XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG (Treatment Community – TC)

17 November, 2022

XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG (Treatment Community – TC)


Có một vài điều kiện cần phải chú ý để có thể coi một môi trường điều trị là TC. TC là một môi trường điều trị được tạo ra nhờ tác động tương hỗ giữa một vài yếu tố. Những yếu tố chính tạo ra TC bao gồm:

  • 1) Yếu tố con người và những mối quan hệ giữa những người có uy tín trong cộng đồng.

  • 2) Việc sắp xếp lịch sinh hoạt hàng ngày.

  • 3) Những quy định và nguyên tắc cơ bản trong cộng đổng

  • 4) Phương pháp được áp dụng để điều chỉnh hành vi

  • 5) Phương pháp giải quyết các khó khăn, vướng mắc về tâm lý cũng như tăng cường nhận thức bản thân .

  • 6) Nâng cao lòng tự tin và năng lực bản thân.


I/ VAI TRÒ CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ VAI VẾ, UY TÍN TRONG CỘNG ĐỒNG:


    Cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tích cực. Nó trợ giúp một cách hữu hiệu cho việc học tập khi thành viên của nó nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm của những người có vai vế, uy tín trong cộng đồng. Thành viên của cộng đồng cũng trông chờ vào việc cán bộ điều trị có tuân thủ các quy tắc và giá trị của cộng đồng hay không . Các quy tắc chi phối quan hệ qua lại giữa các thành viên của cộng đồng.
    Những thành viên đang trong giai đoạn phục hồi thì đã khá quen với thuật ngữ "nói chuyện tay đôi" và sự mâu thuẫn trong việc áp dụng các quy tắc xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Muốn xây dựng được một môi trường điều trị và những hoạt động của nó ta cũng phải có hiểu biết sâu sắc về những mâu thuẫn này. Bất kỳ một mâu thuẫn nào xảy ra giữa lời nói và hành vi sẽ bộc lộ điểm yếu của hệ thống điều trị và có thể sẽ được người nghiện lợí dụng để có những biểu hiện, hành vi không đúng.


    Muốn thực hiện tốt vai trò của mình, người cán bộ điều trị phải nghiên cứu kỹ các quy tắc của cộng đồng. Những người quản giáo thành công nhất, những người luôn được đối tượng xem là tấm gương để học tập, thì cũng chính là người biết sử dụng những ví dụ minh hoạ trong giáo dục người nghiện. Những người chịu trách nhiệm đảm bảo sự tồn tại của "cộng đồng trị liệu" thì có vai trò chính không chỉ trong việc duy trì hoạt động của cộng đồng mà còn phải biến nó thành một môi trường học tập thực sự cho người nghiện ma túy.


    Những thành viên của TC mới ngừng sử dụng ma túy thì sự phục hồi chưa thực sự ổn định. Họ còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài trong việc duy trì trạng thái cai nghiện, do đó không nên quá đề cao vai trò của các thành viên đã ngừng sử dụng ma túy lâu năm trước những người mới ngừng sử dụng ma túy. Người đã cai nghiện thành công là hiện thân của niềm hy vọng của người nghiện, đã và đang đấu tranh để vượt qua chính bản thân mình. Họ là bằng chứng sống của việc chiến thắng sự cám dỗ của ma túy và vượt qua được các giai đoạn điều trị.
    Giá trị của những người này không chỉ nằm ở chỗ là họ đã từng vượt qua sự cám dỗ của ma túy, mà chủ yếu họ là người rất thông hiểu suy nghĩ và cảm xúc của người nghiện. Khả năng của họ trong việc bày tỏ sự thông cảm đối với những người nghiện khác là không gì sánh nổi. Họ đoán trước được những hành vi của người nghiện trong từng hoàn cảnh cụ thể. Điều này biến họ thành những nhân viên điều trị rất có hiệu qủa trong môi trường TC - một môi trường điều trị mà việc thành công hay thất bại có liên quan chặt chẽ với sự thông hiểu những suy nghĩ, thậm chí cả những mánh lới của đối tượng. Cách thức mà TC xử lý tình huống là hoàn toàn dựa vào khả năng đoán trước sự việc xảy ra và những nguyên nhân gây ra sự việc đó.


    Một môi trường điều trị lành mạnh và cách ứng xử gương mẫu của các nhân viên điều trị vốn là người nghiện trước kia là những tiêu chuẩn của Cộng đồng trị liệu. Thế còn những nhân viên khác thì sao, những người trước kia không phải đối tượng nghiện ma túy? Liệu họ có thể trở thành chuẩn mực để đối tượng noi theo hay không? Về vấn đề này có thể nói: tất cả mọi người đều có khả năng trở thành nhân viên điều trị gương mẫu bất kể họ có xuất phát điểm như thế nào. Mặc dù ảnh hưởng của những nhân viên điều trị trước kia là người nghiện thì không thể so sánh được, nhưng đối tượng nghiện cũng cần phải có những chuẩn mực khác nữa để làm theo nếu như anh ta muốn trang bị cho mình những kỹ năng xã hội thích hợp.
    Một người đã từng nghiện ma túy thì có thể sẽ kém hơn những nhân viên điều trị khác về các kỹ năng xã hội cho nên trong giai đoạn cuối của qúa trình phục hồi đòi hỏi phải trang bị cho đốì tượng những kỹ năng cần thiết để họ tái hòa nhập cộng đồng thì vai trò của các nhân viên điều trị chuyên nghiệp là không thể thiếu được.


    II/ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ:


    Tinh thần đồng đội (khả năng làm việc theo nhóm) và sự tôn trọng lẫn nhau là nguyên tắc cơ bản của các nhân viên điều trị TC. Điều quan trọng là hai nguyên tắc này cũng phải được những ngươi có vai vế, uy tín trong cộng đồng tôn trọng và lấy đó làm gương cho các thành viên khác của cộng đồng. Các đối tượng là thành viên của cộng đồng cũng phải coi hai nguyên tắc đó là nền tảng mối quan hệ trong công việc của mình.


    Khả năng làm việc theo nhóm có nghĩa từng thành viên của nhóm hiểu rõ vai trò và nghĩa vụ của mình. Tinh thần đồng đội, khả năng làm việc nhóm cũng như sự tôn trọng lẫn nhau trong quá trình giao tiếp giữa những người có uy tín với các thành viên của cộng đồng sẽ khuyến khích việc các thành viên giao tiếp với nhau. Để xây dựng được môi trường trị liệu cộng đồng có hiệu quả, các nhân viên điều trị phải có khả năng phối hợp làm việc trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Việc làm thế nào để tạo ra được một thái độ làm việc như vậy là hoàn toàn nhờ vào uy tín và sự lãnh đạo của những người tổ chức hay đứng đầu cộng đồng trị liệu. Người cán hộ lãnh đạo muốn vậy cũng phải tuân thủ nguyên tắc này trong khi giao tiếp với các nhân viên của anh ta.


    III/ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VỚI ĐỐI TƯỢNG:


      Mặc dù TC có mục tiêu rõ ràng là tạo ra môi trường phù hợp cho sự điều chỉnh hành vi của đối tượng, nhưng TC cũng có thể sẽ thất bại nếu như thiếu đi lòng quyết tâm của nhà lãnh đạo và những người có uy tín trong cộng đồng. Người ta nhận thấy rằng, lĩnh vực điều trị cai ngiện thu hút đủ loại người. Ta có thể gặp trong môi trường điều trị những người nghiện với những câu chuyện đáng ngạc nhiên về chủ nghĩa anh hùng cá nhân, sự hy sinh bản thân để chăm sóc người thân hay việc lạm dụng sức lao động của những người trong hoàn cảnh tuyệt vọng v.v... Trong ấn bản năm 1989, Maeder - một tác giả đã viết rằng các chuyên gia tư vấn tâm lý và thành viên của cộng đồng tôn giáo (những người mà sau này được gọi là người hàn gắn vết thương) dường như thu hút một lượng lớn những người có trạng thái tình cảm không ổn định. Nhưng điều đáng chú ý là chính những người chuyên đi hàn gắn vết thương này đôi khi không giải quyết được những khó khăn của chính bản thân mình.

       

      Quy luật tương tự như vậy cũng chi phối mối quan hệ giữa cán bộ điều trị và đối tượng nghiện. Cán bộ điều trị, những người được xem là tấm gương sáng để toàn thể cộng đồng noi theo thì luôn phải cư xử với các thành viên của cộng đồng với một thái độ có trách nhiệm. Nhưng cơ chế của TC được thể hiện ở những nghi thức và quy tắc xã hội, có thể giúp ngăn chặn việc vô tình hay cố tình sử dụng sai nguyên tắc sức mạnh và quyền hạn trong mọi tầng lớp đối tượng điều trị tại cộng đồng. Tất nhiên là nếu thiếu sự hướng dẫn tận tình của những người lãnh đạo có trách nhiệm trong một mô hình TC không hoàn chỉnh thì những cơ chế này có thể không được xây dựng và thực hiện đầy đủ.

       

      Nhằm nâng cao những quy tắc chuẩn mực của TC, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo những cán bộ điều trị kể cả các nhân viên chuyên nghiệp lẫn những cán bộ quản giáo trước kia đã từng là người nghiện ma túy. Việc chuyên môn hóa đội ngũ điều trị có thể sẽ giúp cải thiện chất lượng điều trị của cộng đồng nói chung và của những người cán bộ quản giáo nói riêng

       

      IV/ CƠ CẤU CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI:


      Sở dĩ, môi trường trị liệu TC nổi tiếng là nhờ nó được tổ chức tốt và là môi trường có cơ cấu hoạt động chặt chẽ. Sạch sẽ và thoải mái là 2 nguyên tắc được ưu tiên hàng đầu trong việc sắp xếp cơ sở vật chất của TC. Người ta liên tưởng rằng môi trường điều trị sạch sẽ và dễ chịu sẽ khích lệ những hành vi lành mạnh. Môi trường tự nhiên sẽ phản ánh bản chất của cộng đồng sống trong môi trường đó. Mặc dù có một vài mô hình TC buộc phải thích nghi với cơ sở vật chất sẵn có ví dụ như nhà tù, các khu nhà cũ, cơ sở khám chữa bệnh hay thậm chí một trường học cũ nhưng người ta cũng không quên tái thiết lại môi trường sao cho phù hợp với yêu cầu của một cộng đồng trị liệu.


      Hầu hết các cộng đồng trị liệu ngày nay hoại động trong những cơ sở với trang thiết bị hiện đại nhưng nó vẫn mang dáng dấp một gia đình nhiều hơn là một trung tâm điều trị. Ngay cả ở trong tù hay trong trại cải tạo trẻ em vị thành niên, không khí "nhà tù” cũng không còn nữa. Để thực hiện được điều này, các nhà lãnh đạo TC đã bỏ đi tất cả những gì gợi nên khung cảnh nhà tù với luật rừng và thay vào đó là hệ thống chuẩn mực hành vi trong một khung cảnh mang tính chất gia đình. Nhằm khiến cho TC trở thành một môi trường tin cậy cho việc điều trị - phục hồi. Chúng ta phải tạo ra bằng được sự an toàn cả về thể chất lẫn tinh thần cho đối tượng. Đó phải là chỗ mà đối tượng có thể chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của chính mình. Trong khi nhà tù tạo ra bầu không khí thiếu an toàn, nơi mà đối tượng muốn sinh tồn thì phải dựa hoàn toàn vào mánh khoé và cái gọi là luật rừng, thì môi trường TC lại tạo ra những hành vi xã hội lành mạnh như tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau trong bầu không khí gia đình.


      Những thành công lớn của TC trong việc duy trì hoạt động điều trị - phục hồi có được là nhờ một cơ cấu hoạt động chặt chẽ. Cơ cấu hoạt động này bao gồm cả việc tổ chức tốt lịch sinh hoạt hàng ngày cho các thành viên của cộng đồng kể từ người cũ cho đến người mới tham gia điều trị. Cơ cấu phân bậc các thành viên cũ và mới cho phép hình dung được thể hiện rõ trong lịch sinh hoạt hàng ngày của mỗi thành viên. Tuy nhiên, cho dù mỗi người có một vai trò và nhiệm vụ khác nhau trong cộng đồng nhưng họ đều hiểu được vị trí của mình trong mục tiêu chung là TC đề ra. Hệ thông phân cấp theo vai trò và lịch sinh hoạt hàng ngày được gọi là "cơ cấu hoạt động".


      Chúng ta không cần phải quá chú trọng đến giá trị của cơ cấu hoạt động trong việc cung cấp những điều kiện cần thiết để người nghiện gặt hái được thành công dù là trong những hoàn cảnh có nhiều hạn chế. Điều quan trọng là việc phân cấp cơ cấu tổ chức và lịch sinh hoạt thường ngày cũng là một dạng kỷ luật và nó tạo ra cho người nghiện cảm giác ổn định. Giờ đây cuộc sống của anh ta đi vào khuôn khổ và có kế hoạch cụ thể ngược lại hẳn với cuộc sống trước kia của anh ta ngoài xã hội đầy rẫy những bất trắc - một lối sống điển hình của người nghiện.


      Cơ cấu hoạt động này còn khuyến khích việc đặt kế hoạch cho sự ổn định lâu dài thay vì tự hài lòng với những điều đạt được trước mắt. Những điều này nghe chừng có vẻ đơn giản và dễ thực hiện. Tuy nhiên, một khi người nghiện đã lệ thuộc vào ma túy thì khả năng nhận thức cuộc sống của anh ta cũng bị hạn chế. Điều này thể hiện ở thói quen có liên quan đến việc sử dụng ma túy, làm thế nào để có ma túy và kiếm ma túy ở đâu? Anh ta không hành động như một người bình thường với những mơ ước, hoài bão là động lực khiến anh ta lên kế hoạch cho mình để có thể biến những ước mơ đó thành hiện thực.
      Tất cả những người bình thường chúng ta đều hành động theo cách này và ai cũng có một "cơ cấu hoạt động" của riêng mình. Nó cho phép chúng ta cân nhắc việc gì nên ưu tiên làm trước, việc gì làm sau để đạt được những mục đích trước mắt và mục đích lâu dài của bản thân. Nhưng người nghiện thì đánh mất hoặc quên mất cơ cấu hoạt động này và thay vào đó là cơ cấu hoạt động nhằm đạt được trạng thái "phê thuốc". Một trong những yếu tố quyết định sự thành công của việc điều trị cho đối tượng là giúp anh ta có thể quay trở lại áp dụng "cơ cấu hoạt động" bình thường khiến anh ta bước đầu đạt được những thành công nhỏ do chính anh ta dự định trong quá trình phục hồi.


      Tóm lại, có thể nói TC là một môi trường điều trị tích cực , năng động chứ không phải là một môi trường tĩnh. Những thay đổi có ý nghĩa mà người nghiện đạt được chính là kết quả của trạng thái đấu tranh tích cực bên trong bản thân người nghiện nhằm loại bỏ những yếu tố làm suy yếu ý chí con người, những yếu tố thường được người nghiện sử dụng để bảo chữa cho thất bại của mình. Bằng cách loại bỏ những yếu tố này, chúng ta còn có thể khiến cho họ học tập những thái độ đúng, những hành vi phù hợp. Thêm vào đó, nếu chúng ta thành công trong việc thu hút sự tham gia tích cực của người nghiện vào chương trình điều trị, anh ta sẽ có nhiều cơ hội hơn để phục hồi và lấy lại sự tự tin cho bản thân mình.


      V/ NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH HÀNH VI:


      "Hãy tin tưởng vào môi trường sống của bạn"

      Triết lý bất thành văn của TC.


      Những biện pháp điều chỉnh hành vi của TC như kiểm điểm, cạo gáy, giao ban buổi sáng, nhóm đối kháng, họp gia đình hay họp chung v.v.. được xây dựng nhằm sửa đổi những hành vi vi phạm những quy tắc mà TC đề ra. Việc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của cộng đồng hay những quy tắc cốt yếu của TC như không sử dụng ma túy, không có hành vi bạo lực hoặc đe doạ bạo lực, không có hành vi tình dục, không trộm cắp là điều hết sức quan trọng trong việc duy trì sự lành mạnh và sự an toàn của môi trường điều trị. Tuy nhiên chính những thói quen mà người nghiện còn giữ khi anh ta sống ngoài xã hội đã khiến cho anh ta có những hành vi không đúng. Điều này được thể hiện ỏ sự đề phòng và thái độ cảnh giác của người nghiện. Bí quyết của những biện pháp điều chỉnh hành vi là tạo ra cảm giác an toàn nhằm xóa đi thái độ đề phòng, cảnh giác của người nghiện. Không chỉ có vậy, những biện pháp này còn được sử dụng như là công cụ để ngăn chặn, trừng phạt những hành vi làm xói mòn tập quán, sự an toàn và tính lành mạnh của môi trường, ví dụ như sự vi phạm những quy tắc cơ bản của cộng đồng.


      Hiệu quả của các biện pháp điều chỉnh hành vi là nằm ở cách áp dụng nó như thế nào. Những biện pháp này cũng có thể bị lạm dụng và gây ra những kết quả trái ngược nếu như rơi vào tay những người không hiểu biết thấu đáo về động lực của cộng đồng trị liệu. Nếu thiếu sự tổ chức môi trường trị liệu TC chuẩn mực và thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc áp dụng những biện pháp này thì chúng trở nên có hại nhiều hơn có lợi. Vấn đề sử dụng biện pháp nào với mức độ vi phạm như thế nào được quyết định bởi mức độ điều chỉnh hành vi từ thấp đến cao.


      Nhẹ nhất là biện pháp kiểm điểm và trao đổi (tư vấn trực tiếp) được áp dụng cho những vi phạm nhẹ. Đối với những môi trường trị liệu được tổ chức tốt thì ít khi phải áp dụng những biện pháp mạnh.


      Việc phải tăng cường sử dụng những biện pháp mạnh là dấu hiệu cho thấy môi trường điều trị đó đang có nguy cơ do không được tổ chức tốt đòi hỏi phải xem xét lại trách nhiệm của các thành viên cộng đồng đốì vói những quy tắc và chuẩn mực của TC.


      Những biện pháp điều chỉnh hành vi có hiệu quả trong môi trường TC. Những biện pháp này nếu được sử dụng đúng thì sẽ làm tăng trách nhiệm của các thành viên đối với việc tuân thủ các quy tắc mà TC đề ra. Khi một đối tượng bị gọi lên kiểm điểm trong một lần giao ban buổi sáng hay bị khiển trách trong một lần cạo gáy để những thành viên khác trong cộng đồng sửa chữa hành vi không đúng của anh ta , thì anh ta vừa nói chuyện với cộng đồng và vừa chính với bản thân mình. Trong quá trình áp dụng những biện pháp này thì điều căn bản là phải đảm bảo chỉ lên án những hành vi sai trái chứ không cố gắng đánh vào lòng tự trọng của đối tượng. Do vậy trong các buổi cạo gáy chỉ nên chú trọng vào phân tích sự vi phạm cứa đối tượng và ảnh hưởng của nó tới bản thân anh ta cũng như tới những người khác. Điều này được thể hiện rõ ở cảm giác biết ơn của đối tượng đối với sự quan tâm và tình thương của các thành viên khác dành cho anh ta thông qua việc giúp đỡ anh ta sửa đổi những thái độ, hành vi không đúng.


      Hiệu quả của các biện pháp điều chỉnh hành vi trong việc thay đổi cách ứng xử của các nhân viên điều trị chuyên nghiệp được thể hiện ở việc áp dụng thành công giao ban buổi sáng trong khóa tập huấn, thường diễn ra trong vòng một tuần và ngay từ ngày đầu tiên các giảng viên cùng với các học viên xây dựng nên những quy tắc phải tuân thủ trong quá trình học tập. Hiệu quả là từ các thành viên của cuộc tập huấn, chúng ta đã hình thành được một cộng đồng con tương tự TC. Việc kiểm điểm trong các buổi giao ban buổi sáng nhìn chung đã giải quyết được sự vi phạm quy tắc của các học viên. Khi những quy tắc này được bảo đảm, việc học tập cũng trở nên thuận lợi và đạt kết quả tốt.


      Những khóa tập huấn của chúng tôi thường đạt tỷ lệ tham gia đúng giờ và duy trì học tập cao là nhờ có giao ban buổi sáng. Nếu một học viên đã từng bị kiểm điểm vì đến muộn tại giao ban buổi sáng thì anh ta hay chị ta thường ít khi lặp lại hành vi đó lần nữa. Các học viên dường như cũng cảm thấy quan tâm nhiều đến hình thức này. Trong 10 năm vừa qua tôi chưa từng gặp trường hợp các thành viên tham gia hay toàn bộ khóa tập huấn đạt tỷ lệ thành công thấp trong giao ban buổi sáng. Thay vào đó, các học viên đều nói rằng bên cạnh những kiến thức mà họ có được từ bài giảng , họ còn nhận thức thêm được nhiều điều từ chính bản thân mình.


      QUY TẮC TRONG GIA ĐÌNH : XÂY DỰNG GIỚI HẠN HÀNH VI VÀ HÀNH VI THEO QUY TẮC


      Một trong những điều mà người mới tham gia điều trị trong môi trường TC thường phàn nàn đó là có quá nhiều quy tắc được áp dụng. Những quy tắc quan trọng nhất cần được áp dụng đó là:

      • 1)  Không sử dụng ma túy.

      • 2)  Không có hành vi bạo lực hay đe dọa sử dụng bạo lực.

      • 3)  Không có hành vi tình dục.

      • 4)  Không trộm cắp.


      Việc các thành viên của cộng đồng phải triệt để tuân thủ các quy tắc này là điều bắt buộc. Bất kỳ hành vi vi phạm nào đều được coi là đe dọa đối với sự ổn định và lành mạnh của môi trường điều trị và sẽ phải có cách xử lý thích hợp. Thông thường, những người vi phạm quy tắc nếu không bày tỏ sự hối hận, ăn năn về hành vi của mình và tiếp tục gây hại cho người khác thì sẽ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng. Trước khi chính thức kết nạp một thành viên mới vào cộng đồng, người ta sẽ giải thích cặn kẽ cho anh ta hiểu những quy tắc của cộng đồng và anh buộc phải có trách nhiệm tuân thủ tuyệt đối nếu muốn tham gia điều trị.


      Nhờ việc xây dựng các giới hạn hành vi mà các cán bộ quản giáo có thế duy trì một môi trường điều trị an toàn và lành mạnh. Các biện pháp điều chỉnh hành vi được sử dụng như là công cụ củng cố và nhắc nhở các thành viên nhớ tới kết cục của việc vi phạm các quy tắc đề ra hay không tuân thủ các quy tắc này.


      VI/ CÁC BIỆN PHÁP HÀN GẮN, XOA DỊU VẾT THƯƠNG:


      "Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi nó trừ khi bạn chia sẻ với người khác"

      Triết lý bất thành văn của TC

      Những biện pháp điều chỉnh hành vi chỉ là bước đầu trong quá trình kiểm soát, quản lý hành vi của thành viên cộng đồng. Hiệu quả của những biện pháp này hoàn toàn mang tính tạm thời và chủ yếu dựa vào những tập quán quy tắc do cộng đồng xây dựng. Nhằm đạt được sự ổn định trong việc thay đổi hành vi cần phải chú ý phân tích nguyên nhân sâu xa để xây dựng mối liên hệ cần thiết giữa giá trị của hành vi mới với mục tiêu của lối sống đúng mực.


      Những biện pháp điều chỉnh hành vi đóng vai trò ngăn cản yếu tố khiến cho đối tượng không thể có một cuộc sống bình thường. Còn những biện pháp hàn gắn, xoa dịu vết thương giúp cho đối tượng có được nhận thức sâu sắc hơn về bản thân mình.


      Hai biện pháp này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Việc quá chú trọng vào một biện pháp cụ thể nào đó cũng không cho kết quả tốt hơn là tiến hành cả hai biện pháp song song hỗ trợ lẫn nhau. Nói một cách khác, nếu như chúng ta chỉ áp dụng các biện pháp điều chỉnh hành vi một cách đơn thuần, thì các đối tượng của chúng ta sẽ cư xử không khác gì người gỗ. Đồng ý là họ sẽ có hành vi đúng trong môi nường cuộc sống tập thể nhưng những hành vi đó sẽ mất đi một khi họ rời khỏi môi trường điều trị.


      Tư vấn trong môi trường TC:

      Tư vấn cho dù là nhóm hay cá nhân đều đem lại cho đối tượng cơ hội khám phá quá khứ, tiền sử cá nhân có liên quan đến việc sử dụng ma túy của anh ta. Việc một người nghiện ma túy phủ nhận sự thật sẽ càng được củng cố theo năm tháng, bề dày của quá trình anh ta sử dụng ma túy. Xóa tan sự phủ nhận này cũng đồng nghĩa với việc bắt anh ta phải đối đầu với sự thật phũ phàng của cuộc đời mà bấy lâu nay anh ta vẫn thường né tránh. Một phần của sự phủ nhận thể hiện ở việc anh ta thường hợp lý hoá thất bại của mình trong việc từ bỏ ma túy. Việc tháo gỡ cho đối tượng những vướng mắc loại này cũng tương tự như khi chúng ta bóc vỏ hành từng lớp một. Biện pháp tư vấn điển hình được áp dụng trong môi trường TC là biện pháp đối diện trực tiếp, nó thử thách niềm tin và trách nhiệm cá nhân của mỗi người nghiện.


      Nhóm định hướng, nhóm điều tra, nhóm mở rộng và nhóm marathon:

      Cộng đồng trị liệu TC đã xây dựng một số liệu pháp nhóm từ đơn giản đến phức tạp nhầm nâng cao chất lượng của việc điều trị cai nghiện. Mỗi loại nhóm nhằm giải quyết một khía cạnh khác nhau. Có những mục tiêu nhất định mà người nghiện buộc phải đạt được trước khi chuyển sang điều trị ở nhóm khác. Ví dụ như, một người mới tham gia chương trình điều trị cai nghiện cần phải tham gia sinh hoạt nhóm định hướng hàng tuần nhằm giải quyết những mục tiêu trước mắt hay phát hiện những lĩnh vực của cuộc sống mà họ đang gặp khó khăn và cần phải học hỏi để vượt qua trở ngại, khó khăn đó.


      Nhóm điều tra là bước tiếp theo ngay sau đó với yêu cầu cao hơn nhằm giúp đối tượng tự cởi mở về cuộc sống cá nhân, đặc biệt là những phạm trù tế nhị như yếu tố tâm lý tình dục có liên quan đến tiền sử nghiện của đốì tượng. Khi tham gia nhóm điều tra, đối tượng được khuyến khích bàn luận những vấn đề có liên quan đến đời sống tình dục của anh ta, ảnh hưởng của nó đến nhận thức của cá nhân anh ta. Nhóm mở rộng và nhóm marathon là hai nhóm phức tạp nhất trong các biện pháp nhóm trị liệu. Việc tham gia sinh hoạt 2 nhóm này có thể kéo dài cả ngày hay thậm chí 2 ngày trong phòng điều trị cách biệt. Vấn đề được đưa ra thảo luận là khía cạnh tiền sử của đối tượng có liên quan đến kế hoạch giải quyết các khó khăn, trở ngại cùa anh la như thế nào. Hai nhóm này đòi hỏi đối tượng phải có sự cởi mở và trung thực khá cao cùng một số nhận thức nhất định về bản thân.


      Nhìn chung, đối tượng của chúng ta thường vấp phải khó khăn khi tâm sự một cách cởi mở bởi lẽ họ thiếu sự tin cậy vào người khác. Thông thường, việc thiếu tin tưởng vào những người xung quanh có liên quan đến cảm giác tự ti và thiếu tự trọng. Một khi đối tượng biết gạt bỏ đi sự phủ nhận, quay lại đối diện với thực tại, anh ta sẽ thấy rằng những ngày tháng vừa qua của anh ta trong nghiện ngập là thực sự đáng tiếc. Ngược lại, những người mới tham gia chương trình điều trị thì cảm thấy dường như xung quanh anh ta đâu cững là điều xấu. Chúng ta không thể trông đợi ở việc một người mới tham gia chương trình mà lại có thể có lòng tự tin và sự cởi mở ngay được. Tuy nhiên, có nhiều cách để giúp cho một người thành viên của cộng đồng đối diện với thực lại và cởi mở nói ra sự thật về cuộc đời anh ta. Cuộc sống tập thể trong cộng đồng TC giúp cho người nghiện lấy lại được sự kiểm soát cuộc đời anh ta và nhất định anh ta sẽ thành công nếu như cộng đồng đó có cơ hội giúp đỡ anh ta.


      Nhóm đối kháng:

      Nhóm đối kháng được tổ chức ít nhất tuần 2 buổi nhằm ra cơ hội cho các thành viên cộng đồng bày tỏ thái độ khó chịu mà bấy lâu nay họ phải kìm nén trong mình. Việc tỏ thái độ khó chịu, tức giận đối với những người không tham gia nhóm đối kháng là hoàn toàn bị cấm. Quá trình sinh hoạt nhóm được diễn ra dưới sự giám sát chặt chẽ của các nhân viên, cán bộ điều trị giàu kinh nghiệm. Những nguyên tắc chặt chẽ được áp dụng nhằm điều chỉnh các hành vi của đối tượng tham gia nhóm đối kháng. Việc diễn giải bằng lời những khó chịu, tình cảm tiêu cực trong một môi trường được giám sát chặt chẽ sẽ mang lại hiệu quả hàn gắn và tạo ra cơ hội cho các thành viên hiểu rõ hơn suy nghĩ của người khác dành cho mình và qua đó tăng cường nhận thức về bản thân. Những đối tượng có khả năng lợi dụng hình thức sinh hoạt nhóm này để giải tỏa cảm giác bực bội cũng thường gặt hái được nhiều thành công hơn trong quá trình phục hồi.
      Mặc dầu các thành viên được khuyến khích để biểu lộ thái độ, quan điểm về nhau nhưng không được sử dụng những từ ngữ mang tính chất xúc phạm nhau. Điều không kém phần quan trọng trong quá trình bày tỏ thái độ của đối tượng là khả năng nhận thức được tại sao người đó lại làm mình khó chịu và nhận thức đó ảnh hưởng đến cảm giác của bản thân anh ta như thế nào. Thông thường, việc nói ra được cảm giác của bản thân sẽ xây dựng nên những thông tin cá nhân về các thành viên trong nhóm và những thông tin đó có thể được sử dụng trong sinh hoạt các nhóm khác.


      Nếu một chương trình điều trị có thể áp dụng thành công sinh hoạt nhóm đối kháng thì cũng sẽ dễ dàng thành công trong việc tiến hành các nhóm trị liệu khác của TC. Những chương trình trị liệu loại này có xu hướng giáo dục được những thành viên tốt hơn trong một môi trường trị liệu ổn định hơn. Những thành công mà đối tượng gặt hái được sau khi tham gia nhóm đối kháng, đặc biệt là về nhận thức bản thân giúp cho họ có được sự chuẩn bị tốt hơn khi bước sang sinh hoạt ở nhóm khác. Tuy nhiên, muốn đạt được thành công nhất định từ các biện pháp trị liệu nhóm, đối tượng phải sẵn sàng chấp nhận thử thách thông qua việc cởi mở bản thân mình.


      VII/ NHỮNG BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC BẢN THÂN


      "Lao động khiến cho con người trưởng thành" - Khalil Gibran


      Cộng đồng trị liệu coi lao động là yếu tố quan trọng giúp đối tượng phục hồi nhanh chóng từ tình trạng nghiện. Lao động có liên quan đến nhận thức của một người về vai trò của anh ta trong cộng đồng. Suy cho cùng, lao động giúp anh ta ở vị trí nào trong bậc thang xã hội. Một người khi biết rằng anh ta là thành viên có ích cho xã hội thì anh ta không mấy khi lại dính líu tới những hành vi sai trái. Điều này giúp chúng ta hiểu được vai trò của lao động trong đời sống xã hội của con người cũng như trong quá trình phục hồi của đối tượng được điều trị tại môi trường TC. Tất cả mọi thành viên đều đóng góp sức mình vào công việc hàng ngày nhằm duy trì chương trình điều trị, duy trì cơ sở vật chất và hoạt động của cộng đồng.


      Cơ cấu tổ chức của TC

      Cộng đồng trị liệu được tổ chức theo một cơ cấu chặt chẽ dựa trên nguyên lý cấp bậc trách nhiệm tăng dần do các thành viên của cộng đồng đảm nhiệm, những người ở giai đoạn khác của chương trình điều trị. Để có được một vị trí trong cộng đồng, đối tượng phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trong hoạt động hàng ngày. Cơ cấu tổ chức này đảm bảo công việc được hoàn thành đúng lúc dưới sự giám sát chặt chẽ.


      Cơ cấu tổ chức của TC là một hệ thống phân công lao động rất hiệu quả. Nó khiến cho TC có thể tự sản tự tiêu bằng cách tận dụng được tối đa nguồn nhân lực dồi dào của cộng đồng. Cơ cấu này còn cho phép tập trung vào một yếu tố kỹ thuật trong việc điều hành một chương trình điều trị hơn là triển khai những hoạt động vụn vặt, lẻ tẻ. Hệ thống này khuyến khích các thành viên phấn đấu để đạt được những vị trí nhât định trong cộng đồng, khuyến khích tinh thần tự lập...


      Mặc dầu vậy, những người quản lý TC thường không quan tâm đến việc xây dựng một lịch lao động sát sao đến từng phút như việc chuẩn bị bữa ăn, dọn dẹp vệ sinh v.v... nhưng họ giám sát rất chặt chẽ thái độ và hành vi của thành viên TC. Trong cơ cấu tổ chức này, mọi thông tin đều rõ ràng. Dựa trên những thông tin phản hồi về điều đã và đang xảy ra trong cộng đồng, các vụ việc sẽ lần lượt được nâng cấp bậc trong cộng đồng xử lý. Những vụ việc có thể gây hại nghiêm trọng cho sức khỏe của thành viên cộng đồng hay sự an toàn của môi trường điều trị như sự xuất hiện thẩm lậu ma túy trong cộng đồng ngay lập tức sẽ được cấp cao nhất của cộng đồng quan tâm xử lý.


      Sự thăng cấp và giáng cấp trong hệ thống phân công công việc của TC

      Nhằm giáo dục đối tượng trở thành một thành viên có ích của cộng đồng, TC chú trọng vào việc giúp đỡ đối tượng trước hết hiểu thêm về chính bản thân mình, hiểu được nhược điểm của mình ví dụ như cảm giác tự ti trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Giả sử, một người không dám làm việc ở một vị trí đang đòi hỏi phải có năng lực lãnh đạo, phải biết quyết định ... Vị trí làm việc đó khiến cho anh ta luôn luôn phải lo lắng. Để có thể giúp anh ta vượt qua sự lo sợ ta phải khuyến khích anh ta chấp nhận sự thử thách của công việc. Muốn giao cho đối tượng một công việc ta phải cân nhắc kỹ thái độ, hành vi và đặc biệt là khả năng chấp nhận thử thách của anh ta. Vì nói cho cùng, lao động cũng là một trong những biện pháp trị liệu cho nên ở một số chương trình điều trị, thất bại là sử dụng đối tượng điều trị như một dạng nhân công rẻ mạt cho sản xuất.


      Những đối tượng tích cực trong công việc và có thái độ đúng đắn đối với lao động thì thường có xu hướng coi trọng công việc mà họ đang làm và vị trí của họ trong công việc. Như vậy không có nghĩa là cứ làm việc tốt là đủ. Đối tượng phải có thái độ và hành vi đúng với quá trình làm việc. Việc không tuân thủ những quy tắc mà TC đề ra trong lao động thường dẫn đến sự giáng cấp trong hệ thòng phân công công việc của TC. Việc luân chuyển, thay đổi công việc diễn ra thường xuyên trong TC cho phép các đôi tượng có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại vị trí công việc trong môi trường.


      Bởi lẽ quan điểm của TC là đối tượng phải:

      Tìm hiểu về chính bản thân anh ta trước. Điều chỉnh thái độ và hành vi cho đúng.

      Sau đó lao động tích cực để có được một vị trí trong cộng đồng cho nên những chương trình giáo dục dạy nghề của TC thường đạt tỷ lệ thành công cao với thời gian ngắn và chi phí thấp . Chương trình giáo dục dạy nghề thường không chính thức dành cho những thành viên mới của TC, những người cần phải có thời gian để điều chỉnh thái độ hành vi trước khi được tham gia lao động học tập. Cộng đồng trị liệu quan niệm rằng chỉ có thái độ đúng với công việc mới có thể đảm bảo cho đốì tượng có việc làm ổn định khi đối tượng trở lại cộng đồng. Quá trình thăng cấp và giáng cấp trong hệ thống phân công công việc của TC là một quá trình học tập hữu ích cho những đối tượng vốn không có thói quen duy trì một việc làm ổn định trong một thời gian dài.


      Chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng:

      Thu nhận được một hệ thống kiến thức sau khi tham gia điều trị — phục hồi và áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn công tác hàng ngày đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc về bản thân và mong muốn duy trì một cuộc sống lành mạnh không có ma túy. Giá trị của những gì đối tượng thu nhận được trong quá trình điều trị sẽ được kiểm chứng lại khi anh ta tái hoà nhập cộng đồng, trở về với cuộc sống thực tại. Khó có thể tưởng tượng được rằng một người nghiện rượu lâu năm, sau khi điều trị quay trở lại cộng đồng làm việc tại một quầy rượu lại vẫn có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh không uống rượu.


      Trong giai đoạn cuối của chương trình điều trị, TC sẽ cho người nghiện dần dần thoát ly môi trường có kiểm soát và tiếp xúc ngày một nhiều với môi trường xã hội. Đối tượng có thể tự đi tìm việc, trở lại nhà trường hay tham gia các hoạt động có ích khác. Đối tượng sẽ tự sắp xếp thời gian cho những hoạt động bên ngoài cộng đồng TC nhưng vẫn đảm bảo tham gia sinh hoạt nhóm tư vấn, chăm sóc sau cai của các chuyên gia về tái hoà nhập cộng đồng. Họ phải hoàn tất khóa học về phòng chống tái nghiện và chứng tỏ những kỹ năng xử lý tình huống có nguy cơ dẫn đến tái nghiện. Họ cũng có thể tham gia giúp đỡ những thành viên khác của cộng đồng thực hiện các hoạt động điều trị.


      Khả năng tìm được và duy trì một việc làm ổn định, hòa nhập được với gia đình, tiếp tục làm việc và duy trì trạng thái phục hồi là mục tiêu chính của giai đoạn này. Đối tượng lúc này nhận được sự giúp đỡ cả từ phía nhân viên điều trị và từ gia đình. Nếu tái nghiện xảy ra trong giai đoạn này, đối tượng có thể sẽ phải quay lại TC và được trang bị thêm những biện pháp can thiệp cho đến khi anh ta thực sự đủ khả năng duy trì trạng thái phục hồi.


      VIII/ YẾU TỐ TINH THẦN TRONG PHƯƠNG PHÁP CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU


      Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong cộng đồng trị liệu hầu như người ta không tránh khỏi việc nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Phần lớn trong số chúng ta cũng không cho rằng những chủ đề này có gì khác nhau, thậm chí đôi khi chúng ta còn có thể hoán vị chúng với nhau. Nhằm tránh việc nhầm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là : "bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người". Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loạt hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.


      TRIẾT LÝ CỘNG ĐỒNG

      Chúng ta từ nhiều nơi sum họp về đây dù mỗi người có cá tính và hoàn cảnh khác nhau.

      Chính nơi đây tôi đã gặp được ánh mắt, trái tim bạn bè.

      Chính nơi đây tôi đã được dìu dắt bởi tấm lòng yêu thương của thầy cô và của cả cộng đồng.

      Tôi đã cô đơn vì luôn sợ người khác biết về mình vì thế tôi càng không hiểu mình và cũng chẳng hiểu ai.

      Tôi đã không ngừng lẩn trốn nhưng đến nay tôi đã nhận ra bản thân mình.

      Tôi không còn cảm thấy bất an vì tôi đã chia sẻ những bí mật của đời mình với người khác.

      Chính tại nơi đây tôi đã tìm thấy tấm gương để soi rọi mình.

      Chính tại nơi đây nhờ gia đình nhờ mọi người cuối cùng tôi đã hiểu rõ về chính mình.

      Tôi không phải người hùng trong những giấc mơ và không còn thấp hèn trong những cơn hoảng sợ.

      Tôi đã biết phải kiềm chế những cám dỗ để làm chủ bản thân để tâm hồn bình an và thanh thản.

      Tôi sẽ trở thành một thành viên của tập thể góp phần mình cùng xây dựng mục đích chung.

      Tôi sẽ không còn cô đơn như trong cõi chết mà đang sống một cuộc sống cho mình và cho mọi người.

      Chính tại nơi đây tôi mọc rễ đâm chồi và vươn lên. Có sự yêu thương của thầy cô, có sự giúp đỡ của bạn bè để cùng nhau tiến bộ. Tôi phải đi đến được mục đích cuối cùng là giải phóng được bản thân tôi.


      IX/ HỆ THỐNG NIỀM TIN TRONG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU


      Niềm tin vào sự tồn tại của lòng tốt:

      Cho dù một người gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì anh ta cũng không nên đeo đẳng mã những suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Khi chúng ta giúp đỡ anh ta đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà anh ta dấu diếm trong lòng cũng như tìm các học hỏi từ những vấp váp mà anh ta đã từng gặp phải. Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà anh ta đã làm trong quá khứ mà thái độ trung thực của anh ta tại thời điểm này trong việc sửa chữa những sai lầm của quá khứ. Người nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thực sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như anh ta cố gắng nỗ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng anh ta cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà cộng đồng trị liệu tin tưởng ở con người.


      Niềm tin vào khả năng hối cải và phục thiện của con người:

      Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng "người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện". TC đã bác bỏ điều này bằng cách đưa ra ví dụ thực tiễn, những người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma túy và nay đang sông một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện, tái sử dụng rượu và ma túy. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định. Khi một người nghiện mới tham gia môi trường điều trị TC thì điều làm anh ta ngạc nhiên đó là anh chỉ nhận được sự giúp đỡ vừa đủ để anh ta có thể tự giúp chính bản thân mình. Người ta không buộc anh ta phải hối tiếc về những điều sai trái dù lớn, dù nhỏ mà anh ta đã làm. Những người xung quanh cư xử với anh ta như một con người bình thường. Không ai giám sát anh ta nhưng tất cả mọi người đều quan tâm chăm sóc xem anh ta tiến triển như tbế nào.
      TC tạo ra một môi trường tự nhiên đến nỗi một người mới đến hầu như không thể tin được rằng thậm chí anh ta có thể tự do đi lại mà không có camera theo dõi 24/24, điều này nghe có vẻ hơi vô lý, nhưng có một điều rõ ràng là người nghiện sẽ dần nhận thức được: cuối cùng, chính tại nơi đây, TC cho anh ta một cơ hội giành được một chỗ đứng dưới ánh sáng mặt trời.


      Niềm tin vào việc giúp người khác cũng là giúp chính bản thân mình:

      Một trong những phẩm phất quý báu mà đổì tượng sau khi điều trị ở môi trường TC có được đó là việc luôn sẵn lòng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm "cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lôi sống lành mạnh thì anh ta phải biết chia sẻ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thực sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả được hết ý nghĩa của khái niệm "cho" trong môi trường trị liệu TC: Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi nó trừ khi bạn chia sẻ với người khác.


      Niềm tin vào những điều lớn lao, vĩ đại hơn cả cá nhân con người:

      Về vấn đề đức tin. Một khi đã là người nghiện, trong con người họ không còn chỗ dành cho Đức Chúa hay lòng nhân từ. Việc tin tưởng vào Chúa hay những điều răn trong kinh thánh có thể làm tăng mặc cảm phạm tội ở người nghiện. Vai trò của đức tin hay có niềm tin vào những điều lớn lao vĩ đại hơn cả cá nhân con người là yếu tố quan trọng trong việc vượt qua sự tự mãn vốn dĩ đã ăn sâu vào suy nghĩ của người nghiện. Có một điều gì đó hối thúc bên trong , biến chuyển tự nhiên khiến cho người nghiện từ bỏ suy nghĩ tự mãn, tự phụ để tìm đến niềm an ủi trong niềm tin vào Chúa hay Đấng sáng tạo.


      Niềm tin vào phẩm giá của con người:

      Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con người. Cộng đồng trị liệu TC sử dụng thuật ngữ phẩm giá để miêu tả khái niệm giá trị của con người thay vì thuật ngữ "Niềm tự hào về phẩm chât". Theo quan điểm của TC, người nghiện có niềm tự hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.


      Thành viên của TC thì phải có một cuộc sống mẫu mực, tuân thủ những quy tắc nhất định về thái độ, hành vi và phải có trách nhiệm đốì với hành vi đó. Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một công dân tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy lắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma túy và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.


      X/ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG TC:


      Như chúng ta đã biết, TC không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần. Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều tôi sẽ trình bày ở đây là một quá trình điều trị nhằm tăng cường nhận thức về yếu tố tinh thần cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.


      Giai đoạn 1:

      Cuộc sống trong TC là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây có một ý nghĩa khác với điều mà mọi người vẫn nghĩ về nó. TC tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma túy để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về "mục đích và kết quả". Chúng ta không mấy ngạc nhiên khi một người nghiện cho dù nặng nhẹ thế nào nhưng nếu đã từng có một thời quá khứ tốt thì sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống kỷ luật của TC. Tuy nhiên, những người có lý lịch không tốt như bỏ nhà, sống bụi đời hay không có tuổi thơ thì thường gặp khó khăn hơn. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị của TC.


      Trong môi trường mới, người nghiện bắt đầu học cách thích nghi và học những khái niệm cơ bản của TC. Quá trình học hỏi này được tiến hành từ đơn giản đến phức tạp. Tất cả những điều người nghiện cần phải học đều được đơn giản hóa đến mức tối đa. Thông thường, trong giai đoạn này. đối tượng chưa cần phải hiểu cặn kẽ những gì mình được học. Đối tượng chỉ cần nhập tâm và tạm chấp nhận những khái niệm được đưa ra. Tóm lại, đối tượng có thể được giới thiệu về hệ thống điều trị của TC nhưng anh ta chưa cảm giác hay chưa thực sự hiểu về nó. Đây chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho người nghiện bước sang giai đoạn thứ hai là giai đoạn bước vào chuyển đổi thái độ hành vi để dần dần phục hồi trong môi trường điều trị TC.


      Giai đoạn 2:

      Trong giai đoạn 2, nếu như người nghiện đà vượt qua giai đoạn 1, anh ta sẽ bắt đầu chủ động tìm kiếm cơ hội để tự điều chỉnh chính bản thân mình. Anh ta tham gia vào các hình thức sinh hoạt nhóm khác nhau để chia sẻ và tâm sự với người khác về quá khứ của mình. Việc này sẽ động chạm đến những vấn đề gai góc nhất của cuộc đời anh ta.


      Trong giai đoạn này, đối tượng đã quen với quy tắc thường nhật của TC. Môi trường an toàn và lành mạnh, cách xa những cám dỗ của ma túy sẽ giúp anh ta có thời gian suy ngẫm lại cuộc đời mình. Thông thường đây là giai đoạn khó khăn trong quá trình điều trị bởi vì người nghiện phải đối diện với tất cả những nỗi đau, sự xấu hổ, mất mát của cuộc đời mà bấy lâu nay anh ta thường né tránh. Một khi đối tượng đã vứt bỏ được sự mặc cảm, sự tự lừa dối mình, anh ta sẽ đạt được sự kiểm soát cuộc đời anh ta. Anh ta phát hiện được sức mạnh tiềm ẩn bên trong và nhận thấy rằng anh ta có thể điều khiển cuộc đời theo ý mình. Anh ta cũng nhận thức được một phần về cái tôi của mình và đó là điều cần thiết để anh ta tiếp tục trên con đường điều trị - phục hồi. Anh ta hiểu rằng không phải nghiện là vô vọng mà với sự giúp đỡ của những người xung quanh, anh ta có thể vượt qua những trở ngại trong điều trị. Anh ta cũng hiểu được rằng : Một mình bạn có thể làm được điều đó nhưng bạn sẽ không thành công nếu làm việc đó một mình”.


      Giai đoạn 3:

      Đến giai đoạn này, người nghiện bắt đầu tự sắp xếp lại những mảnh vỡ của cuộc đời anh ta. Những gì mà anh ta học được ở giai đoạn 2 thì bây giờ được đem ra áp dụng để tái thiết tại cuộc đời của anh ta. Trong giai đoạn này, người nghiện đã thực sự thích nghi với môi trường điều trị. Anh ta cảm thấy thoải mái với chính mình cũng như với những người xung quanh. Anh ta nhận thức rõ được những cảm giác của mình và đôi khi còn phát hiện ra những cảm giác mới mà trước đây anh ta chưa bao giờ có. Đây cũng là giai đoạn của sự thể nghiệm bản thân đối tượng, là giai đoạn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về mục đích sống của đời người. Khao khát muốn tìm hiểu có khi còn mạnh mẽ hơn cả nhu cầu tìm kiếm ma túy.
      Đối với những người có thiên hướng tôn giáo thì câu hỏi làm họ phải băn khoăn suy nghĩ đó là mối liên hệ giữa con người và Đức Chúa. Đôi khi cảm giác xấu hổ, mặc cảm tội lỗi trước Chúa được thay bằng cảm giác được sự bao dung, che chở trong tình yêu của Chúa. Việc đối tượng tìm kiếm câu trả lời về mục đích cuộc sống trong giai đoạn này có thể giúp anh ta hoạch định được một kế hạch để sống sao cho có ích trong tương lai.


      Giai đoạn 4:

      Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong TC, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma túy . Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Anh ta tỏ ra có triển vọng và trở nên đáng tin cậy nhờ có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta có cuộc sống thăng trầm chìm nổi nhưng anh ta đã biết chấp nhận thực sự, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết. Anh ta hiểu rằng cuộc chiến chống lại cám dỗ của ma túy vẫn chưa chấm dứt và anh ta vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài. Anh ta hiểu, nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma túy mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy. Quay trở lại quá khứ cũng đồng nghĩa với việc đùa giỡn với lửa. Anh ta có thể đốt thành tro tất cả những nỗ lực bấy lâu nay nhằm đạt được sự phục hồi. Tránh mọi mối liên quan dẫn đến quá khứ tội lỗi đó là yếu tố tiên quyết để duy trì cuộc sống lành mạnh không còn ma túy.


      Để duy trì được những gì mà anh ta được học, anh ta phải biết cách chia sẻ đúng cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời anh ta. Vai trò của anh ta trong cộng đồng bây giờ là dạy lại nhừng điều mình được học . Chỉ có như vậy anh ta mới thực sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong cộng đồng trị liệu TC.


      XI/ PHỎNG VẤN BAN ĐẦU TRONG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU TC:


      Ngay từ khi mới ra đời, cộng đồng trị liệu TC đã có một chương trình phỏng vấn mà bất kỳ người nghiện nào khi mới tham gia vào cộng đồng đều phải trải qua. Phỏng vấn trước khi gia nhập cộng đồng trị liệu là loại phỏng vấn đặc biệt. Nó không hoàn toàn tuân theo trình tự và nội dung của một cuộc thăm hỏi tiền sử bệnh hay trắc nghiệm tâm lý. Thay vì phỏng vấn kiểu tay đôi giữa người được phỏng vấn và cán bộ tiếp đón, đối tượng có nguyện vọng tham gia cộng đồng trị liệu được một nhóm những người nghiện sau cai cùng đặt câu hỏi và buộc phải trả lời trung thực về quá khứ của mình. Sẽ không ai trong số những người phỏng vấn ghi chép gì. Nhưng bất kỳ một biểu hiện dối trá nào nhằm né tránh hay từ chối trả lời sẽ bị người phỏng vấn phát hiện và được nhắc nhở để người nghiện phải nói ra sự thật.
      Hình thức phỏng vấn này trong TC còn được gọi là phỏng vấn cảm xúc. Mục đích của phỏng vấn cảm xúc không phải là để thu thập thông tin về tâm lý xã hội của người nghiện mà nhằm đánh giá mức độ nhận thức về động cơ của người nghiện. Chính vì vậy, việc sử dụng thông tin thu được để điền vào một mẫu đánh giá là không cần thiết. Việc có trách nhiệm đối với cuộc sống của chính mình và có động cơ điều trị đúng là yếu tố rất quan trọng quyết định việc đối tượng có đủ khả năng tham gia và duy trì điều trị hay không. Phương pháp phỏng vấn của TC nhằm buộc người nghiện phải thực sự quyết tâm để thay đổi. Nó giúp người nghiện lột bỏ bức màn che giấu, phủ nhận sự thực và học cách tìm kiếm giúp đỡ trong cộng đồng.


      Phương pháp phỏng vấn ban đầu của TC

      Ngoài việc sàng lọc đối tượng đủ điều kiện tham gia cộng đồng trị liệu, phỏng vấn ban đầu còn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch điều trị cho đối tuợng và dự kiến những điều kiện cần để việc thay đổi nhận thức hành vi có thể xảy ra. Kinh nghiệm cho thấy rằng, những thông tin mà người nghiện đưa ra trong lần phỏng vấn đầu tiên thì nói chung không đáng tin cho lắm. Nguyên nhân của nó một phần là do người nghiện hầu như không bao giờ thừa nhận là họ gặp khó khăn, phần còn lại là do những khó khăn đó coi như là đã chấm dứt kể từ khi đối tượng bắt đầu tham gia chương trình điều trị. Mà nói chung, ngay cả những đối tượng mà ta xếp vào loại tình nguyện thì họ cũng gặp những vấn đề không khác gì so với đối tượng cưỡng chế, cũng là áp lực của gia đình của trường học, của công việc hay của cả ba yếu tố trên. Để làm rõ hơn về phương pháp phỏng vấn củaTC tôi xin tóm lược một số nét như sau :


      Có năm mục tiêu mà người phỏng vấn phải đảm bảo đạt được trong lần phỏng vấn ban đầu:

      • 1) Tạo mối quan hệ

      • 2) Khai thác thông tin

      • 3) Đưa ra thông tin

      • 4) Xây dựng dự thảo về thoả thuận điều trị

      • 5) Lên kế hoạch bước tiếp theo.


      Những mục tiêu này là cơ sở để người phỏng vấn bám vào xây dựng chương trình phỏng vấn xoay quanh những vấn đề đó. Tuy nhiên, chỉ những mục tiêu này đơn thuần thì không đảm bảo cho sự thành công của phỏng vấn. Bằng cách áp dụng một số kỹ năng đặc biệt của phỏng vấn cảm xúc, người phỏng vấn giúp củng cố quyết tâm của đối tượng, giúp họ ý thức được trách nhiệm cá nhân đối với sự thay đổi và đó là yếu tố quan trọng để có thể suy trì tham gia điều trị - phục hồi.


      • 1. Tạo mối quan hệ: Việc tạo lập được mối quan hệ và chiếm được thiện cảm của đối tượng ngay lúc ban đầu là hết sức quan trọng để tạo ra sự cởi mở trong giao tiếp. Theo phương pháp phỏng vấn cảm xúc truyền thông của TC, những người nghiện sau cai đóng vai trò người phỏng vấn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của họ khi họ còn là người nghiện để xóa bỏ sự đề phòng của đối tượng. Một vài kỹ năng tư vấn khác như: lắng nghe, thông cảm, phê phán ... cũng sẽ rất hữu ích cho người phỏng vấn. Ấn tượng ban đầu, bài trí tại điểm phỏng vấn cùng là yêu tố cần chú ý đến để tạo hiệu quả cao nhất.


      • 2. Khai thác thông tin từ người nghiện: Người phỏng vấn phải rất khéo léo tế nhị trong việc khai thác thông tin từ người nghiện. Tốt nhất là đặt câu hỏi một cách từ tốn, tránh hiện tượng hỏi dồn đập hay thúc bách nếu không muốn tạo ra sự khủng hoảng tâm lý đối với người nghiện. Thông tin ban đầu là quan trọng nhưng lấy được thông tin chính xác thì không phải là dễ. Thông tin chính xác phải bao gồm tiểu sử cá nhân, tình trạng tâm lý, nguyên nhân nội tại và nguyên nhân bên ngoài tác động khiến đối tượng đến với điều trị, quá trình sử dụng ma túy, hoàn cảnh gia đình, công ăn việc làm và cả những lý do cơ bản dẫn đến stress từ đó có thể xây dựng một kế hoạch can thiệp thích hợp.


      • 3. Cung cấp thông tin cho người nghiện: Những thông tin cơ bản về cơ sở điều trị và triết lý cộng đồng cần phải được cung cấp đầy đủ cho đối tượng. Thông thường, đốì tượng chỉ được nghe sơ bộ hay những thông tin không đầy đủ về bản chất cùa khó khăn mà anh ta đang vấp phải cùng như cách giải quyết nó. Nếu ta giải thích rõ cho đối tượng được hiểu thì có thể giúp anh ta điều chỉnh lại được mục tiêu và nguyện vọng điều trị của mình.


      • 4. Xây dựng dự thảo bản thoả thuận điều trị: Nếu như người phỏng vấn thành công trong việc cùng có được quyết tâm điều trị của đôi tượng thì phải tiến hành dự thảo một văn bản trong đó đối tưựng bày tỏ sự đồng ý quyết tâm tham gia điều trị. Văn bản đó được gọi là "thỏa thuận điều trị". Trong văn bản ghi rõ yêu cầu và mục tiêu điều trị của đối tượng. Để đạt được những mục tiêu, yêu cầu này, đối tượng cần nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố tập thể, cộng đồng và những gì mà cộng đồng đòi hỏi ở anh ta.


      • 5. Lên kế hoạch cho bước tiếp theo: Nhằm giúp đỡ người nghiện duy trì được quyết tâm tham gia điều trị, chúng ta cần phải giải thích rõ với anh ta về những bước tiếp theo. Nếu như những biện pháp phỏng vấn thông thường có hiệu quả thì tại thời điểm này đối tượng đã hầu như sẵn sàng để tham gia điều trị. Mức độ phủ nhận cũng như phản ứng của anh ta đối với hiện tại cũng đã được giảm đi nhiều.


      Các giai đoạn và quá trình thay đổi của người nghiện ma túy áp dụng trong phỏng vấn:

      Đối tượng nghiện đến với điều trị vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau. Chính những yếu tố đó quyết định động cơ điều trị của từng đối tượng. Để đánh giá được chính xác động cơ điều trị của đối tượng, người phỏng vấn phải nắm được lý thuyết về các giai đoạn và quá trình thay đổi của người nghiện ma túy.


      Có 5 giai đoạn lần lượt là:

      • 1)  Giai đoạn chưa có dự định thay đổi.

      • 2)  Giai đoạn có dự định thay đổi.

      • 3)  Giai đoạn chuẩn bị.

      • 4)  Giai đoạn hành động.

      • 5)  Giai đoạn duy trì.


      Trong giai đoạn 1, đối tượng chưa có dự định thay đổi hành vi trong một tương lai gần. Anh ta không nhận thức được hoặc nhận thức không rõ ràng về khó khăn mà anh ra đang vấp phải. Khi đó, thái độ của anh ta đối với những khó khăn đó là phủ nhận và giấu giếm và anh ta hầu như không nghĩ gì đến sự thay đổi.


      Trong giai đoạn dự định, đối tượng bắt đầu nhận thức được khó khăn của mình và cũng đã suy nghĩ tìm giải pháp để vượt qua nhưng chưa thực sự bắt tay vào bất kỳ một hành động nào, cần phải có sự cân nhắc nghiêm túc để tìm ra một giải pháp hợp lý trong giai đoạn này. Trong giai đoạn chuẩn bị, đối tượng nhận thức rõ được khó khăn của mình và giải pháp khắc phục. Anh ta đang đánh giá lại tất cả những phương án mà anh ta có. Tóm lại, đối tượng đã sẵn sàng cho sự thay đổi.


      Giai đoạn hành động là giai đoạn đối tượng tiến hành điều chỉnh lại hành vi, điều chỉnh lại môi trường nhằm vượt qua những khó khăn cản trở. Trong giai đoạn này đối tượng không chỉ sẵn sàng thay đổi mà còn thực sự giải quyết những vấn đề tồn tại của chính mình.


      Giai đoạn cuối cùng, giai đoạn duy trì là thời điểm mà đối tượng phải học cách phòng ngừa tái nghiện, duy trì những gì anh ta đã đạt được trong giai đoạn hành động. Kinh nghiệm cho thấy rằng, thông thường đối tượng đến với chúng ta khi họ ở giai đoạn 1. Thông qua quá trình phỏng vấn, người phỏng vấn có thể giúp đối tượng nâng cao lòng quyết tâm sang giai đoạn 2 nhằm tăng cường sự sẵn sàng của đối tượng với việc thay đổi hành vi thông qua điều trị.


      Hướng dẫn tổ chức tiến trình phỏng vấn

      Phỏng vấn là điều kiện tiên quyết trước khi một đối tượng mới được chấp nhận tham gia cộng đồng trị liệu TC. Nó được tổ chức ngay vào ngày đầu tiên đối tượng đến xin tham gia điều trị. Mục tiêu đầu tiên của cuộc phỏng vấn là đánh giá động cơ điều trị của đối tượng. Bởi lẽ hầu hết các đối tượng không tự giác muốn tham gia điều trị, họ thường đến với chúng ta bởi vì áp lực của gia đình, sự cưỡng chế của pháp luật ... cho nên vấn đề là phải tổ chức phỏng vấn sao cho đối tượng quyết tâm tình nguyện ở lại điều trị trong môi trường TC. Cuộc phỏng vấn nhất định phải đạt được mục tiêu đề ra này bằng không đối tượng sẽ vấp phải khó khăn ngay trong giai đoạn đầu của điều trị.


      Sàng lọc đối tượng

      Trong quá trình sàng lọc, khi đối tượng gọi điện đến cơ sở điều trị hay đến hỏi về thủ tục gia nhập cộng đồng trị liệu, anh ta phải tự mình bày tỏ rằng: dự định tham gia điều trị là sự lựa chọn của chính anh ta chứ không phải của bố mẹ, của cán bộ pháp luật... Anh ta phải chứng tỏ rằng anh ta thực sự nghiêm túc trong việc kêu gọi sự giúp đỡ của cộng dồng. Người phỏng vấn cũng không làm bất cứ điều gì can thiệp vào quyết định của đối tượng ngoài việc nhắc nhở anh ta phải nghiêm túc và có trách nhiệm với dự định của mình. Đối tượng sẽ được hẹn đến ngày để tham gia phỏng vấn thực sự.


      Quá trình phỏng vấn:

      Quá trình phỏng vấn phải được diễn ra trong một căn phòng biệt lập, tránh xa mọi yếu tố làm phân tán tư tưởng. Trước hết, đối tượng sẽ giới thiệu về bản thân mình trước các thành viên của nhóm phỏng vấn.


      Sau đó trưởng nhóm phỏng vấn sẽ tự giới thiệu về mình tiếp theo đó là các thành viên còn lại của nhóm. Khi các thành viên tự giới thiệu về mình họ cũng cần nói vắn tắt luôn về lý do khiến họ đến với TC cũng như vai trò hiện tại của từng người trong cộng đồng. Mục đích của việc giới thiệu này là giúp đối tượng nắm được thông tin sơ bộ về nhóm phỏng vấn. Quá trình phỏng vấn sau đó sẽ phải gồm những nội dung sau:

      • 1) Gây dựng được lòng tin nơi đối tượng để anh ta sẵn sàng kể lại một cách trung thực khó khăn tồn tại mà anh ta đang vấp phải.

      • 2) Giúp cho đối tượng thể hiện được trách nhiệm của mình đối với những khó khăn kể trên bằng cách gạt bỏ sự phủ nhận thực tại, sự trốn tránh trách nhiệm, sự hợp lý hóa nhằm biện minh cho những sai lầm của anh ta.

      • 3) Giúp cho đối tượng thể hiện sự trung thực bằng tập trung mọi vấn đề xung quanh anh ta thay vì đổ lỗi cho người khác gây ra khó khăn cho mình.

      • 4) Giúp đối tượng thừa nhận sai lầm, nhận thức được nhu cầu cần sự giúp đỡ và có khả năng tìm kiếm giúp đỡ đó.

      • 5) Thuyết phục đối tượng sẵn sàng chấp nhận các quy tắc của cộng đồng nhằm tham gia điều trị. Thuyết phục đối tượng chấp nhận những gợi ý điều trị mà cán bộ điều trị cho là thích hợp với anh ta.


      Sau khi kết thúc phỏng vấn đối tượng phải có khả năng để:

      • 1) Có thể đủ tin tưởng vào nhóm phỏng vấn để tâm sự về khó khăn trong cuộc đời anh ta.

      • 2) Có thể cởi mở hơn và thừa nhận những tồn tại trong thái độ, hành vi mà nhóm phỏng vấn chỉ ra cho anh ta.

      • 3) Có thể thừa nhận sai lầm, sẵn sàng chịu trách nhiệm về hành vi của mình thay vì đổ lỗi cho người khác.

      • 4) Nhận thức được rằng mình cần giúp đỡ và bày tỏ mong muốn nhận được sự giúp đỡ.

      • 5) Quyết tâm sửa đổi, thể hiện mình sẵn sàng phối hợp với chương trình điều trị thông qua việc tuân thủ các quy tắc của cộng đồng, chấp nhận những gợi ý điều trị của nhân viên chuyên nghiệp.


      Sau khi phỏng vấn kết thúc, trưởng nhóm phỏng vấn sẽ yêu cầu đối tượng đợi nhóm họp trong giây lát. Nếu như ý kiến chung là chấp nhận đối tượng, trưởng nhóm phỏng vấn sẽ thông báo cho đối tượng và chúc mừng anh ta gia nhập cộng đồng. Nếu như vẫn còn ý kiến cho rằng anh đối tượng chưa đủ điều kiện tham gia, chưa thể hiện rõ quyết tâm điều trị thì phải đợi tham khảo ý kiến của lãnh đạo cộng đồng trước khi chấp nhận đốì tượng. Nếu đối tượng không thỏa mãn các yêu cầu gia nhập TC, anh ta sẽ được giới thiệu đến một chương trình điều trị khác thích hợp hơn hoặc được hẹn phỏng vấn lại vào một thời điểm khác khi anh ta đã củng cố được quyết tâm và động lực điều trị.


      Nếu đối tượng được chấp nhận thì ngay buổi đầu tiên anh ta sẽ được giới thiệu trước cộng đồng và được cộng đồng chào đón như một thành viên mới.