All posts by admin

CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

CÁC PHƯƠNG PHÁP 
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. CÁCH PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY


Kế hoạch phòng ngừa tái nghiện luôn được vạch định kỹ lưỡng tùy theo từng đối tượng. Họ được học tập và trang bị nhiều kiến thức, những kỹ năng để vượt qua những yếu tố nguy cơ.

Việc tái nghiện không bao giờ là một hành vi nhất thời – Nó là một quá trình tư tưởng nhận thức mà hành vi cuối cùng là tái nghiện.

Vì vậy, việc phục hồi cho những người nghiện ma túy không những là một quá trình từ bỏ sử dụng ma túy, mà còn duy trì được trạng thái sống không có ma túy, kèm theo với những thay đổi nội tâm cùng với những thay đổi trong quan hệ cá nhân. Một bệnh nhân không có các thay đổi này thì tình trạng sống không có ma túy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, sau đó là sự tái nghiện.


I/ GIAI ĐOẠN BÁO HIỆU TÁI NGHIỆN:


Sa ngã là giai đoạn đầu tiên sử dụng rượu hay sử dụng ma túy ngay sau quá trình phục hồi. Giai đoạn sa ngã có thể đưa đến tái nghiện hoặc không. Một bệnh nhân khi rời khỏi Trung tâm rất thường hay sa ngã. Sa ngã mang tính chất ngẫu hứng, tò mò muốn thử lại xem sao.

Sa ngã chưa phải là tái nghiện. Trước khi tái nghiện, bệnh nhân phải trải qua một quá trình tư tưởng được lộ qua những triệu chứng những dấu hiện đe đọa việc họ sẽ quay trở về với ma túy.

Khi có những cảm giác thèm thuốc, những suy nghĩ đấu tranh nội tâm của bệnh nhân khởi phát. Nếu bệnh nhân đầu hàng, hành vi tái nghiện sẽ xảy ra.

Cảm giác thèm thuốc luôn luôn gây nên một quá trình nhận thức lệch lạc. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan tạo cảm giác như sau:

tái nghiện ma túy

Về hành vi, bệnh nhân có những biểu hiện:

-  Sử dụng những chấy gây nghiện khác: rượu, thuốc ngủ….

-  Vẻ căng thẳng tâm trí, bối rối do xung đột nội tâm.

-  Hưng phấn hay trầm cảm quá độ.


II/ NHỮNG ĐỘNG CƠ CHÍNH GÂY TÁI NGHIỆN:


Gồm hai nhóm đặc tính: nội tâm bệnh nhân và những quan hệ cá nhân của đối tượng, hoặc cả hai cùng phối hợp.

1/ VỀ CẢM XÚC:

Do hoàn cảnh sống, bệnh nhân nếu bị trầm cảm hay hưng phấnHai trạng thái này đều dễ dẫn tới tái nghiện.

2/ VỀ HÀNH VI:

·         Người nghiện rất thường thiếu kỹ năng xử lý tình huống. Họ dễ bị lôi cuốn khi gặp bạn bè cũ, nhữngtình huống nguy cơ.

·         Những thời gian nghiện ngập tạo cho bệnh nhân một phản xạ xấuthấy ma túy là sử dụng (tính bốc đồng khi có cơ hội).

3/ VỀ NHẬN THỨC:

·         Kém nhiệt tình học tập trong quá trình điều trị, tiếp thu kém.

·         Không tin rằng mình có khả năng đoạn tuyệt với ma túy.

·         Có thương tổn trong đầu óc, không còn khả năng tiếp thu điều trị.

4/ VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ QUAN HỆ CÁ NHÂN:

·         Thiếu hỗ trợ của gia đình và xã hội.

·         Bị áp lực của bạn bè xấu.

·         Thất nghiệp hay lâm vào hòan cảnh khó khăn.

·         Để thì thời gian nhàn rỗi quá nhiều.

5/ VỀ MẶT SINH LÝ HỌC:

·         Không thắng được cảm giác thèm thuốc.

·         Có bệnh đau mãn tính.

6/ VỀ MẶT TÂM THẦN, TÂM LINH:

·         Có mặc cảm tội lỗi, xấu hổ âm thầm trong nội tâm không xóa được.

·         Cảm giác trống rỗng chẳng có mục đích ý nghĩa gì

7/ VỀ TRUNG TÂM CAI NGHIỆN:

·         Nhân viên điều trị đã gây ra ấn tượng xấu vào tâm trí bệnh nhân.

·         Kế hoạch điều trị không thích ứng.

·         Kế hoạch theo dõi hậu cai chưa đầy đủ.


III/ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN:


1/ PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN:

1.1 MỤC TIÊU:

-   Cho người cai nghiện sử dụng thuốc NALTREXONE để đối tượng không còn thèm nhớ và tìm kiếm ma túy.

-   Hoặc sử dụng thuốc Methadone là một chất gây nghiện nhưng ít độc hại hơn Heroin, giá cả rẻ hơn Heroin.

-   Methadone sử dụng uống nên không gây lây nhiễm các bệnh HIV/AIDS, viêm gan siêu vi B - C

-   Việc điều trị thuốc Naltrexone hoặc Methadol phải tùy thuộc vào hoàn cảnh, bệnh lý từng đối tượng

-   Trang bị cho người nghiện kỹ năng vượt qua cảm giác thèm thuốc, ví dụ bỏ qua không chú ý đến cảm giác của bản thân, giữtâm hồn vững vàng, luyện tập hô hấp hít thở sâu đều đặn bằng ý chí, các phương pháp thiền kết hợp với kỹ năng tư vấn - liệu pháp tâm lý - liệu pháp giáo dục - liệu pháp xã hội.

-   Trang bị cho người nghiện khả năng sử lý tình huống nguy cơ cao. Ví dụ tham gia vui chơi giải trí, văn hóa thể thao, làm những việc hữu ích như giúp đỡ bạn nghiện, sống cuộc sống điều độkhông cần tời bất kỳ một chất gây nghiện nào, nhất là rượu.

-   Chuẩn bị tinh thần đối phó với tình huống có thể bị sa ngã khi có thời cơ như đi phép, thấy có ma túy trong tầm tay.

ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC CHO

NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH

(OPIUM * MORPHINE * HEROIN)

(THUỐC PHIỆN * MOCPHIN * HÊ-RÔ-IN)

CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OMH BẰNG THUỐC NALTREXONE THAY THẾ  ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OMH BẰNG THUỐC METHADONE

I. KHÁI QUÁT:

1. Naltrexone là chất đối kháng nhóm OMH.

2. Naltrexone được sử dụng để loại trừ cảm giác thèm nhớ ma túy nhóm OMH.

3. Naltrexone không gây nghiện.

4. Uống thuốc 3 lần / tuần.

5. Ngừng thuốc Naltrexone bệnh nhân không bị hội chứng cai.

I. KHÁI QUÁT:

1.  Methadone là chất đồng vận nhóm OMH

2.  Methadone được sử dụng để thay thế khoái cảm của ma túy nhóm OMH.

3.  Methadone là chất gây nghiện.

4.  Uống thuốc mỗi ngày.

5.  Ngừng thuốc Methadone bệnh nhân bị hội chứng cai.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Naltrexone vào hệ thần kinh Trung ương bịt lỗ khóa các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não, vô hiệu hóa các tác dụng gây nghiện của các chất nhóm OMH.

II. DƯỢC LỰC HỌC:

-  Methadone vào hệ thần kinh Trung ương tác động vào các thụ thể µ, k, Δ, … ở các recepter của não: tác dụng giảm đau, êm dịu, giảm hô hấp, giảm ho, gây khoái cảm nhưng yếu hơn nhóm OMH.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

+ Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất 1 giờ sau khi uống.

III. DƯỢC ĐỘNG HỌC

1. Hấp thu:

Hấp thu nhanh qua đường uống

+ Nồng độ phân bổ trong huyết tương cao nhất  3 - 4 giờ sau khi uống.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthành 6 β Naltrexonechất chuyển hóa có tác dụng đối kháng nhóm OMH.

*Thời gian bán hủy của Naltrexone  khoảng 4 giờ. Thời gian bán hủy của 6 β Naltrexone khoảng 10 giờ.

2. Phân bổ chuyển hóa:

* Phân bổ trong các mô và huyết tương.

Chuyển hóa ở ganthông qua men Cytochrome P450, chất  chuyển hóa không có tác dụng.

Thời gian bán hủycủa Methadone  khoảng 24 giờ.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

3. Thải trừ:

Chủ yếu thải trừ qua thậnnước tiểu.

IV.TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1.  Thường gặp: mất ngủ, lo âu, mệt mỏi, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, đau cơ, chóng mặt, dễ kích thích, tăng tiết mồ hôi, cảm giác khát, chảy nước mũi, ăn không ngon…

2.  Giai đoạn đầu: thường có một số tác dụng không mong muốn nhẹ và trung bìnhGiảm dần theo thời gian, thường mất sau vài ngày đến vài tuần.

IV.    TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN:

1. Thường gặp: rối loạn giấc ngủ, buồn nôn, nôn, táo bón, khô miệng, tăng tiết mồ hôi, giãn mạch, gây ngứa, giữ nước, tăng cân, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chức năng tình dục…

2. Ít gặp các tác dụng không mong muốn.

Tuy nhiên triệu chứng táo bónrối loạn chức năng tình dụctăng tiết mồ hôi vẫn có thể tồn tại trong quá trình điều trị.

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho người đã cắt cơn và có nguyện vọng được sử dụng Naltrexone để hỗ trợ điều trị chống tái nghiện.

1.   Những người mới nghiện nhóm OMH đã được cắt cơn, giải độc.

2.   Những người đã điều trị cắt cơn và được phục hồi chức năng tâm lý xã hội.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Methadone có nguyện vọng chuyển sang điều trị hỗ trợ chống tái nghiện bằng thuốc Naltrexone (sau khi được cắt cơn từ 7 - 10 ngày).

V. CHỈ ĐỊNH:

Cho những người nghiện ma túy nhóm OMH có nguyện vọng được điều trị thuốc thay thế Methadone.

1.   Những người nghiện ma túy nhóm OMH một thời gian quá dài.

2.   Những người đã cai nghiện nhiều lần nhưng thất bại.

3.   Những người nghiện nhóm OMH đã được điều trị bằng liệu pháp Naltrexone nhưng thất bại nhiều lần.

4.   Người nhiễm HIV giai đoạn cuối.

5.   Phụ nữ nghiện nhóm OMH đang mang thai.

6.   Ung thư

7.   Có nhiều tiền án, tiền sự

VI. CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Naltrexone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặng, viêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong giai đoạn cắt cơn giải độc ma túy nhóm OMH hoặc đang sử dụng các loại thuốc có chứa các chất nhóm OMH.

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VI.CHỐNG CHỈ ĐỊNH:

1.     Người bệnh quá mẫn cảm với thuốc, dị ứng với Methadone, tá dược của thuốc.

2.     Người bệnh bị tổn thương gan nặngviêm gan cấp.

3.     Người bệnh đang trong thời gian điều trị bằng thuốc đồng vận, đối vận, hoặc vừa đồng vận, vừa đối vận với ma túy nhóm OMH (LAAM, Naltrexone, Buprenophine….).

4.     Người bệnh đang bị rối loạn tâm thần nặng.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Naltrexone cho những người đã cai nghiện các chất nhóm OMH gồm:

1.   Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.   Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.   Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.   Người bệnh là phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.

5.   Người bệnh nhiễm HIV giai đoạn cuối.

6.   Người bệnh dưới 18 tuổi.

VII. THẬN TRỌNG:

Thận trọng sử dụng Methadone  cho những người nghiện nhóm OMH gồm:

1.     Người bệnh nghiện đồng thời nhiều loại ma túy.

2.     Người bệnh bị bệnh tâm thần.

3.     Người bệnh có tổn thương gan, thận.

4.     Người bệnh có tiền sử sử dụng Naltrexone.

5.     Người bệnh nghiện rượu

6.     Người có bệnh mãn tính: hen, phế quản, suy thượng thận, suy giáp, phì đại tuyến tiền liệt, đái tháo đường.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1.Không sử dụng Naltrexone với các thuốc có chứa các chất nhóm OMH vì nguy cơ ngộ độc các chất nhóm OMH do mất khả năng dung nạp.

2.Khôngsử dụng Naltrexone với Thioridagine vì có nguy cơgây ngủ gà, đờ đẫn, ngủ gật.

VIII. TƯƠNG TÁC THUỐC:

1. Các thuốc kích thích men cytochrome P 450 của gan làm tăng chuyển hóa Methadone do đó làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Các thuốc ức chế cytochrome P450 của gan làm giảm chuyển hóa Methadone, do đó làm tăng nồng độ Methadone trong máu.

2. Một số thuốc kháng HIV(Neviropine, Efavirang) làm tăng chuyển hóa Methadone do dó làm giảm nồng độ Methadone trong máu.

3. Một số thuốc hướng thần như Benzodiazépine có thể làm tăng tác dụng củaMethadone do đồng tác dụng.

4. Rượu đồng tác dụng với Methadone trên hệ hô hấp gây nguy cơ suy hô hấp.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Phải duy trì ít nhất là 12 tháng.

IX. THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ:

Thời gian điều trị tùy từng cá nhân không có điểm giới hạn, thậm chí có thể suốt đời.

DÙ PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG NALTREXONE HAY THUỐC THAY THẾ METHADONE THÌ BIỆN PHÁP TƯ VẤN – LIỆU PHÁP TÂM LÝ – LIỆU PHÁP GIÁO DỤC – LIỆU PHÁP XÃ HỘI LÀ RẤT QUAN TRỌNG. NẾU NGƯỜI CAI NGHIỆN CHỈ SỬ DỤNG ĐƠN THUẦN THUỐC NALTREXONE HOẶC METHADONE KẾT QUẢ SẼ HẠN CHẾ.

1.2/ KẾ HOẠCH:

-      Giúp bệnh nhân xác định được nguyên nhân dẫn dắt họ đi vào ma tuý.

-      Nhân viên điều trị phải tìm ra những yếu tố nguy cơcủa bệnh nhân và giúp họ nhận thức được chúng, học tập khả năng vượt qua chúng.

-      Giúp cho bệnh nhânhiểu rằng tái nghiện là một quá trình xảy ra trong nội tâm bệnh nhân và cuối cùng dẫn đến là một hành vi tái sử dụng.

-      Giúp bệnh nhân hiểu được tại sao có cảm giác thèm thuốctrong tư tưởng và học tập để vượt qua cảm giác ấy.

-      Giúp bệnh nhân hiểu và có thể đương đầuvới áp lực củabạn bè cũphe nhóm xấu muốn họ tái nghiện.

-      Giúp bệnh nhân có một tổ chức hỗ trợ.

-      Nếu bệnh nhân bị vui hay buồn quá độ, giúp họ nhận ra tình trạng bất thường ấy để tìm cách vượt qua.

-      Nếu bệnh nhân có những nhận thức sai lạc, giúp họ cách xử lý chúng.

-      Giúp bệnh nhân hướng tới một lối sống điều độ, cân bằng.

-      Giúp bệnh nhân tự xây dựng cho mình những biện pháp phòng chống sa ngã và tái nghiện.

1.3/ BIỆN PHÁP:

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính - khó chữa - dễ tái phát nhưng có thể chữa được.

Não bộ thể hiện những thay đổi một cách rõ ràng sau sử dụng ma túy và những thay đổi này vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi đã ngừng sử dụng ma túy.

Điều trị sẽ cho kết quả tốt nhưng với điều kiện:

+ Đúng phương pháp

+ Đúng thời gian

+ Đúng thuốc

+ Đúng người bệnh

Việc PHÒNG BỆNH - CHỮA BỆNH và CHỐNG TÁI NGHIỆNsau cai là BA VẤN ĐỀ LỚN phải được tác nghiệp đồng bộ, phải có một chiến lược khoa học thống nhất - kiên quyết - xuyên suốt - khép kín - kịp thời - thích ứng với đặc điểm của mỗi trường hợp. Bởi lý do nghiện rất đa dạng và phức tạp bắt nguồn từ những xáo trộn khác nhau về cuộc sống, các vấn đề nội tâm - gia đình và xã hội cho nên việc điều trị cai nghiện thích ứng với một bệnh nhân này lại không thích ứng cho bệnh nhân khác, nhưng dù bất cứ bệnh nhân nào, việc điều chỉnh nhận thức - hành vi và nhân cách là điều phải làm, dẫu dùng phương pháp Methadone hoặc chất đối kháng Naltrexone.

Việc kết hợp quản lý bệnh nhân bằng các dịch vụ y tế cùng các liệu pháp tâm lý - giáo dục, thỏa mãn mọi yêu cầu điều trịcủa đối tượng là trọng tâm của mọi kế hoạch điều trị. Chương trình điều trị phải đề ra biện pháp trên cơ sở tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, cha mẹ, hoàn cảnh, công ăn việc làm, cũng như tiền sử lạm dụng sức khỏe, lạm dụng tình dục của bệnh nhân. Việc điều trị phải được tiến hành dài ngày với những biện pháp khác nhau theo từng giai đoạn tiến triển của bệnh nhân.

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính có đặc điểm là dễ tái nghiện sau khi cai cho nên điều trị phải là một quá trình dài, bao gồm những biện pháp đa dạng và sự nỗ lực tối đa, ngay cả khi bệnh nhân đã trở về tái hòa nhập cộng đồng. Nhưng do hiểu biết chưa đủ về tính chất nghiện của ma túy lại xảy ra tình trạng bệnh nhân đông, số nhân viên thì íttrình độ hiểu biết về ma túy có mặthạn chế, tình trạng săn sóc hậu cai không đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện hiện nay là rất cao.

Cai nghiện ma túy được gọi là thành công phải đạt được 4 yếu tố:

+ Không tái sử dụng ma túy

+ Có một lối sống chuẩn mực, tự quản lý bản thân

+ Thực hiện thành công sự thay đổi về nhận thức

+ Phục hồi được hệ thống não bộ đã bị tổn thương, ngộ độc vì ma túy.

2. PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH

2.1. CÁC QUY TẮC GIẢM NGUY CƠ (TÁC HẠI):

- Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”

Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn và tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.

- Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

2.2. GIẢM NGUY CƠ, CÁC NẤC THANG MỤC TIÊU:

Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:

-  Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).

-  Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).

-  Không tiêm chích ma túy

-  Nếu tiêm chích, không chích chung.

-  Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

2.3. GIẢM NGUY CƠ/ GIẢM TÁC HẠI:

Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

- Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).

-  Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).

-  Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

2.4. CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM TÁC HẠI CỤ THỂ:

- Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:

Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).

Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).

Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).

Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:

- Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.

- Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.

- Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

2.5. CHƯƠNG TRÌNH GIẢM TÁC HẠI CHO NGƯỜI SỬ DỤNG CHẤT KÍCH THÍCH:

- Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:

- Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng

Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp

- Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại

Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích

- Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.

- Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

2.6. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC:

Khuyến nghị:

- Củng cố luật pháp

- Giải quyết bạo lực gia đình

- Vấn đề y tế công cộng STD/HIV

- Phúc lợi cho trẻ em

- Các bệnh nhiễm trùng

- Lạm dụng chất gây nghiện

- Sức khỏe tâm thần

- Đào tạo cán bộ điều trị

- Giáo dục

- Thông tin đại chúng


B. KẾT LUẬN:


Bốn vấn đề chính yếu trong công tác điều trị nghiện ma túy là:

1.   Sớm nhận biết các dấu hiệu của người sử dụng ma túy để điều trị kịp thời

2.   Trong phương pháp điều trị vấn đề gọt dũa, phục hồi nhận thức hành vi nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý và mâu thuẫn nội tâm là quan trọng nhất thông qua tư vấn, liệu pháp tâm lý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hội, lao động trị liệu, hoạt động trị liệu, giải trí trị liệu là rất cần thiết.

3.   Với người nghiện heroin, liệu pháp sử dụng thuốc giữ một vai trò quan trọng.

4.   Với người nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích do chưa có thuốc điều trị nên việc giảm nguy cơ, giảm tác hại là vô cùng cần thiết.

 

Nghiên cứu thực trạng tái nghiện rượu giai đoạn 2006 – 2010

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TÁI NGHIỆN RƯỢU

TRÊN NHỮNG BỆNH NHÂN NGHIỆN RƯỢU

ĐÃ ĐIỀU TRỊ TẠI VIỆN SỨC KHỎE TÂM THẦN

GIAI ĐOẠN 2006 - 2010


Tóm tắt:

Mục tiêu: Mô tả thực trạng tái nghiện rượu trên những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần (VSKTT) giai đoạn 2006 - 2010 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu ở những bệnh nhân trên.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả các bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại VSKTT - giai đoạn 2006 - 2010, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Thời gian nghiên cứu: 04 - 08/2011.

Kết quả và kết luận: 62,8% đối tượng nghiên cứu đã tái nghiện rượu trong thời gian 12 tháng sau điều trị tại VSKTT, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong 3 tháng đầu sau điều trị (42,9 %). Trong nhóm đối tượng tái nghiện rượu, phần lớn có số lần cai nghiện từ 4 lần trở lên (51,9%); lượng rượu uống trung bình trong ngày, tính theo đơn vị rượu chuẩn: 15,01±13,54; rượu trắng 30-400 là loại rượu sử dụng phổ biến nhất. Lý do tái nghiện rượu chủ yếu là thèm nhớ (61,9%). 74,1% đối tượng tái nghiện rượu hút thuốc lá thường xuyên. Rối loạn trầm cảm làm tăng tỷ lệ tái nghiện rượu. Việc điều trị chống tái nghiện rượu chưa được hướng dẫn và chưa có hệ thống , hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao.


I. Đặt vấn đề


Lạm dụng và nghiện rượu làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh tật, tai nạn thương tích và ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, xã hội. Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm ( 2005) lạm dụng rượu chiếm 4% gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Chi phí để giải quyết các hậu quả do rượu gây ra  ở Anh và Nhật Bản chiếm khoảng 6 tỷ USD/năm, ở Mỹ con số này là 190 tỷ USD/năm. Ở Việt Nam chi phí cho rượu hàng năm vào khoảng 6.000 tỷ đồng .

Mặc dù trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới đã có các chương trình tuyên truyền về tác hại của việc lạm dụng rượu cũng như áp dụng nhiều biện pháp điều trị cai nghiện và chống tái nghiện nhưng tỉ lệ lạm dụng và nghiện rượu vẫn tiếp tục gia tăng . Một phần do số người mới nghiện  tăng lên nhưng mặt khác do số người sau khi đã cai rượu, vì lí do nào đó quay trở lại sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Một số nghiên cứu trên thế giới đã đề cập đến vấn đề tái nghiện rượu sau cai và đều thấy rằng phần lớn những người nghiện rượu tái nghiện trong vòng sáu tháng. Việc tái nghiện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng các tác giả thường đề cập đến bốn nhóm  chính: yếu tố sinh học, các đặc điểm tâm lý cá nhân, ảnh hưởng của gia đình, xã hội và vấn đề điều trị dự phòng chống tái nghiện rượu.

Ở Việt Nam đến nay chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu sâu về vấn đề tái nghiện rượu ở những người đã được cai nghiện tại cơ sở y tế. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng tái nghiện trên những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần giai đoạn 2006 - 2010 và phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu ở những bệnh nhân trên.


II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu theo ICD-10F, đã được điều trị tại Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai giai đoạn 2006 - 2010, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Thời gian nghiên cứu: 04 - 08/2011.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Nghiên cứu mô tả những bệnh nhân nghiện rượu đã điều trị tại Viện SKTT.

+ Phương pháp thu thập số liệu: Nghiên cứu bệnh án các bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu đã được điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ năm 2006 đến 2010 lưu tại phòng Kế hoạch tổng hợp - Bệnh viện Bạch Mai, lựa chọn những bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn, từ địa chỉ và số điện thoại ghi trong hồ sơ bệnh án liên hệ trước với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân để hẹn phỏng vấn trực tiếp. Hướng dẫn bệnh nhân làm trắc nghiệm tâm lý: test Beck, test Zung.

+ Số liệu thu thập được phân tích và xử bằng phần mềm SPSS 16.0.


III. Kết quả


Trong giai đoạn 2006 - 2010, Viện Sức khỏe Tâm thần có 95 bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu, thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện rượu theo ICD-10F, ra viện cách thời điểm nghiên cứu ít nhất 1 năm, hiện cư trú tại các quận nội thành Hà Nội. Sau khi tiến hành thu thập số liệu, chúng tôi thấy có 32 bệnh nhân không liên lạc được (do địa chỉ và số điện thoại lưu trong hồ sơ bệnh án không chính xác), 5 bệnh nhân hiện không ở Hà Nội, 6 bệnh nhân không hợp tác, 2 bệnh nhân đang đi trại cai nghiện Heroin, 7 bệnh nhân đã mất và chỉ có 43 bệnh nhân được lấy vào mẫu nghiên cứu.


1. Thực trạng tái nghiện rượu

Tỉ lệ tái  nghiện rượu: Số đối tượng tái nghiện rượu là 27/43, chiếm tỷ lệ cao 62,8%.

Loại rượu thường sử dụng và lượng rượu uống trung bình/ngày ở nhóm tái nghiện

Bảng 1: Loại rượu bia thường sử dụng và lượng rượu uống trung bình/ngày

Loại rượu bia thường sử dụng

Tái nghiện

 
 

Số lượng

Tỉ lệ %

Rượu 40 độ

13

48,2

Rượu 30 độ

12

44,4

Rượu vang, sâm banh 20 độ

1

3,7

Rượu vang, sâm banh 13 độ

5

18,5

Bia lon 4 - 5 độ

0

0

Bia hơi dưới 3 độ

9

33,3

Khác

1

3,7

Lượng rượu trung bình/ngày (đơn vị rượu chuẩn) *±SD: 15,01 ± 13,54  

- Loại rượu các đối tượng tái nghiện thường sử dụng nhất là rượu trắng 30-400

- Lượng rượu uống trung bình trong ngày rất cao: 15,01 ± 13,54

Sử dụng chất gây nghiện kết hợp

Bảng 2. Sử dụng chất gây nghiện kết hợp

Chất gây nghiện

Tái nghiện

 
 

Số lượng

Tỉ lệ %

Thuốc lá

20

74,1

Chất khác

0

0

Không sử dụng

7

25,9

Tổng

27

100

- Chất gây nghiện duy nhất được sử dụng kết hợp ở những đối tượng nghiên cứu tái nghiện rượu là thuốc lá, chiếm 74,1%.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tái  nghiện rượu

Bảng 3.  Mối liên quan giữa số lần cai nghiện rượu và tái nghiện rượu

Số lần cai

nghiện rượu

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

   
 

n

%

n

%

 

1 lần

8

29,6

11

68,8

< 0,05

2 lần

3

11,1

3

18,8

 

3 lần

2

7,4

1

6,2

 

≥ 4 lần

14

51,9

1

6,2

 

- Nhóm tái nghiện có số lần cai nghiện rượu từ 4 lần trở lên cao hơn đáng kể so với nhóm chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p < 0,05.

Bảng 4.  Mối liên quan giữa sang chấn tâm lý, cảm giác thèm nhớ và tái nghiện rượu

Biến số

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

     
 

n

%

n

%

   

SCTL

10

37

1

6,3

< 0,05

 

Không

17

63

15

93,7

 

Cảm giác thèm nhớ

20

74,1

6

37,5

< 0,05

 

Không

7

25,9

10

62,5

 

- Tỷ lệ gặp sang chấn tâm lý ở nhóm tái nghiện cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

- Tỷ lệ xuất hiện cảm giác thèm nhớ ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với nhóm đối tượng chưa tái nghiện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Bảng 5.  Mối liên quan giữa rối loạn tâm thần phối hợp và tái nghiện rượu

Rối loạn tâm thần

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

     
 

n

%

n

%

   

Rối loạn trầm cảm

Không

16

59,3

15

93,8

< 0,05

 

Nhẹ

5

18,5

1

6,2

 
 

Vừa

6

22,2

0

0

 
 

Nặng

0

0

0

0

 

 - Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về rối loạn trầm cảm giữa nhóm tái nghiện và nhóm chưa tái nghiện rượu, với p < 0,05. Tỷ lệ rối loạn trầm cảm mức độ nhẹ và vừa gặp nhiều hơn rõ rệt ở nhóm đối tượng đã tái nghiện so với nhóm chưa tái nghiện.

Bảng 6 .  Mối liên quan giữa điều trị dự phòng chống tái nghiện và tái nghiện rượu

Biến số

Tái nghiện

Chưa tái nghiện

p

   
 

n

%

n

%

 

Có điều trị

13

48,2

2

12,5

< 0,05

Không điều trị

14

51,8

14

87,5

 

- Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về việc điều trị chống tái nghiện rượu giữa hai nhóm đối tượng, p < 0,05. Tỷ lệ có điều trị ở nhóm tái nghiện cao hơn nhóm chưa tái nghiện.


IV. Bàn luận


1. Thực trạng tái nghiện rượu

- Khi đánh giá tình hình tái nghiện rượu ở 43 đối tượng nghiên cứu trong thời gian 12 tháng sau khi điều trị tại VSKTT gần thời điểm nghiên cứu nhất, có 62,8% đối tượng tái nghiện rượu. Kết quả này tương tự một số nghiên cứu trên thế giới như Miller và cộng sự (2001), Bradizza và cộng sự (2006), Walitzer và Dearing (2006) [3], [10]. Như vậy, tỷ lệ tái nghiện rượu nhìn chung vẫn ở mức tương đối cao, điều này chứng tỏ vấn đề duy trì, kéo dài khoảng thời gian không sử dụng rượu sau khi đã cai nghiện vẫn là mục tiêu hết sức khó khăn trong kế hoạch điều trị chống tái nghiện rượu của nhiều quốc gia trên thế giới.

Tỷ lệ tái nghiện rượu cao nhất trong khoảng dưới 3 tháng đầu sau khi cai nghiện rượu, chiếm khoảng 41,9%, sau đó giảm dần theo thời gian. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Domingos Neto và cộng sự (2008) [6]. Điều này đòi hỏi cần có các biện pháp điều trị dự phòng tái nghiện tích cực cho các đối tượng nghiện rượu ngay sau khi cai nghiện.

- Số lần cai nghiện rượu ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu: 51,9% đối tượng đã cai nghiện rượu từ 4 lần trở lên, chiếm tỷ lệ cao nhất. Như vậy, nhiều đối tượng nghiện rượu đã cai nghiện và sau đó lại tái sử dụng rượu nhiều lần, chứng tỏ rượu là một chất gây nghiện rất khó từ bỏ, dễ gây tái nghiện trở lại.

Lượng rượu uống trung bình trong ngày của các đối tượng nghiên cứu tái nghiện rượu, tính theo đơn vị rượu chuẩn là 15,01±13,54. Đây là một vấn đề đáng báo động đối với việc nghiện rượu và tái nghiện rượu ở nước ta hiện nay do mức độ tiêu thụ rượu của các đối tượng là rất cao, vượt quá nhiều so với mức sử dụng rượu an toàn đối với sức khỏe, do Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là không quá 3 đơn vị rượu chuẩn/ngày đối với nam và không quá 2 đơn vị rượu chuẩn/ngày đối với nữ.

- Loại rượu bia các đối tượng tái nghiện thường sử dụng không thay đổi trước và sau khi tái nghiện, phổ biến nhất vẫn là rượu trắng 30-400. Kết quả này không khác biệt so với nhiều nghiên cứu khác ở trong nước như nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng (2009) [1]. Trên thị trường Việt Nam hiện nay, rượu trắng bao gồm rượu do tư nhân tự nấu và do nhà máy sản xuất, trong đó chủ yếu là loại rượu tự nấu với giá thành rẻ, sẵn có ở mọi nơi, mọi lúc, nên người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận hơn. Tuy nhiên, rượu trắng tự cất thường không đảm bảo các yêu cầu an toàn thực phẩm, có hàm lượng aldehyde cao, hầu hết đều dựa vào kinh nghiệm cá nhân của người chủ sản xuất. Hơn nữa, việc thiếu kiến thức và ý thức chấp hành luật pháp, vì lợi nhuận mà sản xuất rượu giả, rượu không bảo đảm chất lượng, đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng người dân và sức khoẻ cộng đồng.

- Chúng tôi nhận thấy rằng có rất nhiều lý do mà những người tái nghiện rượu đưa ra để giải thích cho việc tái sử dụng rượu thường xuyên của mình, trong đó chiếm tỷ lệ lớn nhất là do thèm nhớ (61,9%). Cũng vì lý do này mà trên thế giới đã có nhiều phương pháp điều trị duy trì, chống tái nghiện rượu bằng cách tác động làm mất cảm giác thèm nhớ, tuy nhiên vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

- Chất gây nghiện duy nhất được sử dụng kết hợp ở những người hiện đã tái nghiện rượu trong nghiên cứu của chúng tôi là thuốc lá. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới, nó phản ánh tính chất đa nghiện ở những đối tượng nghiện rượu.


2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tái nghiện rượu

- Những đối tượng tái nghiện có số lần cai nghiện rượu càng nhiều thì khả năng tái nghiện càng cao. Thực tế nhiều đối tượng nghiện rượu ngoài những lần nhập viện điều trị các rối loạn tâm thần liên quan đến sử dụng rượu đồng thời cai nghiện rượu, họ cũng có nhiều lần tự cai nghiện tại nhà. Tuy nhiên, phần lớn sẽ quay trở lại sử dụng rượu trong thời gian ngắn, chứng tỏ họ chưa tiếp cận được với những phương pháp điều trị chống tái nghiện hiệu quả.

- Tỷ lệ gặp sang chấn tâm lý ở nhóm tái nghiện cao hơn nhóm chưa tái nghiện. Điều này chứng tỏ các sang chấn tâm lý có ảnh hưởng đến việc tái nghiện rượu. Kết quả trên cũng phù hợp với nghiên cứu của Brown, S. A và cộng sự (1995) [4]. Phần lớn những người nghiện rượu sau khi cai nghiện, trở về với gia đình và cộng đồng gặp rất nhiều áp lực tâm lý xã hội. Những lúc đó một số người vẫn xem rượu như cách để giải quyết hay đối phó với các vấn đề khó khăn trong cuộc sống và dễ dàng sử dụng trở lại.

- Tỷ lệ xuất hiện cảm giác thèm nhớ ở nhóm đối tượng tái nghiện rượu cao hơn rõ rệt so với nhóm đối tượng chưa tái nghiện. Việc thèm nhớ rượu mạnh mẽ được nhiều tác giả nghiên cứu xem như một trong những yếu tố tiên lượng tái nghiện rượu [2], [8].

- Tỷ lệ rối loạn trầm cảm mức độ nhẹ và vừa gặp nhiều hơn rõ rệt ở nhóm đối tượng đã tái nghiện so với nhóm chưa tái nghiện, khi đánh giá các đối tượng ở thời điểm nghiên cứu, dựa trên thang điểm đánh giá trầm cảm của Beck. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Conor K. Farren và Sharon Mc Elroy (2010), Gamble và cộng sự (2010), Hasin và cộng sự (2002) [5], [7], [9]. Chính vì vậy, việc phát hiện, điều trị sớm và đồng thời trầm cảm ở những bệnh nhân nghiện rượu sẽ góp phần làm giảm nguy cơ tái nghiện.

- Trong nghiên cứu của chúng tôi, phương pháp điều trị chống tái nghiện mà một số đối tượng nghiện rượu  áp dụng chỉ là liệu pháp hoá dược không hệ thống .Tỷ lệ có điều trị ở nhóm tái nghiện lại cao hơn nhóm chưa tái nghiện, chứng tỏ hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao. Điều này có thể được giải thích là do nhiều bệnh nhân sau khi ra viện chỉ theo đuổi điều trị chống tái nghiện trong một thời gian ngắn hoặc điều trị không thường xuyên, phần lớn không nhớ rõ tên thuốc, không theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc hoặc nhận được phương pháp điều trị chưa phù hợp, trong khi những bệnh nhân chưa tái nghiện có thể do tác động của những yếu tố bảo vệ khác.


V. Kết luận


- 62,8% đối tượng tham gia nghiên cứu đã tái nghiện rượu trong thời gian 12 tháng sau khi điều trị tại VSKTT, tỷ lệ tái nghiện cao nhất trong 3 tháng đầu sau khi điều trị (42,9 %).

- Trong nhóm đối tượng tái nghiện rượu, phần lớn có số lần cai nghiện từ 4 lần trở lên (51,9%); lượng rượu uống trung bình trong ngày, tính theo đơn vị rượu chuẩn: 15,01±13,54; rượu trắng 30-400 là loại rượu sử dụng phổ biến nhất.

- Lý do tái nghiện rượu chủ yếu là thèm nhớ (61,9%).

- Thuốc lá là chất gây nghiện sử dụng kết hợp với rượu duy nhất ở những đối tượng nghiên cứu, trong đó 74,1% đối tượng tái nghiện rượu hút thuốc lá thường xuyên.

- Số lần cai nghiện rượu càng nhiều, các sang chấn tâm lý, cảm giác thèm nhớ rượu và sự xuất hiện đồng thời rối loạn trầm cảm làm tăng tỷ lệ tái nghiện rượu.

- Có mối liên quan giữa vấn đề điều trị chống tái nghiện rượu và việc tái nghiện. Tuy nhiên điều trị chống tái nghiện rượu chưa được hướng dẫn và chưa có hệ thống , hiệu quả điều trị chống tái nghiện chưa cao.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.  Hoàng Thị Phượng (2009), Thực trạng, các yếu tố ảnh hưởng và tác hại của lạm dụng rượu bia ở một số vùng sinh thái của Việt Nam, Luận án tiến sỹ y tế công cộng, Viện vệ sinh dịch tễ trung ương, Hà Nội, tr. 29, 31, 59-81.

2. Bottlender Miriam and Soyka Michael (2004), "Impact of craving on alcohol relapse during and 12 months following, outpatient treatment", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 39(4), pp. 357-361.

3. Bradizza C. M.; Stasiewicz P. R. and Paas N. D. (2006), "Relapse to alcohol and drug use among individuals diagnosed with co-occurring mental health and substance use disorders: a review", American Clinical Psychology Review, 26, pp. 162-178.

4. Conor K. F. and Sharon Mc. (2010), " Predictive factors for relapse after an integrated inpatient treatment programme for unipolar depressed and bipolar alcoholics", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 45(6), pp. 527-533.

5. Domingos Neto; Rita Lambaz et al (2008), "Effectiveness of sequential combined treatment in comparison with treatment as usual in preventing relapse in alcohol dependence", Alcohol and Alcoholism, Oxford University Press, 43(6), pp. 661-668.

6. Gamble S. A.; Conner K. R. et al (2010), "Effects of pretreatment and posttreatment depressive symptoms on alcohol consumption following treatment in project Match", Am J Study Alcohol Drugs, 71, pp. 71-77.

7. Gordon S.M.; Sterling R. et al (2006), "Inpatient desire to drink as a predictor to alcohol use following treatment", Am J Addict, 15, pp. 242-245.

8. Hasin D. S.; Liu X et al (2002), "Effect of major depression on remission and relapse of substance dependence", Arch Gen Psychiatry, 59, pp. 375-380.

9.  Kimberly S. Walitzer; Ronda L. Dearing (2006), "Gender differences in alcohol and substance use relapse", Clinical psychology review 26, pp. 128-148. Research Institute on Addictions/University at Buffalo, 1021 Main St., Buffalo, NY 14203, United States.

[Backup] ĐIỀU TRỊ NGHIỆN RƯỢU – CHỐNG TÁI NGHIỆN

ĐIỀU TRỊ NGHIỆN RƯỢU –
CHỐNG TÁI NGHIỆN


Trong phần bài 1 chúng ta đã nhận thức rõ nguyên nhân, tác hại, các triệu chứng, các nguyên tắc điều trị cũng như phân loại các loại bệnh lý do rượu gây nên. Để điều trị nghiện rượu thành công phải trải qua một quá trình không kém khó khăn và phức tạp, đòi hỏi ý chí và sự kiên trì của bệnh nhân và gia đình.

Quy trình điều trị nghiện rượu bao gồm các bước sau:

A -     Điều trị hội chứng cai

B -     Chống tái nghiện

+       Liệu pháp dùng thuốc

+       Các liệu pháp không dùng thuốc

C -    Điều trị các bệnh do nghiện rượu gây nên

D -    Điều trị các bệnh tâm thần do nghiện rượu


A-ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI


I/ CÁCH TÍNH NỒNG ĐỘ RƯỢU TRONG MÁU:

1. Trọng lượng rượu nguyên chất (g) trong cơ thể được tính như sau:

2/        Nồng độ rượu tối đa trong máu được tính theo công thức Widmark:

3/        Nồng độ rượu trong máu được tính bằng gam/100cc máu. Ngoài xét nghiệm máu có thể đo nồng độ cồn qua hơi thở.

4/        Đơn vị rượu tiêu chuẩn:

Đơn vị rượu tiêu chuẩn là đơn vị xác định lượng uống và mức an toàn trong việc sử dụng rượu, bia.

Đơn vị chuẩn có hàm lượng rượu khoảng 10g cồn nguyên chất tương đương với 1 lon bia (5o) hoặc 1 ly rượu vang 150cc (11o) hoặc 45cc rượu nặng (40o). Mỗi người không nên uống quá 2 đơn vị rượu mỗi ngày.

Đối với người tham gia giao thông, tài xế lái xe ô tô tuyệt đối không được uống rượu bia. Người lái xe gắn máy không được uống quá 1 đơn vị chuẩn.


II/    CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU

1/     CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN

*  THAY ĐỔI CÁC PHẢN ỨNG CẢM XÚCRối loạn khí sắckhoái cảm chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyên,khoác lác, hay đùa cợtxàm sỡcáu gắtcông kích dọa nạtchửi bới tấn công người khác.

*  TRẠNG THÁI KHÍ SẮC: Trong một số ngày có thể thay đổi từ vui nhộnkhoan khoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầynổi khùngcau cógây gổ, độc ác hoặccó thể chuyển sang buồn rầu, đầy những sợ hãilo lắngmơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc nhữngcơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiệncảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét.

* TRÍ TUỆ, TRÍ NHỚ, KHẢ NĂNG SÁNG TẠO, SÁNG KIẾN đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng xa sút tâm thần.

BIẾN ĐỔI NHÂN CÁCH


1.1 VỚI GIA ĐÌNH:

Người bệnh ngày càng trở nên ích kỷmất đi những thích thú cũ,lãnh đạm hoàn toàn với người thânGiảm sút tình cảm đạo đức,không quan tâm đến gia đình, tiêu sài tất cả tiền lương vào rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống. Người nghiện không cảm thấy xấu hổ vì đã ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng ân hận ân hận khi lấy cắp tiền của người thânđể uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dụng cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn không nghĩ đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ mắc nợhứa hãobịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền.

Nợ nần thường không trả để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế mất đi, do giảm khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy rathiếu lịch sự và hành động quá khích.


Khả năng phê phán giảm rõ: đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ của gia đình mình.

Phủ nhận mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh hứa bỏ rượu một cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế không ý chỉ để từ chối các cuộc hẹn hò từ các bạn rượu, chiều đến người nghiện đứng ngồi không yên, đi tới đi lui chờ mong tín hiệu của bạn rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu.

Những biến đổi như trên ngày càng làm suy giảm những tập tính tốt.

Trong nghiện rượu mãn tínhthời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1 - 2 lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét khoái cảm, vui vẻ nhưng càng uốngcàng về sau đó xuất hiện tình trạng say liên miên.


Trong cơn say cảm xúc giận dữdễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên bực dọc hay gây sự, vin cớ cãi cọcục cằn, thường tấn công đập phá đồ đạcđánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn.

Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh sau đó phải giảm liều hoặc ngưng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy…). Cứ như vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngưng rồi lại uống … cuối cùng người bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường.


1.2 VỚI CÔNG VIỆC:

Người bệnh nghỉ việc thường xuyênnăng xuất công việc giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút. Mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu.

1.3 VỚI XÃ HỘI:

Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn thân muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú vui uống rượu nhất thời. Phẩm chất thoái hóa dầnthường vi phạm pháp luật.


2/  LOẠN THẦN DO RƯỢU

2.1 ĐẶT VẤN ĐỀ:

Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần. Theo thốngkê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loạn thần mãm tính.

Thuật ngữ loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiệnvà phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu trên não.Loạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu ngày gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hóa trong cơ thể.Loạn thần xuất hiện không những khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi nồng độ rượu trong máu không có hoặc rất thấp(Wictor M., 1953).

Về lâm sàng, loạn thần do rượu có thể chia ra:

+        Sảng rượu

+        Ảo giác do rượu

+        Hoang tưởng do rượu

+        Hội chứng Korsakov do rượu

+        Bệnh não do rượu..v.v (Sumski N.G., 1963).

Ảo giác do rượu là hình thái lâm sàng thường gặp sau sảng rượu, chiếm tỉ lệ 5,6 – 22,5% các loạn thần có liên quan đến rượu mãn tính. (Marozov .G.V.,1974). Tuổi bị bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 - 40 tuổi (Achte K., 1969). Ảo giác thường xuất hiện sau 10 năm sau khi uống rượu (Katra.A.K.,1973).

Hoang tưởng do rượu thường gặp sau sảng rượu  ảo giác do rượu chiếm 1% loạn thần do rượu (Achte K., 1969). Hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông).

Trong loạn thần do rượu: hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế, chẩn đoán đúng và điều trị tích cực là hết sức cần thiết trong lâm sàng và tâm thần học.


2.2 HOANG TƯỞNG VÀ ẢO GIÁC DO RƯỢU:

Hoang tưởng do rượu và ảo giác do rượu được biết đến từ lâunhưng không được chú ý nhiều như sảng rượu và các bệnh não do rượu.

+   Nhiều tác giả coi hoang tưởng và ảo giác là những thể riêng biệt trong loạn thần do rượu. Marozov lại cho rằng hoang tưởng chỉ là một hình thái trong ảo giác do rượu. Một số tác giả nhấn mạnh các hoang tưởng paranoia mà quên đi các hoang tưởng paranoid do rượu.

+   Các tác giả Anh – Pháp quan niệm hoang tưởng, ảo giác là những biến chứng của nghiện rượu mãn tính nên chỉ chú ýnghiên cứu về nghiện rượu mà ít quan tâm tới hoang tưởngảo giác do rượu.

+   Một số tác giả Đức (Meyer E., 1904) lại coi hoang tưởng, ảo giác do rượu là những thể tâm thầm phân liệt tiềm tàng có khởi phát muộn, về sau có một số ý kiến phản đối quan niệm này.

+   Một số tác giả nghiên cứu nhằm xác định sự khác nhau giữahoang tưởngảo giác do rượu và tâm thần phân liệt.

+   Một số tác giả Nga (Sumski N.G) xếp hoang tưởngảo giác vào2 trong số 4 thể cổ điển của loạn thần do rượu và đã chia hoang tưởngảo giác do rượu thành những thể theo lâm sàng và tiến triển.

+   Gần đây theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD.10) hoang tưởngảo giác do rượu là hậu quả của nhiễm độc rượu lâu dài, là biến chứng của nghiện rượu mãn tính.

Theo cách phân loại cổ điển thì ảo giác do rượu được chia ra ảo giác cấpảo giác kéo dài và ảo giác mãn tính.

Ảo giác cấp là ảo giác tồn tại vài ngày đến một tháng.

Ảo giác kéo dài là những ảo giác kéo dài từ 1 tháng đến 6 tháng.

Ảo giác mãn tính là những ảo giác tồn tại trên 6 tháng.


2.3 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:


a/ Các yếu tố tác động:

Đa số các tác giả đều thừa nhận loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở lứa tuổi  30 – 40 tuổi (chiếm 61,3% số bệnh nhân).

Tỉ lệ nam, nữ có khác biệt (4:1). Theo nghiên cứu Marozov G.Vhoang tưởng do rượu chủ yếu gặp ở nam giới, còn ảo giác do rượu gặp ở nữ nhiều hơn nam. Ở nước ta hoang tưởng, ảo giác do rượu rất ít gặp ở nữ.

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính sau 10 năm(chiếm 61,5% trường hợp), thường gặp ở những người có học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định, thường ở trong hoàn cảnh gia đình có người thân nghiện rượu.


b/ Biểu hiện lâm sàng:

ẢO GIÁC: có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhâncó thể ảo thanh, ảo thị, ảo giác, xúc giác, khứu giác …v.v

*     ẢO THANH: hay gặp nhất ở những bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển trên nên tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào lúc chiều tối hoặc lúc thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thô sơ hay ảo thanh lời nói.

Giọng nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhau.Cường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề liên quan đến nhau. Ảo thanh tăng lên về chiều tốithoái triển đột ngọt sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số. Khi ảo thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.

*    ẢO THỊ: cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị cũng thường phù hợp với nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có kèm sảng thì bệnh nhân cảm thấy những côn trùng, động vật có kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường không hoàn chỉnh và mất tính thứ tự.

*    ẢO XÚC ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị, bệnh nhân thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gặm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi là cảm giác những vật lạ trong miệng và trong họng.

*    ẢO KHỨU và ảo vị chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế.

HOANG TƯỞNG: Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hóa do rượu. Thoạt đầu những ý tưởng ghen tuông chỉ có trong khi sayDần dần mới trở nên bền vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thủy. Bệnh nhân rình mòtra khảo bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen biết.

 Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo haichủ đề chính:

*   Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.

*   Hoang tưởng bị thiệt hại vật chất (Như vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có thể tự do với người yêu). Một số tác giả nhận thấy hoang tưởng ghen tuông thường xuất hiện sau loạn thần do rượu cấp tính ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế.


Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng bị theo dõi,hoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thị có tính hình tượng cao.

*        Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vicảm xúc của bệnh nhân. Thường có ảo tưởng lời nóiảo tưởng cảm xúcvà ảo thanh với những nội dung đe dọaHành vi có tính xung động nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh nhân bỏ chạy, phòng thủcó khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành vi ít nguy hiểm hơn.

*        Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một số tác giả hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng chiếm ưu thế.Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng không đặc hiệu cho loạn thần do rượu.

Ngoài ra bệnh nhân loạn thần do rượu còn thấy một số biểu hiện khácnhư hoang tưởng liên hệhoang tưởng tự caohoang tưởng nghi bệnh..v.v nhưng với tỉ lệ thấp.

Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê cuẩ Soayle M. 1990 chỉ có 13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.


CẢM XÚC VÀ HÀNH VI: Hoang tưởng và ảo giác do rượu thườngchi phối mạnh mẽ hành vicảm xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bênh nhân lo âusợ hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránhchạy trốn, hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.

Trong những trường hợp kéo dài mãm tính bệnh nhân thường bị ức chế, đôi khi trở nên cau cógiận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặcsững sờcảm giác không lối thoát nhưng cũng có khi trở nên độc ácthô bạo với người thân.


CÁC BỆNH CƠ THỂ PHỐI HỢP: Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm loét dạ dàyxơ ganrối loạn huyết áp, và thần kinh thực vật. Ngoài ra có nhiều bệnh nhân biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.


III/HỘI CHỨNG CAI RƯỢU: XẢY RA KHI NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ĐỘT NGỘT NGỪNG UỐNG RƯỢU

1/   HỘI CHỨNG CAI RƯỢU:

1.1.  HỘI CHỨNG CAI THÔNG THƯỜNG:

Khi bệnh nhân đột ngột ngừng uống rượu sau một thời gian ngắn, có thể không quá một đêm hội chứng cai có thể xuất hiện:

-       Người bệnh có khí sắc trầmbồn chồnbứt rứtkhó chịu,đứng ngồi không yên.

-       Lo âu sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng thiếu hệ thống.

-       Giấc ngủ nôngdễ giật mìnhdễ thức giấc, hoặc ác mộng, hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.

-       Run cơchuột rút.

-       Chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy.

-       Vã mồ hôi, nhịp tim nhanh.

-       Lo âu lan tỏatăng cảm xúctăng tính kích thíchrối loạn trí nhớ.

Nếu không điều trị hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 1 tháng tùy mức độ nghiện rượu nặng hay nhẹ.

-       Trong hội chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật động kinh cũng như các ảo giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm.

-       Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên giảm đi hoặc biến mất khi uống lại rượu.

-       Hội chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần làm người nghiện cứ sau vài giờ lại phải uống một liều rượu nhỏ để làm giảm đi các triệu chứng trên.

Trong trường hợp bị hội chứng cai nặng, người nghiện có thể:

-       Có một cơn hoặc nhiều cơn co giật liên tiếp trong vài giờ.

Nếu không điều trị có thể chuyển sang giai đoạn động kinh liên tục.

-       Ảo thanh lời nói (tố cáo, đe dọa, quấy rối), thường kết hợp với ảo tưởng hoặc có khi với ảo thị.

-       Điều trị bằng thuốc chống loạn thần và giải lo âu.


1.2  HỘI CHỨNG CAI CÓ SẢNG:

Sảng rượu là một trong những hình thái lâm sàng của loạn thần do rượu.


*    GIAI ĐOẠN KHỞI PHÁT:

Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn này có thể kéo dài vài ngàyhàng tuần hoặc hàng tháng. Theo Ades J., 1990 thời gian khởi phát 24 - 48 giờ, còn Watson A.S., 1995 cho rằng giai đoạn này chủ yếu là mệt mỏichán ănrối loạn giấc ngủác mộngcơn hoảng sợkích độngrối loạn thần kinh thực vậtrun rẩychếnh choángthay đổi cảm xúc biểu hiện bằng lo lắng haytrầm cảm. Sau đó bệnh tiến triển nặng dần và thường nặng về ban đêm với những ảo tưởng thị giác, hồi ứcảo thị sinh động. Bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phánrối loạn định hướng thoáng qua hoặc định hướng không đầy đủ về không gian, thời gian. Nét mặt và hoạt động mất linh hoạt, chú ý không tập trung. Trong giai đoạn này có thể có cơn co giật, thống kê của Tratrue C., 1983 trong giai đoạn khởi phát 10 - 15% có cơn co giật.

Khi nghiên cứu bệnh nhân sảng rượu ở Viện sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai triệu chứng hay gặp ở thời kỳ khởi phát là rối loạn giấc ngủ (100%), mệt mỏi, chán ăn(75%), khó tập trung chú ý(75%), run rẩy (64%), chếnh choáng (64%), sợ hãi (50%).


*GIAI ĐOẠN TOÀN PHÁT:

Tam chứng cổ điển bao gồm:

+     Ý thức mù mờ và lú lẫn

+     Ảo tưởng và ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào.

+     Triệu chứng run nặng.

Ngoài ra cũng thường có hoang tưởngkích độngmất ngủ hoặcrối loạn thức ngủ.

Hiện tượng mê sảng nặng, người bệnh có rối loạn khả năng định hướng thời gian và không gian, định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được định hướng bản thân. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, hoàn toàn mất khả năng phê phán. Mức độ ý thức mù mờdao động thường tăng về chiều tối.Khi có sự lôi cuốn chú ý lâu, ý thức tỉnh ra đôi chút, người bệnh bắt đầu trả lời đúng các câu hỏi nhưng trạng thái này có thể đột nhiên bị hàng loạt các ảo thị ngắt đoạn.


Có nhiều loại ảo giác như ảo thịảo thanhảo thínhảo giácxúc giác. Các ảo giác chiếm vị trí chủ yếu và thường xuất hiện vào buổi tối có nội dung làm người bệnh ghê sợhoảng hốt. Các ảo thị thường có kích thước bị thu nhỏ, trông thấy những hình người, hình sinh vật nhỏ bé lại. Đôi khi người bệnh thấy các loại côn trùng đang  trên cơ thể, cảm thấy đau do vết cắn của động vật. Đôi khi người ta gặp sảng nghề nghiệp; người bệnh thấy mìnhđang trong hoàn cảnh nghề nghiệp thông thường, đang tiến hành những hoạt động trong thao tác công việc của mình.
Do rối loạn ý thức nặng nề, người bệnh tiếp thu những điều do ảo giác tạo nên như những điều xảy ra trong thực tếHành vi và tính chăm chú nhìn vào một chỗ nào đó, khi thì có tư thế bảo vệ, khi lẩn trốn, khi đi tìm, nét mặt có khi sợ hãi, khi ngạc nhiênđăm chiêu. Bệnh nhân trở nên nói nhiều, tỏ ra sôi nổibận rộnkhông ngủ được, các rối loạn tâm thần nặng lên về ban đêm và có thể có trạng thái kích động dữ dội. Một trong những nét đặc trưng là sự kết hợp cảm xúc căng thẳng, lo âu, sợ hãi với sự hài hước, người bệnh cố đùa cợt với cái nguy hiểm chết người đang đe dọa họ.

Hoang tưởng trong sảng rượu cấp thường xảy ra, liên quan đến tính chất và sự biến đổi của ảo giác.


Song song với các loại rối loạn tâm thần trong sảng rượu cấp có các rối loạn toàn thân khá rõRun chân tay, run lưỡi và toàn thân là triệu chứng thường gặp. (do có tên gọi là sảng run: delirium trements). Đó là một sự run rẩy ở cuối chi, nhanh và lan truyền mà người ta cảm thấy nhiều hơn trông thấy. Sự run rẩy cũng có trênkhuôn mặt và tăng lên khi hoạt độngRun lưỡi làm cho bệnh nhân khó nói. Các động tác và dáng đi hơi kém phối hợp. Người bệnhđổ mồ hôi đầm đìasốt nhẹ, song trong trường hợp nặng hơn,nhiệt độ có thể caomạch nhanhhuyết áp caotim hơi giãn. Trong nước tiểu thường có Urobilin và Albumin, trong máu tỉ lệ Bilirubintốc độ lắng máu tăng. Trong trường hợp nặng, tâm trạng người bệnh tiến triển xấu dần, có thể tử vong do thiểu năng tim mạch hoặc mắc thêm bệnh viêm phổi. Trong trường hợp tiên lượng khả quanbệnh kéo dài không quá 3 - 8 ngày. Cơn chấm dứt đột ngột sau một giấc ngủ sâu hoặc trong vài ngày, các biểu hiệnbệnh nhẹ dần, trước tiên vào buổi sáng và ban ngày. Khả năng phê phán đôi khi không khôi phục được ngay. Trong trường hợp hạn hữusảng rượu cấp chuyển thành loạn thần Cocxacốp hoặc trạng thái ảo giác do rượu.


2/ ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI RƯỢU

+               Thời gian điều trị từ 7-10 ngày

+               Bệnh nhân hoàn toàn không được uống rượu.

+               Sử dụng vitamine nhóm B liều cao

Vit B1: 1g/24 giờ (tiêm bắp), Vit B6 0.5g/24 giờ

Vit B12 – Vit PP thời gian điều trị khoảng 1 tuần, sau đó uống vitamin B hỗn hợp.

+               Benzodiazepine (sesduxen, Valium) 5mg  x  2 viên/lần x 2-4 lần/ngày. Giảm liều dần trong 1 tuần.

+               Nếu bệnh nhân bị kích động, ảo giác, hoang tưởng; uống thêm haloperidol: 2mg  x  3-4 lần/ngày hoặc risperidone (Lesvidon) 2-4mg)/ngày hoặc olanzapine (epineza) 10mg – 20mg trong 2-3 ngày.

+               Bù nước và điện giải khoảng 3-4 lít/ngày.


B.       ĐIỀU TRỊ CHỐNG TÁI NGHIỆN

Cai nghiện rượu cần được thực hiện tại trung tâm cai nghiện nội trú hoặc tại bệnh viện.

Người nghiện rượu cần xác lập một kế hoạch điều trị theo từng đối tượng bao gồm điều trị bằng thuốc, các biện pháp điều trị không dùng thuốc nhằm giúp người nghiện chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách và không còn thèm nhớ rượu.

I/          LIỆU PHÁP DÙNG THUỐC:

Liệu pháp dùng thuốc để người nghiện rượu sợ, không còn muốn tái sử dụng rượu. hiện nay có 3 loại thuốc chủ lực cai rượu là:
+              Disulfiram
+              Naltrexone
+              Acamprosate

-> THUỐC CAI RƯỢU DISULFIRAM:

Tên thương mại của Disulfiram là Disulfiram – Antabus – Espénol dưới dạng viên nén.

Liều lượng: viên 250mg x 1 viên/ngày

Tác dụng của Disulfiram

Disulfiram ngăn chặn rượu chuyển hóa chất trung gian Acestaldihyt thành nước và khí CO2, do bị ngăn chặn chất trung gian làm người nghiện khó chịu khi uống rượu thậm chí dù một lượng rất nhỏ. Tác dụng bao gồm: buồn nôn, ói mửa, đỏ bừng mặt, nhức đầu, đau ngực, mắt mờ, ra mồ hôi, khó thở, lo lắng, rối loạn tâm thần. Các triệu chứng trên xuất hiện khapngr 10 phút sau khi uống rượu và kéo dài hơn 1 giờ khiến người nghiện sợ rượu không dám uống nữa.


Các vấn đề cần lưu ý:

1-   Thời gian điều trị trung bình khoảng từ 1-2 năm

2-   Không được uống bất kì thức uống nào có cồn 48 giờ trước khi uống liều thuốc Disulfiram đầu tiên.

3-   Chỉ được uống chất có cồn sau khi ngừng uống Disulfiram vài tuần.

4-   Disulfiram làm một số bệnh nhân buồn ngủ, do đó không nên lái xe hoặc vận hành máy móc khi bệnh nhân có cảm giác trên.

5-   Tuyệt đối không ăn uống các loại thức ăn có chứa cồn.

6-   Luôn mang theo trong bóp (ví) 1 thẻ có ghi bệnh nhân đang điều trị Disulfiram và luôn luôn phải liên lạc với bác sĩ điều trị khi xảy ra vụ việc bất thường.


Phản ứng phụ:

Ít gặp, bao gồm: dị ứng, mụn trứng cá, buồn ngủ, mỏi mệt, đau đầu, bất lực. Một số người cai nghiện rượu có cảm giác có mùi kim loại hay mùi tỏi trong miệng. Cảm giác này sẽ mất sau một thời gian.

Trong thời gian qua, ở TP.HCM đã xảy ra tình trạng một số dùng Disulfiram để cai rượu, thậm chí có một số bà vợ lén cho ông chồng nghiện rượu của mình uống thuốc để mà chừa rượu. Kết quả không như y muốn, mà có khi người dùng, nhất là ông chồng không biết đã dùng thuốc, cứ uống rượu nhiều vào, bị ngộ độc rất nặng, phải đi cấp cứu. Do đó, thuốc điều trị phải được sự chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.

Thuốc Disulfiram tuy giá rẻ, dễ dùng nhưng chỉ áp dụng được với bệnh nhân chịu hợp tác điều trị hoặc gia đình có thể kiểm soát bệnh nhân uống thuốc.

->  THUỐC CAI RƯỢU NALTREXONE:

Naltrexone lúc ban đầu được sử dụng để cai ma tuý nhóm thuốc phiện (Á phiện - Mocphin – Heroin), nhưng qua các nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy khi uống rượu, rượu sẽ được chuyển hoá trong cơ thể, gắn kết với một loại protein trong máu và tác dụng vào các thụ thể µ, β… như tác dụng của nhóm OMH gây khoái cảm. Tương tự cơ chế khi ta sử dụng nhóm OMH, các khoái cảm do uống rượu làm người nghiện thích thú và tiếp tục uống rượu. Khi người bệnh điều trị Naltrexone thuốc sẽ ức chế, bịt lỗ khoá tất cả các thực thể nêu trên nên không còn tạo ra khoái cảm, người nghiện mất dần cảm giác hứng thú khi uống rượu do đó sẽ giảm dần lượng uống tiến đến bỏ rượu. Thời gian điều trị trung bình từ 1 đến 2 năm.

ƯU ĐIỂM CỦA VIỆC SỬ DỤNG NALTREXONE LÀ:

1.   Hiệu quả chán uống rượu xuất hiện từ từ do đó bệnh nhân dễ thích nghi với việc giảm liều lượng rượu.

2.   Thuốc không gây các tác dụng phụ khó chịu như khi sử dụng Disulfirame. Vì thế có thể dung cho các bệnh nhân không hợp tác điều trị.


DIỄN BIẾN ĐIỀU TRỊ:

-         THÁNG THỨ NHẤT: Bệnh nhân mất rõ rệt cảm giác thèm rượu. Lượng rượu uống còn khoảng 50%.

-         THÁNG THỨ HAI: Bệnh nhân chỉ còn rất ít cảm giác thèm rượu. Lượng rượu uống giảm 70%.

-         THÁNG THỨ BA: Bệnh nhân không còn quan tâm đến rượu, có thể ngưng uống rượu hoàn toàn.

-         Tuy nhiên để bệnh nhân bỏ hẳn rượu, phục hồi hệ thống não bộ, điều chỉnh nhận thức hành vi nhân cách và giải quyết các vấn đề nội tại, thời gian điều trị phải từ 1 đến 2 năm, kết hợp giữa điều trị dùng thuốc với các biện pháp điều trị không dùng thuốc.

->   THUỐC CAI RƯỢU BẰNG ACAMPROSATE:

Acamprosate dẫn xuất từ muối Ca: Campral – tên biệt dược: Aotal, Zulex. Đây là loại thuốc mới dùng để cai rượu.

Thuốc có tác dụng ức chế vận chuyển GABA và đối kháng Glutamate Receptor – cơ chế tác dụng hiện nay chưa được giải thích rõ ràng, nhưng thuốc có tác dụng làm giảm sự thèm muốn uống rượu. Khác với Disulfiram, Acamprosate không bị tác dụng phụ khi đang uống thuốc mà vẫn sử dụng rượu. thuốc không bị chuyển hoá ở gan, do đó không cần giảm liều ở người bị suy gan.

Acamprosate có cấu trúc tương tự GABA và được cho là ức chế hệ Glutamatergic. Điều này là Acamprosate làm giảm sự hoạt động Glutamatergic thường thấy ở bệnh nhân nghiện rượu. Acamprosate viên nén 333mg Liều dùng từ 1v x2-3l/ngày.

Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

 
Mức độ nghiêm trọng của các vấn đề liên quan đến việc uống rượu cũng như mức độ nguy hại đến sức khoẻ và tâm lý do việc tiêu thụ rượu đang ở tình trạng báo động ở nhiều nước trên thế giới. Giấy phép này cung cấp các tiêu chuẩn đánh giá sức khoẻ nhằm nhận biết, quản lý và ngăn ngừa các vấn đề liên quan đến rượu.


ICD-10, do WHO xuất bản vào năm 1992, đã phân loại các vấn đề liên quan đến rượu theo 4 đề mục sau:
• Ngộ độc cấp tính do dùng rượu
• Việc sử dụng có tính nguy hại
• Hội chứng nghiện
• Tình trạng rút thuốc

Trong cuốn sách của mình nói về các rối loạn tinh thần thông qua các số liệu thống kê và chuẩn đoán, tái bản lần thứ 4, năm 1994 (DSM-IV), Hiệp hội Tâm thần học Mỹ đã coi rượu và các rối loạn do lạm dụng thuốc khác có liên quan đến nhau. Cuốn sách này đã được phổ biến trên toàn thế giới, và giữa ICD-10 và các tiêu chuẩn DSM-IV có rất nhiều điểm giống nhau.

Ngộ độc rượu cấp tính do dùng rượu: Việc tiêu thụ rượu đã dẫn đến sự thay đổi hành vi và các tác động khác do giảm các hoạt động của thần kinh trung ương(CNS). Các biểu hiện của ngộ độc rượu cấp tính bao gồm các hành vi khác thường và cảm thấy khó khăn khi thực hiện những hành động thông thường của cơ thể chẳng hạn như nói, đi bộ hoặc lái xe. Mức độ suy yếu của CNS, các hành vi do đó mà có cũng như những tác hại trên cơ thể đều chịu tác động của nồng độ cồn trong máu (BAC). Bạn cần nhớ rằng sự suy yếu trong các động tác chẳng hạn rất cần thiết khi lái xe sẽ bắt đầu xảy ra khi nồng độ cồn trong máu là 30 mg/dl( thấp hơn nồng độ cồn cho phép trong máu) khi đang lái xe ở nhiều nước.

Việc sử dụng rượu có tính nguy hại: Thuật ngữ sử dụng rượu có tính nguy hại được dùng để mô tả tình trạng khi có bằng chứng cho thấy cồn là nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu của ít nhất một chức năng trong cuộc sống hàng ngày nghĩa là sức khoẻ về thể chất, sức khoẻ về tinh thần, cuộc sống gia đình hoặc giữa cá nhân với nhau hoặc các vấn đề về luật pháp hoặc hoạt động nghề nghiệp hay xã hội.

Hội chứng nghiện rượu: Khi bị nghiện rượu, người đó sẽ uống rượu thường xuyên và đều đặn trong ngày, và điều đó sẽ trở thành nhu cầu bắt buộc. Việc uống rượu sẽ được ưu tiên lên hàng đầu so với việc thực hiện nghĩa vụ gia đình, công việc và các hoạt động xã hội. Có thể nhận thấy rõ sự giảm sút trong việc tham gia vào các hoạt động xã hội, pháp luật giữa các cá nhân với nhau cũng như trong công việc.
Thường thì việc nghiện rượu luôn đi cùng với các biến chứng về tâm thần và y học cùng xảy ra một lúc.

Giáo sư Jellinek là người đầu tiên coi sự nghiện rượu như là một loại bệnh giống như bao loại bệnh khác và đã đưa ra “khái niệm về chứng nghiện rượu” vào năm 1960. Nó đã miêu tả có hệ thống các vấn đề liên quan đến rượu. Sự mô tả đầu tiên về hội chứng nghiện rượu là vào năm 1976 do Edwards và Gross đưa ra. Họ đã nhấn mạnh đến việc không thể kiểm soát được lượng rượu tiêu thụ, luôn tìm rượu để uống, và thu hẹp hành vi uống rượu như là một đặc điểm bên cạnh hiện tượng chịu được thuốc và cai nghiện. Trong ICD-10, hội chứng bị nghiện được định nghĩa là “một nhóm các hiện tượng liên quan đến nhận thức, hành vi và tâm lý trong đó việc dùng rượu được ưu tiên hơn các hành vi khác mà đã từng có ý nghĩa rất quan trọng”. Đặc điểm của chứng nghiện rượu đã được mô tả trong đường lối chỉ đạo về việc chuẩn đoán bệnh trong ICD-10 nhằm mục đích hành động hoá.

Đường lối chỉ đạo về phép chuẩn đoán hội chứng nghiện do lạm dụng rượu và các chất khác trong ICD-10:
Có ít nhất 3 trong số các biểu hiện sau đây sẽ xảy ra cùng một thời điểm trong thời gian ít nhất 1 tháng hoặc nếu chúng xảy ra trong thời gian ít hơn 1 tháng thì sẽ xảy ra liên tục trong vòng 12 tháng:

1. Thèm khát hoặc buộc phải dùng chất đó.
2. Khả năng kiểm soát việc sử dụng chất đó bị suy yếu ngay từ lúc bắt đầu, chấm dứt, bằng chứng là: chất đó được sử dụng với số lượng lớn hoặc kéo dài hơn thời gian dự định; hoặc luôn thèm khát hoặc thất bại trong việc giảm hoặc kiểm soát việc sử dụng chất đó.
3. Tình trạng cai nghiện về mặt sinh lý học khi việc sử dụng chất đó giảm hoặc dừng lại, bằng chứng là: hội chứng rút thuốc tiêu biểu đối với chất dó; hoặc sử dụng chất tương tự( hoặc có liên quan mật thiết) với ý định giảm hoặc tránh các hội chứng rút thuốc.
4. Bằng chứng về việc chịu được các tác dụng của chất đó, do đó cần lượng lớn hơn của chất đó để rơi vào tình trạng say sưa hoặc tác dụng như mong muốn hoặc tác dụng bị giảm bớt khi tiếp tục dùng lượng tương tự của chất đó.
5. Luôn nghĩ đến việc sử dụng chất đó là một biểu hiện của cảm giác khoái lạc hoặc thích thú khi dùng chất đó đang mất đi hoặc giảm xuống do dùng chất đó; hoặc dành nhiều thời gian vào các hoạt động cần thiết để có được, uống và phục hồi khỏi những tác động của chất đó.
6. Liên tục dùng thuốc bất kể biết rõ nó có hại, chẳng hạn như tiếp tục dùng khi cá nhân đó ý thức được bản chất và mức độ độc hại.


Nhu cầu sử dụng các tiêu chuẩn được định nghĩa đầy đủ về sự nghiện rượu không nên được cường điệu quá mức vì các khái niệm về việc chăm sóc sức khoẻ có thể thay đổi khi một người lạm dụng rượu hoặc nghiện rượu có thể đến để tìm kiếm sự trợ giúp. Số bệnh nhân nghiện rượu tại trung tâm điều trị chuyên môn chỉ là một phần nhỏ trong tổng số những người như vậy trong cộng đồng. Do vậy, cần phải sớm nhận biết đúng việc lạm dụng và chứng nghiện rượu ở mọi cấp độ( và trong cộng đồng) ngay cả khi một cá nhân xuất hiện không phải để phàn nàn về việc uống rượu mà về hậu quả do việc uống rượu.

Tình trạng cai nghiện rượu: Việc giảm lượng rượu được tiêu thụ bởi một người bị nghiện rượu đã đột ngột dừng lại chắc chắn sẽ dẫn đến một số hội chứng tiêu biểu mà được gọi là hội chứng rút thuốc. Những hội chứng này bao gồm tay và người bị run, mất ngủ, lo lắng, buồn nôn, ói mửa, lo âu, đổ mồ hôi và huyết áp, nhịp tin, nhiệt độ cơ thể tăng và nhịp thở cũng tăng. Những hội chứng này thường bắt đầu trong khoảng 8-12 giờ uống rượu cuối cùng và lên đến đỉnh điểm vào ngày thứ hai hoặc thứ ba và giảm bớt vào ngày thứ 4 hoặc thứ 5. Tâm trạng bị xáo trộn, vô cùng lo lắng, buồn bã và tức giận là những hội chứng phổ phiến sau khi triệu chứng cấp tính giảm bớt. Nói chung, tất cả các triệu chứng về tâm lý và thể chất và các dấu hiệu của việc cai nghiện rượu sẽ giảm bớt trong thời gian 2 tuần, ngay cả khi không được điều trị. Nếu được điều trị, các triệu chứng và dấu hiệu đó sẽ kéo dài nhiều nhất là một tuần. Trong một số ít trường hợp, một số triệu chứng rút thuốc có thể kéo dài từ 3-6 tháng. Các triệu chứng phổ biến của hội chứng rút thuốc kéo dài là đau đầu và mất ngủ.

Các chỉ báo về việc uống rượu và các vấn đề liên quan
Các cuộc điều tra về dịch tễ học: Cách giải quyết trực tiếp nhất đối với việc dùng rượu và các vấn đề có liên quan trong cộng đồng là tiến hành các cuộc điều tra về dịch tễ học để đánh giá tầm quan trọng của việc sử dụng rượu và sự nghiện rượu. Những cuộc điều tra đó được coi là biện pháp đúng đắn về mặt khoa học để giải quyết các vấn đề sử dụng rượu, nhưng nó đòi hỏi phải có những cuộc nghiên cứu tốn kém và trên phạm vi rộng lớn, điều này rất khó được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Mức độ tiêu thụ rượu trên đầu người: Một dấu hiệu khác của việc uống rượu là sự ước tính mức độ tiêu thụ rượu trên đầu người. Mặc dầu có nhiều vấn đề với việc tính toán chính xác, mức độ tiêu thụ trên đầu người được coi là chỉ báo đầy đủ về các vấn đề liên quan đến rượu ở nhiều quốc gia.

Việc sử dụng các số liệu thống kê chính thức, cảnh sát và sức khoẻ: Một phương pháp khác là phát triển chỉ báo về các nguy hại liên quan đến rượu từ những số liệu thống kê chính thức, của sát và về sức khoẻ. Có vẻ như đó là một thách thực lớn khi mà các số liệu thống kê chính thức, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, hiếm khi ghi lại mối liên hệ giữa rượu và các hậu quả của nó. Tuy nhiên, với một số giải pháp sáng tạo, các số liệu thống kê chính thức có thể cung cấp các dấu hiệu về sự nguy hại do rượu gây ra.
Một số giải pháp sáng tạo được báo cáo trong các số liệu thống kê bao gồm:
- Chỉ tập trung vào các trường hợp riêng về rượu: các điều kiện cụ thể, chẳng hạn như bệnh xơ gan do uống rượu hoặc bệnh viêm dạ dày do uống rượu, và có mối liên hệ trực tiếp đến việc dùng quá nhiều rượu. Mặc dù những điều kiện này không được báo cáo, chúng là một phần của toàn bộ dấu hiệu nguy hại
- Nhận biết tập hợp con của các sự kiện được ghi chép hoặc các điều kiện mà được coi là có liên quan chặt chẽ đến rượu: Nhằm kiểm soát sức khoẻ, có thể áp dụng một số điều kiện cụ thể mà được coi là có liên quan chặt chẽ đến rượu, chẳng hạn như các tai nạn trên đường vào ban đêm khi đi xe một mình thường có liên quan đến việc uống rượu. Mặc dầu cảnh sát có thể không ghi chép về rượu trong các tai nạn giao thông, nhưng họ lại ghi chép thời gian và tình trạng của mỗi vụ tai nạn. Các biện pháp thay thế đó cũng có thể là một phần của toàn bộ dấu hiệu cho biết các nguy hại liên quan đến rượu
- Giám sát các điều kiện được coi là không liên quan đến rượu: giám sát các phương hướng trong các điều kiện được coi là không liên quan đến rượu và việc đối chiếu những phương hướng này trong các điều kiện được coi là có liên quan đến rượu có thể cho biết liệu các phương hướng được quan sát có thực hay không
- Điều chỉnh các dấu hiệu dựa trên các cuộc nghiên cứu nhỏ: các cuộc nghiên cứu nhỏ nhưng chi tiết có thể tạo ra mức độ báo cáo sai trong các số liệu thống kê chính thức. Do mức độ nghiêm trọng của việc báo cáo sai nên ta có thể ước tính được mức độ nguy hại liên quan đến rượu
- Triển khai các dấu hiệu tổng hợp. Không có dấu hiệu nào có thể đo được chính xác mức độ nghiêm trọng của các tác hại do rượu gây ra. Do vậy, việc đánh giá nhiều dấu hiệu và mối quan hệ giữa chúng cần phải được kiểm tra. Một số những dấu hiệu này có thể được kết hợp với dấu hiệu tổng hợp.
Các yếu tố trong xã hội: Các nhân tố xã hội như trợ cấp phúc lợi, lương hưu cho người tàn tật (liên quan đến rượu), bị thương tại nơi làm việc, vắng mặt tại nơi làm việc, thất nghiệp, các vụ vi phạm liên quan đến say rượu cũng có thể là dấu hiệu cho biết mức độ nghiêm trọng của các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu trong cộng đồng.

Hình thức rút thuốc nghiêm trọng được gọi là chứng mê sảng của người nghiện rượu nặng(DT). Các đặc điểm của DT bao gồm sự bồn chồn, nghe và nhìn thấy những vật tưởng tượng, bị ảo giác, và vô cùng lo sợ, mất ngủ, mạch đập tăng và đôi khi bị chứng co giật. DT không xảy ra không nhiều (5% số người bị nghiện rượu), nhưng một khi nó xảy ra, nó thường kèm theo các bệnh khác, chẳng hạn như hỏng gan, nghẽn máu trong sọ hoặc chỗ xương gãy, viêm phổi. Thường thì nó bắt đầu 48-72 giờ sau lần uống cuối cùng và giảm bớt trong vòng 1-5 ngày. Khoảng 20% người bị chết nếu không được điều trị và 3.5% người vẫn bị chết dù đã được chữa trị.

Sự tự lực: Liệu việc dùng rượu có thể ảnh hưởng đến bạn?
Lượng rượu được tiêu thụ tăng lên dần dần ở một số người. Thỉnh thoảng, có thể do một nguyên nhân nào đó, người nào đó đã tăng lượng rượu tiêu thụ, chẳng hạn như mối bất hoà trong gia đình, thất nghiệp, làm ăn thua lỗ hoặc các tình huống không có lợi trong cuộc sống. Ban đầu, người đó không nhận thức được rằng việc dùng rượu tăng lên đó có thể dẫn đến hậu quả không tốt. Đôi khi, họ đưa ra một số lời biện hộ cho việc tăng lượng rượu tiêu thụ, chẳng hạn như “Nó giúp tôi quên đi buồn phiền”, “Nó giúp tôi thư giãn”, “Nó giúp tôi ngủ ngon”. Những người vợ/chồng có thể nhận biết tác hại của việc tăng cường uống rượu đối với con người. Điều này có thể dẫn đến cuộc cãi vã và mối bất hoà trong gia đình.

Một người có thể trở nên tốt hơn nếu tự suy xét xem liệu việc tăng cường uống rượu như vậy có ảnh hưởng đến cuộc sống của anh ta/cô ta hay không. Bốn câu hỏi đơn giản bao gồm bài kiểm tra CAGE có thể giúp một người quyết định liệu cô ta/anh ta có gặp vấn đề về rượu hay không. Nếu câu trả lời cho ít nhất 2 câu hỏi là “có” thì chắc chắn người đó cần sự giúp đỡ để giải quyết các vấn đề liên quan đến rượu và phải tìm kiếm sự giúp đỡ đó.

Bài kiểm tra CAGE :
Giảm bớt: Bạn đã bao giờ cảm thấy bạn nên giảm bớt việc uống rượu chưa?
Khó chịu: bạn có cảm thấy khó chịu khi có người chỉ trích việc bạn uống rượu?
Có tội: bạn đã bao giờ cảm thấy xấu xa hoặc tội lỗi vì uống rượu chưa?
Mở mắt: bạn đã bao giờ uống rượu đầu tiên vào buổi sáng để ổn định thần kinh hoặc loại bỏ cảm giác khó chịu do uống rượu nồng độ cao chưa?
Một câu hỏi rất đơn giản khác giúp bạn biết được liệu bạn có gặp vấn đề về rượu không là hãy tự hỏi chính bạn: “Tôi có thực sự CẦN uống rượu không?”
Câu hỏi này có vẻ rất đơn giản nhưng nếu câu trả lời thành thật của bạn là “có” thì rượu đang ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn ở mức độ bạn không thể làm việc đạt kết quả cao mà không có nó. Đây là dấu hiệu giúp bạn tìm kiếm sự trợ giúp để giải quyết vấn đề liên quan đến rượu.

Nhận biết các cá nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu 
Việc quản lý những người gặp phải các vấnđề liên quan đến rượu gồm có 2 bước: đầu tiên là nhận biết và đánh giá người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, thứ hai là điều trị cho họ. Những người dùng quá nhiều rượu sẽ khiến họ rơi vào nhiều tình huống và tình trạng khác nhau ở nhiều mức độ khác nhau và cần sự trợ giúp khác nhau.

Các thầy thuốc lâm sàng hành nghề trong các phòng cấp cứu hoặc tại các trung tâm y tế khác đều bị chìm ngập trong công việc và thường hạn chế họ trong việc điều trị các tình trạng sức khoẻ cấp tính mặc dầu những tình trạng này có mối liên hệ trực tiếp với việc uống rượu. Các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu hiếm khi được nhận biết. Ngành tâm thần học nhận thức rõ hơn các vấn đề liên quan đến việc dùng rượu nhưng các nhà tâm thần học lại thường không điều trị cho các bệnh nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu. Thường thì có các bộ phận điều trị gắn liền với ngành tâm thần học. Các bộ phận này cung cấp các dịch vụ tổng thể đối với các vấn đề liên quan đến rượu. Có nhiều tổ chức NGOs tích cực trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, chất lượng chăm sóc rất khác nhau. Cảnh sát thường tuân theo luật pháp để giải quyết và nếu một người phá tan sự yên bình, họ sẽ không xét đến khả năng người đó đang gặp vấn đề về rượu hay không. Một tình huống cực đoan khác là cảnh sát có thể dùng vũ lực ép buộc một người đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu mà cô hoặc anh ta đã mất khả năng kiểm soát.

Do vậy, một cá nhân gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu có thể không phàn nàn gì về vấn đề sử dụng rượu của anh ta nhưng lại phàn nàn về những hậu quả có liên quan đến việc dùng rượu. Trong những trường hợp như vậy, vấn đề sử dụng rượu sẽ bị bỏ qua nếu không được nghiên cứu cẩn thận.

Bước 1: Nghi ngờ
Mối nghi ngờ các vấn đề liên quan đến rượu có thể nẩy sinh khi có những bằng chứng về các vấn đề trong phạm vi công việc, hôn nhân, tài chính hoặc luật pháp. Báo cáo về việc uống quá nhiều rượu, ngay cả khi dưới dạng phê bình của chồng hoặc vợ bệnh nhân hoặc các thành viên khác trong gia đình có thể là dấu hiệu cho biết có vấn đề. Sự xuất hiện các đặc điểm cai nghiện nên được báo cho các thầy thuốc lâm sàng. Một số triệu chứng về mặt tâm lý và y học hoặc các tình trạng như bệnh gan, triệu chứng tiêu hoá chua, lo lắng, sa sút về trí nhớ, tìm cách tự tử, các tai nạn lặp đi lặp lại, và bạo lực là những dấu hiệu phổ biến đi cùng với chứng nghiện rượu. Mối nghi ngờ chưa rõ ràng đã phát sinh cần phải được khắc phục bằng những các phương pháp nhận biết.

Bước 2: Điều tra tình hình
Việc điều tra chứng nghiện và lạm dụng rượu có thể dựa trên các thiết bị sàng lọc(bảng câu hỏi) hoặc các cuộc kiểm tra phòng thí nghiệm.
Dùng các thiết bị sàng lọc để nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu
Các thiết bị sàng lọc được dùng trong các nghiên cứu dịch tễ học khi nhiều người được sàng lọc để xem có gặp phải vấn đề liên quan đến rượu không. Chúng cũng rất hữu ích trong các hoạt động y tế chẳng hạn như phẫu thuật cho bệnh nhân ngoại trú khi khó thu được lịch sử chi tiết về việc sử dụng thuốc ở mỗi bệnh nhân do thời gian hạn hẹp. Chẳng hạn như, trong khi dùng bảng câu hỏi CAGE được miêu tả trước đó, bác sĩ chỉ hỏi 4 câu hỏi rất đơn giản và dựa trên các câu trả lời có/không, thầy thuốc lâm sàng có thể kết luận liệu cá nhân đó có đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu. Việc sàng lọc bảng câu hỏi giống như CAGE được coi là đáng tin cậy và khả thi hơn là các bài kiểm tra phòng thí nghiệm, đặc biệt là ở những nước đang phát triển và trong cộng đồng.
Nhiều thiết bị sàng lọc đã được triển khai để đánh giá các khía cạnh khác nhau của các vấn đề liên quan đến rượu. AUDIT là một bảng câu hỏi tự thực hiện do WHO triển khai. Các bảng câu hỏi khác phải được thực hiện bởi hoặc là bác sĩ hoặc là một người am hiểu lĩnh vực lạm dụng rượu. Những bảng câu hỏi này nhằm thu được những thông tin về rượu và các tác dụng của nó đối với cuộc sống của cá nhân theo cách thức khách quan.

Các thiết bị sàng lọc đối với sự rối loạn do dùng rượu:
• Máy đo sự nghiện rượu (ADS)
• Bài kiểm tra nhận biết các rối loạn do dùng rượu (AUDIT)
• Bài kiểm tra khung
• Máy đánh giá việc rút thuốc của viện y tế (CIWA-Ar)
• Bài kiểm tra chứng nghiện rượu Munich (MALT)
• Bài kiểm tra việc sàng lọc chứng nghiện rượu Michigan (MAST)
• MAST ngắn
• Máy đo việc uống rượu do ám ảnh hoặc do không kiểm soát được (OCDS)
• Sự sẵn sàng thay đổi bảng câu hỏi (RTCQ)
• Bài kiểm tra ngắn về sự sàng lọc chứng nghiện rượu Michigan (sMAST)
• T-ACE các câu hỏi TLFB: Alcohol Time Line Follow Back
• Các câu hỏi TWEAK
• Phụ lục về sự nghiêm trọng của rượu

Việc sử dụng các bài kiểm tra phòng thí nghiệm để nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

Vật đánh dấu sinh học về chứng nghiện rượu: Vật đánh dấu sinh học là các thông số về cơ thể mà khi được báo đều có liên quan đến các rối loạn cụ thể. Những vật đánh dấu này có thể là các vật đánh dấu tiêu biểu hoặc các vật đánh dấu tình trạng. Các vật đánh dấu tiêu biểu cho biết khả năng dễ bị tổn thương của một người bị rối loạn đặc biệt. Nhiều vật đánh dấu tiêu biểu cho các vấn đề liên quan đến rượu đã được nhận biết. Các vật đánh dấu tình trạng cho biết giai đoạn hoạt động của bệnh và được bao động chỉ khi bệnh bắt đầu xuất hiện. Các vật đánh dấu tình trạng đều rất hữu ích để nhận biết bệnh nhân bị rối loạn do dùng rượu trong các nghiên cứu dịch tễ học cũng như trong việc khám và điều trị bệnh. Chúng cũng rất hữu ích trong việc kiểm soát sự kiêng khem vì nhiều vật đánh dấu tình trạng cho biết việc dùng rượu gần đây. Nhiều vật đánh dấu này rất hữu ích khi được dùng cùng với bảng câu hỏi sàng lọc và đánh giá lâm sàng.

Vật đánh dấu về chứng nghiện rượu
1. Asparate Aminotransferase (AST) và Alanine Aminotranferase (ALT)
Nếu chỉ số ALT tăng, sẽ cho biết gan bị hỏng vì bất kỳ nguyên nhân nào. Hữu ích khi được kết hợp với các bài kiểm tra khác
2. Gammaglutamyl Transferase (GGT)
Bài kiểm tra được dùng phổ biến nhất. Chỉ số GGT tăng cao cho thấy khả năng gan bị hư hại nặng do rượu hoặc cũng có thể do các nguyên nhân khác. Bài kiểm tra hữu ích kết hợp với các bài kiểm tra khác cũng là để giám sát các kết quả điều trị bệnh hoặc khuyến khích bệnh nhân không uống nhiều rượu nữa.
3. Thể tích Corpuscular trung bình(MCV)
Thường được dùng với GGT. Bài kiểm tra hữu ích kết hợp với các bài kiểm tra khác.
4. Erythrocyte Aldehyde Dehydrogenase (ADH)
Các mức độ được giảm đối với người sử dụng rượu quá nhiều trong thời gian dài.
5. Chuyển đổi carbohydrate không đầy đủ (CDT)
Các mức độ tăng ở người lạm dụng rượu trong thời gian dài. Có thể phân biệt việc uống uống rượu quá nhiều trong thời gian gần đây với việc kiêng khem và uống rượu ở mức độ nhẹ.

Bước 3: Tiêu thụ
Việc khẳng định lần cuối về sự nghiện rượu ở mỗi cá nhân mà được nhận biết thông qua bài kiểm tra sàng lọc sẽ phải được tiến hành thông qua ít nhất một cuộc phỏng vấn về khám và điều trị, tìm hiểu các chi tiết về việc dùng rượu và các tác dụng của nó lên các mặt khác nhau của đời sống. Phương pháp tiếp cận có tính thuyết phục và nhẹ nhàng đối với người phỏng phần là rất cần thiết, tránh đối đầu hay khiêu khích. Các tiêu chuẩn và đường lối chỉ đạo chẳng hạn như những tiêu chuẩn của ICD-10 hoặc DSM-IV nên được áp dụng để chuẩn đoán được khách quan. Có thể đào tạo những người hành nghề y nói chung và các nhân viên trợ lý có thể thực hiện cuộc phỏng vấn nhằm đánh giá bệnh nhân theo các tiêu chuẩn này để chuẩn đoán sự nghiện rượu và các vấn đề khác liên quan đến rượu.

Đánh giá một người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu
Ngay khi một cá nhân được khẳng định là đang lạm dụng, nghiện rượu hoặc đang gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, thì việc đánh giá chi tiết trường hợp đó cần phải được thực hiện trước khi lên kế hoạch điều trị. Việc đánh giá đó bao gồm:
• Các chi tiết về việc dùng rượu: bắt đầu, khoảng thời gian, việc tiêu thụ trung bình mỗi ngày, sự xuất hiện của triệu chứng rút thuốc nếu không được sử dụng, say rượu túy luý, lạm dụng các loại ma tuý khác, những thay đổi gần đây về việc uống rượu.
• Các lý do bắt đầu và tiếp tục uống rượu
• Sức khoẻ suy giảm do rượu: các dấu hiệu cho biết các hậu quả do dùng rượu
• Các vấn đề về hành vi kèm theo việc dùng rượu: đau buồn, các vấn đề về trí nhớ, đa nghi, các vấn đề giữa các cá nhân
• Các hậu quả về mặt luật pháp, xã hội và gia đình do dùng rượu: như được miêu tả trong mục trước và sự giúp đỡ về mặt xã hội hiện có.
• Các hậu quả về tài chính và nghề nghiệp: bao gồm các tình trạng tài chính hiện tại và các tình trạng nghề nghiệp hiện tại.
• Nỗ lực điều trị trước đó: lý do tìm kiếm sự giúp đỡ lần này, động lực để thay đổi

Các rào cản trong việc đánh giá
Không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng có được những thông tin nhạy cảm cần thiết để đánh giá việc dùng rượu được chính xác và hoàn chỉnh. Một số rào cản cụ thể trong việc đánh giá bao gồm:
- Bệnh nhân phủ nhận vấn đề cũng như sự mâu thuẫn về nhu cầu cần sự giúp đỡ ở bên ngoài
- Cảm thấy có tội vì đã dùng rượu và các hành vi liên quan đến việc dùng rượu đã dẫn đến việc giấu kín thông tin
- Cảm thấy xấu hổ vì bị “yếu” hoặc “thất bại” dẫn đến động cơ thúc đẩy không đủ mạnh
- Sự kỳ thị của bệnh nhân và gia đình đã gây cản trở cho quá trình tìm kiếm sự giúp đỡ tích cực
- Các vấn đề khó xử về vai trò của thầy thuốc và các phản ứng có thể gây cản trở cho bệnh nhân tìm kiếm sự trợ giúp
- Sự tiếp thu các hậu quả về mặt luật pháp và các hậu quả khắc nghiệt khác có thể ngăn cản một người tiếp cận với các trung tâm điều trị.
Thậm chí các đặc điểm cá nhân của một bác sĩ lâm sàng cũng có thể là một cản trở trong việc đánh giá các bệnh nhân tiềm năng. Một số vấn đề quan trọng là:
- Kiến thức khoa học về các vấn đề liên quan đến rượu, mặc dầu đang mở rộng nhưng vẫn còn hạn chế
- Thái độ đánh giá đối với những người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu ảnh hưởng đến việc cung cấp việc điều trị hiệu quả
- Ý kiến sai lệch về phép điều trị không có thực về các vấn đề liên quan đến rượu dẫn đến các nỗ lực thiếu nhiệt tâm và không hăng hái về phía đội ngũ điều trị
- Lo sợ mất khả năng kiểm soát các vấn đề liên quan đến rượu thậm chí ở giai đoạn đánh giá sớm nhất

Các phương pháp khắc phục đối với các rào cản trong việc đánh giá
Các rào cản trong việc đánh giá có thể được khắc phục hiệu quả nhờ và các biện pháp tiếp cận việc đánh giá những người gặp phải các vấn đề liên quan đến rượu, chẳng hạn như
• Đảm bảo tính riêng tư và bí mật
• Duy trì tính khách quan
• Bày tỏ mối quan tâm và sự sôi nổi
• Bày tỏ sự đồng cảm và thái độ lạc quan
• Sẵn sàng lắng nghe và hiểu trước khi đưa ra kết luận
• Tránh các thông điệp mơ hồ
• Rõ ràng và kiên định đối với vai trò, khả năng và giới hạn của chính mình
• Phát triển khả năng tự xem xét thông qua người trợ giúp (thầy thuốc, nhân viên y tế và bất kỳ người nào khác)

[Backup] NGHIỆN RƯỢU

NGHIỆN RƯỢU

Theo tài liệu “TẬP HUẤN CHỐNG NGHIỆN RƯỢU” 
của Viện sức khỏe tâm thần Trung ương 2 (Bệnh viện Tâm thần Biên Hòa)


I. KHÁI NIỆM:


Buồn cũng uống, vui cũng uống - thành công cũng uống, thất bại cũng uống; đám cưới cũng uống, đám ma cũng uống – sáng uống, trưa uống, chiều uống, tối uống. Người nghèo uống rượu đế, nhâm nhi vài con sò, con ốc, trái cóc, trái xoài, người giàu uống rượu tây trong các nhà hàng sang trọng. Thanh niên uống la hét, người già uống nhâm nhi, ngẫm nghĩ sự đời. Chưa có một chất gây nghiện đặc biệt nào được sử dụng nhiều như rượu ở nước ta.

Rượu là một loại ma túy hợp pháp, sử dụng đặc biệt rất nhiều ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa và đặc biệt là trong các nghi lễ văn hóa, trong ma chay, cưới hỏi, giỗ tết….


Đa số rượu được sản xuất thủ công từ bột gạo, bột nếp đến vỏ cây, bã mía, củ sắn, lá rừng… Hầu như mọi nhà đều biết cách làm rượu. Chính phủ lại không kiểm soát được việc sản xuất rượu vì chưa có chính sách quốc gia phòng chống lạm dụng rượu, người dân chưa thấy hết tác hại của việc lạm dụng rượu và một phần do rào cản văn hóa, phong tục - tập quán, thiếu hiểu biết nên thậm chí nhiều người có trách nhiệm phòng chống ma túy, vạch định chính sách cũng lạm dụng rượu.


Lạm dụng rượu lâu ngày đưa đến chứng nghiện rượu, để lại nhiều tác hại cho cá nhân, gia đình và xã hội:

Về cơ thể: rượu gây tổn thương hệ thống thần kinh, gây bệnh tim mạch, viêm loét dạ dày, gây suy gan dẫn đến xơ gan và thậm chí dẫn đến ung thư gan và tổn thương nhiều bộ phận khác trong cơ thể.

Về mặt tâm thần: do phụ thuộc rượu, người nghiện rượu bị tổn thương hệ thống thần kinh não bộ, rối loạn nhận thức, hành vi, nhân cách, mất trí và phát sinh nhiều bệnh tâm thần. Thiếu rượu người nghiện bị hội chứng cai đôi khi rất nặng dẫn đến tình trạng sảng rượu, hôn mê.

Ngoài ra do sử dụng rượu người nghiện rượu bị mất khả năng lao động về trí tuệ cũng như thể chất.


II. NGUYÊN NHÂN NGHIỆN RƯỢU:


1. Nhiều người tin rằng rượu là một chất bổ dưỡng nhất là khi dùng rượu ngâm với các loại thảo dược, bộ phậm động vật để tăng cường năng lực, bổ thận, tráng dương. Chính phủ lại chưa có chính sách quốc gia, chưa kiểm soát được nguồn cung cũng như quản lý nhu cầu về rượu. Thậm chí nhiều quảng cáo rượu còn được phổ biến trên nhiều phương tiện truyền thông đại chúng. Nhiều loại rượu được ngâm với các loại lá cây, bộ phận động vật mà chưa xác định được độc tính.


2. Môi trường văn hóa – tâm lý - xã hội: Nhiều quan niệm phải sử dụng rượu trong việc hiếu hỉ, khen thưởng, thi đua, thậm chí chiêu đãi tại các hội nghị, khánh thành cơ sở...Việc uống rượu trở nên quá bình thường trong tập quán dân gian, lễ hội, trong quan hệ hàng ngày, thậm chí còn có quan điểm uống rượu là củng cố tình bằng hữu. Số người bị stressthất bại trong cuộc sống hoặc có lắm nỗi buồn cũng uống rượu tiêu sầu. Đa số các buổi họp mặt, liên hoan phải có rượu, uống không hết - không về…


3. Di truyền và sinh học:

+     Trẻ có cha mẹ nghiện rượu có nguy cơ nghiện rượu cao hơn con những người không nghiện rượu.

+     Tiền sử những gia đình nghiện rượucon cái họ có nguy cơ nghiện rượu nhiều hơn những gia đình không có người nghiện rượu.


4. Tính chất sinh lý:

Người có tư tưởng hay chống đối xã hộirối loạn cảm xúc, rối loạn lo âutrầm cảm, thiếu sự trợ giúp tâm lý – xã hội, thất bại trong cuộc sống, mất việc làmbuồn chán việc riêng, hoàn cảnh công việc, nhân cách cá nhân yếu có nguy cơ bị nghiện rượu.


III. DỊCH TỄ HỌC:

-    Ở nước ta các bệnh lý tâm thần do nghiện rượu chưa nhiều bằng một số các nước khác; các công trình nghiên cứu về nghiện rượu cũng rất ít. Khoảng hơn 20 năm gần đây do có một số trường hợp loạn thần do nghiện rượu phải vào điều trị tại các cơ sở điều trị tâm thần nên chúng ta mới bắt đầu nghiên cứu. Kết quả theo dõi sau đó cho thấy bệnh lý do nghiện rượu tăng một tỷ lệ đáng quan tâm. Theo PGT- Tiến sĩ Trần Viết Nghị, bệnh lý tâm thần do nghiện rượu, năm 1990 chiếm 0,31% bệnh nhân nằm viện. Năm 1994 tăng lên 6,99% gấp 22 lần. Theo một số tại địa phương tỷ lệ nghiện rượu tăng khoảng 2% mỗi năm trên tổng số bệnh nhân bị tâm thần nhập viện.

*     Ở Pháp bệnh lý tâm thần do nghiện rượu chiếm 22%. Loạn thần do nghiện rượu chiếm 20% (TS Tancuchiev 1988).

-     Tại Nam Tư số bệnh nhân nằm bệnh viện tâm thần là 23,1% (D. Heroitic 1991).

-    Ở Mỹ 10% nữ, 20% nam lạm dụng rượu: 3% - 5% nữ, 10% nam chẩn đoán nghiện rượu. Khoảng 200.000 người tử vong hàng năm liên quan trực tiếp đến lạm dụng rượu. (DSM III R).


IV. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA RƯỢU:

Rượu là một loại ma túy thiên nhiên hợp pháp. Rượu tác động vào hệ thần kinh trung ương. Hội chứng cai rượu phụ thuộc vào tâm thần và cả cơ thể.


1. HẤP THU:

Công thức hóa học của rượu là Ethamol là : CH3 - CH2 - OH. Rượu được sử dụng với nồng độ rượu khác nhau, tên gọi khác nhau và có hương vị khác nhau… Sau khi uống, khoảng 10%  - 20% rượu được hấp thu tại dạ dày, phần còn lại hấp thu tại ruột non. Rượu hấp thu nhanh khi bụng đói và hấp thu chậm khi bụng no. Nồng độ rươu hấp thu trong máu cao nhất thông thường từ 40 đến 60 phút sau khi uống. Để bảo vệ chống tăng nồng độ rượu cơ thể có cơ chế tự điều chỉnh. Khi nồng độ rượu quá cao trong dạ dày, dạ dày sẽ tiết dịch nhày làm giảm sự hấp thu rượu và đóng van môn vị lại gây hiện tượng nôn ói, hạn chế lượng rượu xuống ruột non, ngăn cản bớt sự hấp thu rượu, nên giảm lượng rượu hấp thu vào máu. Thức ăn chất đạm và chất béo làm chậm sự hấp thu rượu, trái lại nước uống làm tăng sự hấp thu rượu. Rượu vào máu và được phân bổ toàn cơ thể. Rượu hòa tan trong nước nên ở tất cả các mô, do đó gây nguy cơ nhiễm độc cao.


2. CHUYỂN HÓA:

Khoảng 90% rượu được hấp thu, chuyển hóa ở gan, 10% bài tiết ở thận qua nước tiểu và và qua hơi thở ở phổi.

Tại gan rượu bị oxy hóa khoảng 15mg/dl/giờ. Ở người uống rượu thường xuyên hiện tượng chuyển hóa nhanh hơn. Rượu được chuyển hóa nhờ enzym là Alcohol Dehydrogenase (ADH) biến đổi rượu thành acetaldehyde là một chất độc hạiAcetaldehyde được Enzym Aldehyde Dehydrogenase xúc tác chuyển đổi thành Acid Acetic. Ở phụ nữ lượng ADH thấp hơn nam giới nên dễ bị nhiễm độc hơn.


V.TÁC HẠI CỦA RƯỢU TRÊN CƠ THỂ:


1.TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ THỐNG NÃO BỘ:

Khác với nhiều người lầm tưởng, rượu không phải là chất kích thích mà là một chất làm suy giảm cả hai quá trình hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh trung ương. Tuy nhiên do rượu làm sự ức chế giảm mạnh trong lúc sự hưng phấn giảm ít hơn nên gây ra quá trình hưng phấn giả tạo. Vì vậy người nghiện rượu cảm thấy giảm lo âu, hăng hái, nói nhiều, hoạt động nhiều nhưng thiếu chính xác, lời nói không được kiềm chế, xuồng xã hay khoe khoang, tự cao tự đại hoặc xúc phạm người khác. Khi nồng độ rượu trong máu trên 0.3% sẽ bị rối loạn tư duytri giác, vận động, khi nồng độ rượu từ 0.4% đến 0,5% cả hai quá trình hưng phấn và ức chế bị suy giảm, người uống rượu có thể dẫn đến hôn mê. Khi nồng độ rượu đến 0,6 đến 0,7% người uống rượu có thể bị tử vong.

Người uống rượu bị rối loạn cảm xúc, rối loạn lo âu, có tư tưởng chống đối cũng như tư tưởng tự sát, có thể bị liệt  mềm mất trí. Gần 40% số người nghiện rượu bị trầm cảm.


2.    TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ TIM MẠCH – HÔ HẤP:

+     Tăng huyết áp, mạch nhanh.

+     Bệnh cơ tim trên người nghiện nặng.

+     Thở nhanh, nông, hồi hộp

+     Chán ăn, phù, dễ dẫn đến hội chứng suy tim.


3.    TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN HỆ TIÊU HÓA:

+   Rượu gây kích thích, viêm niêm mạc dạ dày, viêm teo dạ dàyloét dạ dày và xuất huyết dạ dàyviêm loét hành tá tràng.

+   Hiện tượng trào ngược thực quản do viêm cơ vòng thượng vị. Người nghiện cảm thấy nóng rát sau xương ức, cảm giác nôn, có thể gây ói. Trường hợp nặng có thể thủng bao tử ở vùng co thắt.

+   Nếu bệnh nhân bị ngộ độc gan gây tăng áp lực tĩnh mạch sẽ bị giãn tĩnh mạch thực quản đôi khi gây vỡ tĩnh mạch thực quản gây chảy máu và có thể dẫn đến tử vong.

+   Hấp thu kém, tiêu chảy thường gặp ở người nghiện rượu do rối loạn co bóp của dạ dàybào mòn dịch nhàyrối loạn vận chuyển các vitamine và ion.


4.  TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN GAN:

Một lượng lớn rượu được chuyển hóa tại gan, do đó gan bị suy yếu, ngộ độc dẫn đến gan dễ bị nhiễm mỡ, có thể gây xơ gan do rượu. Viêm gan do rượu, người nghiện có hiện tượng vàng da, vàng mắt, chán ăn, đau hạ sườn phải và rối loạn tiêu hóa. Người nghiện rượu lâu năm bị xơ gan có dấu hiệu thường gặp là sút cân, mệt mỏi, chán ăn. Trường hợp nặng người nghiện rượu bị vàng da, lách to, cổ chướng, gan to hoặc teo nhỏ, teo tinh hoàn, phù…., chứng vú to. Xét nghiệm cho thấy Albumine máu giảm, Globuline máu tăng, men gan có thể tăng hoặc giảm.


5. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN TUYẾN YÊN:

Gây rối loạn tăng trưởng, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn chuyển hóa iron, nước, muối khoáng.


6. TÁC ĐỘNG CỦA RƯỢU TRÊN TUYẾN TỤY: còn có thể viêm tụy mãnđau bụng và nôn nhiều. Trường hợp tế bào đảo tụy do viêm mãn tính người nghiện có thể bị tiểu đường hoặc tăng đường huyết.


7.CÁC BIỂU HIỆN VỀ DINH DƯỠNG:

+  Rượu cản trở sự hấp thu, chuyển hóa các chất dinh dưỡng

+  Người nghiện rượu bị giảm acid folic gây thiếu máu.

+  Giảm vitamine B1vitamine B6, các ion, nhất là ion kẽm.

+  Thiếu các vitamine hòa tan trong mỡ như vitamine A, vitamine D, vitamine H…

+  Giảm đường máu gây run, co giật, mệt mỏi

+   Viêm đây thần kinh ngoại vi gây liệt mềm, mất trí.


8. PHỤ NỮ NGHIỆN RƯỢU: có thể sinh non, trẻ nhẹ cândị dạng.


9. TĂNG NGUY CƠ GÂY UNG THƯ: vòm hầu, họng, thanh quản, thực quản và gan.


VI. NHIỄM ĐỘC RƯỢU

Nhiễm độc rượu còn được gọi là say rượu, có 2 loại nhiễm độc rượu:

+Nhiễm độc (say rượu) thông thường

+Nhiễm độc (say rượu) bệnh lý


1. SAY RƯỢU THÔNG THƯỜNG:

Say rượu thông thường, còn gọi là say rượu cấp ở những người lạm dụng rượu uống quá ngưỡng, dẫn đến những thay đổi hành vi, cảm xúc kèm theo trạng thái rối loạn ý thức.

Tùy theo lượng rượu uống, lượng hấp thu rượu, thời gian uống kéo dài bao lâu, uống lúc no hay đói và khả năng dung nạp của từng cá thể. Tình trạng say rượu có thể được biểu hiện ở 3 mức độ:

*SAY RƯỢU MỨC ĐỘ NHẸ:

Người say rượu nhẹ có tư duy chậm chạp, kém nhạy bén, thiếu chính xác vận động, giảm khéo léo, giảm nhiều kỹ năng lao động.

Tình trạng hưng phấn tùy thuộc vào lượng rượu uống, khí sắc tăng nhẹ, cảm giác hưng phấn quá mức, khoái cảm thô lỗ, nói năng đùa cợt không phù hợp. Người say rượu thường cường điệu hóa vụ việc, ưa khoe khoang về mình, ưa công kích người khác. Ngoài ra người say rượu ưa chấp nhặt, hay gây sự, kiếm chuyện làm tăng khả năng xung đột với người xung quanh.

Say rượu nhẹ có thể giải tỏa bản năng tình dục dễ dẫn đến hành vi thô bạo với người khác giới.

*SAY RƯỢU TRUNG BÌNH:

Liên tưởng hỗn độn, không kiềm chế được cảm xúc, dễ tức giận, nổi nóng dù những nguyên do không đáng kể.

Người say rượu mức trung bình thường mất tế nhị, mất lịch sự có những hành vi thô bạo, nói to, ồn ào, ưa la hét, khó thực hiện các động tác đòi hỏi khéo léo, đi đứng xiêu vẹo.

*SAY RƯỢU NẶNG:

Thường biểu hiện nôn nhiều, vã mồ hôi, rối loạn thực vật, tăng tiết nước bọt, đái ra quần, ngã vật, nếu lượng rượu uống nhiều có thể dẫn đến hôn mê, mạch nhanh, thở nông, hạ huyết áp có thể dẫn đến tử vong.

*Xử trí:

+Các trường hợp ngộ độc rượu cấp thể nhẹ sau giai đoạn ngủ sâu, tự hồi phục.

+Trong những trường hợp ngộ độc cấp nặng (say rượu nặng) có các biểu hiện như:

§  Hôn mê

§  Suy hô hấp nặng

§  Mạch nhanh, tụt huyết áp, hạ đường huyết.

Phải thực hiện, phác đồ cấp cứu ở các trung tâm cấp cứu gần nhất.

-Nếu đến sớm nên rửa dạ dày.

-Có suy hô hấp: đặt nội khí quản, thở oxy qua máy.

-Nếu hạ đường huyết, tụt huyết áp: truyền glucose 20 – 30%

-Nên có toan chuyển hóa truyền Natribicarbonate 1,4%

-Nếu bệnh nhân ngộ độc rượu cấp (say rượu nặng) có hiện tượng tăng Creatimin máu, tăng K+ máu dẫn đến  suy thận cấp, phải truyền dịch từ 400ml – 5000 ml ngày, cho lợi tiểu Lasix để duy trì lượng nước tiểu 3000 ml/24 giờ.

-Có chế độ theo dõi cấp cứu chăm sóc toàn diện, thích hợp.


2. SAY RƯỢU BỆNH LÝ:

*KHÁI NIỆM:

-    Say rượu bệnh lý là một trạng thái ngộ độc rượu cấp rất đặc biệt, hiếm gặp, có thể xảy ra ở những người uống lượng rượu không lớn.

-  Theo Corsacop X.X và Xerbski V.P say rượu bệnh lý là tình trạng loạn thần cấp, diễn ra trong một thời gian ngắnnhất thời với những triệu chứng bệnh lý rối loạn ý thức sâu sắc kiểu mù mờ, kèm theo những trạng thái căng thẳng cảm xúc do hoang tưởng và ảo giác.

*ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA SAY RƯỢU BỆNH LÝ:

-Rượu chỉ là một tác nhân dẫn đến say rượu bệnh lý trong số nhiều yếu tố khác cần được kể đến như: Sự mệt nhọc, lo âu, sợ sệt, căng thẳng, thiếu ngủ, đói ăn, suy kiệt, nóng quá mức, khác quá mức, bệnh nhiễm trùng.

-Say rượu bệnh lý phát sinh sau uống rượu không phụ thuộc vào số lượng và loại rượu uống.

· Khởi phát có thể nhanh từ vài phút đến một giờ (ít khi xuất hiện muộn sau nhiều giờ).

· Khác với say rượu thông thường, người say rượu bệnh lý bị ngay những rối loạn ý thức trầm trọngmất định hướng, không duy trì được sự tiếp xúc với người xung quanh.

· Trong say rượu bệnh lý phối hợp vận động vẫn còn tốt, người say rượu bệnh lý vẫn duy trì được thăng bằngkhả năng di chuyển.

· Trạng thái say rượu bệnh lý thường kéo dài khoảng một giờ đôi khi vài giờ kết thúc bằng giấc ngủ sâu.

· Thường phát sinh cảm xúc bất anlo âuhoảng sợđạt tới mức khủng khiếpcảm xúc không thoải mái về quá khứ.

· Các nét đặc trưng khác với say rượu đơn thuầnlượng rượu uống vào ít hay rất ít. Thường gặp ở những người có trạng thái phụ thuộc vào rượu rõ rệt. Những người có nhân cách yếu.

· Cơn xảy ra đột ngộtbất ngờ với nhiều rối loạn hành vi, và có rối loạn ý thức (thường lú lẫn).


VII. LẠM DỤNG RƯỢU (ALCOHOL ABUSE)

Một người uống rượu chưa hẳn đã nghiện, nhưng vẫn có thể làm hại đến sức khỏe của họ.

Nhận thức được ý nghĩa này, mục đích để nhằm ngăn chặn sớm tác hại của rượu, nâng cao cảnh giác cho mọi người hiểu rằng nhiều khi vì thói quen, tuân thủ tập tục, dễ dàng biện hộ cho những hành vi mang tính chất lễ nghi quên mất rằng mình “lạm dụng rượu” trong giao tiếp, hội hè, ăn nhậu sẽ bị tác hại rất nhiều đến sức khỏe.


VIII. NGHIỆN RƯỢU MÃN TÍNH:

Nghiện rượu mãn tính xảy ra khi dùng rượu dài ngày, dần dần thường xuyên phải tìm rươu, uống rượu. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp uống rượu thường xuyên đều có thể coi là nghiện rượu mãn tính.

Nghiện rượu mãn tính là một bệnh lý mà đối tượng sử dụng rượu bị lệ thuộc vào thể chất và tâm thần. Người nghiện rượu bị các triệu chứng sau:

· Hội chứng nghiện.

· Hội chứng cai rượu.

· Sự thay đổi khả năng dung nạp rượu.

· Rối loạn tâm thần.

· Biến đổi nhân cách.


A. HỘI CHỨNG NGHIỆN:

Hội chứng nghiện là sự thèm muốn mãnh liệt sử dụng rượu. Người sử dụng rượu phải tái sử dụng rượu sau một thời gian bỏ rượu để làm mất các cảm giác khó chịu do thiếu rượu.

Được gọi là nghiện rượu khi người uống rượu có hơn 3 yếu tố  sau:

1.    Thèm muốn mạnh mẽ hoặc cảm thấy phải sử dụng rượu

2.    Khó khăn trong việc kiểm tra tập tính sử dụng rượu về mặt thời gian bắt đầukết thúc hoặc lượng rượu sử dụng.

3.    Khi việc sử dụng rượu bị ngừng sẽ phát sinh hội chứng cai rượu.

4.    Hiện tượng dung nạp rượu, nhu cần phải tăng liều.

5.    Sao nhãng các thú vui trước đây bằng thay thế đi tìm và sử dụng rượu, tăng số thời gian cần thiết để tìm kiếm hay sử dụng rượu.

6.    Tiếp tục sử dụng rượu mặc dù biết rõ hậu quả, tác hại do uống quá nhiều.

7.    Uống rượu một cách thường xuyên vào những giờ làm việc, những giờ nghỉ, ngày nghỉ bất chấp những quy tắc xã hội ràng buộc.

8.    Người sử dụng rượu thèm muốn khó cưỡng lại dùng rượu trong thời gian cố gắng ngừng hoặc kiểm soát việc dùng rượu.


B. HỘI CHỨNG CAI

1. HỘI CHỨNG CAI THÔNG THƯỜNG:

Khi bệnh nhân đột ngột ngừng uống rượu sau một thời gian ngắn, có thể không quá một đêm hội chứng cai có thể xuất hiện:

·     Người bệnh có khí sắc trầmbồn chồnbứt rứtkhó chịuđứng ngồi không yên.

·     Lo âu sợ hãi một cách mơ hồ, các ý tưởng thiếu hệ thống.

·     Giấc ngủ nôngdễ giật mìnhdễ thức giấc, hoặc ác mộng, hãi hùng, đôi khi mất ngủ hoàn toàn.

·     Run cơchuột rút.

·     Chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy.

·     Vã mồ hôi, nhịp tim nhanh.

·     Lo âu lan tỏatăng cảm xúctăng tính kích thíchrối loạn trí nhớ.

Nếu không điều trị hội chứng cai rượu kéo dài từ vài giờ đến 1 tháng tùy mức độ nghiện rượu nặng hay nhẹ.

·     Trong hội chứng cai rượu nặng người bệnh có thể có cơn co giật động kinh cũng như các ảo giác về thị giác và thính giác, đặc biệt về chiều và đêm.

·     Đặc trưng cho hội chứng cai rượu là những biểu hiện trên giảm đi hoặc biến mất khi uống lại rượu.

·     Hội chứng cai biểu hiện ngày càng tăng dần làm người nghiện cứ sau vài giờ lại phải uống một liều rượu nhỏ để làm giảm đi các triệu chứng trên.

Trong trường hợp bị hội chứng cai nặng, người nghiện có thể:

·     Có một cơn hoặc nhiều cơn co giật liên tiếp trong vài giờ.

Nếu không điều trị có thể chuyển sang giai đoạn động kinh liên tục.

·     Ảo thanh lời nói (tố cáo, đe dọa, quấy rối), thường kết hợp với ảo tưởng hoặc có khi với ảo thị.

·     Điều trị bằng thuốc chống loạn thần và giải lo âu.


2.  HỘI CHỨNG CAI CÓ SẢNG:

Sảng rượu là một trong những hình thái lâm sàng của loạn thần do rượu.

*    GIAI ĐOẠN KHỞI PHÁT:

Sảng rượu có thể khởi phát cấp tính hay từ từ. Giai đoạn này có thể kéo dài vài ngàyhàng tuần hoặc hàng tháng. Theo Ades J., 1990 thời gian khởi phát 24 - 48 giờ, còn Watson A.S., 1995 cho rằng giai đoạn này chủ yếu là mệt mỏichán ănrối loạn giấc ngủác mộngcơn hoảng sợkích độngrối loạn thần kinh thực vậtrun rẩychếnh choángthay đổi cảm xúc biểu hiện bằng lo lắng hay trầm cảm. Sau đó bệnh tiến triển nặng dần và thường nặng về ban đêm với những ảo tưởng thị giác, hồi ứcảo thị sinh động. Bệnh nhân vẫn còn khả năng phê phánrối loạn định hướng thoáng qua hoặc định hướng không đầy đủ về không gian, thời gian. Nét mặt và hoạt động mất linh hoạt, chú ý không tập trung. Trong giai đoạn này có thể có cơn co giật, thống kê của Tratrue C., 1983 trong giai đoạn khởi phát 10 - 15% có cơn co giật.

Khi nghiên cứu bệnh nhân sảng rượu ở Viện sức khỏe tâm thần Bệnh viện Bạch Mai triệu chứng hay gặp ở thời kỳ khởi phát là rối loạn giấc ngủ (100%), mệt mỏi, chán ăn(75%), khó tập trung chú ý (75%), run rẩy (64%), chếnh choáng (64%), sợ hãi (50%).


*GIAI ĐOẠN TOÀN PHÁT:

Tam chứng cổ điển bao gồm:

+     Ý thức mù mờ và lú lẫn

+     Ảo tưởng và ảo giác sinh động ở bất kỳ giác quan nào.

+     Triệu chứng run nặng.

Ngoài ra cũng thường có hoang tưởngkích độngmất ngủ hoặc rối loạn thức ngủ.

Hiện tượng mê sảng nặng, người bệnh có rối loạn khả  năng định hướng thời gian và không gian, định hướng xung quanh đôi lúc bị lệch lạc, còn giữ được định hướng bản thân. Người bệnh nhận thức xung quanh như là ảo ảnh, hoàn toàn mất khả năng phê phán. Mức độ ý thức mù mờdao động thường tăng về chiều tối. Khi có sự lôi cuốn chú ý lâu, ý thức tỉnh ra đôi chút, người bệnh bắt đầu trả lời đúng các câu hỏi nhưng trạng thái này có thể đột nhiên bị hàng loạt các ảo thị ngắt đoạn.


Có nhiều loại ảo giác như ảo thịảo thanhảo thínhảo giácxúc giác. Các ảo giác chiếm vị trí chủ yếu và thường xuất hiện vào buổi tối có nội dung làm người bệnh ghê sợhoảng hốt. Các ảo thị thường có kích thước bị thu nhỏ, trông thấy những hình người, hình sinh vật nhỏ bé lại. Đôi khi người bệnh thấy các loại côn trùng đang  trên cơ thể, cảm thấy đau do vết cắn của động vật. Đôi khi người ta gặp sảng nghề nghiệp; người bệnh thấy mình đang trong hoàn cảnh nghề nghiệp thông thường, đang tiến hành những hoạt động trong thao tác công việc của mình. Do rối loạn ý thức nặng nề, người bệnh tiếp thu những điều do ảo giác tạo nên như những điều xảy ra trong thực tếHành vi và tính chăm chú nhìn vào một chỗ nào đó, khi thì có tư thế bảo vệ, khi lẩn trốn, khi đi tìm, nét mặt có khi sợ hãi, khi ngạc nhiênđăm chiêu. Bệnh nhân trở nên nói nhiều, tỏ ra sôi nổibận rộnkhông ngủ được, các rối loạn tâm thần nặng lên về ban đêm và có thể có trạng thái kích động dữ dội. Một trong những nét đặc trưng là sự kết hợp cảm xúc căng thẳng, lo âu, sợ hãi với sự hài hước, người bệnh cố đùa cợt với cái nguy hiểm chết người đang đe dọa họ.

Hoang tưởng trong sảng rượu cấp thường xảy ra, liên quan đến tính chất và sự biến đổi của ảo giác.


Song song với các loại rối loạn tâm thần trong sảng rượu cấp có các rối loạn toàn thân khá rõRun chân tay, run lưỡi và toàn thân là triệu chứng thường gặp. (do có tên gọi là sảng run: delirium trements). Đó là một sự run rẩy ở cuối chi, nhanh và lan truyền mà người ta cảm thấy nhiều hơn trông thấy. Sự run rẩy cũng có trên khuôn mặt và tăng lên khi hoạt độngRun lưỡi làm cho bệnh nhân khó nói. Các động tác và dáng đi hơi kém phối hợp. Người bệnh đổ mồ hôi đầm đìasốt nhẹ, song trong trường hợp nặng hơnnhiệt độ có thể caomạch nhanhhuyết áp caotim hơi giãn.Trong nước tiểu thường có Urobilin và Albumin, trong máu tỉ lệ Bilirubintốc độ lắng máu tăng. Trong trường hợp nặng, tâm trạng người bệnh tiến triển xấu dần, có thể tử vong do thiểu năng tim mạch hoặc mắc thêm bệnh viêm phổi. Trong trường hợp tiên lượng khả quanbệnh kéo dài không quá 3 - 8 ngày. Cơn chấm dứt đột ngột sau một giấc ngủ sâu hoặc trong vài ngày, các biểu hiện bệnh nhẹ dần, trước tiên vào buổi sáng và ban ngày. Khả năng phê phán đôi khi không khôi phục được ngay. Trong trường hợp hạn hữusảng rượu cấp chuyển thành loạn thần Cocxacốp hoặc trạng thái ảo giác do rượu.


IX. CÁC RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU

A. RỐI LOẠN TÂM THẦN:

*  THAY ĐỔI CÁC PHẢN ỨNG CẢM XÚCRối loạn khí sắckhoái cảm chiếm ưu thế, khoan khoái dễ chịu, nói năng luyên thuyênkhoác lác, hay đùa cợtxàm sỡcáu gắtcông kích dọa nạtchửi bới tấn công người khác.

*  TRẠNG THÁI KHÍ SẮC: Trong một số ngày có thể thay đổi từ vui nhộnkhoan khoái với những câu bông đùa vô duyên, quá xàm sỡ chuyển sang quấy rầynổi khùngcau cógây gổ, độc ác hoặc có thể chuyển sang buồn rầu, đầy những sợ hãilo lắngmơ hồ, về đêm thường thấy những mộng mị rời rạc, ngắn ngủi hoặc những cơn rối loạn ảo giác lẻ tẻ, thường là ảo thị (nhìn thấy rắn rết, sâu bọ, hổ báo đang rượt đuổi theo bệnh nhân) khiến bệnh nhân có biểu hiện cảm xúc hốt hoảng sợ hãi, la hét.

TRÍ TUỆ, TRÍ NHỚ, KHẢ NĂNG SÁNG TẠO, SÁNG KIẾN đều giảm, tư duy trở nên thủ cựu, người bệnh đi dần vào tình trạng sa sút tâm thần.


B.   BIẾN ĐỔI NHÂN CÁCH

1.  VỚI GIA ĐÌNH:

Người bệnh ngày càng trở nên ích kỷmất đi những thích thú cũlãnh đạm hoàn toàn với người thânGiảm sút tình cảm đạo đứckhông quan tâm đến gia đình, tiêu sài tất cả tiền lương vào rượu, suốt ngày chăm lo đến việc làm thế nào để có rượu uống. Người nghiện không cảm thấy xấu hổ vì đã ăn bám gia đình, vợ con, hơn nữa người bệnh cũng ân hận ân hận khi lấy cắp tiền của người thân để uống rượu, thậm chí còn bán cả những vật dụng cần thiết của mình cũng như của vợ con. Cuộc sống tạm bợ, bê tha, hoàn toàn không nghĩ đến ngày mai. Người bệnh hay nói dối, cuộc sống buông thả, dễ mắc nợhứa hãobịa ra đủ mọi thứ để vòi tiền.

Nợ nần thường không trả để cho người thân phải trả. Những cá tính tinh tế mất đi, do giảm khả năng nắm bắt thực tại và ứng xử các tình huống xảy rathiếu lịch sự và hành động quá khích.

Khả năng phê phán giảm rõ: đặc biệt đối với địa vị của mình và quan hệ của gia đình mình.

Phủ nhận mình đã dùng rượu quá mức. Đôi khi người bệnh hứa bỏ rượu một cách dễ dàng, cam đoan rằng điều đó đối với họ chẳng khó khăn gì, song thực tế không ý chỉ để từ chối các cuộc hẹn hò từ các bạn rượu, chiều đến người nghiện đứng ngồi không yên, đi tới đi lui chờ mong tín hiệu của bạn rượu để được đến điểm hẹn uống rượu. Người bệnh chẳng những không từ chối mà còn vui sướng nhận những lời mời rượu của bạn rượu.

Những biến đổi như trên ngày càng làm suy giảm những tập tính tốt.

Trong nghiện rượu mãn tínhthời kỳ đầu người bệnh chỉ dùng rượu từng lúc, về sau thường cảm thấy cồn cào vào buổi sáng và cả buổi chiều. Lúc đầu chỉ uống vào những ngày nghỉ, ngày lễ khoảng 1 - 2 lần trong tuần hoặc gặp thì uống. Khi say người bệnh còn giữ được những nét khoái cảm, vui vẻ nhưng càng uốngcàng về sau đó xuất hiện tình trạng say liên miên.

Trong cơn say cảm xúc giận dữdễ bị kích thích, người bệnh khi uống rượu vào trở nên bực dọc hay gây sự, vin cớ cãi cọcục cằn, thường tấn công đập phá đồ đạcđánh đập người thân (có người trong tình trạng này đã cầm dao chém vợ, đánh con gây thương tích nặng nề). Đe dọa tính mạng của người thân khiến cho cả gia đình luôn trong tình trạng hoảng loạn.

Giai đoạn muộn của nghiện rượu khả năng dung nạp rượu bắt đầu giảm xuống. Trong vài ngày liền đang uống hàng ly rượu lớn, người bệnh sau đó phải giảm liều hoặc ngưng uống rượu hẳn vì các rối loạn toàn thân nặng (tức ngực, tim đập nhanh, khó chịu, nôn, ỉa chảy…). Cứ như vậy lúc tăng, lúc giảm, lúc buộc phải ngưng rồi lại uống … cuối cùng người bệnh ngày càng suy nhược phải nằm tại giường.


2.  VỚI CÔNG VIỆC:

Người bệnh nghỉ việc thường xuyênnăng xuất công việc giảm sút làm cho bệnh nhân sớm bị buộc thôi việc. Công việc thường bị gián đoạn, tiền lương kiếm được ngày càng giảm sút. Mặc dù bệnh nhân rất muốn kiếm được nhiều tiền để uống rượu.


3.  VỚI XÃ HỘI:

Địa vị xã hội của người bệnh dần dần bị hạ thấp, mối quan hệ xã hội bị thu hẹp dần, người bệnh mất dần những bạn bè thân thích, đặc biệt những người bạn thân muốn gần gũi khuyên can bệnh nhân từ bỏ rượu, chỉ còn những bạn rượu chia sẻ thú vui uống rượu nhất thời. Phẩm chất thoái hóa dầnthường vi phạm pháp luật.


X. LOẠN THẦN DO RƯỢU

1.  ĐẶT VẤN ĐỀ:

Rượu gây ra nhiều tác hại về mặt cơ thể và tâm thần. Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (TCYTTG) loạn thần do rượu chiếm khoảng 10% các trường hợp loạn thần mãm tính.

Thuật ngữ loạn thần do rượu được xác định bởi loạn thần xuất hiện và phát triển do hậu quả tác dụng trực tiếp của rượu trên nãoLoạn thần phát triển chủ yếu do nhiễm độc rượu lâu ngày gây tổn thương các cơ quan nội tạng và rối loạn chuyển hóa trong cơ thể. Loạn thần xuất hiện không những khi nồng độ rượu cao trong cơ thể mà ngay cả khi nồng độ rượu trong máu không có hoặc rất thấp (Wictor M., 1953).

Về lâm sàng, loạn thần do rượu có thể chia ra:

+        Sảng rượu

+        Ảo giác do rượu

+        Hoang tưởng do rượu

+        Hội chứng Korsakov do rượu

+        Bệnh não do rượu..v.v (Sumski N.G., 1963).

Ảo giác do rượu là hình thái lâm sàng thường gặp sau sảng rượu, chiếm tỉ lệ 5,6 – 22,5% các loạn thần có liên quan đến rượu mãn tính. (Marozov .G.V.,1974). Tuổi bị bệnh thường gặp ở lứa tuổi 30 - 40 tuổi (Achte K., 1969). Ảo giác thường xuất hiện sau 10 năm sau khi uống rượu (Katra.A.K.,1973).

Hoang tưởng do rượu thường gặp sau sảng rượu và ảo giác do rượu chiếm 1% loạn thần do rượu (Achte K., 1969). Hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông).

Trong loạn thần do rượu: hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế, chẩn đoán đúng và điều trị tích cực là hết sức cần thiết trong lâm sàng và tâm thần học.


2.  HOANG TƯỞNG VÀ ẢO GIÁC DO RƯỢU:

Hoang tưởng do rượu và ảo giác do rượu được biết đến từ lâu nhưng không được chú ý nhiều như sảng rượu và các bệnh não do rượu.

+   Nhiều tác giả coi hoang tưởng và ảo giác là những thể riêng biệt trong loạn thần do rượu. Marozov lại cho rằng hoang tưởng chỉ là một hình thái trong ảo giác do rượu. Một số tác giả nhấn mạnh các hoang tưởng paranoia mà quên đi các hoang tưởng paranoid do rượu.

+   Các tác giả Anh – Pháp quan niệm hoang tưởng, ảo giác là những biến chứng của nghiện rượu mãn tính nên chỉ chú ý nghiên cứu về nghiện rượu mà ít quan tâm tới hoang tưởngảo giác do rượu.

+   Một số tác giả Đức (Meyer E., 1904) lại coi hoang tưởng, ảo giác do rượu là những thể tâm thầm phân liệt tiềm tàng có khởi phát muộn, về sau có một số ý kiến phản đối quan niệm này.

+   Một số tác giả nghiên cứu nhằm xác định sự khác nhau giữa hoang tưởngảo giác do rượu và tâm thần phân liệt.

+   Một số tác giả Nga (Sumski N.G) xếp hoang tưởngảo giác vào 2 trong số 4 thể cổ điển của loạn thần do rượu và đã chia hoang tưởngảo giác do rượu thành những thể theo lâm sàng và tiến triển.

+   Gần đây theo bảng phân loại quốc tế lần thứ 10 (ICD.10) hoang tưởngảo giác do rượu là hậu quả của nhiễm độc rượu lâu dài, là biến chứng của nghiện rượu mãn tính.

Theo cách phân loại cổ điển thì ảo giác do rượu được chia ra ảo giác cấpảo giác kéo dài và ảo giác mãn tính.

Ảo giác cấp là ảo giác tồn tại vài ngày đến một tháng.

Ảo giác kéo dài là những ảo giác kéo dài từ 1 tháng đến 6 tháng.

Ảo giác mãn tính là những ảo giác tồn tại trên 6 tháng.


3.    ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:

3.1 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG:

Đa số các tác giả đều thừa nhận loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở lứa tuổi  30 – 40 tuổi (chiếm 61,3% số bệnh nhân).

Tỉ lệ nam, nữ có khác biệt (4:1). Theo nghiên cứu Marozov G.V hoang tưởng do rượu chủ yếu gặp ở nam giới, còn ảo giác do rượu gặp ở nữ nhiều hơn nam. Ở nước ta hoang tưởng, ảo giác do rượu rất ít gặp ở nữ.

Loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế thường gặp ở những người nghiện rượu mãn tính sau 10 năm (chiếm 61,5% trường hợp), thường gặp ở những người có học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn định, thường ở trong hoàn cảnh gia đình có người thân nghiện rượu.


3.2  BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:


ẢO GIÁC: có thể có nhiều ảo giác trên một bệnh nhâncó thể ảo thanh, ảo thị, ảo giác, xúc giác, khứu giác …v.v

*     ẢO THANH: hay gặp nhất ở những bệnh nhân, ảo thanh phần lớn được phát triển trên nên tảng những rối loạn khác kèm theo, đôi khi ảo thanh xuất hiện vào ngày cuối cùng của cơn uống rượu. Ảo thanh thường xuất hiện vào lúc chiều tối hoặc lúc thiêm thiếp ngủ. Có thể là ảo thanh thô sơ hay ảo thanh lời nói.

Giọng nói chuyện với bệnh nhân hay nói chuyện với nhauCường độ ảo thanh có thể là tiếng kêu hay tiếng thì thầm, giọng nói biến đổi nhưng thường có những chủ đề liên quan đến nhau. Ảo thanh tăng lên về chiều tốithoái triển đột ngọt sau một giấc ngủ sâu hay giảm dần về cường độ và tần số. Khi ảo thanh hết hẳn thì bệnh nhân phê phán được trạng thái loạn thần đã qua.

*    ẢO THỊ: cũng thường gặp sau ảo thanh, nội dung ảo thị cũng thường phù hợp với nội dung ảo thanh và hoang tưởng. Khi ảo giác có kèm sảng thì bệnh nhân cảm thấy những côn trùng, động vật có kích thước thu nhỏ. Khi ảo giác kèm theo ý thức u ám bệnh nhân thấy những cảnh giống mộng nhưng chủ đề thường không hoàn chỉnh và mất tính thứ tự.

*    ẢO XÚC ít gặp hơn ảo thanh và ảo thị, thường xuất hiện cùng với ảo thị, bệnh nhân thấy những côn trùng bò trên da thịt, chuột gặm nhấm chân tay mình gây cảm giác khó chịu. Đôi khi là cảm giác những vật lạ trong miệng và trong họng.

*    ẢO KHỨU và ảo vị chỉ gặp ở 9% bệnh nhân loạn thần do rượu với ảo giác chiếm ưu thế.

HOANG TƯỞNG: Paranoia do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng ghen tuông, được phát triển dần trên một nhân cách đã thoái hóa do rượu. Thoạt đầu những ý tưởng ghen tuông chỉ có trong khi sayDần dần mới trở nên bền vững và xuất hiện cả những khi bệnh nhân không uống rượu. Từ chỗ nghi ngờ đi đến khẳng định vợ mình không chung thủy. Bệnh nhân rình mòtra khảo bắt vợ phải nhận lỗi. Bệnh nhân xác định người yêu của vợ mình thường là người quen biết.
 Sự phức tạp của loạn thần có thể diễn ra theo hai chủ đề chính:

*   Hoang tưởng ghen tuông là chủ đề duy nhất không thay đổi.

*   Hoang tưởng bị thiệt hại vật chất (Như vợ lấy tiền cho người yêu, đầu độc bệnh nhân để có thể tự do với người yêu). Một số tác giả nhận thấy hoang tưởng ghen tuông thường xuất hiện sau loạn thần do rượu cấp tính ở tuổi trung niên. Một số thống kê nhận thấy hoang tưởng ghen tuông gặp ở 40% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng và ảo giác chiếm ưu thế.


Paranoid do rượu được nhắc đến nhiều là hoang tưởng bị theo dõihoang tưởng bị hại và các hoang tưởng cảm thị có tính hình tượng cao.

*        Hoang tưởng bị theo dõi chi phối mãnh liệt hành vicảm xúc của bệnh nhân. Thường có ảo tưởng lời nóiảo tưởng cảm xúc và ảo thanh với những nội dung đe dọaHành vi có tính xung động nguy hiểm cho bản thân và xung quanh. Bệnh nhân bỏ chạy, phòng thủcó khi tự sát. Trong những trường hợp kéo dài thì hành vi ít nguy hiểm hơn.

*        Hoang tưởng bị hại có thể cùng xuất hiện với hoang tưởng bị theo dõi hoặc hoang tưởng ghen tuông trong paranoid cấp do rượu. Theo thống kê của một số tác giả hoang tưởng bị hại chiếm 71% bệnh nhân loạn thần do rượu với hoang tưởng chiếm ưu thế. Hoang tưởng bị hại có tỉ lệ cao nhưng không đặc hiệu cho loạn thần do rượu.

Ngoài ra bệnh nhân loạn thần do rượu còn thấy một số biểu hiện khác như hoang tưởng liên hệhoang tưởng tự caohoang tưởng nghi bệnh..v.v nhưng với tỉ lệ thấp.

Hoang tưởng và ảo giác đôi khi cùng phối hợp với nhau trong một bệnh cảnh lâm sàng của loạn thần do rượu. Theo thống kê cuẩ Soayle M. 1990 chỉ có 13% bệnh nhân loạn thần do rượu có ảo giác đơn thuần.


CẢM XÚC VÀ HÀNH VI: Hoang tưởng và ảo giác do rượu thường chi phối mạnh mẽ hành vicảm xúc của bệnh nhân loạn thần do rượu ở những cơn cấp tính. Bênh nhân lo âusợ hãi và căng thẳng cao độ, đôi lúc khoái cảm. Hành vi thường né tránhchạy trốn, hoặc phản ứng tấn công người xung quanh.

Trong những trường hợp kéo dài mãm tính bệnh nhân thường bị ức chế, đôi khi trở nên cau cógiận dữ. Hành vi có khi thẫn thờ hoặc sững sờcảm giác không lối thoát nhưng cũng có khi trở nên độc ácthô bạo với người thân.


CÁC BỆNH CƠ THỂ PHỐI HỢP: Bên cạnh các triệu chứng loạn thần còn thấy các bệnh cơ thể phối hợp như viêm loét dạ dàyxơ ganrối loạn huyết áp, và thần kinh thực vật. Ngoài ra có nhiều bệnh nhân biểu hiện trạng thái suy kiệt do nhiễm độc rượu lâu ngày.


XI. CÁC BỆNH NÃO DO RƯỢU

Thường do thiếu dinh dưỡng và thiếu vitamine nhóm B.


1.  BỆNH NÃO GAYET-WERNIKE

Khá thường gặp do suy dinh dưỡng và thiếu vitamine nhóm B1 (thường do rối loạn chuyển hóa và rối loạn tiêu hóa).

1.1 BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

+    Tiến triển từ từ với tăng rối loạn tiêu hóa (chán ăn, nôn), gầy, khuynh hướng ngủ gàthờ ơ, đôi khi có rối loạn vận động kết hợp.

+    Rối loạn ý thức năngchậm chạpđờ đẫnkích độngmê mộng (phân biệt với sảng rượu cấp), lú lẫn kèm theo rối loạn trí nhớ, tiến triển tới hội chứng Korsakoff với bịa chuyện.

+    Các rối loạn vận nhãnrung giật nhãn cầu ngang hoặc dọc, liệt dây 6 hai bênmất quy tụ dây 3liệt chức năng. Đôi khi xuất huyết võng mạc.

+    Mất phối hợp vận độngrối loạn thăng bằng (hội chứng tiểu não).

+    Rối loạn thần kinh thực vật: nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, ngất lịm.

+    Các dấu hiệu viêm đa dây thần kinh (khoảng 70% trường hợp).

1.2 TIẾN TRIỂN:

+ Tiến tới tử vong sau hôn mê.

+ Tiến tới hội chứng Korsakoff di chứng.

+ Điều trị vitamine nhóm B liều cao: xem chương trình điều trị.

2.  HỘI CHỨNG KORSAKOV


Là hội chứng của bệnh não Gayet-Wernicke.

2.1 BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:

+    Mất nhớ những sự kiện mới

+    Rối loạn định hướng không gian, thời gian

+    Bịa chuyện

+    Viêm dạ dàyviêm dây thần kinh ngoại vi (rối loạn cảm giác, vận động chi dưới).

Tiến triểnđiều trị hầu như không kết quảkhông thuyên giảm vì đó là di chứng của bệnh Gayet-Wernicke.

Điều trị với vitamine B1 .

2.2 BỆNH LOẠN THẦN KORSAKOV:

Được Korsakov mô tả năm 1887 như một bệnh loạn thần đặc biệt có viêm đa dây thần kinh. Đặc biệt có hội chứng quên Korsakov, khả năng ghi nhận và tái hiện trở ngại, người bệnh nhận thức đúng những gì xảy ra xung quanh nhưng lại quên hết ngaymất định hướng không gian và thời gian. Người bệnh quên ai vừa mới gặp, không nhớ ngày tháng nơi ở nhưng trí nhớ về quá khứ còn tốt. Một nét đặc biệt khác là có bịa chuyện thay thế lỗ hổng trí nhớ.

Bệnh tiến triển nặng dần, bệnh nhân trở nên lờ đờ, vô cảm, giảm sút trí tuệ, mất khả năng phê phánViêm đa dây thần kinh biểu hiện liệtđau nhức đàu ngón tayngón châncảm giác tê rátkiến bòmất phản xạ.

Loạn thần Korsakov xảy ra ở tuổi 50 - 60, uống rượu nhiều năm. Xuất hiện từ từ hoặc có thể sau cơn sảng run cấp.

Nếu thôi uống rượu và điều trị bằng vitamine nhóm B người bệnh khá dần; nếu người bệnh tiếp tục uống rượu thì toàn trạng tiến triển xấu nhanh hơn.

Cần phân biệt loạn thần do rươụ Korsakov với hội chứng Korsakov trong bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc, chấn thương, u não, teo não


3.    BỆNH MARCHIAFAVA-BIGNAMI

+ Biểu hiện đầu tiên bởi một cơn co giật giống động kinh hoặc một cơn hôn mê nhẹ.

+ Biểu hiện tiếp theo sa sút trí tuệnói khótăng trương lực cơ đối lập.

Tiến triển chắc chắn tới tử vong: hoặc nhanh chóng với hôn mê, câm, bất động hoặc dần dần kéo dài với nhiều lần tái phát lặp lại.


4. BỆNH NÃO GIẢ PELLAGRA (THIẾU VITAMINE PP).

Rối loạn định hướngrối loạn trí nhớảo giác.

Tăng trương lực cơ đối lập.

Co giật

+ Điều trị với vitamine PP.


5.BỆNH MYELINE TRUNG TÂM CỦA CẦU NÃO:

Hội chứng giả hành não với liệt mềm tứ chi phối hợp với liệt nuốt lưỡi và phát âm.


6.TEO NÃO:

Lâm sàng không đặc trưng


7.TEO TIỂU NÃO:

Hội chứng mất thăng bằng tiểu não ưu thế chi dưới.


8.BỆNH NÃO GAN MẠN TÍNH:

Sa sút trí tuệ dần: tâm thần chậm chạp, mất hứng thú.

Các rối loạn thần kinh: rối loạn phối hợp vận động, múa giật, run, nói khó.

Tiến triển tới mất trí.

- Các tổn thương giống bệnh Wilson: tăng sản tế bào hình sao và những tổn thương nơ ron thoái hóa ở vỏ nãovỏ tiểu não, các nhân cơ bản và các nhân viền.

Viêm gan mãn, gan nhiễm mỡ, xơ gan có thể dẫn đến ung thư gan.

HÌNH ẢNH TỔN THƯƠNG NÃO BỘ NGHIÊM TRỌNG TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

NÃO BỆNH NHÂN NGHIỆN HÀNG ĐÁ (METHAMPHETAMINE)

ma tuy

 ma tuy

ma tuy

ma tuy

ma tuy

ma tuy

ma tuy

ma tuy

CÔNG TÁC QUẢN LÝ – ĐIỀU TRỊ – GIÁO DỤC TRONG MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU

CÔNG TÁC QUẢN LÝ - ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC

TRONG MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU​


Bs.Nguyễn Hữu Khánh Duy
Giám Đốc Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện ma túy Thanh Đa


A. RỐI LOẠN TÂM - SINH LÝ TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:


          Ma túy là những chất tác động tâm thần và gây những tổn thương trong não người nghiện. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn sau khi ngưng sử dụng ma túy.

Người nghiện ma túy bị suy giảm khả năng xét đoán, khả năng xử lý thông tin, mất khả năng tự chủ, khả năng hiểu biết để hướng đến một cuộc sống lành mạnh. Người nghiện hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Liệu pháp điều trị - phục hồi là một vấn đề hết sức khó khăn vì người bệnh bị những rối nhiễu tâm sinh lý thực tổn - lú lẫn tâm trí - phản ứng loạn tâm thần - rối loạn sinh hoạt - trạng thái hưng trầm nhược - rối loạn hành vi - rối loạn tập trung - biểu hiện lo hãi - thiếu tự tin, kết hợp với các rối loạn nhân cách - rối loạn tâm thần và đặc biệt là hội chứng hồi tưởng dẫn đến thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó … Đa số người nghiện ma túy đều được xếp vào những người có vấn đề tâm thần.

          Sự rối loạn trên nguyên nhân từ nhiều lý do khác nhau: Tâm - sinh lý người nghiện, hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội. Việc sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma tuý dẫn đến tình trạng nghiện là triệu chứng cuối cùng của một quá trình dài đầy rối loạn trong một bối cảnh đa phương diệndo đó, việc điều trị phục hồi người nghiện ma tuý phải là một phương pháp điều trị toàn diện bao gồm nhiều lãnh vực Y tế - Tâm lý - Xã hội… Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma tuý vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.

          Vì những l‎ý do trên, nên trừ một số trường hợp bệnh nhẹ, hầu hết những người nghiện ma túy đều phải được điều trị tập trung một thời gian để được giáo dục, giúp đỡ, rèn luyện, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách; trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống trước khi trở về tiếp tục điều trị tại cộng đồng.

Để có được một môi trường điều trị tập trung dài hạn có hiệu quả, qua thực tiễn và l‎ý luận người ta nhận thấy rằng MÔ HÌNH TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI là  khá thành công – có hiệu quả nhất.

Nếu được điều trị và phục hồi đúng cách, người nghiện sau khi cai nghiện sẽ bước vào cuộc sống với những thói quen tốt, những nhận thức đúng đắn - biết tự trọng và tự tin hơn để với sự giúp đỡ của cộng đồng sẽ có thể từng bước, bước đi chính trên đôi chân của mình.



B. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU – CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:


I. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU:

          Môi trường trị liệu là sử dụng một cách khoa học môi trường nhằm mục đích trị liệu, tạo nên những thay đổi trong nhân cách của bệnh nhân. Danh từ môi trường trị liệu lần đầu tiên được sử dụng bởi nhà tâm thần học BETTLEHEIM và SYLVERTER vào cuối những năm 1930 đầu những năm 1940 để miêu tả một môi trường kế hoạch khoa học nhằm mục đích thay đổi nhân cách của bệnh nhân.

          Khi một bệnh nhân bị căng thẳng, bức xúc, mất ngủ - người thầy thuốc khuyên bệnh nhân hãy nghỉ ngơi ở những nơi yên tĩnh. Bạn có thể lên cao nguyên hoặc về vùng biển một thời gian. Nơi yên tĩnh, cao nguyên, biển chính là thuốc để điều trị các chứng căng thẳng, bức xúc, mất ngủ của bạn. Sử dụng môi trường để điều trị bệnh được gọi là môi trường trị liệu.

          Những khái niệm về môi trường trị liệu: Những cuộc nghiên cứu đã thực hiện đầu tiên về môi trường trị liệu hầu hết sử dụng những lý thuyết về tâm thần hay về tâm lý bệnh nhân để xác định loại môi trường nào là có tính cách trị liệu tốt nhất. Những nổ lực được thực hiện để tìm kiếm một môi trường tương tác giữa các cá nhân, được chi tiết hoá kỷ lưỡngđặt nền tảng trên những nhu cầu tâm năng của một bệnh nhân đã được chẩn đoán kỹ càng.

+ Năm 1944 STANTON và SCHWARTZ cho rằng môi trường có thể là cách điều trị chủ yếu, cũng như có vai trò ảnh hưởng nâng đỡ hay bổ túc cho các hình thức điều trị khác.

+ Một tác giả khác là CUWDELL đã miêu tả tác động của các giá trị văn hoá, những chuẩn mực và phong tục của môi trường có thể ảnh hưởng lên sự điều trị của bệnh nhân.

+ Năm 1958 các tác giả FREEMAN, CAMERON đã cho rằng có mối liên hệ giữa tâm lý cá nhân và những đặc điểm của môi trường .

+ Năm 1962 CUMMING cho rằng môi trường có thể mang lại những thay đổi đặc thù trong hành vi của bệnh nhân. Các môi trường trị liệu có thể khác nhau tùy theo cách tổ chức, nhưng căn bản đều có những điểm chung trong các phương pháp trị liệu đối với các bệnh nhân điều trị nội trú.

Môi trường trị liệu nhận định rằng:

a/ Bệnh nhân có những sức mạnh và một phần nhân cách không bị xung đột. Những sức mạnh này được phát huy tối ưu bằng cách thiết lập một môi trường nội trú khoa học.

b/ Bệnh nhân có những khả năng to lớn trong việc tự điều chỉnh chính mình, trên những bệnh nhân khác và mức độ nào đó có ảnh hưởng trên cơ cấu tổ chức của bệnh viện.

c/ Tất cả các nhân viên của trung tâm có một khả năng rất lớn để tác động đến việc trị liệu cho người bệnh.


II. CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:

          Theo CRACK, khác với môi trường trị liệucộng đồng trị liệu là một loại môi trường đặc biệt trong đó toàn cơ cấu xã hội của đơn vị điều trị đều tham gia tiến trình giúp đỡ bệnh nhân.

          Theo JONES, môi trường cộng đồng trị liệu được phân biệt với các chương trình trị liệu khác là do chương trình này huy động toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân và toàn bộ tập thể bệnh nhân và nhân viên đều tập trung vào mục đích điều trị. Như vậy,bệnh nhân cũng có một vị trí trong  chương trình điều trị này. Trong chương trình cộng đồng trị liệu, nhân viên phải khuyến khích bệnh nhân tích cực tham gia trong kế hoạch săn sóc cho chính mình. Đây là một phương pháp rất khác với vai trò thụ động chữa trị trong bệnh viện cổ điển, quy ước trong đó chỉ có vai trò bác sĩ và bệnh nhân. JONES cho rằng điểm đặc biệt của chương trình này là được đặt trên sự giao lưu, giao tiếp tự do giữa bệnh nhân với nhân viên và giữa các bệnh nhân với nhauMục đích của sự giao lưu tự do này là tìm ra được hành vi nào, ‎ý kiến nào, nhận xét nào, những vai trò nào  thích hợp để thay đổi nhận thứcthái độ,  lòng tin của bệnh nhân và những vấn đề nào không thích hợp cho điều trị (anti therapeutic).

          Như vậy, cộng đồng trị liệu có tính chất dân chủtự do bàn bạc, thảo luận khác với phương pháp thường dùng là đặt vai trò trị liệu của người bác sĩ lên trên bệnh nhân và cách điều trị phục hồi tuân thủ những quy định theo thứ lớp bắt buộc.

          Trong mô hình cộng đồng trị liệu, môi trường thiết yếu là môi trường linh hoạt, những người tham gia không có vai trò chuyên biệt rõ ràng, những hoạt động của bệnh nhân được cá thể hóa rất cao. Một điều ngoại lệ đặc biệt là MỖI NGÀY PHẢI CÓ MỘT BUỔI HỌP CỘNG ĐỒNG: tất cả nhân viên và những bệnh nhân được khuyến khích phải hội họptrách nhiệm tập thể được nhấn mạnh, những người tham dự được rút tỉa kinh nghiệm, học tập, sửa sai những hành vi không tốt.

          Vai trò chính của nhân viên là giúp đỡ bệnh nhân đạt được những thấu hiểu mới, những sáng kiến, hành vi mới. JONES tin rằng một đơn vị điều trị lý tưởng cần phải được tự do điều hành trong cách nào tốt nhất, với hướng tiếp cận riêng của mình. Tuy nhiên, JONES cũng đưa ra những yếu tố mang tính đặc trưng của cộng đồng trị liệu: đó là hội họp cộng đồng hàng ngày như là một phương thức để thảo luận đời sống hàng ngày của Trung Tâm nhằm đóng góp, giải quyết các thắc mắc, các yêu cầu của các bệnh nhân.

          Một yếu tố nữa của cộng đồng trị liệu là quản lý bệnh nhânMục đích của sự quản lý bệnh nhân là để bàn bạcthảo luận một cách chi tiết, cụ thể vềtrách nhiệm và quyền lợi của từng bệnh nhân như: luân phiên dọn dẹp và làm vệ sinh các phòng. Tất cả mọi quyết định cuối cùng phải được thống nhất lại trong các phiên họp cộng đồng. Jones cho rằng sinh hoạt nhóm nhằm xem xétkiểm điểm lại hoạt động trong ngày là rất cần thiết nhằm uốn nắn, giáo dục bệnh nhân. Trong buổi họp, các thành viên Trung Tâm phải bàn bạc những đáp ứng riêng,  mong đợi riêng, thành kiến riêng của mọi người. Một đặc trưng quan trọng khác của môi trường cộng đồng trị liệu là bệnh nhân có những cơ hội học cách sống sinh hoạt trong môi trường tập thể đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày. Theo JONES - phản hồi lại, là một trong những khái niệm căn bản, quan trọng nhất của cộng đồng trị liệu nhằm đạt được sự tiến bộ của cộng đồngNhân viên của Trung tâm phải nhạy cảm trong vai trò của mình - phải biết phản hồi lại những thông tin trong cộng đồng lên cấp trên. Ngày nay những khái niệm sơ khởi của JONES về cộng đồng trị liệu đã được nhìn nhận tuy nhiên được thực hiện dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau nhưng những nét cơ bản vẫn không thay đổi.

          Nguyên tắc của cộng đồng trị liệu là có sự liên quan lẫn nhau trong môi trường nội trútác động đến hành vi và cảm xúc của mọi người. Năng động nhóm là động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và phục hồi – khuyến khích sự phát triểnSự điều hành toàn diện môi trường cộng đồng rất có hiệu quả.

          Sức mạnh của năng động nhóm (dynamic group) ảnh hưởng đến việc điều chỉnh hành vi và củng cố các quy tắc của cộng đồng. Ngày nay, trong môi trường điều trị cộng đồng, sức mạnh ấy không còn nằm ở cá nhân hay một nhóm nhỏ nữa mà nó là sức mạnh của một tập thể.


III. MÔ HÌNH TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI (SELF – HELP SOCIAL LEARNING TREATMENT MODEL – SSLTM):

          Từ những khái niệm của CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU, mô hình TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI đã phát triển các mô hình sau đây:

1. HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ẨN DANH (AA) – NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY ẨN DANH (NA):

          Năm 1935– Nhóm những người nghiện rượu ẩn danh (AL) được thành lập. Quan điểm của nhóm là cá nhân tự nhìn nhận bản thân, thừa nhận những khiếm khuyết của mình và sửa đổi.

  • Hội AA (Alcoholics Annymous) HIỆP HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ẨN DANH – ra đời năm 1935, tại Akron- Ohio- Mỹ, do ông Bill Wilson và bác sĩ Bob Smith – vốn là hai người nghiện rượu, đã tự cai. Hai ông đã đưa ra 12 nguyên tắc điều trị, đồng thời lập ra hội AA. Hội khởi đầu có 3 thành viên.
  • Năm 1953, hội AA cho phép hội NA (Narcotics Anonymous) HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY ẨN DANH được phép sử dụng các bước của chương trình này vào việc cai nghiện ma túy.

          Nghiện rượu và nghiện ma túy có nét chung là cùng mục đích hồi phục và từ bỏ nghiện, đồng thời hình thành mối quan hệ đồng cảm giữa những người đang cùng cai nghiện.

  • Hơn 70 năm qua, chương trình 12 bước đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới,dựa trên căn bản có tính truyền thống, và được bổ sung bởi nhiều bài viết chọn lọc của những người cai nghiện. Trụ sở trung ương Hội đặt tại New York và Châu Âu.

          Phương pháp chính của Hội là chương trình 12 bước và một bộ sách giáo khoa kèm theo (Basic Text).  Phương pháp nhấn mạnh đặc biệt vai trò của quy trình thảo luận – thu hoạch – giải đáp.

          Giáo viên hướng dẫn và nhóm trợ lý đều là người cai nghiện thành côngxuất thân từ Trường Cai Nghiện và trở thành chuyên viên – một người thầy thực sự của chuyên ngành ma túy.

          Việc học tập được tổ chức tại Trung Tâm Cai nghiện Ma Túy, chương trình bao gồm giai đoạn cắt cơn, giai đoạn học tập và rèn luyện theo chương trình 12 bước, kế tiếp là giai đoạn “bán thử thách và giai đoạn thử thách” tại cộng đồng. Thời gian tổng quát là 6 tháng, có thể kéo dài một năm hay hơn nữa, tùy theo từng trường hợp.

          Sau khi tái hòa nhập cộng đồng, mỗi người đều là hội viên của NA và giữ sinh hoạt với Hội, thân thiết, lâu dài để đem lại sự bền vững cho mình.

          Tại Trung Tâm, học viên cũng được hưởng các dịch vụ sinh hoạt như: thể dục thể thao - vui chơi giải trí – nâng cao văn hóa, kỹ năng sống – các loại lao động trị liệu, hướng nghiệp.


          NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH HỌC TẬP 12 BƯỚC:

Chương trình 12 bước có nguồn gốc như đã trình bày trên, chương trình được xây dựng trên nền tảng Tâm lý nhiều mặt, bao gồm nhiều ngã rẽ của tâm lý người nghiện, như sự phản ứng, thối động, che dấu, biện hộ, chối bỏ, không thừa nhận, buông xuôi, mất tự tin, hưng phấn giả tạo… qua từng giai đoạn, do tính chất căn bệnh gây nên, cộng với quán tính của hành vi tiêu cực lâu dài trong quá khứ. Chương trình do chính những người nghiện đã phục hồi xây dựng nên và được tiếp tục bổ sung. Chương trình 12 bước bao gồm:

Bước 1: "Chúng ta chấp nhận rằng mình bất lực về sự nghiện ngập của chúng ta và cuộc sống của chúng ta trở nên không kiểm soát được"

Bước 2: "Chúng ta tin rằng có một quyền năng mạnh hơn bản thân mình có thể giúp chúng ta phục hồi lại sự bình thường"

Bước 3: "Chúng ta quyết định để ‎ý chí và cuộc sống của chúng ta cho sự chăm sóc của Thiên Chúa vì chúng ta hiểu Người"

Bước 4: "Chúng ta đã đánh giá đạo đức của chúng ta một cách chân thật và can đảm"

Bước 5: "Chúng ta đã thú nhận với Đấng tối cao, với chính chúng ta, và với người khác về thực chất những hành động sai lầm của chúng ta"

Bước 6: "Chúng ta hoàn toàn để cho Đấng tối cao xóa bỏ đi tất cả những khuyết điểm của tính cách"

Bước 7: "Chúng ta khiêm tốn yêu cầu Đấng tối cao xóa bỏ những điều thiếu sót của chúng ta"

Bước 8: "Chúng ta viết ra danh sách những người mà chúng ta đã làm hại và chúng ta sẵn sàng sửa chữa tất cả"

Bước 9: "Chúng ta trực tiếp đền bù cho họ bất cứ nơi nào chúng ta có thể, ngoại trừ trường hợp nếu chúng ta làm điều đó sẽ tổn thương họ hoặc những người khác"

Bước 10: "Chúng ta tiếp tục làm bảng kiểm tra cá nhân, để khi nào chúng ta sai, chúng ta thừa nhận và sửa chữa ngay những sai lầm ấy"

Bước 11: "Chúng ta đã tìm kiếm thông qua cầu nguyện và thiền định để nâng cao nhận thức của chúng ta, tiếp cận với Chúa vì khi chúng ta hiểu được Người. Cầu nguyện chỉ là biểu hiện sự sẵn lòng của Người cho chúng ta và sức mạnh để làm điều đó"

Bước 12: "Sau khi đạt được sự nhận thức về tâm linh, kết quả của các bước mà ta đã cố gắng thực hiện. Chúng ta cố gắng mang thông điệp này đến cho những người nghiện ma túy khác và để thực hành các nguyên tắc này trong mọi công việc của chúng ta"


2. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG OXFORD: do Frank Buchman thành lập và là người có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng các giá trị nhân văn. Mục đích chủ yếu của nhóm Oxford là cai nghiện Rượu – Hoạt động của nhóm bao gồm những nội dung như cùng chia sẻ thông tin, hướng dẫn, cam kết sự thay đổi và phục hồi. Chúng ta thấy được nhiều điểm tương đồng giữa nhóm Oxford với Cộng đồng trị liệu. Nhóm Oxford có những nổ lực trong việc truyền đạt các giá trị nhân văn tới các thành viên của nhóm. Trong số các giá trị này có 4 yếu tố cơ bản – đó là:

  • Tính trung thực tuyệt đối
  • Tính trong sạch tuyệt đối
  • Không ích kỷ
  • Yêu thương tuyệt đối

3. MÔ HÌNH SYNANON:

          Được thành lập vào năm 1958 tại California bởi một người đã từng nghiện rượu là Charles E. Dederich, sự phát triển của Synanon ban đầu được xuất phát từ quan điểm của AA. Do chương trình thích ứng với các trường hợp cai nghiện ma túy, chương trình Synanon và AA dần trở nên tách biệt và dẫn đến sự khác nhau hệ tư tưởng cũng như mối liên quan.

          Mô hình Cộng đồng trị liệu của Synanon đang phát triển thành nhiều chương trình ở Mỹ và khắp thế giới gồm chín yếu tố cơ bản. Các yếu tố này dựa vào l‎ý thuyết học tập xã hộithông qua sử dụng cộng đồng để khuyến khích sự thay đổi về hành vi và thái độChín yếu tố đó là:

  • Tham gia tích cựcNgười nghiện tham gia chủ độngtrong các hoạt động trong cộng đồng chữa bệnh là cần thiết để thay đổi, trưởng thành và phát triển. Điều này có nghĩa là khi người nghiện tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, sẽ tăng cường mối liên kết giữa các thành viên và giữa thành viên với chương trình. Các thành viên được yêu cầu đóng góp cho cộng đồng. Sự đóng góp này được thực hiện dựa trên khả năng của từng cá nhân cũng như giá trị của mỗi nhiệm vụ mà họ thực hiện đối với cộng đồng.
  • Phản hồi của thành viên: Những thành viên nhóm phải đóng góp ‎ý kiến lẫn nhaumột cách chân thật. Thông tin phản hồi của các thành viên được thực hiện một cách chính thức thông qua hoạt động của nhóm và các buổi trị liệu, hoặc phản hồi không chính thức như giao tiếp cá nhânMục đích của việc phản hồi là nhận thức về hành vi, suy nghĩ ‎ ý tưởng. Phản hồi bao gồm cả sự phản hồi tích cực và phê bình có tính xây dựng.
  • Noi gươngTất cả các cán bộ và thành viên cấp cao của cộng đồng phải thể hiện tốtđể làm gương cho những thành viên khác như một phương tiện giáo dục. Đây là việc giáo dục thông qua hành động. Các thành viên của cộng đồng điều trị “không chỉ nói mà phải làm”.
  • Tập thể hướng dẫn cá nhân thay đổi: Nhấn mạnh của nhóm hoặc tác động của cộng đồng giúp cá nhân thay đổi. Tất cả các yếu tố trong mô hình SSLTM khuyến khích và hỗ trợ cho cá nhân trưởng thành và phát triển.
  • Các giá trị và chuẩn mực chung: Cộng đồng xây dựng các quy tắc và giá trị chungđể tạo ra áp lực của nhóm và của cộng đồng, để giúp đỡ từng thành viên của cộng đồng tuân thủ và dần tin vào những hành vi và quan niệm tích cực“Triết lý TC” và “Những quy tắc bất thành văn” là những nội dung để thực hiện các giá trị và chuẩn mực.
  • Kết cấu và hệ thống: Để thực hiện các khái niệm và triết lý của SSLTM, các hoạt động cần được tổ chức có kết cấu và hệ thống. Kế hoạch hoạt động hàng ngày, gặp mặt, nội quy, quy định, cấu trúc thứ bậc, công việc, mệnh lệnh nhóm, các giai đoạn điều trị là tất cả những nội dung để đạt được mục đích và mục tiêu của cộng đồng.
  • Giao tiếp mở:Hoạt động giao tiếp được tiến hành theo chiều ngang và chiều dọc. Cộng đồng duy trì sự thống nhất thông qua việc khuyến khích các thành viên bộc lộ cảm xúc và ý tưởng.
  • Mối quan hệ cá nhân và nhóm: SSLTM tạo ra một mạng lưới quan hệ, tạo điều kiện cho các học viên có nhiều cơ hội để hiểu rõ hơn về hành vi, cảm xúcvà ý tưởng. Mối quan hệ với nhân viên, nhóm người được chữa trị, nhóm tĩnh, cộng đồng sẽ giúp các cá nhân đảm nhận trách nhiệm, tăng cường hiểu biết và chấp nhận những thiếu sót của mình và làm cam kết thay đổi.
  • Thuật ngữ chuyên dùng: Thuật ngữ sử dụng bởi SSLTM là cách giải thích đơn giản về quá trình và môi trường hoạt động. Đó là ngôn ngữ chung tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng.

4. TỔ CHỨC DAYTOP QUỐC TẾ:

          Được bắt đầu đưa vào điều trị từ năm 1963 và hiện có mặt trên 60 quốc gia trên thế giới.

          Tổ chức Daytop đã hỗ trợ rất nhiều người nghiện và thanh thiếu niên từ bỏ lệ thuộc vào ma túy và xây dựng một cuộc sống lành mạnh và có ích cho xã hội. Tình trạng sử dụng ma túy và nghiện ma túy diễn ra ở hầu khắp các nước trên thế giới và có tác động lớn đến các thành viên, gia đình, cộng đồng và toàn thể xã hội.

          Tổ chức DAYTOP Quốc tế được thành lập để cung cấp chương trình tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ các quốc gia đối phó với sự gia tăng của tình trạng sử dụng ma túy.

          Chương trình tập huấn Daytop dựa trên cơ sở mô hình trị liệu cộng đồng truyền thống lâu dài, mô hình này được tạo thành từ 9 yếu tố cơ bản:

  1. Sự tham gia tích cực của các thành viên/ người cai nghiện trong cộng đồng,
  2. Thu nhận ‎ý kiến từng thành viên cộng đồng,
  3. Xây dựng mô hình trách nhiệm,
  4. Các mô hình hướng dẫn từng thành viên cộng đồng thay đổi,
  5. Chia sẻ các chuẩn mực và giá trị chung,
  6. Cơ cấu và hệ thống,
  7. Giao tiếp mở,
  8. Quan hệ cá nhân và quan hệ nhóm, và
  9. Thuật ngữ chuyên dùng (được áp dụng trong cộng đồng TC).

          Tất cả những yếu tố này tạo nên một phương pháp cộng đồng TC, dựa trên phương pháp tự giúp đỡ và học tập xã hội. Chính cộng đồng thúc đẩy những thay đổi về thái độ, hành vi của thành viên. Thái độ, kỹ năng và trách nhiệm mà người vào cai nghiện học tập từ cộng đồng không chỉ cần thiết để giúp họ sống tốt trong môi trường cộng đồng đó mà còn là yếu tố quan trọng để họ có thể tồn tại khi trở về xã hội.

          Mô hình tập huấn này được hình thành trên hoạt động thực tế của các Cộng đồng trị liệu Hoa Kỳ (TCA). Những cộng đồng này đã đào tạo cán bộ tư vấn có năng lực phù hợp để triển khai hiệu quả mô hình này. Năng lực của cán bộ tư vấn bao gồm:

  • Phát triển các kỹ năng sử dụng các công cụ thu thập dữ liệu và các công cụ đánh giá,
  • Tăng cường động lực phát triển và thúc đẩy xây dựng hệ thống các quy định ưu đãi,
  • Khuyến khích ‎ý thức tự giúp đỡ và trợ giúp lẫn nhau,
  • Phát triển khái niệm “không có sự tách biệt giữa chúng ta – họ”,
  • Thực hành khái niệm “hành động theo chỉ dẫn”,
  • Thúc đẩy sự phụ thuộc vào giai đoạn đầu của điều trị và tăng cường độc lập cá nhân vào giai đoạn tiếp theo,
  • Tổ chức hoạt động nhóm,
  • Quản lý‎hồ sơ,
  • Thúc đẩy việc học tập xã hội thông qua làm gương, tác động đồng đẳng, và học tập thông qua trải nghiệm,
  • Tiến hành xây dựng lòng tin trong cộng đồng,
  • Thực hành theo các tấm gương tích cực,
  • Chương trình tập huấn này đã mở rộng thêm một nội dung nữa – nội dung thứ 12 – phát triển các hành vi khắc phục khó khăn để thay đổi.

          Để hiểu rõ tổ chức và các phương pháp điều trị của tổ chức này đề nghị các bạn tham khảo tại mục Nghiên cứu Khoa học, bài thứ 3: “Cộng đồng trị liệu – một liệu pháp cai nghiện ma túy có hiệu quả cần được mở rộng ở Việt Nam” tại trang web của Trung tâm Thanh Đa do ông Trần Việt Trung – nguyên Phó Cục Trưởng Cục Phòng, Chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội biên soạn.


5. MÔ HÌNH MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU VÀ CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CỦA TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA:

          Thông qua khảo sát các chương trình (SSLTM) chúng tôi nhận thấy chương trình SSLTM của tổ chức Daytop:

  • Phù hợp với điều kiện Việt Nam nói chung và Trung tâm Cai nghiện Ma túy Thanh Đa nói riêng.
  • Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đađã thực hiện chương trình này hơn 17 năm và có kết quả rõ rệt.
  • Nhiều cán bộ nhân viên Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa đã tham gia chương trình tập huấn tập trung dài hạn 04 tháng do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội kết hợp với tổ chức Daytop Quốc tế thực hiện. Khóa học có nội dung đồng bộ, phong phú và được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (người tài trợ chương trình này) đánh giá cao qua kết quả nghiệm thu được khảo sát và công bố năm 2009.

          Do điều kiện đặc thù của học viên và Trung tâm Thanh Đa – chương trình điều trị theo phương pháp Daytop Quốc tế đã được Trung tâm điều chỉnh một số mặt để phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh thực tế của Trung tâm. Trong đó chúng tôi đặt nặng vấn đề GIÁO DỤC TRỊ LIỆU – TRANG BỊ BẢN LĨNH và KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN.

KẾT LUẬN:

          Môi trường cộng đồng trị liệu không giống như môi trường cộng đồng mà chúng ta đang sống. Có một số những đặc tính khiến cho cộng đồng này trở nên độc đáo và không giống bất kỳ loại cộng đồng nào: đó chính là sự tổng hợp của các yếu tố: cơ cấu tổ chức, yếu tố con người, những quy định điều chỉnh mối quan hệ tương giao giữa các thành viên của cộng đồng và hệ thống chia sẻ thông tin đã tạo nên cộng đồng. Nó phải là: “Môi trường học tập”. Môi trường này chủ yếu đề cập đến mối quan hệ giữa các thành viên và không khí học tập. Kết quả môi trường cộng đồng trị liệu là tạo ra một số những ảnh hưởng nhất định đến trạng thái tâm tư tình cảm, nhận thức về đạo đức và xã hội của người nghiện. Môi trường cộng đồng trị liệu tạo ra trật tự và một lối sống có mục đích trong các thành viên của nó. Chính bởi vì môi trường trị liệu cộng đồng thường có được cơ sở vật chất  cũng như cách tổ chức tốt nên nó là môi trường trị liệu tốt đối với các đối tượng tham gia chương trình. Tóm lại:

          Môi trường cộng đồng trị liệu nhằm mục đích:

  • Bạn có thể thay đổivà bộc lộ bản thân mình.
  • Động lực của nhóm sẽ giúp đỡ cho sự thay đổi đó.
  • Tất cả các thành viên của cộng đồng cần phải có trách nhiệm.
  • Tự đặt mình vào hoàn cảnh người khác để đánh giá cảm xúc.
  • Phương pháp thực hiện bao gồm:
  • Quản lý giám sát hành vi.
  • Chuyển biến tâm tư – tình cảm.
  • Điều trị cắt cơn – bệnh cơ hội – bệnh tâm thần.
  • Sử dụng các phương pháp điều trị không dùng thuốc nhằm phục hồi nhận thức – hành vi nhân cách – tinh thần trách nhiệm – điều chỉnh những rối loạn tâm - sinh lý cho người nghiện ma túy.

C. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CÓ HIỆU QUẢ:


I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN:

          Vì tính chất đa dạng của bệnh nghiện ma tuý nên nếu sử dụng một vài biện pháp thì không đảm bảo đáp ứng hết được mọi yêu cầu cho công tác cai nghiện mà phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều biện pháp để phục vụ cho điều trị. Tuy Một số nguyên tắc cơ bản phải thực hiện:

1. XÂY DỰNG NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG:

  • Tôn trọng lẫn nhau.
  • Có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng. Lòng biết ơn.
  • Tự tin vào giá trị bản thân.
  • Biết thương yêu và quan tâm  đến người khác.
  • Phối hợp trong công việc.
  • Trung thực – trách nhiệm – khiêm tốn – cởi mở.
  • Năng động sáng tạo – khả năng nhận thức tốt.
  • Tích cực lao động.

2. XÂY DỰNG MỘT MÔI TRUỜNG ĐIỀU TRỊ AN TOÀN VÀ LÀNH MẠNH:

  • Không ma tuý.
  • Không có hành vi bạo lực hay đe dọa bạo lực.
  • Không có hành vi tình dục.
  • Không trộm cắp.
  • Luôn luôn nhắc nhở và kiểm tra thực hiện các nguyên tắc cộng đồng đề ra.
  • Đặt ra những quy định mới nếu thấy cần thiết.

3. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC:

  • Việc tuân thủ lịch sinh hoạt 24h/ ngày được giám sát chặt chẽ.
  • Phân công công việc rõ ràng cho từng thành viên.
  • Có sự chỉ đạo thông suốt từ trên xuống dưới và sự phản ánh kịp thời từ dưới lên.
  • Đảm bảo tuân thủ những quy tắc, quy định. Mọi hành vi được giám sát chặt chẽ và thường xuyên.
  • Xây dựng được những tiêu chí trong cộng đồng nhằm khuyến khích việc tích cực điều chỉnh hành vi.
  • Phương pháp điều trị phải dựa trên nguyên tắc nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người nghiện.

4. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:

  • Phương pháp điều trị không bao giờ được làm tổn thương đến nhân phẩm đối tượng và phải được xây dựng trên những hiểu biết sâu sắc về ma túy và người nghiện.
  • Phải áp dụng biện pháp điều trị toàn diện bao gồm nâng cao sức khoẻ và điều chỉnh, phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách, thông qua tư vấn - tâm lý trị liệu, giáo dục trị liệu, hoạt động trị liệu, huấn nghiệp trị liệu, lao động trị liệu.
  • Đối tượng có lòng tin vào cán bộ điều trị.
  • Đối tượng cảm nhận được sự chăm sóc và giúp đỡ chân thành của cán bộ điều trị.
  • Đối tượng  cảm nhận được sự chăm sóc của cả cộng đồng đối với quá trình tiến bộ của đối tượng.
  • Đối tượng luôn luôn cảm thấy an toàn cả về thể chất lẫn về tinh thần.
  • Phải tạo được môi trường điều trị – phục hồi an toàn.
  • Môi trường điều trị phải tạo ra được sự trung thực và tính cởi mở trong nguyên tắc cộng đồng đề ra.
  • Kết hợp liệu pháp dùng thuốc và không dùng thuốc (xem mục PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN tại website này)

5. NHỮNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NHANH SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH ĐỐI TƯỢNG:

  • Phải có những nguyên tắc giải quyết mọi hành vi vi phạm có liên quan đến những quy định của cộng đồng mà không cần sử dụng đến vũ lực.
  • Phải có những hoạt động nhằm giúp đỡ về tâm tư tình cảm, khuyến khích việc bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận đối tượng một cách trung thực (ví dụ như tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hay các hình thức điều trị khác…).
  • Tổ chức những buổi nói chuyện cho đối tượng để họ có thể  giải bày tâm sự về quá khứ của mình một cách cởi mở, trung thực mà không lo ngại có sự chế diễu hay phản đối từ phía đối tượng khác.
  • Giúp đối tượng cũng cố lòng tin vào bản thân và những người xung quanh qua biện pháp giáo dục tâm lý - xã hội cho dối tượng.

6. XÂY DỰNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HỮU HIỆU:

  • Sử dụng hệ thống quản lý trách nhiệm.
  • Đối tượng được nhóm, tổ chức phân công việc.
  • Sử dụng nhóm đồng đẳng quản lý lẫn nhau.
  • Sử dụng sổ nhật ký, sổ báo cáo, giao ban hay lịch phân công lao động để quản lý.
  • Giám sát nghiêm ngặt tuân thủ các loại quy định, nguyên tắc của cộng đồng.

7. XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ ĐIỀU TRỊ CỦA ĐỐI TƯỢNG:

  • Kế hoạch điều trị:
  • Xác định những vấn đề mấu chốt phải giải quyết trong quá trình điều trị.
  • Xây dựng một kế hoạch điều trị nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra.
  • Kế hoạch này phải có những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn điều trị.
  • Xác định những hoạt động diều trị cụ thể và chỉ định người chịu trách nhiệm giúp đỡ đối tượng đạt được mục tiêu yêu cầu điều trị đề ra.
  • Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ.
  • Theo dõi tiến độ điều trị của đối tượng theo kế hoạch đã đề ra: Tổ chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm cho từng trường hơp đối tượng.
  • Sử dụng hồ sơ quản lý đối tượng,  phân công người quản lý theo dõi.
  • Nhận xét của nhân viên tư vấn về sự tiến bộ của đối tượng.
  • Biên bản của những buổi tư vấn cá nhân, nhóm, gia đình.
  • Báo cáo tiến độ điều trị thường kỳ hàng tháng.

8. XÂY DỰNG HỆ THỐNG KHEN THƯỞNG:

  • Dựa trên các tiêu chuẩn đã đề ra để khen thưởng các học viên tích cực.
  • Sử dụng một số ưu đãi làm phần thưởng như : viết thư, tặng quà lưu niệm, biểu  dương trước tập thể…
  • Đi dã ngoại bên ngoài cơ sở điều trị.
  • Cho về thăm gia đình.

Việc khen thưởng này tùy thuộc vào từng hoàn cảnh trung tâm - trường - trại - địa phương.


II. CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT:


1. NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NGƯÒI XỨNG ĐÁNG VÀ MẪU MỰC:

          Đội ngũ điều trị phải làm thế nào để đối tượng tôn trọng. Họ phải là tấm gương sáng cho đối tượng để có thể ảnh hưởng giáo dục nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách của học viên.

          Người nghiện ma tuý thường thực hiện nhiều hành vi không tốt, nhưng họ ít thấy và hay biện minh cho bản thân mình, trong khi đó họ lại rất tinh ý và nhạy bén nhận xét những điều không tốt của người khác. Do đó, nếu nhân viên điều trị không gương mẫu khó có thể chuyển đổi đối tượng.

          Đối với đồng nghiệp nhân viên điều trị phải tuân thủ những quy định, những mối quan hệ thân thiện.

          Đối với đối tượng nhân viên điều trị phải thương yêu và đồng cảm nhưng cũng phải xác định một ranh giới không thể vượt qua của người quản lý và đối tượng.


2. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI ĐẢM BẢO KHÔNG CÓ MA TUÝ HOẶC CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN KHÁC:

          Một môi trường trị liệu để lọt ma tuý vào sẽ gây lây lan bệnh tật, tinh thần học viên không bình ổn, thiếu quyết tâm cai nghiện, dễ bức xúc phá vỡ chương trình điều trị.

Đây là yếu tố tiên quyết vì nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ phá huỷ toàn bộ kế hoạch, hệ thống hoạt động của Trung Tâm.


3. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ MỘT NƠI AN TOÀN KHÔNG CÓ TÌNH TRẠNG BẠO LỰC:

          Mọi hoạt động diễn ra một lối sống không có ma tuý, không có cảnh ức chế nhau, nơi mà hành vi của một người luôn được các người khác xem xét, góp ý mà không hề do một áp lực nào, một ý đồ xấu nào và được giáo dục liên tục về một nếp sống nề nếp chuẩn mực.


4. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NƠI ĐỂ CÁC ĐỐI TƯỢNG CÓ THỂ GIÚP ĐỠ ĐIỀU CHỈNH SAI LẦM CHO NHAU.


5. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI CÓ NHỮNG CHUẨN MỰC VỀ HÀNH VI VÀ NHÂN CÁCH NHƯ MỘT XÃ HỘI GƯƠNG MẪU nhằm những tiêu chuẩn sau đây:

  • Trách nhiệm quan tâm đến người khác.
  • Trung thực, không dối trá.
  • Thương yêu, cởi mở, chân thành.
  • Đoàn kết.
  • Kỷ luật.
  • Nhận biết được bổn phận, trách nhiệm.

6. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU PHẢI DỰ KIẾN MỌI BIỆN PHÁP KHI CÓ TÌNH HUỐNG XẤU:

          Phải can thiệp ngay kịp thời khi xảy ra những vi phạm nghiêm trọng về những quy tắc xã hội và chuẩn mực hành vi.


7. CÁC ĐIỀU KIỆN Y TẾ - GIÁO DỤC - QUẢN LÝ - CÁC BIỆN PHÁP TRỊ LIỆU KHÁC VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÓ TRÌNH ĐỘ VÀ NHIỆT TÌNH ĐỂ SẴN SÀNG ĐÁP ỨNG ĐƯỢC VÀ KỊP THỜI MỌI TÌNH HUỐNG.


8. CẦN CÓ MỘT THOẢ THUẬN ĐIỀU TRỊ NÓI LÊN QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VÀ NGƯỜI CAI NGHIỆN: Thỏa thuận phải nêu rõ những mục tiêu điều trị mà hai phía đều quan tâmNội dung thoả thuận điều trị phải bao gồm những nội dung giúp đỡ người nghiện có kế hoạch cho đời sống hàng ngày nhằm tiến đến một sự phục hồi nhân cách, một cuộc sống hữu ích cho xã hội và thu thập những kỹ năng để vượt qua thử thách tái nghiện.


9. NHỮNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ HIỆU QUẢ:

  • Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tích cực. Vai trò của những người có trách nhiệm, uy tín trợ giúp một cách hữu hiệu cho việc học tập của các thành viên.
  • Họ nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm của những người có vị trí trách nhiệm đối với các thành viên trong cộng đồng. Phải biết rằng các thành viên trong cộng đồng luôn theo dõi việc các cán bộ điều trị có tuân thủ các quy tắc và giá trị của cộng đồng hay không, cũng như theo dõi mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong cộng đồng, không được để các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong cộng đồng. Bất kỳ mâu thuẫn nào xảy ra giữa lời nói và hành vi sẽ bộc lộ điểm yếu của hệ thống điều trị và có thể sẽ được người nghiện lợi dụng để có những biểu hiện, hành vi không đúng.
  • Để thực hiện tốt vai trò của mình, người cán bộ điều trị phải nắm rõ các quy tắc của cộng đồng. Những người quản lý thành công nhất là, những người luôn được đối tượng xem là tấm gương để họ học tập là những minh họa cụ thể trong giáo dục người nghiện. Những người quản lý không chỉ đảm bảo sự tồn tại, duy trì hoạt động của “môi trường trị liệu cộng đồng” mà còn phải biến nó thành một môi trường học tập thật sự cho người nghiện ma túy.
  • Người đã cai nghiện thành công là hiện thân của niềm hy vọng của người cai nghiện, đã và đang đấu tranh để vượt qua chính bản thân mình. Họ là bằng chứng sống của việc chiến thắng sự cám dỗ của ma tuý, mà chủ yếu họ là người rất thông hiểu suy nghĩ và cảm xúc của người nghiện. Khả năng của họ trong việc bày tỏ bản lĩnh của mình đối với những người nghiện khác là không gì sánh nổi. Họ đoán trước được hành vi của người nghiện trong từng hoàn cảnh cụ thể. Điều này biến họ thành những người hướng dẫn rất có hiệu quả trong môi trường trị liệu cộng đồng – một môi trường điều trị mà việc thành công hay thất bại có liên quan chặt chẽ với việc thông hiểu những suy nghĩ , thậm chí cả những mánh lới của đối tượng. Tuy nhiên việc sử dụng người cai nghiện thành công vào công tác quản lý của Trung tâm là vấn đề phức tạp như việc dùng dao hai lưỡi có thể tốt nhưng cũng có thể rất nguy hiểm nếu họ có ý đồ xấu thiếu trình độ hoặc tái nghiện lại. Do đó, để xử lý tình huống, người cán bộ quản lý phải có khả năng đoán trước sự việc xảy ra và những nguyên nhân gây ra sự việc đó.

D. YÊU CẦU VỀ CƠ CẤU - HOẠT ĐỘNG - MỐI QUAN HỆ ĐỂ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ HIỆU QUẢ:


I. HỆ THỐNG TỔ CHỨC:

1. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC:

preview

2. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO: Là vô cùng quan trọngđòi hỏi phải có TRÌNH ĐỘ và NHẠY BÉN trong công việc:

  • Điều chỉnh cơ cấu cho phù hợp.
  • Điều chỉnh các dịch vụ điều trị.
  • Điều chỉnh vai trò các cán bộ điều trị.
  • Phân công nhiệm vụ của cán bộ điều trị và nhân viên tư vấn phù hợp.
  • Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm cho tập thể CBNV để có thể triển khai chương trình điều trị.
  • Lập kế hoạch xây dựng chương trình điều trị – phục hồi dựa vào trung tâm và dựa vào cộng đồng.
  • Tổng kết tiến độ triển khai các chương trình từng giai đoạn.

3. NHIỆM VỤ CỦA CÁC PHÒNG BAN CHỨC NĂNG:

Cơ bản gồm 4 bộ phận chính:

  • Y tế.
  • Giáo dục.
  • Quản lý.
  • Phục vụ.

Tất cả các bộ phận trên đều phải tác nghiệp trên một thể thống nhất nhằm vào công tác điều trị, điều chỉnh, phục hồi nhận thức – hành vi – nhân cách cho đối tượng cai nghiện, nhưng nhiệm vụ ai người đó làm.

Tổ chức như trên nhằm mục tiêu :

  • Đảm bảo sức khỏecho đối tượng cai nghiện – phát hiện và ngăn chặn kịp thời các bệnh cơ hội – dịch bệnh – bệnh mắc phải.
  • Sử dụng các phương pháp điều trị không dùng thuốc thông qua tư vấn – liệu pháp tâm l‎ý – liệu pháp giáo dục – liệu pháp xã hội,…
  • Theo dõi tiến độ của học viên thông qua các hoạt động của cá nhân, nhóm, tổ chức, huấn nghiệp trị liệu, lao động trị liệu, sản xuất trị liệu, …
  • Đảm bảo môi trường điều trị an toàn.
  • Tạo một môi trường sẵn sàng đáp ứng kịp thời cho công tác cai nghiện ( xây dựng cơ sở vật chất – vệ sinh môi trường – chuẩn bị cho công tác quản l‎ý cũng như phục vụ cho mọi hình thức trị liệu,… ).

II. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN:

  • Xác định nhiệm vụ rõ ràngcho từng cá nhân, từng nhóm, từng tổ chức của học viên và người phụ trách.
  • Xác định nhiệm vụ người giám sát.
  • Xác định nhiệm vụ của điều phối viên.

III. PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC:

  • Sắp xếp công việc cụ thể cho từng đối tượng.
  • Cho phép đối tượng đăng ký với cán bộ điều trị nhận công việc cho mình, tất nhiên sự lựa chọn phải dựa vào khả năng từng người và tiến độ điều trị.
  • Trách nhiệm của từng người trong công việc được giao, nếu như không đáp ứng được yêu cầu cần làm rõ vì những lý do bệnh lý hoặc lý do hành vi.

IV. LỊCH SINH  HOẠT HẰNG NGÀY:

Mục đích của việc bố trí lịch sinh hoạt là để điều hành hoạt động của Trung tâm, tạo cho đối tượng ‎có ý‎ thức tổ chức kỷ luậthình thành thói quen tốt và nhận thức tốt.

Một ví dụ của lịch sinh hoạt:

6:00 Thức dậy/ dọn giường/ vệ sinh phòng ngủ/ điểm danh.

6:30 Thể dục buổi sáng/ tắm rửa.

7:00 Ăn sáng.

8:00 Giao ban buổi sáng (là không thể thiếu được).

8:45  Cán bộ họp giao ban/ Họp nhóm đối tượng/ Sinh hoạt cộng đồng.

9:30  Lao động trị liệu – Huấn nghiệp trị liệu.

11:30 Tắm rửa.

12:00 Ăn trưa – nghỉ trưa.

14:00 Sinh hoạt nhóm điều trị.

15:30 Lao động trị liệu.

17:00  Hoạt động trị liệu.

18:00 Tắm rửa.

18:30 Ăn tối.

19:30 Tư vấn, họp nhóm, giải trí…

21:00 Họp toàn thể cộng đồng/ thông báo chung.

22:00 Điểm danh tối/ đi ngủ.

Lịch sinh hoạt này thay đổi tùy theo từng giai đoạn điều trị và điều kiện của từng đơn vị.


V. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ:

          Tình đồng đội và sự tôn trọng lẫn nhau là nguyên tắc cơ bản của các nhân viên điều trị trong cộng đồng. Các đối tượng là thành viên của cộng đồng cũng phải coi hai nguyên tắc đó là nền tảng mối quan hệ trong công việc của mình.

          Để xây dựng được môi trường trị liệu cộng đồng có hiệu quả, các nhân viên điều trị phải có khả năng phối hợp làm việc trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Để tạo ra được một thái độ làm việc như vậy những người lãnh đạo tổ chức phải là tấm gương của cộng đồng trị liệu. Người cán bộ lãnh đạo phải tuân thủ nguyên tắc này trong khi giao tiếp với các nhân viên của mình.


VI. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VỚI ĐỐI TƯỢNG:

          Cộng đồng có mục tiêu là tạo một môi trường cho sự điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách của đối tượng. Cộng đồng sẽ thất bại nếu như thiếu đi lòng quyết tâm của những người lãnh đạo và những người có uy tín trong cộng đồng. Môi trường cộng đồng trị liệu bao gồm nhiều thành phần khác nhau: Có những đối tượng ích kỷ, mang chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng cũng có những sự hy sinh bản thân để giúp đỡ các đối tượng khác. Đa số người cai nghiện có trạng thái tình cảm không ổn định, nhưng điều đáng chú ý là chính những cán bộ điều trị chuyên đi hàn gắn vết thương này đôi khi không giải quyết được những khó khăn của chính bản thân mình. Tuy nhiên dù tình huống nào, người cán bộ điều trị, những người được xem là tấm gương sáng để toàn thể cộng đồng noi theo, luôn luôn phải cư xử với các thành viên của cộng đồng với một thái độ có trách nhiệm. Những cơ chế của cộng đồng được thể hiện ở những nghi thức và quy tắc xã hội, có thể giúp ngăn chặn việc vô tình hay cố tình sử dụng sai nguyên tắc về sức mạnh và quyền hạn trong mọi đối tượng điều trị tại cộng đồng.

          Nhằm nâng cao những quy tắcchuẩn mực của cộng đồng cần phải quan tâm đến việc đào tạo những cán bộ điều trị trở thành những nhân viên chuyên nghiệp có trình độ. Việc chuyên môn hóa đội ngũ điều trị có thể sẽ giúp cải thiện chất lượng điều trị của cộng đồng nói chung và của những người cán bộ quản lý nói riêng.


VII. CƠ CẤU CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI  ĐỐI TƯỢNG:

          Môi trường cộng đồng trị liệu nổi tiếng là nhờ nó được sự tổ chức tốt, có nguyên tắc,  có cơ sở vật chất đầy đủ các yếu tố trên sẽ khích lệ những hành vi lành mạnh. Môi trường sẽ phản ánh bản chất của cộng đồng sống trong môi trường đó. Mặc dù có một vài mô hình cộng đồng buộc phải thích nghi với cơ sở vật chất sẵn có ví dụ như là nhà tù, các khu nhà cũcơ sở khám chữa bệnh thiếu thốn nhưng chúng ta phải quyết tâm từng bước nâng cấp môi trường sao cho phù hợp với yêu cầu của một môi trường cộng đồng trị liệu.

          Cộng đồng trị liệu phải mang dáng dấp một gia đình nhiều hơn là một trung tâm điều trịNgay cả ở trong tù hay trong trại cải tạo, trại giáo dưỡng trẻ em vị thành niên: không khí “nhà tù” cũng không còn nữa, nhằm khiến cho cộng đồng trở thành một môi trường nhẹ nhàng, tin cậy cho việc điều trị – phục hồian toàn cả về thể chất lẫn tinh thần cho đối tượng: Đó phải là chỗ mà đối tượng có thể chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của chính mình. Trong khi nhà tù tạo ra không khí thiếu an toàn, nơi mà đối tượng muốn sinh tồn thì phải dựa hoàn toàn vào mánh khoé và luật rừng, thì môi trường cộng đồng tạo ra những hành vi xã hội lành mạnh như tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau trong bầu không khí gia đình.

          Những thành công lớn của môi trường cộng đồng trị liệu có được là nhờ một cơ cấu hoạt động chặt chẽ. Cần tổ chức tốt lịch sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng tùy theo người  hay người mới tham gia điều trị. Tuy nhiên, mọi đối tượng cai nghiện đều phải hiểu được trách nhiệm của mình và các mục tiêu chung do cộng đồng đề ra.


E. TỔNG QUAN CÁC GIAI ĐOẠN KẾ HOẠCH QUẢN LÝ ĐIỀU TRỊ GIÁO DỤC TRONG MỘT MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:

  • Việc học tập và chuyển đổi hành vi mới cần được tiến hành từng bước.
  • Có đủ thời gian để đối tượng tiếp nhận các bài giảng và sự giáo dục của người quản lý.
  • Sự chuyển biến của đối tượng có thể nhanh hay chậm tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

I. GIAI ĐOẠN 1: ĐỊNH HƯỚNG:

  • Làm quen với chương trình điều trị (nội dung, hoạt động trung tâm, các bước tiến hành)
  •  hội kiểm tra đánh giá (học vấn, nghề nghiệp, tình trạng, tâm lý …).
  • Cán bộ quản lý cần quan tâm đến những biểu hiện về thái độ – suy nghĩ - những nhu cầu của đối tượng.

II. GIAI ĐOẠN 2: SƠ BỘ ĐIỀU TRỊ:

  • Phân loại đối tượng căn cứ vào: Trình độ – nhận thức – hoàn cảnh - hành vi – bệnh lý - tiền sử đối tượng…
  • Xây dựng mục tiêu điều trị và những giá trị tinh thần cần đạt được (thông qua quản lý công tác tư vấn – liệu pháp tâm l‎ý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hộilao động trị liệu - hướng nghiệp trị liệu …).
  • Huấn luyện cho đối tượng về tính năng động, sáng tạoxây dựng trong học tập, trong công việc, trong quan hệ với mọi người và với gia đình.

III. GIAI  ĐOẠN 3: CHUẨN BỊ TÁI HOÀ NHẬP VỚI CỘNG ĐỒNG:

Người quản lý phải nắm rõ và giúp đối tượng các vấn đề sau :

  • Yếu tố gia đìnhcông việc, giáo dục, xã hội.
  • Khó khăn tồn tại của gia đình đối tượng.
  • Mạng lưới trợ giúp của xã hội.
  • Những vấn đề riêng biệt của từng cá nhân đối tượng.
  • Bắt đầu công tác phòng ngừa tái nghiện.

          Để đối tượng thu nhận được những kiến thức sau khi tham gia điều trị phục hồi và áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn công tác hằng ngày đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc về bản thân và mong muốn duy trì một cuộc sống lành mạnh không có ma tuýGiá trị của những gì đối tượng thu nhận được trong quá trình điều trị sẽ kiểm chứng lại trước khi đối tượng hoà nhập cộng đồng, trở về với cuộc sống xã hội. KHÓ CÓ THỂ TƯỞNG TƯỢNG được rằng một người nghiện rượu lâu nămsau khi điều trị quay trở lại cộng đồng làm việc tại một quày rượu, lại vẫn có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh không uống rượu.

          Trong giai đoạn cuối của chương trình điều trị, cộng đồng sẽ cho người nghiện dần dần thoát ly môi trường có kiểm soát và tiếp xúc ngày một nhiều với môi trường xã hội. Đối tượng có thể tự đi tìm việctrở lại nhà trường hay tham gia các hoạt động có ích khác. Đối tượng sẽ tự sắp xếp thời gian cho những hoạt động bên ngoài cộng đồng điều trị nhưng vẫn đảm bảo tham gia sinh hoạt nhóm, tư vấn, chăm sóc sau cai của các chuyên gia về tái hoà nhập cộng đồng. Họ phải hoàn tất khóa học về tình huống có nguy cơ dẫn đến tái nghiện. Họ cũng có thể tham gia giúp đỡ những thành viên khác của cộng đồng trong việc thực hiện các hoạt động điều trị.

          Khả năng tìm việc làm và duy trì một việc làm ổn địnhhoà nhập được với gia đìnhtiếp tục làm việc và duy trì trạng thái phục hồi là mục đích chính của giai đoạn này. Đối tượng lúc này nhận được sự giúp đỡ cả từ phía nhân viên điều trị và từ gia đình. Nếu tái nghiện xảy ra trong giai đoạn này, đối tượng phải trở lại môi trường điều trị cộng đồng và được trang bị thêm những biện pháp can thiệp cho đến khi đối tượng thực sự đủ khả năng duy trì trạng thái phục hồi.


IV. GIAI ĐOẠN 4: TÁI HOÀ NHẬP VỚI CỘNG ĐỒNG:

  • Có nghề nghiệp hoặc tiếp tục học tập.
  • Bố trí thời gian tham gia các hoạt động mang tính chất cộng đồng.
  • Tăng cường ảnh hưởng của nhóm nhằm giải quyết những mối lo ngại.
  • Lập kế hoạch từng bước để đảm bảo : đời sống, sinh hoạt lành mạnh.
  • Tăng cường các hoạt động nhằm phòng ngừa tái nghiện.

V. GIAI ĐOẠN 5: QUẢN LÝ THEO DÕI SAU CAI:

  • Thời gian là tháng đến một năm hoặc nếu cần nhiều hơn nữa.
  • Dần ổn định cuộc sống.
  • Tham gia các nhóm điều trị được tổ chức định kỳquản lý theo trường hợp cụ thể với sự giúp đỡ của xã hội.
  • Trở lại nơi làm việc, học sinh quay trở lại trường học.
  • Đặt kế hoạch chỉ tiêu cụ thểtừng giai đoạn của cuộc sống.

F. CÔNG TÁC QUẢN LÝ - ĐIỀU CHỈNH - GIÁM SÁT HÀNH VI ĐỐI TƯỢNG CAI NGHIỆN:


          Việc phân cấp cơ cấu tổ chức và lịch sinh hoạt thường ngày là một dạng kỷ luật và nó tạo ra cho người nghiện cảm giác ổn định. CUỘC SỐNG ĐỐI TƯỢNG PHẢI ĐƯỢC ĐI VÀO KHUÔN KHỔ VÀ CÓ KẾ HOẠCH CỤ THỂ ngược lại hẳn với cuộc sống trước kia của đối tượng ngoài xã hội đầy rẫy rối loạn, thiếu ý thức – một lối sống điển hình của người nghiện. Các hoạt động này khuyến khích việc đặt kế hoạch cho sự ổn định lâu dài. Tuy nhiên, những điều này không đơn giản và khó thực hiện. Khi người nghiện đã lệ thuộc vào ma túy thì khả năng nhận thức cuộc sống của đối tượng cũng bị hạn chế, do các thói quen xấu có liên quan đến việc sử dụng ma tuýĐối tượng không tự hành động như một người bình thường mà phải giúp đối tượng từng bước đạt được dần những thành công nhỏ trong quá trình phục hồi.

          Tóm lại, môi trường trị liệu cộng đồng là một môi trường điều trị tích cực, năng động chứ không phải là một môi trường tĩnh. Những thay đổi có ý nghĩa mà người nghiện đạt được chính là kết quả của trạng thái đấu tranh tích cực bên trong bản thân người nghiện với sự giúp đỡ của tập thể nhằm loại bỏ những yếu tố làm suy yếu ý chí con người, những yếu tố thường được người nghiện sử dụng để bào chữa cho thất bại của mình. Bằng cách loại bỏ những yếu tố này, chúng ta còn có thể khiến cho đối tượng có được những hành vi phù hợp. Nếu chúng ta thành công trong việc thu hút sự tham gia tích cực của người cai nghiện vào chương trình điều trị, đối tượng sẽ có nhiều cơ hội hơn để phục hồi và lấy lại sự tự tin cho bản thân mình.

          Để đạt được các mục tiêu trên công tác quản lý – điều chỉnh – giám sát hành vi đối tượng là vô cùng cần thiết.

          Sau đây là một số điểm cần áp dụng :

I. NGUYÊN TẮC: Đối tượng phải luôn luôn đặt vấn đề với tự chính mình :

  • Cách thức nào để tạo hiệu quả trong cuộc sống.
  • Đặt mình vào địa vị người khác.
  • Điều gì sẽ đến khi suy nghĩ và hành động như thế này?
  • Kiểm soát tình cảm- suy nghĩ- làm chủ bản thân.

II. SINH HOẠT NHÓM: nhóm đối kháng, nhóm đặc biệt…nhằm :

  • Đối diện với sự thật.
  • Chấp nhận thử thách.
  • Bày tỏ sự đồng tình hoặc không đồng tình.
  • Giải toả nỗi bực dọc theo cách thức đối thoại trong hoà bình.
  • Môi trường sống của cộng đồng.
  • Sự tiến bộ của đối tượng.

III. CÁC LOẠI HỌP HÀNH, SINH HOẠT KHÁC:

  • Họp giao ban chung là rất quan trọng.
  • Họp gia đình, phát hiện nguy cơ, tiến hành kiểm điểm, giải quyết vấn đề.
  • Thực hiện các biện pháp điều trị không dùng thuốc là rất quan trọng:Tư vấn- Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu và các hình thức trị liệu khác.

IV. NÓI CHUYỆN VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ THIỆN CHÍ GIÚP ĐỠ MÌNH.

V. KIỂM ĐIỂM - KHIỂN TRÁCH: Làm rõ các vi phạm và biện pháp giải quyết.

VI. TÁC DỤNG CỦA VIỆC KHEN THƯỞNG:

  • Làm chuyển biến tích cực sự tiến bộ của đối tượng.
  • Tất cả đối tượng điều trị gương mẫu đều được biểu dương – khen thưởng bất kể họ có xuất phát điểm như thế nào.

VII. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH ĐỐI TƯỢNG:

          Những biện pháp điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách trong môi trường trị liệu cộng đồng như kiểm điểmphê bìnhgiao ban buổi sángnhóm đối khánghọp gia đình hay họp chung v.v… được xây dựng nhằm sửa đổi những hành vi vi phạm những quy tắc mà cộng đồng đề ra. Việc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của cộng đồng hay những quy tắc cốt yếu là điều hết sức quan trọng trong việc duy trì sự lành mạnh và sự an toàn của môi trường điều trị. Những biện pháp điều chỉnh, phục hồi nhận thức – hành vi – nhân cách nhằm mục đích ngăn chặntrừng phạt những hành động làm xói mòn tập quán, sự an toàn và tính lành mạnh của môi trường. Việc xử lý các vi phạm những quy tắc cơ bản - tạo ra cảm giác an toàn của cộng đồng.

          Tuy nhiên, nếu những biện pháp này bị lạm dụng sẽ gây ra những kết quả trái ngược. Nếu tổ chức môi trường trị liệu cộng đồng thiếu chuẩn mực và thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc áp dụng những biện pháp này thì chúng trở nên có hại nhiều hơn có lợi. Vấn đề sử dụng biện pháp nào với mức độ vi phạm như thế nào được quyết định bởi mức độ điều chỉnh hành vi từ thấp đến cao.

          Biện pháp kiểm điểm và trao đổi (tư vấn trực tiếp) được áp dụng cho những hành vi nhẹ. Đối với những môi trường trị liệu được tổ chức tốt thì ít khi phải áp dụng những biện pháp mạnh.

          Việc phải tăng cường sử dụng những biện pháp mạnh là dấu hiệu cho thấy môi trường điều trị đó đang có nguy cơ không được tổ chức tốt, do đó phải xem xét lại trách nhiệm của các thành viên cộng đồng đối với những quy tắc và chuẩn mực của cộng đồng cũng như nhận thức của những người quản lý.

          Những biện pháp điều chỉnh hành vi có hiệu quả nếu được sử dụng đúng sẽ làm tăng trách nhiệm của thành viên đối với việc tuân thủ các quy tắc mà cộng đồng đề ra. Khi một đối tượng bị gọi lên kiểm điểm trong một lần giao ban buổi sáng hay bị khiển trách trước tập thể để những thành viên khác trong cộng đồng phê bình sửa chữa hành vi không đúng của đối tượng, thì chính đối tượng vừa nói chuyện với cộng đồng và vừa chính với bản thân mình. Trong quá trình áp dụng những biện pháp này điều căn bản là phải đảm bảo chỉ lên án những hành vi sai trái chứ không cố gắng đánh vào lòng tự trọng của đối tượng. Do vậy trong các buổi giao ban chỉ nên chú trọng vào phân tích sự vi phạm của đối tượng và ảnh hưởng của nó tới bản thân đối tượng cũng như tới những người khác. Điều này được thể hiện  ở cảm giác biết ơn của đối tượng đối với sự quan tâm và tình thương của các thành viên khác dành cho đối tượng, thông qua việc giúp đỡ anh ta sửa đổi những thái độ, hành vi không đúng.

          Việc kiểm điểm trong các buổi giao ban buổi sáng nhìn chung đã giải quyết được sự vi phạm quy tắc của các học viên. Khi những quy tắc này bảo đảmviệc học tập cũng trở nên thuận lợi và đạt kết quả tốt. Nếu một học viên đã từng bị khiển trách vì đến muộn tại giao ban buổi sáng thì đối tượng thường ít khi lặp lại hành vi đó lần nữa. Bên cạnh những kiến thức mà họ nhận được từ bài giảng, họ còn nhận thức thêm được nhiều điều từ chính bản thân mình.


G. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỂ VIỆC  ĐIỀU TRỊ - PHỤC HỒI CÓ HIỆU QUẢ:


I. PHẢI CÓ MỘT SỰ ĐIỀU TRỊ KHOA HỌC, TỔNG HỢP, LINH ĐỘNG, KỊP THỜI VÀ XUYÊN SUỐT: 

          Việc áp dụng những biện pháp điều trị tổng hợp là hết sức quan trọng trong công tác cai nghiện phục hồi. Không có mô hình cai nghiện chung nào cho đối tượng cai nghiện ma túy mà chỉ có những nguyên tắc cơ bản, mô hình tốt với người này chưa hẳn tốt với người khác.


II. CÁC DỊCH VỤ ĐIỀU TRỊ PHẢI LUÔN SẴN SÀNG:  Người nghiện luôn sẵn sàng nhận sự giúp đỡ khi đã suy sụp nhưng đến khi nào anh ta đến giai đoạn suy sụp thì ta không đoán trước được, vì vậy “sự giúp đỡ” luôn luôn phải sẵn sàng vào những thời điểm mang tính quyết định – đó là khi anh ta tự nguyện đến điều trị cai nghiện. Những thủ tục phức tạp trong quá trình tiếp nhận đối tượng đến tham gia điều trị có thể khiến chúng ta bỏ sót những đối tượng đang cần sự giúp đỡ.


III. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN CHỈ CÓ HIỆU QUẢ: Khi chúng ta đáp ứng được những nhu cầu phức tạp của đối tượng trong quá trình phục hồi. Để việc điều trị có hiệu quả phải xác định được các vấn đề liên quan đến khía cạnhthái độ, hành vi, tâm tư tình cảm, khía cạnh đạo đứcyếu tố nghề nghiệp và quan hệ xã hội của đối tượng bên cạnh tiền sử lạm dụng ma tuý của anh ta. Một chương trình điều trị phục hồi toàn diện phải bao gồm những hướng dẫn hoặc sự can thiệp đáp ứng được tính chất phức tạp của người nghiện ma tuý bao gồm cả những hoạt động chuẩn bị cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng và trang bị cho đối tượng những kỷ năng phòng chống tái nghiện..


IV. MỘT KẾ HOẠCH CAI NGHIỆN CỦA CÁ NHÂN CẦN PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ THEO TỪNG THỜI KỲ VÀ ĐƯỢC SỬA ĐỔI KHI CẦN THIẾT: Để đảm bảo rằng kế hoạch đó luôn phù hợp với những nhu cầu thay đổi của đối tượng. Một kế hoạch điều trị cai nghiện cũng như là một bản đồ hướng dẫn hành trình của đối tượng đi đến phục hồi, trong đó có quy định đến những điểm mốc cho từng giai đoạn và đích cuối cùng của quá trình điều trị. Kế hoạch này cho chúng ta xác định được mục tiêu đề ra và đánh giá được những gì chúng ta đã đạt được hoặc những thất bại và những thiếu sót được sửa chữa và xác định những lĩnh vực mới cần phải được củng cố cho đối tượng của chúng ta.


V. DUY TRÌ VIỆC ĐIỀU TRỊ TRONG MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI MỚI CÓ THỂ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CAI NGHIỆN:  Khoản thời gian thích hợp với từng cá nhân trong việc duy trì cai nghiện phụ thuộc vào nhữngkhó khăn và nhu cầu của cá nhân đó. Nghiên cứu chỉ ra rằng đối với hầu hết đối tượng thời gian cần thiết để tạo ra những tiến bộ có ý nghĩa trong cai nghiện là khoảng 3 tháng (Daytop ). Sau khi đạt đến ngưỡng này những biện pháp điều trị bổ sung có thể được áp dụng để đạt được những bước tiến xa hơn nhằm tiến đến phục hồi. Những điều trên chỉ đúng khi đối tượng được cung cấp đầy đủ các dịch vụ cai nghiện. Điều quan trọng là phải cũng cố được quyết tâm của đối tượng không cho họ rời bỏ điều trị một cách quá sớmThời gian cai nghiện lý tưởng trung bình khoảng hai năm, tối thiểu là 6 tháng.


VI. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC – LIỆU PHÁP CÓ HIỆU QUẢ TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI:

          Những đối tượng cai nghiện ma tuý có những cơ hội trong điều trị để thảo luận về những vấn đề liên quan đến động cơ điều trị, xây dựng kỹ năng xã hội và thói quen chống lại việc sử dụng ma tuý, học tập những hành vi mới, nhận thức được khó khăn và có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Trị liệu hành vi và trao đổi, thảo luận giúp nâng cao mối quan hệ giữa người với đối tượng trong gia đình và trong cộng đồng. Trao đổi, thảo luận là phương pháp quan trọng trong điều trị, nó giúp cho đối tượng đi từ quá trình học tập đến thích nghi với môi trường điều trị cũng như thích nghi với việc phải đương đầu với những khó khăn tồn tại khi quay trở lại gia đình hoặc cộng đồng, phòng chống tái nghiện.


VII. TIẾN HÀNH  SONG SONG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU KẾT HỢP VỚI ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN:

          Đối tượng cai nghiện thường có những rối loạn tâm thần kèm theo, tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh l‎ý tâm thần - phương pháp trị liệu cộng đồng phải linh động áp dụng cho đối tượng với những mức độ khác nhau.


VIII. CẮT CƠN NGHIỆN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY MÀ ĐÓ CHỈ LÀ GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ CHO MỘT QUÁ TRÌNH CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI LÂU DÀI:

          Không có một biện pháp điều trị đơn thuần (thuốc, châm cứu, bấm huyệt,…) nào có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà đòi hỏi phải có những biện pháp điều trị tổng hợp, đồng bộ lâu dài thông qua các liệu pháp không dùng thuốc như:

  1. Tư vấn.
  2. Liệu pháp tâm l‎ý.
  3. Liệu pháp giáo dục.
  4. Liệu pháp xã hội.

Để nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm của các đối tượng.


IX. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN KHÔNG PHẢI TỰ NGUYỆN MỚI ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ:

(Hai phần này coi lại bài: “Những nguyên tắc cơ bản trong cai nghiện phục hồi)

          Cho dù một người đến cai nghiện là do tự nguyện hay là do gia đình hoặc các cơ quan chức năng đưa vào, đối tượng đó cũng phải được giáo dục để họ đến với động cơ đúng đắn là cai nghiện. Thông thường, ngay cả đối với những người cai nghiện tình nguyện, thì cũng có những nguyên nhân bên trong hay bên ngoài buộc họ phải ẩn náu trong các Trung Tâm cai nghiện. Điều trị cai nghiện tự nguyện hay ép buộc không quan trọng bằng trên thực tế đối tượng có được cơ hội để tham gia điều trị trong một môi trường điều trị lành mạnh hay không.

          Với nhóm bị ép buộc họ cũng nhận được những dịch vụ săn sóc, tư vấn, giáo dục, giúp đỡ. Tuy nhiên việc chuyển đổi nhận thức của họ lâu hơn và khó khăn hơn.


X. CÁC CHƯƠNG TRÌNH CAI NGHIỆN NÊN CUNG CẤP ĐÁNH GIÁ VỀ HIV/ AIDS, VIÊM GAN SIÊU VI B VÀ C, BỆNH LAO VÀ NHỮNG BỆNH TẬT DỄ LÂY LAN KHÁC, HƯỚNG DẪN GIÚP ĐỠ ĐỐI TƯỢNG HẠN CHẾ HOẶC THAY ĐỔI NHỮNG HÀNH VI CÓ NGUY CƠ LÂY LAN: Hướng dẫn thảo luận với từng cá nhân và theo nhóm có hiệu quả giúp các đối tượng học được cách làm như thế nào để tránh được những hành vi có nguy cơ cao. Việc hướng dẫn cũng có thể giúp cho những người đã bị nhiễm bệnh có thể tự chăm sóc được bản thân họ tốt hơn.


XI. SỰ PHỤC HỒI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN CÓ THỂ PHẢI MẤT THỜI GIAN DÀI VÀ YÊU CẦU VIỆC THAM GIA ĐIỀU TRỊ MÔT CÁCH THƯỜNG XUYÊN: Người nghiện ma tuý thường ở tình trạng tái phát kinh niên và đói ma túy trường diễn. Cũng tương tự như đối với những loại bệnh kinh niên khác, việc tái sử dụng ma tuý có thể xảy ra trong hoặc sau một quá trình cai nghiện thành công. Khi một đối tượng trở lại sử dụng ma tuý không có nghĩa rằng anh ta đã không học được gì từ chương trình điều trị mà thực ra là anh ta đã thất bại trong việc học đủ để giúp anh ta hoàn toàn tránh khỏi việc sử dụng ma tuý. Quá trình cai nghiện phải kéo dài và gồm nhiều giai đoạn điều trị khác nhau để đạt được mục tiêu dài hạn là từ bỏ ma tuý và phục hồi đầy đủ các chức năng. Chính những người cai nghiện thành công nếu họ tham gia hỗ trợ các chương trình cai nghiện và quản lý sau cai thường giúp cho những đối tượng khác duy trì việc từ bỏ ma tuý.


XII.  CAM KẾT CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN NÊN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI: Hầu hết những đối tượng, đặc biệt là những người vị thành niên đều trở về gia đình sau khi họ rời khỏi Trung tâm cai nghiện. Gia đình thường là chổ dựa vững chắc giúp cho con cái họ yên tâm cai nghiện. Khi các gia đình không được cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề cai nghiện ma tuý và mục tiêu của chương trình điều trị - phục hồi thì họ sẽ dễ bị thuyết phục bởi những lý do của đối tượng đưa ra nhằm mục đích sớm rời bỏ chương trình điều trị. Chính vì vậy các gia đình nên được hướng dẫn về nội quy và nguyên tắc của cơ sở điều trị, được giáo dục về triết lý và phương pháp cơ bản của cai nghiện. Cán bộ điều trị có thể giúp đỡ tư vấn cho gia đình đối tượng để giải quyết một số khó khăn tồn tại không để nó ảnh hưởng đến việc điều trị của đối tượng.


H. HOẠT ĐỘNG TRỊ LIỆU - HUẤN NGHIỆP TRỊ LIỆU - LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU:


          Hoạt động trị liệu là khoa học và nghệ thuật hướng dẫn sự đáp ứng của người bệnh với những hoạt động chọn lựa nhằm cải tiến sức khoẻ, lượng giá thái độ điều trị hay tập luyện về thể chất hoặc tâm trí – Hoạt động trị liệu bao gồm các loại Hoạt động sinh hoạt hàng ngày – Hoạt động sáng tạo nghệ thuật – Hoạt động giáo dục và trí tuệ – Hoạt động giải trí …

          Huấn nghiệp và lao động trị liệu phải coi trọng cả hai mặt chân tay lẫn trí tuệ.

          Môi trường trị liệu cộng đồng coi hoạt động trị liệu, huấn nghiệp trị liệu và lao động trị liệu là yếu tố quan trọng giúp đối tượng phục hồi nhanh chóng tình trạng nghiện. Các yếu tố trên có liên quan đến nhận thức của một người về vai trò của đối tượng trong cộng đồngMột người khi biết rằng mình là thành viên có ích cho xã hội thì tự tin và tự trọng hơn, ít dính líu tới những hành vi sai trái. Điều này giúp cho chúng ta hiểu được vai trò của lao động trong đời sống xã hội của con người cũng như trong quá trình phục hồi của đối tượng được điều trị tại môi trường cộng đồng. Tất cả mọi thành viên đều đóng góp sức mình vào công việc hàng ngày nhằm duy trì chương trình điều trịduy trì cơ sở vật chất và hoạt động của cộng đồng.

          Môi trường cộng đồng trị liệulà môi trường được tổ chức theo một cơ cấu chặt chẽ dựa trên nguyên lý trách nhiệm tăng dần do các thành viên của cộng đồng đảm nhiệm, đối tượng phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng hoạt động hàng ngày. Cơ cấu tổ chức này đảm bảo công việc hoàn thành đúng lúc, dưới sự giám sát chặt chẽ.

          Huấn nghiệp và lao động trị liệu của cộng đồng là một hệ thống phân công rất khoa học. Ngoài việc cộng đồng có thể tự sản tự tiêu bằng cách tận dụng được đối đa nguồn nhân lực dồi dào của cộng đồng, cơ cấu này còn cho phép tập trung vào một số yếu tố khoa học trong việc thực hiện một chương trình điều trị nhằm phục hồi hành vi nhân cách, tăng lòng tự tin, tăng tính tự trọng và ý thức tổ chức kỹ luật trong lao động. Hệ thống này khuyến khích các thành viên phấn đấu để đạt được những vị trí nhất định trong cộng đồng, khuyến khích tinh thần tự lập 

          Vì những lý do trên, những người quản lý phải quan tâm đến việc xây dựng một lịch hoạt động – huấn nghiệp và lao động chi tiết cho việc thực hiện các chương trình hoạt động trong ngày. Người quản lý phải giám sát chặt chẽ thái độ và hành vi của thành viên trong cộng đồng.

          Để đạt được mục đích cộng đồng đặt ra, cần chú trọng vào việc giúp đỡ đối tượng hiểu thêm về chính bản thân mình, hiểu được ưu điểmnhược điểm của bản thân ví dụ như cảm giác tự ti trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Giả sử, một người được giao một công việc đòi hỏi phải có năng lực - trình độ. Việc này khiến cho đối tượng phải lo lắng. Để có thể giúp đối tượng thực hiện phải khuyến khích đối tượng chấp nhận sự thử thách của công việc. Muốn giao cho đối tượng một công việc ta phải cân nhắc kỹ thái độ, hành vi và đặc biệt là khả năng chấp nhận thử thách của đối tượng. Lao động trị liệu là một trong những biện pháp trị liệu cho nên ở một số chương trình điều trị sẽ bị thất bại nếu sử dụng đối tượng điều trị như một dạng công nhân rẽ mạt cho sản xuất: Đối tượng sẽ mất lòng tin ngay ở chính mình, mất lòng tin vào cán bộ điều trị có thể rộng hơn.

          Những đối tượng tích cực trong công việc và có thái độ đúng đắn đối với lao động thường có xu hướng coi trọng công việc mà họ đang làm và vị trí của trong công việcĐối tượng phải có thái độ và hành vi đúng với quá trình làm việc chứ không chỉ đơn thuần làm việc tốt, sản phẩm nhiều là được. Việc luân chuyển thay đổi công việc diễn ra thường xuyên trong cộng đồng cho phép các đối tượng có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại vi trí công việc trong môi trường.

          Từ những lý do trên đối tượng phải:

+   Tìm hiểu về chính bản thân mình

+   Điều chỉnh thái độ và hành vi cho đúng.

+   Khi đối tượng lao động tích cực sẽ có một uy tín trong cộng đồng, cho nên những chương trình huấn nghiệp trị liệu – lao động trị liệu thường đạt tỷ lệ thành công cao với thời gian ngắn và chi phí thấp. Chương trình huấn nghiệp trị liệu – lao động trị liệu thường không áp dụng cho những thành viên mới của cộng đồng, những thành viên mới cần phải có thời gian để điều chỉnh thái độ, nhận thức hành vi nhân cách trước khi được tham gia huấn nghiệp và lao động trị liệu.


I. LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ - XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:


          Vì người nghiện ma túy bị rối loạn tâm sinh lýrối loạn nhận thứcđánh mất lòng tự trọng (xem phần I) do đó giáo dục trị liệu nhằm gọt dũa hành vi điều chỉnh nhận thức và nhân cách là vô cùng quan trọng. Đối tượng phải được giáo dục những suy nghĩ lành mạnh – làm chủ được bản thân khi gặp tình huống xấu và nhận thức được chân giá trị sống để có thể đối phó và định hướng cho chính bản thân.


I. NHỮNG NÉT ĐẠI CƯƠNG:

Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tương tự xã hội.

Học tập thông qua thử thách hành động.

Học tập thông qua những điều kiện sống phản ảnh thế giới thực bên ngoài và nội tâm đối tượng.

Học tập thông qua việc cởi mở và bày tỏ công khai cảm xúc của mình.


II. PHƯƠNG THỨC – MỤC TIÊU – VÀ MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC:

Xây dựng nhiều loại hình điều trị cá nhân và điều trị nhóm.

Nội dung sinh hoạt bao gồm nhiều mặt của cộng đồng (cách thức dọn dẹp giừơng chiếu, giữ gìn tủ đựng sách, ăn mặc, giao tiếp, bày tỏ sự quan tâm đến người khác), bộc lộ các suy tư vướng mắc của mình.

Tạo bầu không khí quan tâm, tôn trọng và chấp nhận những thử thách của môi trường.

Học tập và thực hành tâm năng dưỡng sinh nhằm trợ giúp việc nâng cao nhận thức (tư duy tích cực – làm chủ bản thân và hiểu các giá trị sống ……).

Biểu tượngnghi lễ và cách thức tiến hành công việc.


III. PHÁT HUY ĐỘNG LỰC TÍCH CỰC CỦA NHÓM  ĐỒNG ĐẲNG:

+ Cán bộ lãnh đạo được đào tạo sâu về cộng đồng trị liệu.

Giáo dục về cộng đồng trị liệu cho các đối tượng.

+ Những nhân viên chuyên nghiêp được đào tạo về trị liệu cộng đồng: các bác sĩ, nhà giáo dục, nhà quản lý, nhà hướng nghiệp,…

+ Cần chia sẽ hệ thống niềm tin và gía trị cho các thành viên của cộng đồng.

Mô hình điều trị mang tính thực hành: học đi đôi với hành.

Tất cả các động lực tích cực trên phải được đưa ra những quy định, quy tắc xã hội – nguyên tắc tổ chức bộ máy.


IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI TỎA ẤM ỨC, HÀN GẮN, XOA DỊU VẾT THƯƠNG:    

          Những biện pháp điều chỉnh hành vi chỉ là bước đầu trong quá trình kiểm soát, quản lý hành vi của thành viên cộng đồng. Hiệu quả của những biện pháp này hoàn toàn mang tính tạm thời và dựa chủ yếu vào những tập quán quy tắc cộng đồng xây dựng. Nhằm đạt được sự ổn định trong việc thay đổi hành vi cần phải chú ý phân tích nguyên nhân sâu xa để xây dựng mối liên hệ cần thiết giữa giá trị của hành vi với mục tiêu của lối sống đúng mực.

  • Những biện pháp điều chỉnh hành vikhiến cho đối tượng có thể có một cuộc sống bình thường.
  • Còn những biện pháp giải toả ấm ức, hàn gắn, xoa dịu vết thương giúp cho đối tượng có được nhận thức sâu sắc hơn về bản thân mình.

          Hai biện pháp này bổ sung, hổ trợ lẫn nhau. Việc quá chú trọng vào một biện pháp cụ thể nào đó cũng không cho kết quả tốt hơn là tiến hành cả hai biện pháp song song hổ trợ lẫn nhau. Nói một cách khác, nếu như chúng ta chỉ áp dụng các biện pháp điều chỉnh hành vi một cách đơn thuần, thì các đối tượng sẽ cư xử không khác gì người máy. Họ sẽ có hành vi đúng trong môi trường cuộc sống tập thể, nhưng những hành vi đó sẽ mất khi họ rời khỏi môi trường điều trị.


V. TƯ VẤN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:

          Tư vấn cho nhóm và cá nhân đều đem lại cho đối tượng nhớ - hiểu biết và đánh giá được quá khứtiền sử cá nhân có liên quan đến việc sử dụng ma túy của mình. Việc một ngừơi nghiện ma túy phủ nhận sự thật sẽ càng nhiều tuỳ theo bề dày của quá trình sử dụng ma túy. Xóa tan sự phủ nhận này cũng đồng nghĩa với việc bắt đối tượng phải đối đầu với sự thật của cuộc đời mà bấy lâu nay đối tượng vẫn thường né tránh. Một phần của sự phủ nhận thể hiện ở việc đối tượng thường biện minh hay hợp lý hóa các thất bại của mình trong việc từ bỏ ma túy. Việc tháo gở cho đối tượng những vướng mắc loại này cũng tương tự như khi chúng ta bóc vỏ hành từng lớp, một đối tượng từng bước hiểu rõ sai lầm và bổn phận của cá nhân hơn. Biện pháp tư vấn điển hình được áp dụng trong môi trường cộng đồng trị liệu là biện pháp đối diện trực tiếp, nó thử thách niềm tin và trách nhiệm cá nhân của mỗi người nghiện.

          Để đạt các mục tiêu trên – cần thành lập trong cộng đồng các loại nhóm với vai trò khác nhau: Nhóm định hướng, nhóm điềutra, nhóm mở rộng, nhóm marathon và nhóm đối kháng.

          Môi trường cộng đồng trị liệu đã xây dựng một số liệu pháp nhóm từ đơn giản đến phức tạp nhằm nâng cao chất lượng của việc điều trị cai nghiện. Mỗi loại nhóm nhằm giải quyết một khía cạnh khác nhau. Có những mục tiêu nhất định mà người cai nghiện buộc phải đạt được trong quá trình điều trị cai nghiện và phải tham gia sinh hoạt:


VI. TRANG BỊ BẢN LĨNH VÀ KỸ NĂNG SỐNG:

1. TƯ DUY TÍCH CỰC:

          Khi ta làm những gì - cảm nhận những gì cũng bắt đầu từ một suy nghĩ và đều nhận sau đó mọi hệ quả của nó tác động vào bản thân và môi trườngmối quan hệ chung quanh.

          Chúng ta có 4 loại suy nghĩ chính sau đây:

  • Suy nghĩ tích cực: Suy nghĩ mang lại ích lợicho chính bản thân bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ về sự chấp nhận, hòa bình, lạc quan, khoan dung,...Suy nghĩ tích cực là thấy một chiếc ly “đầy nửa ly” thay vì “vơi nửa ly”; nghĩa là thấy cái gì mà bạn có và tập trung vào đó thay vì cảm thấy thất vọng về những cái mà bạn không có. Suy nghĩ tích cực giúp bạn hạnh phúc hơn nhiều trong cuộc sống.
  • Suy nghĩ tích cực giúp ta có hành động tốt. Hành động này tác độngvào lòng tự tintính tự trọng và ổn định cho bản thân đồng thời tác động với môi trường và mối quan hệ quanh ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ tiêu cực, ta sẽ phải trải qua những điều buồn cháncăng thẳng và chính ta sẽ là người chịu đựng.
  • Nếu ta thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng suy nghĩ tích cực ta sẽ có những niềm vui mới và nhiều thành công hơn

          Sức mạnh và hiệu quả của ý nghĩ: giúp đối tượng

  • Có trách nhiệmvề những ý nghĩ của mình.
  • Ý nghĩ có sức mạnh rất lớntạo nên cảm xúc dẫn tới hành động.
  • Sự lặp đi lặp lại thường xuyên của các ý nghĩ tích cựcsẽ tạo niềm tin và thái độ rõ ràng.
  • Các ý nghĩ giống như những hạt giốnggieo trồng trong tâm tríCàng đầu tư càng thêm nhiều sức mạnh cho ý tưởng đó.
  • Các ý nghĩ tích cực cho ta nghị lực và sức mạnh.
  • Các ý nghĩ tiêu cực khiến ta đánh mất sức mạnh, khiến ta mệt mỏi và kiệt quệ.
  • Cần mất thời gian để thay đổi các tư duy cũ. Hãy kiên nhẫn với chính mình.

2. TỰ KIỂM SOÁT LÀM CHỦ BẢN THÂN:

  • Người nghiện ma tuý vốn rối loạn tâm sinh lýnên rất dễ bị lôi cuốnkích động trước một vấn đề gì, đó là  một trong những cái cớ để họ trở lại với việc tái sử dụng ma tuý.
  • Bằng phương pháp tư duy tích cực đối tượng có thể điều chỉnh được những hành động suy nghĩ của chính mình bằng sự tự kiểm soát làm chủ bản thân.

Hai yêu cầu chủ yếu của tự kiểm soát làm chủ bản thân là:

- Tinh thần khách quan.

Bình tĩnh đánh giá sự việc và cách giải quyết.

          Tinh thần thần khách quan làm đối tượng nhìn nhận rõ hơn sự việc và con người của mình không làm sai lạc nhận thức và phán xét của mình.

          Từ những dữ kiện có được, đối tượng phải bình tĩnh đánh giá lại tình huống, sự việc một cách có tình có lý và từ đó vạch ra hướng giải quyết vấn đề.

          Để giáo dục người nghiện ma tuý, phải thực hiện việc này một cách thường xuyên  cho họ tự đánh giá và trình bày cách giải quyết và cách thực hiện.

          Động tác này được lập đi lập lại để trở thành một thói quen tốt.

          Để đạt được hai yêu cầu trên đối tượng cần phải tập các đức tính sau:

          Trách nhiệm :  Khi đã quyết định và hành động đối tượng phải dũng cảm chấp nhận những hậu quả việc làm của mình, không đổ lỗi nhưng cũng không phải khư khư giữ lấy ý kiến mình mà phải can đảm nhìn lại các mặt của vấn đề, phát huy những mặt tốt và cương quyết loại bỏ những cái sai, cái xấu để điều chỉnh lại, quyết định lại chương trình hành động.

          Tinh thần tập thể :  “Gieo là gặt”. Hợp tác sẽ tạo cho công việc dễ dàng và vui vẻ. Người nghiện ma tuý bản thân sống rất chủ quan và ích kỷ do hình thành những thói quen xấu, do đó, tinh thần tập thể sẽ tạo cho họ sự thoải máinhận thức được chân giá trị của cộng đồng, trách nhiệm vai trò của cá nhân trong tập thể.

          Tự kiểm soát làm chủ bản thân là một sự tập luyện lâu dài, đối tượng phải được từng bước làm quen và tiến hành thực hiện bằng những tình huống do nhà quản lý đặt ra hoặc những công việc, vụ việc cụ thể trong đời sống cộng đồng .

          Đối tượng phải được sự đóng góp, sự giúp đỡ của nhà quản lý , của tập thể thông qua tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hoặc trong giao ban buổi sáng tại các trung tâm cai nghiện.

          Khi đối tượng đạt được các đức tính trên họ có thể hi vọng đối phó với những nghịch cảnh, những tình huống không thuận lợi.


3. NHẬN THỨC VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG:

          CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG là một chương trình của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới – chương trình này được sự hỗ trợ của UNESCO – Nhóm giáo dục của UNICEF và nhiều tổ chức khác. Nội dung chương trình nhằm giáo dục các giá trị về cá nhân – xã hội bao gồm các đức tính: Hợp tác – Tự do - Hạnh phúc – Trung thực – Khiêm tốn – Tình yêu – Hòa bình – Tôn trọng – Trách nhiệm – Giản dị – Khoan dung và Đoàn kết.

3.1. Mục đích của chương trình là:


  • Giúp đỡ các cá nhân suy nghĩ những giá trị cuộc sống– các tác động thực tế trong việc thể hiện những giá trị này khi liên hệ với chính mình, với người khác, với cộng đồng.
  • Để đối tượng hiểu sâu sắc hơn về động cơ, trách nhiệmliên quan đến những suy nghĩ - hành động của bản thân.
  • Điều chỉnh cho đối tượng nhận thức những giá trịcá nhân, xã hội về đạo đức, tinh thần, lối sống – phát triển và làm sâu sắc hơn các giá trị này.
  • Các nhà quản lý, giáo dục phải thấy rõ phương pháp giáo dục  là một phương pháp trị liệuquan trọng giúp đối tượng có thể hòa nhập vào cộng đồng với sự tôn trọng – tự tin và có mục đích.

3.2. Chương trình được xây dựng trên 3 luận điểm cơ bản là:

  • Dạy sự tôn trọng nhân phẩmcho mỗi người và mọi người,
  • Khả năng sáng tạovà học tập một cách tích cực khi có cơ hội.
  • Phát triểntrong một môi trường tích cực, an toàn, có sự tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau.

VII. XÂY DỰNG NIỀM TIN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG: Danh ngôn ta có câu :  “NIỀM TIN CHỞ ĐƯỢC NÚI ”. Xây dựng được niềm tin trong môi trường cộng đồng trị liệu là một trong những yếu tố quan trọng nhằm điều trị và phục hồi cho đối tượng cai nghiện.


1. NIỀM TIN VÀO SỰ TỒN TẠI CỦA LÒNG TỐT:

          Khi chúng ta dẫn dắt đối tượng của cộng đồng quay trở về quá khứ, chính chúng ta đã giúp đối tượng đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà đối tượng dấu diếm trong lòng để tìm cách học hỏi từ những vấp váp mà đối tượng đã từng gặp phải. Mặc dù gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì đối tượng cũng không nên đeo đẵng mãi những suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà đối tượng đã làm trong quá khứ mà cần thái độ trung thực để sữa chữa những sai lầm của quá khứNgười nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thật sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như đối tượng cố gắng nổ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà trị liệu cộng đồng tin tưởng.


2. NIỀM TIN VÀO KHẢ NĂNG HỒI CẢI VÀ PHỤC THIỆN CỦA CON NGƯỜI:

          Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng “người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện”. Môi trường trị liệu cộng đồng đã bác bỏ điều này vì qua thực tiễn, nhiều người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma tuý và nay đang sống một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang  tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định.


3. NIỀM TIN VÀO VIỆC GIÚP NGƯỜI KHÁC CŨNG LÀ GIÚP CHÍNH BẢN THÂN MÌNH:

          Một trong những phẩm chất quý báu mà đối tượng sau khi điều trị ở môi trường cộng đồng trị liệu có được là việc luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm “cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lối sống lành mạnh thì đối tượng phải biết chia sẽ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thật sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả  được hết ý nghĩa của khái niệm “cho” trong môi trường trị liệu cộng đồng : “Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi vấn đề trừ khi bạn chia sẽ với người khác”.


4. NIỀM TIN VÀO PHẨM GIÁ CỦA CON NGƯỜI:

          Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con ngườiKhi người nghiện có niềm tự  hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.

          Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một người tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy tắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về - phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma tuý và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.


 VIII. XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:

          Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong môi trường trị liệu cộng đồng hầu như người ta cũng dễ nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Nhằm tránh việc nhầm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là : “bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người”. Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loại hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.

          Chương trình trị liệu cộng đồng không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần mà còn cần phải sử dụng nhiều biện pháp trị liệu khác. Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều quan trọng ở đây là sự góp phần điều trị nhằm tăng cường nhận thức cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.

          Cuộc sống trong cộng đồng là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma tuý để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về “mục đích và kết quả”. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị.

          Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong cộng đồng, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma tuý Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Đối tượng tỏ ra có triển vọng, có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta đã có cuộc sống đời thăng trầm chìm nổi nhưng đối tượng đã biết chấp nhận sự thật, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết. Đối tượng hiểu rằng cuộc chiến chống lại sự cám dỗ của ma tuý vẫn chưa chấm dứt và vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài. Một người nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma tuý mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy.

          Để duy trì được những gì mà được học, đối tượng phải biết cách chia xẽ những quan điểm – hành vi đúng đắn cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời đối tượng. Vai trò của đối tượng trong cộng đồng bây giờ là dạy lại những điều mình được học. Chỉ có như vậy đối tượng mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong môi trường cộng đồng trị liệu.


KẾT LUẬN

          Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khó chữa, có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng. Do những tổn thương về hệ thống não bộ tạo nên những rối loạn về hành vi - nhân cách của người bệnh - suy giảm khả năng xét đoán - xử lý thông tin - mất khả năng tự chủ - hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Người nghiện ma túy là một người đa nhân cách.

          Việc sử dụng thuốc chỉ có một tác dụng giới hạn mà cần những biện pháp điều trị không dùng thuốc: Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc cai nghiện của đối tượng mà phải giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan đến hành vi - nhân cách, hoàn cảnh cá nhân, gia đình xã hội và động cơ đã ảnh hưởng đến việc nghiện ma túy của từng đối tượng.

          Từ những lý do trên các phương pháp và các mục tiêu trị liệu cho người nghiện trong một môi trường cộng đồng trị liệu là phải thật chi tiết kịp thời. Khác với những phương thức điều trị cổ điển, quy ước chỉ gồm thầy thuốc và bệnh nhântrị liệu cộng đồng đã huy động được toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân - tập thể người bệnh cũng như toàn bộ nhân viên Trung Tâm tập trung vào mục đích điều trị cho mỗi bệnh nhân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Với thời gian điều trị dài và những biện pháp đúng đắn nhằm gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi - nhân cáchgiải quyết các chấn thương tâm l‎ý, tạo cho người cai nghiện những nhận thức đúng đắnhình thành những thói quennếp sống tốt để khi trở về với xã hội họ được trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống với lòng tự tin và sự tự trọng. Họ sẽ từng bước tiến lên trong cuộc sống với sự hỗ trợ của toàn xã hội.

GIAI ĐOẠN CẮT CƠN – GIẢI ĐỘC – NÂNG CAO SỨC KHỎE

GIAI ĐOẠN CẮT CƠN – GIẢI ĐỘC – NÂNG CAO SỨC KHỎE

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


I. ĐIỀU TRỊ NGỘ ĐỘC CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (CDTP):

Nguyên nhân ngộ độc các chất dạng thuốc phiện: là do người nghiện sử dụng các chất dạng thuốc phiện (CDTP) quá liều. Mức độ dung nạp lượng ma túy mỗi người nghiện khác nhau, tăng dần theo thời gian sử dụng (trường hợp đối tượng sau điều trị cắt cơn vẫn sử dụng liều lượng cũ, không giảm cũng sẽ bị ngộ độc). Ngộ độc CDTP thường gặp trong điều trị cấp cứu liên quan đến sử dụng ma túy. Sự thành công của điều trị ngộ độc CDTP đòi hỏi đánh giá trên 03 mặt:

  • Mức độ nhận thức (Bệnh nhân hồi tỉnh sớm hay muộn).

  • Khai thông đường thở.

  • Sử dụng một antidote hợp lý.

Tác dụng của ma túy nhóm OMH rất nhanh, khoảng 30 giây theo đường tĩnh mạch và  01 giờ theo đường uống. Phải sử dụng xét nghiệm cận lâm sàng kết hợp vớichẩn đoán lâm sàng trongngộ độc ma túy nhóm Opiates. Điều trị ngộ độc nhóm CDTP đòi hỏi đội ngũ cán bộ chuyên môn nhạy bén, giải quyết kịp thời.


1. CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (CDTP):

1.1 Hiện đang sử dụng nhóm Opiates. Bệnh sử có sử dụng ma túy nhóm Opiates.

1.2 Phương diện lâm sàng có những triệu chứng thay đổi hành vi hoặc thay đổi các yếu tố tâm thần.

(Vd: Hưng cảm tiên phát sau đó có trạng thái vô cảm, rối loạn cảm xúc, tâm thần tự động hoặc sa sút, giảm sút sự phán đoán hoặc tổn hại chức năng xã hội).

1.3 Co đồng tử (Đôi khi giãn đồng tử do triệu chứng quá liều nặng), kèm theo một hoặc hơn những dấu hiệu sau khi sử dụng ma túy nhóm Opiates:

  • Ngủ gà hoặc hôn mê

  • Nói lắp.

  • Giảm tập trung hoặc trí nhớ.

1.4 Trên lâm sàng có những đặc điểm kèm theo như: giảm hô hấp có thể dẫn đến ngưng thở, rối loạn nhịp tim chậm, giảm thân nhiệt, giảm phản xạ, nôn ói, hôn mê.

1.5 Những triệu chứng trên không do bệnh cơ thể, và loại trừ những nguyên nhân ngộ độc khác.


2. NGUYÊN TẮC XỬ LÝ NGỘ ĐỘC CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN cần thiết trong một cơ sở được trang bị đầy đủ cho cấp cứu nội khoa.

Điều trị khởi đầu: Đánh giá đầu tiên là đường thở, phải xử lý trợ giúp kịp thời bằng mọi phương tiện như dụng cụ bóp bóng, Oxy nguồn, hoặc thông đường thở. Bệnh nhân có thể rơi vào tình trạng nặng của phù phổi cấp. Các thuốc được sử dụng như: Glucoza ưu trương, chất đối kháng Opium như naloxone.


Sau khi điều trị cấp cứu cần theo dõi tiếp tục để điều trị nâng đỡ, chú ý đến tình trạng tụt huyết áp, rối loạn thân nhiệt. Nếu sau khi điều trị bằng Naloxon với tổng liều 10mg bệnh nhân vẫn chưa hồi tỉnh nên hướng tới một chẩn đoán của một loại ngộ độc khác tương tự như ngộ độc thuốc phiện.


3. XỬ TRÍ NGỘ ĐỘC NHÓM CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (CDTP):

Trước hết phải để người bệnh nằm ở phòng thoáng mát để tiến hành cấp cứu (tốt nhất là chuyển đến khoa hồi sức cấp cứu càng sớm càng tốt)

3.1 NẾU NGUỜI BỆNH CÓ BIỂU HIỆN NGẠT THỞ:

Tiến hành thổi ngạt, nếu không kết quả thì tiến hành bóp bóng AMBU, nếu người bệnh có biểu hiện nặng hơn (ngừng thở hoặc tím tái nhiều) thì cho thở máy.


3.2 TIÊM NALOXONE (THUỐC GIẢI ĐỘC ĐẶC HIỆU):

  • Tiêm tĩnh mạch chậm Naloxone: ống 0,4mg x 01 ống/lần tiêm; có thẻ tiêm tiếp lần thứ 2 sau 05 phút.

  • Có thể truyền tĩnh mạch Naloxone bằng cách hòa 2mg Naloxone (5 ống) trong 500ml Natri clorua (NaCl) 0.9%, tốc độ truyền thay đổi tùy theo đáp ứng lâm sàng.

  • Có thể dùng Naloxone tiêm dưới da hoặc tiêm bắp với tổng liều có thể tới 10mg.


3.3 KẾT HỢP GIẢI ĐỘC BẰNG TRUYỀN CÁC DUNG DỊCH MẶN, NGỌT ĐẲNG TRƯƠNG


3.4 THEO DÕI LÂM SÀNG:

a) Quan sát sự đáp ứng của người bệnh khi tiêm hoặc truyền Naloxone

  • Nếu đồng tử giãn ra, thở lại, tỉnh ra, đỡ dần tím tái,…tức là tình trạng tốt dần lên.

  • Nếu kích thước đồng tử co dưới 2mm là triệu chứng còn ngộ độc Opiats.

  • Nếu đồng tử giãn trên 3mm có kèm theo trụy tim mạch, tím tái, tức là biểu hiện của quá liều Naloxone.

b) Tiếp tục theo dõi người bệnh 4 giờ sau khi dùng liều Naloxone cuối cùng.


II. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (CDTP) – (ĐIỀU TRỊ CẮT CƠN)

Điều trị cắt cơn nghiện chất dạng thuốc phiện chủ yếu nhằm giúp cho người nghiện vượt qua hội chứng cai mà không bị đau đớn, vật vã, nhất là trong trường hợp nghiện nặng. Cắt cơn nghiện không phải là cai nghiện ma túy mà đó chỉ là bước đầu của điều trị, còn vấn đề chính của điều trị là phục hồi hệ thống não bộ, chuyển đổi nhận thức – hành vi – nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, các mâu thuẫn và rối loạn nội tâm của đối tượng. Các liệu pháp này cần một thời gian điều trị lâu dài bằng cách kết hợp giữa điều trị thuốc với các liệu pháp tâm lý – giáo dục – xã hội. Trong đó điều trị bằng thuốc chỉ là liệu pháp hổ trợ.


1. PHƯƠNG PHÁP CAI KHÔ:

Cai khô còn gọi là cai chay được áp dụng tại Mỹ năm 1938, bằng cách cô lập bệnh nhân, không cho tiếp xúc với môi trường bên ngoài, ngừng hoàn toàn việc sử dụng các chất ma túy làm cho người nghiện lên cơn vật vã. Cơn nghiện sẽ giảm dần sau 7 – 10 ngày. Phương pháp này hiện nay được một số nước Châu Á như Indonesia, Malaysia, Brunei sử dụng.


2. PHƯƠNG PHÁP CAI DẦN:

Bằng cách giảm liều lượng ma túy mỗi ngày trong thời gian từ 15 – 30 ngày, đồng thời tăng cường thuốc bổ và thuốc an thần. Phương pháp này có ưu điểm là người nghiện thích nghi dần, cơn nghiện giảm từ từ, không vật vã như phương pháp cai khô, nhược điểm là đòi hỏi phải dùng chất ma túy, thời gian cắt cơn kéo dài.


3. CẮT CƠN CỰC NHANH:

 Có thể điều trị hội chứng cai phương pháp cực nhanh bằng cách sử dụng đồng thời:

  • Gây mê ngắn(2-3 giờ), đồng thời tiêm naloxone để thúc đẩy hội chứng cai ngay lập tức.

  • Kết hợp với tiêm Catapressan để điều trị các triệu chứng của hội chứng cai.

  • Sau đó điều trị tiếp hội chứng cai nhẹ còn lại, theo phác đồ dùng Catapressan. Người bệnh có thể ra viện sau điều trị tại bệnh viện 01 ngày.


4. LIỆU PHÁP TÂM LÝ:

Liệu pháp tâm lý có thể giảm nhẹ các triệu chứng của hội chứng cai (chỉ áp dụng với người nghiện nhẹ, trung bình). Thậm chí không điều trị gì sau 5 – 10 ngày hội chứng cai cũng thuyên giảm do cơ thể tự điều chỉnh cân bằng trở lại. Việc điều trị chỉ là hỗ trợ giảm khó chịucho người bệnh, giúp họ vượt qua hội chứng cai.


5. PHƯƠNG PHÁP THỤY MIÊN:

Cho bệnh nhân giấc ngủ nhân tạo từ 3–7 ngày, nuôi dưỡng bệnh nhân bằng truyền dịch, săn sóc đặc biệt. Phương pháp này có tác dụng làm người cai nghiện bớt cơn vật vã. Thường kết hợp chlorpromazinevới diazepam, phenobarbital. Phương pháp này có ưu điểmlàm giảm bớt cơn vật vã, bệnh nhân không đau đớn, nhưng nhược điểm là nếu nội tạng có bệnh lýsẽ gặp khó khăntrong chẩn đoán và điều trị, ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh. Thời gian cai nghiện từ 7 – 10 ngày.


6. PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT THÙY TRÁN:

Phẫu thuật nhằm phá hủy một số điểm ở thùy trán của não liên quan đến sư thèm muốn ma túy, làm cho người nghiện không còn thèm muốn chất ma túy nữa. Phương pháp này có nhược điểm là sau khi phẫu thuật, bệnh nhân trở nên không bình thường, không phân biệt được phải, trái của hành động. Viện Hàn lâm Y học Nga đã công bố thành tựu nghiện cứu này do GS.Natalia Bectereva thực hiện. Trong số 34 người nghiện đã phẫu thuật, có 27 người không trở lại với ma túy (đạt tỷ lệ 80%).


7. CẮT CƠN BẰNG THUỐC CATAPRESSAN (CLONIDINE):

(1) Cơ chế:

  • Catapressan là loại thuốc hạ huyết áp, α blocker có tác dụng ức chế dẫn truyền noradrenaline.

  • Catapressan khi vào cơ thể tác dụng vào thụ thể α 2, tăng ức chế dẫn tới nồng độ noradrenaline giảm xuống, do đó, dẫn đến hội chứng cai nhẹ.


(2) Liều lượng và cách sử dụng:

  • Catapressan 0.15 mg x ½ viên một lần, cứ 3 giờ một lần (liều hàng ngày từ 2-4 viên).

  • Chỉ điều trị khi huyết áp tối đa > 90mHg và mạch > 60l/ phút.

  • Còn kết hợp điều trị thuốc chống đau nhức Panacetamol và an dịu, chống lo âu Diazepam.


8. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG CHẤT THAY THẾ :(METHADONE)

Thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone, sau đó giảm liều dần (kéo dài khoảng 20 ngày đến 2 tháng) rồi cắt thuốc methadone khi liều còn rất thấp (hội chứng cai nhẹ hơn). Hiện nay phương pháp này ít được áp dụng mà chủ yếu sử dụng methadone vào điều trị thay thế lâu dài.


9. PHƯƠNG PHÁP DÙNG THUỐC ĐỐI KHÁNG:

Phương pháp dùng thuốc đối kháng Naltrexone kết hợp với Clonidine, đã được áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới. Phương pháp này có ưu điểm là làm cho bệnh nhân sớm bỏ thèm nhớ chất ma túy những có nhược điểm là vật vã, bức rức, khó chịu, có thể gây ngộ độc khi bệnh nhân vẫn sử dụng chất ma túy.


10. THUỐC ĐÔNG Y:

Thuốc Đông y có nguồn gốc từ thảo dược, nên an toàn, không độc, có hiệu lực trong hổ trợ cắt cơn nghiện ma túy, thuốc có khả năng bình ổn các triệu chứng của hội chứng cai. Nhược điểm của các thuốc Đông y là chưa thực hiện được nghiên cứu mù kép và cơ chế tác dụng của thuốc. Hai thuốc Đông y hiện đã được Bộ Y tế cho phép lưu hành trong các Trung tâm cai nghiện là Cedemex và thuốc Bông sen.


11. PHƯƠNG PHÁP CHÂM CỨU, ĐIỆN CHÂM:

Theo phác đồ của Bộ Y tế. Châm cứu có ưu điểm cắt cơn nhanh, ít tốn kém, dễ thực hiện tại tuyến cơ sở.


12. HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC AN THẦN KINH:

 Phác đồ này được Bộ Y tế Việt Nam ban hành từ năm 1995 và đang được áp dụng điều trị tại nhiều Trung tâm cai nghiện tại Việt Nam.

Tiêu chuẩn điều trị:

  • Đặt trong một cơ sở khép kín, tránh được mọi can thiệp và xâm phạm từ bên ngoài. Có trang bị đủ thuốc và phương tiện để khám chữa bệnh và cấp cứu.

  • Có y, bác sĩ được tập huấn về lý thuyết và thực hành để điều trị và xử trí những trường hợp cấp cứu thường gặp, có sự chỉ đạo của bác sĩ chuyên khoa tâm thần phụ trách về điều trị nghiện ma túy.

  • Bảo đảm các điều kiện ăn, ở, vệ sinh thuận lợi cho bệnh nhân (thời gian cắt cơn trung bình là 10 ngày).

  • Cơ sở Y tế có khả năng tự làm hoặc liên hệ với các cơ quan khác làm các xét nghiệm cần thiết (morphine trong nước tiểu, HIV,…).


Tiêu chuẩn bệnh nhân:

Bệnh nhân phải có đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán trạng thái nghiện và hội chứng cai

Trạng thái nghiện (theo bảng phân loại bệnh quốc tế 10): có ít nhất 3 trong 6 hiện tượng sau đây:

  • Thèm muốn mãnh liệt chất ma túy (CMT)

  • Sau khi ngưng dùng CMT từ 6 -8 giờ sẽ xuất hiện hội chứng cai, buộc phải dùng CMT trở lại.

  • Khó khăntrong việc kiểm tra tập tính sử dụng CMT

  • Có hiện tượng dung nạp CMT (liều dùng ngày càng tăng).

  • Sao nhãng các thích thú cũ.

  • Biết rõ tác hạicủa CMT nhưng vẫn tiếp tục dùng.


Hội chứng cai: có ít nhất 4 trong 12 triệu chứng sau đây:

  • Thèm CMT

  • Buồn nôn hay nôn

  • Đau các cơ

  • Chảy nước mắt nước mũi

  • Nổi da gà

  • Toát mồ hôi

  • Đi rửa

  • Dãn đồng tử

  • Ngáp

  • Ngây ngấy sốt

  • Mất ngủ

  • Cảm giác dòi bò trong xương.


Quy trình sử dụng thuốc hướng thần:

a. Thuốc giải lo âu: dẫn xuất benzodiazepine như diazepam (seduxen, valium):

Trạng thái lo âu (nôn nao, bồn chồn) là trạng thái tâm thần cơ bản, thường xuyên có và tăng cường các triệu chứng thần kinh thực vật của hội chứng cai. Những người cai nhiều lần, do nhớ lại những cảm nhận đau khổ trong những lần trước càng lo âu nhiều hơn. Do vậy thuốc giải lo âu cần sử dụng trước tiên và liên tục nhất là trong 1-2 ngày đầu. Không cho diazepam, nếu có các chống chỉ định sau: dị ứng với diazepam, suy hô hấp mất bù, nhược cơ.


Cách cho thuốc diazepam (seduxen, valium), viên nén 5mg

  • Hai ngày đầu: uống 4 viên mỗi lần; cách 4 giờ lại cho uống 1 lần, cho đến khi hết bồn chồn và ngủ yên.

  • Sau khi tỉnh giấc nếu vẫn còn lo âu thì tiếp tục cho thuốc như trên

  • Ngày thứ 3, 4 bắt đầu giảm liều: 2 viên/lần, cách từ 6-8 giờ cho thêm 1 lần.

  • Ngày thứ 5 cắt hẳn thuốc để tránh khả năng gây nghiện diazepam.


b. Thuốc an thần kinh: levomepromazin (tisercin, nozinan):

Đa số các biểu hiện của hội chứng cai và các rối loạn thần kinh thực vật có thể thanh toán bằng diazepam.


Nếu có một triệu chứng nặng hơn(ví dụ: vật vã, kích động) hay phức tạp (ví dụ: cảm giác dòi bò trong xương) thì mới sử dụng levomepromazin, một loại an thần kinh, an dịu mạnh. Không dùng levomepromazin nếu có các chống chỉ định sau: dị ứng với levomepromazin, glaucoma góc đóng, bí tiểu tiệdo u tuyến tiền liệt, có tiền sử mất bạch cầu nhiễm độc.


Liều lượng: phụ thuộc vào trạng thái tiếp thu của cơ thể và mức độ nghiện của từng bệnh nhân. Sau đây là các phương thức sử dụng trung bình:

Cách cho thuốc: levomepromazin viên nén 25mg

  • Lần đầu cho uống 2 viên

  • Lần 2: sau một giờ nếu chưa an dịu và huyết áp tối đa bằng hay cao hơn 100 mmHg thì cho uống thêm 4 viên.

  • Lần 3: sau một giờ vẫn chưa an dịu và huyết áp như trên thì cho uống thêm 4 viên

  • Lần 4 và những lần sau: đợi sau 2 giờ nếu chưa an dịu và huyết áp như trên thì cho uống thêm 2 viên.


Kết quả nghiên cứu vủa Viện Sức khỏe tâm thần cho thấy: sau từ 2-6 giờ (từ 4-16 viên, trung bình 10 viên) thì bệnh nhân an dịu và ngủ ngon (có thể ngủ đến 16 hay 20 giờ liền). Không cần thêm nếu bệnh nhân ngủ dậy không còn vật vã, kích động. Trong khi dùng levomepromazin cần bố trí người săn sóc và theo dõi liên tục để bệnh nhân khỏi ngã khi đứng dậy hay di chuyển. Đặc biệt cần theo dõi huyết áp thường xuyên, nhất là trước khi cho uống thêm levomepromazin. Nếu huyết áp hạ cần cho phối hợp thêm thuốc nâng huyết áp.


c. Thuốc nâng huyết áp: heptaminol (Hept – A – Myl):

Chỉ sử dụng khi huyết áp tối đa dưới 100mmHg. Thường gặp sau khi dùng levomepromazin liều cao hay ở những bệnh nhân tiêm chích sái thuốc phiện.

Heptaminol viên nén 0.2g; uống từ 2-3 lần trong 24 giờ.

  • Có thể dùng từ 2-3 ngày sau khi phát hiện hạ huyết áp và thôi dùng khi huyết áp trở lại bình thường.

  • Nếu huyết áp tụt nhiều cần xử trí cấp cứu và dùng thuốc tiêm hay thuốc viên.

Heptaminol ống 5ml (0.3g) mỗi lần 1-2 ống; 2-3 lần trong 24 giờ. Tiêm bắp hay tĩnh mạch chậm hoặc truyền tĩnh mạch trong dung dịch natriclorid 0.9% hoặc dung dịch glucoza 5% 500ml.


d. Paracetamol:

  • Nếu bệnh nhân đau nhức cơ bắp nhiều có thể dùng thêm thuốc giảm đau.

  • Paracetamol viên nén 0.5g.

  • Uống mỗi lần 2 viên; uống từ 2-3 lần trong 24 giờ.

  • Có thể dùng trong 3 ngày đầu.


e. Thuốc chống co thắt: phloroglucinol (spasfon):

Nếu bệnh nhân có triệu chứng đau quặn cơ bụng do co thắt các nội tạng, đường tiêu hóa cần dùng thêm thuốc chống co thắt. Spasfon viên nén 80mg, uống mỗi lần 2 viên; uống từ 2-3 lần trong 24 giờ. Có thể dùng từ 1-3 ngày

Nếu không có spasfon, có thể dùng Alverine (spasmaverine) viên nén 40mg; uống mỗi lần 1-2 viên; ngày uống 3-4 lần


g. Thuốc chống tiêu chảy và mất nước:

Tiêu chảy và nôn trong hội chứng cai thường do tăng nhu động ruột, dùng spasfon với liều lượng ở trên cũng có thể chữa khỏi. Nếu tiêu chảy kéo dài kèm thêm vã mồ hôi, nôn, gây trạng thái mất nước, cần cho uống thêm dung dịch oresol (dung dịch uống glocosa - điện giải). Một gói (theo công thức của Tổ chức y tế thế giới) hòa với một lít nước đun sôi để nguội. Cho uống từ 3-4 lít nước trong 24 giờ chia làm nhiều lần.


h. Thuốc gây ngủ: Alimemazin (théralène):

Hầu hết các trường hợp dùng diazepam và levomepromazin với liều lượng kể trên đã làm cho bệnh nhân yên tĩnh, ngủ ngon và ngủ lâu. Sau khi cắt diazepam và levomepromazin nếu vẫn còn mất ngủ thì dùng alimemazin một loại thuốc ngủ không gây nghiện, có thể dùng lâu dài. Alimemazin viên nén 5mg; uống 2-4 viên trước giờ ngủ; có thể cho uống thêm từ 2-4 viên nếu bệnh nhân chưa ngủ được. Dùng thuốc đến khi giấc ngủ trở lại bình thường thì giảm liều rồi cắt hẳn.


i. Điều trị hoàn thiện: Để thực hiện phương châm điều trị toàn diện cần:

Đặc biệt chú trọng đến chế độ dinh dưỡng nhất là trong những ngày đầu (ăn mềm, có chất đạm và sinh tố). Nếu cơ thể suy sụp cần tiếp nước và điện giải, cho thêm vitamin C và vitamin nhóm B uống.

Đối với bất cứ loại bệnh nào trong khi điều trị vẫn có thể có các trường hợp cấp cứu xảy ra. Do vậy, đơn vị điều trị phải được trang bị thuốc cấp cứu, các phương tiện và phác đồ cấp cứu. Y bác sĩ phải biết sử dụng phác đồ cấp cứu và các phương pháp nội - ngoại khoa cấp cứu thường gặp.


III. KẾT LUẬN:

Để cai nghiện ma túy có hiệu quả, chúng ta phải hiểu rằng cắt cơn nghiện không khó. Cắt cơn nghiện chỉ là bước chuẩn bị cho một quá trình điều trị lâu dài thông qua các biện pháp điều trị kết hợp giữa thuốc và liệu pháp không dùng thuốc. Trong đó, liệu pháp không dùng thuốc là quan trọng, liệu pháp này bao gồm:

  • Tư vấn

  • Liệu pháp tâm lý

  • Liệu pháp giáo dục

  • Liệu pháp xã hội

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OPIATES OPIUM ….

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM

CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (CDTP)

OPIUM –  MORPHINE – HÉROINE (OMH)


(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)



Điều trị nghiện ma túy là một quá trình can thiệp lâu dài gồm nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn có đặc thù riêng, nhưng cũng có một số nguyên tắc chung phải giải quyết. Quy trình cai nghiện được chia làm 04 giai đoạn:
  • 1. Giai đoạn cắt cơn – giải độc – nâng cao sức khỏe.

  • 2. Giai đoạn giáo dục tâm lý – xã hộiđiều chỉnh, phục hồi nhận thức – hành vi – nhân cáchGiải tỏa ấm ức, chấn thương tâm lý, mâu thuẫn và phức tạp nôi tâm của đối tượng.

  • 3. Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu - Chống tái nghiện (nội trú)

  • 4. Chống tái nghiện (ngoại trú) tái hòa nhập cộng đồng.


Điều trị cắt cơn nghiện chất dạng thuốc phiện không khó. Việc sử dụng các thuốc, các phác đồ khác nhau chủ yếu nhằm hổ trợ cho người nghiện vượt qua hội chứng cai dễ dàng hơn, nhất là trong trường hợp nghiện nặng. Nhiều trường hợp chỉ dùng liệu pháp tâm lý cũng cắt được cơn nghiện, thậm chí không dùng thuốc gì cơ thể cũng tự điều chỉnh sau 7 – 10 ngày.   Vì vậy, đa số các tác giả trên thế giới không coi trọng cắt cơn nghiện, họ cho rằng cắt cơn nghiện chỉ là khởi đầu của giai đoạn điều trị, còn bản chất của điều trị là phục hồi hệ thống não bộ, chuyển đổi nhận thức – hành vi – nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn và rối loạn của nội tâm đối tượng. Các liệu pháp này cần một thời gian điều trị lâu dài tại các trung tâm cai nghiện và tại cộng đồng bằng cách kết hợp giữa điều trị các thuốc đồng vận hoặc đối vận (với các chất dạng thuốc phiện) và các liệu pháp tâm lý – giáo dục – xã hội thích hợp.