệt trong suy nghĩ đầy huyễn tưởng của đối tượng.


Quá trình nghiện ma túy là một tổng hợp phức tạp. Những yếu tố bất lợi bên ngoài (gia đình - xã hội) làm trầm trọng thêm và gây hậu quả xấu về hành vi tâm lý của đối tượng.


Tại gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng, đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.


Ngoài xã hội, dễ có định kiếnkhinh rẻ gạt ra bên lề. Nếu có giúp đỡ thì thường mang tính kinh điển, giáo điều.


Những tác động này góp phần làm công tác phòng chống ma túy trở thành đơn điệu - cứng nhắc, khó động viên giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy.



A/ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ẢNH HƯỞNG VÀO VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

I. SỬ DỤNG MA TÚY DO CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI:

Tuổi, giới, nguồn gốc dân số, nơi nguồn gốc xã hội, hoàn cảnh học tập hay nghề nghiệp và ảnh hưởng của bạn bè đều có liên quan đến việc sử dụng ma túy ở thanh thiếu niên.


1. TUỔI:

Việc dùng rượu và các chất ma túy bất hợp pháp phụ thuộc rất nhiều vào lứa tuổiHiếm gặp ở trẻ em rồi tần suất sử dụng tăng lên trong tuổi thanh thiếu niênđạt mức cao giữa khoảng 18 đến 28 tuổi và sau đó giảm khá đột ngột.


2. GIỚI TÍNH:

Nói chung tỷ lệ ở con trai cao hơn ở con gái về sử dụng các chất ma túy. Độ chênh lệch giữa hai giới tăng lên theo lứa tuổi. Tại Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa, số học viên vào cai nghiện tỷ lệ nghiện Heroine giữa Nam và Nữ chênh lệch khá cao: Bình quân là 90% ở Nam và 10% ở Nữ.


3. NGUỒN GỐC SẮC TỘC:

Các nghiên cứu dịch tễ học thực hiện tại Mỹ cho thấy sự khác nhau về sắc tộc trong phân bố sử dụng các chất ma túy. Khó giải thích các kết quả này vì còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau về xã hội, kinh tế và văn hóa, chính trị của mỗi sắc tộc.


4. NƠI Ở:

Các nghiên cứu cho thấy việc dùng các chất ma túy bất hợp pháp thường gặp ở các khu vực thành thị nhiều hơn nông thôn nguy cơ có thể tăng với các thành phố lớn.


Sự khác nhau trong việc sử dụng các chất ma túy bị ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau: Văn hóa, kinh tế, chính trị, pháp luật  địa lý (như là quan hệ gần nơi trồng ma túy, nơi có nguồn sản xuất ma túy hay nơi có đường dây vận chuyển ma túy thuận lợi).


5. NGUỒN GỐC XÃ HỘI:

Đa số các nghiên cứu đều cho thấy mọi tầng lớp xã hội đều liên quan đến nghiện ma túythành phần xã hội không ảnh hưởng rõ đến việc sử dụng ma túycủa thanh - thiếu niên. Không có mối quan hệ rõ rệt giữa nguồn gốc xã hội và việc sử dụng ma túy. Thống kê cho thấy các tầng lớp sung túc thường sử dụng các chất ma túy đắt tiền và tầng lớp nghèo khó thường sử dụng các chất có giá rẻ hơn.


6. HOÀN CẢNH TRƯỜNG HỌC HAY NGHỀ NGHIỆP:

Trường học có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Môi trường học: Vô kỷ luật, giáo viên dạy không hiệu quả, học trò gây rối, không có sự động viên thi đua, thường tần suất sử dụng ma túy lớn hơn.


Các thanh niên đang giai đoạn tập sự, thường có các khó khăn lớn về xã hội và bản thân hơn là các thanh niên đang làm việc nên sử dụng nhiều hơn các loại ma túy: say rượu nhiều hơn, tiêu thụ các chất ma túy thường xuyên hơn. Số người làm việc bằng trí óc và giới kinh doanh thường sử dụng các thuốc chống mất ngủ hoặc thuốc chống căng thẳng thần kinh.


7. ẢNH HƯỞNG CỦA BẠN BÈ:

Các yếu tố bạn bè đã liên quan đến việc sử dụng các chất ma túyBa yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy là: Sự thúc bách phải sử dụng ma túy, các thái độ đối với ma túy và sử dụng ma túy bởi bạn bè.


Nghiên cứu của NIDA cho thấy số người sử dụng ma túy giảm rõ rệt, do có phong trào rất nhiều học sinh trong trường bài xích, phê phán việc sử dụng ma túy kịch liệt.


Có sự liên quan chặt chẽ việc sử dụng ma túy do bạn bè: Đối tượng thường bắt đầu sử dụng ma túy là do ảnh hưởng của một bạn thân hơn là do đề nghị của một người xa lạ. Các nghiên cứu cho thấy việc bạn bè sử dụng ma túy dễ dẫn thanh - thiếu niên đến việc sử dụng ma túy cho chính mình. Một theo dõi một số thanh - thiếu niên lúc đầu không sử dụng rượu cho thấy dần dần việc sử dụng trở nên đều đặn trong các lần gặp gỡ bạn bè hay sử dụng rượu sau đó và việc sử dụng ma túy cũng có kết quả tương tự.


Ảnh hưởng của bạn bè chủ yếu là do bắt chước, tự ái hoặc do bị khiêu khích. Sử dụng các chất ma túy và sự buông thả của thanh thiếu niên có tác động lẫn nhau: Một người nghiện ma túy có khuynh hướng kết bạn với các bạn bè cũng sử dụng ma túy thì việc sử dụng ma túy càng ngày càng tăng liều và càng trầm trọng hơn.


Các yếu tố khác như việc đối tượng gặp khó khăn trong học tập so với bạn bè cùng lớp.


* Các thanh - thiếu niên thường xuyên hoạt động nhóm nhưng không được giám sát và không có định hướng theo một mục đích thường sử dụng rượu  ma túy nhiều hơn. Trong khi đó các thanh - thiếu niên tham gia các hoạt động nhóm  giám sát  và  định hướng theo một mục đích thường ít sử dụng rượu và ma túy hơn.


Bạn thân  gia đình là yếu tố có thể làm giảm ảnh hưởng của các bạn bè khác.


* Cha mẹ có thể làm giảm ảnh hưởng của bạn bè có sử dụng ma túy. Việc dùng ma túy thường gặp nhiều hơn khi cả cha mẹ và bạn bè đều sử dụng ma túy.


Ảnh hưởng của bạn bè tăng khi đối tượng quan hệ với bạn bè nhiều hơn là với cha mẹ. Người sử dụng ma túy thường ít quan hệ với người lớn và kết bạn nhiều hơn với số cùng lứa tuổi.


Các nhìn nhận, đánh giá liên quan đến rượu, lạm dụng ma túy và các hành vi lệch lạc thường tăng lên sự bất đồng do cách nhìn nhận khác nhau về cuộc sống giữa cha mẹ và bạn bè với đối tượng. Đối tượng sử dụng ma túy dễ tin vào lời khuyên của bạn bè xấu hơn lời khuyên của cha mẹ.



II. SỬ DỤNG MA TÚY DO CÁC YẾU TỐ GIA ĐÌNH:

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: Việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của chamẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối cha mẹ con cái là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhauRối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng đến tới toàn bộ các yếu tố khác.Việc dùng ma túy của thanh - thiếu niên cũng có thể là do thái độ phản ứng lại cách nhìn nhận - đối xử của cha mẹ mà đối tượng không đồng ý.


1. GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY:

Không ít trường hợp gia đình có hơn hai người sử dụng hoặc buôn bán ma túy cùng lúc. Đây là một vấn đề rất khó khăn cho công tác điều trị khi rời Trung tâm về. Khả năng tái nghiện là hầu như chắc chắn.


Trong gia đình nếu có hơn hai anh chị em nghiện ma túy mà chỉ có một người chịu cai nghiện thì việc phục hồi rất khó khăn.


Trường hợp này phải:

  • - Xem xét hoàn cảnh gia đình đối tượng cùng những ảnh hưởng của nó tới cơ hội phục hồi của đối tượng.

  • Động viên tất cả những thành viên trong gia đình, nhất là những người có nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của đối tượng.

  • - Phải tính đến một môi trường khác, nếu trở về gia đình việc chống tái nghiện bị đe dọa.


2. CHA MẸ SỬ DỤNG MA TÚY:

Khi cha hoặc mẹ sử dụng ma túy, việc cai nghiện của đối tượng vô cùng khó khăn: nhân tố bảo vệ đã mất một hoặc cả haiCha mẹ nghiện thì không thể giúp đỡ về tình cảmcũng như đạo đức cho con mình.


    Trường hợp này phải:

  • Nói rõ với cha mẹ: nếu muốn con cái họ từ bỏ được ma túy, trước tiên họ phải cai nghiện.

  • - Nếu không tạo được môi trường gia đình tốt cho đối tượng, thì khi đối tượng về cần nghĩ đến việc để đối tượng sống với những người thân khác.


* Các nghiên cứu về các chất ma túy cho thấy các bà mẹ (chứ không phải các ông bốsử dụng ma túy thì con cái thường dùng các chất ma túy nhiều hơn các đối tượng có mẹ không dùng ma túy.

* Các yếu tố khác có thể tăng nguy cơ sử dụng ma túy ở con cái các người nghiện rượu, nghiện ma túy hoặc do bị ngược đãi về cơ thể hay bị lạm dụng tình dục hoặc bị bỏ rơi.


3. HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH QUÁ KHÓ KHĂN VỀ KINH TẾ:

Người nghiện ma túy thuộc thành phần nghèo khó thường cha mẹ ít quan tâm đến việc điều trị cho con cái. Họ phó mặc tất cả cho Nhà nước hoặc các Trung tâm Cai nghiện và dễ dàng bỏ điều trị ngay khi con cái họ có yêu cầu.


Trường hợp này cần giải thích với gia đình người nghiện về những tác hại và lợi ích của việc cai nghiện nhằm mục đích lôi kéo sự tham gia của gia đình vào việc điều trị. Gia đình phải được thường xuyên thông báo tiến trình điều trị của đối tượng nhằm kích thích sự quan tâm của gia đình đối với con cái.


Nếu có điều kiện kêu gọi sự hỗ trợ của xã hội giúp đỡ họ bằng những biện pháp cụ thể, để họ có thể tiếp tục thực hiện những yêu cầu điều trị.


4. THÁI ĐỘ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CÁI NGHIỆN MA TÚY:

Một số gia đình khi biết con cái nghiện ma túy thường có cảm giác bất lực, xấu hổ, thất bại, thiếu bổn phận và rất ngại để lộ vấn đề này ra ngoài gia đình, một số khác không nhận thức được mức độ trầm trọng của việc nghiện ma túy. Vì những suy nghĩ này, cha mẹ không có hành động thích hợp bằng cách chỉ cho con cái họ điều trị ngay tại gia đình thay vì đưa đến các Trung tâm Cai nghiện.

Trong trường hợp này, cần tư vấn, giúp đỡ cho các bậc cha mẹ hiểu rõ tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy nếu để tình trạng nghiện ngập con em họ kéo dài, sẽ càng thêm tác hại và càng làm gia đình họ thêm tan nát.


5. TÂM BỆNH LÝ CỦA CHA MẸ:

Các đối tượng nào có cha hay mẹ mắc bệnh tâm trí thường có khuynh hướng sử dụng ma túy nhiều hơn người khác. Trường hợp cha mẹ bị trầm nhược thì có tăng nguy cơ con cái dễ sử dụng các chất ma túy.


6. SỰ ĐỔ VỠ CỦA GIA ĐÌNH:

  • - Sự phân ly gia đình do có người thân mất, ly thân hay ly dị là một yếu tố nguy cơ cho việc lạm dụng ma túy ở thanh - thiếu niên.


  • - Một số đối tượng đã nghiện ma túy do những tổn thương tình cảm phát sinh từ gia đình, do đổ vỡ của cha mẹ. Việc cha mẹ chia tay thường đi kèm những bất hòa, xích mích tác động vào đối tượng.


  • - Một hậu quả của những gia đình tan vỡ là sự buông lỏng kỷ luật trong gia đìnhkhiến cho đối tượng vượt ra khỏi tầm quản lý của cha mẹ.


  • - Có những trường hợp đối tượng đã sử dụng ma túy như một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc hôn nhân của cha mẹ bằng cách nghiện để buộc cha mẹ thôi bất hòa nhau mà quan tâm đến đối tượng hơn.


  • - Ảnh hưởng của việc gia đình tan vỡ đối với vấn đề lạm dụng ma túy của đối tượng cần phải được giải quyết suốt trong quá trình điều trị. Nhân viên tư vấn cố gắng giúp đối tượng chấp nhận vấn đề và phải trang bị cho đối tượng những tư tưởng ổn định khi rời Trung tâm Cai nghiện về sống với một trong hai người. Việc sử dụng ma túy gặp nhiều lần hơn trong các gia đình bị tan vỡ. Nghiên cứu của Stocker & Swadi (1989) thấy 21% thanh - thiếu niên sử dụng ma túy có cha mẹ chết, 47% có cha mẹ ly thân.


7. GIA ĐÌNH KHÔNG HÒA THUẬN:

  • - Sự bất hòa của cha mẹ liên quan đến việc dùng ma túy ở tuổi thanh - thiếu niên. Sự liên quan không tốt giữa cha mẹ làm tăng việc sử dụng ma túytrong thanh - thiếu niên. Qua nghiên cứu cho thấy cha mẹ cãi nhau con cái thường sử dụng ma túy nhiều hơn các gia đình hòa thuận.


  • -  Một người nghiện ma túy thường gây nên những đổ nát trong gia đình. Sau bao năm cố gắng chung sống và chịu đựng với người nghiện, gia đình luôn luôn sống trong tình tạng bất hòa, xáo trộn nhiều mặt. Nếu gia đình trước đó đã gặp khó khăn, tình trạng nghiện của đối tượng càng làm cho gia đình trở nên tồi tệ hơn.


  • -  Một gia đình bất hòa sẽ khó lòng nhất trí với Trung tâm biện pháp cai nghiện cho đối tượng. Các thành viên quan trọng trong gia đình này thường có những quyết định mâu thuẫn nhau làm cho chương trình điều trị bị phá hoại, săn sóc hậu cai không thực hiện được.


  • - Trong một số trường hợp khác nữa, người nghiện bị giằng co giữa các thế lực trong gia đình và họ thường lợi dụng khe hở này để bỏ dở việc điều trị.Với các gia đình này, nhân viên tư vấn phải:

  • + Thông qua người cai nghiện, người điều trị phải nắm được một cách sâu sắc động cơ gây ra bất hòa trong gia đình họVấn đề sau đó là giúp đối tượng thoát ra khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh từ phía gia đình không ổn định của mình.

  • + Tìm ra người có ảnh hưởng lớn nhất trong gia đình, hướng họ đến cộng tác với chương trình điều trị như một trợ thủ cho Trung tâm.


8. CÁC MỐI QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI:

8.1 PHONG CÁCH GIÁO DỤC:

  • - Có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm tra của gia đình: các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi , việc học tập của họ.

  • - Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn.

  • - Sự lơ là trong tình cảm của cha mẹ cũng dễ dẫn con cái tới việc sử dụng ma túy.


8.2 CÁC MỐI QUAN HỆ TÌNH CẢM:

  • - Quan hệ xung đột ở cha mẹ luôn ảnh hưởng lớn đến số thanh - thiếu niên sử dụng ma túy.

  • -  Sự thương yêu giữa cha mẹ giảm việc dùng ma túy ở thanh - thiếu niên. Trong nghiên cứu của Bob và CTV (1990), 43% thanh thiếu niên hút ma túy không cảm thấy được cha mẹ yêu mến nhiều”.

  • -  Các hậu quả của các mối quan hệ với cha và mẹ qua tổng kết cho thấy rằng sự thiếu thốn tình cảm thân thiết với cha ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy, mối quan hệ nồng ấm với cha làm giảm việc sử dụng các chất ma túyTrong nghiên cứu của Mellinger và CTV (1975), các thanh niên sinh viên không sử dụng ma túy cảm thấy gần gũi với cha họ hơn và ít xung đột với cha.

  • - Việc nuông chiều của người mẹ liên quan tới các nguy cơ sau này của việc dùng thuốc lá, rượu và ma túy. Sự nuông chiều của cha mẹ với thanh thiếu niên tạo điều kiện xấu cho việc sử dụng ma túy.


9. CÁC HÀNH HẠ VỀ CƠ THỂ VÀ TÌNH DỤC:

Các hành hạ về thể xác và tình dục thường kết hợp với lạm dụng và lệ thuộc ma túy của thanh - thiếu niên. Trong nghiên cứu của Edwad và CTV (1989), 597 thanh thiếu niên được điều trị vì lạm dụng ma túy, tự khai là nạn nhân của các vụ hành hạ tình dục trong và ngoài gia đình: 7,2% trường hợp bị hành hạ trong gia đình 7,9% trượng hợp bị hành hạ tình dục ngoài gia đình.


Các thanh thiếu niên nghiện ma túy nạn nhân của các hành hạ tình dụcbiểu hiện các rối loạn tâm bệnh lý nặng hơn đặc biệt một tần suất lớn hơn về các hành vi tự sát: ý định tự sát đã được thực hiện trên 56,5% nạn nhân của loạn luân, 35,7% nạn nhân của tệ hành hạ tình dục trong gia đình, so với 20,4% số thanh thiếu niên nghiện ma túy không phải là nạn nhân của các hành hạ tình dục.



III. CÁC YẾU TỐ BẢN THÂN:

Sự ham muốn các chất kích thíchnhân cách lúc còn nhỏ và nhân cách khi trưởng thành ảnh hưởng lớn đến các quyết định sử dụng ma túy của đối tượng.


1. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CÁC CHẤT MA TÚY:

Sau khi nghiên cứu số học sinh sử dụng ma túy, cho thấy: đa số học sinh trung học thừa nhận sử dụng đều đặn các chất ma túy là nguy hiểm. Nguy cơ thử sử dụng do sự tin tưởng sai lầm bởi đa số thanh niên tin rằng với ý chí và sức mạnh tính cách của mình có thể thắng được nhu cầu sử dụng chất ma túy sau này.


Sự phát triển các thái độ ham muốn gắn liền với việc cha mẹ thiếu giáo dục kỹ cho con cái cách phòng bệnh và đối phó với tác hại của các chất ma túy.


Các ảnh hưởng không tốt của xã hội, bản chất của đối tượng dễ xúc cảm, lòng tự tin và trầm nhược lo lắng ở mức độ cao cũng như do cha mẹ thiếu giáo dục kỹ cho con cái tác hại của các chất ma túy cũng như giáo dục con cái tự bảo vệ sức khỏe - an toàn trong quan hệ tình dục dễ dẫn đối tượng đến sử dụng ma túy.


2. NHÂN CÁCH BẢN THÂN:

2.1 LÚC TRẺ:

Một vài nghiên cứu đã tìm hiểu nguyên nhân dẫn thanh - thiếu niên tới việc sử dụng ma túysự ưa tìm cái mới, không quan tâm đối với thành tích học tập,tính ngang bướng và hung bạo dẫn đến dùng ma túy và làm tăng xác suất liên can ngày càng sâu vào việc sử dụng ma túy, nhân cách ở tuổi trẻ là trung gian của các nét nhân cách ở tuổi thanh niên tiếp nối.


2.2 LÚC TRƯỞNG THÀNH:

Các nghiên cứu có hệ thống đã nêu rõ vai trò nhân cách trong việc sử dụng ma túy ở tuổi Thanh - Thiếu niên: sự ưa tìm cái mới, sự tìm kiếm quá đáng các cảm giác mới, các khó khăn trong tự chủ về cảm xúc và tính xung động, nỗi đau về tâm lý, sự thiếu hụt lòng tin, lòng tự chủ và các kỹ năng giao tiếp xã hội dẫn đến việc sử dụng ma túy của thanh - thiếu niên.


Một số yếu tố khác dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy: ngang bướng hơn, ưa thể hiện hơn các hành vi lập dị, đòi hỏi sự độc lập, thiếu trách nhiệm, ít quan tâm và ít tham vọng học tập là những yếu tố báo trước việc sử dụng ma túy.


Việc tìm các cảm giác mạnh, cảm giác hưng phấn, hành vi ưa  mạo hiểmhay thiếu tự chủ về cảm xúc, tính tình chưa thuần thục, tính xung đột, tính hung bạo, tâm lý như lo hãi, khí chất trầm nhược và thiếu tự tin, không có bản lĩnh tự làm chủ và các khả năng thích ứng, các cảm giác bất lực và thiếu sót dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy của thanh - thiếu niên.


Các khảo sát cho thấy đối tượng không dùng ma túy có một bản lĩnh và các đáp ứng thích nghi tốt hơn so với các đối tượng sử dụng ma túy.


Các đối tượng hay rụt rè và bị ức chế về xã hội có nhiều nguy cơ sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp hơn những người khác.


Ngoài ra những nỗi đau về tâm lý, các khó khăn trong điều chỉnh các cảm xúc của cá nhân và các khó khăn trong các quan hệ cũng như dự báo việc sử dụng ma túy sớm cũng như sự gia tăng sử dụng ma túy sau này.


B. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

I. NGUYÊN NHÂN:

Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình, bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức và mang tính đặc thù riêng cho mỗi trường hợp.


  • - Các yếu tố này còn có sự tác động của quá khứhiện tại, của các thực tế bên trong và bên ngoài.

  • - Các xung đột nội tâmxung đột trong quan hệ hiện tại của đối tượng với gia đình - xã hội có thể kéo dài từ thời thơ ấu.

  • - Các chấn thương hiện tại nhắc lại các chấn thương của quá khứ.

  • - Các sự kiện bên ngoài tác động các lo sợ bên trong là bị gạt bỏ, bị bỏ rơi, cám dỗ hay bị hủy diệt trong suy nghĩ đầy huyễn tưởng của đối tượng.

  • - Quá trình nghiện ma túy là một tổng hợp phức tạp. Những yếu tố bất lợi bên ngoài (gia đình - xã hội) làm trầm trọng thêmgây hậu quả xấu về hành vi tâm lý của đối tượng.


Tại gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng, đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.


Ngoài xã hội, dễ có định kiến, khinh rẻ gạt ra bên lề. Nếu có giúp đỡ thì thường mang tính kinh điển, giáo điều.


Những tác động này góp phần làm công tác phòng chống ma túy trở thành đơn điệu - cứng nhắc, khó động viên giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy.


II. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:

nhiều yếu tố nguy cơ đưa đẩy một người đến tình trạng nghiện ngập, nhưng cũng có nhiều tác nhân bảo vệ giúp một người không bao giờ sử dụng ma túy hoặc đã lạm dụng mà thoát ra được. Trong một gia đình có nhiều người con nhưng chỉ có một người nghiện, còn những người khác thành đạt. Trong trường hợp này, yếu tố gia đình không phải là yếu tố nguy cơ của người nghiện mà trái lại, đây là một yếu tố bảo vệ.


Ngoài ra, phải tìm hiểu những yếu tố nguy cơ khác thuộc về nội tâm, cũng như các quan hệ cá nhân của đối tượng. Đối với một người nghiện, có rất nhiều yếu tố bảo vệ cũng như những yếu tố nguy cơ tác động xen kẽ vào nhau trước khi dẫn đến tình trạng lạm dụng ma túy. Nếu yếu tố nguy cơ càng cao trong lúc yếu tố bảo vệ kém, người ta dễ bị đưa đến trình trạng lạm dụng ma túy với những mức độ nặng nhẹ khác nhau tuỳ thuộc hai yếu tố trên.


Trong hai loại yếu tố trên, việc cân nhắc hai phía, kinh nghiệm cho thấy các yếu tố nguy cơ có khả năng lôi kéo mạnh mẽ hơn đối với việc sử dụng ma túy. Ví dụ một người có tiền sử nghiện sẽ rất dễ tái nghiện nếu đối tượng ở trong một môi trường ma túy sẵn sàng, cho dù có nhiều yếu tố bảo vệ giúp đỡ đối tượng. Một người phải đương đầu với quá nhiều yếu tố nguy cơ thì đối tượng càng dễ lạm dụng ma túy, mặc dù các yếu tố bảo vệ có thể giúp anh ta ngăn chặn, hạn chế việc sử dụng ấy. Nếu chúng ta biếtcó nhiều dữ liệu về người nghiện, chúng ta có thể dự đoán đối tượng có thể dễ dàng thoát khỏi ma tuý hay không.


hai nhóm tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc lạm dụng ma túy:


1. ĐẶC ĐIỂM NỘI TÂM:

Một người với nội tâm bất thường, sẽ có những nhận thức thất thường dẫn đến những biểu hiện qua hành vi. Các nghiên cứu tâm lý cho thấy đặc điểm bất thường nội tâm bao gồm các yếu tố sau:


  • - Khát vọng học tập: Những học sinh gắn bó với học tập thì ít sử dụng ma túy hơn so với nhóm học sinh lười học. Khát vọng học tập là một yếu tố bảo vệ mạnh, song không phải luôn luôn như vậy. Một học sinh rất ham học nhưng kém may mắn trong thi cử hoặc có thể bị giáo viên ghét bỏ thì việc học tập trở thành nặng nề với anh ta. Vì khát khao học tập mà đối tượng có thể trở nên bất mãn, chán đời rồi tự tìm lối thoát.


  • - Khát vọng vươn lên trong cuộc sống để tự khẳng định mình, khi nó suôn sẻ sẽ tạo nên hưng phấn. Song một khi cá nhân thất bại, sẽ dễ dàng sợ hãi, thất vọng với thực tại và sẽ tìm lối thoát, thường là rượu hoặc ma túy.


  • - Lý tưởng và tín ngưỡng là yếu tố bảo vệ. Những tín đồ tốt luôn luôn tránh xa ma túy.


  • - Cuộc sống không mục đích, không biết phải làm gì, thích hưởng thụ vui chơi là một yếu tố nội tâm rất nguy hiểm. Một tình trạng lãnh đạm, bi quan cũng là một yếu tố nguy cơ, nhất là khi nó phối hợp với những triệu chứng tâm thần.


  • - Tâm hồn nổi loạn, ưa thích những chuyện trái với thuần phong mỹ tục, xu hướng có những hành vi vô luân thường được coi là một nguyên nhân (đồng thời cũng là hậu quả) của việc lạm dụng ma túy.


  • - Nội tâm thiếu tự chủ, thiếu tự trọng cũng là yếu tố nguy cơ, trong khi sự tự chủ, tự trọng là yếu tố bảo vệ.


  • - Tâm hồn cô độc, xung khắc với mọi người, luôn buồn chánbất mãn với tất cả, dễ là nạn nhân của ma túy.


2. MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN:

Tuỳ thuộc hoàn cảnh mỗi người, mối quan hệ cá nhân có thể là những yếu tố bảo vệ cũng có thể là những nguy cơ rõ nét:

  • - Thái độ và hành vi của cha mẹ: Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái dễ là tiền đề cho sự nghiện ngập của con cái.


  • - Trình trạng nghiện ngập của bạn bè gây nguy cơ ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy của nhóm. Ngược lại, bạn bè sống mẫu mực lại là yếu tố bảo vệ cho cả nhóm.


  • - Thái độ của xã hội, của cộng đồng đối với ma túy ảnh hưởng mạnh đến việc sử dụng ma túy. Nếu tất cả mọi gia đình đều quyết tâm chống ma túy, chắc chắn sẽ giảm được số lượng ngưởi sử dụng ma túy.


  • - Một nền văn hoá chống ma túy luôn gây ảnh hưởng tốt đối với nhân dân trong việc phòng chống ma túy.


III. KẾT LUẬN:

Những yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ việc sử dụng ma túy của thanh thiếu niên bao gồm các yếu tố chủ yếu như sau:

1. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ:

  • - Trình độ học vấn, mức độ nhận thức.

  • - Ý thức tuân thủ Luật pháp.

  • - Lý tưởng - Tín ngưỡng.

  • Có sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.

  • Sự tự bằng lòng với chính mình.

  • - Gia đình hoà thuận - có điều kiện tiến lên.

  • - Quan điểm dứt khoát với ma túy


2. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ:

Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.

  • - Môi trường sống có trắc trở, khó khăn quá sức

  • - Môi trường sống có nhiều tệ nạn xã hội.

  • - Bạn bè hoặc quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.

  • - Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái.

  • - Thiếu sự giúp đỡ từ cộng đồng và người có trình độ bản lĩnh

  • - Môi trường sẵn có ma túy


Bằng phép suy luận và qua kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta thấy đối tượng được tiếp xúc với càng nhiều yếu tố bảo vệ, giảm thiểu các yếu tố nguy cơ sẽ tạo điều kiện cai nghiện thuận lợi cho đối tượng.


Để có cơ sở định hướng trong điều trị và giáo dục phải biết được nguyên nhân dẫn đối tượng đến việc sử dụng ma túy - phải điều tra đầy đủ cuộc sống của đối tượng, từ gia đình, môi trường sống đến bản thân người nghiện và ta phải thiết lập được chân dung - những yếu tố bảo vệnhững yếu tố nguy cơ của đối tượng.


Ngoài yếu tố giáo dục phải củng cố, phát huy các yếu tố bảo vệ, làm giảm nhẹ các yếu tố nguy cơ và giúp cho đối tượng các kỹ năng để vượt qua những đe dọa lôi kéo anh ta trở về con đường cũ.


Các Thanh - Thiếu niên thường xuyên hoạt động nhóm nhưng không được giám sátkhông có định hướng theo một mục đích thường sử dụng rượu và ma túy nhiều hơn.

Trong khi đó các Thanh - Thiếu niên tham gia các hoạt động nhóm có giám sát và có định hướng theo một mục đích thường ít sử dụng rượu và ma túy hơn.

 

Việc tìm các cảm giác mạnh, cảm giác hưng phấn, hay thiếu tự chủ về cảm xúc, tính tình chưa thuần thục, tính xung đột, tính hung bạo, tâm lý như lo hãi, khí chất trầm nhượcthiếu tự tin, không có bản lĩnh tự làm chủ và các khả năng thích ứng, các cảm giác bất lựcthiếu sót dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy của Thanh - Thiếu niên.

 

Trường học có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Môi trường học: Vô kỷ luật, giáo viên dạy không hiệu quả, học trò gây rối, không có sự động viên thi đua, thường tần suất sử dụng ma túy lớn hơn.

 

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: Việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của cha mẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối quan hệ cha mẹ và con cái là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Rối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng đến tới toàn bộ các yếu tố khác.

 

  • - Có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm tra của gia đình: các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi, việc học tập của họ.

  • - Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn.

 

*Cha mẹ ly dị, ly thân, bất hòa dễ dẫn đến việc dùng ma túy của con cái. Qua nghiên cứu cho thấy cha mẹ cãi nhau con cái thường sử dụng ma túy nhiều hơn các gia đình hòa thuận.


CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ ĐỂ THANH - THIẾU NIÊN TRÁNH XA ĐƯỢC MA TÚY:

    - Trình độ học vấn, mức độ nhận thức

  • - Ý thức tuân thủ Luật pháp.

  • - Lý tưởng - Tín ngưỡng.

  • - Có sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.

  • - Sự tự bằng lòng với chính mình.

  • - Gia đình hòa thuận - có điều kiện tiến lên.

  • - Quan điểm dứt khoát với ma túy.


CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ DỄ DẪN THANH - THIẾU NIÊN ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:

    - Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.

  • - Môi trường sống có trắc trở, khó khăn quá sức.

  • - Môi trường sống có nhiều tệ nạn xã hội.

  • - Có bạn bè hoặc có quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.

  • - Có cha mẹ sử dụng ma túy.

  • - Gia đình bất hòa.

  • - Môi trường sẵn có ma túy.

 

CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


Nghiện ma túy là một bệnh não mãn tính - khó chữa có đặc tính là dễ tái nghiện. Điều trị nghiện ma túy đòi hỏi phải kiên nhẫn, có một liệu pháp tổng hợpđồng bộ, xuyên suốt, khép kín, linh hoạt, kịp thời.


Cai nghiện được gọi là thành công không chỉ nhằm vào mục tiêu người nghiện không tái sử dụng ma túy mà còn đòi hỏi đối tượng phải có một lối sống điều độ, tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp và thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức.


A/ BỐN VẤN ĐỀ CHÍNH CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT TRÊN ĐỐI TƯỢNG NGHIỆN MA TÚY:

1/ TỔN THƯƠNG HỆ THỐNG NÃO BỘ VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÂM THẦN CỦA NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Não bộ là nơi tiếp nhận thông tin, phân tích, tổng hợp, ra quyết định và tập trung ý chí. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện biểu hiện qua các rối nhiễu tâm lý thực tổn, trạng thái nhiễm độc, lú lẫn tâm trí, phản ứng loạn tâm thần, trạng thái hưng trầm nhược, giảm khả năng xét đoán, xử lý thông tin, mất ý chí, mất khả năng tự chủ, biểu hiện lo lắng và hội chứng hồi tương dẫn người nghiện luôn nghĩ đến và thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó. Càng sử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng cao thì những tổn thương càng nặng nề bấy nhiêu.


2/ RỐI LOẠN VÀ XUỐNG CẤP NHẬN THỨC - HÀNH VI - NHÂN CÁCH:

Sau một thời gian sử dụng ma túy, người nghiện sẽ hình thành nhiều thói quen xấu - người nghiện không đủ nhận thức cũng như không đủ nghị lực để sống một cách trong sạch, lành mạnh. Người nghiện mất dần kỹ năng tư duy và làm việc, suốt ngày chỉ loay hoay làm thế nào phải có tiền để mua ma túy, do đó người nghiện sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp hậu quả của việc làm đó để đạt mục đích. Về mặt tinh thần, sức khỏe, nghề nghiệp, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội có thể suy sụp đến mức làm sự điều trị, phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.


3/ NGHIỆN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ MỘT HÀNH ĐỘNG NHẤT THỜI MÀ LÀ MỘT QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN PHỨC TẠP NỘI TÂM cũng như BỐI CẢNH ĐA PHƯƠNG DIỆN của bản thân, gia đình và xã hội. Đây là một trong những vấn đề cốt lõi dẫn người nghiện đến với ma túy. Do đó nếu không giải quyết được triệt để những vấn đề này, người nghiện sau khi cai nghiện trở về sẽ rất dễ tái nghiện.


4/ VẤN ĐỀ SỬ DỤNG MA TÚY:

Người nghiện ma túy hầu hết đều ở trong tình trạng đói ma túy trường diễn, kể cả sau khi cai nghiện. Hội chứng hồi tưởng, chấn thương tâm lý, tổn thương não bộ, rối loạn hành vi nhân cách rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái sử dụng ma túy. Do người nghiện ma túy, nếu thiếu ma túy thì chỉ sau 8 - 12 giờ sẽ phát sinh hội chứng cai với tất cả sự đau nhức, hành hạ thân xác và tinh thần nên bằng mọi giá người nghiện phải kiếm đủ tiền để mua ma túy bất chấp hậu quả việc làm của mình, dễ dẫn đến hành vi phạm pháp của đối tượng.


Bốn vấn đề chính nêu trên tác động qua lại lẫn nhau - chúng vừa là nguyên nhân cũng vừa là hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nếu chúng ta giải quyết không toàn diện và triệt để sẽ dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện.


CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY


B/ ĐỂ GIẢI QUYẾT 04 VẤN ĐỀ NÊU TRÊN, TT Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa đã áp dụng một CHƯƠNG TRÌNH CAI NGHIỆN ĐA DẠNG, TỔNG HỢP, XUYÊN SUỐT, ĐỒNG BỘ, KHÉP KÍN, LINH HOẠT, KỊP THỜI TÙY THUỘC VÀO TỪNG ĐỐI TƯỢNG bao gồm:


1/ CẮT CƠN, GIẢI ĐỘC, NÂNG CAO SỨC KHỎE


Cắt cơn nghiện không phải là điều trị thật sự mà chỉ để tạo tiền đề cho một quá trình cai nghiện lâu dài liên tục.

Điều trị kịp thời các rối loạn và các bệnh Tâm thần kinh - Lao - HIV/AIDS và các bệnh cơ hội cho người nghiện ma túy.


2/ GIÁO DỤC TRỊ LIỆU nhằm giáo dục - gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách cho người nghiện ma túy. Nội dung công tác giáo dục nhằm hai mục đích:


2.1 Nâng cao nhận thức cho học viên: thông qua dạy văn hóa, học tập các chuyên đề bao gồm: Giáo dục công dân + Giáo dục đạo đức + Giáo dục sức khỏe và cộng đồng + Giáo dục pháp luật, an ninh quốc phòng + Giáo dục truyền thống…


2.2 Trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống thông qua các chương trình giáo dục về Tư duy tích cực - Tự chủ quản lý bản thân - Nhận thức các giá trị sống (chương trình được sự hỗ trợ của tổ chức UNESCO và UNICEF của Liên hiệp quốc) - Tâm năng dưỡng sinh: thiền định, tập dưỡng sinh - Sinh hoạt trị liệu - Giải trí trị liệu - Hoạt động trị liệu - Huấn nghiệp trị liệu - Lao động trị liệu - Sản xuất trị liệu. Thực hiện Cộng đồng trị liệu theo phương pháp Daytop (Mỹ) và Môi trường Trị liệu (liệu pháp đặc thù của Trung tâm Thanh Đa) với những tiêu chí cụ thể


Công tác giáo dục là vấn đề cơ bản nhất trong cai nghiện phục hồi nhằm gọt giũa - điều chỉnh - phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách cho người nghiện ma túy. Công tác giáo dục này phải áp dụng cho đối tượng đang được điều trị chống tái nghiện nhóm Opiats bằng thuốc NALTREXONE hay bằng thuốc METHADONE. Nếu không thực hiện tốt công tác này thì chất lượng cai nghiện sẽ thấp và công tác cai nghiện sẽ rất khó thành công.


3/ TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU cá nhân - nhóm - gia đình - Giải quyết khủng hoảng ca… nhằm thấu hiểu những diễn biến phức tap của nội tâm cũng như những bối cảnh tiêu cực liên quan đến cá nhân, gia đình và xã hội.


Từ những cơ sở trên, cán bộ điều trị mới có thể giúp người nghiện nhận thức được bản thân, sửa đổi lỗi lầm, xóa bỏ sự cô độc, mặc cảm, đồng thời thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau, sự cởi mở, vui vẻ với mọi người, định hướng được cuộc sống và hành động cho tương lai.


4/ ĐỂ HỖ TRỢ HỌC VIÊN KHI TRỞ VỀ CỘNG ĐỒNG KHÔNG TÁI SỬ DỤNG MA TÚY, TRUNG TÂM đã TRIỂN KHAI KHOA CHỐNG TÁI NGHIỆN các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc NALTREXONE (là một chất làm MẤT CẢM GIÁC THÈM NHỚ và TÌM KIẾM MA TÚYKẾT HỢP với KỸ NĂNG TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU - GIÁO DỤC TRỊ LIỆU và các LIỆU PHÁP XÃ HỘI. Kết quả khảo sát cho thấy, sau hơn 4 năm, Khoa đã điều trị cho hơn 1000 học viên, HƠN 72% SỐ HỌC VIÊN CHƯA TÁI NGHIỆN, TRÊN 50% HỌC VIÊN NGOẠI TRÚ ĐÃ CÓ VIỆC LÀM ỔN ĐỊNH.


Trong phương pháp này, việc UỐNG THUỐC NALTREXONE là BIỆN PHÁP HỖ TRỢ. Nếu KHÔNG CÓ BIỆN PHÁP TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU - GIÁO DỤC TRỊ LIỆU - CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI THÌ KẾT QUẢ CHỐNG TÁI NGHIỆN SẼ RẤT HẠN CHẾ.


Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện


Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN

VTV9 - MỘT MÔ HÌNH CAI NGHIỆN HIỆU QUẢ

VTV9 - CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

KẾT HỢP ĐIỀU TRỊ THUỐC NALTREXONE VỚI

TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU - GIÁO DỤC TRỊ LIỆU

VÀ CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI

PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN

Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy - Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa


Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được tính trước, khi đối tượng bắt đầu điều trị. Họ được học tậptrang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ. Như vậy một người nghiện đã sa ngã, tái nghiện nhiều lần sẽ có thể thành công trong việc đoạn  tuyệt về ma túy, cũng như một người tập đi xe đạp, leo lên lại té xuống, té mãi, té cho đến khi đi xe đạp được thì thôi.


Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.


Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


Những thay đổi trên khác nhau giữa người này với người khác, song tựu chung thì chúng đều có liên quan đến khía cạnh: thể chất, tâm lý, hành vi, quan hệ cá nhân, quan hệ gia đình, nhận thức và kinh tế.


I/ THẾ NÀO GỌI LÀ ĐÃ PHỤC HỒI THÀNH CÔNG?

Gọi là đã phục hồi thành công khi người nghiện đã:

  • - Từ bỏ ma túy.

  • - Tự quản lý bản thân một cách tốt đẹp.

  • - Có một lối sống điều độ.

  • - Thực hiện thành công sự thay đổi nhận thức.


II/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:

Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quátrình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.


Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.


Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.


Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau: Về hành vi bệnh nhân có những biểu hiện:

  • - Sử dụng những chất gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….

  • - Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.

  • - Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


III/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:

Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.

1/ Về cảm xúc:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấn. Hai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.


2/ Về hành vi:

  • - Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.

  • - Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấu: thấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).


3/ Về nhận thức:

  • - Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.

  • - Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.

  • - Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.


4/ Về môi trường và quan hệ cá nhân:

  • - Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.

  • - Bị áp lực của bạn bè xấu.

  • - Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.

  • - Để thời gian nhàn rỗi quá nhiều.


5/ Về mặt sinh lý học:

  • - Không thắng được cảm giác thèm thuốc.

  • - Có bệnh đau mãn tính.


6/ Về mặt tâm thần, tâm linh:

  • - Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.

  • - Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì


7/ Về Trung tâm cai nghiện:

  • - Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.

  • - Kế hoạch điều trị không thích ứng.

  • - Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


IV/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:

1/ Mục tiêu:

  • - Sử dụng thuốc Naltrexone để bệnh nhân mất dần cảm giác thèm nhớ và tìm kiếm ma tuý.

  • - Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữ tâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.

  • - Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độ không cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.

  • - Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.


2/ Kế hoạch:

  • - Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.

  • - Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.

  • - Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.

  • - Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.

  • - Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực của bạn bè cũ, phe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.

  • - Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.

  • - Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.

  • - Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.

  • - Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.

  • - Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã tái nghiện.


3/ Biện pháp:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được. Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.


Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:

  • + Đúng phương pháp

  • + Đúng thời gian

  • + Đúng thuốc

  • + Đúng người bệnh


Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNHCHỐNG TÁI NGHIỆN sau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạngphức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.


Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trị của đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.


Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì ít, trình độ hiểu biết về ma túy có mặt hạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.


Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

  • + Không tái sử dụng ma túy

  • + Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân

  • + Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức

  • + Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.



Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

 

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

 

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện Tổng quan phương pháp phòng chống tái nghiện

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN NHÓM OMH (OPIATES) (OPIUM – MORPHINE – HÉROINE)

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH
(OPIUM – MORPHINE – HEROINE)


A. MỤC TIÊU:
  • - Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.

  • - Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.

  • - Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C

  • - Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng

  • - Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữ tâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.

  • - Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độ không cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.

  • - Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.


ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM - MORPHINE - HEROIN) (THUỐC PHIỆN - MOCPHIN - HEROINE)
CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủy của Naltrexone  khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của 6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơgây ngủ gà, đờ đẫn, ngủ gật.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng củaMethadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

B. KẾ HOẠCH:

  • - Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.

  • - Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.

  • - Giúp cho bệnh nhân hiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.

  • - Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốc trong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.

  • - Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầu với áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.

  • - Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.

  • -  Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.

  • -  Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.

  • -  Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.

  • -  Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.


C. BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được. Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.


Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:

  • + Đúng phương pháp

  • + Đúng thời gian

  • + Đúng thuốc

  • + Đúng người bệnh


Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆN sau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.


Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trị của đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.


Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặthạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.


Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

  • + Không tái sử dụng ma túy

  • + Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân

  • + Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức

  • + Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.


CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP 
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. CÁCH PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY


Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được vạch định kỹ lưỡng tùy theo từng đối tượng. Họ được học tập và trang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ.

Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.

Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


I/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:


Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quá trình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.

Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.

Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.

Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau:

tái nghiện ma túy

Về hành vi, bệnh nhân có những biểu hiện:

-  Sử dụng những chấy gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….

-  Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.

-  Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


II/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:


Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.

1/ VỀ CẢM XÚC:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấnHai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.

2/ VỀ HÀNH VI:

·         Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.

·         Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấuthấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).

3/ VỀ NHẬN THỨC:

·         Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.

·         Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.

·         Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.

4/ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ QUAN HỆ CÁ NHÂN:

·         Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.

·         Bị áp lực của bạn bè xấu.

·         Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.

·         Để thì thời gian nhàn rỗi quá nhiều.

5/ VỀ MẶT SINH LÝ HỌC:

·         Không thắng được cảm giác thèm thuốc.

·         Có bệnh đau mãn tính.

6/ VỀ MẶT TÂM THẦN, TÂM LINH:

·         Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.

·         Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì

7/ VỀ TRUNG TÂM CAI NGHIỆN:

·         Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.

·         Kế hoạch điều trị không thích ứng.

·         Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


III/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:


1/ PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN:

1.1 MỤC TIÊU:

-   Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.

-   Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.

-   Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C

-   Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng

-   Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữtâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.

-   Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.

-   Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.

ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM * MORPHINE * HEROIN)

(THUỐC PHIỆN * MOCPHIN * HÊ-RÔ-IN)

CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủy của Naltrexone  khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của 6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơgây ngủ gà, đờ đẫn, ngủ gật.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng củaMethadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

1.2/ KẾ HOẠCH:

-      Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.

-      Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơcủa bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.

-      Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.

-      Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.

-      Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.

-      Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.

-      Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.

-      Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.

-      Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.

-      Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.

1.3/ BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được.

Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.

Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:

+ Đúng phương pháp

+ Đúng thời gian

+ Đúng thuốc

+ Đúng người bệnh

Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆNsau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.

Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trịcủa đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặthạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.

Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

+ Không tái sử dụng ma túy

+ Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân

+ Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức

+ Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.

2. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

2.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”

Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.

- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

2.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:

-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).

-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).

-  Không tiêm chích ma túy

-  Nếu tiêm chích, không chích chung.

-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

2.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).

-  Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).

-  Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

2.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:

Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).

Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).

Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).

Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:

- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.

- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.

- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

2.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:

- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng

Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp

- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại

Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích

- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.

- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

2.6. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:

Khuyến nghị:

- Củng cố luật pháp

- Giải quyết bạo lực gia đình

- Vấn đề y tế công cộng STD/HIV

- Phúc lợi cho trẻ em

- Các bệnh nhiễm trùng

- Lạm dụng chất gây nghiện

- Sức khỏe tâm thần

- Đào tạo cán bộ điều trị

- Giáo dục

- Thông tin đại chúng


B. KẾT LUẬN:


Bốn vấn đề chính yếu trong công tác điều trị nghiện ma túy là:

1.   Sớm nhận biết các dấu hiệu của người sử dụng ma túy để điều trị kịp thời

2.   Trong phương pháp điều trị vấn đề gọt dũa, phục hồi nhận thức hành vi nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẫn nội tâm là quan trọng nhất thông qua tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, lao động trị liệu, hoạt động trị liệu, giải trí trị liệu là rất cần thiết.

3.   Với người nghiện heroin, liệu pháp sử dụng thuốc giữ một vai trò quan trọng.

4.   Với người nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích do chưa có thuốc điều trị nên việc giảm nguy cơ, giảm tác hại là vô cùng cần thiết.