All posts by admin

PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN CẦN SA – CỎ MỸ – NHÓM MA TÚY DẠNG HOANG TƯỞNG

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM MA TÚY DẠNG HOANG TƯỞNG (CẦN SA)


Được biết đến ở Trung Á và Trung Quốc ít nhất từ 4000 năm, cây gai dầu Ấn Độ  Cannabis sativa là một loại cỏ cứng, thơm chỉ sống một năm. Chất có tác dụng sinh học chiết xuất từ cây này được mọi người biết đến với tên gọi là cần sa. Theo hầu hết các đánh giá, cần sa là một trong số những chất gây nghiện bất hợp pháp được sử dụng nhiều nhất.


Các nhà lịch sử Hy lạp (thế kỷ thứ 4 trước CN) đã miêu tả một bộ lạc dân du mục đã biết hít khói hạt cây gai dầu làm khô trong những ống ở lều và đi vào đi ra vui sướng. Cần sa có tác dụng như một loại thuốc giảm đau, chống co giật và thôi miên. Tác dụng này đã được ghi nhận từ thế kỷ 19 và đầu thế kỷ thứ 20.


Tất cả các phần của cây cần sa Cannabis sativa đều chứa chất tác động trên hệ tâm thần Cannabinoids, trong đó (-)-?9-tetrahydrocannabinol (?9-THC) có nhiều nhất. Các dạng có hiệu lực nhất của cannabis được lấy từ từ đỉnh hoa hoặc từ nhựa nguyên chất màu nâu đen lấy từ lá cây được gọi là nhựa cần sa Hashish. Cây cần sa thường được cắt, phơi khô, chẻ ra và cuốn lại thành điếu để hút. Tên thường gọi của cần sa là bồ đà, cỏ, trà.


I. DỊCH TỄ HỌC

Tần suất và khuynh hướng hiện nay.

Một khảo sát trên trẻ vị thành niên ở trường học đã nhận định rằng việc sử dụng cần sa hàng ngày, hiện tại (trong vòng 30 ngày qua), hàng năm và trong suốt cuộc đời gần đây đã tăng gấp 8 – 10 lần, tiếp tục xu hướng đã bắt đầu từ đầu những năm 1990.


Một đánh giá khác về tần suất sử dụng cần sa của một điều tra quốc gia tại gia đình trên toàn nước Mỹ về vấn đề lạm dụng chất đã ghi nhận cần sa là chất gây nghiện bất hợp pháp được sử dụng nhiều nhất. Tần suất sử dụng cần sa suốt đời gia tăng với mỗi nhóm tuổi, cho đến 34 tuổi rồi sau đó giảm dần. 18 – 21 tuổi là độ tuổi rất hay sử dụng bồ đà trong năm qua (25%) hoặc trong tháng vừa qua (14%) 50 tuổi là tuổi ít sử dụng nhất 1%.


Theo DSM-IV-TR 5% là tỉ lệ trong suốt cuộc đời bị lạm dụng hoặc lệ thuộc cần sa. Chủng tộc và sắc tộc cũng có liên quan đến việc sử dụng cần sa nhưng sự tương quan này thay đổi theo nhóm tuổi. Trong độ tuổi từ 12 – 17 tuổi người da trắng có tỉ lệ sử dụng cần sa trong năm qua và suốt đời cao hơn người da đen. Trong số những người lớn từ 17 – 34 tuổi, tần suất trong suốt cuộc đời sử dụng bồ đà của người da trắng cao hơn da đen và người Tây Ban Nha. Nhưng trong số những người 35 tuổi mức độ sử dụng của người da trắng và da đen là tương đương. Tỉ lệ trong suốt cuộc đời của người da đen cao hơn rõ rệt so với người Tây Ban Nha.


II. DƯỢC LÝ HỌC THẦN KINH

Thành phần chính của cần sa là ?9-THC. Tuy nhiên cây cần sa chứa > 400 hóa chất trong đó khoảng 60 chất có liên hệ với ?9-THC về mặt hóa học. Ở người ?9-THC nhanh chóng chuyển thành 11-Hydroxy-9THC-chất chuyển hóa có tác động trên hệ thần kinh trung ương. Một thụ thể chuyên biệt với cannabinols đã được xác định thụ thể Cannabinoids, một thành viên của gia đình các thụ thể gắn kết với protein G, gắn với protein G ức chế là một protein được gắn với adenylcyclase theo kiểu ức chế. Thụ thể Cannabis được nhận thấy với nồng độ cao nhất ở nhân đáy, hải mã và tiểu não và nồng độ thấp hơn ở vỏ não. Thụ thể này không có ở thân não, điều này phù hợp với ảnh hưởng rất ít của cần sa trên chức năng hô hấp và tim mạch.


Các nghiên cứu ở súc vật đã chứng minh ảnh hưởng của Cannabinoids trên các tế bào thần kinh monoamine & ?-aminobutyric. Theo hầu hết các nghiên cứu, súc vật không thể tự kiểm soát Cannabinoids như chúng vẫn làm đối với hầu hết các chất gây lạm dụng khác. Hơn nữa, có tranh cãi về việc có / không có Cannabinoids kích thích các trung tâm “thưởng” của não chẳng hạn các neurons dopaminergique của vùng mái bụng.


Tuy nhiên, sự dung nạp của cannabis và lệ thuộc tâm lý cũng vẫn nhận thấy mặc dù bằng chứng về lệ thuộc cơ thể không mạnh. Các triệu chứng cai ở người thì rất ít với sự tăng nhẹ tình trạng dễ bị kích thích, lăng xăng, mất ngủ, chán ăn và buồn nôn nhẹ. Tất cả những triệu chứng này chỉ xuất hiện khi một người đột ngột ngưng dùng liều cao Cannabis.


Khi hút cần sa, hiệu quả gây sảng khoái xuất hiện trong vài phút, đỉnh điểm trong khoảng 30 phút và kéo dài 2 – 4 giờ. Hiệu quả về vận động và nhận thức kéo dài 5 – 12 giờ. Cần sa cũng có thể được dùng bằng đường miệng khi được nấu chung với thức ăn. Để đạt cùng hiệu quả, khi dùng bằng đường miệng phải dùng gấp 2 – 3 lần so với đường hít.


Rất nhiều biến số ảnh hưởng đến tác dụng tâm thần của cần sa bao gồm hiệu lực của cần sa đã sử dụng, đường dùng, kỹ thuật hút, ảnh hưởng của sự nhiệt phân trên thành phần Cannabioids, liều dùng, kinh nghiệm sử dụng trong quá khứ, sự trông đợi của người dùng, tính dễ bị tổn thương về mặt sinh học của người dùng với tác động của Cannabioids.


III. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

Ảnh hưởng về mặt cơ thể thường gặp nhất của cần sa là giãn các mạch máu kết mạc mắt (đỏ mắt) và tăng nhịp tim nhẹ. Ơ liều cao tụt HA tư thế có thể xảy ra. Tăng cảm giác ăn ngon và khô miệng là tác dụng thường gặp của tình trạng ngộ độc cần sa. Sự kiện là chưa có trường hợp tử vong nào do nhiễm độc duy nhất một loại cần sa được ghi nhận rõ ràng đã phản ánh là chất này không tác động trên nhịp thở. Tác dụng ngoại ý nặng nhất của việc sử dụng cần sa là do hít đồng thời hydrocarbons sinh ung thư hiện diện trong thuốc lá thường và vài dữ liệu xác định rằng những người sử dụng nhiều cần sa có nguy cơ bị bệnh hô hấp mãn và K phổi.


Rất nhiều báo cáo chỉ ra rằng việc sử dụng cần sa kéo dài kết hợp với teo não, dễ bị co giật, tổn thương NST, khuyết tật thai nhi, suy giảm phản ứng miễn dịch, thay đổi testosterone và rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đã không được tái lập một cách thuyết phục và sự liên hệ giữa những dấu hiệu này với việc sử dụng cần sa là không chắc chắn.


DSM-IV-TR liệt kê các rối loạn liên quan đến cần sa bao gồm:


1. Phụ thuộc và lạm dụng cần sa DSM-IV bao gồm những chẩn đoán về phụ thuộc và lạm dụng cần sa. Kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rõ ràng có sự  dung nạp với nhiều hiệu quả của cần sa, tuy nhiên những dữ kiện này ít ủng hộ cho việc có sự phụ thuộc cơ thể. Sự phụ thuộc về tâm lý với việc sử dụng cần sa xảy ra ở những người sử dụng lâu dài.


2. Nhiễm độc cần sa : DSM-IV chính thức hóa các tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc cần sa. Những tiêu chuẩn này cho biết rằng chẩn đoán có thể  nhấn mạnh với cụm từ” với rối loạn tri giác”. Nếu không có đánh giá khả năng nhận thức thực tế có bị ảnh hưởng không thì chẩn đoán là rối loạn loạn thần gây ra do cần sa. Nhiễm độc cần sa thường làm cho người sử dụng tăng nhạy cảm  với  các kích thích bên ngoài, khám phá ra những chi tiết mới, màu sắc nhìn sáng hơn và phong phú hơn, chủ quan làm chậm nhận thức về thời gian. Ơ liều cao, người dùng có thể bị giải thể nhân cách và tri giác sai thực tại. Các kỹ năng vận động bị suy giảm do sử dụng cần sa,và sự suy giảm này vẫn còn sau khi các hiệu quả sảng khoái đã hết. Trong 8-12 giờ sau khi dùng cần sa, các kỹ năng vận động bị suy giảm ảnh hưởng đến sự điều khiển xe máy và vận hành máy móc nặng. Hơn nữa, hiệu quả sẽ bị cộng hưởng tăng lên khi dùng rượu là chất hay được dùng chung với cần sa.


3. Sảng do nhiễm độc cần sa: là một chẩn đoán của DSM-IV TR. Sảng có liên quan nhiễm độc bồ đà được đặc trưng bằng sự suy giảm rõ rệt về mặt nhận thức và các bài tập thực hành. Ngay cả với liều cần sa tối thiểu cũng gây suy giảm trí nhớ, thời gian phản ứng, tri giác, sự phối hợp vận động và sự chú ý. Ơ liều cao, liều làm giảm mức độ ý thức cũng có  ảnh hưởng trên các đánh giá nhận thức.


4. Rối loạn loạn thần gây ra do dùng cần sa : hiếm, ý tưởng hoang tưởng thoáng qua thường gặp hơn. Loạn thần với bệnh cảnh phong phú thì khá phổ biến ở một số quốc gia nơi  một số người có một thời gian dài tiếp cận cần sa hiệu lực cao. Các giai đoạn rối loạn loạn thần thỉnh thoảng được ám chỉ như là “sự điên cuồng của cây gai dầu.”. Khi rối loạn loạn thần do cần sa xảy ra, nó có thể liên quan với rối loạn nhân cách xảy ra trước đó ở người sử dụng.


5. Rối loạn lo âu gây ra do cần sa. Rối loạn lo âu gây ra do cần sa là một chẩn đoán thường gặp trong trường hợp nhiễm độc cần sa cấp tính, gây tình trạng lo âu ngắn ở nhiều người bởi những ý tưởng hoang tưởng. Trong những trường hợp như thế các cơn hoảng loạn có thể xảy ra dựa trên những nỗi lo sợ không rõ ràng và vô tổ chức. Sự xuất hiện triệu chứng lo âu liên quan đến liều lượng và là phản ứng phụ thường gặp nhất đối với người hút cần sa ở mức độ trung bình. Những người sử dụng chưa có kinh nghiệm rất dễ bị các triệu chứng lo âu hơn là những người đã có kinh nghiệm sử dụng.


6. Những rối loạn liên quan đến cần sa không đặc hiệu khác. DSM-IV-TR không công nhận một cách chính thức các rối loạn khí sắc gây ra do cần sa, vì thế những rối loạn này sẽ được xếp vào mục những rối loạn có liên quan đến cần sa không đặc hiệu khác. Nhiễm độc cần sa có thể kết hợp với những triệu chứng trầm cảm mặc dù những triệu chứng này có thể gợi ý là đã sử dụng cần sa lâu dài. Hưng cảm nhẹ là một triệu chứng thường gặp trong nhiễm độc cần sa.

Khi rối loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng tình dục có liên quan đến việc sử dụng cần sa, chúng hầu như luôn biến mất trong vài ngày hoặc trong một tuần lễ sau khi sử dụng cần sa. Cả hai loại này cũng được xếp vào các rối loạn liên quan cần sa không đặc hiệu khác trong DSM-IV-TR.


7. Hồi tưởng. Những bất thường về mặt tri giác tồn tại dai dẳng sau khi sử dụng cần sa không được phân loại chính thức trong DSM-IV-TR mặc dù có những báo cáo về các trường hợp đã trãi qua vào những thời điểm rõ ràng các cảm giác liên quan đến nhiễm độc cần sa sau khi ảnh hưởng ngắn hạn của chất này đã biến mất. Những tranh cãi về  việc có hay không có hồi tưởng liên quan đến vấn đề sử dụng riêng biệt cần sa hoặc liên quan đến vấn đề có sử dụng đồng thời các chất sinh ảo giác hoặc sử dụng cần sa với phencyclidine vẫn còn tiếp tục.


8. Hội chứng liên quan đến sử dụng cần sa vẫn còn tranh cãi khác. Một hội chứng khác vẫn còn tranh cãi đó là hội chứng mất động cơ. Có hay không có hội chứng liên quan đến vấn đề sử dụng cần sa hay chỉ phản ảnh những nét đặc trưng ở một người bất chấp có sử dụng cần sa hay không vẫn còn tranh cãi. Một cách kinh điển hội chứng mất động cơ này kết hợp với sử dụng nhiều và kéo dài và được đặc trưng bởi sự miễn cưỡng duy trì một công việc có thể việc học hành, công việc hoặc trong bất cứ tình huống đòi hỏi sự chú ý kéo dài. Những bệnh nhân này được mô tả như vô cảm, mất năng lượng, thường là tăng cân, lười biếng uể oải.


IV. ĐIỀU TRỊ VÀ TÁI PHỤC HỒI

Điều trị việc sử dụng cần sa có cùng các nguyên tắc như điều trị các chất gây lạm dụng khác : cai và nâng đỡ.


Cai có thể đạt được thông qua can thiệp trực tiếp hoặc thông qua việc kiểm soát cẩn thận tại nhà bằng cách sử dụng các test sàng lọc thuốc trong nước tiểu giúp phát hiện cần sa 4 tuần sau khi sử dụng.


Sự nâng đỡ có thể đạt được thông qua các liệu pháp tâm lý cá nhân, gia đình và nhóm. Giáo dục là cơ sở cho cả chương trình cai và nâng đỡ. Một bệnh nhân không nhận thức được lý do lạm dụng chất sẽ ít có  động cơ dừng lại. Đối với một số bệnh nhân việc dùng một thuốc chống lo âu có thể có ít để làm giảm các triệu chứng cai trong thời gian ngắn. Đối với một số bệnh nhân khác việc sử dụng cần sa có thể liên quan đến một rối loạn trầm cảm bên dưới và có thể đáp ứng chống trầm cảm đặc hiệu.


V. SỬ DỤNG CẦN SA  VÌ MỤC ĐÍCH Y KHOA

Cần sa được sử dụng như là một loại cỏ có đặc tính chữa bệnh trong nhiều thế kỷ và cần sa được liệt kê trong dược thư cho đến cuối thế kỷ 19 như là một loại thuốc để điều trị lo âu, trầm cảm và các rối loạn dạ dày ruột. Hiện tại cần sa là một chất được kiểm soát với hiệu lực cao gây lạm dụng và không còn sử dụng vào mục đích y khoa theo tổ chức Tuân thủ về dược, tuy nhiên cần sa vẫn được sử dụng để điều trị một số những rối loạn như buồn nôn do hóa trị liệu, bệnh bạch cầu và xơ cứng rải rác lan tỏa, đau mãn tính, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải và tăng nhãn áp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 1. Bộ môn Tâm Thần học - Tâm thần học - ĐH Y Dược TPHCM – 2005.
  • 2. Kaplan & Sadock’s – Concise textbook of clinical psychiatry – 2nd Edi – Lippincott Williams & Wilkins – 2004. BS. Lê Thị Hồng Nhung, Ths.BS.CKII. Đào Trần Thái

Các phương pháp điều trị nghiện ma túy

CHUẨN BỊ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
MÔ HÌNH TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG TẠI TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM MA TÚY DẠNG HOANG TƯỞNG (CẦN SA)
HƯỚNG DẪN ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE
METHADONE CÓ GIÚP CAI NGHIỆN?
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG: HUẤN LUYỆN TRỊ LIỆU - LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU - CHỐNG TÁI NGHIỆN (NỘI TRÚ)
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HỖ TRỢ CHỐNG TÁI NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG NALTREXONE VỚI THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN (OMH) BẰNG METHADONE
HƯỚNG DẪN HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ CHỐNG TÁI NGHIỆN MA TÚY NHÓM OPIATS BẰNG THUỐC DANAPHA-NATREX
MỤC LỤC CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY TỔNG HỢP
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM OPIATES OPIUM ....
GIAI ĐOẠN CẮT CƠN – GIẢI ĐỘC – NÂNG CAO SỨC KHỎE
CÔNG TÁC QUẢN LÝ - ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC TRONG MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU
PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC - HÀNH VI TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY

Bài 1: Những nguyên tắc cơ bản trong cai nghiện - phục hồi cho người nghiện ma túy

Bài 2: Các phương pháp điều trị nghiện ma túy tổng hợp

Bài 3: Các phương pháp điều trị nghiện nhóm  OPIATES OPIUM – MORPHINE – HÉROINE (OMH) - Các chất dạng thuốc phiện (CDTP)

Bài 3.1: Gian đoạn cắt cơn - giải độc - nâng cao sức khỏe

Bài 3.2: Giai đoạn điều trị nội trú tập trung: Môi trường trị liệu - Cộng đồng trị liệu (theo phương pháp Daytop Quốc tế)

Bài 3.3:  Phòng chống tái nghiện - Tái hòa nhập cộng đồng

CÁC TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NGHIỆN MA TÚY

CÁC TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NGHIỆN MA TÚY


I. CÁC DẤU HIỆU SỚM CỦA NGHIỆN MA TÚY:

Giúp phát hiện sớm và cần phải quan tâm "săn sóc đặc biệt".
 

1. Dấu hiệu chung

  • Xa lánh, từ chối tiếp xúc với nhiều người.
  • Không quan tâm đến ăn mặc, ngoại hình.
  • Thay đổi bạn.
  • Nhiều biến đổi cảm xúc (lo âu, trầm cảm, hung bạo...)
  • Mất hứng thú với các hoạt động giải trí, thể thao v.v...
  • Thay đổi tính cách.
  • Cười bất thường.
  • Hành vi nói dối.
  • Nhiều vết bẩn trên người và quần áo bốc mùi khó chịu...

2. Ở trường

  • Giảm tham gia các hoạt động ở trường.
  • Bỏ học.
  • Ăn cắp ở trường.
  • Thay đổi thái độ sai khi nghỉ giải lao hoặc sau khi vào nhà vệ sinh ra.

3. Ở nhà:

  • Ăn kém.
  • Không tôn trọng giờ giấc, thường về nhà muộn.
  • Thường vắng nhà.
  • Thay đổi thái độ ứng xử với người thân.
 

II. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NGHIỆN MA TÚY (THEO DSM IV):



A. Các dấu hiệu:

Một các sử dụng ma túy không thích hợp gây ra trạng thái suy yếu hay đau khổ có ý nghĩa về mặt lâm sàng, biểu hiện bằng 3 (hay nhiều hơn) các dấu hiệu dưới đây xảy ra trong vòng 12 tháng.



1. Trạng thái dung nạp
:
biểu hiện bằng 1 trong 2 dấu hiệu sau đây:

a. Cần tăng liều rõ rệt để dặt được sự nhiễm độc hoặc hiệu quả mong muốn.

b. Hiệu quả giảm rõ rệt với việc sử dụng cùng liều như trước.



2. Hội chứng cai:
 biểu hiện bằng 1 trong 2 dấu hiệu sau đây

a. Ngừng sử dụng hoặc giảm mạnh liều sẽ xuất hiện hội chứng cai.

b. Dùng lại chất và liều đã dùng dể tránh hội chứng cai.



3. Các chất thường được dùng với liều lớn hoặc quá lớn trong một thời gian dài hơn dự định.



4. Mong muốn dai dẳng hoặc cố gắng không thành
 trong việc ngừng hoặc kiểm soát việc sử dụng chất gây nghiện.



5. Dành phần lớn thời gian để tìm kiếm chất gây nghiện.



6. Mọi hoạt động xã hội, nghề nghiệp hay giải trí quan trọng
 bị từ bỏ hoặc giảm sút do sử dụng ma túy.



7. Vẫn tiếp tục sử dụng chất gây nghiện bất chấp biết được hậu quả
 gây ra dai dẳng hay tái diễn ra cho cơ thể và tâm thần của chất gây nghiện (ví dụ: vẫn tiếp tục uống rượu bất chấp việc biết được nó sẽ gây ra loét dạ dày).

Chất gây phụ thuốc cơ thể có điểm 1 và 2.

Chất không gây phụ thuộc cơ thể không có điểm 1 và 2.



B. Sáu đặc trưng tiến triển của nghiện ma túy:



1. Thuyên giảm nhanh, hoàn toàn

Trong thời gian từ 1 đến 12 tháng không có bất cứ tiêu chuẩn nào về nghiện ma túy hoặc lạm dụng ma túy.



2. Thuyên giảm nhanh, một phần

Trong thời gian từ 1 đến 12 tháng ít nhất có 1 tiêu chuẩn nghiện hoặc lạm dụng ma túy.



3. Thuyên giảm chậm, hoàn toàn

Vào bất cứ thời điểm nào trong ít nhất 12 tháng không có bất cứ tiêu chuẩn nào về nghiện ma túy hoặc lạm dụng ma túy.



4. Thuyên giảm chậm, một phần

Vào bất cứ thời điểm nào trong ít nhất 12 tháng không có đầy đủ các tiêu chuẩn về nghiện ma túy tuy nhiên có ít nhất một tiêu chuẩn nghiện hoặc lạm dụng ma túy.

Các đặc trưng sau đây giải thích nếu đối tượng đang được điều trị đồng vận hoặc trong môi trường bảo vệ đặc biệt.



5. Đang được điều trị bằng thuốc đồng vận

Đặc trưng này được sử dụng nếu đối tượng đang được điều trị bằng thuốc đồng vận và không có bất cứ tiêu chuản nào về nghiện hoặc lạm dụng ma túy ít nhất trong tháng vừa qua. Mục này cũng bao gồm các đối tượng đang được điều trị nghiện bằng thuốc đồng vận một phần hoặc đối vận.



6. Đang ở trong môi trường bảo vệ đặc biệt

Đặc trưng này được sử dụng nếu đối tượng ở trong môi trường không có chất gây nghiện (như ở trong tù, trung tâm cai nghiện...) và không có bất cứ tiêu chuẩn nào về nghiện hoặc lạm dụng chất ít nhất trong tháng vừa qua.


 

III. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN LẠM DỤNG MA TÚY (THEO DSM IV):



A. Một cách lạm dụng ma túy về mặt lâm sàng được biểu hiện ít nhất một trong các dấu hiệu dưới đây.



1.
 Sử dụng tái diễn chất gây nghiện đưa đến thất bại trong việc thực hiện các vai trò quan trọng trong các nhiệm vụ ở công sở, ở trường hoặc ở nhà (Ví du: thường vắng nhà hoặc hiệu suất công việc giảm do sử dụng ma túy, bị đình chỉ hoặc đuổi khỏi trường học, không quan tâm đến con cái, nhà cửa).



2.
 Sử dụng tái diễn chất gây nghiện trong những tình huống nguy hiểm cho cở thể (Ví dụ: lái xe hoặc vận hành máy trong tình trạng không tỉnh táo do sử dụng ma túy gây ra).



3.
 Có các vấn đề với pháp luật do liên quan tới sử dụng tái diễn ma túy (Ví dụ: bị bắt giữ vì rối loạn hành vi do sử dụng ma túy).



4.
 Tiếp tục sử dụng ma túy mặc dù còn tồn tại dai dẳng hay tái diễn các vấn đề xã hội hay giao tiếp do sử dụng ma túy (Ví dụ: cãi cọ với vợ về những hậu quả của nhiễm độc, của ẩu đả).



B. Các triệu chứng trên không bao giờ đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma túy.



IV. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN NHIỄM ĐỘC MA TÚY (THEO DSM IV):



1. Xuất hiện một hội chứng đặc trưng cho một chất
 có thể phục hồi do mới sử dụng (hoặc tiếp xúc) chất đó.

Các chất khác nhau có thể gây ra các hội chứng tương tự hoặc đặc trưng riêng.



2. Thay đổi hành vi hoặc tâm lý
 không thích hợp, do tác dụng của chất đó trên hệ thần kinh trung ương (VD: hung hăng, khí sắc không ổn định, rối loạn nhận thức, phán đoán sai lệch, rối loạn chức năng xã hội hoặc nghề nghiệp), xuất hiện trong hoặc thời gian ngắn sau khi sử dụng chất.



3. Các triệu chứng
không do một bệnh cơ thể hoặc một rối loạn tâm thần khác.


 

V. TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN HỘI CHỨNG CAI (THEO DSM IV):



1.
 Xuất hiện một hội chứng đặc trưng của một chất do ngừng (hoặc giảm) sử dụng nhiều và kéo dài chất đó.



2.
 Hội chứng đặc trưng của chất gây ra một trạng thái suy yếu hay đau khổ có ý nghĩa về mặt lâm sàng trong các lĩnh vực xã hội, nghề nghiệp, hoặc trong những lĩnh vực quan trọng khác.



3.
 Các triệu chứng không do một bệnh cơ thể hoặc một rối loạn tâm thần khác gây ra.


CÁC THUỐC AN DỊU – CHỐNG LO ÂU – GÂY NGỦ

CÁC THUỐC AN DỊU - CHỐNG LO ÂU  - GÂY NGỦ  (SEDATIVE – ANXIOLYTIC – HYPNOTIC)

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)

Đây là những thuốc gây trầm cảm hệ thần kinh trung ương, có tác dụng an thầngiảm lo âu và gây buồn ngủ. Tác dụng phụ là làm giảm trí nhớgiãn cơchống co giật.

+ Rượu –Barbiturate là chất an dịu và gây ngủ.

+ Benzodiazepin là thuốc an thần nhẹ, chống lo âu.


Hội chứng cai có thể xảy ra từ vài ngày đến vài tuần sau khi ngưng sử dụng thuốc. Lạm dụng thuốc trong thời gian dài sẽ gây hậu quả mất trí nhớnói năng khó khăn, phản ứng chậm..Điển hình của các loại thuốc này là:

+ Nhóm BENZODIAZEPINE.

+ Nhóm BARBITURATE.


I. NHÓM BENZODIAZEPINE:

Benzodiazepine là nhóm thuốc trầm cảm tác động lên hệ thần kinh trung ương. Thuốc có tác dụng an thầngiải lo âu và gây ngủ, được sử dụng rộng rãi trên thế giới.  Benzodiazepine được coi là thuốc an thần nhẹ. Thuốc tăng cường hoạt tính của Acid-Gamma-Aminobityric (GABA) là một chất ức chế, dẫn truyền thần kinh. Có nhiều loại Benzodiazepine khác nhau với thời gian, và cường độ tác dụng khác nhau. Thuốc được sử dụng uống hay qua đường tiêm chích như Valium – Drohypnol - Sererta, Temesta…


Tử vong do dùng quá liều Benzodiazepine hiếm khi xảy ra trừ khi sử dụng chung với rượu hay các chất gây trầm cảm hệ thần kinh trung ương khác.Benzodiazepine gây phản ứng chậm, suy giảm chức năng vận động, khả năng xét đoán, gây lầm lẫn. Ngoài ra có thể gây mệt mỏiyếu đuốiđau đầumờ mắtrối loạn tiêu hóa.


II. NHÓM BARBITURATE:

Là những chất gây trầm cảm mạnh với hệ thần kinh trung ương. Các thuốc này dùng để chữa động kinhgiảm đaugây ngủgây mê. Một số thuốc thông dụng: Amobarbital, Binobarbital, Pentobarbital, Phenobarbital, Sécobarbital, Iménoctal…


Ranh giới an toàn giữa hàm lượng điều trị và hàm lượng gây chết người rất thấp. Do đó, nếu dùng quá liều có thể gây ngộ độc dẫn đến tử vong.


Khả năng gây nghiện cao, khả năng lệ thuộc vào thuốc rất nhanh. Bệnh nhân sử dụng thuốc này sẽ bị lệ thuộc về tâm lý và cơ thể dù không dùng liều cao.Khi kết hợp điều trị thuốc với rượu hay thuốc kháng histamine có thể gây trầm cảm nghiêm trọng. Hội chứng cai có thể xảy ra sau 12 giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng thuốc. Bệnh nhân có biểu hiện lo lắngbứt rứtkhó ngủcó những cơn ác mộngnhịp tim nhanhhuyết áp giảmbuồn nônói mửađổ mồ hôi, ảo giác, nhận thức lệch lạc, rung cơ, co cứng cơ, phản xạ tăng dẫn tới những cơn đột quỵ.Lạm dụng thuốc gây mất trí nhớphản ứng chậmđiều khiển kémnói năng khó khăn. Hậu quả này kéo dài nhiều ngày sau thời gian ngưng thuốc.


CÁC THUỐC AN DỊU - CHỐNG LO ÂU - GÂY NGỦ (SEDATIVE – ANXIOLYTIC – HYPNOTIC)  

CÁC CHẤT GÂY HOANG TƯỞNG (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY HOANG TƯỞNG (HALLUCINOGENS)


(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


Chất gây ảo giác là những chất khi đưa vào cơ thể, người sử dụng bị tác động mạnh trên hệ thần kinh trung ươnggây ảo giác với cường độ mãnh liệt nhất là đối với âm thanh và ánh sáng. Người sử dụng không còn liên hệ với thế giới bên ngoài nhưng lại có cảm tưởng ảo giác là thật (đây là một vấn đề rất nguy hiểm có thể dẫn đến tự sát hoặc giết người).   Hầu hết chất gây ảo giác đều dùng qua đường uống. Người sử dụng không dùng chất này thường xuyên mà tùy loại chất sử dụng. Sau khi uống 20 – 30 phút người sử dụng cảm thấy khoan khoáithay đổi nhận thức và xuất hiện ảo giácCảm giác khoan khoái thường chuyển nhanh qua cảm giác khó chịu. Ngoài ảo giác người sử dụng còn có các tác dụng nguy hại như sau:
-   Cảm giác bực bộilo âu, sợ hãi, hoang tưởng, trầm cảm hay cuồng loạn.
-   Rối loạn nhận thức, xuất hiện các cơn hồi phát hậu ảo giác.
-   Rối loạn hoang tưởng, người sử dụng tin rằng những suy nghĩ khi sử dụng chất gây ảo giác đều là sự thật.
Hiện tượng hoang tưởng trên có thể kéo dài nhiều ngày sau khi ngưng sử dụng ma túy. Người sử dụng ma túy có cảm giác bất lực trước sự biến đổi của mình và biểu hiện cảm giác sợ hãi. Một số chất gây ảo giác được sử dụng như thuốc điều trị tâm lý nhưng do tác hại của thuốc nên nhiều nước hạn chế hoặc cấm sử dụng. Các chất gây ảo giác thường được sử dụng là:

- LSD

- PHENCYCLIDINE (PCP)

CÂY CẦN SA (CANNABIS)

 - CỎ MỸ

CÂY XƯƠNG RỒNG PEYOTE

 
I. LSD (D – Lysergic acid diethylamide):

Công thức hóa học của LSD là D – lysergic acid diethylamide.Lysergide là một chất bán tổng hợp từ acid lysergic hay các loại alkaloide của loài nấm cựa gà ergot. LSD được phát hiện năm 1938, được sử dụng là thuốc chữa bệnh tâm thần với tên Delyside nhưng sau đó vì những tác dụng phụ nguy hại nên bị cấm sử dụng.

LSD được giới thanh niên Châu âu và Mỹ sử dụng rất nhiều vào những năm 1960. LSD được bào chế dưới các dạng:

+ Giấy tẩm

+ Gellatine

+ Miếng nhỏ

+ Viên nén hay viên nang.

Liều thường dùng là 30-50 micrograme. Được sử dụng bằng đường uống hay tiêm.

Thuốc có tác dụng sau 30 – 60 phút và kéo dài 8 – 12 giờ.

- Về cơ thể: người sử dụng bị tim đập nhanhhạ thân nhiệtgiãn đồng tửbuồn nônói mửađổ mồ hôi.

- Về tâm thần: Thuốc gây ảo giác cực mạnh tác dụng trên tâm trạngý nghĩcảm xúc của người sử dụng. Người sử dụng trở nên thích nói năng, trò chuyệncường phát cảm thụ về màu sắcâm thanh và xúc giác. Ngoài ra người sử dụng còn bị cảm giác lo lắng,hoang tưởngchóng mặtmất định hướngnhận thứccảm xúc lệch lạc.

Sau khi ngưng thuốc LSD thường có cảm giác bất anrối loạn nhận thức hậu ảo giác, có thể kéo dài nhiều ngày thận chí nhiều tháng. Người sử dụng dung nạp nhanh với LSD. Không thấy biểu hiện cơ thể bị lệ thuộc hay xuất hiện hội chứng cai sau khi ngưng sử dụng LSD.


II. PHENCYCLIDINE (PCP):

- Thuốc tác động vào hệ thần kinh trung ương gây trầm cảmkích thíchgiảm đau và gây ảo giác.

- Trong y học thuốc được sử dụng như một loại thuốc mê nhưng sau đó bị cấm sử dụng vì làm người bệnh mất phương hướngkích động và hoang tưởng. PCP có tác dụng tương tự Dexoxadrol và Ketamine. Khi sử dụng làm ma túy, thuốc được sử dụng dưới dạng uống, hút, tiêm tĩnh mạch.

- Thuốc có tác dụng sau 5 phútđỉnh điểm sau 30 phútKéo dài 4- 6 giờ.

- Lúc đầu người nghiện có cảm giác ấm ápđê mêsung sướngbồng bềnh, có ảo giácảo thanhnhận thức lệch lạc về không gian và thời gianrối loạn tư duyhình ảnh méo mó.

- Sau đó người sử dụng bị tăng huyết ápgiãn đồng tửđổ mồ hôi, hạ thân nhiệthôn mêbất động, mất phản ứng đauco cứng cơ và có thể đột quỵ. Ảnh hưởng thuốc có thể kéo dài nhiều ngày. Người sử dụng sau đó dễ có những hành vi hung bạo hoặc tự hủy hoại cơ thể.

 
III. CANNABIS (CẦN SA):

- Là tên gọi một số chế phẩm làm từ cây cần sa (Cannalis Sativa) (còn gọi là cây gai mèo) gồm nhựa, hoa cần sa. Cây cần sa là một loại cây bụi, mọc hoang ở các vùng ôn đới và nhiệt đới. Sản phẩm của cần sa bao gồm: hoanhựa cần sa (nhựa Hashish) và dầu Hashish (chế từ lá và nhựa cần sa cô đặc).

- Lá và hoa cần sa được hút như thuốc lá gọi là marijuana hoặc làm thành bột trộn với các thức ăn khác. Rễ được làm thành bánh gọi là Haschich được hút bằng ống điếu hay tẩm hoặc trộn mật, bánh, đường để ăn.

- Nhựa cần sa được tinh chế từ ngọn cây đang ra hoa của cây cần sa. Đập dập, ngâm vào nước sôi rồi lấy lớp dầu trên mặt, tên thường gọi là CharasHash.. Nhựa cần sa thường dùng để húttrộn lẫn với thuốc lá hoặc uống như uống trà.

- Cần sa ở các dạng thông thường như sợi rờiép thành bánhcuốn thành điếu bọc ngoài bằng lá thô, hoặc ve thành điếu cuốn trong giấy thuốc lá. Sau khi hút cần sa sẽ có tác dụng sau vài phútđạt đỉnh cao sau khoảng 30 phút và tác dụng kéo dài từ 2 đến 4 giờ.

- Khi sử dụng cần sa, người sử dụng có cảm giác hưng phấnkhoan khoáivui vẻ và hòa nhã với mọi người, tim đập nhanh, khô miệngmất tập trung tư tưởngphản xạ kémgiảm sự khéo léokhông còn khái niệm về thời gian, không giantăng cảm giác thị giácthính giác và xúc giác, đôi khi tăng ham muốn tình dục. Dùng lâu ngày, người sử dụng bị suy giảm trí nhớ, suy giảm năng lực học tậpkhả năng nhận thứcgiảm thị lực, gây tâm lý lo âu, sợ hãi và ảo giác, tâm thần phân liệthoang tưởng. Xuất hiện những cơn hoảng loạn, trong cơn có hành vi gây hấnđi lang thang không mục đích.

- Hút cần sa thường xuyên dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp và ung thư phổirối loạn giấc ngủ, đau đầuchóng mặt.

Hoạt chất chính của cần sa là Tetrahydrocanno Biton (THC), có thể phát hiện trong nước tiểu và có thể kéo dài trong vài tuần.

 
IV. CỎ MỸ

CỎ MỸ
MA DƯỢC GIẾT NGƯỜI MANG TÊN CỎ MỸ
'CỎ MỸ’ NGUY HIỂM HƠN CẦN SA ĐANG HÚT GIỚI TRẺ


  V. CÂY XƯƠNG RỒNG PEYOTE:  

Các loại xương rồng gây ảo giác có tên khoa học là Lophophora williamsii và Anhalonium lewinii ở một số khu vực miền nam Texas và Mexico. Do đó còn có tên gọi là cây xương rồng MehicoThành phần tác dụng của cây xương rồng Peyote là mescalin. Cây xương rồng Peyote còn có tên là “Mescal buttons”.

 

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

Nhựa cần sa (Nhựa Hashish)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)

 

CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES)

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (HALLUCINOGENS)
Các chất kích thích thần kinh là các chất khi đưa vào cơ thể làm tăng cường hoạt động của hệ thần kinh trung ương.

CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES)

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. ĐẶC TÍNH CHUNG:

Chất kích thích thần kinh là các chất khi đưa vào cơ thể làm tăng cường hoạt động của hệ thần kinh trung ương.

CHẤT KÍCH THÍCH bao gồm:
- Amphetamine và các chất giống Amphetamine (Amphetamine and Amphetamine - like).
- Cocaine.
- Các ma túy hợp pháp: cà phê, thuốc lá …
- Một số thuốc chống trầm cảmthuốc chống tiết Acetylcholine khi dùng liều cao, kéo dài.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:
-   Thay đổi nhịp timhuyết ápgiãn đồng tửđổ mồ hôi, ớn lạnh, nôn, ói mửa.
-   Tăng hoạt độngnhận xét sai lệch, dễ bị kích động.
-   Lạm dụng kéo dài sẽ thay đổi hành vi: hung hăngliều lĩnhnóng giậnnghi ngờ. Trường hợp nặng bị loạn thầnhoang tưởng kịch phát.

* Ngừng thuốc sau một thời gian dài sử dụngvới liều cao sẽ bị hội chứng cai: cơ thể mệt mỏiủ rũmất ngủ, có thể dẫn đến mê sảng.

B. PHÂN LOẠI:

I. AMPHETAMINE VÀ MỘT SỐ CHẤT GIỐNG AMPHETAMINE (AMPHETAMINE-LIKE):

Amphetamine và một số chất giống amphetamine là ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích. Các loại ma túy này có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau nhưng có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau trên hệ thần kinh trung ương. Nhóm này bao gồm:

1. AMPHETAMINE CỔ ĐIỂN:

Là ma túy tổng hợp thông dụng có tác dụng kích thích mạnh lên hệ thần kinh trung ương. Các loại ma túy phổ biến nhất của nhóm này là  AMPHETAMINE, METHAMPHETAMINE (hàng đá) và METHCATHINONE.

Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ice” (hàng đá) (methamphetamin), và “cat” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màudạng kết tinh (như “ice”), viên nén và dung dịch (như “Methcathinon”).

Amphetamin thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.

Loại ma túy này đang được nhiều người sử dụng vì nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, gây khoái cảm, phấn khíchtinh thần mẫn tiệpkhông còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủtăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và trí não. Amphetamin được  phổ biến trong giới sinh viênbinh lính, lái xe đường dàicông nhân ca đêmvận động viên thể dục thể thao...v.v.

-   Khi sử dụng liều thấp Amphetamine làm tăng nhịp timnhịp thởtăng huyết áp và thân nhiệtkhô miệngđổ mồ hôigiãn đồng tửtiêu chảy, ăn kém ngon.

-   Khi sử dụng liều cao Amphetamine làm các triệu chứng nói trên trở nên cường phát, người dùng trở nên lắm lời, hiếu động, hung bạo, mất ngủ, không còn khả năng suy xét, người sử dụng Amphetamine tăng nhu cầu tình dục nên quan hệ bừa bãi, hay chích chung kim do đó rất dễ lây nhiễm các bệnh HIVviêm gan siêu vi, ngoài ra do bị kích động người sử dụng Amphetamine hay phóng xe, lạng lách gây tai nạn giao thông.

-   Sử dụng amphetamine lâu ngày người sử dụng thay đổi hành vi tâm tínhbồn chồn, hiếu độngcảm giác khó chịu, hung bạođôi khi dẫn đến hoảng loạn, hoang tưởng.

-   Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốc hay sau khi dùng liều cao sẽ xuất hiện hội chứng cai: ủ rũ, u uấtbuồn chán, mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và có những cơn mê sảng.

Từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Tuy nhiên, do nhận thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng nên hiện nay, amphetamin và các chất liên quan được hạn chế sử dụng chỉ để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamine để làm thuốc biếng ănchữa bệnh béo phì.

Sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn sản xuất phân phối hợp pháp.

2. AMPHETAMIN MỚI:

2.1 MDMA/ (Ecstasy - Thuốc lắc):

Công thức hóa học của thuốc lắc (MDMA) là: Methylendioxy methamphetamin, MDMA là chất kích thích tổng hợp dòng amphetamine. Thuốc được tổng hợp từ năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng không được công nhận là thuốc chính thức. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới. MDMA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.

MDMA được chế tạo dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn. Liều dùng từ 75 đến 150 mg.

MDMA làm tăng huyết áptăng nhịp tim, gây ảo giác, tăng tự tin, cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích nhất là khi kèm âm thanh có cường độ lớn, thích giao tiếp, trò chuyện.

MDMA liều thấp gây bồn chồnlo lắng;

Liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ, có hành vi lắc lư, quay cuồng, la hét, đập phá, quan hệ tình dục tập thể, thích cảm giác bay bổng, lái xe tốc độ cao.

Sử dụng thường xuyên một thời gian dài sẽ có các triệu chứng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.

MDMA ít gây ngộ độc cấp, một số trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng

Tuy nhiên, do quan hệ tình dục tập thể bừa bãi, thườngchích chung kim nên người sử dụng MDMA dễ lây nhiễm HIVviêm gan siêu vi và do bị kích động, người sử dụng ưa phóng xe tốc độ cao, lạng lách, gây tai nạn giao thông.

2.2 MDA:

Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng Amphetamin rất giống Ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được chấp nhận là một loại thuốc hợp pháp. MDA tác dụng gần giống MDMA nhưng gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMA và có thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 giờ so với MDMA chỉ có 3 – 5 giờ). MDA thường được đưa ra thị trường dưới dạng thuần chất hay kết hợp với các loại ma túy khác.

2.3 MDEA/(AVE):

Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này không được công nhận là thuốc hợp pháp. MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, được bào chế  dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. MDEA được liệt kê vào các chất bị quốc tế kiểm soát.

II. COCAINE VÀ CÁC DẪN XUẤT:

1.COCAINE:

Tên khoa học của cocaine là: Cocaine hydrochloride. Cocaine là một chất kích thích dưới dạng Alkoloide lấy từ cây Côca hay tổng hợp từ chất Ecgonine và các dẫn xuất của nó. Cocaine được sử dụng từ thế kỷ 19 làm thuốc tê trong nha khoa, nhãn khoa, ngoại khoa tai, mũi, họng do tác dụng co mạch tại chỗ, giảm xuất huyết cục bộ. Vì Cocaine gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm nên hiện nay không được sử dụng nữa.

-       Cocaine được bán dưới dạng tinh bột hay tinh thể màu trắng trong. Cocaine được sử dụng bằng đường híttác dụng sau 1- 3 phút, cảm giác kéo dài khoảng 30 phútPha trộn Cocaine với heroine được sử dụng qua đường chích.

-       Cocaine là chất kích thích hệ thần kinh mạnh. Tác dụng của Cocaine gần giống Amphetamine: giải ức chếgây khoái cảmđê mêtỉnh ngủtăng hoạt độngnói nhiềutăng nhu cầu tình dục. Sử dụng Cocaine liên tục người sử dụng bị kích thích dẫn đến hiện tượng suy sụpmất ngủ dẫn đến nghiện thuốc ngủrối loạn hoang tưởng liên hệrối loạn ảo giác, sa sút tâm thần.

-       Hội chứng ngộ độc cấpcơn mê sảnghoảng hốt, huyết áp cao, nghẽn mạch và loạn nhịp tim, có những biểu hiện bệnh tâm thần như hoang tưởngảo thanhảo giáccó cảm giác thấy hình ảnh lấp lánh như mặt trời hay bông tuyết.

-       HỘI CHỨNG CAI: Ngưng sử dụng Cocaine sẽ gây hội chứng caicảm giác sợ hãitrầm uấttrì trệbuồn ngủ

2. CAO BỘT NHÃO CÔCA:

Sản phẩm của công đoạn đầu tiên quá trình triết xuất cocaine từ lá Côca. Bột nhão Cooca chứa 50-90% Sulfate cocaine và tạp chất độc tính như Kerosen và acid sulfuric. Người Nam Mỹ dùng bột nhão Côca để hút, hay hút cùng với marijuana  và thuốc lá. Bởi vì có lẫn tạp chất cho nên cách dùng này hết sức nguy hiểm. Bột nhão Cooca trộn lẫn marijuana và thuốc lá ở Boolivia gọi là pitillo và Coolumbia gọi là bazuco.

3. CRACK HAY ROCK:

Crack được chiết xuất từ Cocaine Hydrochloride để chế biến thành dạng hút.

Crack được mô phỏng từ tiếng nổ lép bép khi chất này bị đốt nóng. Cảm giác “phê” cao độ xảy ra 4 - 6 giây sau khi dùng “Crack”; người sử dụng sẽ có ngay cảm giác hân hoanphấn khíchlo âu, ưu phiền tan biến, cảm giác tự tinhãnh diện. Lúc này khả năng xét đoán giảm sút, người nghiện có những hành vi bừa bãiphạm phápnguy hạibất chấp hậu quảnói năng lắp bắpthiếu rành mạchKhoái cảm kéo dài 5 -7 phút, sau đó tâm trạng suy sụp nhanh chóng, người sử dụng có cảm giác khó chịubồn chồnlo lắng. Lúc này người nghiện chỉ thèm khát mãnh liệt là tiếp tục dùng ma túy để có cảm giác như khi “phê” thuốc. Tất cả những phản ứng đối với “Crack” đều giống hệt Cocaine, nhưng rõ rệt hơn nhiều.
Methamphetamine CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) cai nghiện ma túy CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES) CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH (STIMULANTES)

CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (STUPEFIANTS) (THUỐC PHIỆN – MORPHIN – HEROIN)

cai nghiên ma túy


Giảm đau, thay đổi tâm trạng (cảm giác phởn phơ, có thể chuyển thành vô tình, lãnh cảm hay bồn chồn khó chịu), suy hô hấp, ngủ gà ngủ gật, nói năng không rõ ràng, chậm tâm thần vận động, mất khả năng suy xét, thiếu trí nhớ, kém tập trung.


CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (STUPEFIANTS) (OPIATES)

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. ĐẶC TÍNH CHUNG:

Opiate là thuật ngữ chung để chỉ:
+    Các loại Ancaloit cây thuốc phiện, Codeine, Morphine,…
+    Các chất ma túy bán tổng hợp từ cây thuốc phiện: Diacetylmorphine (Heroine) Hydromorphine – Oxycodon,…
+    Các loại ma túy tổng hợp: Methadone, LAAM, Buprenorphine,…
TÁC DỤNG DƯỢC LÝ:
*    Giảm đau, thay đổi tâm trạng (cảm giác phởn phơ, có thể chuyển thành vô tình, lãnh cảm hay bồn chồn khó chịu), suy hô hấp, ngủ gà ngủ gậtnói năng không rõ ràngchậm tâm thần vận độngmất khả năng suy xétthiếu trí nhớkém tập trung.
*    Dùng lâu ngày sẽ gây hiện tượng tăng liều, biến đổi đáp ứng thần kinh gây ra hiện tượng “tăng kích thích hưng phấn hồi phát”.
*    Nếu đột nhiên ngưng sử dụng các chất trên sẽ bị hội chứng cai gồm các biểu hiện (vã ma túylo âubồn chồn, mất ngủ, buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, ngáp vặt, đổ mồ hôi, đau nhức và co rút cơ, cảm giác giòi bò trong xương,…).

B. PHÂN LOẠI:

I. CÁC LOẠI TỪ CÂY THUỐC PHIỆN:

Được điều chế và sử dụng dưới nhiều hình thức:


1. THUỐC PHIỆN: là một hỗn hợp thô do nhựa tiết từ những vết rạch trên quả thuốc phiện trong nhựa quả khô cây thuốc phiện có hơn 25 loại Alcaloid trong đó Morphine chiến 10%, Codeine 0,5%, Narceine 0,3%, Theloine 0,2%, Papaverine 0,8%, Narcotine 6%.


2.THUỐC PHIỆN SỐNG: ngoài nhựa quả anh túc còn có lẫn cả vỏ quả thuốc phiện khi thu hoạch.

Thuốc phiện sống màu nâu đen, để lâu ngày hóa cứng thành từng cục, dễ vỡ. Thuốc phiện sống được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau.

+   Thành từng cục nhựa cứng, màu nâu sẫm.

+   Nhựa được bọc lại bằng lá cây và gói bằng giấy nilon.

+   Cách dùng: hút, nhai, nuốt.

+   Liều dùng: Trung bình 5 -10 gram (nhai, nuốt).


3. THUỐC PHIỆN CHÍN: đun thuốc phiện sống với nước trong nhiều giờ; bỏ tạp chất rồi cô đặc lại.

-   Thuốc phiện chín màu nâu đen, có nhiều hình thù khác nhau.

-   Xe thành từng điếu như điếu thuốc lá. Tên thường gọi là Sukhteh hay Chamdu.

-   Cách dùng: hút


4. SÁI THUỐC PHIỆN: là phần thuốc còn đọng lại trong điếu sau khi hút. Sái thường được cất dành khi thiếu sẽ sử dụng.


5. RẠ THUỐC PHIỆN: sau khi lấy xong nhựa thuốc phiện, phần còn lại cây thuốc phiện sẽ được sấy khô.


6. CAO RẠ THUỐC PHIỆN: sản phẩm thu được sau khi xử lý rạ thuốc phiện.


7. THUỐC PHIỆN Y TẾ: là thuốc phiện sau khi đã qua các khâu chế biến cần thiết, dùng vào mục đích y tế.

Cách sản xuất: tán nhỏ thuốc phiện, sấy khô ở 600C.

Thuốc phiện ý tế là một loại bột màu vàng hay màu đỏ.

Sản xuất dưới dạng: bột, viên nén, xirô.


8. MORPHINE THÔ: là cancaloit chiết từ nhựa thuốc phiện hay cả cây thuốc phiện.

Morphin thô là một loại bột mịn từ màu trắng đục đến màu nâu sẫm ép thành từng bánh hay dưới dạng viên nén.


9. MORPHINE Y TẾ: được tinh chế từ cây thuốc phiện, sử dụng làm thuốc giản đau, ức chế thần kinh trung ương và gây ngủ. Morphine bị lạm dụng ở nhiều nơi trên Thế giới.

Morphine khuếch tán chậm qua hàng rào máu não, do đó khi tiêm Morphine qua tĩnh mạch phải mất khoảng 5 phút sau mới có tác dụng trên hệ thần kinh Trung ương.


II.  CÁC CHẤT BÁN TỔNG HỢP TỪ CÂY THUỐC PHIỆN: HEROINE

Là chất ma túy dạng thuốc phiện được bán tổng hợp từ Morphine. Tên hóa học của Heroine là Diacethylmorphine. Heroine là loại ma túy được bán tổng hợp từ thuốc phiện, được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi trên Thế giới vì giá thành tương đối rẻ, tác dụng mạnh, được sử dụng dưới nhiều hình thức (hút, hít, chích) là chất dễ tan trong nước để tiêm chích, xâm nhập vào máu, não nhanh.

Liều trung bình người nghiện heroine thường dùng là 5 – 15 mg nhưng cũng có khi lên đến 250 mg/ 1 ngày.


Heroine được bào chế dưới nhiều dạng khác nhau:

1. HEROINE MÀU TRẮNG (Bạch phiến): tồn tại dưới dạng muối Diamorphine Hydrochloride dễ tan trong nước và thường được sử dụng để tiêm chích. Heroine trắng có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á. Được phân loại theo độ tinh khiết.


2. HEROINE MÀU HỒNG (Hồng phiến): có pha lẫn bột cafeine. Có nhiều ở các quốc gia khu vực Đông Nam Á.


3. HEROINE MÀU NÂU: thường ở dạng Bazơ do đó có thể dùng để hút hay hít. Heroine màu nâu không thể tiêm chích được. Muốn tiêm chích phải chuyển hóa thành dạng muối bằng cách cho thêm acid. Do đó người sử dụng thường cho thêm chanh ép, vitamin C để nó hòa tan trong nước và có thể tiêm chích dễ dàng.

Heroine màu nâu có nhiều ở Affanistan, Iran, Pakistan hay Thổ Nhĩ Kỳ.


4. HEROINE HẮC ÍN: là Heroin thô, sản xuất tại Mehico, Heroine hắc ín có màu gần đen, dạng quánh hoặc rắn, có mùi chua, dễ tan chảy ở nhiệt độ cao hay độ ẩm cao.


  III. CÁC CHẤT TỔNG HỢP:

1. METHADONE: là một loại thuốc á phiện tổng hợp dùng để điều trị duy trì cho các người nghiện thuốc phiện. Thời gian bán hủy khá dài, chỉ cần dùng mỗi ngày một lần dưới sự giám sát chắt chẽ. Đây là phương pháp điều trị nghiện chất á phiện rất phổ biến ở các nước phát triển.

Kết quả thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên và nghiên cứu quan sát cho thấy phương pháp duy trì bằng Methadone đã cắt giảm được tỷ lệ sử dụng Heroine, tỷ lệ phạm tội, cũng như giảm bớt các hành vi nguy cơ liên quan đến tiêm chích ma túy và tỷ lệ tử vong sớm ở các đối tượng nghiện chất á phiện.


2. LAAM: là chữ viết tắt tên hóa học của chất levo-alpha-acetyl-methadol. LAAM là một chất chủ vận á phiện tổng hợp (giống methadone) thuộc dòng moosoocphin. Chât này được nghiên cứu rất nhiều vào thập niên 1970 để thay thế cho Methadone vì có ưu điểm chính là tác dụng lâu hơn, nhờ đó người bệnh chỉ phải dùng thuốc sau 48 đến 72 tiếng đồng hồ như đối với Methadone.


3. BUPRENORPHIN: hỗn hợp chất đồng vận với chất đối vận á phiện dùng trong điều trị thay thế cai nghiện thuốc phiện như Methadone. Đây là một loại thuốc giảm đau được sử dụng để điều trị ngắn hạn các triệu chứng đau đớn ở người nghiện. Hỗn hợp tác dụng kiểu á phiện với tác dụng phong bế giúp cho Buprenorphin sử dụng khá an toàn không gây quá liều so với các loại á phiện tinh khiết.

các chất gây đê mê

ma túy và các chất gây nghiện

MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN

matuy1.jpg - 34.62 kb

Ma túy là một từ Hán - Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đây ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu.


MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


I.ĐỊNH NGHĨA:

*   Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đức: Ma túy là một từ Hán - Việt đã có từ lâu. Ma là tê mê, túy là say sưa. Có lẽ trước đây ông cha ta ám chỉ là thuốc phiện và rượu.

*   Ngày nay ma túy được định nghĩa một cách rộng hơn: ma túy là những chất khi đưa vào cơ thể sẽ tác động vào hệ thần kinh trung ương, gây biến đổi nhận thức, cảm giác, chức năng của hệ thống não bộ. Nếu sử dụng nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng bị lệ thuộc về cơ thể hoặc tâm thần hoặc cả hai. Người sử dụng ma túy do không kiểm soát được bản thân sẽ có những hành vi gây hậu quả nặng nề cho chính mình, gia đình và xã hội.


II. PHÂN LOẠI MA TÚY:

Tùy theo mục đích, có nhiều cách phân loại ma túy.

1. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:

  • MA TÚY HỢP PHÁP:rượu, cà phê, thuốc lá….Một số dược phẩm được sử dụng để chữa trị bệnh, nếu sử dụng quá liều, kéo dài sẽ xảy ra tình trạng nghiện: Benzodiazepines, Secobarbital, Morphine, Amphetamine, Pseudoephedrine, Cocaine...
  • MA TÚY BẤT HỢP PHÁP:Là những chất bị pháp luật quy định, liệt vào danh sách cấm sử dụng: thuốc phiện, Heroine, Estasy (MDMA).
2. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:
  • MA TÚY CÓ NGUỒN GỐC THIÊN NHIÊN:thuốc phiện, cần sa, Cocaine ….
  • MA TÚY BÁN TỔNG HỢP:Heroine, codeine, LSD…
  • MA TÚY TỔNG HỢP:Methadone, Mépéridine, Amphetamine…
3.PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ:
  • CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ (Stupefiantes): ma túy nhóm OMH (Á phiện, Heroine, Morphine, Codéine…) và các chất tổng hợp (Methadone, Mépéridine, Pethidine, Pentanyl,...).
  •  CÁC CHẤT KÍCH THÍCH (Stimulantes): Cocaine, Amphetamine, Ecstasy,…
  • CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC (Hallucinogens): LSD (D - Lysergic Acid Diethylamid), Cannabis, Phencyclidine, PCP, Mescaline,…
  • CÁC THUỐC GIẢI LO ÂU/GÂY NGỦ(Anxiolytic/hypnotic):các loại Benzodiazépines, Barbiturates,…

CÁC CHẤT GÂY ĐÊ MÊ

ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện

CÁC CHẤT GÂY KÍCH THÍCH 

Methamphetamine ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện

CÁC CHẤT GÂY ẢO GIÁC 

ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện ma túy và các chất gây nghiện

            Nhựa cần sa (Nhựa Hashish)

ma túy

CÁC THUỐC AN DỊU – CHỐNG LO ÂU – GÂY NGỦ

cai nghiện ma túy

(SEDATIVE – ANXIOLYTIC – HYPNOTIC) 

TÁC HẠI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN (GÂY YÊN DỊU, GÂY NGỦ VÀ GIẢI LO ÂU)

TÁC HẠI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN (GÂY YÊN DỊU, GÂY NGỦ VÀ GIẢI LO ÂU)

Bác sĩ Chuyên khoa II, thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
 

Các thuốc gây êm dịu có tác dụng làm giảm căng thẳng và làm yên dịu tâm thần. Thuật ngữ gây yên dịu đồng nghĩa với thuật ngữ giải lo âu. Các thuốc gây ngủ được sử dụng để gây ngủ. Các thuốc gây yên dịu và giải lo âu là thuốc được dùng ban ngày còn thuốc ngủ được dùng ban đêm. Khi các thuốc gây yên dịu và giải lo âu được dùng ở liều cao chúng có thể gây ngủ như các thuốc gây ngủ. Ngược lại, khi các thuốc gây ngủ được dùng ở liều thấp chúng có thể gây yên dịu ban ngày, giống như các thuốc gây yên dịu và giải lo âu.

 

Các thuốc gây yên dịu và giải lo âu bao gồm benzodiazepine (Diazepam. Seduxem, Clorazepate, Alprazolam, Bromazepam, Clonazepam, Zolpidem...), họ meprobamate, họ piperazine (Atarax), họ benzoxazine (Stresam), họ azaspirodecadiones (Buspirone), họ cyclopyrolones (Zopiclone)...

 

Các thuốc gây ngủ bao gồm barbiturate và các chất tương tự barbiturate, một số benzodiazepnine (zolpidem: Stilnox; flunitrazepam: Rohypnol, nitrazepam: Mogadon)...Ngoài ra các thuốc này còn có chỉ định khác (ngoài tâm thần) như chống động kinh, chống co giật, giãn cơ, gây mê và kết hợp trong gây mê. Toàn bộ các thuốc này đều có dung nạp chéo với rượu và gây nghiện, gây tăng liều và gây hội chứng cai về cơ thể và tâm thần.


A. DỊCH TỄ

Theo DSM IV, ở Mỹ, khoảng 1/4-1/3 toàn bộ các chất nào có liên quan tới các trường hợp cấp cứu do lạm dụng chất. Tỉ lệ sử dụng các chất này giữa nữ và nam là 3/1. Benzodiazepine thường bị lạm dụng một mình nhưng những người nghiện cocaine cũng thường sử dụng benzodiazepine để giảm hội chứng cai. Còn những người lạm dụng các chất dạng thuốc phiện sử dụng chúng để tăng hiệu quả khoái cảm của các chất dạng thuốc phiện. Những người lạm dụng amphetamine để giảm lo âu do các chất đó gây ra.

 

Ở Pháp, những người tuổi từ 18-75, sử dụng thường xuyên các thuốc hướng thần là 9%, trong đó nữ là 12% và nam là 6% (EROPP 2002, OFDT). Và ở lứa tuổi 17-18 là 2,9% trong dó nữ là 4,7% và nam là 1,3%.


B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ

Benzodiazepines, Barbiturates và các chất giống barbiturates có hiệu quả trước tiên trên phúc hợp receptor gama-amino-butyric acid (GABA) loại A (GABAA), các receptor này bao gồm kênh ion Clo gắn vào điểm GABA và cũng đã được xác định gắn vào các điểm tiếp nhận benzodiazepines. Khi các chất benzodiazepines, barbiturates hoặc các chất dạng barbiturates gắn vào các phức hợp receptor này, hiệu quả là làm tăng ái lực của receptor với các chất trung gian hóa học nội sinh của nó (GABA), và tăng lưu lượng ion Clo vào kênh neuron. Hiệu quả của sự tràn ngập ion Clo âm đi vào neuron dẫn đến sự ức chế, dẫn đến tăng phân cực các neuron tiếp theo đi ra ngoài tế bào.

 

Mặc dù tất cả các thuốc hướng thần nếu trên gây dung nạp và phụ thuộc vào cơ thể, cơ chế đằng sau các tác dụng này đã được hiểu rõ đối với benzodiazepines. Sau một thời gian sử dụng benzodiazepines kéo dài, có một sự giảm sút các hiệu quả của receptor gây ra bới sự đồng vận. Đặc biệt sau giai đoạn sử dụng benzodiazepine kéo dài, sự kích thích GABA của receptor GABAA làm lượng ion Clo đi vào ít hơn đã bị gây ra bởi sự kích thích GABA trước khi sử dụng.benzodiazepine. Sự điều hòa đáp ứng receptor kém đi không phải do giảm số lượng receptor hoặc giảm ái lực của receptor với GABA. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ sự kết nối giữa các điểm gắn GABA với sự kích hoạt kênh ion Clo. Sự giảm hiệu quả trong sự liên kết đó có thể được điều hòa chính bên trong của phức hợp receptor GABAA hoặc bởi cơ chế thần kinh khác.


C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Sử dụng đường uống: các thuốc hướng thần nêu trên được sử dụng qua đường uống có hiệu quả như thư giãn vào buổi tối, tăng hoạt động tình dục, khoái cảm nhẹ, trong thời gian ngắn, giải lo âu, gây ngủ. Thường gặp ở những người trung niên, lớn tuổi.

 

Sử dụng đường tiêm tĩnh mạch: thường gặp ở những người trẻ tuổi, thường liên quan tới sử dụng bất hợp pháp. Tiêm tĩnh mạch barbiturate gây thoải mái, ấm người, cảm giác buồn ngủ, và người sử dụng có khuynh hướng sử dụng barbiturate nhiều hơn các chất dạng thuốc phiện do giá rẻ hơn. Sự nguy hiểm khi sử dụng bơm kim tiêm không sạch gây các bệnh lây nhiễm qua đường tiêm chích như HIV, viêm gian, nhiễm khuẩn huyết... Việc tiêm tĩnh mạch các thuốc này gây dung nạp nhanh và mạnh, gây phụ thuộc và hội chứng cai mạnh.

 

Quá liều:

Benzodiazepine

Khác với barbiturate và các chất dạng barbiturate, với benzodiazepine có khoảng cách giữa liều điều trị và liều ngộ độc rất rộng nên an toàn hơn khi dùng quá liều. Tỉ lệ giữa liều tử vong và liều điều trị là 200/1 hoặc cao hơn bởi vì nguy cơ gây suy hô hấp rất thấp. Thậm chí khi dùng liều quá lớn (trên 2 gram) để tự sát, các triệu chứng cũng chỉ bao gồm: buồn ngủ, ngủ sâu, mất điều hòa động tác, hơi lú lẫn, các dấu hiệu sinh tồn suy giảm chút ít. Điều nguy hiểm hơn là uống benzodiazepine quá liều kết hợp với các chất gây ngủ, yên dịu khác như rượu chẳng hạn. thuốc flumazenil (Mazicon), một thuốc đối vận đặc trưng của benzodiazepine do vậy nó được sử dụng ở cơ sở cấp cứu.

 

Barbiturates

Các thuốc này gây tử vong khi sử dụng quá liều do làm suy hô hấp. Hiện tượng tử vong do thuốc này khá phổ biến ở những người nghiện, có ý đinh tự sát hoặc không cố y tự sát. Và nó cũng là loại thuốc thường gây tử vong ở trẻ em khi sử dụng quá liều. Tử vong do barbiturate được biểu hiện bằng hôn mê, ngừng thở, trụy tim mạch và tử vong.

 

Liều tử vong phụ thuộc đường sử dụng, mức độ dung nạp. Ở phần lớn những người lạm dụng barbiturate, tỉ lệ giữa liều tử vong và liều điều trị là từ 3/1 - 30/1. Những người nghiện sử dụng 1,5 gram/ ngày loại tác dụng nhanh, một số người nói rằng họ sử dụng 2,5 gram/ ngày trong vòng một tháng. Liều tử vong không có sự khác biệt lớn giữa người sử dụng lâu hay mới sử dụng. Sử dụng nạp diễn ra nhanh chóng.


D. CHẨN ĐOÁN

1. Tiêu chuẩn chẩn đoán lạm dụng và nghiện các thuốc hướng thần gây yên dịu, gây lo âu, gây ngủ

Theo tiêu chuẩn chung (DSM IV).

 

2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc các thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ

a. Vừa mới sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.

b. Biến đổi tâm lý và hành vi, xảy ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ (ví dụ như: có hành vi tấn công hoặc tình dục không hợp lệ, cảm xúc không ổn định, lý lẽ, các chúc năng nghề nghiệp, xã hội bị suy giảm).

c. Có ít nhất một trong các biểu hiện sau đây, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.

  • (1) Nói líu lưỡi.

  • (2) Mất phối hợp vận động.

  • (3) Dáng đi thay đổi.

  • (4) Rung giật nhãn cầu.

  • (5) Suy giảm chú ý và trí nhớ.

  • (6) Sững sờ hoặc hôn mê.

 

d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rối loạn tâm thần khác gây ra.

 

3. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai các thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ

a. Ngừng hoặc giam liều mạnh và kéo dài các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.

b. Có ít nhất 2 trong số các biểu hiện sau dây, xảy ra từ vài giờ tới vài ngày sau tiêu chuẩn a.

  • (1) Tăng hoạt hệ thần kinh thực vật (vã mồ hôi hoặc mạch trên 100 ck/phút).

  • (2) Run tay mạnh.

  • (3) Mất ngủ.

  • (4) Buồn nôn.

  • (5) Có ảo tưởng hoặc ảo thính giác, xúc giác, thị giác tạm thời.

  • (6) Kích động tâm thần vận động.

  • (7) Lo âu.

  • (8) Có cơn co giật toàn thể.

 

c. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn b gây ra đau khổ rõ rệt hoặc làm giảm sút các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.

d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rối loạn tâm thần khác gây ra.

 

4. Sảng run với thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ

DSM IV cho phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Cần phân biệt với sảng run do hội chứng cai rượu thường gặp hơn so với sảng run do barbiturate hoặc benzodiazepine. Sảng run kết hợp với nhiễm độc có thể xảy ra với barbiturate hoặc benzodiazepine nếu liều sử dụng đủ cao.

 

5. Sa sút trí tuệ dai dẳng

DSM IV cho phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Sự tồn tại của chẩn đoán này đàng còn tranh luận bởi vì không chắc có hay không sự sa sút trí tuệ dai dẳng do chính việc sử dụng các chất trên. Vì vậy cần đánh giá chặt chẽ và thận trọng khi làm chẩn đoán này.

 

6. Rối loạn trí nhớ dai dẳng

DSM IV chi phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Rối loạn trí nhớ kết hợp với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ có thể được làm chẩn đoán phụ. Một số trường hợp có giai đoạn mất nhớ kết hợp với sử dụng ngắn hạn benzodiazepine với thời gian bán hủy ngắn như triazolam (halcion).

 

7. Rối loạn loạn thần

Các triệu chứng loạn thần của hội chứng cai barbiturate có thể được phân biệt với triệu chứng của sảng run do rượu. Kích động, hoang tưởng và ảo giác thường gặp là ảo thị, nhưng đôi khi là ảo xúc hoặc ảo thanh, xuất hiện sau hội chứng cai khoảng 1 tuần. Các triệu chứng loạn thần kết hợp với nhiễm độc hoặc hội chứng cai thường gặp do barbiturate nhiều hơn là do benzodiazepine và nó được chẩn đoán do chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ gây ra tình trạng loạn thần này. Tuy nhiên thầy thuốc có thể xác định có hay không các hoang tưởng hoặc ảo giác là các triệu chứng chiếm ưu thế.