NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

  1. Bị trầm cảm sau cai nghiện, có phục hồi lại được không?

  2. TIẾP CẬN VÀ XỬ TRÍ KÍCH ĐỘNG TRONG TÂM THẦN

  3. Cai nghiện Ma túy - Cộng đồng trị liệu

  4. YÊU CẦU VỀ CƠ CẤU - HOẠT ĐỘNG - MỐI QUAN HỆ ĐỂ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ HIỆU QUẢ

  5. KHÔNG CÓ MỘT LOẠI THUỐC NÀO CHỮA ĐƯỢC BỆNH NGHIỆN MA TÚY MÀ PHẢI DÙNG LIỆU PHÁP TỔNG HỢP

  6. THUỐC ĐƠN THUẦN CÓ CHỮA ĐƯỢC NGHIỆN MA TÚY?

  7. Nghiên cứu thực trạng tái nghiện rượu giai đoạn 2006 - 2010

  8. Ảnh hưởng của sử dụng rượu/bia của các nạn nhân bị tai nạn giao thông nhập viện VIỆT ĐỨC và SAINT–PAUL

  9. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện

 10. Nghiên cứu thực trạng tái nghiện rượu giai đoạn 2006 - 2010

 11. Ảnh hưởng của sử dụng rượu/bia của các nạn nhân bị tai nạn giao thông nhập viện VIỆT ĐỨC và SAINT–PAUL

 12. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện

 13. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện (tiếp theo) (2)

 14. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện (tiếp theo) (5)

 15. Bài 1 - Ma túy và các chất gây nghiện (tiếp theo) (5)

 16. ĐẠI CƯƠNG VỀ LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ – XÃ HỘI

 17. ẢNH HƯỞNG CỦA BẠN BÈ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG CÁC CHẤT MA TÚY

 18. 6 TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TÌNH TRẠNG NGHIỆN MA TÚY

 19. (Cũ) NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 20. Chương VIII ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

 21. Chương VII HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY

 22. Chương VI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY

 23. Chương IV QUẢN LÝ NGƯỜI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 24. Chương III KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY

 25. Thời gian và hàm lượng tối thiểu để phát hiện ma túy tồn tại trong nước tiểu

 26. NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

 27. ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA CỦA CÁC NẠN NHÂN BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL

 28. CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

 29. DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY

 30. CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU - MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN MA TÚY CÓ HIỆU QUẢ CẦN ĐƯỢC MỞ RỘNG Ở VIỆT NAM

 31. PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU - CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CÓ HIỆU QUẢ

 32. CAI NGHIỆN MA TÚY - CÔNG VIỆC NHÂN ĐẠO NHỌC NHẰN

 33.  NGHIỆN RƯỢU

 34. NHỮNG YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT TRUNG TÂM CAI NGHIỆN CÓ HIỆU QUẢ

 35. MỘT MÔ HÌNH CAI NGHIỆN MA TÚY CÓ HIỆU QUẢ: MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU – CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU

 36. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC - HÀNH VI - NHÂN CÁCH NGƯỜI CAI NGHIỆN

 37. RỐI LOẠN TÂM - SINH LÝ TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 38. CÁCH NHẬN BIẾT NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 39. HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐỒNG VẬN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 40. HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐỒNG VẬN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 41. CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN KHI BẮT ĐẦU ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC ĐỐI KHÁNG

 42. HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐỒNG VẬN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 43. HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐỒNG VẬN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 44. HƯỚNG DẪN LÂM SÀNG VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐỒNG VẬN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN

 45. MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CHỐNG TÁI NGHIỆN HEROIN RẤT HIỆU QUẢ

 46. CÁC THUỐC CHỐNG TÁI NGHIỆN NHÓM OMH

 47. TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ: NGHIỆM PHÁP BECK - ZUNG (SDS) VÀ MONTGOMERY-ASBERG (MADRS)

 48. VAI TRÒ TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU – QUẢN LÝ CA TRONG CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI

 49. VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ – XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 50. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

 51. CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN NHÓM MA TÚY DẠNG KÍCH THÍCH

 52. Nghiên cứu thực trạng tái nghiện rượu giai đoạn 2006 - 2010

 53. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN NHÓM MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH (ATS) (MA TÚY TỔNG HỢP-MA TÚY ĐÁ)

Chương VII HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY

Điều 51. Nguyên tắc trong hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
1. Nhà nước Việt Nam thực hiện điều ước quốc tế về phòng, chống ma túy và điều ước quốc tế khác có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi; hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống ma túy.

2. Trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan, thỏa thuận quốc tế đã ký kết, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện chương trình hợp tác về phòng, chống ma túy với cơ quan có liên quan của các nước, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Điều 52. Chính sách hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy
Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong lĩnh vực phòng, chống ma túy trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia với các nước; khuyến khích tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác với cơ quan, tổ chức của Việt Nam hỗ trợ lẫn nhau về cơ sở vật chất, tăng cường năng lực pháp luật, thông tin, công nghệ đào tạo và y tế cho hoạt động phòng, chống ma túy.

Điều 53. Chuyển giao hàng hóa có kiểm soát
Nhà nước Việt Nam thực hiện yêu cầu chuyển giao hàng hóa có kiểm soát trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội về ma túy. Việc quyết định áp dụng và tiến hành biện pháp này thực hiện theo thỏa thuận giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và của nước có liên quan.

Chương VI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÒNG, CHỐNG MA TÚY

Điều 44. Nội dung quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch về phòng, chống ma túy.
2. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
3. Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác phòng, chống ma túy.
4. Kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
5. Thực hiện công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.
6. Tổ chức đấu tranh phòng, chống ma túy.
7. Thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy.
8. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về phòng, chống ma túy.
9. Tổ chức tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy.
10. Hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.
11. Khen thưởng, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.

Điều 45. Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
2. Bộ Công an là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực hiện và phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống ma túy.
4. Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy tại địa phương.

Điều 46. Trách nhiệm của Bộ Công an
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan trong phòng, chống ma túy; tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin tội phạm về ma túy; kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy theo thẩm quyền.
3. Tổ chức công tác giám định chất ma túy và tiền chất.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
5. Hướng dẫn việc lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, người bị quản lý sau cai nghiện ma túy.
6. Chủ trì thực hiện thống kê nhà nước về phòng, chống ma túy; quản lý thông tin tội phạm về ma túy, người sử dụng trái phép chất ma túy, người nghiện ma túy, người bị quản lý sau cai nghiện ma túy và kết quả kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy.
7. Thực hiện hợp tác quốc tế về phòng, chống ma túy.

Điều 47. Trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan và chính quyền địa phương hướng dẫn việc tổ chức cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện ma túy.
3. Hướng dẫn việc thành lập, giải thể và tổ chức hoạt động của cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện ma túy.
5. Hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống ma túy trong hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
6. Thực hiện hợp tác quốc tế về cai nghiện ma túy.
7. Thống kê người nghiện ma túy đang cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện ma túy.

Điều 48. Trách nhiệm của Bộ Quốc phòng
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Tổ chức thực hiện kế hoạch phòng, chống ma túy ở khu vực biên giới trên đất liền, trên biển, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
3. Chỉ đạo lực lượng Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển Việt Nam chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan, lực lượng chức năng để tiếp nhận, xử lý thông tin tội phạm về ma túy, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy tại khu vực, địa bàn quy định tại khoản 2 Điều này theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy của Bộ đội Biên phòng và Cảnh sát biển Việt Nam.
5. Thống kê người nghiện ma túy trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ do Bộ Quốc phòng quản lý.

Điều 49. Trách nhiệm của Bộ Y tế
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.
2. Thực hiện việc nghiên cứu thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy; cấp, thu hồi giấy phép lưu hành thuốc, phương pháp cai nghiện ma túy; hỗ trợ về người, chuyên môn kỹ thuật y tế để cai nghiện ma túy.
3. Thống kê người đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế.

Điều 50. Trách nhiệm của Bộ Tài chính
Chỉ đạo cơ quan Hải quan thực hiện hoạt động phòng, chống ma túy theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Chương IV QUẢN LÝ NGƯỜI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Điều 22. Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể
1. Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể được thực hiện đối với người thuộc trường hợp sau đây:
a) Người bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người mà cơ quan, người có thẩm quyền có căn cứ cho rằng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy đang trong thời hạn quản lý;
d) Người đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; đang cai nghiện ma túy; đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; đang trong thời hạn quản lý sau cai nghiện ma túy.

2. Người đứng đầu cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tiến hành xét nghiệm chất ma túy theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan, người có chuyên môn xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.
Trường hợp có kết quả xét nghiệm dương tính thì gửi ngay kết quả đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người có kết quả xét nghiệm dương tính cư trú, trừ trường hợp người đó đang cai nghiện ma túy bắt buộc.
3. Nhà nước bảo đảm kinh phí xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 23. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là biện pháp phòng ngừa nhằm giúp người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của họ. Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy không phải là biện pháp xử lý hành chính.
2. Thời hạn quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là 01 năm kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định quản lý.
3. Nội dung quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm:
a) Tư vấn, động viên, giáo dục, giúp đỡ người sử dụng trái phép chất ma túy để họ không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể;
c) Ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội.
4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả xét nghiệm dương tính của người cư trú tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương.
5. Trong thời hạn quản lý, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ra quyết định dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy trong các trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng trái phép chất ma túy được xác định là người nghiện ma túy;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng;
d) Người sử dụng trái phép chất ma túy phải thi hành án phạt tù;
đ) Người sử dụng trái phép chất ma túy trong danh sách quản lý chết, bị Tòa án tuyên bố là mất tích.
6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 24. Trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của mình cho công an cấp xã nơi cư trú.
2. Chấp hành việc quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã.

Điều 25 Trách nhiệm của gia đình, .cơ quan, tổ chức, cộng đồng trong quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Gia đình người sử dụng trái phép chất ma túy có trách nhiệm sau đây:
a) Quản lý, giáo dục người sử dụng trái phép chất ma túy; ngăn chặn hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Cung cấp thông tin về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của người sử dụng trái phép chất ma túy cho công an cấp xã nơi người đó cư trú;
c) Ngăn chặn người sử dụng trái phép chất ma túy có hành vi gây mất trật tự, an toàn xã hội;
d) Phối hợp với cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể.
2. Cơ quan, tổ chức nơi người sử dụng trái phép chất ma túy làm việc, cộng đồng nơi người sử dụng trái phép chất ma túy sinh sống có trách nhiệm sau đây:
a) Động viên, giúp đỡ, giáo dục người sử dụng, trái phép chất ma túy; ngăn chặn hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Phối hợp với gia đình, cơ quan có thẩm quyền đưa người sử dụng trái phép chất ma túy đi xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể.

Điều 26. Lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy
1. Công an cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương.
2. Khi người sử dụng trái phép chất ma túy thay đổi nơi cư trú thì công an cấp xã nơi chuyển đi có trách nhiệm thông báo cho công an cấp xã nơi chuyển đến trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày người đó chuyển khỏi địa phương để đưa vào danh sách và tiếp tục quản lý.
3. Công an cấp xã giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp đưa ra khỏi danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy trong các trường hợp sau đây:
a) Người sử dụng trái phép chất ma túy không có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian quản lý quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này;
b) Người sử dụng trái phép chất ma túy thuộc trường hợp dừng quản lý quy định tại khoản 5 Điều 23 của Luật này;
c) Người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển đến cư trú ở địa phương khác.

Chương III KIỂM SOÁT CÁC HOẠT ĐỘNG HỢP PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN MA TÚY

Điều 12. Các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
1. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy là hoạt động được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép, bao gồm:
a) Nghiên cứu, giám định, kiểm nghiệm, kiểm định, sản xuất chất ma túy (không bao gồm trồng cây có chứa chất ma túy), tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
b) Vận chuyển, bảo quản, tồn trữ, mua bán, phân phối, sử dụng, xử lý, trao đổi chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất;
c) Nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc và thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất.
2. Hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy quy định tại khoản 1 Điều này được kiểm soát chặt chẽ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Điều 13. Kiểm soát hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy, tiền chất

1. Hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất chất ma túy (không bao gồm trồng cây có chứa chất ma túy), tiền chất phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo dõi, kiểm tra, giám sát.
2. Chính phủ quy định cơ quan có thẩm quyền cho phép, trình tự, thủ tục cho phép, việc theo dõi, kiểm tra, giám sát quy định tại khoản 1 Điều này.

Điều 14. Kiểm soát hoạt động vận chuyển chất ma túy, tiền chất
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì được vận chuyển chất ma túy, tiền chất; khi thực hiện việc vận chuyển phải đóng gói, niêm phong theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; chịu trách nhiệm về số lượng, chất lượng, có biện pháp bảo vệ an toàn, không để bị thất thoát trong quá trình vận chuyển và chịu sự theo dõi, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 15. Kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc
Việc kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiên chất dùng làm thuốc thực hiện theo quy định của pháp luật về dược, trừ hoạt động quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 17 của Luật này.

Điều 16. Kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất
Việc kiểm soát hoạt động liên quan đến thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Điều 17.Kiểm soát hoạt động nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc
1. Các hoạt động sau đây phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép:
a) Nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập chất ma túy, tiền chất;
b) Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là được chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc.
2. Hoạt động quá cảnh lãnh thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc phải theo đúng hành trình đã ghi trong giấy phép quá cảnh. Cơ quan, tổ chức thực hiện việc quá cảnh phải làm thủ tục, chịu sự kiểm soát của cơ quan Hải quan và cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 18. Lập hồ sơ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tiến hành hoạt động quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này có trách nhiệm lập hồ sơ và báo cáo theo quy định của Chính phủ.

Điều 19. Kiểm soát hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy vì mục đích quốc phòng, an ninh
Hoạt động nghiên cứu, giám định, sản xuất, vận chuyển, tồn trữ, bảo quản, sử dụng, nhập khẩu, xuất khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập, quá cảnh chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất vì mục đích quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Điều 20. Kiểm soát thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất vì mục đích sơ cứu, cấp cứu trong cuộc hành trình, du lịch quốc tế, điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh
1. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất dự phòng cho việc sơ cứu, cấp cứu trên tàu thủy, tàu bay, tàu hỏa, ô tô hoặc các phương tiện vận tải khác trong cuộc hành trình, du lịch quốc tế không bị coi là mang hàng xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh lãnh thổ Việt Nam.
Người chỉ huy, người điều khiển phương tiện vận tải có trách nhiệm khai báo với cơ quan Hải quan của Việt Nam, giải trình về số lượng thuốc đã sử dụng, áp dụng các biện pháp an toàn thích hợp để ngăn chặn việc sử dụng không đúng mục đích hoặc vận chuyển trái phép các thuốc đó và chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
2. Việc mang theo thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất để điều trị bệnh cho bản thân người nhập cảnh, xuất cảnh hoặc quá cảnh lãnh thổ Việt Nam thực hiện theo quy định của Chính phủ và chịu sự kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

Điều 21. Xử lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất thu giữ trong vụ việc vi phạm pháp luật
Chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, tiền chất dùng làm thuốc, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất bị thu giữ trong các vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính được xử lý theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN

NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ AMPHETAMIN VÀ CÁC CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN
(AMPHETAMIN VÀ AMPHETAMIN - LIKE)


Bs. Nguyễn Hữu Khánh Duy
GĐ. Trung tâm Điều Dưỡng & Cai Nghiện Ma Túy Thanh Đa


Nghiện là trạng thái lệ thuộc, thèm muốn bất thường, kéo dài, không kiểm soát được đối với chất gây nghiện mà người nghiện sử dụng để tìm kiếm sự khoái cảm, êm dịu hoặc hưng phấn, gây hậu quả nặng nề cho bản thân, gia đình và xã hội.


I. PHÂN LOẠI MA TÚY: Có nhiều cách phân loại


1. PHÂN LOẠI THEO PHÁP LUẬT:


Ma túy hợp phápbất hợp pháp


2. PHÂN LOẠI THEO NGUỒN GỐC:


    • Ma túy có nguồn gốc thiên nhiên: Thuốc phiện, Cần sa, Cocaine, …
    • Ma túy bán tổng hợp: Morphin, Heroin, Codeine…
    • Ma túy tổng hợp: Dolargan, Promedol, Amphetamine, Ecstasy …

3. PHÂN LOẠI THEO DƯỢC LÝ LÂM SÀNG:

    • Ma túy êm dịu: Thuốc phiện, Morphine, Heroin…
    • Ma túy kích thích: Cocaine, Amphetamin, Ecstasy…
    • Ma túy gây ảo giác: LSD, Mescaline, Phencyclidine…
    • Thuốc giảm đau, gây ngủ: Bezodiazepine, Phénobarbital, Iménoctal …

II. AMPHETAMIN VÀ MỘT SỐ CHẤT GIỐNG AMPHETAMIN:


Amphetamin và các chất giống amphetamin là chất ma túy có nguồn gốc tổng hợp và là chất gây nghiện dạng kích thích.


Các loại ma túy này chủ yếu là chất tổng hợp có cấu trúc hóa học tương tự giống nhau và có tác dụng kích thích ở mức độ khác nhau lên hệ thần kinh trung ương. Dựa trên các cơ sở tác dụng dược lý điển hình ở liều thông thường, nhóm chất này bao gồm các chất kích thích hệ thần kinh trung ương như AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHYLPHNIDAT và các chất Entactogen còn gọi là các chất dạng “Ecstasy” như MDMA, MDA, và MDEA.



1.AMPHETAMIN CỔ ĐIỂN:


Là một chất thuộc nhóm ma túy tổng hợp lớn có tác dụng kích thích mạnh mẽ lên hệ thần kinh trung ương. Các loại ma túy phổ biến nhất của nhóm này là AMPHETAMIN, METHAMPHETAMIN và METHCATHINON.


Amphetamin bán trên đường phố có nhiều tên gọi khác nhau: các tên phổ biến nhất là “speed” (Amphetamin và methamphetamin), “ice” (methamphetamin), và “cat” (methcathinon). Amphetamin trôi nổi trên thị trường bất hợp pháp dưới các hình thức dạng bột trắng hay bột nhuộm màu, dạng kết tinh (như “ice”), viên néndung dịch (như “methcathinon”).


Amphetamin thường sử dụng qua đường miệng, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới.


Sở dĩ loại ma túy này được nhiều người ưa chuộng bởi nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, tâm trạng phấn khích, lâng lâng khoái cảm, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và làm việc trí não. Đây chính là nguyên nhân khiến amphetamin trở nên hết sức phổ biến đối với các đối tượng là sinh viên, vận động viên thể dục thể thao, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, binh lính...vv.

Ảnh hưởng đặc thù của amphetamin đối với cơ thể người dùng là khi sử dụng liều thấp nó sẽ làm tăng nhịp tim, nhịp thở, tăng huyết ápthân nhiệt, đổ mồ hôi, giãn đồng tử, ráo miệng, tiêu chảy, ăn kém ngon. Liều cao amphetamin làm cho tất cả các triệu chứng nói trên trở nên cường phát và dẫn đến hậu quả khiến người dùng trở nên lắm lời, hung hăng, táo tợn, mất ngủ và không còn khả năng suy xét.

Sử dụng amphetamin lâu ngày thường dẫn đến hậu quả thay đổi hành vi tâm tính, có hành động khác lạ, bồn chồn hiếu động, cảm giác khó chịu, trở nên hung hãn; đôi khi dẫn đến hoảng loạn, tâm thần hoang tưởng. Ngừng sử dụng sau một thời gian dài dùng thuốc hay dùng liều cao sẽ gây phản ứng xuất hiện hội chứng cai: buồn chán, u uất, cơ thể mệt mỏi, ngủ không ngon giấc và hay mê sảng.


Ngay từ những năm 1930, nhiều loại Amphetamin đã được sử dụng trong y học nhằm mục đích điều trị. Sau đó có rất nhiều người phủ nhận tác dụng chữa bệnh của nó, bởi lẽ có quá nhiều bằng chứng hiển nhiên cho thấy amphetamin có ảnh hưởng độc hại rất lớn, thậm chí cả gây nghiện cho người sử dụng.
Nhiều nước trên thế giới nhận thấy sở dĩ xảy ra tình trạng lạm dụng tràn lan loại ma túy này là do thiếu quản lý chặt chẽ việc kê toa thuốc, cũng như do thất thoát từ các nguồn phân phối hợp pháp.
Hiện nay, amphetamin và các chất liên quan chỉ được hạn chế sử dụng để điều trị bệnh ngủ lịm và chứng rối loạn hiếu động thiếu tập trung. Nhiều nước đã khuyến nghị không nên dùng amphetamin để làm thuốc biếng ăn chữa bệnh béo phì.


2. AMPHETAMIN MỚI:


2.1 MDMA/ THUỐC LẮC


Methylendioxymethylamphetamin, còn gọi là “ecstasy” là chất kích thích tổng hợp dòng amphetamin. Lần đầu tiên được tổng hợp năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng chưa bao giờ được công nhận là thuốc đã đăng k‎ý. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới.
MDMA bị quốc tế kiểm soát.

MDMA được chế tạo tại những địa điểm bí mật dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau; cũng có khi làm thành viên nhộng nhưng ít hơn. Liều dùng từ 75 đến 150 mg.


Ecstasy là một chất kích thích tuy có khác so với các chất kích thích dạng amphetamin cổ điển. Nó có tác dụng gây ảo giác nhẹ. Gây cảm giác khỏe khoắn, thể lực cường tráng, ân cần săn sóc mọi người, xúc động mạnh mẽ, phấn khích, thích giao đãi, tiếp xúc trò chuyện.


MDMA liều thấp gây bồn chồn, lo lắng; khi dùng liều cao gây ảo giác về hình ảnh và âm thanh rất rõ. Nó cũng làm tăng huyết ápnhịp đập tim, gây buồn nôn, ói mửa. Dùng thường xuyên trong một thời gian dài gây nên những ảnh hưởng nguy hại như các chất kích thích tổng hợp khác như ngộ độc thần kinh, tổn thương não và gan.


Ít thấy các trường hợp ngộ độc cấp MDMA; tử vong do sử dụng ecstasy cũng rất hiếm. Tuy nhiên đã có báo cáo về các trường hợp tử vong sau khi dùng thuốc ở vũ trường, hộp đêm; những trường hợp này xảy ra là do cơ thể không đáp ứng kịp thời với nhiệt độ xung quanh quá cao (khả năng điều nhiệt kém), kết hợp với tình trạng cơ thể thiếu nước nghiêm trọng.


2.2 MDA:


Methylenedioxyamphetamine là chất ma túy tổng hợp dòng amphetamin rất giống ecstasy (MDMA). Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được tung ra thị trường như một loại thuốc hợp pháp. Tác dụng của nó đối với hành vi nhân cách đã được nghiên cứu vào thập niên 1960, và bắt đầu từ đó xuất hiện trên thị trường bất hợp pháp đầu tiên ở Mỹ rồi lan ra toàn thế giới.
Tác dụng giống như tác dụng của MDMA, tuy có hơi khác một chút. Nó gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMAcó thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 tiếng so với MDMA chỉ có 3 – 5 tiếng). MDA thường được chế tạo tại những địa điểm bí mật để thay thế cho MDMA và tung ra thị trường dưới dạng độc lập hay kết hợp với các loại ma túy khác.


2.3 MDEA:


Methylendioxyethylamphetamin là chất tổng hợp dòng amphetamin có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Chất này chưa bao giờ được công nhận là thuốc hợp pháp. Tiếng lóng gọi là “Eve”, MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, trốn tránh kiểm soát và buôn bán dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác. Tác dụng chính của MDEA cũng giống tác dụng của MDMA, nhưng kém phần hấp dẫn hơn. Để đối phó với dịch ecstasy ở Mỹ và Châu Âu, MDEA được liệt kê vào trong bảng xếp hạng các chất bị quốc tế kiểm soát.


III. DỊCH TỄ HỌC


Nghiện Amphetamin thấy ở mọi tầng lớp xã hội.

Phổ biến hơn ở nhóm “nghề nghiệp áo trắng”: sinh viên học thi, lái xe tải đường dài, vận động viên thể thao trong thi đấu, các doanh nghiệp trước các công việc quan trọng…


Lúc đầu, dùng APT để tăng sự tỉnh táo, tăng năng xuất công việc, chống mệt mỏi… rồi nhanh chóng trở thành lạm dụng và nghiện APT.


Ở Mỹ:

  • Sử dụng ATS trong chiến tranh thế giới lần thứ 2.
  • Quân đội Mỹ: Phi công được sử dụng để giúp họ tỉnh táo.
  • Quân đội Đức: Sử dụng thuốc ATS sản xuất trong nước với tên biệt dược là Pervitin. Hitle được bác sĩ riêng, Theodore Morell tiêm hàng ngày.
  • Sử dụng ATS trong các cuộc chiến gần đây.
  • Binh lính được khuyến khích dùng Amphetamin cả trong chiến tranh Việt Nam và chiến tranh Triều Tiên.
  • Hiện nay ATS vẫn được phép sử dụng trong quân đội Mỹ.
  • 57% phi công Mỹ trở về sau chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 họ nói thường xuyên sử dụng ATS.

Năm 1991: 7% dân số dùng APT ít nhất 1 lần/ năm và 1% nghiện. Nhóm tuổi từ 18 – 25 có tỷ lệ cao nhất, nhóm 12- 17 có tỷ lệ nghiện đáng bao động (tỷ lệ tiêm chích chiếm 22%).


Năm 1992: 13,9% sinh viên đại học và cao đẳng nghiện APT và năm 1994: tăng đến 15,7%.


Ở Nhật:

Năm 1948 có 50% người tuổi từ 18 – 25  nghiện APT và APT hiện vẫn là chất ma túy chủ yếu.


Năm 1994 – 1995: số người nghiện APT ở Thụy Sĩ là 8%., Đức 2,8%, Tiệp Khắc 1,6%. Australia 25% nam, 12% nữ tuổi từ 20 – 24 đã thử dùng APT...


5% sinh viên ở Sao Paolo, Brazil nghiện APT. Chi Lê 4,5% dân tuổi 12 – 64 nghiện APT...


Xuất hiện bất hợp pháp tại Việt Nam từ cuối những năm 90 của Thế kỷ trước, hiện ATS đã có mặt ở tất cả các tỉnh, thành phố.


ATS được dùng phổ biến ở Việt NamMethamphetamineEctasy với các tên lóng như: đá, thuốc lắc, hồng phiến, viên nữ hoàng, ngọc điên, yaba..


ATS được dùng phổ biến trong nhóm người nghiện ma túy là những thanh niên con nhà khá giả ở những thành phố lớn.


  • Thống kê tại bệnh viện Tâm thần Hà Nội cho thấy cả năm 2010 chỉ có 9 bệnh nhân sử dụng nhóm ATS nhập viện thì năm 2011 số bệnh nhân tăng hơn 10 lần (93 người). Riêng 3 tháng đầu năm 2012 nguyên số bệnh nhân ra viện sau điều trị bệnh lý đã là 15 người.
  • Tại Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa, thống kê cho thấy số học viên sử dụng nhóm ATS như sau:

Thời gian

Số học viên sử dụng ATS

Số học viên

sử dụng ATS

 

 

          Tổng số  học viên nhập

Trung tâm

Số học viên được Bệnh viện Tâm thần điều trị

Số học viên

được Bệnh viện

Tâm thần

điều trị

 

Tổng

số  học viên

sử dụng ATS

2005

04

0,56%

00

0%

2006

05

0.9%

00

0%

2007

22

2.1%

00

0%

2008

43

2,93%

02

 

4.65%

 

2009

69

4.75%

04

 

5.79%

 

2010

140

9.7%

29

20.71%

2011

255

16.95 %

55

21.57%

2012

361

22,83%

67

18.56%

Kết quả trên cho thấy:

  • Số học viên sử dụng ma túy ATS tăng đều mỗi năm. Hiện nay khoảng 17% so với tổng số học viên cai nghiện ma túy tại Trung tâm.
  • Số học viên có vấn đề tâm thần buộc điều trị từ 20 – 25 % trên tổng số học viên sử dụng ma túy nhóm ATS.

IV. CƠ CHẾ TÁC DỤNG:


Tất cả các loại Amphetamin đều hấp thu nhanh qua đường uốngtác động lên hệ thần kinh trung ương xảy ra nhanh trong vòng 1 giờ sau khi uống. Các Amphetamin cổ điển cũng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch do nó có hiệu quả ngay lập tức. Ngoài ra Amphetamin mới cũng như loại không được kê đơn cũng được sử dụng hít qua đường mũi. Sự dung nạp cũng được xảy  ra với 2 loại Amphetamin nói trên, mặc dù người sử dụng Amphetamin thường vượt qua sự dung nạp bằng cách sử dụng nhiều ma túy hơn. Amphetamin gây nghiện yếu hơn cocaine.


  • Các loại Amphetamin cổ điển (dextroamphetamine, methamphetamine và methylphenidate) có hiệu quả ban đầu của nó bằng cách gây tăng phóng thích cathecoliamine, đặc biệt dopamine ở tận cùng tiền synapse. Các hiệu quả đặc biệt mạnh với các nơ ron dopaminergic ở vùng nhân tegment, nhân bụng của vỏ não và vùng hồi viền. Đường này đã được xác định là đường củng cố tích cực và sự kích hoạt nó hiển nhiên là cơ chế gây nghiện mạnh đối với các Amphetamine.

  • Các loại amphetamine mới ( MDMA, MDEA. MNDA, và DOM) gây ra sự phóng thích Cathecholamine (dopamine và norepinephrine) và serotonin. Serotonin là chất vận chuyển thần kinh được chứng tỏ như là đường hóa học thần kinh chủ yếu liên quan đến tác động gây ảo giác. Tuy nhiên hiệu quả lâm sàng của các Amphetamine mới cũng gây dung nạp chéo với các Amphetamine cổ điểngây ảo giác. Dược lý của MDMA (thuốc lắc) được biết rất rõ trong nhóm này, nó có ái lực với các nơ ron serotoninergic qua việc chịu trách nhiệm vận chuyển serotonin, qua việc thu hồi serotonin. Khi vào tế bào thần kinh, MDMA gây ra một sự phóng thích nhanh serotoninức chế sản xuất ra các enzyme phân hủy serotonin.

  • MDMA còn có tên gọi khác là Ectasy, thuốc lắc, XTC, E, Eva & Adam …

V. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG:

    1. VỀ CƠ THỂ:
  • Hiệu quả trên mạch máu não, tim, dạ dày và ruột là một trong những tác dụng không mong muốn nghiêm trọng nhất khi sử dụng amphetamine.
  • Tình trạng đe dọa cuộc sống đặc trưng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch máu nãoviêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng amphetamine thường có hành vi tình dục không an toàn.
  • Các tác dụng không mong muốn ít đe dọa cuộc sống hơn bao gồm nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng.
  • Ở phụ nữ có thai lạm dụng amphetamine thường có thai nhi nhẹ cân, vòng đầu nhỏ, đẻ non, thai chậm lớn.

    1. VỀ TÂM THẦN:

Tác dụng không mong muốn về tâm thần liên quan tới sử dụng amphetamin bao gồm bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, trở nên thù địch và lú lẫn. các triệu chứng của rối loạn lo âu như rối loạn lo âu toàn thể và rối loạn hoảng sợ có thể do amphetamin gây ra. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể do sử dụng amphetamin gây ra.

  • Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các tác dụng sau:

Hiệu quả ngắn hạn: cảm giác quan hệ với người khác, co cơ, nhịp tim nhanh, mất men răng, khô miệng, hay giật mình, nhìn thấy đồ vật lấp lánh, run, đánh trống ngực, vã mồ hôi, dị cảm, khó tập trung, mất ngủ, có cơn nóng lạnh, tăng nhạy cảm với lạnh, choáng váng hoặc chóng mặt, ảo thị, nhìn mờ.

Hiệu quả trung hạn: tình trạng ngủ lơ mơ, uể oải, đau cơ hoặc mệt mỏi, cảm giác thân thiện với người khác, trầm cảm, căng cơ hàm (nghiến răng), khó tập trung chú ý, đau đầu, khô miệng, lo âu, buồn rầu, sợ hãi, dễ cáu kỉnh.


VI. CHẨN ĐOÁN NGHIỆN VÀ LẠM DỤNG APT:

  • tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ma túy chung của ICD-10.
  • Sử dụng APT (và giống APT) người nghiện không có sự lệ thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể nên có thể có vài ngày hay vài tuần không dùng thuốc.
  • Nghiện APT có thể gây giảm sút nhanh khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống.
  • Người nghiện APT luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác phê trước đó.

VII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI NHIỄM ĐỘC AMPHETAMIN.

  1. Thường xuyên dùng APT hoặc giống APT.
  2. Có các thay đổi về tâm lý và hành vi không thích hợp rõ rệt trên lâm sàng:
    • Khoái cảm, cùn mòn cảm xúc.
    • Mất ngủ, lo âu, căng thẳng, giận dữ
    • Các hành vi có tính định hình
    • Giảm khả năng xét đoán, khả năng lao động xã hội.

Các triệu chứng này xuất hiện trong khi sử dụng hay một thời gian ngắn sau khi sử dụng APT.

  1. Có 2 hoặc nhiều hơn các triệu chứng sau:

+       Giãn đồng tử

+       Tăng, giảm nhịp tim

+       Tăng, giảm huyết áp

+       Toát mồ hôi, rét run

+       Buồn nôn, nôn

 

+       Sút cân

+       Kích động, ức chế trung tâm vận động.

+       Đau ngực, ức chế hô hấp

+       Lú lẫn hay hôn mê

+       Mỏi cơ, co giật, loạn trượng lực cơ.


    Các triệu chứng này không do một bệnh cơ thể nào khác gây ra và không ghép được vào một rối loạn tâm thần nào khác.

VIII. CHẨN ĐOÁN TRẠNG THÁI LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:

(Amphetamine Inducd Psychosis)

  • Biểu hiện cốt lõi là h/c paranoid với các đặc trưng:
    • Nhiều ảo thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn và ảo thanh.
    • Các ảo giác chiếm ưu thế trong bệnh cảnh.
    • Các hoang tưởng thường gặp là: hoang tưởng liên hệ, bị truy hại, đôi khi có cả hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy bị cài đặt, bị bộc lộ.
  • Tăng hoạt động hoặc rối loạn hành vi theo ảo giác chi phối
  • Tăng tình dục (hypersexuality)
  • Bối rối lẫn lộn, đôi khi tư duy rời rạc không liên quan.
  • Triệu chứng thường xuất hiện cấp diễn ở những người nghiện APT lâu ngày hoặc kèm nhiễm độc rượu, stress.
  • Phân biệt với tâm thần phân liệt: triệu chứng giảm dần vài ngày khi được điều trị hoặc xét nghiệm nước tiểu đã tìm thấy chất ma túy.

IX. HỘI CHỨNG CAI AMPHETAMIN:

  • Biểu hiện hội chứng cai có thể xuất hiện từ vài giờ đến vài ngày sau khi ngưng sử dụng APT.
  • Các triệu chứng đạt cường độ tối đa trong vòng 2 - 4 ngày sauhết sau khoảng một tuần.
    • Triệu chứng nặng nề nhất là trầm cảm. Ở người nghiện dài ngày, sử dụng ma túy liều cao thì trầm cảm thường rất nặng, có thể có ‎ý tưởng và hành vi tự sát.

1.Chẩn đoán hội chứng cai (DSM - IV):

  • Hội chứng xảy ra do ngừng hay giảm sử dụng APT (hoặc giống APT) ở người nghiện (đã dùng liều cao và kéo dài...)
  • rối loạn khí sắc và có 2 hoặc nhiều hơn các rối loạn sau đây (xuất hiện sau khi ngừng sử dụng APT một vài giờ hay một vài ngày).
    • Mệt mỏi
    • Có những giấc mơ đáng sợ.
    • Mất ngủ hay ngủ nhiều.
    • Tăng cảm giác ngon miệng.
    • Kích thích hoặc ức chế tâm thần vận động.

2.  Các triệu chứng này thể hiện rõ rệt và gây rối loạn các hoạt động xã hội, lao động.


3.  Các triệu chứng này không phải do một bệnh lý cơ thể hay rối loạn thần khác gây ra.


X. ĐIỀU TRỊ: Phương pháp điều trị.

  • Điều trị hội chứng cai - giải độc - chống tái nghiện.
  • Các rối loạn loạn thần do Amphetamin
  • Trầm cảm, ủ rũ…LQ Amphetamin
  • Phương pháp dựa trên cộng đồng.

  1. ĐIỀU TRỊ HỘI CHỨNG CAI - GIẢI ĐỘC - CHỐNG TÁI NGHIỆN:
  • Lệ thuộc về cơ thể ở nhiện APT không nặng như nghiện chất ma túy khác (Opiod…).
  • Việc tái nghiện vẫn rất phổ biến vì tác động trên tâm thần của thuốc rất mạnh tăng thêm sau mỗi lần dùng => “đói chất ma túy trường diễn” trong não.
  • Điều trị hội chứng cai và chống tái nghiện cần phải phối hợp nhiều liệu pháp: hóa dược, tâm l‎ý cá nhân, gia đình, nhóm, lao động, tái thích ứng cộng đồng…
  • Cần thiết lập tốt mối quan hệ điều trị sau cai để giúp giải quyết các rối loạn trầm cảm, nhân cách…kéo dài.
  • Điều trị bằng thuốc để giải độc có thể dùng:
  • Chất đồng vận hệ Dopamine như:
    • Amantadine 100mg x 2 lần/ngày…
    • Bromocriptine 2,5mg x 2 lần/ngày…
  • Thuốc chống trầm cảm 3 vòng
  • Các thuốc chỉnh khí sắc; carbamazepine…

  1. ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LOẠN THẦN DO AMPHETAMIN:
  • Các rối loạn, loạn thần sẽ thoái triển một thời gian ngắn sau khi ngừng sử dụng APT.
  • Rối loạn, loạn thần nặng có thể dùng các thuốc đặc hiệu: các ATK (Haloperiol, Phenothianol,…)
  • Thuốc giải lo âu: Benzodiazepine… thường cần sử dụng trong một thời gian ngắn (7 ngày).

  1. ĐIỀU TRỊ TRẦM CẢM, Ủ RŨ:

Cân nhắc chọn loại thuốc chống trầm cảm (có thể dùng chống trầm cảm 3 vòng).

  • Có thể dùng từ giai đoạn điều trị giải độc
  • Cân nhắc điều trị duy trì nếu kéo dài.

  1. PHƯƠNG PHÁP DỰA TRÊN CỘNG ĐỒNG:

4.1. Các quy tắc giảm nguy cơ (tác hại):

  • Giảm nguy cơ dựa trên khái niệm về “bậc thang mục tiêu điều trị”
  • Thừa nhận rằng, đối với một số người, việc từ bỏ ma túy là rất khó khăn tái nghiện là một phần của quá trình phục hồi.
  • Thừa nhận rằng cần có các can thiệp tạm thời để đảm bảo rằng người sử dụng không bị ảnh hưởng sức khỏe không thể hồi phục (như bị nhiễm HIV/Viêm gan B hoặc C) hoặc tử vong do quá liều hoặc hành vi nguy cơ khác.

4.2. Giảm nguy cơ, các nấc thang mục tiêu:

  • Nếu không thể ngừng sử dụng ma túy trong thời gian ngắn:
    • Giảm số loại ma túy và số lượng từng loại (VD: tiêu ít tiền hơn cho ma túy).
    • Giảm số lần dùng (như chỉ dùng vào cuối tuần; một lần/tháng, trong các dịp đặc biệt).
    • Không tiêm chích ma túy
    • Nếu tiêm chích, không chích chung.
    • Nếu dùng chung, đảm bảo rằng bơm kim tiêm được làm sạch.

4.3. Giảm nguy cơ/ giảm tác hại:


Kết quả tích cực từ mạng lưới can thiệp đồng đẳng:

  • Thử nghiệm ngẫu nhiên can thiệp đồng đẳng trong nhóm thanh thiếu niên sử dụng Methamphetamine ở ChiangMai, Thái Lan (2005 - 2007).
  • Đối tượng trong cả hai nhóm đều báo cáo giảm sử dụng Methamphetamine rõ rệt (99% trong đánh giá ban đầu so với 53% sau 12 tháng).
  • Tăng sử dụng bao cao su liên tục rõ rệt, (32% trong đánh giá ban đầu lên 44% sau 12 tháng).

4.4. Các chiến lược giảm tác hại cụ thể:

  • Tầm quan trọng của lập kế hoạch: khi người sử dụng nói kiên quyết “tôi sẽ không từ bỏ, tôi chỉ muốn giảm sử dụng”, các chiến lược có thể bao gồm hỗ trợ người sử dụng:
    • Sử dụng ít hơn (tập trung vào mức độ sử dụng: số lượng hoặc số tiền tiêu cho chất gây nghiện).
    • Giảm tần xuất sử dụng (chỉ sử dụng vào cuối tuần; 1 lần/tháng).
    • Ổn định vể tâm lý xã hội: giúp ổn định các lĩnh vực khác trong cuộc sống của người sử dụng để họ lấy lại cảm giác kiểm soát được việc sử dụng chất gây nghiện của họ (xây dựng sự tự kiểm soát).
  • Tất cả những biện pháp có tác dụng trong giảm tác hại đối với chất dạng thuốc phiện đều có tác dụng với Amphetamin:
    • Hoạt động đồng đẳng, giáo dục thay đổi hành vi nguy cơ.
    • Điều trị nghiện hiệu quả dựa trên bằng chứng được triển khai để lôi cuốn sự tham gia, duy trì và đem lại lợi ích cho người sử dụng chất.
    • Các chương trình trao đổi bơm kim tiêm/bao cao su.

4.5.Chương trình giảm tác hại cho người sử dụng chất kích thích:

  • Chương trình trao đổi bơm kim tiêm tại cộng đồng:
    • Nhân viên còn tiến hành phân phát bơm kim tiêm tại nhà và tại cộng đồng
    • Tiếp cận đồng đẳng trao đổi bơm kim tiêm thứ cấp
  • Người sử dụng nhận dịch vụ tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm về giảm tác hại
    • Chuyên biệt cho sử dụng chất kích thích
  • Người sử dụng được tiếp cận với dịch vụ tư vấnxét nghiệm HIV, thông tin về HCV, các thông tin sức khỏe khác và được hỗ trợ khi cần.
  • Người sử dụng được tiếp cận với các nguồn dịch vụ giảm tác hại khác nhau.

4.6. Các giải pháp khác:

  • Khuyến nghị:
    • Củng cố luật pháp
    • Giải quyết bạo lực gia đình
    • Vấn đề y tế công cộng STD/HIV
    • Phúc lợi cho trẻ em
    • Các bệnh nhiễm trùng
    • Lạm dụng chất gây nghiện
    • Sức khỏe tâm thần
    • Đào tạo cán bộ điều trị
    • Giáo dục
    • Thông tin đại chúng

XI. TÓM TẮT

  • Sử dụng ATS theo đường nuốt là đường dùng phổ biến nhất tại Việt Nam và đang gia tăng
  • Hãy duy trì đường sử dụng như vậy
  • Can thiệp sớm và dự phòng
  • Nguy cơ tiêm chích có thể giảm nếu tiếp cận được các dụng cụ để hút (dự phòng Viêm gan B, C, HIV).
  • Giảm nguy cơ tình dục không an toàn
  • Dự phòng sử dụng gây loạn thần.

ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA CỦA CÁC NẠN NHÂN BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL

ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG RƯỢU/BIA

ĐỐI VỚI CÁC NẠN NHÂN

BỊ TAI NẠN GIAO THÔNG

NHẬP VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ SAINT–PAUL


(Đề tài do Ủy ban An toàn Giao thông và GRSP đề nghị)

   Chủ nhiệm đề tài: 

 PGS.TS. Nguyễn Thị Thiềng 
Thành viên nhóm nghiên cứu:

 TS. Nguyễn Thị Minh Hoà; ThS. Hà Tuấn Anh


1.  Lý do nghiên cứu 


Vai trò của rượu bia trong tai nạn thương tích được nhấn mạnh trong nhiều tài liệu đang được lưu giữ ở các nước kinh tế phát triển. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vai trò của rượu bia liên quan đến tai nạn thương tích đặc biệt đáng báo động ở các nước đang phát triển, nơi mà việc tiêu thụ rượu bia và tai nạn thương tích ngày càng tăng trong khi các chính sách về y tế công cộng vẫn còn tỏ ra thiếu hiệu quả.

Ở Việt Nam, thiếu dữ liệu mang tính khoa học về tiêu thụ rượu bia và mối quan hệ giữa sử dụng rượu bia với tai nạn thương tích, để có thể đưa ra chính sách phòng chống sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Tác động của nồng độ cồn đến tai nạn thương tích không được ghi lại một cách hệ thống và đầy đủ. Điều này đã được các bệnh viện, cảnh sát hoặc các nhân viên điều tra xác nhận.

Hiện nay, chưa có một nghiên cứu ở tầm quốc gia và chưa có một hệ thống giám sát theo dõi những ảnh hưởng của sử dụng rượu bia đến tai nạn giao thông. Hơn nữa, mặc dù các thương tích do tai nạn giao thông đường bộ chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước về mức độ phổ biến và mức độ nghiêm trọng trong số các loại hình thương tích, hệ thống báo cáo hiện nay đã không đánh giá đúng khía cạnh quan trọng nhất của vấn đề này.


Giống như tốc độ, sự tiêu thụ rượu bia làm tăng xác suất xảy ra các vụ va chạm và gây hậu quả tử vong hoặc các thương tích nghiêm trọng. Sự suy yếu gây ra bởi rượu bia là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cả nguy cơ gây ra tai nạn trên đường cũng như tính khốc liệt của các chấn thương gây ra bởi các vụ tai nạn đó.

Mức độ thường xuyên của việc uống rượu bia trong khi lái xe có sự khác nhau giữa các quốc gia, nhưng dù ở đâu thì đó cũng là một nguy cơ rất lớn gây ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ. Phạm vi ảnh hưởng của rượu bia đến tai nạn giao thông đường bộ cũng khác nhau giữa các quốc gia, và do đó việc so sánh trực tiếp giữa các quốc gia là việc làm khó khăn.

Ở nhiều quốc gia có thu nhập cao, khoảng 20% số lái xe bị chấn thương nghiêm trọng gây tử vong đều có nồng độ cồn trong máu vượt quá giới hạn cho phép (nghĩa là ở phía trên của giới hạn theo quy định của pháp luật). Các nghiên cứu tại các nước có thu nhập thấp đã chỉ ra rằng nồng độ cồn trong máu của những lái xe bị chấn thương nghiêm trọng dẫn đến tử vong là ở trong khoảng giữa 33% và 69%. 


Tai nạn giao thông đường bộ là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây ra chấn thương và tử vong tại Việt Nam. Hơn một triệu người tử vong và hàng chục triệu người bị chấn thương mỗi năm do tai nạn giao thông đường bộ. Để tìm giải pháp hạn chế tai nạn giao thông đường bộ, nghiên cứu này hướng đến mục tiêu tăng cường việc tuân thủ quy định của Luật Giao thông đường bộ về sử dụng rượu bia của những người tham gia giao thông đường bộ. 


2.  Mục tiêu nghiên cứu


1.   Tổng hợp các hoạt động, dự án can thiệp phòng chống lạm dụng rượu bia trong điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại Việt Nam từ 2002 tới nay;


2.   Tiến hành các biện pháp thu thập số liệu về sử dụng rượu/bia của các nạn nhân tai nạn giao thông đến cấp cứu và điều trị tại bệnh viện Việt Đức và St. Paul, Hà nội;


3.   Đánh giá hiện trạng sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông của các nạn nhân nhập viện;


4.   Đánh giá một số yếu tố liên quan giữa việc sử dụng rượu bia và tình trạng sức khỏe, chi phí của nạn nhân khi nhập viện


3.  Phương pháp nghiên cứu


Nghiên cứu này sử dụng kết hợp các phương pháp: nghiên cứu tài liệu có sẵn, nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Thông tin định lượng được thu thập theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp dựa vào bảng hỏi đã được thiết kế sẵn.


3.1  Phương pháp nghiên cứu tài liệu có sẵn


Các chuyên gia đã thực hiện thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn của các dự án, chương trình can thiệp, các nghiên cứu đã tiến hành từ 2002 đến nay ở Việt Nam liên quan đến việc phòng tránh lạm dụng bia rượu trong quá trình tham gia giao thông đường bộ, ảnh hưởng của việc sử dụng bia rượu đến tai nạn giao thông đường bộ cũng như hậu quả kinh tếxã hội của nó đối với gia đình và xã hội. 


3.2  Phương pháp nghiên cứu định lượng


Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng nhằm thu thập thông tin đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng rượu bia đối với tai nạn giao thông đường bộ. Ảnh hưởng của mức độ sử dụng rượu bia đối với việc gây ra tai nạn giao thông đường bộ được phân tích không chỉ đối với người điều khiển mà cả đối với người không điều khiển phương tiện.

Phân tích này cũng được tiến hành đồng thời cả với người có và không sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông đường bộ. Trên thực tế, đôi khi người tham gia giao thông đường bộ không sử dụng rượu bia lại là nạn nhân của người có sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông.
Ngoài ra, để phân tích hậu quả kinh tế-xã hội của tai nạn thương tích trong giao thông đường bộ đối với xã hội và gia đình, nghiên cứu này còn thu thập thông tin về các chi phí thực tế và chi phí cơ hội khi bị tai nạn thương tích do va chạm/tai nạn trong giao thông đường bộ.


3.2.1  Đối tượng thu thập thông tin


Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nói trên đối tượng thu thập thông tin trong nghiên cứu này là:

1.   Những người từ 16 tuổi trở lên;

2.   Bị tai nạn giao thông đường bộ, thời gian bắt đầu xảy ra va chạm/tai nạn trong vòng 8 tiếng đồng hồ;

3.   Là những người đã nhập viện, nằm lưu ở phòng khám, phải xử lý tiểu phẫu thuật, kể cả những bệnh nhân tử vong trong bệnh viện và tử vong trong khi nằm ở phòng khám.

Không điều tra những người đến khám rồi về ngay hoặc tử vong trước khi đến bệnh viện.


3.2.2  Phương pháp chọn mẫu


Tất cả những người thuộc các tiêu chuẩn nói trên, đồng ý trả lời phỏng vấn hoặc được người nhà đồng ý phỏng vấn được đưa vào mẫu điều tra


3.2.3  Cỡ mẫu nghiên cứu


Để đảm báo kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê, cỡ mẫu được xác định theo công thức: 

o Trong đó: 

z = 1,96 tương ứng với mức tin cậy  = 0,05;

p: ước lượng tỷ lệ nạn nhân bị tai nạn giao thông có sử dụng rượu trong vòng 8 tiếng trước thời điểm xảy ra tai nạn (ước lượng p = 0,4);

D: là độ chính xác chấp nhận được (lấy d = 0,035).


Kết quả tính toán n = 753 người, dự tính có 5% đối tượng từ chối tham gia nghiên cứu, tổng số đối tượng nghiên cứu là: 800 người và được phân bố: 500 người tại BV Việt Đức và 300 người tại BV Saint Paul.


Trên thực tế, chúng tôi đã thu thập được 775 phiếu đủ tiêu chuẩn (tại BV Việt Đức điều tra 509 người và BV Saint Paul: 266 người) 


3.2.4  Địa điểm tiến hành thu thập thông tin


Nghiên cứu được tiến hành tại 02 bệnh viện Việt Đức và Saint Paul Hà Nội. Đây là hai bệnh viện có số bệnh nhân bị tai nạn thương tích do giao thông đường bộ lớn. 


4.  Kết luận và Khuyến nghị 


4.1  Kết luận


a.  Kết luận về rà soát chính sách và nghiên cứu tài liệu sẵn có


- Việc giảm thiểu sử dụng rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đã được đưa vào Bộ luật Hình sự của Việt Nam năm 1999. Điều này cho thấy rằng chính phủ Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề này.


- Cho đến nay, đã có 5 lần chính phủ Việt Nam sửa đổi các quy định về xử phạt người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sử dụng bia rượu quá nồng độ cho phép. Tuy nhiên, các quy định trước chưa có cơ chế rõ ràng để buộc người tham gia giao thông phải thi hành những quy định về sử dụng rượu bia.
Tại Bộ Luật giao thông 2001 đã quy định cụ thể chỉ số về nồng độ cồn nhưng chậm triển khai các chế tài thực hiện (quy định mức xử phạt hành chính, quy định cho phép cảnh sát có quyền thử nồng độ cồn của người điều khiển PTGT). Tại Bộ Luật 2008 mức quy định nồng độ cồn cho phép giảm xuống. Hướng dẫn cụ thể đang được soạn thảo để thực hiện.


- Các nghiên cứu khoa học trước đây đã chỉ ra rằng tai nạn giao thông là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tai nạn thương tích hiện nay. Trong đó, uống rượu bia là một nguyên nhân quan trọng. Đặc biệt là tình trạng uống rượu bia khi lái xe mô tô, xe gắn máy đa số phổ biến ở những người trong độ tuổi lao động.
Mặt khác, điều trị chấn thương sọ não gây tổn hại không chỉ về kinh tế mà cả về tinh thần cho nạn nhân và gia đình. Cần đưa lên truyền hình những vụ tai nạn giao thông gây ra do người lái xe hoặc nạn nhân đã sử dụng rượu bia quá liều lượng. Đồng thời, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia phát trên truyền hình vào giờ vàng để tuyên truyền, giáo dục, răn đe.


- Các giải pháp tỏ ra hữu hiệu nhất hiện nay là kết hợp giữa tuyên truyền, xây dựng hạ tầng cơ sở (các biển báo, vạch báo giảm tốc độ khi đi qua đường dân sinh) và xử phạt nghiêm minh, công bằng và minh bạch các hiện tượng vi phạm.
Muốn vậy, Nhà nước cần hoàn thiện quy định pháp lý về xử lý hành vi uống rượu bia quá nồng độ quy định và sử dụng chất kích thích mà pháp luật cấm sử dụng đối với người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ khi tham gia giao thông để cảnh sát có thể thi hành nhiệm vụ dễ dàng và minh bạch, công tâm.
Mặt khác, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tai nạn giao thông đường bộ một cách khoa học, đầy đủ, chính xác và thuận tiện khi khai thác là một đòi hỏi tất yếu để các nhà hoạch định chính sách có cơ sở ra những quyết sách đúng và sát với thực tế. 


- Một số cơ quan chính phủ: Uỷ ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia; Lực lượng Cảnh sát giao thông; Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số tổ chức quốc tế: Jica Nhật Bản; Tổ chức Y tế thế giới; một số công ty sản xuất phương tiên giao thông như công ty Honda Việt Nam và Hội Bảo hiểm Việt Nam, đã có những hoạt động nhằm tuyên truyền và cưỡng chế thực hiện quy định về sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Tuy nhiên, các dự án đó đều mới được tiến hành và chưa có nghiên cứu đánh giá nào về hiệu quả của nó. Hiện nay Cục Y tế dự phòng đã thực hiện nghiên cứu đánh giá kết quả mô hình nâng cao nhận thức của cộng đồng về phòng chống tai nạn giao thông tại các huyện thực hiện dự án. Những kết quả nghiên cứu mới chỉ nặng về đánh giá mô hình cung cấp dịch vụ cấp cứu ban đầu mà chưa đi sâu vào đánh giá kết quả hoạt động và tác động lan tỏa của các câu lạc bộ không sử dụng rượu bia khi lái xe. Còn ít dự án thực hiện việc nâng cao năng lực cưỡng chế cho lực lượng cảnh sát về vấn đề này. 


b.  Kết luận về kết quả nghiên cứu tại hai bệnh viện


- Nghiên cứu tại hai bệnh viện được thông qua bảng hỏi bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp do các nhân viên y tế thực hiện. Các kết quả phân tích được rút ra như sau:


- Đa số (75,7%) nạn nhân tai nạn giao thông có độ tuổi dưới 45 (đây là những người thuộc độ tuổi lao động, là người làm ra của cải vật chất. Chính vì vậy mà tai nạn giao thông gây tổn hại lớn cho quốc gia và từng gia đình nạn nhân);  


- Đa số (82,8%) nạn nhân sử dụng mô tô và xe gắn máy và khoảng 70% số nạn nhân là người điều khiển phương tiện. Khoảng một nửa số phương tiện va chạm với nạn nhân là xe máy;  


- Trong số nạn nhân tai nạn giao thông đường bộ, tỷ lệ có cồn trong máu cao (56,4%), chủ yếu là nam giới (86,3%);


- Những người có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học có mức độ sử dụng rượu bia cao hơn những người có trình độ học vấn cao (từ đại học cao đẳng trở lên). Tuy nhiên, kết quả cũng cho thấy một điều gây ngạc nhiên là, mức độ sử dụng bia rượu của những nạn nhân tốt nghiệp trung học cơ sở và tốt nghiệp phổ thông trung học lại cao hơn những người có trình độ học vấn thấp (không đi học và chưa tốt nghiệp trung học cơ sở); 


- Mặc dù số lượng nạn nhân làm nghề lái xe trong mẫu không cao, nhưng cần nhấn mạnh rằng, họ là những người có nồng độ trong máu nhiều hơn các nghề khác. Đây là một phát hiện cần lưu ý. Bởi vì lái xe là một nghề liên quan đến mạng sống của nhiều người khác khi họ điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Ngoài nghề lái xe, thì lao động tự do cũng là một nghề có tỷ lệ người bị tai nạn giao thông cao;


- Ngày cuối tuần (thứ 6), những ngày lễ (thứ 7, chủ nhật) và thứ 2 có số lượng tai nạn giao thông cao hơn các ngày khác trong tuần. Các giờ cao điểm tai nạn xảy ra ít hơn so với giờ làm việc và giờ đi chơi buổi tối. Đây cũng là một phát hiện đáng lưu ý;  


- Tỷ lệ nạn nhân cho biết có thói quen uống đồ uống có cồn tương đối cao (trên 50%), chủ yếu là nam giới. Số người thừa nhận có sử dụng rượu bia 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn cao (37,2%), chủ yếu là nam giới. Khoảng trên một phần ba nam giới không nhớ rõ số lượng rượu bia đã uống trong vòng 8 giờ trước khi xảy ra tai nạn;


- Có đến 60% nạn nhân là người điều khiển phương tiện có cồn trong máu cao. Tỷ lệ đội mũ bảo hiểm cũng chỉ đạt mức 65,5%. Điều này cho thấy ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ của công dân Việt Nam chưa cao. Cần phải tiếp tục có chế cưỡng chế và tuyên truyền không nên lơi lỏng;


- Nguy cơ bị thương, và tỷ lệ bị thương ở đầu, mặt ở người có cồn trong máu cao hơn nhiều so với người không có cồn trong máu; 


- Hơn 50% nạn nhân giao thông sau xử trí ở phòng khám, cấp cứu phải nhập viện. Loại tổn thương cuối cùng chủ yếu là chấn thương sọ não 42,3% và gãy xương chi 38,1%. Tỷ lệ chuyển viện để điều trị tiếp nhóm nạn nhân có cồn trong máu cao hơn rất nhiều so với nhóm không có cồn; 


- Khoảng 50% nạn nhân cho biết đã từng ngồi trên phương tiện giao thông đường bộ do người điều khiển có sử dụng bia rượu;


- Tỷ lệ nạn nhân không biết quy định về lượng cồn trong máu và trong hơi thở rất cao (81,3%). Đây là một khoảng trống trong tuyên truyền về Luật GT;


- 61,9% nạn nhân không có bảo hiểm y tế. Nạn nhân có cồn trong máu có chi phí điều trị tại bệnh viện cao hơn nạn nhân không có cồn trong máu. Chi phí trung bình cho một nạn nhân nhập viên gấp khoảng 5 lần mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định hiện nay (2.900.000 đồng trong khi lương tối thiểu là 540.000 đồng).
Đây mới chỉ là số chi phí mà nạn nhân phải nộp cho bệnh viện chưa kể đến cả chi phí thuốc men mà người nhà phải mua theo đơn của bác sỹ và chi phí ăn ở đi lại của người chăm sóc chính. Nếu ước lượng theo mức chi do hai bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức cung cấp thì với số lượng 23.000 người bị tai nạn một năm như công bố của Bộ Y tế, cả nước sẽ phải chi vào chữa trị tai nạn giao thông là 65 tỷ đồng; 


- Chi phí cơ hội được nạn nhân và người nhà nạn nhân nói đến nhiều nhất là mất cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh cao nhất (bản thân người bị tai nạn 48,4% và người chăm sóc chính 41,9%). Thứ hai là con cái không có người chăm sóc (31,5% số nạn nhân có ý kiến này và 35,7% người chăm sóc chính). Thứ ba là, cha mẹ già đau yếu không có người chăm sóc (43,9% người bị tai nạn và 27,4% người chăm sóc chính).
Ngoài ra, số nạn nhân có độ tuổi từ 16 đến 24 còn cho biết chi phí cơ hội lớn nhất đối với họ là mất cơ hội học hành và một số người còn vĩnh viễn không thể tham gia đào tạo nghề, không đủ điều kiện tham gia lao động;


- Đa số nạn nhân đồng tình với quan điểm uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông dễ xảy ra tai nạn. Tỷ lệ người cho rằng không nên uống rượu bia khi điều khiển phương tiện rất cao (85%). Đa số nạn nhân tai nạn giao thông cho rằng cần xử phạt những người uống rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông và cần tuyên truyền rộng rãi về phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Điều này cho thấy đa số người dân đã có ý thức về hạn chế sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện. Tuy nhiên, từ chỗ ý thức được vấn đề đến chuyển đổi hành vi và thực hành không sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện là một khoảng cách lớn mà muốn có sự chuyển đổi hành vi này thì Nhà nước và nhân dân cần mất nhiều công sức và tiền bạc. 


4.2  Khuyến nghị


Dựa vào các kết luận của các nghiên cứu trước và kết luận rút ra từ nghiên cứu thực nghiệm tại bệnh viện Saint-Paul và Việt Đức, nhóm nghiên cứu cho rằng để chuyển đổi hành vi từ chấp nhận không sử rượu bia khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ đến chuyển đổi hành vi thực hành không sử dụng rượu bia và chất có cồn khi điều khiển phương tiện là một hành trình khó khăn, đòi hỏi nhiều tâm huyết, thời gian và sức lực của toàn Đảng toàn dân, của các cơ quan nhà nước và tổ chức quốc tế.
Vì vậy, cần kết hợp chặt chẽ giữa hai giải pháp:

truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi và cưỡng chế để chuyển đổi hành vi.


Sau đây là một số giải pháp cụ thể:


a.  Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính quyền


- Có thể nói đây là giải pháp tiên quyết để thực hiện thành công mọi mục tiêu Chiến lược kinh tế-xã hội. Đảng lãnh đạo, các cơ quan chính quyền phải vào cuộc để chỉ đạo thực hiện các quy định về nồng độ cồn trong máu đã được quy đinh trong luật giao thông đường bộ thì mới có cơ hội thành công. Kinh nghiệm cho thấy, bất kỳ việc gì, ở đâu, nếu có Đảng lãnh đạo, Chính quyền trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện thì công việc đó thành công. Việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm là một minh chứng rõ ràng chứng minh giả thuyết trên.


- Việc công bố luật giao thông đường bộ cần tiến hành đồng thời trong cùng một thời điểm với việc công bố nghị định hướng dẫn. Điều này giúp cho các cơ quan thi hành công vụ có đủ công cụ luật pháp trong tay để có thể thực hiện nhiệm vụ một cách minh bạch.


b.  Tăng cường cưỡng chế để chuyển đổi hành vi


- Cần có chế tài rõ ràng để cảnh sát giao thông có thể làm việc nghiêm minh và công tâm: quy định cảnh sát giao thông có quyền kiểm tra nồng độ cồn ngay cả khi không vi phạm luật giao thông.


- Tăng cường trang bị thiết bị đo nồng độ cồn và đảm bảo các thiết bị này đạt tiêu chuẩn về vệ sinh.


- Tăng cường lực lượng cảnh sát giao thông và tăng cường kiểm tra nồng độ cồn vào các giờ có thể xảy ra tai nạn cao.


- Có chế độ khuyến khích cho lực lượng cảnh sát.  


- Xây dựng hình ảnh người cảnh sát nhân dân tận tụy vì dân. 


c.   Tăng cường truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi


Truyền thông giáo dục chuyển đổi hành vi khác với truyền thông giáo dục. Nếu thực hiện truyền thông giáo dục là việc tuyên truyền cho người dân mà chưa theo dõi xem họ đã thực sự nhận thức được vấn đề chưa và họ có thực hành vấn đề cần tuyên truyền hay không.

Còn truyền thông chuyển đổi hành vi là việc tuyên truyền kết hợp với theo dõi, hướng dẫn người dân chuyển đổi từ chưa nhận thức được vấn đề đến nhận thức được vấn đề (từ chưa biết đến biết); tiếp tục theo dõi và tuyên truyền cho đến khi người dân chuyển từ nhận thức sang thái độ (từ chưa chấp nhận đến chấp nhận); tiếp tục tuyên truyền và theo dõi để người dân chuyển thái độ chấp nhận sang thực hành (chuyển từ không thực hiện sang thực hiện).

Trong trường hợp này là chuyển hành vi từ uống bia rượu vẫn điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sang nếu đã uống bia rượu thì không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ). Trong giải pháp truyền thông phải chú trọng cải tiến cả hình thức và nội dung truyền thông. 


v Hình thức tuyên truyền: đa dạng, hấp dẫn


- Tiếp tục đưa nội dung quy định về nồng độ rượu bia vào chương trình sát hạch lấy bằng điều khiển phương tiện giao thông. 


- Tiếp tục hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, đưa vào các chương trình truyền hình nhiều người ưa thích.


- Tiếp tục đưa chương trình an toàn giao thông vào môn giáo dục công dân trong các trường phổ thông từ lớp mẫu giáo đến lớp 12 với nội dung thích hợp. Trong đó nhấn mạnh nội dung phòng chống lạm dụng rượu bia.


- Xây dựng và nhân rộng mô hình tuyên truyền trong cộng đồng về an toàn giao thông (một số tổ chức phi chính phủ đã tài trợ thực hiện, những mới chỉ trên quy mô nhỏ).
Lấy những người mẹ, người vợ làm trung tâm giáo dục chuyển đổi hành vi. Kinh nghiệm của một số nước, trong đó có kinh nghiệm của Nhật Bản thì đây là hình thức truyền thông rẻ tiền mà rất có hiệu quả. 


- Tiếp tục phát hành và phân phối sách nhỏ “Những điều lái xe cần biết”, các tờ rơi, áp phích cổ động tuyên truyền… không chỉ cho lái xe mà cho mọi người dân.


v Nội dung truyền thông


+ Trước hết cần tuyên truyền rộng rãi quy định về nồng độ rượu bia khi tham gia điều khiển phương tiện giao thông theo luật giao thông 2008.
Trên thực tế, mặc dù các kỳ thi lấy bằng lái xe, thí sinh đều phải trải qua các cuộc sát hạch về luật giao thông, nhưng số người không biết quy định về nồng độ cồn trong máu lớn. Điều này cho thấy, cần thắt chặt hơn nữa yêu cầu hiểu biết về luật giao thông đường bộ đối với người thi lấy bằng lái xe.


+ Đưa các thông tin về thực trạng cũng như hậu quả của những vụ tai nạn giao thông, các vụ vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn có nguyên nhân từ rượu bia.


+ Tạo dư luận hình thành chuẩn mực xã hội phản đối việc sử dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện và phản đối ngồi trên xe mà người điều khiển sử dụng bia rượu


+ Khẩu hiệu đưa ra là: “Uống rượu bia – Không lái xe”


d. Tổ chức thực hiện


- Cần có giải pháp khuyến khích các nhà tài trợ tập hợp vồn đầu tư để có các dự án lớn đủ tầm triển khai các hoạt động can thiệp đồng bộ và dài hạn. Hiện nay đã có một vài can thiệp cho lĩnh vực này. Các can thiệp này còn nhỏ lẻ do vốn đầu tư nhỏ.
Nếu có cơ chế tập hợp các nhà đầu tư lại, có thể có một quỹ lớn hơn để thực hiện các can thiệp ở quy mô lớn hơn và dài hơi hơn. Bởi vì can thiệp phá vỡ một thói quen không phải chỉ trong một đợt chiến dịch là có thể hoàn thành mà phải liên tục, dài hạn tốn kém về sức người sức của mới hy vọng thành công.


- Để có thể xây dựng kế hoạch tuyên truyền và cưỡng chế thành công việc hạn chế sử dụng bia rượu trong giao thông đường bộ cần thiết phải tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu chính xác và toàn diện nhằm tạo thuận tiện khai thác cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà khoa học về tai nạn giao thông đường bộ. Chỉ có trên cơ sở dữ liệu khoa học thì các chính sách can thiệp mới được xây dựng sát với thực tế và phù hợp với người Việt Nam.


- Sau các can thiệp hỗ trợ phòng tránh lạm dụng bia rượu khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, nên tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả và tác động lan tỏa, tính bền vững của dự án làm cơ sở khoa học để thiết kế dự án cán thiệp và các chính sách cho thời kỳ tiếp theo.

 

(Nguồn: Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Kỷ yếu khoa học 20 năm thành lập Viện Dân số và các vấn đề xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội - tháng 3/2012)

 

CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)

I- NGUYÊN NHÂN:

Quá trình dẫn dắt đối tượng đến với ma túy rất phức tạp. Nghiện ma túy xuất hiện như một hậu quả cuối cùng do hoà trộn nhiều tác nhân: gia đình, bạn bè, xã hội, ảnh hưởng bằng nhiều hình thức mang tính đặc thù riêng cho mỗi trường hợp.

  • Các yếu tố này còn có sự tác động của quá khứhiện tại, của các thực tế bên trong bên ngoài.
  • Các xung đột nội tâmxung đột trong quan hệ hiện tại của đối tượng với gia đình - xã hội có thể kéo dài từ thời thơ ấu.
  • Các chấn thương hiện tại nhắc lại các chấn thương của quá khứ.
  • Các sự kiện bên ngoài tác động các lo sợ bên trong là bị gạt bỏ, bị bỏ rơi, cám dỗ hay bị hủy diệt trong suy nghĩ đầy huyễn tưởng của đối tượng.
  • Quá trình nghiện ma túy là một tổng hợp phức tạp. Những yếu tố bất lợi bên ngoài (gia đình - xã hội) làm trầm trọng thêmgây hậu quả xấu về hành vi tâm lý của đối tượng.

Tại gia đình các hành vi nghiện ngập trở thành điểm nóng, đầy lo lắng, trách móc, thậm chí nguyền rủa của người thân.

Ngoài xã hội, dễ có định kiến, khinh rẻ gạt ra bên lề. Nếu có giúp đỡ thì thường mang tính kinh điển, giáo điều.

Những tác động này góp phần làm công tác phòng chống ma túy trở thành đơn điệu - cứng nhắc, khó động viên giúp đỡ đối tượng nghiện ma túy.

II- CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:

nhiều yếu tố nguy cơ đưa đẩy một người đến tình trạng nghiện ngập, nhưng cũng có nhiều tác nhân bảo vệ giúp một người không bao giờ sử dụng ma túy hoặc đã lạm dụng mà thoát ra được.

Trong một gia đình có nhiều người con nhưng chỉ có một người nghiện, còn những người khác thành đạt. Trong trường hợp này, yếu tố gia đình không phải là yếu tố nguy cơ của người nghiện; mà trái lại, đây là một yếu tố bảo vệ.

Ngoài ra, phải tìm hiểu những yếu tố nguy cơ khác thuộc về nội tâm, cũng như các quan hệ cá nhân của đối tượng. Đối với một người nghiện, có rất nhiều yếu tố bảo vệ cũng như những yếu tố nguy cơ tác động xen kẽ vào nhau trước khi dẫn đến tình trạng lạm dụng ma túy.

Nếu yếu tố nguy cơ càng cao trong lúc yếu tố bảo vệ kém, người ta dễ bị đưa đến trình trạng lạm dụng ma túy với những mức độ nặng nhẹ khác nhau tuỳ thuộc hai yếu tố trên.

Trong hai loại yếu tố trên, việc cân nhắc hai phía, kinh nghiệm cho thấy các yếu tố nguy cơ có khả năng lôi kéo mạnh mẽ hơn đối với việc sử dụng ma túy.

Ví dụ một người có tiền sử nghiện sẽ rất dễ tái nghiện nếu đối tượng ở trong một môi trường ma túy sẵn sàng, cho dù có nhiều yếu tố bảo vệ giúp đỡ đối tượng.

Một người phải đương đầu với quá nhiều yếu tố nguy cơ thì đối tượng càng dễ lạm dụng ma túy, mặc dù các yếu tố bảo vệ có thể giúp anh ta ngăn chặn, hạn chế việc sử dụng ấy.

Nếu chúng ta biếtcó nhiều dữ liệu về người nghiện, chúng ta có thể dự đoán đối tượng có thể dễ dàng thoát khỏi ma tuý hay không.

hai nhóm tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến việc lạm dụng ma túy:

1/ ĐẶC ĐIỂM NỘI TÂM:

Một người với nội tâm bất thường, sẽ có những nhận thức thất thường dẫn đến những biểu hiện qua hành vi. Những cuộc nghiên cứu tâm lý cho thấy đặc điểm bất thường nội tâm bao gồm các yếu tố sau:

-      Khát vọng học tập: Những học sinh gắn bó với học tập thì ít sử dụng ma túy hơn so với nhóm học sinh lười học. Khát vọng học tập là một yếu tố bảo vệ mạnh, song không phải luôn luôn như vậy. Một học sinh rất ham học nhưng kém may mắn trong thi cử hoặc có thể bị giáo viên ghét bỏ thì việc học tập trở thành nặng nề với anh ta.Vì khát khao học tập mà đối tượng có thể trở nên bất mãn, chán đời rồi tự tìm lối thoát.

-      Khát vọng vươn lên trong cuộc sống để tự khẳng định mình, khi nó suôn sẻ sẽ tạo nên hưng phấn. Song một khi cá nhân thất bại, sẽ dễ dàng sợ hãi, thất vọng với thực tại và sẽ tìm lối thoát, thường là rượu hoặc ma túy.

-      Lý tưởng và tín ngưỡng là yếu tố bảo vệ. Những tín đồ tốt luôn luôn tránh xa ma túy.

-      Cuộc sống không mục đích, không biết phải làm gì, thích hưởng thụ vui chơi là một yếu tố nội tâm rất nguy hiểm. Một tình trạng lãnh đạm, bi quan cũng là một yếu tố nguy cơ, nhất là khi nó phối hợp với những triệu chứng tâm thần.

-      Tâm hồn nỗi loạn, ưa thích những chuyện trái với thuần phong mỹ tục, xu hướng có những hành vi vô luân thường được coi là một nguyên nhân (đồng thời cũng là hậu quả) của việc lạm dụng ma túy.

-      Nội tâm thiếu tự chủ, thiếu tự trọng cũng là yếu tố nguy cơ, trong khi sự tự chủ, tự trọng là yếu tố bảo vệ.

-      Tâm hồn cô độc, xung khắc với mọi người, luôn buồn chánbất mãn với tất cả, dễ là nạn nhân của ma túy.

2/ MỐI QUAN HỆ CÁ NHÂN:

Tuỳ thuộc hoàn cảnh mỗi người, mối quan hệ cá nhân có thể là những yếu tố bảo vệ cũng có thể là những nguy cơ rõ nét:

-      Thái độ và hành vi của cha mẹ: Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái dễ là tiền đề cho sự nghiện ngập của con cái.

-      Trình trạng nghiện ngập của bạn bè gây nguy cơ ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy của nhóm. Ngược lại, bạn bè sống mẫu mực lại là yếu tố bảo vệ cho cả nhóm.

-      Thái độ của xã hội, của cộng đồng đối với ma túy ảnh hưởng mạnh đến việc sử dụng ma túy. Nếu tất cả mọi gia đình đều quyết tâm chống ma túy, chắc chắn sẽ giảm được số lượng ngưởi sử dụng ma túy.

-      Một nền văn hoá chống ma túy luôn gây ảnh hưởng tốt đối với nhân dân trong việc phòng chống ma túy.

III- KẾT LUẬN:

Những yếu tố bảo vệ và yếu tố nguy cơ việc sử dụng ma túy của thanh thiếu niên bao gồm các yếu tố chủ yếu như sau:

1- CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ:

- Trình độ học vấn, mức độ nhận thức.

- Ý thức tuân thủ Luật pháp.

- Lý tưởng - Tín ngưỡng.

- Có sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.

- Sự tự bằng lòng với chính mình.

- Gia đình hoà thuận - có điều kiện tiến lên.

- Quan điểm dứt khoát với ma túy

2- CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ:

-          Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.

-          Môi trường sống có trắc trở, khó khăn quá sức

-          Môi trường sống nhiều tệ nạn xã hội.

-          Bạn bè hoặc quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.

-          Cha mẹ bất hòa, nghiện rượu, nghiện ma túy, cha mẹ chiều chuộng con cái thái quá hoặc ít quan tâm đến con cái.

-          Thiếu sự giúp đỡ từ cộng đồng và người có trình độ bản lĩnh

-          Môi trường sẵn có ma túy

Bằng phép suy luận và qua kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta thấy đối tượng được tiếp xúc với càng nhiều yếu tố bảo vệ, giảm thiểu các yếu tố nguy cơ sẽ tạo điều kiện cai nghiện thuận lợi cho đối tượng.

Đcó cơ sở định hướng trong điều trịgiáo dục phải biết được nguyên nhân dẫn đối tượng đến việc sử dụng ma túy - phải điều tra đầy đủ cuộc sống của đối tượng, từ gia đình, môi trường sống đến bản thân người nghiện và ta phải thiết lập được chân dung - những yếu tố bảo vệ những yếu tố nguy cơ của đối tượng.

Ngoài yếu tố giáo dục phải củng cố, phát huy các yếu tố bảo vệ, làm giảm nhẹ các yếu tố nguy cơ và giúp cho đối tượng các kỹ năng để vượt qua những đe dọa lôi kéo anh ta trở về con đường cũ.

*    Các Thanh - Thiếu niên thường xuyên hoạt động nhóm nhưng không được giám sátkhông có định hướng theo một mục đích thường sử dụng rượu ma túy nhiều hơn.

Trong khi đó các Thanh - Thiếu niên tham gia các hoạt động nhóm giám sát định hướng theo một mục đích thường ít sử dụng rượu và ma túy hơn.

 

*  Việc tìm các cảm giác mạnh, cảm giác hưng phấn, hay thiếu tự chủ về cảm xúc, tính tình chưa thuần thục, tính xung đột, tính hung bạo, tâm lý như lo hãi, khí chất trầm nhượcthiếu tự tin, không có bản lĩnh tự làm chủcác khả năng thích ứng, các cảm giác bất lựcthiếu sót dễ dẫn đến việc sử dụng ma túy của Thanh - Thiếu niên.

 

*    Trường học có ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Môi trường học: Vô kỷ luật, giáo viên dạy không hiệu quả, học trò gây rối, không có sự động viên thi đua, thường tần suất sử dụng ma túy lớn hơn.

 

Gia đình đóng vai trò quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: Việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của cha mẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối quan hệ cha mẹ và con cáinhững yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Rối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng đến tới toàn bộ các yếu tố khác.

 

-      Có sự liên quan giữa sử dụng ma túykiểm tra của gia đình: các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi , việc học tập của họ.

-      Các nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn.

 

*      Cha mẹ ly dị, ly thân, bất hòa dễ dẫn đến việc dùng ma túy của con cái. Qua nghiên cứu cho thấy cha mẹ cãi nhau con cái thường sử dụng ma túy nhiều hơn các gia đình hòa thuận.

 

CÁC YẾU TỐ BẢO VỆ ĐỂ THANH - THIẾU NIÊN TRÁNH XA ĐƯỢC MA TÚY:

-          Trình độ học vấn, mức độ nhận thức

-          Ý thức tuân thủ Luật pháp.

-          Lý tưởng - Tín ngưỡng.

-          sức khỏe về thể chất lẫn tinh thần.

-          Sự tự bằng lòng với chính mình.

-          Gia đình hòa thuận - có điều kiện tiến lên.

-          Quan điểm dứt khoát với ma túy.

 

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ DỄ DẪN THANH - THIẾU NIÊN ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG MA TÚY:

-          Khát vọng vươn lên yếu hoặc không có.

-          Môi trường sống trắc trở, khó khăn quá sức.

-          Môi trường sống nhiều tệ nạn xã hội.

-          bạn bè hoặc có quan hệ với đối tượng có sử dụng ma túy.

-          cha mẹ sử dụng ma túy.

-          Gia đình bất hòa.

-          Thiếu sự giúp đỡ từ cộng đồng và người có trình độ bản lĩnh.

-          Môi trường sẵn có ma túy.

 

 

DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY

DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH TỪ THỬ ĐẾN NGHIỆN MA TÚY


Sử dụng các chất ma túy dẫn đến nhiều nguy cơ: tăng liều lượngchuyển sang các chất ma túy mạnh hơn, rối loạn phát triển, thất bại trong hòa nhập xã hội, các tổn thương thể chất, tinh thần và dẫn đến cái chết. Nếu đối tượng bị gạt ra bên lề xã hội do sử dụng ma túy thì nguy cơ tổn thương về thể chất dẫn đến cái chết có thể xảy ra sớm, do bệnh tật và thiếu sự chăm sóc.


Tiến triển của việc dùng ma túy dẫn đến hậu quả:

  • Tăng tần suất và tăng liều lượng sử dụng
  • Chuyển từ hút hít qua chích
  • Sử dụng các loại ma túy mạnh hơn - phối hợp nhiều loại với nhau

​A. TIẾN TRIỂN CỦA SỰ TIÊU THỤ MA TÚY THEO TUỔI:

Đa số các nghiên cứu của nước ngoài ghi nhận sự sử dụng các chất ma túy phụ thuộc với tuổi.


Leselbaum (1984) quan sát thấy trong vòng 5 năm, việc sử dụng các chất ma túy tăng từ 3 đến 5%.


Choquet và ctv.(1985) thấy việc sử dụng ma túy khác nhau theo giới, đối với con trai từ 15 đến 20 tuổi: tăng từ 3 đến 23%, đối với con gái tăng không rõ rệt.


B. THEO SỰ LỰA CHỌN CHẤT MA TÚY.

Các nghiên cứu theo chiều dọc cho thấy đa số các trường hợp bước vào nghiện ngập theo một trình tự thường gặp: Tiêu thụ ma túy bắt đầu bằng rượu vang và bia, sau chuyển sang thuốc lá và rượu mạnh, tiếp đến là các chất ma túy bất hợp pháp khác. (Kandel và Faust, 1975. Donovan và Jessor, 1983, Kandel và Logan, 1984)


Các nghiên cứu này nhấn mạnh vai trò bắt đầu của rượu, thuốc lácần sa coi như giai đoạn có ảnh hưởng quan trọng đối với sự tiến triển đến các chất ma túy mạnh hơn. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng trình tự này không cho phép kết luận rằng dùng các thuốc lá, rượu, bia gây ra việc dùng các chất ma túy bất hợp pháp. Bước leo thang là một quá trình phức tạp có nhiều yếu tố bên trong bên ngoài can thiệp vào. (Fleming và ctv, 1989)


C. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NGHIỆN MA TÚY:

Thông thường đối tượng sử dụng ma túy tiến từ thử rồi cuối cùng bước vào nghiện ngập chất ma túy - có thể tiến dần từ ma túy nhẹ sang ma túy bất hợp pháp ngày càng mạnh.


Việc sử dụng ma túy của đối tượng tiến hành từ giai đoạn thử đến cuối cùng là giai đoạn nghiện như sau:

  • Giai đoạn thứ 1: là thử
  • Giai đoạn thứ 2: là sử dụng có lúc và để tiêu khiển trong đó thanh thiếu niên đi tìm hiệu quả gây khoái cảm của ma túy mà không nhận thức được các hậu quả tác hại của ma túy.
  • Giai đoạn thứ 3: dùng ma túy trở nên đều đặn. Việc tìm kiếm  khoái cảm do ma túy gây ra trở thành một băn khoăn thường xuyên trong óc. Độ dung nạp phát triển, sử dụng nhiều chất ma túy cùng một lúc. Đạo đức, tâm lý, xã hội bị suy thoái và có thể xuất hiện các hành vi chống đối xã hội
  • Giai đoạn thứ 4: sử dụng thường ngày, đối tượng đã mất tự chủ trong sử dụng chất ma túy. Đối tượng sử dụng chất ma túy để giảm cảm giác khó chịu và căng thẳng hơn là để có được trạng thái khoái cảm. Hoạt động tâm lý lúc đó thật sự bị hỗn loạn

​Oppenheimer (1987) nhận thấy có thể tránh được sự lạm dụng càng ngày càng nhiều đối với tất cả các loại ma túy và mọi người sử dụng ma túy. Những ai bắt đầu dùng ma túy đều có thể dừng lại mỗi giai đoạn. Thậm chí có thể ngăn lại cả việc sử dụng các chất ma túy dễ gây nghiện nhất.

CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU – MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN MA TÚY CÓ HIỆU QUẢ CẦN ĐƯỢC MỞ RỘNG Ở VIỆT NAM

CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU
MỘT LIỆU PHÁP CAI NGHIỆN MA
TÚY CÓ HIỆU QUẢ
CẦN ĐƯỢC MỞ RỘNG Ở VIỆT NAM


          Xuất phát từ phong trào Synanon vào những năm đầu thập kỷ 60 ở California (Hoa Kỳ), Cộng đồng Trị liệu (tiếng Anh là Therapeutic Communities, viết tắt là T.C)  tiến hành việc cai nghiện ma tuý bằng phương pháp dùng cộng đồng người nghiện tự giúp đỡ lẫn nhau với phương châm "Trợ giúp để người nghiện tự giúp đỡ chính bản thân anh ta."
Đây là phương pháp điều trị, phục hồi dựa trên nguyên lý tự giúp đỡ lẫn nhau của bản thân những người nghiện ma tuý trong một cộng đồng (tập thể) người nghiện dưới sự hướng dẫn quản lý của các chuyên giatrợ giúp về chuyên môn của các nhân viên cai nghiện, phục hồi chuyên nghiệp. Như vậy TC có thể hiểu là một tổ chức và cũng có nghĩa là một liệu pháp cai nghiện ma tuý.


I.    KHÁI NIỆM VỀ CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU 


     Về tổ chức, T.C  không giống bất kỳ loại hình cộng đồng nào bởi vì sự tổng hợp hài hoà các yếu tố: cơ cấu tổ chức, con người, những quy địnhquy tắc điều chỉnh mối quan hệ tương giao giữa các thành viên của cộng đồnghệ thống chia sẻ thông tin trong một Cộng đồng Trị liệu.
Mặt khác,T.Cmột mô hình cai nghiện đặc biệt. T.C tạo ra một môi trường điều trị, học tập, rèn luyệnsinh hoạt lành mạnh đối với những người nghiện tình nguyện tham gia chương trình, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để mỗi người tự xoá bỏ mặc cảm, tự ti của bản thân và hình thành niềm tin để làm lại cuộc đời.
Chính vì vậy mà ngày nay T.C đã được nhiều quốc gia đưa vào áp dụng có hiệu quả không chỉ ở các trung tâm cai nghiện hoặc ở các cơ sở cai nghiện tại cộng đồng mà còn ở các trại giam tù nhân, cơ sở giáo dụctrường giáo dưỡng cho người chưa thành niên.


    Với hơn 60 năm hoạt động tính từ khi ra đời, ngày nay đã có hơn 60 quốc gia trên toàn thế giới áp dụng liệu pháp T.C và một Hiệp hội Cộng đồng Trị liệu thế giới (WFTC) đã được thành lập với 2 năm /1 lần tổ chức Hội nghị Quốc tế về liệu pháp Cộng đồng Trị liệu tại lần lượt các nước thành viên của Hiệp hội.
Vừa qua, từ ngày 6-10/2/2009 Hội nghị Quốc tế của WFTC lần thứ 24 đã được tổ chức tại Lima, thủ đô của Peru (Nam Mỹ). Tại Hội nghị, chương trình tập huấnáp dụng liệu pháp T.C của Việt Nam những năm gần đây đã được Hội nghị đánh giá cao, có hiệu quả. Việt Nam hiện chưa phải là thành viên chính thức của Hiệp hội nên được WFTC mời 01 đại biểu với tư cách là khách mời - quan sát viên tham dự Hội nghị.


II.    BẢN CHẤT CỦA LIỆU PHÁP TC


    Theo quan điểm của Tổ chức Daytop Quốc tế (một tổ chức NGO của Hoa Kỳ chuyên đào tạo về TC cho các nước trên thế giới) thì nghiện ma tuý là trạng thái rối loạn toàn bộ cơ thể người nghiện, do sử dụng lặp lại nhiều lần một hoặc nhiều loại ma tuý bao gồm: sự rối loạn về sinh lý, rối loạn về tâm lý/ nhận thứcrối loạn về hành vi. Từ đó, sự rối loạnsai lệch về nhận thức và hành vi là nguyên nhân làm mất nhân cách ở người nghiện ma tuý.

Cũng theo quan điểm của Tổ chức Daytop Quốc tế, nghiện ma tuý như là một bệnh mãn tính, khó chữa, nhưng có thể chữa được nếu như chúng ta sớm điều trị, phục hồi các rối loạn của cơ thể người nghiện để trở lại trạng thái bình thường ban đầu. Nói cách khác, quá trìnhcai nghiện, phục hồi cho người nghiện ma túy chính là quá trình xử lý, giải quyết sự rối loạn của 3 yếu tố trên đây.

Quá trình này đòi hỏi sự phối hợp đồng thời và đồng bộ những biện pháp khác nhau; từ liệu pháp y tế ( bao gồm cắt cơn, giải độc; phục hồi sức khoẻ; phục hồi các hệ chức năng của cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinhđiều trị các bệnh cơ hội do nghiện ma tuý đem lại) đến các liệu pháp điều trị tổng hợp như giáo dục trị liệu, tâm lý trị liệu, vật lý trị liệu, lao động trị liệu, giải trí trị liệu…đối với người đi cai nghiện.


    Các liệu pháp trên đây được tiến hành kết hợp với các hoạt động tư vấn (tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm), hướng nghiệp, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, học tập, các hoạt động văn hoá, thể thao…nằm trong một quy trình tổng hợp, thống nhất thông qua các chương trình hoạt động cụ thể, đa dạngphong phú của TC.

Theo lý thuyết về Cộng đồng Trị liệu của Tổ chức Daytop Quốc tế, hoạt động cai nghiện, phục hồi chỉ có hiệu quả và thành công khi chúng ta làm thay đổi nhận thứcchuyển đổi hành vi của người nghiện, dẫn tới họ từ bỏ được ma tuý.

Như vậy, các hoạt động quản lý, giáo dục nâng cao nhận thứclàm thay đổi hành vi, phục hồi nhân cách của người nghiện ma tuý vừa là nhiệm vụ vừa là mục tiêu rất quan trọng trong liệu pháp TC nhằm giúp cho họ từng bước rèn luyện, thay đổi sự lệch lạc trong nhận thức quan điểmlối sống, sinh hoạt và dần hình thành ý thức trách nhiệm, tinh thần tập thể, tính kỷ luật, sinh hoạt có nề nếplối sống lành mạnh, lương thiện lâu nay người nghiện chưa từng hoặc đã đánh mất để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.


III.    VIỆC ÁP DỤNG MÔ HÌNH NÀY Ở VIỆT NAM

  •  Từ năm 1997, Tổ chức Daytop Quốc tế đã tiến hành 5 khoá tập huấn đầu tiên cho một số cán bộ, nhân viên y tế của các cơ sở chữa bệnh1 số xã, phường25 tỉnh, thành phố với hơn 80 học viên, kể cả một số học viên của 3 cơ quan : Cục Phòng, chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), Viện Sức khoẻ tâm thần (Bộ Y tế) và Văn phòng Thường trực phòng, chống ma tuý (Bộ Công an). Nội dung chương trình tập huấn tập trung vào những nguyên lý cơ bản của tổ chức mô hình Cộng đồng Trị liệu; những nguyên tắc, nội dung hoạt động của TC và một số kỹ năng cụ thể trong công tác điều trị, phục hồi cho người nghiện ma tuý.

    Những nội dung bài học đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng chống tệ nạn xã hội và nhân viên chuyên nghiệp trực tiếp làm công tác cai nghiện, phục hồi là hết sức mới mẻ nhưng hết sức bổ ích và thiết thực. Qua 5 khoá đào tạo đầu tiên, các học viên đã được trang bị nhiều kiến thức mới về phương pháp cai nghiện theo mô hình TC. Sau khi trở về, phần lớn các học viên đã áp dụng những kiến thức thu nhận được vào công việc hàng ngày ở các trung tâm và đều thấy rằng có lợi ích, hiệu quả rõ ràng.

  •  Được sự tài trợ,  giúp đỡ của Chương trình Kiểm soát ma tuý của Liên hợp quốc (UNDCP) từ cuối năm 1998 đến tháng 3/2001, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ liên quan đã triển khai thực hiện Dự án "Phân tích tình hình lạm dụng ma tuý và huấn luyện, điều trị, phục hồi cho người nghiện dựa vào cộng đồng", mã số AD/VIE/98/B93 tại 7 địa phương đại diện cho 3 miền đất nước gồm Hà Nội, Yên Bái, Thái Bình, Nghệ An, Khánh Hòa, Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh.

    Trong khuôn khổ hoạt động của Dự án đã lồng ghép một chương trình đào tạo, tập huấn về Cộng đồng Trị liệuáp dụng một số chương trình thí điểm về TC cả ở các trung tâmcộng đồng tại nhữmg địa phương tham gia Dự án. Với những nội dung hoạt động theo phương pháp Cộng đồng Trị liệu của Tổ chức Daytop huấn luyện, các Trung tâm đã có những công việchoạt động mới đa dạng, phong phú như lập kế hoạch điều trị cho từng cá nhân; tổ chức giao ban buổi sáng cho các học viên ở Trung tâm; áp dụng các hình thức tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm, tư vấn gia đình người nghiện; tổ chức các hoạt động lao động sản xuất để giáo dục, trị liệu bằng lao độngrèn luyện sức khoẻ, phục hồi và nâng cao  kỹ năng lao động

    Đồng thời các Trung tâm đã tổ chức tốt một số hình thức sinh hoạt văn hoá, thể thao, văn nghệ, sinh hoạt câu lạc bộ v.v. góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều trị, phục hồi trong thời kỳ đối tượng ở Trung tâm.

  • Đặc biệt, sau khi Dự án kết thúc, riêng thành phố Hà Nội vẫn tiếp tục phát huy kết quả bước đầu đạt được của Dự án thí điểm, đã thành lập từ 5 câu lạc bộ thí điểm ban đầu đến nay đã lên tới trên 100 câu lạc bộ được gọi là Câu lạc bộ B93 nhằm tiếp tục quản lý, tư vấn, giúp đỡgiám sát các đối tượng sau khi cai từ trung tâm trở về hoặc cai tại gia đình, cộng đồng chuyển sang. Những câu lạc bộ áp dụng tốt một số hoạt động của mô hình Cộng đồng Trị liệu đã có chuyển biến rõ rệttỷ lệ tái nghiện giảm nhiều so với những nơi không có câu lạc bộ.

  • Từ tháng 11/2005 đến tháng 10/2006, Chính phủ Hoa Kỳ đã tài trợ cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Việt Namtiến hành Dự án đào tạo, tập huấn về phương pháp cai nghiện ma túy dựa vào liệu pháp Cộng đồng Trị liệu do Tổ chức Daytop Quốc tế thực hiện. Chương trình gồm 8 khoá tập huấn với 177 học viên của 26 Trung tâm ở cả 2 miền Bắc- Nam. Đây là khoá đào tạo có quy mô lớn về chương trình TC và cũng là khoá tập huấn có nội dung đồng bộ, phong phú nhất cho tới nay ở Việt Nam.

          Các chương trình đào tạo của Tổ chức Daytop Quốc tế về TC đã góp phần tạo bước chuyển biến mới, tích cực đối với các hoạt động cai nghiện ở các Trung tâm được tập huấn. Với quy trìnhphương pháp điều trịtheo mô hình Cộng đồng Trị liệumới được áp dụng, chất lượng công tác điều trị, phục hồiở các Trung tâm cũng như ở cộng đồngđã được nâng lên rõ rệt.

Từ chỗ các Trung tâm nặng về công tác quản lý hành chính đối tượng, tiến hành giáo dục, rèn luyện học viên bằng những bài học chính trị cứng nhắc tới nay các Trung tâm đã dần mở rộng các hoạt động, biện pháp giáo dục học viên: tổ chức điều trị, phục hồi sức khoẻ, giáo dục hành vi nhân cách cho đối tượng, tiến hành các liệu pháp tư vấn, tâm lý trị liệu, tổ chức lao động (vừa là trị liệu và là sản xuất), dạy nghề hướng nghiệp, giải quyết việc làm và chuẩn bị tốt quá trình tái hoà nhập cộng đồng cho người nghiện.


   Mặt khác, các hoạt động điều trị, phục hồi được áp dụng trong quá trình thí điểm đã liên kết các hoạt động ở Trung tâm với quá trình tái hoà nhập cộng đồng của các đối tượng với sự hỗ trợ, giúp đỡcan thiệp của cộng đồng, kể cả sự tham gia tích cực của gia đình đối tượng. Nhiều hoạt động và mô hình mới phong phúđa dạng được tổ chức trong quá trình triển khai các chương trình cai nghiện tại cộng đồng như hướng nghiệp, dạy nghề, tạo việc làm cho đối tượng, tổ chức các câu lạc bộ sau cai, tiến hành các buổi giao ban, sinh hoạt văn hoá, thể thao, mạn đàm chuyên đề…đã làm cho mô hình cai nghiện tại cộng đồng đạt chất lượng tốt hơn, hiệu quả cao hơn.


    Qua chương trình đào tạo về TC, đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tệ nạn xã hội nói chung, phòng chống tệ nạn ma tuý nói riêng, cụ thể trong lĩnh vực giảm cầu, cai nghiện ma tuý đã được nâng cao nhận thức nhiều mặt về sự hiểu biết về ma tuý, về cơ chế gây nghiện của các loại ma tuý, về bản chất của quá trình nghiện cùng các yếu tố liên quan, nguyên nhân dẫn tới tệ nghiện ma tuý. Từ đó nâng cao kiến thức và nắm vững các chuyên môn, nghiệp vụ của công tác điều trị, phục hồi.


         Các nhân viên chuyên nghiệp về điều trị, phục hồi, kể cả ở trung tâmcộng đồng, trongngoài ngành Lao động-Thương binh và Xã hội đã được nâng cao cả về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ thuật và một số kỹ năng trong công tác điều trị, phục hồi. Tất cả mọi người sau khi tham gia Dự án đều cho rằng Dự án có ích lợi rất thiết thực, hiệu quả đối với công việc hàng ngày của họsau một thời gian thực hiện Dự án, chất lượng và hiệu quả công việc của họ được nâng lên rõ rệt. Nhiều bài học và kinh nghiệm đã được đúc rút, tích luỹ trong quá trình tham gia thực hiện Dự án.


           Đặc biệt, những người nghiện ma tuý tham gia các chương trình thí điểm TC những năm qua có nhiều biến chuyển tích cực, tự giác phấn đấutin tưởng hơn vào hiệu quả của chương trình điều trị, phục hồi mà họ được tham gia. Kết quả bước đầu cho thấy tỷ lệ tái nghiện sau từ 6 - 12 tháng ở những Trung tâm, địa bàn thí điểm so với trước đây hoặc so đối chứng với những nơi  khác đã giảm rõ rệt.

Nhiều đối tượng đã từ bỏ hẳn ma tuý, được tạo công ăn việc làm ổn địnhthực sự hoàn lương. Một số khác trở thành cộng tác viên tích cực của Dự án thí điểm. Tất cả điều đó cho thấy là họ đã được hưởng một chương trình điều trị, phục hồi tốt hơn, phong phúhiệu quả hơn. Đó chính là thành quả của chương trình TC bước đầu đem lại cho chúng ta.


         Đây là những kinh nghiệm tốt, quý giácủa chương trình Cộng đồng Trị liệu trong quá trình chúng ta triển khai công tác cai nghiện, phục hồi cho người nghiện ma tuý, một công việc vô cùng khó khăn, nặng nề đầy cam go. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc áp dụng mở rộng phương pháp điều trị, phục hồi theo mô hình Cộng đồng Trị liệu để góp phần tích cực nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác này, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao phó, đáp ứng sự mong mỏi, tin tưởng của nhân dân và cả xã hội.