All posts by admin

CÔNG TÁC QUẢN LÝ – ĐIỀU TRỊ – GIÁO DỤC TRONG MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU

CÔNG TÁC QUẢN LÝ - ĐIỀU TRỊ - GIÁO DỤC

TRONG MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU​


Bs.Nguyễn Hữu Khánh Duy

Giám Đốc Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện ma túy Thanh Đa



A. RỐI LOẠN TÂM - SINH LÝ TRÊN NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:
          Ma túy là những chất tác động tâm thần và gây những tổn thương trong não người nghiện. Những tổn thương này có thể tồn tại rất lâu hoặc vĩnh viễn sau khi ngưng sử dụng ma túy.
Người nghiện ma túy bị suy giảm khả năng xét đoán, khả năng xử lý thông tin, mất khả năng tự chủ, khả năng hiểu biết để hướng đến một cuộc sống lành mạnh. Người nghiện hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. 

Liệu pháp điều trị - phục hồi là một vấn đề hết sức khó khăn vì người bệnh bị những rối nhiễu tâm sinh lý thực tổn - lú lẫn tâm trí - phản ứng loạn tâm thần - rối loạn sinh hoạt - trạng thái hưng trầm nhược - rối loạn hành vi - rối loạn tập trung - biểu hiện lo hãi - thiếu tự tin, kết hợp với các rối loạn nhân cách - rối loạn tâm thần và đặc biệt là hội chứng hồi tưởng dẫn đến thèm nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó … Đa số người nghiện ma túy đều được xếp vào những người có vấn đề tâm thần.

Sự rối loạn trên nguyên nhân từ nhiều lý do khác nhau: Tâm - sinh lý người nghiện, hoàn cảnh cá nhân, ảnh hưởng do gia đình và tác động của xã hội. Việc sử dụng, lạm dụng rồi lệ thuộc ma tuý dẫn đến tình trạng nghiện là triệu chứng cuối cùng của một quá trình dài đầy rối loạn trong một bối cảnh đa phương diệndo đó, việc điều trị phục hồi người nghiện ma tuý phải là một phương pháp điều trị toàn diện bao gồm nhiều lãnh vực Y tế - Tâm lý - Xã hội… 

Sau khi cai, nếu những nhân tố tác động thúc đẩy đối tượng tìm đến ma tuý vẫn chưa được giải quyết, hầu hết những người nghiện sẽ tái nghiện.

Vì những l‎ý do trên, nên trừ một số trường hợp bệnh nhẹ, hầu hết những người nghiện ma túy đều phải được điều trị tập trung một thời gian để được giáo dục, giúp đỡ, rèn luyện, phục hồi nhận thức, hành vi, nhân cách; trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống trước khi trở về tiếp tục điều trị tại cộng đồng.

Để có được một môi trường điều trị tập trung dài hạn có hiệu quả, qua thực tiễn và l‎ý luận người ta nhận thấy rằng MÔ HÌNH TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI là  khá thành công – có hiệu quả nhất.


Nếu được điều trị và phục hồi đúng cách, người nghiện sau khi cai nghiện sẽ bước vào cuộc sống với những thói quen tốt, những nhận thức đúng đắn - biết tự trọng và tự tin hơn để với sự giúp đỡ của cộng đồng sẽ có thể từng bước, bước đi chính trên đôi chân.

Khi một bệnh nhân bị căng thẳng, bức xúc, mất ngủ - người thầy thuốc khuyên bệnh nhân hãy nghỉ ngơi ở những nơi yên tĩnh.


Bạn có thể lên cao nguyên hoặc về vùng biển một thời gian. Nơi yên tĩnh, cao nguyên, biển chính là thuốc để điều trị các chứng căng thẳng, bức xúc, mất ngủ của bạn. Sử dụng môi trường để điều trị bệnh được gọi là môi trường trị liệu.


Những khái niệm về môi trường trị liệu: Những cuộc nghiên cứu đã thực hiện đầu tiên về môi trường trị liệu hầu hết sử dụng những lý thuyết về tâm thần hay về tâm lý bệnh nhân để xác định loại môi trường nào là có tính cách trị liệu tốt nhất. Những nổ lực được thực hiện để tìm kiếm một môi trường tương tác giữa các cá nhân, được chi tiết hoá kỷ lưỡngđặt nền tảng trên những nhu cầu tâm năng của một bệnh nhân đã được chẩn đoán kỹ càng.



+ Năm 1944 STANTON và SCHWARTZ cho rằng môi trường có thể là cách điều trị chủ yếu, cũng như có vai trò ảnh hưởng nâng đỡ hay bổ túc cho các hình thức điều trị khác.

+ Một tác giả khác là CUWDELL đã miêu tả tác động của các giá trị văn hoá, những chuẩn mực và phong tục của môi trường có thể ảnh hưởng lên sự điều trị của bệnh nhân.

+ Năm 1958 các tác giả FREEMAN, CAMERON đã cho rằng có mối liên hệ giữa tâm lý cá nhân và những đặc điểm của môi trường .

+ Năm 1962 CUMMING cho rằng môi trường có thể mang lại những thay đổi đặc thù trong hành vi của bệnh nhân. Các môi trường trị liệu có thể khác nhau tùy theo cách tổ chức, nhưng căn bản đều có những điểm chung trong các phương pháp trị liệu đối với các bệnh nhân điều trị nội trú.

Môi trường trị liệu nhận định rằng:

a/ Bệnh nhân có những sức mạnh và một phần nhân cách không bị xung đột. Những sức mạnh này được phát huy tối ưu bằng cách thiết lập một môi trường nội trú khoa học.

b/ Bệnh nhân có những khả năng to lớn trong việc tự điều chỉnh chính mình, trên những bệnh nhân khác và mức độ nào đó có ảnh hưởng trên cơ cấu tổ chức của bệnh viện.

c/ Tất cả các nhân viên của trung tâm có một khả năng rất lớn để tác động đến việc trị liệu cho người bệnh.

II. CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:

Theo CRACK, khác với môi trường trị liệucộng đồng trị liệu là một loại môi trường đặc biệt trong đó toàn cơ cấu xã hội của đơn vị điều trị đều tham gia tiến trình giúp đỡ bệnh nhân.


Theo JONES, môi trường cộng đồng trị liệu được phân biệt với các chương trình trị liệu khác là do chương trình này huy động toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân và toàn bộ tập thể bệnh nhân và nhân viên đều tập trung vào mục đích điều trị. Như vậy,bệnh nhân cũng có một vị trí trong  chương trình điều trị này. 


Trong chương trình cộng đồng trị liệu, nhân viên phải khuyến khích bệnh nhân tích cực tham gia trong kế hoạch săn sóc cho chính mình. Đây là một phương pháp rất khác với vai trò thụ động chữa trị trong bệnh viện cổ điển, quy ước trong đó chỉ có vai trò bác sĩ và bệnh nhân.

JONES cho rằng điểm đặc biệt của chương trình này là được đặt trên sự giao lưu, giao tiếp tự do giữa bệnh nhân với nhân viên và giữa các bệnh nhân với nhau.

  • Mục đích của sự giao lưu tự do này là tìm ra được hành vi nào, ‎ý kiến nào, nhận xét nào, những vai trò nào  thích hợp để thay đổi nhận thứcthái độ,  lòng tin của bệnh nhân và những vấn đề nào không thích hợp cho điều trị (anti therapeutic).Như vậy, cộng đồng trị liệu có tính chất dân chủtự do bàn bạc, thảo luận khác với phương pháp thường dùng là đặt vai trò trị liệu của người bác sĩ lên trên bệnh nhân và cách điều trị phục hồi tuân thủ những quy định theo thứ lớp bắt buộc.Trong mô hình cộng đồng trị liệu, môi trường thiết yếu là môi trường linh hoạt, những người tham gia không có vai trò chuyên biệt rõ ràng, những hoạt động của bệnh nhân được cá thể hóa rất cao. Một điều ngoại lệ đặc biệt là MỖI NGÀY PHẢI CÓ MỘT BUỔI HỌP CỘNG ĐỒNG: tất cả nhân viên và những bệnh nhân được khuyến khích phải hội họptrách nhiệm tập thể được nhấn mạnh, những người tham dự được rút tỉa kinh nghiệm, học tập, sửa sai những hành vi không tốt.

    Vai trò chính của nhân viên là giúp đỡ bệnh nhân đạt được những thấu hiểu mới, những sáng kiến, hành vi mới. JONES tin rằng một đơn vị điều trị lý tưởng cần phải được tự do điều hành trong cách nào tốt nhất, với hướng tiếp cận riêng của mình. 

    Tuy nhiên, JONES cũng đưa ra những yếu tố mang tính đặc trưng của cộng đồng trị liệu: đó là hội họp cộng đồng hàng ngày như là một phương thức để thảo luận đời sống hàng ngày của Trung Tâm nhằm đóng góp, giải quyết các thắc mắc, các yêu cầu của các bệnh nhân.

    Một yếu tố nữa của cộng đồng trị liệu là quản lý bệnh nhânMục đích của sự quản lý bệnh nhân là để bàn bạcthảo luận một cách chi tiết, cụ thể về trách nhiệm và quyền lợi của từng bệnh nhân như: luân phiên dọn dẹp và làm vệ sinh các phòng.

    Tất cả mọi quyết định cuối cùng phải được thống nhất lại trong các phiên họp cộng đồng. Jones cho rằng sinh hoạt nhóm nhằm xem xétkiểm điểm lại hoạt động trong ngày là rất cần thiết nhằm uốn nắn, giáo dục bệnh nhân. Trong buổi họp, các thành viên Trung Tâm phải bàn bạc những đáp ứng riêng,  mong đợi riêng, thành kiến riêng của mọi người. Một đặc trưng quan trọng khác của môi trường cộng đồng trị liệu là bệnh nhân có những cơ hội học cách sống sinh hoạt trong môi trường tập thể đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày.

    Theo JONES - phản hồi lại, là một trong những khái niệm căn bản, quan trọng nhất của cộng đồng trị liệu nhằm đạt được sự tiến bộ của cộng đồngNhân viên của Trung tâm phải nhạy cảm trong vai trò của mình - phải biết phản hồi lại những thông tin trong cộng đồng lên cấp trên.

    Ngày nay những khái niệm sơ khởi của JONES về cộng đồng trị liệu đã được nhìn nhận tuy nhiên được thực hiện dưới nhiều hình thức, phương pháp khác nhau nhưng những nét cơ bản vẫn không thay đổi.

    Nguyên tắc của cộng đồng trị liệu là có sự liên quan lẫn nhau trong môi trường nội trútác động đến hành vi và cảm xúc của mọi người. Năng động nhóm là động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm và phục hồi – khuyến khích sự phát triển.

    Sự điều hành toàn diện môi trường cộng đồng rất có hiệu quả.

    Sức mạnh của năng động nhóm (dynamic group) ảnh hưởng đến việc điều chỉnh hành vi và củng cố các quy tắc của cộng đồng. Ngày nay, trong môi trường điều trị cộng đồng, sức mạnh ấy không còn nằm ở cá nhân hay một nhóm nhỏ nữa mà nó là sức mạnh của một tập thể.

    III. MÔ HÌNH TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI (SELF – HELP SOCIAL LEARNING TREATMENT MODEL – SSLTM):

    Từ những khái niệm của CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU, mô hình TỰ GIÚP ĐỠ THEO CÁC LIỆU PHÁP XÃ HỘI đã phát triển các mô hình sau đây:

    1. HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ẨN DANH (AA) – NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY ẨN DANH (NA):

    Năm 1935– Nhóm những người nghiện rượu ẩn danh (AL) được thành lập. Quan điểm của nhóm là cá nhân tự nhìn nhận bản thân, thừa nhận những khiếm khuyết của mình và sửa đổi.

    • Hội AA (Alcoholics Annymous)HIỆP HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN RƯỢU ẨN DANH – ra đời năm 1935, tại Akron- Ohio- Mỹ, do ông Bill Wilson và bác sĩ Bob Smith – vốn là hai người nghiện rượu, đã tự cai. Hai ông đã đưa ra 12 nguyên tắc điều trị, đồng thời lập ra hội AA. Hội khởi đầu có 3 thành viên.


    • Năm 1953, hội AA cho phép hội NA(Narcotics Anonymous) HỘI NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY ẨN DANH được phép sử dụng các bước của chương trình này vào việc cai nghiện ma túy.


    Nghiện rượu và nghiện ma túy có nét chung là cùng mục đích hồi phục và từ bỏ nghiện, đồng thời hình thành mối quan hệ đồng cảm giữa những người đang cùng cai nghiện.

    • Hơn 70 năm qua, chương trình 12 bước đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới,dựa trên căn bản có tính truyền thống, và được bổ sung bởi nhiều bài viết chọn lọc của những người cai nghiện. Trụ sở trung ương Hội đặt tại New York và Châu Âu.


    Phương pháp chính của Hội 
    là chương trình 12 bước và một bộ sách giáo khoa kèm theo (Basic Text).  Phương pháp nhấn mạnh đặc biệt vai trò của quy trình thảo luận – thu hoạch – giải đáp.

    Giáo viên hướng dẫn 
    và nhóm trợ lý đều là người cai nghiện thành côngxuất thân từ Trường Cai Nghiện và trở thành chuyên viên – một người thầy thực sự của chuyên ngành ma túy.

    Việc học tập được tổ chức tại Trung Tâm Cai nghiện Ma Túy, chương trình bao gồm giai đoạn cắt cơn, giai đoạn học tập và rèn luyện theo chương trình 12 bước, kế tiếp là giai đoạn “bán thử thách và giai đoạn thử thách” tại cộng đồng. Thời gian tổng quát là 6 tháng, có thể kéo dài một năm hay hơn nữa, tùy theo từng trường hợp.

    Sau khi tái hòa nhập cộng đồng, mỗi người đều là hội viên của NA và giữ sinh hoạt với Hội, thân thiết, lâu dài để đem lại sự bền vững cho mình.

    Tại Trung Tâm, học viên cũng được hưởng các dịch vụ sinh hoạt như: thể dục thể thao - vui chơi giải trí – nâng cao văn hóa, kỹ năng sống – các loại lao động trị liệu, hướng nghiệp.

    NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH HỌC TẬP 12 BƯỚC:

    Chương trình 12 bước có nguồn gốc như đã trình bày trên, chương trình được xây dựng trên nền tảng Tâm lý nhiều mặt, bao gồm nhiều ngã rẽ của tâm lý người nghiện, như sự phản ứng, thối động, che dấu, biện hộ, chối bỏ, không thừa nhận, buông xuôi, mất tự tin, hưng phấn giả tạo… qua từng giai đoạn, do tính chất căn bệnh gây nên, cộng với quán tính của hành vi tiêu cực lâu dài trong quá khứ. Chương trình do chính những người nghiện đã phục hồi xây dựng nên và được tiếp tục bổ sung. Chương trình 12 bước bao gồm:

    Bước 1: "Chúng ta chấp nhận rằng mình bất lực về sự nghiện ngập của chúng ta và cuộc sống của chúng ta trở nên không kiểm soát được"

    Bước 2: "Chúng ta tin rằng có một quyền năng mạnh hơn bản thân mình có thể giúp chúng ta phục hồi lại sự bình thường"

    Bước 3: "Chúng ta quyết định để ‎ý chí và cuộc sống của chúng ta cho sự chăm sóc của Thiên Chúa vì chúng ta hiểu Người"

    Bước 4: "Chúng ta đã đánh giá đạo đức của chúng ta một cách chân thật và can đảm"

    Bước 5: "Chúng ta đã thú nhận với Đấng tối cao, với chính chúng ta, và với người khác về thực chất những hành động sai lầm của chúng ta"

    Bước 6: "Chúng ta hoàn toàn để cho Đấng tối cao xóa bỏ đi tất cả những khuyết điểm của tính cách"

    Bước 7: "Chúng ta khiêm tốn yêu cầu Đấng tối cao xóa bỏ những điều thiếu sót của chúng ta"

    Bước 8: "Chúng ta viết ra danh sách những người mà chúng ta đã làm hại và chúng ta sẵn sàng sửa chữa tất cả"

    Bước 9: "Chúng ta trực tiếp đền bù cho họ bất cứ nơi nào chúng ta có thể, ngoại trừ trường hợp nếu chúng ta làm điều đó sẽ tổn thương họ hoặc những người khác"

    Bước 10: "Chúng ta tiếp tục làm bảng kiểm tra cá nhân, để khi nào chúng ta sai, chúng ta thừa nhận và sửa chữa ngay những sai lầm ấy"

    Bước 11: "Chúng ta đã tìm kiếm thông qua cầu nguyện và thiền định để nâng cao nhận thức của chúng ta, tiếp cận với Chúa vì khi chúng ta hiểu được Người. Cầu nguyện chỉ là biểu hiện sự sẵn lòng của Người cho chúng ta và sức mạnh để làm điều đó"

    Bước 12: "Sau khi đạt được sự nhận thức về tâm linh, kết quả của các bước mà ta đã cố gắng thực hiện. Chúng ta cố gắng mang thông điệp này đến cho những người nghiện ma túy khác và để thực hành các nguyên tắc này trong mọi công việc của chúng ta"


    2. MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG OXFORD: do Frank Buchman thành lập và là người có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng các giá trị nhân văn. Mục đích chủ yếu của nhóm Oxford là cai nghiện Rượu – Hoạt động của nhóm bao gồm những nội dung như cùng chia sẻ thông tin, hướng dẫn, cam kết sự thay đổi và phục hồi. Chúng ta thấy được nhiều điểm tương đồng giữa nhóm Oxford với Cộng đồng trị liệu. Nhóm Oxford có những nổ lực trong việc truyền đạt các giá trị nhân văn tới các thành viên của nhóm. Trong số các giá trị này có 4 yếu tố cơ bản – đó là:
    • Tính trung thực tuyệt đối
    • Tính trong sạch tuyệt đối
    • Không ích kỷ
    • Yêu thương tuyệt đối


    3. MÔ HÌNH SYNANON:
    Được thành lập vào năm 1958 tại California bởi một người đã từng nghiện rượu là Charles E. Dederich, sự phát triển của Synanon ban đầu được xuất phát từ quan điểm của AA. Do chương trình thích ứng với các trường hợp cai nghiện ma túy, chương trình Synanon và AA dần trở nên tách biệt và dẫn đến sự khác nhau hệ tư tưởng cũng như mối liên quan.

    Mô hình Cộng đồng trị liệu của Synanon đang phát triển thành nhiều chương trình ở Mỹ và khắp thế giới gồm chín yếu tố cơ bản. Các yếu tố này dựa vào l‎ý thuyết học tập xã hộithông qua sử dụng cộng đồng để khuyến khích sự thay đổi về hành vi và thái độChín yếu tố đó là:

    • Tham gia tích cựcNgười nghiện tham gia chủ động trong các hoạt động trong cộng đồng chữa bệnh là cần thiết để thay đổi, trưởng thành và phát triển. Điều này có nghĩa là khi người nghiện tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, sẽ tăng cường mối liên kết giữa các thành viên và giữa thành viên với chương trình. Các thành viên được yêu cầu đóng góp cho cộng đồng. Sự đóng góp này được thực hiện dựa trên khả năng của từng cá nhân cũng như giá trị của mỗi nhiệm vụ mà họ thực hiện đối với cộng đồng.

    • Phản hồi của thành viên: Những thành viên nhóm phải đóng góp ‎ý kiến lẫn nhaumột cách chân thật. Thông tin phản hồi của các thành viên được thực hiện một cách chính thức thông qua hoạt động của nhóm và các buổi trị liệu, hoặc phản hồi không chính thức như giao tiếp cá nhânMục đích của việc phản hồi là nhận thức về hành vi, suy nghĩ ‎ ý tưởng. Phản hồi bao gồm cả sự phản hồi tích cực và phê bình có tính xây dựng.

    • Noi gươngTất cả các cán bộ và thành viên cấp cao của cộng đồng phải thể hiện tốtđể làm gương cho những thành viên khác như một phương tiện giáo dục. Đây là việc giáo dục thông qua hành động. Các thành viên của cộng đồng điều trị “không chỉ nói mà phải làm”.

    • Tập thể hướng dẫn cá nhân thay đổi: Nhấn mạnh của nhóm hoặc tác động của cộng đồnggiúp cá nhân thay đổi. Tất cả các yếu tố trong mô hình SSLTM khuyến khích và hỗ trợ cho cá nhân trưởng thành và phát triển.

    • Các giá trị và chuẩn mực chung: Cộng đồng xây dựng các quy tắc và giá trị chungđể tạo ra áp lực của nhóm và của cộng đồng, để giúp đỡ từng thành viên của cộng đồng tuân thủ và dần tin vào những hành vi và quan niệm tích cực“Triết lý TC” và “Những quy tắc bất thành văn” là những nội dung để thực hiện các giá trị và chuẩn mực.

    • Kết cấu và hệ thống: Để thực hiện các khái niệm và triết lý của SSLTM, các hoạt độngcần được tổ chức có kết cấu và hệ thống. Kế hoạch hoạt động hàng ngày, gặp mặt, nội quy, quy định, cấu trúc thứ bậc, công việc, mệnh lệnh nhóm, các giai đoạn điều trị là tất cả những nội dung để đạt được mục đích và mục tiêu của cộng đồng.

    • Giao tiếp mở:  Hoạt động giao tiếp được tiến hành theo chiều ngang và chiều dọc.Cộng đồng duy trì sự thống nhất thông qua việc khuyến khích các thành viên bộc lộ cảm xúc và ý tưởng.

    • Mối quan hệ cá nhân và nhóm: SSLTM tạo ra một mạng lưới quan hệ, tạo điều kiện cho các học viên có nhiều cơ hội để hiểu rõ hơn về hành vi, cảm xúcvà ý tưởng. Mối quan hệ với nhân viên, nhóm người được chữa trị, nhóm tĩnh, cộng đồng sẽ giúp các cá nhân đảm nhận trách nhiệm, tăng cường hiểu biết và chấp nhận những thiếu sót của mình và làm cam kết thay đổi.

    • Thuật ngữ chuyên dùng: Thuật ngữ sử dụng bởi SSLTM là cách giải thích đơn giảnvề quá trình và môi trường hoạt động. Đó là ngôn ngữ chung tạo ra sự gắn kết giữa các thành viên trong cộng đồng.


    4. TỔ CHỨC DAYTOP QUỐC TẾ:

    Được bắt đầu đưa vào điều trị từ năm 1963 và hiện có mặt trên 60 quốc gia trên thế giới.

    Tổ chức Daytop đã hỗ trợ rất nhiều người nghiện và thanh thiếu niên từ bỏ lệ thuộc vào ma túy và xây dựng một cuộc sống lành mạnh và có ích cho xã hội. Tình trạng sử dụng ma túy và nghiện ma túy diễn ra ở hầu khắp các nước trên thế giới và có tác động lớn đến các thành viên, gia đình, cộng đồng và toàn thể xã hội.

    Tổ chức DAYTOP Quốc tế được thành lập để cung cấp chương trình tập huấn, hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ các quốc gia đối phó với sự gia tăng của tình trạng sử dụng ma túy.

    Chương trình tập huấn Daytop dựa trên cơ sở mô hình trị liệu cộng đồng truyền thống lâu dài, mô hình này được tạo thành từ 9 yếu tố cơ bản:
    1. Sự tham gia tích cực của các thành viên/ người cai nghiện trong cộng đồng,
    2. Thu nhận ‎ý kiến từng thành viên cộng đồng,
    3. Xây dựng mô hình trách nhiệm,
    4. Các mô hình hướng dẫn từng thành viên cộng đồng thay đổi,
    5. Chia sẻ các chuẩn mực và giá trị chung,
    6. Cơ cấu và hệ thống,
    7. Giao tiếp mở,
    8. Quan hệ cá nhân và quan hệ nhóm, và
    9. Thuật ngữ chuyên dùng (được áp dụng trong cộng đồng TC).

    Tất cả những yếu tố này tạo nên một phương pháp cộng đồng TC, dựa trên phương pháp tự giúp đỡ và học tập xã hội. Chính cộng đồng thúc đẩy những thay đổi về thái độ, hành vi của thành viên. Thái độ, kỹ năng và trách nhiệm mà người vào cai nghiện học tập từ cộng đồng không chỉ cần thiết để giúp họ sống tốt trong môi trường cộng đồng đó mà còn là yếu tố quan trọng để họ có thể tồn tại khi trở về xã hội.

    Mô hình tập huấn này được hình thành trên hoạt động thực tế của các Cộng đồng trị liệu Hoa Kỳ (TCA). Những cộng đồng này đã đào tạo cán bộ tư vấn có năng lực phù hợp để triển khai hiệu quả mô hình này. Năng lực của cán bộ tư vấn bao gồm:
    • Phát triển các kỹ năng sử dụng các công cụ thu thập dữ liệu và các công cụ đánh giá,
    • Tăng cường động lực phát triển và thúc đẩy xây dựng hệ thống các quy định ưu đãi,
    • Khuyến khích ‎ý thức tự giúp đỡ và trợ giúp lẫn nhau,
    • Phát triển khái niệm “không có sự tách biệt giữa chúng ta – họ”,
    • Thực hành khái niệm “hành động theo chỉ dẫn”,
    • Thúc đẩy sự phụ thuộc vào giai đoạn đầu của điều trị và tăng cường độc lập cá nhân vào giai đoạn tiếp theo,
    • Tổ chức hoạt động nhóm,
    • Quản lý‎ hồ sơ,
    • Thúc đẩy việc học tập xã hội thông qua làm gương, tác động đồng đẳng, và học tập thông qua trải nghiệm,
    • Tiến hành xây dựng lòng tin trong cộng đồng,
    • Thực hành theo các tấm gương tích cực,
    • Chương trình tập huấn này đã mở rộng thêm một nội dung nữa – nội dung thứ 12 – phát triển các hành vi khắc phục khó khăn để thay đổi.

    Để hiểu rõ tổ chức và các phương pháp điều trị của tổ chức này đề nghị các bạn tham khảo tại mục Nghiên cứu Khoa học, bài thứ 3: “Cộng đồng trị liệu – một liệu pháp cai nghiện ma túy có hiệu quả cần được mở rộng ở Việt Nam” tại trang web của Trung tâm Thanh Đa do ông Trần Việt Trung – nguyên Phó Cục Trưởng Cục Phòng, Chống tệ nạn xã hội – Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội biên soạn.

    5. MÔ HÌNH MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU VÀ CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CỦA TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG & CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA:

    Thông qua khảo sát các chương trình (SSLTM) chúng tôi nhận thấy chương trình SSLTM của tổ chức Daytop:
    • Phù hợp với điều kiện Việt Nam nói chung và Trung tâm Cai nghiện Ma túy Thanh Đa nói riêng.
    • Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đađã thực hiện chương trình này hơn 17 năm và có kết quả rõ rệt.
    • Nhiều cán bộ nhân viên Trung tâm Cai nghiện Thanh Đa đã tham gia chương trình tập huấn tập trung dài hạn 04 tháng do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội kết hợp với tổ chức Daytop Quốc tế thực hiện. Khóa học có nội dung đồng bộ, phong phú và được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (người tài trợ chương trình này) đánh giá cao qua kết quả nghiệm thu được khảo sát và công bố năm 2009.

    Do điều kiện đặc thù của học viên và Trung tâm Thanh Đa – chương trình điều trị theo phương pháp Daytop Quốc tế đã được Trung tâm điều chỉnh một số mặt để phù hợp với thực tiễn và hoàn cảnh thực tế của Trung tâm. Trong đó chúng tôi đặt nặng vấn đề GIÁO DỤC TRỊ LIỆU – TRANG BỊ BẢN LĨNH và KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN.

    KẾT LUẬN:
    Môi trường cộng đồng trị liệu không giống như môi trường cộng đồng mà chúng ta đang sống. Có một số những đặc tính khiến cho cộng đồng này trở nên độc đáo và không giống bất kỳ loại cộng đồng nào: đó chính là sự tổng hợp của các yếu tố: cơ cấu tổ chức, yếu tố con người, những quy định điều chỉnh mối quan hệ tương giao giữa các thành viên của cộng đồng và hệ thống chia sẻ thông tin đã tạo nên cộng đồng. Nó phải là: “Môi trường học tập”. Môi trường này chủ yếu đề cập đến mối quan hệ giữa các thành viên và không khí học tập. Kết quả môi trường cộng đồng trị liệu là tạo ra một số những ảnh hưởng nhất định đến trạng thái tâm tư tình cảm, nhận thức về đạo đức và xã hội của người nghiện. Môi trường cộng đồng trị liệu tạo ra trật tự và một lối sống có mục đích trong các thành viên của nó. Chính bởi vì môi trường trị liệu cộng đồng thường có được cơ sở vật chất  cũng như cách tổ chức tốt nên nó là môi trường trị liệu tốt đối với các đối tượng tham gia chương trình.

    Tóm lại:
    Môi trường cộng đồng trị liệu nhằm mục đích:
    • Bạn có thể thay đổivà bộc lộ bản thân mình.
    • Động lực của nhóm sẽ giúp đỡ cho sự thay đổi đó.
    • Tất cả các thành viên của cộng đồng cần phải có trách nhiệm.
    • Tự  đặt mìnhvào hoàn cảnh người khác để đánh giá cảm xúc.
    • Phương pháp thực hiện bao gồm:
    • Quản lý giám sát hành vi.
    • Chuyển biến tâm tư – tình cảm.
    • Điều trị cắt cơn – bệnh cơ hội – bệnh tâm thần.
    • Sử dụng các phương pháp điều trị không dùng thuốcnhằm phục hồi nhận thức – hành vi nhân cách – tinh thần trách nhiệm – điều chỉnh những rối loạn tâm - sinh lý cho người nghiện ma túy.


    C. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐỂ XÂY DỰNG MỘT MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU CÓ HIỆU QUẢ:

    I. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN:
    Vì tính chất đa dạng của bệnh nghiện ma tuý nên nếu sử dụng một vài biện pháp thì không đảm bảo đáp ứng hết được mọi yêu cầu cho công tác cai nghiện mà phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều biện pháp để phục vụ cho điều trị. Một số nguyên tắc cơ bản phải thực hiện:

    1. XÂY DỰNG NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG:
    • Tôn trọng lẫn nhau.
    • Có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng. Lòng biết ơn.
    • Tự tin vào giá trị bản thân.
    • Biết thương yêu và quan tâm  đến người khác.
    • Phối hợp trong công việc.
    • Trung thực – trách nhiệm – khiêm tốn – cởi mở.
    • Năng động sáng tạo – khả năng nhận thức tốt.
    • Tích cực lao động.


    2. XÂY DỰNG MỘT MÔI TRUỜNG ĐIỀU TRỊ AN TOÀN VÀ LÀNH MẠNH:
    • Không ma tuý.
    • Không có hành vi bạo lực hay đe dọa bạo lực.
    • Không có hành vi tình dục.
    • Không trộm cắp.
    • Luôn luôn nhắc nhở và kiểm tra thực hiện các nguyên tắc cộng đồng đề ra.
    • Đặt ra những quy định mới nếu thấy cần thiết.

    3. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC:
    • Việc tuân thủ lịch sinh hoạt 24h/ ngày được giám sát chặt chẽ.
    • Phân công công việc rõ ràng cho từng thành viên.
    • Có sự chỉ đạo thông suốt từ trên xuống dưới và sự phản ánh kịp thời từ dưới lên.
    • Đảm bảo tuân thủ những quy tắc, quy định. Mọi hành vi được giám sát chặt chẽ và thường xuyên.
    • Xây dựng được những tiêu chí trong cộng đồng nhằm khuyến khích việc tích cực điều chỉnh hành vi.
    • Phương pháp điều trị phải dựa trên nguyên tắc nhằm đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người nghiện.

    4. NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ:
    • Phương pháp điều trị không bao giờ được làm tổn thương đến nhân phẩm đối tượng và phải được xây dựng trên những hiểu biết sâu sắc về ma túy và người nghiện.
    • Phải áp dụng biện pháp điều trị toàn diện bao gồm nâng cao sức khoẻ và điều chỉnh, phục hồi nhận thức - hành vi - nhân cách, thông qua tư vấn - tâm lý trị liệu, giáo dục trị liệu, hoạt động trị liệu, huấn nghiệp trị liệu, lao động trị liệu.
    • Đối tượng có lòng tin vào cán bộ điều trị.
    • Đối tượng cảm nhận được sự chăm sóc và giúp đỡ chân thành của cán bộ điều trị.
    • Đối tượng  cảm nhận được sự chăm sóc của cả cộng đồng đối với quá trình tiến bộ của đối tượng.
    • Đối tượng luôn luôn cảm thấy an toàn cả về thể chất lẫn về tinh thần.
    • Phải tạo được môi trường điều trị – phục hồi an toàn.
    • Môi trường điều trị phải tạo ra được sự trung thực và tính cởi mở trong nguyên tắc cộng đồng đề ra.
    • Kết hợp liệu pháp dùng thuốc và không dùng thuốc (xem mục PHÒNG CHỐNG TÁI NGHIỆN tại website này)

    5. NHỮNG BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY NHANH SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH ĐỐI TƯỢNG:
    • Phải có những nguyên tắc giải quyết mọi hành vi vi phạm có liên quan đến những quy định của cộng đồng mà không cần sử dụng đến vũ lực.
    • Phải có những hoạt động nhằm giúp đỡ về tâm tư tình cảm, khuyến khích việc bày tỏ suy nghĩ, cảm nhận đối tượng một cách trung thực (ví dụ như tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hay các hình thức điều trị khác…).
    • Tổ chức những buổi nói chuyện cho đối tượng để họ có thể  giải bày tâm sự về quá khứ của mình một cách cởi mở, trung thực mà không lo ngại có sự chế diễu hay phản đối từ phía đối tượng khác.
    • Giúp đối tượng cũng cố lòng tin vào bản thân và những người xung quanh qua biện pháp giáo dục tâm lý - xã hội cho dối tượng.

    6. XÂY DỰNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HỮU HIỆU:
    • Sử dụng hệ thống quản lý trách nhiệm.
    • Đối tượng được nhóm, tổ chức phân công việc.
    • Sử dụng nhóm đồng đẳng quản lý lẫn nhau.
    • Sử dụng sổ nhật ký, sổ báo cáo, giao ban hay lịch phân công lao động để quản lý.
    • Giám sát nghiêm ngặt tuân thủ các loại quy định, nguyên tắc của cộng đồng.

    7. XÂY DỰNG HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ ĐIỀU TRỊ CỦA ĐỐI TƯỢNG:
    • Kế hoạch điều trị:
    • Xác định những vấn đề mấu chốt phải giải quyết trong quá trình điều trị.
    • Xây dựng một kế hoạch điều trị nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra.
    • Kế hoạch này phải có những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn điều trị.
    • Xác định những hoạt động diều trị cụ thể và chỉ định người chịu trách nhiệm giúp đỡ đối tượng đạt được mục tiêu yêu cầu điều trị đề ra.
    • Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ.
    • Theo dõi tiến độ điều trị của đối tượng theo kế hoạch đã đề ra: Tổ chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm cho từng trường hơp đối tượng.
    • Sử dụng hồ sơ quản lý đối tượng,  phân công người quản lý theo dõi.
    • Nhận xét của nhân viên tư vấn về sự tiến bộ của đối tượng.
    • Biên bản của những buổi tư vấn cá nhân, nhóm, gia đình.
    • Báo cáo tiến độ điều trị thường kỳ hàng tháng.

    8. XÂY DỰNG HỆ THỐNG KHEN THƯỞNG:
    • Dựa trên các tiêu chuẩn đã đề ra để khen thưởng các học viên tích cực.
    • Sử dụng một số ưu đãi làm phần thưởng như : viết thư, tặng quà lưu niệm, biểu  dương trước tập thể…
    • Đi dã ngoại bên ngoài cơ sở điều trị.
    • Cho về thăm gia đình.

    Việc khen thưởng này tùy thuộc vào từng hoàn cảnh trung tâm - trường - trại - địa phương.

    II. CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT:

    1. NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NGƯÒI XỨNG ĐÁNG VÀ MẪU MỰC:

    Đôi ngũ điều trị phải làm thế nào để đối tượng tôn trọng. Họ phải là tấm gương sáng cho đối tượng để có thể ảnh hưởng giáo dục nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách của học viên.

    Người nghiện ma tuý thường thực hiện nhiều hành vi không tốt, nhưng họ ít thấy và hay biện minh cho bản thân mình, trong khi đó họ lại rất tinh ý và nhạy bén nhận xét những điều không tốt của người khác. Do đó, nếu nhân viên điều trị không gương mẫu khó có thể chuyển đổi đối tượng.

    Đối với đồng nghiệp nhân viên điều trị phải tuân thủ những quy định, những mối quan hệ thân thiện.

    Đối với đối tượng nhân viên điều trị phải thương yêu và đồng cảm nhưng cũng phải xác định một ranh giới không thể vượt qua của người quản lý và đối tượng.

    2. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI ĐẢM BẢO KHÔNG CÓ MA TUÝ HOẶC CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN KHÁC:

    Một môi trường trị liệu để lọt ma tuý vào sẽ gây lây lan bệnh tật, tinh thần học viên không bình ổn, thiếu quyết tâm cai nghiện, dễ bức xúc phá vỡ chương trình điều trị.

    Đây là yếu tố tiên quyết vì nếu không giải quyết được vấn đề này sẽ phá huỷ toàn bộ kế hoạch, hệ thống hoạt động của Trung Tâm.

    3. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ MỘT NƠI AN TOÀN KHÔNG CÓ TÌNH TRẠNG BẠO LỰC:

    Mọi hoạt động diễn ra một lối sống không có ma tuý, không có cảnh ức chế nhau, nơi mà hành vi của một người luôn được các người khác xem xét, góp ý mà không hề do một áp lực nào, một ý đồ xấu nào và được giáo dục liên tục về một nếp sống nề nếp chuẩn mực.

    4. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI LÀ NƠI ĐỂ CÁC ĐỐI TƯỢNG CÓ THỂ GIÚP ĐỠ ĐIỀU CHỈNH SAI LẦM CHO NHAU.

    5. MÔI TRƯỜNG ĐIỀU TRỊ PHẢI CÓ NHỮNG CHUẨN MỰC VỀ HÀNH VI VÀ NHÂN CÁCH NHƯ MỘT XÃ HỘI GƯƠNG MẪU nhằm những tiêu chuẩn sau đây:
    • Trách nhiệm quan tâm đến người khác.
    • Trung thực, không dối trá.
    • Thương yêu, cởi mở, chân thành.
    • Đoàn kết.
    • Kỷ luật.
    • Nhận biết được bổn phận, trách nhiệm.

    6. MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU PHẢI DỰ KIẾN MỌI BIỆN PHÁP KHI CÓ TÌNH HUỐNG XẤU:
    Phải can thiệp ngay kịp thời khi xảy ra những vi phạm nghiêm trọng về những quy tắc xã hội và chuẩn mực hành vi.

    7. CÁC ĐIỀU KIỆN Y TẾ - GIÁO DỤC - QUẢN LÝ - CÁC BIỆN PHÁP TRỊ LIỆU KHÁC VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÓ TRÌNH ĐỘ VÀ NHIỆT TÌNH ĐỂ SẴN SÀNG ĐÁP ỨNG ĐƯỢC VÀ KỊP THỜI MỌI TÌNH HUỐNG.

    8. CẦN CÓ MỘT THOẢ THUẬN ĐIỀU TRỊ NÓI LÊN QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VÀ NGƯỜI CAI NGHIỆN: Thỏa thuận phải nêu rõ những mục tiêu điều trị mà hai phía đều quan tâmNội dung thoả thuận điều trị phải bao gồm những nội dung giúp đỡ người nghiện có kế hoạch cho đời sống hàng ngày nhằm tiến đến một sự phục hồi nhân cách, một cuộc sống hữu ích cho xã hội và thu thập những kỹ năng để vượt qua thử thách tái nghiện.

    9. NHỮNG NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ HIỆU QUẢ:
    • Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tích cực. Vai trò của những người có trách nhiệm, uy tín trợ giúp một cách hữu hiệu cho việc học tập của các thành viên.

    • Họ nhận thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa lời nói và việc làm của những người có vị trí trách nhiệm đối với các thành viên trong cộng đồng. Phải biết rằng các thành viên trong cộng đồng luôn theo dõi việc các cán bộ điều trị có tuân thủ các quy tắc và giá trị của cộng đồng hay không, cũng như theo dõi mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong cộng đồng, không được để các vấn đề mâu thuẫn nảy sinh trong cộng đồng.

    • Bất kỳ mâu thuẫn nào xảy ra giữa lời nói và hành vi sẽ bộc lộ điểm yếu của hệ thống điều trị và có thể sẽ được người nghiện lợi dụng để có những biểu hiện, hành vi không đúng.

    • Để thực hiện tốt vai trò của mình, người cán bộ điều trị phải nắm rõ các quy tắc của cộng đồng. Những người quản lý thành công nhất là, những người luôn được
      đối tượng xem là tấm gương để họ học tập là những minh họa cụ thể trong giáo dục người nghiện.
    • Những người quản lý không chỉ đảm bảo sự tồn tại, duy trì hoạt động của “môi trường trị liệu cộng đồng” mà còn phải biến nó thành một môi trường học tập thật sự cho người nghiện ma túy.

    • Người đã cai nghiện thành công là hiện thân của niềm hy vọng của người cai nghiện, đã và đang đấu tranh để vượt qua chính bản thân mình. Họ là bằng chứng sống của việc chiến thắng sự cám dỗ của ma tuý, mà chủ yếu họ là người rất thông hiểu suy nghĩ và cảm xúc của người nghiện. Khả năng của họ trong việc bày tỏ bản lĩnh của mình đối với những người nghiện khác là không gì sánh nổi. Họ đoán trước được hành vi của người nghiện trong từng hoàn cảnh cụ thể.Điều này biến họ thành những người hướng dẫn rất có hiệu quả trong môi trường trị liệu cộng đồng – một môi trường điều trị mà việc thành công hay thất bại có liên quan chặt chẽ với việc thông hiểu những suy nghĩ , thậm chí cả những mánh lới của đối tượng.

      Tuy nhiên việc sử dụng người cai nghiện thành công vào công tác quản lý của Trung tâm là vấn đề phức tạp như việc dùng dao hai lưỡi có thể tốt nhưng cũng có thể rất nguy hiểm nếu họ có ý đồ xấu thiếu trình độ hoặc tái nghiện lại. Do đó, để xử lý tình huống, người cán bộ quản lý phải có khả năng đoán trước sự việc xảy ra và những nguyên nhân gây ra sự việc đó.


    D. YÊU CẦU VỀ CƠ CẤU - HOẠT ĐỘNG - MỐI QUAN HỆ ĐỂ MỘT MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG CÓ HIỆU QUẢ:

    I. HỆ THỐNG TỔ CHỨC:

    1. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC:
    preview
    2. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO: Là vô cùng quan trọng đòi hỏi phải có TRÌNH ĐỘ và NHẠY BÉN trong công việc:
    • Điều chỉnh cơ cấu cho phù hợp.
    • Điều chỉnh các dịch vụ điều trị.
    • Điều chỉnh vai trò các cán bộ điều trị.
    • Phân công nhiệm vụ của cán bộ điều trị và nhân viên tư vấn phù hợp.
    • Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm cho tập thể CBNV để có thể triển khai chương trình điều trị.
    • Lập kế hoạch xây dựng chương trình điều trị – phục hồi dựa vào trung tâm và dựa vào cộng đồng.
    • Tổng kết tiến độ triển khai các chương trình từng giai đoạn.

    3. NHIỆM VỤ CỦA CÁC PHÒNG BAN CHỨC NĂNG: Cơ bản gồm 4 bộ phận chính:
    • Y tế.
    • Giáo dục.
    • Quản lý.
    • Phục vụ.


    Tất cả các bộ phận trên đều phải tác nghiệp trên một thể thống nhất nhằm vào công tác điều trị, điều chỉnh, phục hồi nhận thức – hành vi – nhân cách cho đối tượng cai nghiện, nhưng nhiệm vụ ai người đó làm.

    Tổ chức như trên nhằm  mục tiêu:
    • Đảm bảo sức khỏe cho đối tượng cai nghiện – phát hiện và ngăn chặn kịp thời các bệnh cơ hội – dịch bệnh – bệnh mắc phải.
    • Sử dụng các phương pháp điều trị không dùng thuốc thông qua tư vấn – liệu pháp tâm l‎ý – liệu pháp giáo dục – liệu pháp xã hội,…
    • Theo dõi tiến độ của học viên thông qua các hoạt động của cá nhân, nhóm, tổ chức, huấn nghiệp trị liệu, lao động trị liệu, sản xuất trị liệu, …
    • Đảm bảo môi trường điều trị an toàn.
    • Tạo một môi trường sẵn sàng đáp ứng kịp thời cho công tác cai nghiện ( xây dựng cơ sở vật chất – vệ sinh môi trường – chuẩn bị cho công tác quản l‎ý cũng như phục vụ cho mọi hình thức trị liệu,… ).

    II. NHIỆM VỤ THỰC HIỆN:
    • Xác định nhiệm vụ rõ ràngcho từng cá nhân, từng nhóm, từng tổ chức của học viên và người phụ trách.
    • Xác định nhiệm vụ người giám sát.
    • Xác định nhiệm vụ của điều phối viên.

    III. PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC:
    • Sắp xếp công việc cụ thể cho từng đối tượng.
    • Cho phép đối tượng đăng ký với cán bộ điều trị nhận công việc cho mình, tất nhiên sự lựa chọn phải dựa vào khả năng từng người và tiến độ điều trị.
    • Trách nhiệm của từng người trong công việc được giao, nếu như không đáp ứng được yêu cầu cần làm rõ vì những lý do bệnh lý hoặc lý do hành vi.

    IV. LỊCH SINH  HOẠT HẰNG NGÀY:
    Mục đích của việc bố trí lịch sinh hoạt là để điều hành hoạt động của Trung tâm, tạo cho đối tượng ‎có ý‎ thức tổ chức kỷ luậthình thành thói quen tốt và nhận thức tốt.

    Một ví dụ của lịch sinh hoạt:
    6:00 Thức dậy/ dọn giường/ vệ sinh phòng ngủ/ điểm danh.
    6:30 Thể dục buổi sáng/ tắm rửa.
    7:00 Ăn sáng.
    8:00 Giao ban buổi sáng (là không thể thiếu được).
    8:45  Cán bộ họp giao ban/ Họp nhóm đối tượng/ Sinh hoạt cộng đồng.
    9:30  Lao động trị liệu – Huấn nghiệp trị liệu.
    11:30 Tắm rửa.
    12:00 Ăn trưa – nghỉ trưa.
    14:00 Sinh hoạt nhóm điều trị.
    15:30 Lao động trị liệu.
    17:00  Hoạt động trị liệu.
    18:00 Tắm rửa.
    18:30 Ăn tối.
    19:30 Tư vấn, họp nhóm, giải trí…
    21:00 Họp toàn thể cộng đồng/ thông báo chung.
    22:00 Điểm danh tối/ đi ngủ.
    Lịch sinh hoạt này thay đổi tùy theo từng giai đoạn điều trị và điều kiện của từng đơn vị.

    V. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ:
    Tình đồng đội và sự tôn trọng lẫn nhau là nguyên tắc cơ bản của các nhân viên điều trị trong cộng đồng. Các đối tượng là thành viên của cộng đồng cũng phải coi hai nguyên tắc đó là nền tảng mối quan hệ trong công việc của mình.

    Để xây dựng được môi trường trị liệu cộng đồng có hiệu quả, các nhân viên điều trị phải có khả năng phối hợp làm việc trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau. Để tạo ra được một thái độ làm việc như vậy những người lãnh đạo tổ chức phải là tấm gương của cộng đồng trị liệu. Người cán bộ lãnh đạo phải tuân thủ nguyên tắc này trong khi giao tiếp với các nhân viên của mình.

    VI. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN ĐIỀU TRỊ VỚI ĐỐI TƯỢNG:

    Cộng đồng có mục tiêu là tạo một môi trường cho sự điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách của đối tượng. Cộng đồng sẽ thất bại nếu như thiếu đi lòng quyết tâm của những người lãnh đạo và những người có uy tín trong cộng đồng.

    Môi trường cộng đồng trị liệu bao gồm nhiều thành phần khác nhau: Có những đối tượng ích kỷ, mang chủ nghĩa anh hùng cá nhân, nhưng cũng có những sự hy sinh bản thân để giúp đỡ các đối tượng khác. Đa số người cai nghiện có trạng thái tình cảm không ổn định, nhưng điều đáng chú ý là chính những cán bộ điều trị chuyên đi hàn gắn vết thương này đôi khi không giải quyết được những khó khăn của chính bản thân mình.

    Tuy nhiên dù tình huống nào, người cán bộ điều trị, những người được xem là tấm gương sáng để toàn thể cộng đồng noi theo, luôn luôn phải cư xử với các thành viên của cộng đồng với một thái độ có trách nhiệm. Những cơ chế của cộng đồng được thể hiện ở những nghi thức và quy tắc xã hội, có thể giúp ngăn chặn việc vô tình hay cố tình sử dụng sai nguyên tắc về sức mạnh và quyền hạn trong mọi đối tượng điều trị tại cộng đồng.

    Nhằm nâng cao những quy tắcchuẩn mực của cộng đồng cần phải quan tâm đến việc đào tạo những cán bộ điều trị trở thành những nhân viên chuyên nghiệp có trình độ. Việc chuyên môn hóa đội ngũ điều trị có thể sẽ giúp cải thiện chất lượng điều trị của cộng đồng nói chung và của những người cán bộ quản lý nói riêng.

    VII. CƠ CẤU CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI  ĐỐI TƯỢNG:
    Môi trường cộng đồng trị liệu nổi tiếng là nhờ nó được sự tổ chức tốt, có nguyên tắc,  có cơ sở vật chất đầy đủ các yếu tố trên sẽ khích lệ những hành vi lành mạnh. Môi trường sẽ phản ánh bản chất của cộng đồng sống trong môi trường đó.

    Mặc dù có một vài mô hình cộng đồng buộc phải thích nghi với cơ sở vật chất sẵn có ví dụ như là nhà tù, các khu nhà cũcơ sở khám chữa bệnh thiếu thốn nhưng chúng ta phải quyết tâm từng bước nâng cấp môi trường sao cho phù hợp với yêu cầu của một môi trường cộng đồng trị liệu.

    Cộng đồng trị liệu phải mang dáng dấp một gia đình nhiều hơn là một trung tâm điều trịNgay cả ở trong tù hay trong trại cải tạo, trại giáo dưỡng trẻ em vị thành niên: không khí “nhà tù” cũng không còn nữa, nhằm khiến cho cộng đồng trở thành một môi trường nhẹ nhàng, tin cậy cho việc điều trị – phục hồian toàn cả về thể chất lẫn tinh thần cho đối tượng:

    Đó phải là chỗ mà đối tượng có thể chịu trách nhiệm về sự lựa chọn và hành vi của chính mình. Trong khi nhà tù tạo ra không khí thiếu an toàn, nơi mà đối tượng muốn sinh tồn thì phải dựa hoàn toàn vào mánh khoé và luật rừng, thì môi trường cộng đồng tạo ra những hành vi xã hội lành mạnh như tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau trong bầu không khí gia đình.

    Những thành công lớn của môi trường cộng đồng trị liệu có được là nhờ một cơ cấu hoạt động chặt chẽ. Cần tổ chức tốt lịch sinh hoạt hàng ngày của cộng đồng tùy theo người  hay người mới tham gia điều trị. Tuy nhiên, mọi đối tượng cai nghiện đều phải hiểu được trách nhiệm của mình và các mục tiêu chung do cộng đồng đề ra.

    E. TỔNG QUAN CÁC GIAI ĐOẠN KẾ HOẠCH QUẢN LÝ ĐIỀU TRỊ GIÁO DỤC TRONG MỘT MÔI TRƯỜNG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU:
    • Việc học tập và chuyển đổi hành vi mới cần được tiến hành từng bước.
    • Có đủ thời gian để đối tượng tiếp nhận các bài giảng và sự giáo dục của người quản lý.
    • Sự chuyển biến của đối tượng có thể nhanh hay chậm tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

    I. GIAI ĐOẠN 1: ĐỊNH HƯỚNG:
    • Làm quenvới chương trình điều trị (nội dung, hoạt động trung tâm, các bước tiến hành )
    •  hội kiểm tra đánh giá (học vấn, nghề nghiệp, tình trạng, tâm lý … ).
    • Cán bộ quản lý cần quan tâm đến những biểu hiện về thái độ – suy nghĩ - những nhu cầu của đối tượng.

    II. GIAI ĐOẠN 2: SƠ BỘ ĐIỀU TRỊ:
    • Phân loại đối tượng căn cứ vào: Trình độ – nhận thức – hoàn cảnh - hành vi – bệnh lý - tiền sử đối tượng…
    • Xây dựng mục tiêu điều trị và những giá trị tinh thần cần đạt được (thông qua quản lý công tác tư vấn – liệu pháp tâm l‎ý, liệu pháp giáo dục, liệu pháp xã hộilao động trị liệu - hướng nghiệp trị liệu …).
    • Huấn luyện cho đối tượng về tính năng động, sáng tạoxây dựng trong học tập, trong công việc, trong quan hệ với mọi người và với gia đình.

    III. GIAI  ĐOẠN 3: CHUẨN BỊ TÁI HOÀ NHẬP VỚI CỘNG ĐỒNG:
    Người quản lý phải nắm rõ và giúp đối tượng các vấn đề sau :
    • Yếu tố gia đìnhcông việc, giáo dục, xã hội.
    • Khó khăn tồn tại của gia đình đối tượng.
    • Mạng lưới trợ giúp của xã hội.
    • Những vấn đề riêng biệt của từng cá nhân đối tượng.
    • Bắt đầu công tác phòng ngừa tái nghiện.

    Để đối tượng thu nhận được những kiến thức sau khi tham gia điều trị phục hồi và áp dụng những kiến thức đó vào thực tiễn công tác hằng ngày đòi hỏi phải có sự nhận thức sâu sắc về bản thân và mong muốn duy trì một cuộc sống lành mạnh không có ma tuýGiá trị của những gì đối tượng thu nhận được trong quá trình điều trị sẽ kiểm chứng lại trước khi đối tượng hoà nhập cộng đồng, trở về với cuộc sống xã hội.

    KHÓ CÓ THỂ TƯỞNG TƯỢNG được rằng một người nghiện rượu lâu nămsau khi điều trị quay trở lại cộng đồng làm việc tại một quày rượu, lại vẫn có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh không uống rượu.

    Trong giai đoạn cuối của chương trình điều trị, cộng đồng sẽ cho người nghiện dần dần thoát ly môi trường có kiểm soát và tiếp xúc ngày một nhiều với môi trường xã hội. Đối tượng có thể tự đi tìm việctrở lại nhà trường hay tham gia các hoạt động có ích khác. Đối tượng sẽ tự sắp xếp thời gian cho những hoạt động bên ngoài cộng đồng điều trị nhưng vẫn đảm bảo tham gia sinh hoạt nhóm, tư vấn, chăm sóc sau cai của các chuyên gia về tái hoà nhập cộng đồng. Họ phải hoàn tất khóa học về tình huống có nguy cơ dẫn đến tái nghiện. Họ cũng có thể tham gia giúp đỡ những thành viên khác của cộng đồng trong việc thực hiện các hoạt động điều trị.

    Khả năng tìm việc làm và duy trì một việc làm ổn địnhhoà nhập được với gia đìnhtiếp tục làm việc và duy trì trạng thái phục hồi là mục đích chính của giai đoạn này. Đối tượng lúc này nhận được sự giúp đỡ cả từ phía nhân viên điều trị và từ gia đình. Nếu tái nghiện xảy ra trong giai đoạn này, đối tượng phải trở lại môi trường điều trị cộng đồng và được trang bị thêm những biện pháp can thiệp cho đến khi đối tượng thực sự đủ khả năng duy trì trạng thái phục hồi.

    IV. GIAI ĐOẠN 4: TÁI HOÀ NHẬP VỚI CỘNG ĐỒNG:
    • Có nghề nghiệp hoặc tiếp tục học tập.
    • Bố trí thời gian tham gia các hoạt động mang tính chất cộng đồng.
    • Tăng cường ảnh hưởng của nhóm nhằm giải quyết những mối lo ngại.
    • Lập kế hoạch từng bước để đảm bảo : đời sống, sinh hoạt lành mạnh.
    • Tăng cường các hoạt động nhằm phòng ngừa tái nghiện.

    V. GIAI ĐOẠN 5: QUẢN LÝ THEO DÕI SAU CAI:
    • Thời gian là tháng đến một năm hoặc nếu cần nhiều hơn nữa.
    • Dần ổn định cuộc sống.
    • Tham gia các nhóm điều trị được tổ chức định kỳquản lý theo trường hợp cụ thể với sự giúp đỡ của xã hội.
    • Trở lại nơi làm việc, học sinh quay trở lại trường học.
    • Đặt kế hoạch chỉ tiêu cụ thểtừng giai đoạn của cuộc sống.


    F. CÔNG TÁC QUẢN LÝ - ĐIỀU CHỈNH - GIÁM SÁT HÀNH VI ĐỐI TƯỢNG CAI NGHIỆN:
    Việc phân cấp cơ cấu tổ chức và lịch sinh hoạt thường ngày là một dạng kỷ luật và nó tạo ra cho người nghiện cảm giác ổn định. CUỘC SỐNG ĐỐI TƯỢNG PHẢI ĐƯỢC ĐI VÀO KHUÔN KHỔ VÀ CÓ KẾ HOẠCH CỤ THỂ ngược lại hẳn với cuộc sống trước kia của đối tượng ngoài xã hội đầy rẫy rối loạn, thiếu ý thức – một lối sống điển hình của người nghiện. Các hoạt động này khuyến khích việc đặt kế hoạch cho sự ổn định lâu dài.

    Tuy nhiên, những điều này không đơn giản và khó thực hiện. Khi người nghiện đã lệ thuộc vào ma túy thì khả năng nhận thức cuộc sống của đối tượng cũng bị hạn chế, do các thói quen xấu có liên quan đến việc sử dụng ma tuýĐối tượng không tự hành động như một người bình thường mà phải giúp đối tượng từng bước đạt được dần những thành công nhỏ trong quá trình phục hồi.

    Tóm lại, môi trường trị liệu cộng đồng là một môi trường điều trị tích cực, năng động chứ không phải là một môi trường tĩnh. Những thay đổi có ý nghĩa mà người nghiện đạt được chính là kết quả của trạng thái đấu tranh tích cực bên trong bản thân người nghiện với sự giúp đỡ của tập thể nhằm loại bỏ những yếu tố làm suy yếu ý chí con người, những yếu tố thường được người nghiện sử dụng để bào chữa cho thất bại của mình. Bằng cách loại bỏ những yếu tố này, chúng ta còn có thể khiến cho đối tượng có được những hành vi phù hợp. Nếu chúng ta thành công trong việc thu hút sự tham gia tích cực của người cai nghiện vào chương trình điều trị, đối tượng sẽ có nhiều cơ hội hơn để phục hồi và lấy lại sự tự tin cho bản thân mình.

    Để đạt được các mục tiêu trên công tác quản lý – điều chỉnh – giám sát hành vi đối tượng là vô cùng cần thiết.

    Sau đây là một số điểm cần áp dụng :

    I. NGUYÊN TẮC: Đối tượng phải luôn luôn đặt vấn đề với tự chính mình :
    • Cách thức nào để tạo hiệu quả trong cuộc sống.
    • Đặt mình vào địa vị người khác.
    • Điều gì sẽ đến khi suy nghĩ và hành động như thế này?
    • Kiểm soát tình cảm- suy nghĩ- làm chủ bản thân.

    II. SINH HOẠT NHÓM: nhóm đối kháng, nhóm đặc biệt…nhằm:
    • Đối diện với sự thật.
    • Chấp nhận thử thách.
    • Bày tỏ sự đồng tình hoặc không đồng tình.
    • Giải toả nỗi bực dọc theo cách thức đối thoại trong hoà bình.
    • Môi trường sống của cộng đồng.
    • Sự tiến bộ của đối tượng.

    III. CÁC LOẠI HỌP HÀNH, SINH HOẠT KHÁC:
    • Họp giao ban chung là rất quan trọng.
    • Họp gia đình, phát hiện nguy cơ, tiến hành kiểm điểm, giải quyết vấn đề.
    • Thực hiện các biện pháp điều trị không dùng thuốc là rất quan trọng:Tư vấn- Liệu pháp tâm lý – Liệu pháp giáo dục – Huấn nghiệp trị liệu – Lao động trị liệu và các hình thức trị liệu khác.

    IV. NÓI CHUYỆN VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ THIỆN CHÍ GIÚP ĐỠ MÌNH.

    V. KIỂM ĐIỂM - KHIỂN TRÁCH: Làm rõ các vi phạm và biện pháp giải quyết.

    VI. TÁC DỤNG CỦA VIỆC KHEN THƯỞNG:
    • Làm chuyển biến tích cực sự tiến bộ của đối tượng.
    • Tất cả đối tượng điều trị gương mẫu đều được biểu dương – khen thưởng bất kể họ có xuất phát điểm như thế nào.

    VII. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH NHẬN THỨC – HÀNH VI – NHÂN CÁCH ĐỐI TƯỢNG:
    Những biện pháp điều chỉnh nhận thức – hành vi – nhân cách trong môi trường trị liệu cộng đồng như kiểm điểmphê bìnhgiao ban buổi sángnhóm đối khánghọp gia đình hay họp chung v.v… được xây dựng nhằm sửa đổi những hành vi vi phạm những quy tắc mà cộng đồng đề ra. Việc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của cộng đồng hay những quy tắc cốt yếu là điều hết sức quan trọng trong việc duy trì sự lành mạnh và sự an toàn của môi trường điều trị. Những biện pháp điều chỉnh, phục hồi nhận thức – hành vi – nhân cách nhằm mục đích ngăn chặntrừng phạt những hành động làm xói mòn tập quán, sự an toàn và tính lành mạnh của môi trường. Việc xử lý các vi phạm những quy tắc cơ bản - tạo ra cảm giác an toàn của cộng đồng.

    Tuy nhiên, nếu những biện pháp này bị lạm dụng sẽ gây ra những kết quả trái ngược. Nếu tổ chức môi trường trị liệu cộng đồng thiếu chuẩn mực và thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc áp dụng những biện pháp này thì chúng trở nên có hại nhiều hơn có lợi. Vấn đề sử dụng biện pháp nào với mức độ vi phạm như thế nào được quyết định bởi mức độ điều chỉnh hành vi từ thấp đến cao.

    Biện pháp kiểm điểm và trao đổi (tư vấn trực tiếp) được áp dụng cho những hành vi nhẹ. Đối với những môi trường trị liệu được tổ chức tốt thì ít khi phải áp dụng những biện pháp mạnh.

    Việc phải tăng cường sử dụng những biện pháp mạnh là dấu hiệu cho thấy môi trường điều trị đó đang có nguy cơ không được tổ chức tốt, do đó phải xem xét lại trách nhiệm của các thành viên cộng đồng đối với những quy tắc và chuẩn mực của cộng đồng cũng như nhận thức của những người quản lý.

    Những biện pháp điều chỉnh hành vi có hiệu quả nếu được sử dụng đúng sẽ làm tăng trách nhiệm của thành viên đối với việc tuân thủ các quy tắc mà cộng đồng đề ra. Khi một đối tượng bị gọi lên kiểm điểm trong một lần giao ban buổi sáng hay bị khiển trách trước tập thể để những thành viên khác trong cộng đồng phê bình sửa chữa hành vi không đúng của đối tượng, thì chính đối tượng vừa nói chuyện với cộng đồng và vừa chính với bản thân mình. Trong quá trình áp dụng những biện pháp này điều căn bản là phải đảm bảo chỉ lên án những hành vi sai trái chứ không cố gắng đánh vào lòng tự trọng của đối tượng. Do vậy trong các buổi giao ban chỉ nên chú trọng vào phân tích sự vi phạm của đối tượng và ảnh hưởng của nó tới bản thân đối tượng cũng như tới những người khác. Điều này được thể hiện  ở cảm giác biết ơn của đối tượng đối với sự quan tâm và tình thương của các thành viên khác dành cho đối tượng, thông qua việc giúp đỡ anh ta sửa đổi những thái độ, hành vi không đúng.

    Việc kiểm điểm trong các buổi giao ban buổi sáng nhìn chung đã giải quyết được sự vi phạm quy tắc của các học viên. Khi những quy tắc này bảo đảmviệc học tập cũng trở nên thuận lợi và đạt kết quả tốt. Nếu một học viên đã từng bị khiển trách vì đến muộn tại giao ban buổi sáng thì đối tượng thường ít khi lặp lại hành vi đó lần nữa. Bên cạnh những kiến thức mà họ nhận được từ bài giảng, họ còn nhận thức thêm được nhiều điều từ chính bản thân mình.

    G. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐỂ VIỆC  ĐIỀU TRỊ - PHỤC HỒI CÓ HIỆU QUẢ:

    I. PHẢI CÓ MỘT SỰ ĐIỀU TRỊ KHOA HỌC, TỔNG HỢP, LINH ĐỘNG, KỊP THỜI VÀ XUYÊN SUỐT: 
    Việc áp dụng những biện pháp điều trị tổng hợp là hết sức quan trọng trong công tác cai nghiện phục hồi. Không có mô hình cai nghiện chung nào cho đối tượng cai nghiện ma túy mà chỉ có những nguyên tắc cơ bản, mô hình tốt với người này chưa hẳn tốt với người khác.

    II. CÁC DỊCH VỤ ĐIỀU TRỊ PHẢI LUÔN SẴN SÀNG: 
     Người nghiện luôn sẵn sàng nhận sự giúp đỡ khi đã suy sụp nhưng đến khi nào anh ta đến giai đoạn suy sụp thì ta không đoán trước được, vì vậy “sự giúp đỡ” luôn luôn phải sẵn sàng vào những thời điểm mang tính quyết định – đó là khi anh ta tự nguyện đến điều trị cai nghiện. Những thủ tục phức tạp trong quá trình tiếp nhận đối tượng đến tham gia điều trị có thể khiến chúng ta bỏ sót những đối tượng đang cần sự giúp đỡ.

    III. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN CHỈ CÓ HIỆU QUẢ: 
    Khi chúng ta đáp ứng được những nhu cầu phức tạp của đối tượng trong quá trình phục hồi
    . Để việc điều trị có hiệu quả phải xác định được các vấn đề liên quan đến khía cạnhthái độ, hành vi, tâm tư tình cảm, khía cạnh đạo đứcyếu tố nghề nghiệp và quan hệ xã hội của đối tượng bên cạnh tiền sử lạm dụng ma tuý của anh ta. Một chương trình điều trị phục hồi toàn diện phải bao gồm những hướng dẫn hoặc sự can thiệp đáp ứng được tính chất phức tạp của người nghiện ma tuý bao gồm cả những hoạt động chuẩn bị cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng và trang bị cho đối tượng những kỷ năng phòng chống tái nghiện.

    IV. MỘT KẾ HOẠCH CAI NGHIỆN CỦA CÁ NHÂN CẦN PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ THEO TỪNG THỜI KỲ VÀ ĐƯỢC SỬA ĐỔI KHI CẦN THIẾT: 
    Để đảm bảo rằng kế hoạch đó luôn phù hợp với những nhu cầu thay đổi của đối tượng. Một kế hoạch điều trị cai nghiện cũng như là một bản đồ hướng dẫn hành trình của đối tượng đi đến phục hồi, trong đó có quy định đến những điểm mốc cho từng giai đoạn và đích cuối cùng của quá trình điều trị. Kế hoạch này cho chúng ta xác định được mục tiêu đề ra và đánh giá được những gì chúng ta đã đạt được hoặc những thất bại và những thiếu sót được sửa chữa và xác định những lĩnh vực mới cần phải được củng cố cho đối tượng của chúng ta.

    V. DUY TRÌ VIỆC ĐIỀU TRỊ TRONG MỘT THỜI GIAN ĐỦ DÀI MỚI CÓ THỂ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CAI NGHIỆN:  
    Khoản thời gian thích hợp với từng cá nhân trong việc duy trì cai nghiện phụ thuộc vào nhữngkhó khăn và nhu cầu của cá nhân đó. Nghiên cứu chỉ ra rằng đối với hầu hết đối tượng thời gian cần thiết để tạo ra những tiến bộ có ý nghĩa trong cai nghiện là khoảng 3 tháng (Daytop ). Sau khi đạt đến ngưỡng này những biện pháp điều trị bổ sung có thể được áp dụng để đạt được những bước tiến xa hơn nhằm tiến đến phục hồi. Những điều trên chỉ đúng khi đối tượng được cung cấp đầy đủ các dịch vụ cai nghiện. Điều quan trọng là phải cũng cố được quyết tâm của đối tượng không cho họ rời bỏ điều trị một cách quá sớmThời gian cai nghiện lý tưởng trung bình khoảng hai năm, tối thiểu là 6 tháng.

    VI. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC – LIỆU PHÁP CÓ HIỆU QUẢ TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI:
    Những đối tượng cai nghiện ma tuý có những cơ hội trong điều trị để thảo luận về những vấn đề liên quan đến động cơ điều trị, xây dựng kỹ năng xã hội và thói quen chống lại việc sử dụng ma tuý, học tập những hành vi mới, nhận thức được khó khăn và có biện pháp khắc phục hữu hiệu. Trị liệu hành vi và trao đổi, thảo luận giúp nâng cao mối quan hệ giữa người với đối tượng trong gia đình và trong cộng đồng. Trao đổi, thảo luận là phương pháp quan trọng trong điều trị, nó giúp cho đối tượng đi từ quá trình học tập đến thích nghi với môi trường điều trị cũng như thích nghi với việc phải đương đầu với những khó khăn tồn tại khi quay trở lại gia đình hoặc cộng đồng, phòng chống tái nghiện.

    VII. TIẾN HÀNH  SONG SONG CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU KẾT HỢP VỚI ĐIỀU TRỊ BỆNH TÂM THẦN:
    Đối tượng cai nghiện thường có những rối loạn tâm thần kèm theo, tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh l‎ý tâm thần - phương pháp trị liệu cộng đồng phải linh động áp dụng cho đối tượng với những mức độ khác nhau.

    VIII. CẮT CƠN NGHIÊN MA TÚY KHÔNG PHẢI LÀ CAI NGHIỆN MA TÚY MÀ ĐÓ CHỈ LÀ GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ CHO MỘT QUÁ TRÌNH CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI LÂU DÀI:
    Không có một biện pháp điều trị đơn thuần (thuốc, châm cứu, bấm huyệt,…) nào có thể chữa được bệnh nghiện ma túy mà đòi hỏi phải có những biện pháp điều trị tổng hợp, đồng bộ lâu dài thông qua các liệu pháp không dùng thuốc như:
    1. Tư vấn.
    2. Liệu pháp tâm l‎ý.
    3. Liệu pháp giáo dục.
    4. Liệu pháp xã hội.

    Để nhằm chuyển đổi nhận thức, hành vi, nhân cách, giải quyết các chấn thương tâm lý, mâu thuẫn nội tâm của các đối tượng.

    IX. ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN KHÔNG PHẢI TỰ NGUYỆN MỚI ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ:

    (Hai phần này coi lại bài: “Những nguyên tắc cơ bản trong cai nghiện phục hồi)

    Cho dù một người đến cai nghiện là do tự nguyện hay là do gia đình hoặc các cơ quan chức năng đưa vào, đối tượng đó cũng phải được giáo dục để họ đến với động cơ đúng đắn là cai nghiện. Thông thường, ngay cả đối với những người cai nghiện tình nguyện, thì cũng có những nguyên nhân bên trong hay bên ngoài buộc họ phải ẩn náu trong các Trung Tâm cai nghiện. Điều trị cai nghiện tự nguyện hay ép buộc không quan trọng bằng trên thực tế đối tượng có được cơ hội để tham gia điều trị trong một môi trường điều trị lành mạnh hay không.

    Với nhóm bị ép buộc họ cũng nhận được những dịch vụ săn sóc, tư vấn, giáo dục, giúp đỡ. Tuy nhiên việc chuyển đổi nhận thức của họ lâu hơn và khó khăn hơn.

    X. CÁC CHƯƠNG TRÌNH CAI NGHIỆN NÊN CUNG CẤP ĐÁNH GIÁ VỀ HIV/ AIDS, VIÊM GAN SIÊU VI B VÀ C, BỆNH LAO VÀ NHỮNG BỆNH TẬT DỄ LÂY LAN KHÁC, HƯỚNG DẪN GIÚP ĐỠ ĐỐI TƯỢNG HẠN CHẾ HOẶC THAY ĐỔI NHỮNG HÀNH VI CÓ NGUY CƠ LÂY LAN: 
    Hướng dẫn thảo luận với từng cá nhân và theo nhóm có hiệu quả giúp các đối tượng học được cách làm như thế nào để tránh được những hành vi có nguy cơ cao. Việc hướng dẫn cũng có thể giúp cho những người đã bị nhiễm bệnh có thể tự chăm sóc được bản thân họ tốt hơn.

    XI. SỰ PHỤC HỒI CỦA NHỮNG NGƯỜI NGHIỆN CÓ THỂ PHẢI MẤT THỜI GIAN DÀI VÀ YÊU CẦU VIỆC THAM GIA ĐIỀU TRỊ MÔT CÁCH THƯỜNG XUYÊN: 
    Người nghiện ma tuý thường ở tình trạng tái phát kinh niên và đói ma túy trường diễn. Cũng tương tự như đối với những loại bệnh kinh niên khác, việc tái sử dụng ma tuý có thể xảy ra trong hoặc sau một quá trình cai nghiện thành công. Khi một đối tượng trở lại sử dụng ma tuý không có nghĩa rằng anh ta đã không học được gì từ chương trình điều trị mà thực ra là anh ta đã thất bại trong việc học đủ để giúp anh ta hoàn toàn tránh khỏi việc sử dụng ma tuý. Quá trình cai nghiện phải kéo dài và gồm nhiều giai đoạn điều trị khác nhau để đạt được mục tiêu dài hạn là từ bỏ ma tuý và phục hồi đầy đủ các chức năng. Chính những người cai nghiện thành công nếu họ tham gia hỗ trợ các chương trình cai nghiện và quản lý sau cai thường giúp cho những đối tượng khác duy trì việc từ bỏ ma tuý.

    XII.  CAM KẾT CỦA GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN NÊN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT PHẦN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI: 
    Hầu hết những đối tượng, đặc biệt là những người vị thành niên đều trở về gia đình sau khi họ rời khỏi Trung tâm cai nghiện. Gia đình thường là chổ dựa vững chắc giúp cho con cái họ yên tâm cai nghiện. Khi các gia đình không được cung cấp thông tin đầy đủ về vấn đề cai nghiện ma tuý và mục tiêu của chương trình điều trị - phục hồi thì họ sẽ dễ bị thuyết phục bởi những lý do của đối tượng đưa ra nhằm mục đích sớm rời bỏ chương trình điều trị. Chính vì vậy các gia đình nên được hướng dẫn về nội quy và nguyên tắc của cơ sở điều trị, được giáo dục về triết lý và phương pháp cơ bản của cai nghiện. Cán bộ điều trị có thể giúp đỡ tư vấn cho gia đình đối tượng để giải quyết một số khó khăn tồn tại không để nó ảnh hưởng đến việc điều trị của đối tượng.

    H. HOẠT ĐỘNG TRỊ LIỆU - HUẤN NGHIỆP TRỊ LIỆU - LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU:

    Hoạt động trị liệu là khoa học và nghệ thuật hướng dẫn sự đáp ứng của người bệnh với những hoạt động chọn lựa nhằm cải tiến sức khoẻ, lượng giá thái độ điều trị hay tập luyện về thể chất hoặc tâm trí – Hoạt động trị liệu bao gồm các loại Hoạt động sinh hoạt hàng ngày – Hoạt động sáng tạo nghệ thuật – Hoạt động giáo dục và trí tuệ – Hoạt động giải trí …

    Huấn nghiệp và lao động trị liệu phải coi trọng cả hai mặt chân tay lẫn trí tuệ.

    Môi trường trị liệu cộng đồng coi hoạt động trị liệu, huấn nghiệp trị liệu và lao động trị liệu là yếu tố quan trọng giúp đối tượng phục hồi nhanh chóng tình trạng nghiện. Các yếu tố trên có liên quan đến nhận thức của một người về vai trò của đối tượng trong cộng đồngMột người khi biết rằng mình là thành viên có ích cho xã hội thì tự tin và tự trọng hơn, ít dính líu tới những hành vi sai trái. Điều này giúp cho chúng ta hiểu được vai trò của lao động trong đời sống xã hội của con người cũng như trong quá trình phục hồi của đối tượng được điều trị tại môi trường cộng đồng. Tất cả mọi thành viên đều đóng góp sức mình vào công việc hàng ngày nhằm duy trì chương trình điều trịduy trì cơ sở vật chất và hoạt động của cộng đồng.

    Môi trường cộng đồng trị liệulà môi trường được tổ chức theo một cơ cấu chặt chẽ dựa trên nguyên lý trách nhiệm tăng dần do các thành viên của cộng đồng đảm nhiệm, đối tượng phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng hoạt động hàng ngày. Cơ cấu tổ chức này đảm bảo công việc hoàn thành đúng lúc, dưới sự giám sát chặt chẽ.

    Huấn nghiệp và lao động trị liệu của cộng đồng là một hệ thống phân công rất khoa học. Ngoài việc cộng đồng có thể tự sản tự tiêu bằng cách tận dụng được đối đa nguồn nhân lực dồi dào của cộng đồng, cơ cấu này còn cho phép tập trung vào một số yếu tố khoa học trong việc thực hiện một chương trình điều trị nhằm phục hồi hành vi nhân cách, tăng lòng tự tin, tăng tính tự trọng và ý thức tổ chức kỹ luật trong lao động. Hệ thống này khuyến khích các thành viên phấn đấu để đạt được những vị trí nhất định trong cộng đồng, khuyến khích tinh thần tự lập 

    Vì những lý do trên, những người quản lý phải quan tâm đến việc xây dựng một lịch hoạt động – huấn nghiệp và lao động chi tiết cho việc thực hiện các chương trình hoạt động trong ngày. Người quản lý phải giám sát chặt chẽ thái độ và hành vi của thành viên trong cộng đồng.

    Để đạt được mục đích cộng đồng đặt ra, cần chú trọng vào việc giúp đỡ đối tượng hiểu thêm về chính bản thân mình, hiểu được ưu điểmnhược điểm của bản thân ví dụ như cảm giác tự ti trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Giả sử, một người được giao một công việc đòi hỏi phải có năng lực - trình độ. Việc này khiến cho đối tượng phải lo lắng. Để có thể giúp đối tượng thực hiện phải khuyến khích đối tượng chấp nhận sự thử thách của công việc. Muốn giao cho đối tượng một công việc ta phải cân nhắc kỹ thái độ, hành vi và đặc biệt là khả năng chấp nhận thử thách của đối tượng. Lao động trị liệu là một trong những biện pháp trị liệu cho nên ở một số chương trình điều trị sẽ bị thất bại nếu sử dụng đối tượng điều trị như một dạng công nhân rẽ mạt cho sản xuất: Đối tượng sẽ mất lòng tin ngay ở chính mình, mất lòng tin vào cán bộ điều trị có thể rộng hơn.

    Những đối tượng tích cực trong công việc và có thái độ đúng đắn đối với lao động thường có xu hướng coi trọng công việc mà họ đang làm và vị trí của trong công việcĐối tượng phải có thái độ và hành vi đúng với quá trình làm việc chứ không chỉ đơn thuần làm việc tốt, sản phẩm nhiều là được. Việc luân chuyển thay đổi công việc diễn ra thường xuyên trong cộng đồng cho phép các đối tượng có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại vi trí công việc trong môi trường.

    Từ những lý do trên đối tượng phải:
    +   Tìm hiểu về chính bản thân mình
    +   Điều chỉnh thái độ và hành vi cho đúng.
    +   Khi đối tượng lao động tích cực sẽ có một uy tín trong cộng đồng, cho nên những chương trình huấn nghiệp trị liệu – lao động trị liệu thường đạt tỷ lệ thành công cao với thời gian ngắn và chi phí thấp. Chương trình huấn nghiệp trị liệu – lao động trị liệu thường không áp dụng cho những thành viên mới của cộng đồng, những thành viên mới cần phải có thời gian để điều chỉnh thái độ, nhận thức hành vi nhân cách trước khi được tham gia huấn nghiệp và lao động trị liệu.


    I. LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ - XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:
    Vì người nghiện ma túy bị rối loạn tâm sinh lýrối loạn nhận thứcđánh mất lòng tự trọng (xem phần I) do đó giáo dục trị liệu nhằm gọt dũa hành vi điều chỉnh nhận thức và nhân cách là vô cùng quan trọng. Đối tượng phải được giáo dục những suy nghĩ lành mạnh – làm chủ được bản thân khi gặp tình huống xấu và nhận thức được chân giá trị sống để có thể đối phó và định hướng cho chính bản thân.

    I. NHỮNG NÉT ĐẠI CƯƠNG:
    Môi trường cộng đồng trị liệu là một môi trường học tập tương tự xã hội.
    Học tập thông qua thử thách hành động.
    Học tập thông qua những điều kiện sống phản ảnh thế giới thực bên ngoài và nội tâm đối tượng.
    Học tập thông qua việc cởi mở và bày tỏ công khai cảm xúc của mình.

    II. PHƯƠNG THỨC – MỤC TIÊU – VÀ MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC:
    Xây dựng nhiều loại hình điều trị cá nhân và điều trị nhóm.
    Nội dung sinh hoạt bao gồm nhiều mặt của cộng đồng (cách thức dọn dẹp giừơng chiếu, giữ gìn tủ đựng sách, ăn mặc, giao tiếp, bày tỏ sự quan tâm đến người khác), bộc lộ các suy tư vướng mắc của mình.
    Tạo bầu không khí quan tâm, tôn trọng và chấp nhận những thử thách của môi trường.
    Học tập và thực hành tâm năng dưỡng sinh nhằm trợ giúp việc nâng cao nhận thức (tư duy tích cực – làm chủ bản thân và hiểu các giá trị sống ……).
    Biểu tượngnghi lễ và cách thức tiến hành công việc.

    III. PHÁT HUY ĐỘNG LỰC TÍCH CỰC CỦA NHÓM  ĐỒNG ĐẲNG:
    + Cán bộ lãnh đạo được đào tạo sâu về cộng đồng trị liệu.
    Giáo dục về cộng đồng trị liệu cho các đối tượng.
    + Những nhân viên chuyên nghiêp được đào tạo về trị liệu cộng đồng: các bác sĩ, nhà giáo dục, nhà quản lý, nhà hướng nghiệp,…
    + Cần chia sẽ hệ thống niềm tin và gía trị cho các thành viên của cộng đồng.
    Mô hình điều trị mang tính thực hành: học đi đôi với hành.
    Tất cả các động lực tích cực trên phải được đưa ra những quy định, quy tắc xã hội – nguyên tắc tổ chức bộ máy.

    IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI TỎA ẤM ỨC, HÀN GẮN, XOA DỊU VẾT THƯƠNG:    
    Những biện pháp điều chỉnh hành vi chỉ là bước đầu trong quá trình kiểm soát, quản lý hành vi của thành viên cộng đồng. Hiệu quả của những biện pháp này hoàn toàn mang tính tạm thời và dựa chủ yếu vào những tập quán quy tắc cộng đồng xây dựng. Nhằm đạt được sự ổn định trong việc thay đổi hành vi cần phải chú ý phân tích nguyên nhân sâu xa để xây dựng mối liên hệ cần thiết giữa giá trị của hành vi với mục tiêu của lối sống đúng mực.
    • Những biện pháp điều chỉnh hành vikhiến cho đối tượng có thể có một cuộc sống bình thường.
    • Còn những biện pháp giải toả ấm ức, hàn gắn, xoa dịu vết thương giúp cho đối tượng có được nhận thức sâu sắc hơn về bản thân mình.

    Hai biện pháp này bổ sung, hổ trợ lẫn nhau. Việc quá chú trọng vào một biện pháp cụ thể nào đó cũng không cho kết quả tốt hơn là tiến hành cả hai biện pháp song song hổ trợ lẫn nhau. Nói một cách khác, nếu như chúng ta chỉ áp dụng các biện pháp điều chỉnh hành vi một cách đơn thuần, thì các đối tượng sẽ cư xử không khác gì người máy. Họ sẽ có hành vi đúng trong môi trường cuộc sống tập thể, nhưng những hành vi đó sẽ mất khi họ rời khỏi môi trường điều trị.

    V. TƯ VẤN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:
    Tư vấn cho nhóm và cá nhân đều đem lại cho đối tượng nhớ - hiểu biết và đánh giá được quá khứtiền sử cá nhân có liên quan đến việc sử dụng ma túy của mình. Việc một ngừơi nghiện ma túy phủ nhận sự thật sẽ càng nhiều tuỳ theo bề dày của quá trình sử dụng ma túy. Xóa tan sự phủ nhận này cũng đồng nghĩa với việc bắt đối tượng phải đối đầu với sự thật của cuộc đời mà bấy lâu nay đối tượng vẫn thường né tránh. Một phần của sự phủ nhận thể hiện ở việc đối tượng thường biện minh hay hợp lý hóa các thất bại của mình trong việc từ bỏ ma túy. Việc tháo gở cho đối tượng những vướng mắc loại này cũng tương tự như khi chúng ta bóc vỏ hành từng lớp, một đối tượng từng bước hiểu rõ sai lầm và bổn phận của cá nhân hơn. Biện pháp tư vấn điển hình được áp dụng trong môi trường cộng đồng trị liệu là biện pháp đối diện trực tiếp, nó thử thách niềm tin và trách nhiệm cá nhân của mỗi người nghiện.

    Để đạt các mục tiêu trên – cần thành lập trong cộng đồng các loại nhóm với vai trò khác nhau: Nhóm định hướng, nhóm điều tra, nhóm mở rộng, nhóm marathon và nhóm đối kháng.

    Môi trường cộng đồng trị liệu đã xây dựng một số liệu pháp nhóm từ đơn giản đến phức tạp nhằm nâng cao chất lượng của việc điều trị cai nghiện. Mỗi loại nhóm nhằm giải quyết một khía cạnh khác nhau. Có những mục tiêu nhất định mà người cai nghiện buộc phải đạt được trong quá trình điều trị cai nghiện và phải tham gia sinh hoạt:

    VI. TRANG BỊ BẢN LĨNH VÀ KỸ NĂNG SỐNG:

    1. TƯ DUY TÍCH CỰC:

    Khi ta làm những gì - cảm nhận những gì cũng bắt đầu từ một suy nghĩ và đều nhận sau đó mọi hệ quả của nó tác động vào bản thân và môi trườngmối quan hệ chung quanh.

    Chúng ta có 4 loại suy nghĩ chính sau đây:
    • Suy nghĩ tích cực: Suy nghĩ mang lại ích lợicho chính bản thân bạn và cho những người khác. Đó là những suy nghĩ về sự chấp nhận, hòa bình, lạc quan, khoan dung,...Suy nghĩ tích cực là thấy một chiếc ly “đầy nửa ly” thay vì “vơi nửa ly”; nghĩa là thấy cái gì mà bạn có và tập trung vào đó thay vì cảm thấy thất vọng về những cái mà bạn không có. Suy nghĩ tích cực giúp bạn hạnh phúc hơn nhiều trong cuộc sống.
    • Suy nghĩ tích cực giúp ta có hành động tốt. Hành động này tác độngvào lòng tự tintính tự trọng và ổn định cho bản thân đồng thời tác động với môi trường và mối quan hệ quanh ta. Trái lại, nếu chúng ta suy nghĩ tiêu cực, ta sẽ phải trải qua những điều buồn cháncăng thẳng và chính ta sẽ là người chịu đựng.
    • Nếu ta thay thế những suy nghĩ tiêu cực bằng suy nghĩ tích cực ta sẽ có những niềm vui mới và nhiều thành công hơn

    Sức mạnh và hiệu quả của ý nghĩ: giúp đối tượng
    • Có trách nhiệmvề những ý nghĩ của mình.
    • Ý nghĩ có sức mạnh rất lớntạo nên cảm xúc dẫn tới hành động.
    • Sự lặp đi lặp lại thường xuyên của các ý nghĩ tích cựcsẽ tạo niềm tin và thái độ rõ ràng.
    • Các ý nghĩ giống như những hạt giống gieo trồng trong tâm tríCàng đầu tư càng thêm nhiều sức mạnh cho ý tưởng đó.
    • Các ý nghĩ tích cực cho ta nghị lực và sức mạnh.
    • Các ý nghĩ tiêu cực khiến ta đánh mất sức mạnh, khiến ta mệt mỏi và kiệt quệ.
    • Cần mất thời gian để thay đổi các tư duy cũ. Hãy kiên nhẫn với chính mình.

    2. TỰ KIỂM SOÁT LÀM CHỦ BẢN THÂN:
    • Người nghiện ma tuý vốn rối loạn tâm sinh lýnên rất dễ bị lôi cuốnkích động trước một vấn đề gì, đó là  một trong những cái cớ để họ trở lại với việc tái sử dụng ma tuý.
    • Bằng phương pháp tư duy tích cực đối tượng có thể điều chỉnh được những hành động suy nghĩ của chính mình bằng sự tự kiểm soát làm chủ bản thân.

    Hai yêu cầu chủ yếu của tự kiểm soát làm chủ bản thân là:
    - Tinh thần khách quan.
    Bình tĩnh đánh giá sự việc và cách giải quyết.

    Tinh thần thần khách quan làm đối tượng nhìn nhận rõ hơn sự việc và con người của mình không làm sai lạc nhận thức và phán xét của mình.

    Từ những dữ kiện có được, đối tượng phải bình tĩnh đánh giá lại tình huống, sự việc một cách có tình có lý và từ đó vạch ra hướng giải quyết vấn đề.

    Để giáo dục người nghiện ma tuý, phải thực hiện việc này một cách thường xuyên  cho họ tự đánh giá và trình bày cách giải quyết và cách thực hiện.

    Động tác này được lập đi lập lại để trở thành một thói quen tốt.

    Để đạt được hai yêu cầu trên đối tượng cần phải tập các đức tính sau:

    Trách nhiệm :  Khi đã quyết định và hành động đối tượng phải dũng cảm chấp nhận những hậu quả việc làm của mình, không đổ lỗi nhưng cũng không phải khư khư giữ lấy ý kiến mình mà phải can đảm nhìn lại các mặt của vấn đề, phát huy những mặt tốt và cương quyết loại bỏ những cái sai, cái xấu để điều chỉnh lại, quyết định lại chương trình hành động.

    Tinh thần tập thể :  “Gieo là gặt”. Hợp tác sẽ tạo cho công việc dễ dàng và vui vẻ. Người nghiện ma tuý bản thân sống rất chủ quan và ích kỷ do hình thành những thói quen xấu, do đó, tinh thần tập thể sẽ tạo cho họ sự thoải máinhận thức được chân giá trị của cộng đồng, trách nhiệm vai trò của cá nhân trong tập thể.

    Tự kiểm soát làm chủ bản thân là một sự tập luyện lâu dài, đối tượng phải được từng bước làm quen và tiến hành thực hiện bằng những tình huống do nhà quản lý đặt ra hoặc những công việc, vụ việc cụ thể trong đời sống cộng đồng.

    Đối tượng phải được sự đóng góp, sự giúp đỡ của nhà quản lý , của tập thể thông qua tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm hoặc trong giao ban buổi sáng tại các trung tâm cai nghiện.

    Khi đối tượng đạt được các đức tính trên họ có thể hi vọng đối phó với những nghịch cảnh, những tình huống không thuận lợi.

    3. NHẬN THỨC VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG:
    CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHỮNG GIÁ TRỊ SỐNG là một chương trình của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới – chương trình này được sự hỗ trợ của UNESCO – Nhóm giáo dục của UNICEF và nhiều tổ chức khác. Nội dung chương trình nhằm giáo dục các giá trị về cá nhân – xã hội bao gồm các đức tính: Hợp tác – Tự do - Hạnh phúc – Trung thực – Khiêm tốn – Tình yêu – Hòa bình – Tôn trọng – Trách nhiệm – Giản dị – Khoan dung và Đoàn kết.

    3.1. Mục đích của chương trình là:
    • Giúp đỡ các cá nhân suy nghĩ những giá trị cuộc sống– các tác động thực tế trong việc thể hiện những giá trị này khi liên hệ với chính mình, với người khác, với cộng đồng.
    • Để đối tượng hiểu sâu sắc hơn về động cơ, trách nhiệmliên quan đến những suy nghĩ - hành động của bản thân.
    • Điều chỉnh cho đối tượng nhận thức những giá trịcá nhân, xã hội về đạo đức, tinh thần, lối sống – phát triển và làm sâu sắc hơn các giá trị này.
    • Các nhà quản lý, giáo dục phải thấy rõ phương pháp giáo dục  là một phương pháp trị liệuquan trọng giúp đối tượng có thể hòa nhập vào cộng đồng với sự tôn trọng – tự tin và có mục đích.

    3.2. Chương trình được xây dựng trên 3 luận điểm cơ bản là:
    • Dạy sự tôn trọng nhân phẩmcho mỗi người và mọi người,
    • Khả năng sáng tạovà học tập một cách tích cực khi có cơ hội.
    • Phát triểntrong một môi trường tích cực, an toàn, có sự tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau.

    VII. XÂY DỰNG NIỀM TIN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG: 
    Danh ngôn ta có câu :  “NIỀM TIN CHỞ ĐƯỢC NÚI ”. Xây dựng được niềm tin trong môi trường cộng đồng trị liệu là một trong những yếu tố quan trọng nhằm điều trị và phục hồi cho đối tượng cai nghiện.

    1. NIỀM TIN VÀO SỰ TỒN TẠI CỦA LÒNG TỐT:

    Khi chúng ta dẫn dắt đối tượng của cộng đồng quay trở về quá khứ, chính chúng ta đã giúp đối tượng đối diện với sự thật, nói ra những điều bí mật mà đối tượng dấu diếm trong lòng để tìm cách học hỏi từ những vấp váp mà đối tượng đã từng gặp phải. Mặc dù gặp bất hạnh như thế nào trong cuộc đời thì đối tượng cũng không nên đeo đẵng mãi những suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Chúng ta không đánh giá con người qua những việc mà đối tượng đã làm trong quá khứ mà cần thái độ trung thực để sữa chữa những sai lầm của quá khứNgười nghiện có thể thay đổi nhưng chỉ khi anh ta thật sự mong muốn mình thay đổi. Nếu như đối tượng cố gắng nổ lực không ngừng thì nhất định cuối cùng cũng duy trì được một lối sống lành mạnh. Đó chính là điều mà trị liệu cộng đồng tin tưởng.

    2. NIỀM TIN VÀO KHẢ NĂNG HỒI CẢI VÀ PHỤC THIỆN CỦA CON NGƯỜI:

    Có một thời gian khá dài cả xã hội đều tin chắc một điều rằng “người nghiện thì mãi mãi sẽ là người nghiện”. Môi trường trị liệu cộng đồng đã bác bỏ điều này vì qua thực tiễn, nhiều người đã từng tham gia điều trị, đã vượt qua được sự cám dỗ của ma tuý và nay đang sống một cuộc sống lành mạnh. Không ít người trong số họ vẫn đang  tiếp tục cuộc chiến chống lại nguy cơ tái nghiện. Những ai không bỏ cuộc thì nhất định cuối cùng sẽ có một cuộc sống bình thường và ổn định.

    3. NIỀM TIN VÀO VIỆC GIÚP NGƯỜI KHÁC CŨNG LÀ GIÚP CHÍNH BẢN THÂN MÌNH:

    Một trong những phẩm chất quý báu mà đối tượng sau khi điều trị ở môi trường cộng đồng trị liệu có được là việc luôn sẵn sàng giúp đỡ những ai cần sự giúp đỡ. Khái niệm “cho” hầu như trở nên quen thuộc đối với mọi người. Đối tượng muốn duy trì một lối sống lành mạnh thì đối tượng phải biết chia sẽ những gì mà anh ta nhận được, anh ta mới là người sở hữu thật sự của chúng. Có một câu nói rất hay mô tả  được hết ý nghĩa của khái niệm “cho” trong môi trường trị liệu cộng đồng : “Bạn sẽ không thể chịu đựng nổi vấn đề trừ khi bạn chia sẽ với người khác”.

    4. NIỀM TIN VÀO PHẨM GIÁ CỦA CON NGƯỜI:

    Có một phẩm chất đạo đức của con người mà ta luôn luôn phải coi trọng đó chính là phẩm giá hay giá trị của con ngườiKhi người nghiện có niềm tự  hào về phẩm giá của mình thường tích cực tham gia vào chương trình điều trị - phục hồi vì đó là biện pháp giúp họ nhanh chóng chuyển đổi thái độ và hành vi, nhằm lấy lại những gì mà họ đã mất.

    Thành viên nào vốn đã có niềm tự hào về phẩm chất thì thường tỏ ra là một người tốt của cộng đồng, tuân thủ các quy tắc về trách nhiệm đối với thái độ, hành vi của mình. Duy trì được niềm tự hào về - phẩm chất trong lối sống sẽ giúp con người tránh xa ma tuý và tránh xa được cả những yếu tố tiêu cực luôn đi kèm theo nó.

     VIII. XÂY DỰNG YẾU TỐ TINH THẦN TRONG MÔI TRƯỜNG TRỊ LIỆU CỘNG ĐỒNG:

    Trong bất cứ cuộc thảo luận nào về yếu tố tinh thần trong môi trường trị liệu cộng đồng hầu như người ta cũng dễ nói lạc sang chủ đề tôn giáo và tín ngưỡng. Nhằm tránh việc nhầm lẫn giữa yếu tố tinh thần và khái niệm tôn giáo, tinh thần trong cộng đồng trị liệu được định nghĩa là : “bất kỳ hành động hay hoạt động nào thể hiện, phản ánh lòng tốt của con người”. Đây là một định nghĩa khái quát, nó bao gồm rất nhiều loại hoạt động của con người kể cả hoạt động tôn giáo hay những việc làm có ích giúp tăng cường nhận thức của con người.

    Chương trình trị liệu cộng đồng không phải là một chương trình thuần túy nói về yếu tố tinh thần mà còn cần phải sử dụng nhiều biện pháp trị liệu khác. Yếu tố tinh thần chỉ được sử dụng với khía cạnh giúp cho quá trình thay đổi, phục hồi của người nghiện thông qua việc nhìn nhận cuộc sống dưới một góc độ khác. Điều quan trọng ở đây là sự góp phần điều trị nhằm tăng cường nhận thức cho người nghiện trong giai đoạn phục hồi.

    Cuộc sống trong cộng đồng là một cuộc sống tập thể. Cuộc sống tập thể ở đây tạo ra những điều kiện cần thiết cho người nghiện ma tuý để họ có thể nhanh chóng phục hồi trong môi trường có định hướng rõ ràng về “mục đích và kết quả”. Họ cần phải biết được thế nào là hành vi đúng trước khi có thể bước vào quá trình phục hồi. Đây chính là một thử thách lớn không chỉ với họ mà còn với tất cả các nhân viên điều trị.

    Sau khi đã tìm lại được chính bản thân mình, người nghiện bắt đầu quá trình học hỏi những giá trị của cuộc sống, hệ thống niềm tin trong cộng đồng, mối quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp nhằm hướng tới một cuộc sống lành mạnh, không có ma tuý Sự thay đổi lớn lao trong thái độ của đối tượng ở giai đoạn này là rất đáng chú ý. Đối tượng tỏ ra có triển vọng, có tinh thần trách nhiệm trong lao động và hành vi ứng xử. Anh ta đã có cuộc sống đời thăng trầm chìm nổi nhưng đối tượng đã biết chấp nhận sự thật, biết kiểm soát nó và tìm kiếm sự giúp đỡ khi cần thiết. Đối tượng hiểu rằng cuộc chiến chống lại sự cám dỗ của ma tuý vẫn chưa chấm dứt và vẫn còn phải rèn luyện thêm những điều đã học để có thể duy trì một cuộc sống lành mạnh lâu dài. Một người nghiện không đơn thuần là sự phụ thuộc vào ma tuý mà còn là sự lệ thuộc vào quá khứ cùng những yếu tố xã hội đi liền với quá khứ ấy.

    Để duy trì được những gì mà được học, đối tượng phải biết cách chia xẽ những quan điểm – hành vi đúng đắn cho người khác. Đối tượng đã hoàn tất giai đoạn này, phải biết cách dạy lại những thành viên mới bằng chính ví dụ cuộc đời đối tượng. Vai trò của đối tượng trong cộng đồng bây giờ là dạy lại những điều mình được học. Chỉ có như vậy đối tượng mới thật sự hiểu hết ý nghĩa của mọi vấn đề đã học và có trách nhiệm hơn đối với hệ thống niềm tin trong môi trường cộng đồng trị liệu.

    KẾT LUẬN

    Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khó chữa, có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng sử dụng ma túy của đối tượng. Do những tổn thương về hệ thống não bộ tạo nên những rối loạn về hành vi - nhân cách của người bệnh - suy giảm khả năng xét đoán - xử lý thông tin - mất khả năng tự chủ - hình thành những thói quen xấu sau một thời gian sử dụng ma túy. Người nghiện ma túy là một người đa nhân cách.

    Việc sử dụng thuốc chỉ có một tác dụng giới hạn mà cần những biện pháp điều trị không dùng thuốc: Việc điều trị không chỉ nhằm vào việc cai nghiện của đối tượng mà phải giải quyết tận gốc những vấn đề liên quan đến hành vi - nhân cách, hoàn cảnh cá nhân, gia đình xã hội và động cơ đã ảnh hưởng đến việc nghiện ma túy của từng đối tượng.

    Từ những lý do trên các phương pháp và các mục tiêu trị liệu cho người nghiện trong một môi trường cộng đồng trị liệu là phải thật chi tiết  kịp thời. Khác với những phương thức điều trị cổ điển, quy ước chỉ gồm thầy thuốc và bệnh nhântrị liệu cộng đồng đã huy động được toàn bộ những nguồn nhân lực là bệnh nhân - thân nhân bệnh nhân - tập thể người bệnh cũng như toàn bộ nhân viên Trung Tâm tập trung vào mục đích điều trị cho mỗi bệnh nhân, tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Với thời gian điều trị dài và những biện pháp đúng đắn nhằm gọt dũa, điều chỉnh, phục hồi nhận thức, hành vi - nhân cáchgiải quyết các chấn thương tâm l‎ý, tạo cho người cai nghiện những nhận thức đúng đắnhình thành những thói quennếp sống tốt để khi trở về với xã hội họ được trang bị bản lĩnh và kỹ năng sống với lòng tự tin và sự tự trọng. Họ sẽ từng bước tiến lên trong cuộc sống với sự hỗ trợ của toàn xã hội.

TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ: NGHIỆM PHÁP BECK – ZUNG (SDS) VÀ MONTGOMERY-ASBERG (MADRS)

drdung.com

TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ: NGHIỆM PHÁP BECK - ZUNG (SDS) VÀ MONTGOMERY-ASBERG (MADRS)

Trong bảng này gồm 21 đề mục được đánh số từ 1 đến 21, ở mỗi đề mục có ghi một số câu phát biểu. Trong mỗi đề mục hãy chọn ra một câu mô tả gần giống nhất tình trạng mà bạn cảm thấy trong 1 tuần trở lại đây, kể cả hôm nay. Khoanh tròn vào con số trước câu phát biểu mà bạn đã chọn. Hãy đừng bỏ sót đề mục nào!


1.   

0          Tôi không cảm thấy buồn.

1          Nhiều lúc tôi cảm thấy buồn.

2          Lúc nào tôi cũng cảm thấy buồn.

3          Tôi rất buồn hoặc rất bất hạnh đến mức không thể chịu được.

 


2.   

0          Tôi không nản lòng về tương lai.

1          Tôi cảm thấy nản lòng về tương lai hơn trước.

2          Tôi cảm thấy mình chẳng có gì mong đợi ở tương lai cả.

3          Tôi cảm thấy tương lai tuyệt vọng và tình hình chỉ có thể tiếp tục xấu đi.

 


3.   

0          Tôi không cảm thấy như bị thất bại.

1          Tôi thấy mình thất bại nhiều hơn những người khác.

2          Nhìn lại cuộc đời, tôi thấy mình đã có quá nhiều thất bại.

3          Tôi cảm thấy mình là một người hoàn toàn thất bại.

 


4.   

0          Tôi còn thích thú với những điều mà trước đây tôi vẫn thường thích.

1          Tôi ít thấy thích những điều mà trước đây tôi vẫn thường ưa thích.

2          Tôi còn rất ít thích thú về những điều trước đây tôi vẫn thường thích.

3          Tôi không còn chút thích thú nào nữa.

 


5.   

0          Tôi hoàn toàn không cảm thấy có tội lỗi gì ghê gớm cả.

1          Phần nhiều những việc tôi đã làm tôi đều cảm thấy có tội.

2          Phần lớn thời gian tôi cảm thấy mình có tội.

3          Lúc nào tôi cũng cảm thấy mình có tội.

 


6.   

0          Tôi không cảm thấy đang bị trừng phạt.

1          Tôi cảm thấy có lẽ mình đang bị trừng phạt.

2          Tôi mong chờ bị trừng phạt.

3          Tôi cảm thấy mình đang bị trừng phạt.

 


7.   

0          Tôi thấy bản thân mình vẫn như trước kia.

1          Tôi không còn tin tưởng vào bản thân.

2          Tôi thất vọng với bản thân.

3          Tôi ghét bản thân mình.

 


8.   

0          Tôi không phê phán hoặc đổ lỗi cho bản thân hơn trước kia.

1          Tôi phê phán bản thân mình nhiều hơn trước kia.

2          Tôi phê phán bản thân về tất cả những lỗi lầm của mình.

3          Tôi đổ lỗi cho bản thân về tất cả mọi điều tồi tệ xảy ra.

 


9.   

0          Tôi không có ý nghĩ tự sát.

1          Tôi có ý nghĩ tự sát nhưng không thực hiện.

2          Tôi muốn tự sát.

3          Nếu có cơ hội tôi sẽ tự sát.

 


10. 

0          Tôi không khóc nhiều hơn trước kia.

1          Tôi hay khóc nhiều hơn trước.

2          Tôi thường khóc vì những điều nhỏ nhặt.

3          Tôi thấy muốn khóc nhưng không thể khóc được.

 


11. 

0          Tôi không dễ bồn chồn và căng thẳng hơn thường lệ.

1          Tôi cảm thấy dễ bồn chồn và căng thẳng hơn thường lệ.

2          Tôi cảm thấy bồn chồn và căng thẳng đến mức khó có thể ngồi yên được.

3        Tôi thấy rất bồn chồn và kích động đến mức phải đi lại liên tục hoặc làm việc  gì đó.

 


12.

0          Tôi không mất sự quan tâm đến những người xung quanh hoặc các hoạt động khác.

1          Tôi ít quan tâm đến mọi người, mọi việc xung quanh hơn trước.

2          Tôi mất hầu hết sự quan tâm đến mọi người, mọi việc xung quanh.

3          Tôi không còn quan tâm đến bất kỳ điều gì nữa.

 


13. 

0          Tôi quyết định mọi việc cũng tốt như trước.

1          Tôi thấy khó quyết định mọi việc hơn trước.

2          Tôi thấy khó quyết định mọi việc hơn trước rất nhiều.

3          Tôi chẳng còn có thể quyết định được việc gì nữa.

 


14. 

0          Tôi không cảm thấy mình là người vô dụng.

1          Tôi không cho rằng mình có giá trị và có ích như trước kia.

2          Tôi cảm thấy mình vô dụng hơn so với những người xung quanh.

3          Tôi thấy mình là người hoàn toàn vô dụng.

 


15. 

0          Tôi thấy mình vẫn tràn đầy sức lực như trước đây.

1          Sức lực của tôi kém hơn trước.

2          Tôi không đủ sức lực để làm được nhiều việc nữa.

3          Tôi không đủ sức lực để làm được bất cứ việc gì nữa.

 


16. 

0          Không thấy có chút thay đổi gì trong giấc ngủ của tôi.

1a        Tôi ngủ hơi nhiều hơn trước.

1b        Tôi ngủ hơi ít hơn trước.

2a        Tôi ngủ nhiều hơn trước.

2b        Tôi ngủ ít hơn trước.

3a        Tôi ngủ hầu như suốt cả ngày.

3b        Tôi thức dậy 1-2 giờ sớm hơn trước và không thể ngủ lại được.

 


17. 

0          Tôi không dễ cáu kỉnh và bực bội hơn trước.

1          Tôi dễ cáu kỉnh và bực bội hơn trước.

2          Tôi dễ cáu kỉnh và bực bội hơn trước rất nhiều.

3          Lúc nào tôi cũng dễ cáu kỉnh và bực bội.

 


18. 

0          Tôi ăn vẫn ngon miệng như trước.

1a        Tôi ăn kém ngon miệng hơn trước.

1b        Tôi ăn ngon miệng hơn trước.

2a        Tôi ăn kém ngon miệng hơn trước rất nhiều.

2b        Tôi ăn ngon miệng hơn trước rất nhiều.

3a        Tôi không thấy ngon miệng một chút nào cả.

3b        Lúc nào tôi cũng thấy thèm ăn.

 


19. 

0          Tôi có thể tập trung chú ý tốt như trước.

1          Tôi không thể tập trung chú ý được như trước.

2          Tôi thấy khó tập trung chú ý lâu được vào bất kỳ điều gì.

3          Tôi thấy mình không thể tập trung chú ý được vào bất kỳ điều gì nữa.

 


20. 

0          Tôi không mệt mỏi hơn trước.

1          Tôi dễ mệt mỏi hơn trước.

2          Hầu như làm bất kỳ việc gì tôi cũng thấy mệt mỏi.

3          Tôi quá mệt mỏi khi làm bất kỳ việc gì.

 


21. 

0          Tôi không thấy có thay đổi gì trong hứng thú tình dục.

1          Tôi ít hứng thú với tình dục hơn trước.

2          Hiện nay tôi rất ít hứng thú với tình dục.

3          Tôi hoàn toàn mất hứng thú tình dục.


Trong tập hợp những triệu chứng trên đây, Beck mô tả các triệu chứng về sự ức chế toàn diện các mặt hoạt động tâm thần: cảm xúc, tư duy, hoạt động, v.v. gồm các mục từ 1 đến 15. Các mục này phản ánh những nhận xét tiêu cực về bản thân, về thé giới bên ngoài và về tương lại. Các mục từ 16 đến 21 có liên quan tới các triệu chứng cơ thể: tình trạng ức chế, chậm chạp, mệt mỏi, khó tập trung, rối loạn giấc ngủ.


Như vậy, Beck đã dựng lên một “Tình  trạng” với các triệu chứng trầm cảm có được từ các bệnh nhân. Cũng giống như thang đánh giá Hamilton, thang đánh giá trầm cảm của Beck xuất phát trên cơ sở thực tế lâm sàng khi tiếp cận nghiên cứu bệnh nhân. Những thang đánh giá này được coi là các bản câu hỏi tự đánh giá, bản phỏng vấn hàm súc có ý nghĩa trong một thời lượng nhất định khi tiếp xúc với bệnh nhân.


Xây dựng cách đánh giá và cho điểm thang trầm cảm của Beck.

Thang Beck là thang tự đánh giá. Người thầy thuốc yêu cầu đối tượng điền vào một bản câu hỏi, bằng cách khoanh tròn những con số tương ứng với câu trả lời có sẵn do mình tự lựa chọn. Đối tượng có thể khoanh tròn nhiều con số nếu có nhiều câu trả lời có sẵn thích hợp với mình.

Mỗi đề được cấu tạo nên bởi từ 4 đến 6 câu trả lời tương ứng với từ 4 đến 6 mức cường độ triệu chứng nặng hơn dần: từ mức 0 đến mức 3.


Ví dụ, đề mục 15 - lao động khó khăn:

0. Tôi có thể làm việc tốt như trước

1a. Tôi phải đặc biệt cố gắng để có thể khởi động làm một việc gì.

1b. Tôi không làm việc tốt như trước

2. Tôi phải cố gắng hết sức để làm một việc gì

3. Toàn hoàn toàn không thể làm một việc gì cả

Đề mục 16 - rối loạn giấc ngủ:

0. Tôi không thể ngủ tốt như trước

1. Tôi ngủ dậy buổi sáng mệt hơn trước

2. Tôi thức dậy 1 -2 giờ sớm hơn trước và thấy khó ngủ lại.

3. Hàng ngày tôi dậy sớm và không thể ngủ hơn 5 tiếng.

Khi tính điểm, thì phải giữ lại điểm cao nhất được chọn trong mỗi loạt câu trả lời. Cộng những điểm cho tất cả 21 đề mục, thì sẽ đạt được điểm tổng cộng cho từng trường hợp. Khoảng cách của thang đánh giá rộng từ 0 đến 39 điểm. Điểm tổng cộng càng cao thì đối tượng được thử nghiệm càng bị rối loạn trầm cảm nặng hơn.


Thanh đánh giá này cho phép những nhà lâm sàng sử dụng những ngưỡng điểm khác nhau về mức độ nặng của rối loạn trầm cảm đã được Beckk giữ lại như sau:

+ Điểm tổng cộng đến dưới 13 điểm: không có trầm cảm.

+ Điểm tổng cộng từ 14-19 điểm: trầm cảm nhẹ .

+ Điểm tổng cộng từ 20-29 điểm: trầm cảm vừa.

+ Điểm tổng cộng từ 30 điểm trở lên: trầm cảm nặng.

Như vậy, ngưỡng điểm tổng cộng của thang Beck là 14 được nhiều tác giả chấp thuận, để xác định bệnh nhân có biểu hiện bệnh lý rối loạn trầm cảm.

Thanh đánh giá trầm cảm của Beck là một công cụ đánh giá chủ quan rối loạn trầm cảm được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu lâm sàng tâm thần học và dược lý, cũng như trong lĩnh vực đa khoa và cả trong dịch tễ học, mang lại những dữ liệu sâu sắc về tình trạng trầm cảm. Có thể nói đây là một công cụ được các bệnh nhân chấp nhận tốt và sử dụng dễ dàng, vì nó ngắn ngọn.


2.1 Thang Đánh giá trầm cảm Zung:


Thang Đánh giá trầm cảm Zung (SDS) là thang tự đánh giá gồm có 20 đề mục, được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu dịch tễ học (Zung WW., 1965). Một hạn chế của SDS là cách trả lời tính điểm (không bao giờ, đôi khi, phần lớn thời gian, luôn luôn), điều này có thể làm bệnh nhân người già nhầm lẫn; do đó, họ cần phải có sự trợ giúp của trắc nghiệm vi hoặc những người khác để hoàn thành trắc nghiệm (Brink TL, Yesavage JA, Lum O & cs, 1982). Một vấn đề khác nữa ở thang này là điểm trung bình đối với người già cao hơn đáng kể so với những người trẻ hơn, điều này dẫn đến nhiều người già bình thường bị đánh giá thành dương tính giả (Zung WWK., 1975).
Chẳng hạn như, Zung đưa ra ngưỡng điểm phân loại là 40 đối với trầm cảm với độ nhạy là 88%, nhưng dương tính giả lại có tỉ lệ 44% (Zung WW, Green RL., 1973). Hơn nữa, SDS thường bỏ sót trầm cảm ở người già nếu trầm cảm biểu hiện chủ yếu bằng các triệu chứng về cơ thể (Raft D, Spencer RF, Toomey T & cs, 1977). Do những hạn chế nêu trên nên nhiều tác giả cho rằng không nên sử dụng SDS trong các nghiên cứu hay đánh giá lâm sàng về trầm cảm người già (Myers JK, Weissman MM., 1980; Carroll BJ, 1973). Độ nhạy và độ đặc hiệu đối với SDS sử dụng ngưỡng điểm 60 cho thấy độ nhạy từ 58% - 76%, còn độ đặc hiệu từ 82% - 86% (Kitchell MA, 1982; Okimoto JT, 1982).
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau trong việc sử dụng SDS ở nhóm quần thể người già, nhưng nó vẫn tiếp tục được dùng trong nghiên cứu, đặc biệt là ở Châu Âu (Schrijnemaekers VJJ & cs,1993), vì nó ghi nhận được những khác biệt về giới tính và độ tuổi trong cấu trúc yếu tố của thang ở nhóm quần thể người già (Kivela S & cs, 1986). SDS bản rút gọn (12 đề mục), tuy nhiên bản này ít có độ ứng nghiệm trong trầm cảm người già (Gosker CE & cs, 1994; Hulstijn EM & cs, 1992).


Thang Đánh giá trầm cảm Zung (SDS)


  Không có Đôi khi

Phần lớn thời gian

Hầu hết hoặc tất cả thời gian

1. Tôi cảm thấy chán nản và thất vọng        
2. Tôi cảm thấy thoải mái nhất vào buổi sáng        
3. Tôi khóc hoặc muốn được khóc        
4. Ban đêm tôi không ngủ được        
5. Tôi vẫn ăn uống ngon miệng như trước kia        
6. Tôi vẫn còn hứng thú tình dục        
7. Tôi thấy đang bị sút cân        
8. Tôi bị táo bón        
9. Tim tôi đập nhanh hơn thường lệ        
10. Tôi thấy mệt mỏi chẳng rõ nguyên nhân        
11. Trí óc tôi vẫn minh mẫn như thường lệ        
12.Tôi thấy dễ dàng làm mọi việc như thường lệ        
13. Tôi thấy bồn chồn và không thể ngồi yên được        
14. Tôi vẫn hy vọng ở tương lai        
15. Tôi dễ cáu kỉnh, bực bội hơn thường lệ        
16. Tôi dễ dàng đưa ra các quyết định        
17. Tôi cảm thấy mình có ích và được cần tới        
18. Cuộc sống của tôi khá đầy đủ        
19. Tôi cảm thấy những người xung quanh sẽ thấy thoải mái hơn nếu tôi chết đi        
20. Tôi vẫn thích thú với mọi việc như trước kia        

Cách tính điểm: Điểm tối đa là 80.

-            0 – 49:            không có trầm cảm,

-            50 – 80:          có trầm cảm.


2.2 Thang Đánh giá trầm cảm Montgomery-Asberg (MADRS)


Thang MADRS có độ nhạy đặc biệt với việc đo lường thay đổi trong các triệu chứng qua thời gian điều trị (Montgomery SA, Asberg M., 1979). Thang MADRS là thang đánh giá qua quan sát dựa trên phỏng vấn lâm sàng từ các câu hỏi chung đến các câu chi tiết hơn. Thang MADRS có 10 câu hỏi, mỗi câu có 6 mức độ đánh giá các triệu chứng cốt yếu của trầm cảm như buồn chán, rối loạn giấc ngủ, những thay đổi về sự ngon miệng và tập trung chú ý, ý tưởng tự sát và bi quan. Thang này không đánh giá các triệu chứng cơ thể vốn rất quan trọng trong nhóm quần thể người già. Mặc dù thang MADRS có độ ứng nghiệm tốt so với các thang đánh giá khác ở các nhóm quần thể tuổi trẻ hơn (Maier W., 1985; Maier W, Heuser I & cs, 1988), nhưng nó không có đủ độ ứng nghiệm đối với nhóm quần thể người già (Waltis JP & cs, 1993; Van Marwijk H & cs, 1994).


THANG ĐÁNH GIÁ TRẦM CẢM MADRS


1. BUỒN BÃ (Thể hiện ra ngoài)

Đó là sự chán nản, buồn bã, thất vọng (không chỉ đơn thuần là một tình trạng buồn bã thoáng qua mà với tính chất nặng và rõ hơn) thể hiện trong lời nói, vẻ mặt, và dáng điệu. Được phân độ dựa trên cơ sở bệnh nhân buồn bã ở mức độ nhẹ hay trầm trọng và khả năng có thể tươi tỉnh lên dễ hay khó.

0-       Không buồn bã.

1-       ……………….

2-       Có vẻ buồn bã nhưng có thể tươi tỉnh lên một cách dễ dàng.

3-       ………………

4-       Tỏ ra buồn và khổ sở trong phần lớn thời gian.

5-       ……………..

6-       Lúc nào cũng buồn bã, khổ sở. Chán nản một cách cực độ.


2. BUỒN BÃ (Qua lời kể lại)

Đó là các biểu hiện buồn bã qua lời kể hoặc thổ lộ, than phiền của bệnh nhân, bất kể sự buồn vã đó có thể hiện ra ngoài hay không. Bao gồm: sự buồn rầu, chán nản, hoặc cảm giác không được giúp đỡ và không có hy vọng. Được định giá bằng cường độ, thời gian kéo dài và quy mô phản ứng của khí sắc (của bệnh nhân) dưới ảnh hưởng của các sự kiện tác động bên ngoài.

0-       Thỉnh thoảng buồn bã, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể bên ngoài.

1-       ……………….

2-       Buồn bã nhưng có thể tươi vui lên một cách dễ dàng.

3-       ……………….

4-       Cảm giác buồn rầu, u sầu tràn ngập. Khí sắc của bệnh nhân vẫn còn chịu ảnh hưởng từ các hoàn cảnh bên ngoài.

5-       ……………….

6-       Buồn bã liên tục, triền miên, khổ sở, chán nản.


3. CĂNG THẲNG NỘI TÂM

Bệnh nhân có những cảm giác từ khó chịu mập mờ không rõ nguyên nhân, bực bội, xáo trộn nội tâm, căng thẳng tinh thần cho đến hoang mang sợ hãi hoặc đau khổ. Được định giá tùy theo cường độ, tần số xuất hiện, thời gian kéo dài và quy mô cần thiết để trấn tĩnh mà yên tâm trở lại.

0-       Điềm tĩnh. Chỉ căng thẳng nội tâm thoáng qua.

1-       ……………..

2-       Thỉnh thoảng có cảm giác bực bội, khó chịu mập mờ.

3-       ……………..

4-       Cảm giác căng thẳng nội tâm liên tục, hoặc thỉnh thoảng hoang mang, sợ hãi: bệnh nhân có thể chế ngự được với một ít khó khăn.

5-       ……………..

6-       Sợ hãi hoặc đau đớn tinh thần không dứt.


4. CẢM GIÁC NGỦ

Đó là những biểu hiện giảm về thời gian hoặc độ sâu của giấc ngủ so với giấc ngủ của chính bệnh nhân lúc khỏe mạnh.

0-       Ngủ bình thường.

1-       ……………..

2-       Hơi khó ngủ; khoặc có thể ngủ ngắn, ngủ hơi nông, hoặc ngủ hơi chập chờn hơn so với bình thường.

3-       …………….

4-       Cảm giác buồn rầu, u sầu tràn ngập. Khí sắc của bệnh nhân vẫn cong chịu ảnh hưởng từ các hoàn cảnh bên ngoài.

5-       …………

6-       Chỉ ngủ được ít hơn 2 hoặc 3 giờ.


5. GIẢM NGON MIỆNG/ CHÁN ĂN

Đó là cảm giác mất ngon miệng khi ăn so với lúc khỏe mạnh. Được định giá bằng mức độ chán ăn ít hay nhiều và theo mức độ cố gắng của bệnh nhân để tự ép bản thân phải ăn.

0-       Bình thường hoặc tăng ngon miệng.

1-       ………….

2-       Giảm ngon miệng khi ăn.

3-       ………….

4-       Mất ngon miệng hoàn toàn, thức ăn hết mùi vị.

5-       …………..

6-       Cần phải thuyết phục hoặc bắt buộc mới ăn.


6. KHÓ TẬP TRUNG

Bao gồm: từ các khó khăn khi tập hợp suy nghĩ cho đến hoàn toàn mất khả năng tập trung làm cho bệnh nhân không làm việc được. Được định giá bằng cường độ, tần số xuất hiện, và mức độ mất khả năng làm việc do hậu quả của sự mất tập trung.

0-       Không có khó khăn gì khi tập trung.

1-       ………….

2-       Thỉnh thoảng có khó khăn khi tập trung suy nghĩ.

3-       ……………

4-       Khó khăn trong việc tập trung và suy trì suy nghĩ của bản thân, dẫn đến việc giảm khả năng đọc sách  hoặc nói chuyện, đối thoại.

5-       …………..

6-       Rất khó khi đọc hoặc khi đối thoại.


7. MỆT NHỌC, UỂ OẢI

Đó là những khó khăn khi khởi đầu và khi thực hiện các công việc, sinh hoạt hàng ngày.

0-       Hầu như không có khó khăn nào khi bắt đầu. Không uể oải.

1-       …………….

2-       Có khó khăn khi bắt đầu công việc, sinh hoạt.

3-       ……………..

4-       Khó khăn khi bắt đầu các hoặt động và công việc đơn giản thường làm mỗi ngày và bệnh nhân phải cố gắng mới làm được những công việc đó.

5-       ………

6-       Uể oải, mệt nhọc hoàn toàn. Không thể làm bất cứ việc gì nếu không có giúp đỡ.


8. MẤT TÌNH CẢM

Đó là cảm giác chủ quan của bệnh nhân thấy giảm hứng thú đối với xung quanh, hoặc đối với các hoạt động trước đó thường mang vui thích lại cho bản thân. Khả năng của bệnh nhân phản ứng bằng một tình cảm tương thích và phù hợp đối với môi trường xung quanh hoặc người khác bị giảm xuống.

0-       Quan tâm đến môi trường xung quanh và những người khác một cách bình thường.

1-       ………

2-       Giảm hứng thú đối với các hoạt động thường ngày mang lại vui thích.

3-       …………..

4-       Không còn quan tâm đến môi trường xung quanh. Mất tình cảm, xúc cảm đối với bạn bè và người quen.

5-       ………….

6-       Cảm giác tê liệt hoàn toàn về tình cảm, bệnh nhân mất khả năng giận dữ, đau buồn, hoặc vui sướng, và hoàn toàn không còn tình cảm với người thân và bạn bè.


9. Ý NGHĨ BI QUAN

Đó là những ý nghĩ tự thấy có tội, thấp kém, tự chỉ trích hoặc tự trách, sai trái lầm lỗi, ăn năn hối hận, hư hỏng thất bại.

0-       Không có những ý nghĩ bi quan.

1-       ………..

2-       Thỉnh thoảng (lúc có lúc không) có ý nghĩ thất bại, hoặc chỉ trích bản thân, hoặc tự đánh giá thấp mình, tự ti.

3-       …………

4-       Luôn tự buộc tội bản thân, có ý nghĩ rõ ràng cảm thấy có tội hoặc sai trái, tuy nhiên, ý nghĩ đó vẫn còn ở mức độ vừa phải, có chừng mực.

5-       ………….

6-       Bệnh nhân có ảo tưởng về sự thất bại, hư hỏng, ăn năn hối hận, hoặc lầm lỗi không thể cứu vãn, sửa chữa được. Tự buộc tội một cách phi lý và quả quyết, không thể lay chuyển được.


10. Ý TƯỞNG TỰ SÁT

Là cảm giác thấy rằng cuộc đời không còn đáng để sống, rằng cái chết tự nhiên sẽ được hoan nghênh, có những ý nghĩ tự tử, và sự chuẩn bị cho việc tự tử. Các toan tính nhằm tự tử không có giá trị ảnh hưởng đến việc phân độ và định giá.

0-       Sống vui vẻ và chấp nhận cuộc sống như nó vốn có.

1-       ……………

2-       Chán cuộc sống. Ý tưởng tự tử thoáng qua.

3-       …………..

4-       Bệnh nhân nghĩ rằng tốt hơn nên chết. Các ý tưởng tự tử trở nên thường xuyên hơn, và việc tự tử được xem như một giải pháp có thể chấp nhận được, nhưng không có kế hoạch cụ thể hoặc dự định nào.

5-       ………….

6-       Có kế hoạch rõ ràng để tự tử khi có cơ hội. Chuẩn bị tích cực để tự tử.


Kết quả:

-            0 – 6: không có trầm cảm,

-            7 – 19:            trầm cảm nhẹ,

-            20 – 34:         trầm cảm vừa,

-            35 – 60:         trầm cảm nặng.


2.6 Bản câu hỏi tự đánh giá MMPI.


Bên cạnh những thanh đánh giá, các tác giả còn xây dựng những bản câu hỏi tự đánh giá: " Bản kê khai về nhân cách nhiều pha của Minnesota" ( MMPI: Minnesota Multiphasic Personality Inventory) (S.R.Hathway - 1941), bao gồm 550 câu hỏi liên quan đến nhiều lĩnh vực rất đa dạng như đánh giá tình trạng về sức khoẻ chung; đánh giá các triệu chứng về thân kinh; về tâm thần; trầm cảm; hưng cảm; lo âu; ám ảnh sợ; hoang tưởng; ảo giác;...; các thói quen, quan hệ trong gia đình, xã hội, sự giáo dục, nghề nghiệp, đạo đức, tôn giáo,... kiểm tra thái độ và sự thành thật của đối tượng với test,vv.


Trong cấu trúc của bộ test có 10 thang lâm sàng, như: thang Hd (Hypochondrie) biểu hiện trạng thái nghi bệnh, thang D (Depression) đánh giá mức độ trầm cảm, thang Hy ( Hysterie) nghiên cứu khí chất loại rối loạn phân ly, thang Py (Personality Deviation) nghiên cứu về trạng thái nhân cách bệnh, thang Mf ( Maseculine feminine) nghiên cứu giới tính ( khuynh hướng thiên về nữ tính hay nam tính), thang Pa ( Paranoia) nghiên cứu sự nghi kỵ, tưởng bị hại, thang Pt ( Psychasthenie) nghiên cứu trạng thái lo âu suy nhược, ám ảnh sợ, ám ảnh cưỡng bức, thang Sc ( Schizophrenie) nghiên cứu các thể lâm sàng của tâm thần phân liệt, thang Ma ( Hypomanie) đánh giá tình trạng hưng cảm nhẹ, thang Si ( Social introvertion) đánh giá xu hướng vào nội tâm , tránh né xã hội, tránh tiếp xúc với người khác.

Kết quả của bộ test MMPI góp phần hỗ trợ cho thầy thuốc lâm sàng chẩn đoán các rối loạn trầm cảm và các rối loạn tâm căn có liên quan đến stress.


Vấn đề đánh giá định lượng các triệu chứng trầm cảm.


Những thang đánh giá ở trên đều liên quan tới đánh giá định lượng các triệu chứng trầm cảm. Đây là loại công cụ có những đề mục liên quan tới triệu chứng, chỉ được phát hiện trong chừng mực mà bênh nhân cảm thấy được và bày tỏ ra bằng ngôn ngữ của mình. Ngược lại, những điều mà bệnh nhân không cảm thấy, nhưng thầy thuốc lại quan sát được ( ví dụ biểu hiện nét mặt, động tác chậm chạp, thay đổi giọng nói), đã phản ánh tính ích lợi của thang đánh giá khi tiếp cận bệnh nhân làm test.
Có thể nói rằng, về lý thuyết, thì những thang đánh giá bao phủ toàn bộ phần triệu chứng học trầm cảm mà không một công cụ nào khác nắm bắt được. Tất nhiên, có thể được chấp nhận chỉ khi thang đánh giá nằm trong tay của người thầy thuốc có nhiều kinh nghiệm và có khả năng " nhạy cảm" lâm sàng. Còn nến như người quan sát chỉ được đào tạo hạn chế về tâm thần học thì thong tin thu lượm được chắc chắn bị hạn chế và sẽ kém hiệu lực, có khi không sử dụng được.
Tính ưu việt của những thang đánh giá trầm cảm nêu trên ở chỗ có bề rộng giới hạn: ngắn gọn, không phức tạp. Đó là điều mà cả bệnh nhân và thầy thuốc lâm sàng rất dễ thực hiện. Bởi vì, chúng ta biết rõ ràng động viên một bệnh nhân trầm cảm châm chạp trả lời một bản câu hỏi là một công việc khó khăn. Mặt khác, kinh nghiệm cho thấy rằng phần lớn những nhà lâm sàng khó chấp nhận việc sử dụng những thang đánh giá quá phức tạp.


Do vậy, thang đánh giá trầm cảm của Hamilton ( một ban gồm 17 đề mục,), thang đo lường trầm cảm của Beck có 21 câu hỏi, những  công cụ này sở dĩ thành công phần lớn là do ngắn gọn.

Rõ ràng, thực hành đo lường các triệu chứng học trầm cảm với những thang đánh giá có số lượng khoảng 20 các đề mục là dễ áp dụng và có thể mở rộng áp dụng trong các lĩnh vực nội khoa hoặc khu vực chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Còn khi tiến hành những nghiên cứu theo chiều sâu, vì người quan sát có lý do riêng, thì có thể sủ dụng những thang đánh giá tới hàng trăm câu hỏi ( như MMPI).

Các thang đánhg giá trầm cảm nêu trên đều liên quan tới triệu chứng học trầm cảm, được xây dựng tốt và như vậy những công cụ này được ưu tiên trong những chỉ định góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn trầm cảm.


Một số công trình đã sử dụng các test tâm lý trong chẩn đoán các trạng thái trầm cảm.


Khi nghiên cứu tập hợp các rối loạn liên quan đến nhân cách, cũng như tình trạng, trầm cảm các bệnh nhân có các triệu chứng cơ thể, triêu chứng đau..., một số tác giả sử dụng test MMPI (Hal R.C., 1980; Sireling L.I,.,1985; Hardy P., 1991 [7,], [9], [13]. Kết quả test cho thấy số điểm trong thang cho điểm về trầm cảm (D) và chỉ số lo âu (Pt) ở những bệnh nhân trên điều trị nội trú trong bệnh viện có số điểm cao nhất. Test MMPI cho thấy các sự kiện đời sống hiện hữu có tính chất stress liên quan có ý nghĩa với các thang Pt, Hd, D,Pd.
Thêm nữa, các tác giả còn chỉ ra rằng các số điểm MMPI trong thang cho điểm về trầm cảm, lo âu, nghi bệnh tương quan thuận với triệu chứng đau bụng ở những bệnh nhân bị rối loạn tiêu hoá chức năng và thực thể. Và sự giảm bớt độ nghiêm trọng của tình trạng trầm cảm và tình trạng thần kinh dễ bị kích thích, ở những bệnh nhân này, các tác giả nhận thấy giảm số điểm trong các thang điểm về trầm cảm (D), lo âu (Pt), nghi bệnh (Hd),... trên các bệnh nhân.
Như vậy, các số điểm cao trong các thang điểm vừa nêu trên tạo nên cơ sở cho chẩn đoán tình trạng thần kinh dễ bị kích thích ở bệnh nhân loét tá tràng và có rối loạn tiêu hoá giống loét có trầm cảm và lo âu. Rõ ràng ở những bệnh nhân có triệu chứng đau bụng, thần kinh dễ bị kích thích khi làm test MMPI có các số điểm cao trong các thang trầm cam, thang lo âu và thang nghi bệnh, Test MMPI đã cung cấp những thông tin liên quan đến một số rối loạn trong đó có rối loạn trầm cảm trong nghiên cứu lâm sàng bệnh nhân tiêu hoá. Test được coi là một công cụ lượng hoá nhiều triệu chứng học tâm thần trên bệnh nhân thực thể và chức năng, góp phần sàng lọc và hướng tới xác định chẩn đoán các rối loạn trầm cảm.


Khi nghiên cứu rối loạn trầm cảm ở tuổi già, Baldwin R.C., Tomenson B., 1995 [5 ] sử dụng phân loại DSM - IV [4] và thang trầm cảm Hamilton để đánh giá. Kết quả cho thấy số  điểm cho về trầm cảm  và lo âu ở bệnh nhân trầm cảm tuổi già là cao. Cũng trong nghiên cứu đó, các tác giả cho thấy có sự kết hợp rõ nét giữa bệnh mạch máu hoặc nguy cơ bệnh mạch máu với những bệnh nhân trầm cảm  khởi phát muộn. Test Haminlton góp phần cho thấy bệnh mạch máu kết hợp với trầm cảm khởi phát muộn và những giả thiêtí cho rằng trầm cảm ở tuổi già là một  rối loạn "sinh học" nhiều hơn.

Có nhiều nghiêu cứu đã xác định cấu trúc thanh đánh giá trầm cảm của Beck, cũng như xác định độ nhạy chẩn đoán đối với các rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân là test.


Nghiên cứu của Lemperire cộng sự (1984) thực hiện trên 79 bệnh nhân trầm cảm cho thấy, trong số bệnh nhân thử nghiệm Beck có hơn 1/2 được đánh giá là trầm cảm nặng. Số điểm trung bình cho theo bảng cấu trúc 21 đề mục của Beck là 32 và 2/3 trong số bệnh nhân này phải điều trị nội trú. Tác giả nhận xét rằng, thang đánh giá này có độ nhạy cao đối với việc xác định các rối loạn trầm cảm.


Nghiên cứu của Collet và Cotraux (1986) thực hiện trên 50 bệnh nhân trầm cảm điều trị ngoại trú, có so sánh với thanh đánh giá trầm cảm của Haminlton thì thấy điểm tổng cộng của 2 thử nghiệm tương đương nhau; tuy nhiên độ nhạy chẩn đoán của test Beck cao hơn.

Nghiên cứu của Ctraux (1988) thực hiện trên 45 bệnh nhân trầm cảm nặng, tác giả tìm thấy cấu trúc các triệu chứng xuất hiện: sự chậm chạp (25%), ý nghĩ tội lỗi không xứng đáng (17%), tự rút khỏi quan hệ xã hội (12%), và rối loạn cơ thể (12%).

Nghiên cứu của Lykouras (1989) thực hiện trên 150 bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện đa khoa. Thử nghiệm Beck cho thấy 29% trầm cảm nhẹ, 19,5% trầm cảm vừa, và 5,3% trầm cảm nặng.


Rõ ràng đây là một cách đo lường nhận thức trầm cảm. Thang Beck là dành để đánh giá những khía cạnh chủ quan của bệnh nhân rối loạn trầm cảm. Thang đánh giá này đã bổ sung cho thang đánh giá Hamilton đối với những thành tố thuôc về cơ thể của bệnh nhân rối loạn trầm cảm.

Ở Việt Nam, tại Viện sức khoẻ tâm thần từ hơn chục năm nay đã sử dụng test Beck để phát hiện và đánh giá mức độ các rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân rối loạn trầm cảm.

Test này ngắn gọn, dễ sử dụng, có độ nhạy cao, nên được dùng để làm công cụ nghiên cứu phát hiện rối loạn trầm cảm ở cộng đồng " Điều tra dịch tễ trầm cảm tại một phường dân cư Lê Đại Hành thành phố Hà Nội" (1997), "Nghiên cứu phát hiện rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân nội khoa" (1998)" Nghiên cứu phát hiện rối loạn trầm cảm ở phụ nữ mãn kinh" (2000), " Nghiên cứu phát hiện rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân có biển hiện rối loạn cơ thể" (2001), v.v.

Trong bệnh khoa, test Beck đã thực sự góp phần giúp thày thuốc thực hành xác định mức độ tình trạng trầm cảm của người bệnh trước và sau khi điều trị.

Đến đây có thể nói rằng, các test trầm cảm đã đóng vai trò là một công cụ thực hành để lượng hoá triệu chứng học trầm cảm. phát hiện các trạng thái trầm cảm khác nhau. Các test đã thực sự giúp thầy thuốc thực hành tiếp cận khảo sát, đánh giá thực trạng mức độ các rối loạn trầm cảm của những người bệnh, và nó luôn là công cụ song hành trong lâm sàng tâm thần học.


Kết luận

Các test trầm cảm là những công cụ đã được tiêu chuẩn hoá, có tính quy chuẩn về đánh giá các triệu chứng học, có độ nhạy cao, có tính hiệu lực trong việc khảo sát các triệu chứng, cũng như cho kết quả thu được đáng tin cậy.

Ưu thế của test trầm cảm là tương đối đơn giản về thủ tục và trang bị, thời gian làm test ngắn, ghi lại được trực tiếp các kết quả, có những tiêu chuẩn đã được xác lập, có khả năng sử dụng đối với từng cá nhân và toàn bộ nhóm cộng đồng.

Giá trị của test là giúp cho người thầy thuốc lâm sàng trong việc phát hiện bệnh, kể cả bệnh ở mức độ kín đáo, có triệu chứng rất mở nhạt, không rõ ràng. Test đã giúp lượng hoá đuợc các triệu chứng học tâm thần bệnh lý, giúp xác định được mức độ tình trạng rối loạn trầm cảm, giúp xác định các yếu tố nguy cơ để can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa những tai biến. Thêm nữa, test không những hỗ trợ cho chẩn đoán lâm sàng mà còn gợi mở hướng điều trị và đánh giá hiệu quả các phương pháp điều trị.

Người thầy thuốc thực hành khi tiếp cận khám xét bệnh nhân, giá trị một chẩn đoán có rối loạn trầm cảm sẽ cao hơn, nếu biết sử dụng đánh giá về mặt lâm sàng có phối hợp với các test trầm cảm.


Khi đánh giá một mẫu nghiên cứu chúng ta cần xem xét đến (1) nên sử dụng thang tự đánh giá hay thang quan sát; (2) nên sử dụng phiên bản đầy đủ hay phiên bản rút gọn; (3) mục đích của thang đo; và (4) liệu thang đó dùng để chẩn đoán hay đánh giá tiến triển qua thời gian.

Dựa trên nghiên cứu sử dụng các thang đánh giá trầm cảm trên nhóm quần thể người già chúng tôi thấy rõ ràng rằng thang GDS là thang có độ ứng nghiệm tốt nhất đối với nhóm quần thể này.
Ở nhóm bệnh nhân có sa sút trí tuệ nặng thang GDS không đem lại kết quả đáng tin cậy, tuy nhiên trong nhóm quần thể này thì cũng không có thang đo trầm cảm nào mang lại kết quả đáng tin cậy. Chúng ta có thể nói rằng, triệu chứng học trầm cảm được coi là một lĩnh vực, mà trong đó lâm sàng và cận lâm sàng luôn tiếp cận để khảo sát nhận biết và kết luận.
Song song với lâm sàng nghiên cứu thống kê các triệu chứng trầm cảm, cận lâm sàng ( các test trầm cảm) đã tiếp cận thực tiễn, từ đó hình thành một " tình trạng" với các triệu chứng trầm cảm, có cấu trúc hợp lý nhằm góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn trầm cảm.

Điều quan trọng là cần nhớ rằng các kết quả có được từ việc sử dụng bất kỳ thang đánh giá nào, đặc biệt dùng trong chẩn đoán là không hoàn toàn chính xác tuyệt đối với nhóm quần thể người già (MacKenzie & cs, 1989).
Trầm cảm không điển hình ở nhóm quần thể này là thách thức ngay cả với các nhà lâm sàng có kinh nghiệm nhất, việc sử dụng bất kỳ thang đánh giá này đối với người già cũng nên chú ý đến điều này. Tất nhiên trong một cơ sở nghiên cứu lớn sẽ là phù hợp để chỉ đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân có các triệu chứng điển hình.Do đó, việc sử dụng một thang đánh giá đối với tiêu chuẩn bao gồm là hợp lý.
Tuy nhiên, việc sử dụng một thang đánh giá để quyết định điều trị hay không điều trị cho một người bệnh lúc nào cũng sẽ mang lại kết quả âm tính giả, do vậy không nên dùng thang đánh giá như là một cách để quyết định điều trị. Cuối cùng, đối với những bệnh nhân sa sút trí tuệ mức độ vừa đến nặng, việc chẩn đoán trầm cảm là một thách thức mà chỉ có phán đoán lâm sàng và điều trị theo kinh nghiệm mới là câu trả lời duy nhất.


Tài liệu tham khảo

  1. Friedhoff AJ. (1994) Consensus development conference statement --diagnosis and treatment of depression in late life. In: Schneider LS, Reynolds CF, Lebowitz BD, Friedhoff AJ (eds). Diagnosis and Treatment of Depression in Late Life. Washington DC: American Psychiatric Press:493-551.
  2. Small GW.( 1991) Recognition and treatment of depression in the elderly. J Clin Psychiatry;52:(suppl):S11-S22.
  3. Reifler BN.(1994) Depression: diagnosis and comorbidity. In: Schneider LS, Reynolds CF, Lebowitz BD, Friedhoff AJ (eds). Diagnosis and Treatment of Depression in Late Life. Washington DC: American Psychiatric Press:55-59.
  4. Blazer DG, ed.(1993) Diagnosis and Treatment of Depression in Late Life. St. Louis Mo: Mosby-Yearbook, Inc;.
  5. Lesse S.( 1974) Masked Depression. New York, NY: Jason Aronson.
  6. Applegate WB. (1987) Use of assessment instruments in clinical settings. J Am Geriatr Soc.;34:45-50.
  7. Ware JE. (1984) Methodologic considerations in the selection of health status assessment procedures. In: Wenger NK, Mattsan ME, Furberg CD, Elinson J, eds. Assessment of Quality of Life in Clinical Trials of Cardiovascular Therapies. New York, NY: LeJacq Publishing Inc;:87-111.
  8. Hamilton M (1960) A rating scale for depression. J Neurol Neurosurg Psychiatry.; 23:56-62.
  9. Clayton AH, Holroyd S, Sheldon-Keller A(1997) Geriatric Depression Scale vs Hamilton Rating Scale for Depression in a sample of anxiety patients. Clin Gerontologist;17:3-13.
  10. Fleiss JL. (1986)The Design and Analysis of Clinical Experiments. New York, NY: John Wiley and Sons; 208.
  11. Maier W, Philipp M.( 1985) Comparative analysis of observer depression scales. Acta Psychiatr Scand:72:239-245.
  12. Lichtenberg PA, Marcopulos BA, Steiner DA et al. (1992)Comparison of the Hamilton Depression Rating Scale and the Geriatric Depression Scale: detection of depression in dementia patients. Psychol Rep (United States).70:515-521.
  13. ZungWW.A(1965)self-rating depression scale. Arch Gen Psychiatry.12:63-70.
  14. Brink TL, Yesavage JA, Lum O, et al.( 1982) Screening tests for geriatric depression. Clin Gerontologist. 1:37-44,.
  15. Zung WWK.( 1975) The Measurement of Depression. Columbus, Ohio: Merrill;.
  16. Zung WW, Green RL.( 1973) Detection of affective disorders in the aged. In: Eisderfer C, Fann WE, eds. Psychopharmacology and Aging. New York, NY: Plenum Press;.
  17. Raft D, Spencer RF, Toomey T, et al.(1977) Depression in medical outpatients: use of the Zung scale. Dis Nerv Syst (United States).;38:999-1004.
  18. Myers JK, Weissman MM.( 1980) Use of a self-report symptom scale to detect depression in a community sample. Am J Psychiatry.:137:1081-1084.
  19. Carroll BJ, Fielding JM, Blashki TG.(1973) Depression rating scales: a critical review. Arch Gen Psychiatry.;28:361-366.
  20. Kitchell MA, Bernes RF, Veith RC, et al. (1982)Screening for depression in hospitalized geriatric medical patients. J Am Geriatr Soc.;30:174-177.
  21. Okimoto JT, Barnes RF, Veith RC, et al.( 1982) Screening for depression in geriatric medical patients. Am J Psychiatry.;139:799-802.
  22. Schrijnemaekers VJJ, Hareman MJ.(1993) Depression in frail Dutch elderly: The reliability of the Zung scale. Clin Gerontologist.;13:59-66.
  23. Kivela S, Pahkala K.( 1986) Sex and age differences of factor pattern and reliability of the Zung self-rating depression scale in a Finnish elderly population. Psychol Reports.;59:587-597.
  24. Gosker CE, Berger H, Deelman BG.(1994) Depression in independently living elderlya study with the Zung-12. Tijdschr Gerontol Geriatr (Netherlands).;24:157-162.
  25. Hulstijn EM, Deelman BG, de Graaf A, et al. (1992)The Zung-12: a questionnaire for depression in the elderly. Tijdschr Gerontol Geriatr (Netherlands).;23:85-93
  26. Montgomery SA, Asberg M. A(1979) new depression scale designed to be sensitive to change. Brit J Psychiatry.;134:382-389.
  27. Maier W, Heuser I, Philipp M, et al.( 1988) Improving depression severity assessment -- II. Content, concurrent, and external validity of three observer depression scales. J Psychiatr Res.;22:13-19.
  28. Waltis JP, Davies KN, Bunn WK, et al(1993) Correlation between Hospital Anxiety Depression (HAD) scale and other measures of anxiety and depression in geriatric inpatients. Int J Gen Psych.; 9:61-63.
  29. van Marwijk H, Hoeksema HL, Hermans J.( 1994) Prevalence of depressive symptoms and depressed disorders in primary care patients over 65 years of age. Fam Pract.;11:80-84.
  30. Yesavage JA, Brink TL, Rose TL, et al.( 1983) Development and validation of a geriatric depression screening scale: a preliminary report. J Psychiat Res. 1982-:17:37-49.
  31. Hyer L, Blount J.( 1984) Concurrent and discriminant validities of the Geriatric Depression Scale with older psychiatric inpatients. Psychol Rep.;54:611-616.
  32. Rapp SB, Parisi SA, Walsh DA, et al. Detecting depression in elderly medical inpatients. J Consult Clin Psychol. 1988;56:509-513.
  33. Koenig HG, Meader KG, Cohen HJ, et al.(1988)Self-rated depression scales and screening for major depression in the older hospitalized patient with medical illness. J Am Geriatr Soc.;36:699-706.
  34. Norris JT, Gallagher D, Wilson A, et al.( 1987) Assessment of depression in geriatric medical outpatients: the validity of two screening measures. J Am Geriatr Soc.;35:989-995.
  35. Zgourides G, Spofford M, Doppett L.( 1989) The Geriatric Depression Scale: discriminant validity and elderly day-treatment clients. Psychol Rep.;64:1082.
  36. Kafonek SD, Roca RP.( 1989) Proper scoring of the Geriatric Depression Scale (letter). J Am Geriatr Soc.;37, 819-820.
  37. Parmalee PA, Lawton MP, Katz IR.( 1989) Psychometric properties of the Geriatric Depression Scale among the institutionalized aged. Psychological Assessments.;4:331-338.
  38. Lesher EL.( 1986) Validation of the Geriatric Depression Scale among nursing home residents. Clin Gerontologist.;4:21.
  39. Hickie C, Snowdon J.( 1987) Depression scales for the elderly: GDS, Gilleard, Zung. Clin Gerontologist.;6:51.
  40. Kafonek S, Ettinger WH, Roca R, et al.(1989) Instruments for screening for depression and dementia in a long-term care facility. J Am Geriatr Soc.;37:29-34.
  41. Folsten MF, Folsten SE, McHugh PR.(1975)"Mini-mental state". A practical method for grading the cognitive state of patients for the clinician. J Psychiatr Res.;12:189-198.
  42. McGivney SA, Mulvihill M, Taylor B.(1994) Validating the GDS depression screen in the nursing home. J Am Geriatr Soc.;42:490-492.
  43. Burke WJ, Houston MJ, Boust SJ, et al.( 1989) Use of the Geriatric Depression Scale in dementia of the Alzheimer's type. J Am Geriatr Soc.;37:856-860.
  44. Burke WJ, Nitcher RL, Roccaforte WH, et al. (1992)A prospective evaluation of the Geriatric Depression Scale in an outpatient geriatric assessment center. J Am Geriatr Soc.;40:1227-1230.
  45. Izal M, Montorio I.( 1993) Adaptation of the Geriatric Depression Scale in Spain: a preliminary study. Clin Gerontologist.;13:83-91.
  46. Burke WJ, Roccaforte WH, Wengel SP, et al. (1995) The reliability and validity of the Geriatric Depression Rating Scale administered by telephone. J Am Geriatr Soc.;43:674-679.
  47. Nitcher RL, Burke WJ, Roccaforte WH, Wengel SP.( 1993) A collateral source version of the Geriatric Depression Rating Scale. Am J Geriatr Psychiatry.;1;143-152.
  48. Sheikh JI, Yesavage JA. (1986) Geriatric Depression Scale (GDS): recent evidence and development of a shorter version. In: Clinical Gerontology: A Guide to Assessment and Intervention. New York, NY: The Haworth Press;:165-173.
  49. Herrman N, Mittmann N, Silver IL, et al.( 1996) A validation study of the Geriatric Depression Scale short form. Int J Geriatr Psychiatry.;11:451-460.
  50. Lesher EL, Berryhill JS. (1994)Validation of the Geriatric Depression Scale -- Short Form among inpatients. J Clin Psychol.;50:256-260.
  51. D'Ath P, Katona P, Mullan E, et al. (1994)Screening, detection and management of depression in elderly primary care attendees I: The acceptability and performance of the 15 Item Geriatric Depression Scale (GDS15) and the development of short versions. Family Pract.;1:260-266.
  52. Scogin F.( 1987) The concurrent validity of the Geriatric Depression Scale with depressed older adults. Clin Gerontologist.; 7:23-31.
  53. MacKenzie TB, Robiner WM, Knopman DS. (1989)Differences between patient and family assessment of depression in Alzheimer's disease. Am J Psychiatry.;146;1174-1178.
  54. Logsdon RG, Teri L. (1995) Depression in Alzheimer's disease patients: Caregivers as surrogate reporters. J Am Geriatr Soc.;43;150-155.
  55. Alexopoulos GS, Abrams RC, Young RC, et al.( 1988)Cornell Scale for Depression in Dementia. Biol Psychiatry.;23;271-284.
  56. Harwood DG, Ownby RL, Barker WW, et al.( 1998)The factor structure of the Cornell Scale for Depression in Dementia among Alzheimer's disease patients. Am J Psychiatry.;6;212-220.
  57. Vida S, DesRosiers P, Corrier L, et al(1997) Depression in Alzheimer's disease: Receiving operating characteristic analysis of the Cornell Scale for Depression in Dementia and the Hamilton Depression Scale. J Ger Psychiatry Neurology 7;159-162,.
  58. Katz IR. (1998)Diagnosis and treatment of depression in patients with Alzheimer's disease and other dementias. J Clin Psychiatry.;59(suppl 9):S38-S44.
  59. Herrmann M, Bartels C, Wallesch CW.( 1993) Depression in acute and chronic aphasia: symptoms, pathoanatomical, clinical correlations and functional implication. J Neurol Neurosurg Psychiatry.;56;672-678.

VAI TRÒ CỦA THIỀN ĐỊNH TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI

VAI TRÒ CỦA THIỀN ĐỊNH 
TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


Phần 3, mục II Thông tư liên tịch 31/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày20/12/1999 đã quy định đưa TÂM NĂNG DƯỠNG SINH bao gồm THIỀN ĐỊNH và TẬP DƯỠNG SINH vào công tác giáo dục – phục hồi hành vi, nhân cách cho người cai nghiện ma túy. Tại trung tâm Thanh Đa, chúng tôi đã thực hiện chương trình này hơn 12 năm qua. Kết quả khả quanhỗ trợ bệnh nhân ổn định tâm lý. Theo yêu cầu của Cục Phòng Chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện Ma túy Thanh Đa đã biên soạn tài liệu này để đưa vào bộ giáo trình của Cục (2004).


I. THIỀN ĐỊNH LÀ GÌ?

Ngày càng có nhiều cuộc nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tinh thần đối với cơ thể, những căn bệnh do căng thẳng thần kinh và Thiền định ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong việc giúp phục hồi cũng như ngăn ngừa những căn bệnh này. Theo Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ, 80 – 90% những bệnh nhân phải đến gặp bác sĩ đều gặp những vấn đề liên quan đến sự căng thẳng – “Stress”Sự căng thẳng đó tác động đến tinh thần của chúng ta vì thế giới khoa học đã thực hiện những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn về tác động của Thiền định đối với sức khoẻ.


Thiền định càng ngày càng được thế giới công nhận là một phương thức có hiệu quả trong việc trợ giúp con người giải quyết những căng thẳng và thách thức trong cuộc sống hiện tại.


Thiền định là quá trình tự tìm hiểu mình một cách hoàn chỉnh, phần“ bên trong”của ta, “ta là ai” và “ta có phản ứng thế nào với thế giới bên ngoài”. Tóm lại, Thiền định là  “tự nhận thức mình “ theo đúng nghĩa của nó.


Theo Tiến Sĩ Nguyễn Hội, một nhà Giáo Dục Tâm lý Phật học cho rằng: Thiền là một phương cách xem xét, phát triển và trau dồi tâm lý chúng ta. Khi một người không thể hiểu mình thật sự là ai và không thể giải quyết những vấn đề tâm lý của mình, để đạt đến sự bình an và hạnh phúc ngay bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào thì người ấy nên thực hành Thiền định.


Theo tác giả Earle (1984) mục đích của Thiền là tạo nên sự vắng mặt hoàn toàn các hoạt động tâm thần, ảnh hưởng toàn diện các hoạt động vỏ não.


Một mô hình khác, cho rằng trong khi Thiền định, có một sự giảm các diễn tiến tinh thần đồng thời có hiện tượng giải phóng các cảm xúc vô thức, mà bình thường bị đè nén do nội dung bị cấm đoán hoặc gây khó chịu, kèm theo là có hiện tượng bình thản tâm trí, như vậy có sự giải mẫn cảm vi các nội dung cảm xúc bị đè nén mà bình thường có thể gây lo âu hoặc giận dữ cho cá nhân.


Theo giáo sư Jon Kabat – Zinn, thì Thiền là một phương pháp huấn luyện tâm trí phát triển sự bình an nhiều dần theo thời gian luyện tập và rồi sử dụng sự bình annày đạt đến sự sáng suốt sâu sắc vào kinh nghiệm riêng của chúng ta vào thời điểm đó. Từ sự sáng suốt này, sẽ tạo nên sự sáng suốt lớn hơn và nhiều tự do hơn để điều hành cuộc sống của chúng ta theo cách mà chúng ta cảm thấykết quả sẽ dẫn đến sựbình an và hạnh phúc nhiều nhất.


Bs.Akihisa Kondo – một nhà trị liệu nổi tiếng ở Đông kinh đã đưa ra những nguyên tắc sau đây : tất cả chúng ta bị điều kiện hoá bởi bối cảnh gia đình, giáo dục sự nuôi nấng của cha mẹ, văn hoá đất nước, kinh nghiệm cá nhân, v v … Tất cả những điều kiện này đã làm lu mờ bản chất thật của ta. Trong việc ngồi thiền một cách yên tĩnh, những vướng mắc sẽ được tẩy sạch và ta tìm lại bản ngã chân thật, bản chất con người chân thật của ta, nhân cách sâu thẳm của taĐó là lý do tại sao người thực hành thiền luôn luôn nhấn mạnh mục đích của thiền định là chính mình, đối diện với chính mình và khám phá ra bản chất chân thật của chính mình.


Theo Bs. Kondo, việc Thiền định một mình nó không đưa đến việc chữa lành chứng loạn thần kinh ( neurosis ) mà nó chỉ là một phương pháp hỗ trợ. Các nhà chuyên môn của bệnh viện đại học


Tokyo đã nghiên cứu vấn đề một cách kỹ lưỡng và đã kết luận như sau: “Sau hết chúng ta muốn bàn đến sự liên hệ giữa Thiền (Zazen) và Sức khoẻ tinh thầnThiền không thay thế được vai trò của tâm lý trị liệu y khoa, mặc dù chắc chắn nó có thể dùng như một phương pháp hỗ trợ hữu ích và Thiền có thể hỗ trợ các mục tiêu sau cùng của tâm lý trị liệu"


Tâm lý học hiện đại của Nhật bản đã theo gương của Jung trong việc khảo sát các khả năng trị liệu của Thiền. Thiền đã xâm nhập hầu hết các hình thức văn hoá Nhật, ngày nay bắt đầu xâm nhập vào lĩnh vực Tâm thần học. Ví dụ, phương pháp trị liệu của Bs. Morita bắt đầu bằng việc cách ly hoàn toàn bệnh nhân với mọi tiếp xúc để tạo nênsự yên tĩnh và trống không, đó là nền tảng của sự  lành bệnh. Bản thân ông từ chối sự liên quan giữa Thiền và phương pháp trị liệu của ông. Nhưng Bs L Takeo Doi, một chuyên gia xuất sắc về vấn đề này lại cho rằng có một sự liên hệ giữa phương pháp trị liệu Morita và Thiền.


Đặc biệt ở Nhật BảnThiền đã trở thành một nét văn hoá, xâm nhập các sinh hoạt hằng ngày như nghệ thuật uống trà (Trà Thiền), võ thuật, võ đạo, nghệ thuật bắn cung, hiệp khí đạo), ăn uống (thiền trong ăn uống Zen – Macrobotics). Thiền cũng hoà nhập vào nghệ thuật như nghệ thuật cắm hoa, thư pháp, thư họa và thi ca. Ngày naythiền đã xâm nhập các nước Châu Âu và Châu Mỹ cũng như nhiều nước trên thế giới.Càng ngày càng nhiều công trình nghiên cứu y khoa về ảnh hưởng của Thiền và sức khỏe con người.


Ở Nhật bản, từ thập kỷ 50, các nhà thần kinh học ở Viện thần kinh Tokyo đã ghi điện não đồ của các thiền sư Nhật Bản. Họ phát hiện trong trạng thái Thiền, các sóng điện năng hoạt hóa trạng thái tĩnh thức.


Gần đây ở Texas, các nhà y học cũng đã nghiên cứu sâu hơn về trạng thái thiền định, với nhiều phương tiện hiện đại hơn, điện não đồ (EEG), điện tâm đồ (ECG),điện cơ ký (EMG), đa ký.


Trong lịch sử Việt Nam, các nhà lãnh đạo nổi tiếng của thời Lý, Trần đều là thiền sư như Trần Nhân Tông, Lý Công Uẩn, gần đây có Ngô Thời Nhiệm (Thiền Trúc Lâm), đặc biệt ở Hà NộiGiáo Sư Tô Như Khuê – Trưởng bộ môn Sinh lý Học viện Quân y và một nhóm công tác viện như Bs Nguyễn Khắc Viện v v … đã tiến hành một công trình nghiên cứu về tác động của phương pháp thiền, Yoga và khí công để nâng cao khả năng trắc thủ của phi công, v v …


Đây là một công trình nghiên cứu công phu của Việt Nam nghiêm túc sử dụng các phương pháp đo lường điện trở da, điện não đồ, các thông số phổi, nồng độ O2, CO2 máu, v.v… Rất tiếc công trình này chưa được công bố rộng rãi trong giới y học Việt Nam.


Gần đây ở MỹGiáo Sư Tiến Sĩ Jon Kabat – Zinn là sáng lập viên và giám đốc Dưỡng đường giảm Stress của đại học y khoa Massachusetts. Ông đã phát triển các phương pháp Thiền để điều trị các bệnh nhân có vấn đề đau nhức kinh niên và các rối loạn tâm thể liên quan đến Stress.


Quan điểm thiền định Raja – Yoga thì cho rằng Thiền định không có nghĩa là“không nghĩ gì” hay “nghĩ về hư vô” Thiền định theo phương pháp Raja -Yoga là học cách tạo ra những suy nghĩ tích cực như sự bình an, sự quyết đoán và hạnh phúc. Những người thực hành Thiền định sẽ làm mạnh trí tuệ của họ, qua đó giúp họ phân loại một cách hiệu quả những loại suy nghĩ mà họ có và thay thế những suy nghĩ tiêucực và có hại bằng những suy nghĩ tích cực. Bởi vì những suy nghĩ của ta là những hạt giống cho những hành động của chúng ta, Thiền định sẽ giúp người tập phát triển mạnh hơn khả năng kiểm soát những lời nói, hành động và thói quen.


Đây là một chu kỳ - những ghi nhận trong tiềm thức của chúng ta hướng chúng ta theo những suy nghĩ mà chúng ta có. Một số người sử dụng ma túy bị những ký ức rất sâu về ma túy trong tiềm thức buộc họ phải tiếp tục thói quen này. Vì vậy, khi chúng ta học cách tạo ra nhiều suy nghĩ tích cực hơn và có nhiều hành động tích cực hơn thì, những ghi nhận trong tiềm thức cũng tích cực hơn và sâu sắc hơn.  Sự nghiện ngập sẽ tự dần được thay thế bằng những ghi nhận tích cực và vì thế “ sức mạnh “ của căn bệnh nghiện sẽ bị yếu đi. Qua Thiền định chúng ta có thể cảm nhận lại bản chất thật bên trong của chúng ta – đó là sự bình an và hạnh phúc – hai yếu tố mà những người cai nghiện ma túy cần được trang bị.


Raja – Yoga đã được sự ủng hộ và trở thành một công cụ trợ giúp cho việc cai nghiện – đều này không có nghĩa là Raja – Yoga sẽ thay thế cho những giờ tư vấn,tâm lý trị liệu, trị liệu theo nhóm mà người cai nghiện cần hàng ngày, nó có thể giúp họ kiêng các loại ma túy kể cả thuốc lá, rượu.


Từ những vấn đề nêu trên nên Thiền định có nhiều quan điểm khác nhau, nhiều kỹ năng khác nhau, nhiều trường phái Thiền định khác nhau.


Trong phần tài liệu này chúng tôi chỉ trình bày những cách kỹ năng Thiền định Đối với người nghiện ma túy – do những rối loạn tâm sinh lý và những tổn thương trong hệ thống não bộ, việc họ tiếp nhận những kỹ năng Thiền rất khó khăn. Do đó những kỹ năng thiền phải thiết thực và đơn giản nhất mà chúng tôi đã thực hiện tại Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện Ma Túy Thanh Đa và đã đạt được một số kết quả nhất định. Đó là phương pháp Thiền định Raja – Yoga. Trong phương pháp này chúng tôi có một số điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của Trung tâm và quan điểm của Việt Nam.


II. MỤC ĐÍCH CỦA THIỀN ĐỊNH:

Mỗi người có một mục đích khác nhau khi thiền định. Một số tìm sự bình an, số khác để kiềm chế, số khác lại tìm sự yên tĩnh, nhưng trong tất cả các lý do, lý do thể hiện rõ nhất là sự nhìn nhận chính mìnhđiều chỉnh bản thân nhằm đạt được sự thanh thảnvà tư tưởng bình an. Mới thoạt nhìn thì tưởng như là không có gì khác nhau lắm giữa hai đều đó nhưng khi nghiên cứu sâu hơn chúng ta sẽ thấy rằng đó là hai đều hoàn toàn khác nhau. Thanh thản thì chỉ đơn thuần là một sự kiện, trong khi tư tưởng bình an lại là cả một cách sống.


Vào lúc này hay lúc khácchúng ta đã từng  những thời điểm thanh thản cho dù chỉ là thoáng qua. Sự thanh thản đạt được qua thiền định bởi vì thiền định chính là để tạo ra sự thư giãn. Nhưng để có được sự tư tưởng bình an lâu dài vĩnh viễn phải luyện tập tạo thành một thói quen, một nếp nghĩ, một phản xạ về mọi nhìn nhận và hành động của ta.


Ta có thể có cảm giác bình an, trong khi ngồi Thiền, nhưng trong suốt cả cuộc sống thực tế - để  được một tâm hồn bình an đặc biệt vào những lúc khó khăn làkhông dễ.


Để đạt được kết quảviệc hướng dẫn phương pháp Thiền phải đơn giản, đồng thời suy nghĩ cách rút kinh nghiệm qua mỗi lần Thiền định.


Cần chú trọng vào các nguyên nhân đằng sau những áp lực căng thẳng trong cuộc sống, để qua đó ta biết rõ và thay đổi những nguyên nhân của áp lực này nhằmchuyển đổi từ cảm giác thanh thản sang trạng thái bình an để rồi chuyển thành tư tưởng bình an bằng Thiền định.


Thiền định (Meditation) được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, từ trầm ngâm suy tưởng đến tập trung tư tưởng. Bản thân từ này có lẽ mượn một từ trong tiếng La tinh “mederi” có nghĩa là “khôi phục”, và thiền định chắc chắn sẽ được coi là mộtquá trình khôi phục  cả về tư tưởng , tình cảm và trong một phạm vi nào đó cả về thể chất nữaĐịnh nghĩa Thiền định một cách đơn giản nhất  : dùng tư tưởng đúng đắn hay là dùng suy nghĩ tích cực và thực hiện các suy nghĩ đó một cách đúng đắn. Hầu hết các phương pháp thiền định bao gồm hai phần là cách Thiền định và suy tư trong Thiền định.


Con người là một sinh vật có tồn tại và có suy nghĩSuy nghĩ không phải là cái gì đó thực thể mà chúng ta có thể biết được bằng cảm giác. Chúng ta không thể nhìn thấy,nếm thử hay đụng chạm vào một ý nghĩ một cách lý học. Ý nghĩ không phải chỉ được làm ra bằng các sự kiện bên ngoài hay bằng hệ thống thần kinhĐó là một ý thức phi vật chất.


Bất cứ cái gì ta nói hoặc ta làm, là từ những suy nghĩ được thể hiện qua hành động bắt đầu từ khối óc.


Qua việc Thiền định, ta hiểu bản thân ta nhiều hơn qua việc ta tự hiểu mình, ta thiền tốt hơn. Nếu ta muốn tăng cường nhận thức của mình về thiền định thì việc dành thời gian hàng ngày suy nghĩ và thực hành về Thiền định là rất quan trọng. Ta mang những ý nghĩ có được do Thiền định thể hiện trực tiếp vào cuộc sống hàng ngày của ta. Đây là bước đi đầu tiên và quan trọng nhất trong việc thực hành thiền định.


Qua việc thấu hiểu và nhận ra được các bản chất thật sự của mình, ta có lòng tự tin và tự trọng, ta không còn bị xô đẩybị lôi kéo theo những tác động bởi các yếu tố khác bằng cách giữ mình luôn có ý thứcta sẽ luôn ở trong trạng thái bình an của ta.


Tất nhiên đây là điều cần có thời gian và nỗ lực thực hành, để sau này ta sẽ có thêm nhiều lợi ích từ đó.


Bình an không có nghĩa là giữ khoảng cách hay cô lập nội tâm để biến ta trở thành một người quan sát thờ ơ với cái gì đang diễn raTa làm việc với lòng nhiệt tình và yêu mến, nhưng ta không để cho những mong muốn, những gánh nặng và lo âu từ hoàn cảnh bên ngoài hay từ người khác ảnh hưởng đến ta. Bằng việc nhận thức được bản thân ta, ta biết được các bản chất tự nhiên của ta để tự điều chỉnh. Khi ta hiểu rõ bản thân có thể giúp ta củng cố lại thái độ đối với bản thân và người khác.


Chúng ta thường có thói quen so sánh bản thân chúng ta với người khác dướicái nhìn chủ quan. Điều này thỉnh thoảng dẫn ta đến cảm giác giận dữ, thất vọng, ưa phê phán và các cảm giác tiêu cực khác nhau. Khi ta hiểu và làm chủ được bản thân ta sẽ dẫn ta đến việc chấp nhận mọi phê phán, nhận thức được bản chất thực và các phẩm chất tự nhiên tích cực của ta: Cảm giác ta ổn định và tự tin, sự nghi ngờ của bản thân được thay thế bằng sự bình tâm trước mọi sự việc.


III. TÁC DỤNG CỦA THIỀN ĐỊNH TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Một chu kỳ nghiện cho thấy sự ám ảnh tồn tại ở dạng suy nghĩ , sự thôi thúc, bức bách tồn tại ở dạng hành động và kết quả là sự phá sản về mặt tinh thần. Mỗi lầnngười nghiện tạo ra những suy nghĩ ở dạng tiếc nuối như “Mình đã không sử dụng nếu như …” hay “Mình chỉ muốn dùng thêm một lần thôi” hoặc có những cách biện minh cho hành động của họ như “Mình không nghiện nặng như nó …”“Mình chỉ dùng hai lần mỗi ngày” … nghĩa là họ đang tự biện minh để sử dụng ma túy một lần nữaSau khi dùng ma túy và trải qua “cảm giác mạnh” đầu tiên, họ sẽ có những cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như sự xấu hổ hay tự ghét mình. Những cảm xúc này lại một lần nữatạo điều kiện cho họ sự ám ảnhnuối tiếc và rồi lại những lần giải thích ngụy biện để sử dụng ma túy một lần nữa và cứ như thế chu kỳ lại tiếp tục.Hậu quả xảy ra là:

  • 1/ Sức mạnh tinh thần của họ càng kiệt quệ.

  • 2/ Khả năng đối mặt và giải quyết những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày cũng giảm đi.

  • 3/ Họ ngày càng có những cảm xúc tiêu cực và vô vọng đối với chính họ vàtương lai.

  • 4/ Thái độ  tình cảm đối vi các mối quan hệ của gia đình và những người thân sút giảm.


Chu kỳ nghiện cho ta thấy người nghiện bị những suy nghĩ ám ảnh lo âu(do cơ chế bào chửa, phóng chiếu, phủ nhận, hợp lý hóa). Đây là những tâm lý phòng vệ của người nghiệnkhông chấp nhận mình nghiện ma túy là có vấn đề (phủ nhận), hợp lý hóa cho rằng mình chơi ma túy là một việc hợp lý đúng đắn …, không ảnh hưởng sức khỏe, hút ma túy làm lên tinh thần, tạo ra sự sảng khoái …


Đối tượng khi dùng ma túy để đạt cảm giác khoái cảm, thì khi tác dụng ma túy biến đi họ cảm thấy hối hận, nuối tiếc và rồi họ bào chữa để sử dụng ma túy tiếp theo và chu kỳ nghiện ngập cứ thế tiếp tục, một vòng lẩn quẩn., càng ngày người nghiện bị rơi vào tình trạng cô độc, mất việc làm, bị gia đình bỏ rơi, phạm pháp ® ở tù hoặc đưa vào trung tâm tâm thần cai nghiện, hoặc có khi bị tai nạn xe cộ hoặc dùng thuốc quá liều chết. Mặt khác, sức khỏe tinh thần của họ càng kiệt quệ, họ cảm thấy xấu hổchán nản, tuyệt vọngý định tự tử, tự căm ghétkhả năng giải quyết những vấn đề cuộc sống hằng ngày giảm đi, chất lượng các quan hệ với gia đình và bè bạn xã hội giảm sút.


Tại sao Thiền định có tác dụng cai nghiện và phục hồi? Khi chúng ta thiền định đúng phương pháp và có người hướng dẫn tốt, chúng ta (người nghiện) sẽ phát triển một tinh thần tích cực, một tâm trí bình an, các phản ứng phòng vệ sẽ tan biến dần, sự tự trọng sẽ phát triển và dần dần nhận thức rõ thêm bản thân mình tạo nên sự tự tin, thoát khỏi sự thúc bách ám ảnh của việc nghiện ngập. Về phương diện sinh lý, Thiền định tạo nên một trạng thái cảm giác sung sướng  (do tiết  endorphin nội sinh) thay thế cảm giác phê của heroin.


Một công trình nghiên cứu khoa học tại Viện Sức khỏe Tâm thần Langly, San Francisco, 10 người đã tập thiền định và được đo lường điện não và các thông số khác.Trên điện não đồ, xuất hiện rất nhiều sóng chậm delta ( bình thường chỉ xuất hiện trong giấc ngủ) điều đó chứng tỏ rằng khi thiền định tốt, thì sẽ tạo ra một trạng thái tinh thần bình an, tách rời các kích thích và ảnh hưởng của thế giới bên ngoài.


IV. THIỀN RAJA-YOGA - MỘT PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU GIÚP CAI NGHIỆN:

Trish Summerfield

Thiền định ngày càng được thế giới công nhận là một công cụ hiệu quả trong việc trợ giúp con người giải quyết những căng thẳng và thách thức trong cuộc sống hiện đại. Ngày càng có nhiều cuộc nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tinh thần đối với cơ thể và những căn bệnh do căng thẳng thần kinh và thiền định ngày càng đóng một vai trò lớn hơn trong việc giúp phục hồi cũng như ngăn ngừa những căn bệnh này.


Theo Hiệp hội Y Khoa Hoa Kỳ, 80 - 90% những bệnh nhân phải đến gặp bác sĩ đều gặp những vấn đề liên quan đến sự căng thẳng - "Stress" và như chúng ta đã biết sự căng thẳng bắt đầu từ tinh thần. Những số liệu như thế đã khuyến khích giới khoa học thực hiện những cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn về ảnh hưởng của thiền định đối với sức khỏe. Ngân hàng Thế Giới hiện nay đang tài trợ cho một chương trình nghiên cứu của chúng tôi về cách dùng thiền định Raja-Yoga để giúp ngăn ngừa và chữa bệnh tim.


Thiền định theo phương pháp Raja-Yoga cũng đóng vai trò rât hiệu quả trong quá trình cai nghiện và trong suốt 12 năm qua, chúng tôi đã hướng dẫn thiền định cho những người cai nghiện trong tù và các Trung tâm cai nghiện trên khắp thế giới.


Vai trò của Thiền định Raja-Yoga đối với quả trình cai nghiện được thể hiện một cách rõ ràng nhất qua "một kiểu nghiện". Nhiều "kiểu nghiện" khác nhau đã được nghiên cứu để hình thành những chu kỳ tâm lý của quá trình nghiện.


Một chu kỳ nghiện, cho thấy sự ám ảnh tồn tại ở dạng suy nghĩ, sự thôi thúc, bức bách tồn tại ở dạng hành động và kết quả là sự phá sản về mặt tình cảm tồn tại ở dạng cảm xúc. Mỗi lần người nghiện tạo ra những suy nghĩ ở dạng tiếc nuối như "Mình đã không sử dụng nếu như ..." hay "Mình chỉ muốn dùng thêm một lần thôi" hoặc có những cách biện minh cho hành động của họ như "Mình không nghiện nặng như nó ...", "Mình chỉ dùng hai lần mỗi ngày" ... nghĩa là họ đang tự "lên tinh thần" để sử dụng ma túy một lần nữa. Sau khi dùng ma túy và trải qua "cảm giác mạnh" đầu tiên, họ sẽ có những cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như sự xấu hổ hay tự ghét bỏ mình. Những cảm xúc này một lần nữa tạo điều kiện cho họ đến với sự ám ảnh, nuối tiếc và rồi lại những lần giải thích ngụy biện để sử dụng ma túy một lần nữa và cứ như thế chu kỳ lại tiếp tục. Một lần người bị nghiện thực hiện chu kỳ đó thì những điều sau xảy ra:


The Addiction Cycle

Chu kỳ tình trạng nghiện ngập

  • 1. Sức mạnh tinh thần của họ càng kiệt quệ.

  • 2. Khả năng đối mặt và giải quyết những vấn đề trong cuộc sống hằng ngày giảm đi.

  • 3. Họ ngày càng có những cảm xúc tiêu cực và vô vọng đối với chính họ và tương lai.

  • 4. Chất lượng của các mối quan hệ với gia đình và những người thân sút giảm.


Bằng cách thực hành thiền định Raja-Yoga mỗi ngày, những người đang cai nghiện sẽ tăng khả năng niềm vui và sức mạnh tinh thần của họ. Thiền định sẽ làm tăng khả năng giải quyết hay học lại cách giải quyết những vấn đề và những thách thức trong đời sống hằng ngày và giảm nhu cầu ma túy vốn được sử dụng như một phương tiện để thoát khỏi những rắc rối và thực tế. Những người thiền định Raja-Yoga sẽ có được những cảm xúc tích cực như sự bình an, hạnh phúc, bình tĩnh và sự thư giãn thật sự. Những cảm xúc này giúp chúng ta nâng cao chất lượng của những mối quan hệ với chính chúng ta và những người xung quanh. Raja-Yoga cũng có những bài tập mà người tập có thể sử dụng để giúp họ hàn gắn những nỗi đau trong quá khứ và những ký ức đau lòng. Những bài tập này thường mang nặng nhiều "hành lý không cần thiết" chẳng hạn như sự xấu hổ vì nghiện ngập, cảm giác tội lỗi vì những tổn hại và sự nghiện ngập đã gây ra cho chính họ và gia đình họ hay những ký ức đau lòng về quá khứ về thời thơ ấu. Quá trình hàn gắn những vết thương của quá khứ tạo cho họ có cơ hội để đối mặt với hiện tại và tương lai bằng sự lạc quan hơn và không còn tiếp tục bị ám ảnh bởi những bóng ma của quá khứ - bóng ma của những mặc cảm tội lỗi và nỗi đau.


Thiền định Raja-Yoga không có nghĩa là "không nghĩ gì" hay "nghĩ về hư vô". Thiền định theo phương pháp Raja-Yoga là học cách tạo ra trải nghiệm những suy nghĩ tích cực như sự bình an, sự quyết đoán và hạnh phúc. Những người thực hành thiền định sẽ làm mạnh trí tuệ của họ, qua đó giúp họ phân loại một cách hiệu quả những loại suy nghĩ mà họ có và thay thế những suy nghĩ tiêu cực. Bởi vì những suy nghĩ của chúng ta là những hạt giống cho những hành động của chúng ta, thiền định sẽ giúp người tập phát triển mạnh hơn khả năng kiểm soát những lời nói, hành động và thói quen. Đây là một chu kỳ - những ghi nhận trong tiềm thức của chúng ta hướng chúng ta theo suy nghĩ mà chúng ta có. Một số người sử dụng ma túy bị những ký ức rất sâu về ma túy trong tiềm thức buộc họ phải tiếp tục thói quen này. Vì vậy, khi chúng ta học cách tạo ra nhiều suy nghĩ tích cực hơn và có nhiều hành động tích cực hơn, những ghi nhận trong tiềm thức cũng tích cực hơn và ghi nhận rất sâu sắc về sự nghiện ngập sẽ từ từ được thay thế bằng những ghi nhận tích cực và vì thế "sức mạnh" của căn bệnh nghiện sẽ bị yếu đi. Qua thiền định chúng ta có thể cảm nhận lại bản chất thật bên trong mỗi chúng ta - đó là sự bình an và hạnh phúc - hai điều mà những người đang sử dụng ma túy thường nói là họ đang tìm kiếm.


Raja-Yoga đã được ủng hộ và trở thành một công cụ trợ giúp cho việc cai nghiện - điều này không có nghĩa là Raja-Yoga sẽ thay thế cho những giờ tư vấn, tâm lý trị liệu, trị liệu theo nhóm mà người cai nghiện cần hằng ngày. Nếu người cai nghiện luyện tập Raja-Yoga hàng ngày, nó có thể giúp họ kiêng các loại ma túy kể cả thuốc lá.


Judirth Pewell, một chuyên gia tư vấn về rượu và ma túy ở Sydney, úc đã hướng dẫn khách hàng của cô thiền định theo phương pháp Raja-Yoga, Judirth cho biết "Những khách hàng bắt đầu thiền định nhanh chóng nhận ra một sự thay đổi lớn trong quan điểm của họ". Động cơ "nguồn cảm hứng" để cai nghiện, sức mạnh nội tâm tăng lên đáng kể cho phần lớn khách hàng của cô, đặc biệt là đối với những người thực hành hàng ngày. Những khách hàng này hình thành những quan điểm tích cực và quyết đoán, liên hệ này tốt hơn với những cảm xúc của mình, cảm nhận một sức mạnh nội tâm. Raja-Yoga cũng cung cấp những khóa học về

  • - Suy nghĩ tích cực.

  • - Lòng tự trọng.

  • - Kỹ thuật thư giãn.

  • - Tự làm chủ bản thân.

  • - Giá trị sống.


Suy nghĩ tích cực là một khóa học dễ hiểu nhầm cung cấp cho những người tham gia những phương pháp cần thiết để "xử lý" những cảm xúc tiêu cực và phát triển những phản ứng tích cực trước thách thức và rắc rối của cuộc sống. Những người tham gia thường cảm thấy phần khởi hơn, hạnh phúc hơn và làm việc hiệu quả hơn. Khóa học này cũng giúp người học biến đổi "kiểu suy nghĩ tiêu cực" thường có ảnh hưởng không tốt đến những mối quan hệ của họ.


Khóa học về lòng tự trọng giúp người học nhận ra "mức độ tự trọng" hiện có của họ và đưa ra những phương pháp giúp họ nâng cao lòng tự trọng và tự khuyến khích bản thân. Khi mà lòng tự trọng được nâng cao thì những cảm giác "gét bỏ chính mình" hay "tự dằn vặt"  mà những người đang cai nghiện thường trải qua cũng sẽ giảm đi


Khóa học về kỹ thuật thư giãn giới thiệu những kỹ thuật đơn giản giúp người học thư giãn giới thiệu những kĩ thuật đơn giản giúp người học thư giãn là làm chủ được những suy nghĩ của mình.


Khóa học về tự chủ giúp người học hình thành một thế giới quan tích cực và xác định những mục tiêu cho tương lai của họ cũng như xác định những rào cản mà họ có thể phải đối mặt và phát triển một "kế hoạch hành động" để vượt qua chúng.


Những giá trị sống: Một chương trình giáo dục (LVEP) là một chương trình được UNICEP Tây Ban Nha tài trợ và được UNESCO hỗ trợ, hiện đang có mặt ở Việt Nam và nhà cung cấp nhiều chủ đề cho việc thảo luận nhóm cũng như quá trình tự phát triển của những người đang cai nghiện. Đây là một chương trình mang tính sáng tạo nhằm giúp họ khám phá những giá trị, sự tự phát triển và có thể tham gia với tư cách cá nhân hay cả một tập thể.


Thiền đình theo phương pháp Raja - Yoga và các khóa học trên hầu hết đều dễ học khi được một giáo viên có kinh nghiệm chỉ dẫn một cách có hệ thống và trong một môi trường tốt. Trong những giai đoạn đầu học thiền định, người tập nên nghe những đoạn thuyết giải chỉ dẫn để giúp họ tập chung tư tưởng và phải ngồi trong một môi trường yên tĩnh. Khi họ đã hình thành xong kỹ thuật thiền định, họ có thể thiền định ở bất cứ nơi nào và không cần phải có băng cassrtte.

preview


V. KẾT LUẬN:

Thiền định có những tác dụng nhất định trong việc điều trị – phục hồi cho người nghiện ma túyGiúp họ lấy lại được sự thăng bằng trong suy nghĩ, thanh thản trong tâm hồn và nhận thức rõ bản thân mình hơn.


Tuy nhiên Thiền định chỉ là một trong những liệu pháp hỗ trợ và còn phải sử dụng nhiều liệu pháp khác như tư vấn- tâm lý trị liệu – giáo dục trị liệu nhằm điều chỉnh phục hồi hành vi nhân cách cho đối tượng cai nghiện ma túy.


HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

Ngồi thoải mái trên một cái gối theo tư thế tự nhiên hoặc bán già, hoặc trên sàn nhà, hoặc thấy thoải mái ngồi trên ghế. Tìm một chỗ yên tĩnh tại nhà hay trong một phòng trang trí thanh nhã ánh sáng nhẹ, yên tĩnh.


* Trong thời gian đầu để tập làm quen cần trang bị một máy cassette, một băng, một dĩa CD với nên nhạc nhẹ và nội dung hướng dẫn thực hành sẵn.


* Trước hết bạn có thể mở một đoạn nhạc nhẹ để tạo ra một cảm giác thư giãn, sau đó là đi vào nội dung Thiền. Nội dung này có thể do một người đã có kinh nghiệm về thiền định hướng dẫn hoặc có thể dùng  một băng cassette hoặc dĩa CD  với nội dung thiền định, người thiền định thực hành theo sự chỉ dẫn trên.


* Thời gian: đối với người bắt đầu hoặc bệnh nhân cai nghiện có thể thay đổi từ 10’ đến 15’ và tăng dần theo thời gian đến 20’ hoặc 30’ hoặc nhiều hơn.


* Một kỹ thuật khác là mở mắt tập trung vào một điểm trung tâm trên một bức tranh và quán tưởng (visualization) đọc thầm trong đầu hai câu sau đây: Tôi là một tinh thần hạnh phúc, bình an, tôi là một điểm năng lượng ánh sang ngay trung tâm vầng trán của tôi.


* Trong khi thiền định, ta bắt đầu nghĩ về cái thân thể thực của ta. Sau đó ta để dần cho các ý nghĩ đi đúng hướng, không cần phải chú trọng xem các ý  nghĩ phát triển đến mức nào. Nếu như những suy nghĩ đi lạc hướng, ta nhẹ nhàng chuyển về những ý nghĩ tích cực của bản thân. Và ta bị cuốn vào những cảm nhận, những suy nghĩ như vậy dần dần ta sẽ là một tâm hồn bình an, trở thành sống động và ta bắt đầu cảm nhận thấy nó.


* Sau đây là một số nội dung gợi ý  cho thiền định: “Hãy quán tưởng không có gì tồn tại trong căn phòng này, ta cẩm thấy hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài và tự do khám phá chính ta. Ta chú ý vào bên trong, tập trung suy nghĩ vào trung tâm của vầng trán. Ta cảm thấy cảm giác tách biệt khỏi thân thể và các vật thể xung quanh ta, một cảm giác bình an tự nhiên bắt đầu cuốn lấy ta. Ta tập trung vào cảm giác này của sự bình an sâu lắng. Ta đang bình an, một ngày các bạn tập như vậy khoảng 10’, sang sớm một lần khi thức dậy và một lần trước khi đi ngủ.


Khi người tập thiền định đã đạt được nhận thức và thói quen tốt việc sử dụng phương tiện máy móc là không còn cần thiết nữa.


Chú ý: Tập Thiền định cần được hướng dẫn về kỹ năng Thiền định, các bạn có thể tham khảo – luyện tập tại:

1/.  85 Phó Đức Chính, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh

(Chị TRISH – SUMMERFIELD – giám đốc chương trình CÁC GIÁ TRỊ SỐNG của UNESCO tại Việt Nam)

Web: tttp://livingvalues.net/

Hay: http://giatricuocsong.org

2/.   Sách “Thiền định thiết thực” của MIKE – GEORGE Đại học BRAHMA KUMARIS – Bán tại nhà sách FAHASA và nhiều nhà sách khác.

3/.   Các bạn có thể tham khảo thêm tại anh Nguyễn Phú Hải (ĐT: 0903 171 704) hoặc chị Đường Ngọc Thủy (ĐT: 0919 514 317) Phòng Tư vấn - Giáo dục TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1)Practical Meditation BrahmaKumanis University
2)Recovery an inner awakening Báo cáo của chuyên viên tâm lý cai nghiện Judith Pemell Sydney (Úc) tại Hội thảo Brisbane cai nghiện 1993.
3)Meditation Commonsense Directions for an un comn life Tác giả Ekna theaswaran 1996, NXB Penguin Books India Ltd
4)The still point Reflections on Zen Tác giả William Johnston, NXB Harper & Rose Zen and Amaeru (Reflections on Zen of a jananese psy - chiatrist).
5)Thiền và võ đạo (zen and the art of archery Tác giả giáo sư Herrigel. Biên soạn Ngô Ánh Tuyết, NXB Thuận Hóa Huế 1997.
6)Chơn Thiền Le vrai Zen Tác giả Deshimaru – NXB Plon. Dịch giả Ngô Thành Nhân
7)Finding Sangha: a story of east and west culture and healing practices Tác giả Libby Zinman Schwartz Ed Doctor.
8)Healing and the Mind (Meditation) Tác giả Bill Moyers Gs Jon Kabat Zinn MD
9)Love and Survival (Meditation) Gs Dean Ornish MD
10)   The concept of personality Revealved through the pancani Kaya Tiến sĩ thượng tọa Thích Chơn Thiện, NXB TP.HCM – 1999
11)    Giáo dục Tâm lý xã hội cho người nghiện ma túy Bs Nguyễn Hữu Khánh Duy 2001. Trish Summerfield Trung tâm Điều dưỡng & CNMT Thanh Đa
12)    Võ dưỡng sinh Bs Nguyễn Khắc Viên, NXB Trẻ
13)    Texbook of substance Abuse treatment Marc Galanter MD Herbert D.Kleber MD 1999
14)    Alcoholic anonymous + Narconotic anonymous Big book Twelve Steps programme (Step 11) 2001
15)    Clinician’s guide to Substance abuse David E Smith Richard B Seymour

Mac Grawhill International edition 2001.

The importane of spirituality in meaningful Recovery learning more about addiction and spirituality.

16)    Living Values and Education program Tài liệu tổng hợp của nhiều nhà giáo dục trên toàn thế giới, được sự hỗ trợ của UNESCO và tổ chức UNICEF

TƯ VẤN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

GIỚI THIỆU VỀ TƯ VẤN

Tác giả

  • - Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc trung tâm Hợp tác nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia.

  • - Thạc sĩ Vương Thị Thu Hương, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam

  • - Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam

  • - Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam

  • - Tiến sĩ Kelvin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cấp cao, FHI Việt Nam

  • - Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam

  • - Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái


Mục tiêu bài học

  • - Nêu được định nghĩa về tư vấn

  • - Hiểu được bối cảnh của tư vấn

  • - Hiểu được những quan niệm sai lầm hiện nay về sử dụng ma túy (SDMT) và người SDMT

  • - Phân biệt được tư vấn với giáo dục sức khỏe

  • - Nêu được phẩm chất của một tư vấn viên giỏi


I. Bối cảnh tư vấn

1. Người sử dụng ma túy:

  • - Thường bị xã hội kỳ thị, phân biệt đối xử và không được cộng đồng chấp nhận.

  • - Thường bị coi như là tội phạm, là đồ bỏ đi và là mục tiêu để xã hội trút lên mọi sự giận dữ và sợ hãi.


2. Người SDMT thường lo lắng về điều gì?

  • - Bị phân biệt đối xử

  • - Tương lai

  • - Sợ người khác nói về việc họ SDMT

  • - Thiếu tiếp cận với điều trị

  • - Cho rằng tư vấn cũng chẳng thay đổi được gì

  • - Thiếu chăm sóc điều trị khi ốm đau (đặc bieeth là HIV/AIDS)


II. Những hiểu lầm về sử dụng ma túy

  • - Những người sử dụng ma túy là những người "yếu kém về đạo đức"

  • - "Nghiện là vô phương cứu chữa"

  • - "Tất cả những người SDMT đều là những người nghiện ma túy"

  • - "Tất cả những người SDMT đều là tội phạm"


III. Tư vấn là gì?

Tư vấn là một quá trình trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tự tìm hiểu về những khó khăn của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực cho khách hàng để họ có thể tự giải quyết những khó khăn đó.


IV. Mục đích của tư vấn

  • - Giúp khách hàng tự chịu trách nhiệm với cuộc đời họ, bằng cách:

  • - Phát triển khả năng ra quyết định một cách khôn ngoan và thực tế

  • - Hỗ trợ họ thay đổi hành vi để đạt được những kết quả mong muốn

  • - Cung cấp thông tin để ra quyết định chín chắn

  • - Tư vấn có thể thực hiện với từng cá nhân, tư vấn cho cặp vợ chồng, tư vấn cho nhóm hoặc tư vấn cho gia đình.


V. Tư vấn không phải là

  • - Chỉ bảo hoặc ra lệnh

  • - Một buổi nói chuyện

  • - Một buổi tra hỏi

  • - Một buổi thú tội

  • - Một buổi cầu nguyện


VI. Sự khác biệt giữa tư vấn và giáo dục sức khỏe

Tư vấn Giáo dục sức khỏe
Bảo mật Thường là không bảo mật
Thường là "một người với một người" hoặc là với một nhóm nhỏ Nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn
Phát sinh những tình cảm mạnh mẽ đối với cả khách hàng và tư vấn viên Tình cảm ở mức trung bình
Tư vấn viên chú ý lắng nghe và phản hồi Người GDVSK nói nhiều hơn
Tập trung, cụ thể và có mục tiêu Chung chung
Thông tin được dùng để thay đổi thái độ và khuyến khích thay đổi hành vi Thông tin được dùng để giáo dục và nâng cao kiến thức
Tập trung vào vấn đề Tập trung vào nội dung
Dựa trên các nhu cầu của khách hàng Dựa trên các nhu cầu của y tế công cộng
 

VII. Những phẩm chất của một tư vấn viên giỏi

  • - Có óc sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú

  • - Thực tế

  • - Tôn trọng khách hàng

  • - Chú trọng vào hành động

  • - Không áp đặt quan điểm hoặc mối quan tâm của mình lên khách hàng


VIII. Những điều cần tránh

  • - Lên mặt đạo đức

  • - Ra lệnh

  • - Đe dọa

  • - Tranh cãi

  • - Phản đối

  • - Suy diễn thái quá

  • - Đồng cảm

  • - Phán xét


IX. Tóm tắt

  • - Tư vấn giúp khách hàng tự chịu trách nhiệm với cuộc đời họ.

  • - Dịch vụ tư vấn có thể dành cho cá nhân, cặp vợ chồng hoặc cả gia đình.

  • - Một tư vấn viên giởi cần có tính sáng tạo, có trí tưởng tượng phong phú, có thuong pháp thực tế, thể hiện sự tôn trọng khách hàng, chú trọng vào hành động và không áp đặt quan điểm một cách chủ quan.

  • - Tư vấn có bản chất khác hẳn so với giáo dục sức khỏe


TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
  1. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 1
  2. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 2
  3. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 3
  4. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 4
  5. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 5
  6. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 6
  7. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 7
  8. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 8
  9. TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 9

LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

BS. Nguyễn Minh Tuấn - Viện Phó Viện Sức Khỏe Tâm Thần Quốc Gia

Đơn vị Nghiên cứu Điều trị Nghiện Ma túy


I. VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP TÂM LÝ TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN

1. Định nghĩa liệu pháp tâm lý

Định nghĩa mở rộng: Liệu pháp tâm lý bao gồm toàn bộ những liệu pháp không sử dụng các nhân tố lý hóa mà sử dụng các phương tiện và kỹ thuật tác động tâm lý.


Định nghĩa chính xác hơn (Wolberg): Liệu pháp tâm lý là một cách điều trị sử dụng các phương tiện tác động tâm lý, trong đó một nhà điều trị thiết lập mối quan hệ hành nghề với một hay nhiều bệnh nhân nhằm 3 mục tiêu:

  • (1) Làm giảm hay mất các triệu chứng hiện có.

  • (2) Làm thay đổi các tập tính không thích ứng.

  • (3) Tạo thuận lợi cho nhân các bệnh nhân phát triển hài hòa.


2. Nhu cầu về liệu pháp tâm lý của bệnh nhân nghiện heroin (liên hệ với 3 mục tiêu của Wolberg)

(1) Bệnh nhân nghiện heroin có nhiều biểu hiện tâm thần có thể điều trị có kết quả bằng liệu pháp tâm lý: lo âu, trầm cảm, mất tự tin, không tin tưởng vào gia đình, cộng đồng và thầy thuốc, thiếu động cơ chữa bệnh, từ chối chữa bệnh v.v.


(2) Nghiện heroin là một bệnh tập nhiễm hình thành theo cơ chế phản xạ có điều kiện thực thi. Tập tính này cần và có thể loại trừ bằng các kỹ thuật khử điều kiện và khử tập nhiễm.


(3) Nhân cách người nghiện thường biến đổi, không còn thích ứng với gia đình và cộng đồng nữa. Biến đổi do cơ chế hóa với các thành viên nghiện khác trong nhóm, do thoát khỏi ảnh hưởng điều hòa của gia đình và bạn tốt. Phải áp dụng các liệu pháp tâm lý thích hợp, bền bỉ mới có thể giúp nhân cách trở lại hoạt động hài hòa như trước khi nghiện


II. CÁC LIỆU PHÁP TÂM LÝ THƯỜNG ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN

Từ xưa đến nay có rất nhiều liệu pháp tâm lý ra đời dựa vào các cơ sở lý thuyết khác nhau nhiều khi mâu thuẫn với nhau. Bà phần tư đầu của thế kỷ 20 đã chứng kiến những cuộc bút chiến liên miên giữa các trường phái về liệu pháp tâm lý. Mãi đến một phần tư cuối của thế kỷ 20, trên cơ sở những kết quả lầm sàng rõ rệt đạt được của từng liệu pháp, đa số các tác giả dần dần theo quan điểm chiết trung và lồng ghép.


Nhà điều trị tâm lý hiện đại tìm hiểu và áp dụng các kỹ thuật có hiệu quả của tất cả các liệu pháp tâm lý chứ không gò bó như trước trong khuôn khổ một liệu pháp mà mình tin tưởng và gắn bó tử lâu. Và khi thực hành, nhà điều trị có thể lồng ghép nhiều liệu pháp tâm lý khác nhau cho một bệnh nhân hay một nhóm bệnh nhân chứ không cứng nhắc chỉ dùng một liệu pháp. Các liệu pháp tâm lý thưởng được lồng ghép để điều trị nghiện heroin bao gồm: liệu pháp nâng đỡ, liệu pháp gia đình, liệu pháp nhận thức, liệu pháp tập tính, liệu pháp tâm lý nhóm, liệu pháp thư giãn luyện tập ..v.v


Trước kia trong liệu pháp tâm lý nhóm nhất là trong cộng đồng điều trị, nhiều tác giả chủ trương không kết hợp với thuốc men. Nhưng hiện nay trong chống tái nghiện đa số tác giả thường kết hợp liệu pháp thay thế methadone hay liệu pháp đối kháng naltrexone. Kết quả thực tế đã minh chứng cho quan điểm này.


Trong bất kỳ liệu pháp tâm lý nào, điều quan trọng bậc nhất là thiết lập được mối quan hệ thầy thuốc - bệnh nhân tốt từ đó bệnh nhân sẽ tự nguyện bộc lộ nội tâm và tuân thủ những chỉ dẫn chủa thầy thuốc. Thứ đến là áp dụng liệu pháp nâng đỡ (trấn an, giải thích, hướng dẫn, khuyến khích, lắng nghe v.v) rồi cuối cùng mới áp dụng các liệu pháp tâm lý đặc hiệu.


Sau đây xin lần lượt trình bày các liệu pháp gia đình, liệu pháp nhận thức tập tính và cộng đồng điều trin là những liệu pháp đặc hiệu được quan tâm hàng đầu trong điều trị nghiện heroin ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.


III. LIỆU PHÁP GIA ĐÌNH

Liệu pháp gia đình cũng như các liệu pháp nhận thức - tập tính, liệu pháp tâm lý nhóm là những lĩnh vực chuyên sâu cần được đào tạo lâu dài về lý thuyết và thực hành mới có thể đem lại kết quả tối đa. Trong hoàn cảnh nước ta, thầy thước chuyên sâu về liệu pháp tâm lý đang còn ít nên ở đây chỉ đề cập đến các nguyên tắc điều trị chuyên sâu và giới thiệu qua các liệu pháp thông thường và giản đơn cho các thầy thuốc không chuyên sâu. Trong liệu pháp gia đình cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Đối với nghiện ma túy, có 2 cách tiếp cận được quan tâm nhiều nhất:

  • - Tiếp cận theo mô hình gia đình hệ thống

  • - Tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh


1. Cách tiếp cận theo mô hình gia đình hệ thống

  • - Gia đình xem như một hệ thống, mỗi thành viên trong gia đình tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ theo quy luật của một hệ thống.


  • - Gia đình là một nhân tố thúc đầy quá trình nghiện ma túy. Nghiện ma túy thường xuất hiện vào những thời điểm gia đình có vấn đề gây tress (ly dị, ly thân, xung đột, kiện cáo, tai nạn v.v).


  • - Đối tượng nghiện ma túy tác động trở lại các thành viên trong gia đình, gây các rối loạn về chức năng, ranh giới, trật tự v.v... đặc biệt làm mất cân bằng trong sự hằng định nội môi của gia đình.


  • - Như vậy liệu pháp gia đình nhằm điều trị gia đình như một hệ thống chứ không riêng thành viên nghiện ma túy, phải cùng các thành viên tìm các nhân tố chủ yếu gây mất cân bằng nội môi và tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng này.


2. Cách tiếp cận theo mô hình gia đình bị bệnh

Cách tiếp cận này xem nghiện ma túy là một bệnh và tác động qua lại lâu ngày giữa các thành viên nghiện và các thành viên khác sẽ gây ra nhiều biến đổi về tập tính, về thái độ ứng xử, về nhận thức v.v... mang tính chất bệnh lý (bệnh lý tâm thần là chủ yếu) cho những thành viên khác trong gia đình.


Các hiện tượng có tính bệnh lý thường gặp:

  • + Hiện tượng từ chối: Các thành biên trong gia đình không thừa nhận tính chất tai hại của nghiện ma túy (vợ bảo vệ cho chồng, mẹ bảo vệ cho con).

  • + Hiện tượng dung túng: Các thành viên tạo điều kiện thuận lợi cho thành viên nghiện tiếp tục sử dungh heroin (cho tiền, tránh kiểm tra những việc làm ngoài gia đình của đối tượng, xin cho đối tượng khỏi đến các trung tâm điều trị bắt buộc v.v). Dung túng và từ chối có liên quan chặt chẽ với nhau.

  • + Hiện tượng cùng lệ thuộc: Thường là vợ hay mẹ của đối tượng có hiện tượng này. Thành viên gai đình có hiện tượng cùng lệ thuộc chăm lo quá mức cho đối tượng nghiện, tổ chức cuộc sống của mình xoay quanh đối tượng, lơ là đối với thành viên khác và cả đối với bản thân.


Tất cả những hiện tượng nói trên là những trở ngại lớn cho quyết tâm từ bỏ heroin của thành viên nghiện.


3. Các nguyên tắc điều trị chuyên sâu

Liệu pháp gia đình là một loại liệu pháp tâm lý rất khó thực hiện vì phải tiếp xúc riêng với từng thành viên và họp chung với toàn gia đình, phải biết cách làm cho tất cả đều tự nguyện hợp tác, không bỏ cuộc.


Do vậy, nhà điều trị tâm lý:

  • - Phải biết thu thập thông tin chi tiết từ bệnh nhân và các thành viên gia đình để cấu trúc lại một cách đầy đủ và chính xác trạng thái bệnh lý của bệnh nhân cũng như của các thành viên khác. Từ đó mới đề ra được chiến lược điều trị có hiệu quả.


  • - Phải phát hiện những nhân tố làm mất cân bằng nội môi xuất hiện trước và sau khi một thành viên bị nghiện.


  • - Phải khám phá các hiện tượng từ chối, dung túng hay cùng lệ thuộc của các thành viên và đề ra các việ pháp khắc phục (thí dụ: biện pháp tách rời ảnh hưởng giữa thành viên nghiện và thành viên cùng lệ thuộc).


  • - Phải dần dần đưa thành viên nghiện và các thành viên khác đến chỗ thống nhất thực hiện hợp đồng dài hạn "từ bỏ heroin và chống tái nghiện" với các biện pháp cụ thể và khả thi.


Muốn đạt được các nguyên tắc hay mục tiêu nêu ra ở trên nhà điều trị tâm lý phái sử dụng nhiều phương pháp và kỹ năng tâm lý (không có điều kiện mô tả ở đây).


4. Các biện pháp không chuyên sâu

Các biện pháp này không thực hiện riêng lẻ mà thường kết hợp với liệu pháp methadone hay naltrexone để đạt được kết quả cao. Có thể do thầy thuốc không chuyên khoa tâm thần thực hiện.


a. Trong điều trị ngoại trú tại cộng đồng, đối với mỗi bệnh nhân nghiện heroin, yêu cầu phải có một thành viên gia đình đi kèm.


b. Thành viên gia đình đến mấy lần trong tuần và mỗi lần trong thời gian bao lâu sẽ được quy định thông qua bàn bạc giữa thầy thuốc và thành viên gia đình.


c. Trường hợp đặc biệt trong gia đình có thành viên xung đột sâu sắc với bệnh nhân gây trở ngại cho tiến trình điều trị thì thầy thuốc sẽ dành thì giờ gặp thêm thành viên này.


d. Bệnh nhân và thành viên gia đình phải được thầy thuốc giải thích đầy đủ về:

  • - Tác hại của nghiện heroin.

  • - Nhu cầu cấp thiết phải sớm được điều trị và điều trị lâu dài.

  • - Các điều kiện cần thiết để có thể bỏ hẳn heroin.

  • - Các bước trong kết hoạch điều trị.

  • - Những điều mà bệnh nhân và thành viên gia đình nhất thiết phải tuân thủ thực hiện.


​đ. Sau kho được giả thích, bệnh nhân và thành viên gia đình phải có đơn tự nguyện xin điều trị và tự nuyện chấp hành nội quy điều trị của Trung tâm.


e. Thành viên gia đình và bệnh nhân được thông báo về các hình thức khen thưởng khi bệnh nhân thực hiện tốt nội quy điều trị và xử phạt khi không thực hiện. Gia đình có phần đóng góp trong các hình thức khen thưởng và xử phạt này.


g. Thành viên gia đình phải thường xuyên thông báo với thầy thuốc về các hành vi không bình thường của bệnh nhân tại gia đình và tại cộng đồng nhất là hành vi sử dụng lại heroin.


h. Thầy thuốc giải thích cho thành viên gia đình về hiện tượng "từ chối", "dung túng", "cùng lệ thuộc" cũng như các rối loạn trong gia đình (mất tôn ti trật tự, thành viên không thực hiện những chức năng của mình, trở ngại và bế tắc trong tiếp xúc giữa các thành vien v.v) và yêu cầu phát hiện và thông báo đầy đủ các hiện tượng và rối loạn trên.


i. Thầy thuốc cùng thành viên gia đình bàn bạc về kế hoạch giải quyết dần dần từng bước các hiện tượng và rối loạn trên bằng những biện pháp phù hợp với các điều kiện cụ thể của gia đình.


IV. LIỆU PHÁP NHẬN THỨC TẬP TÍNH

Lúc đầu liệu pháp tập tính và liệu pháp nhận thức là hai liệu pháp tâm lý riêng biệt, do những tác giả khác nhau khởi xướng, mỗi liệu pháp được xây dựng trên cơ sở lý thuyết riêng.


Về sau quá trình thực hành trong nhiều thập kỷ, đa số tác giả nhận thấy hai liệu pháp này có tác dụng bổ sung cho nhau và có thể kết hợp chặt chẽ với nhau nên lồng ghép vào nhau và đặt tên chung là liệu pháp nhận thức - tập tính.


1. Liệu pháp tập tính đối với nghiện heroin

Các nhà điều trị tập tính xem nghiện ma túy như là một tập tính lệch lạc hình thành trên cơ sở tập nhiễm trong môi trường xã hội, theo cơ chế phản xạ có điều kiện đáp ứng của Pavlov và phản xạ có điều kiện thực thi của Skinner. Đã là hành vi tập nhiễm thì nghiện ma túy có thể loại trừ băng các kỹ thuật khử điều kiện và khử tập nhiễm.


Từ đó nhiều kỹ thuật tập tính đã được áp dụng có kết quả trong điều trị nghiện heroin ở nhiều nước trên thế giới.


Tuy nhiên một nhược điểm của liệu pháp tập tính là qua chú trọng vào biểu hiện bề mặt của tập tính lệch lạc và không quan tâm đúng mức đến nhân tố chiều sâu là nguồn gốc nhận thức của rối loạn tập tính. Chính vì thế mà nó cần được liệu pháp nhận thức bổ sung.


2. Liệu pháp nhận thức đối với người nghiện heroin

Các nhà điều trị nhận thức cho rằng mọi tập tính (hay hành vi) đều có mối liên quan mật thiết với quá trình nhận thức. Từ nhận thức sinh ra cảm xúc và từ cảm xúc phát sinh hành vi (hay tập tính). Một ví dụ: một bà nội trợ đang từ nhà đi ra chợ bỗng thấy mây đen kéo trời sinh ra ý nghĩ "trời sắp mưa to" (nhận thức) rồi cảm thấy lo lằng về quần áo đang phơi ở nhà (cảm xúc) và chạy vội về nhà (hành vi).


Tập tính sử dụng heroin cũng như những hành vi lệch lạc trong quá trình điều trị (từ chối, chống đối, bỏ cuộc, sử dụng lại heroin v.v...) cũng thường phát tính từ những nhận thức lệch lạc rất đa dạng


Có những ý nghĩ lệch lạc dễ nhận dạng:

  • - Ý nghĩ lệch lạc tiêm nhiễm qua tiếp xúc với những đối tượng nghiện cùng nhóm.

  • - Ý nghĩ lệch lạc do các quá trình tư duy không đúng như: suy luận độc đoán, khái quát hóa quá rộng. trừu tượng hóa chọn lọc, phóng đại hay thu nhỏ quá mức, liên hệ vào mình vô căn cứ v.v...


Có những ý nghĩ lệch lạc khó nhận dạng nên xem như là tự phát (hay tự động). Thực ra chúng thường xuất hiện có liên quan đến những hoàn cảnh có sang chấn tâm lý nặng nề (xung đột trong gia đình, thái độ xúc phạm của cộng đồng v.v).


Phát hiện những ý nghĩ lệch lạc nói trên, đặc biệt những ý nghĩ lệch lạc tự phát, là mục tiêu chủ yếu của liệu pháp nhận thức.


Còn sửa chữa những hành vi sai trái xuất hiện từ những ý nghĩ lệch lạc thì phải sử dụng cả những kỹ thuật nhận thức lẫn những kỹ thuật tập tính. Đó cũng là lý do cần sát nhập hai liệu pháp này.


3. Các kỹ thuật nhận thức và tập tính chuyên sâu

a. Các kỹ thuật nhận thức

  • - Hướng dẫn bệnh nhân phân tích cái hại khi sử dụng heroin.

  • - Xác định và hướng dẫn bệnh nhân quy kết trách nhiệm nghiện heroin vào bản thân.

  • - Hướng dẫn bệnh nhân ghi lại hoạt động tư duy hàng ngày, chú trộng đến các ý nghĩ tự phát.

  • - Hướng dẫn bệnh nhân tưởng tượng những hình ảnh có liên quan đến sử dụng heroin và thay thế dần bằng những hình ảnh tích cực, lạc quan, dễ chịu.


b. Các kỹ thuật tập tính

  • - Phương pháp gây ghét sợ heroin (dùng kích thích điện hay apomorphine).

  • - Giải cảm ứng có hệ thống (đối với cảm giác nhớ và thèm heroin).

  • - Huấn luyện thư giãn luyện tập (của Viện Sức khỏe Tâm thần) nhằm giải lo âu và giải thèm heroin.

  • - Liệt kê và giám sát hoạt động hằng ngày có dính líu đến heroin.

  • - Thử nghiệm các ý tưởng lệch lạc (mà bệnh nhân tin là đúng) về sử dụng heroin.

  • - Lập lại tập tính (hay đóng vai diễn) nhằm loại trừ dân tập tính lệch lạc và hình thành những phương thức ứng xử có hiệu quả.

  • - Giao làm bài tập ở nhà có nhiều mức độ (thí dụ: các tìm những người bạn mới thay cho bạn nghiện cũ).

  • - Huấn luyện cách giải quyết những vấn đề khó xử.

  • - Áp dụng kỹ thuật tăng cường (hay củng cố) dương tính (thí dụ: khen thưởng) và tăng cường âm tính (thí dụ: phê bình, xử phạt).

  • - Huấn luyện phương pháp khẳng định bản thân (nhằm ứng phó với sự lôi kéo của bạn nghiện trong nhóm).


4. Các phương pháp tâm lý không chuyên sâu

a. Các biện pháp nhận thức

  • - Áp dụng phương pháp giải thích hợp lý thông dụng và đơn giản nhằm chỉnh lý những nhận thức lệch lạc và bổ sung những nhận thức đúng cho bệnh nhân nghiện heroin

  • - Giải thích phải hợp lý và có nghĩa là nội dung giải thích phải phù hopwk với các đặc điểm bệnh lý, đặc điểm nhân cách và trình độ tiếp thu của bệnh nhân.

  • - Tùy trường hợp có thể giải thích riêng cho một bệnh nhân hay giải thích cho cả nhóm trong buổi sinh hoạt chung.

  • - Nội dung giải thích có thể đề cập đến những vấn đề như:

  • + Tác hại nhiều mặt của nghiện heroin.

  • + Có thể từ bỏ hẳn heroin và những điều kiện để từ bỏ hẳn.

  • + Những nguyên nhân thường gây trở ngại cho việc  từ bỏ hẳn heroin.

  • + Vai trò quyết định của bản thân bệnh nhân trong quá trình từ bỏ heroin (ý muốn từ bỏ, quyết tâm từ bỏ và kiên trì từ bỏ).

  • + Những ý tưởng lệch lạc (mà bệnh nhân tin là đúng) có liên quan đến nghiện heroin và điều trị nghiện heroin.


b. Các biện pháp tập tính

  • - Áp dụng liệu pháp thư giãn luyện tập (có thể tham gia tập luyện tại Viện Sức khỏe Tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai).

  • - Giao cho bệnh nhân thực hiện bài tập ở nhà (thí dụ: tập các giai đoạn tìm bạn mới dể thay thế bạn nghiện cũ, tập các trả lời trước sự lôi kéo của bạn nghiện cũ).

  • - Áp dụng phương pháp tăng cường dương tính (thí dụ: khen thưởng trong sinh hoạt nhóm) và tăng cường âm tính (thí dụ: phê bình hay xử phạt trong sinh hoạt nhóm) nhất là đối với những người sử dụng lại heroin.

  • - Thảo luận nhóm về cách giải quyết những khó khăn có liên quan đến nghiện heroin.


V. PHƯƠNG PHÁP CỘNG ĐỒNG ĐIỀU TRỊ

Phương pháp (hay chương trình) cộng đồng điều trị được phân loại vào nhóm tự giúp nhau (self - help group) chứ không xếp vào nhóm liệu pháp tâm lý đích thực và đặc hiệu vì vai trò chủ yếu ở đây là các bệnh nhân tự tác động qua lại với nhau còn thầy thuốc không có vai trò gì hoặc chỉ có vai trò tư vấn ẩn. Chương trình cộng đồng điều trị đầu tiên do Deiderich khởi xướng vào cuối năm 1954.


1. Cơ sở lý thuyết của phương pháp

  • - Bệnh nhân nghiện ma túy được xem như là những nhân cách chưa trưởng thành và có tập tính xâm phạm.

  • - Do đó cần được đưa vào một tổ chức có cấu trức và hoạt động chặt chẽ nhằm động viên khía cạnh tích cực của nhân cách để biến đổi tập tính tai hại (sử dụng chất ma túy).


2. Chỉ định điều trị chính

Những bệnh nhân nghiện ma túy mà nhân cách còn có khía cạnh tích cực, đã được điều trị bằng các phương pháp khác nhưng không có kết quả.


3. Mục tiêu điều trị

  • - Rèn luyện nhân cách và biến đổi nếp sống/

  • - Đề cao tinh thần trách nhiêm đối với cộng đồng.

  • - Khai thác và tằng cường các khía cạnh hướng thiện của bệnh nhân.

  • - Xây dụng dần và củng cố quyết tâm từ bỏ chất ma túy.


4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động

  • - Bệnh nhân tự nguyện xin vào sống trong cộng đồng từ 6 đến 18 tháng.

  • - Điều khiển chương trình là những bệnh nhân cũ đã điều trị thành công tại cộng đồng điều trị này và tự nguyện ở lại phục vụ.


5. Sinh hoạt và hoạt động

  • - Các thành viên của cộng đồng điều trị phải tham gia các dịch vụ phục vụ đời sống của cộng đồng.

  • - Còn phải tham gia các hoạt động phục hồi chức năng tâm lý xã hội và các sinh hoạt nhóm trong cộng đồng.


6. Nội dung sinh hoạt nhóm

- Sinh hoạt nhóm mang tính chất đối đầu: phân tích và phê phán những tập tính và thái độ sai trái của các thành viên trong cộng đồng.

- Đối đầu nhưng vẫn phải đáp ứng các yêu cầu sau:

  • + Thông cảm với hoàn cảnh của nhau.

  • + Biểu hiện tình cảm thân thiết như những người trong cùng một gia đình.

  • + Luôn tôn trọng nhân cách và tự do cá nhân của các thành viên khác.

  • + Bảo đảm sinh hoạt vật chất đầy đủ.


- Nghiêm cấm

  • + Dùng lại chất ma túy.

  • + Gây gổ hay xâm phạm thành viên khác.

  • + Nếu bi phạm sẽ phải chịu kỷ luật do tập thể bỏ phiếu (từ phê bình đến loại trừ ra khỏi cộng đồng).


- Các thành viên tự điều khiển chương trình, không có vai trog của thầy thuốc. Nếu có, chỉ là vai trò tư vấn ẩn phía sau.

- Không sử dụng các liệu pháp sinh học.


7. Kết quả điều trị của phương pháp này trong thời kỳ đầu

    - 90 ngày đầu: 50% bỏ cuộc.

    - 6 tháng đầu: 70% bỏ cuộc.

    - 12 tháng đầu: 90% bỏ cuộc.


8. Các cải tiến gần đây

    - Chính phủ nhiều nước áp dụng chính sách mền dẻo đối với các đối tượng vi phạm pháp luật nhẹ: nếu đến điều trị tại các cộng đồng điều trị khỏi bị giam; nếu điều trị khỏi thì được trở về nhà không phải chịu án hình sự.


    - Nhiều cộng đồng điều trị không áp dụng phương thức đối đầu cứng rắn nhất là đối với thanh thiếu niên.


    - Do vậy, hiện nay chương trình cộng đồng điều trị vẫn tồn tại ở nhiều nước, số người xin vào ngày càng tăng, số người bỏ cuộc ngày càng giảm.


    - Ở nước ta, phương thức điều trị bắt buộc tại cái trung tâm Lao động thương binh và xã hội có một số điểm gần gũi với chương trình cộng đồng điều trị, có thể nghiên cứu mô hình này nhằm cải tiến tổ chức và phương pháp điều trị để kết quả đặt được cao hơn.


VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC CÓ TÁC ĐỘNG TÂM LÝ

Thông tư liên bộ Y tế Lao động thương binh xã hội còn đề cập đến một số phương pháp sau đây cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các bệnh nhân nghiện heroin cần được tham khảo áp dụng:

    - Liệu pháp tâm lý tập thể (giáo dục phục hồi hành vi, nhân cách).

    - Liệu pháp tâm lý nhóm (trao đổi tâm tư thắc mắc giúp nhau sửa chữa sai lầm).

    - Liệu pháp tâm lý cá nhân (hoạt động tư vấn cho từng bệnh nhân).

    - Chính phủ nhiều nước áp dụng chính sách mền dẻo đối với các đối tượng vi phạm pháp luật nhẹ: nếu đến điều trị tại các cộng đồng điều trị thì khỏi bị giam; nếu điều trị khỏi thì được trở về nhà không phải chịu án hình sự.

    - Nhiều cộng đồng điều trị không áp dụng phương thức đối đầu cứng rắn nhất là đối với thanh thiếu niên.

    - Do vậy, hiện nay chương trình cộng đồng điều trị vẫn tồn tại ở nhiều nước, số người xin vào ngày càng tăng, số người bỏ cuộc ngày càng giảm.

    - Ở nước ta, phương thức điều trị bắt buộc tại các trung tâm Lao động thương binh và xã hội có một số điểm gần gũi với chương trình cộng đồng điều trị, có thể nghiên cứu mô hình này nhằm cải tiến tổ chức và phương pháp điều trị để kết quả đạt được cao hơn.


VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ KHÁC CÓ TÁC ĐỘNG TÂM LÝ

Thông tư liên bộ Y tế Lao động thương binh xã hội còn đề cập đến một số phương pháp sau đây cũng có ảnh hưởng đến trạng thái tâm lý các bệnh nhân nghiện heroin cần được tham khảo áp dụng:

    - Liệu pháp tâm lý tập thể (giáo dục phục hồi hành vi, nhân cách).

    - Liệu pháp tâm lý nhóm (trao đổi tâm tư thắc mắc giúp nhau sửa chữa sai lầm).

    - Liệu pháp tâm lý cá nhân (hoạt động tư vấn cho từng bệnh nhân).

    - Liệu pháp lao động, dạy nghề, tạo việc làm.

    - Tổ chức thể thao thể dục, vui chơi giải trí.


VAI TRÒ TƯ VẤN – TÂM LÝ TRỊ LIỆU – QUẢN LÝ CA TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI

VAI TRÒ TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU – QUẢN LÝ CA TRONG CAI NGHIỆN - PHỤC HỒI

(Trung tâm Điều dưỡng & Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn)


A. VAI TRÒ CÔNG TÁC TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ TRONG CAI NGHIỆN – PHỤC HỒI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Việc phòng chữa bệnh nghiện ma túy điều trị phục hồi cho đối tượng cai nghiện liên quan đến nhiều chuyên ngành . Việc sử dụng ma túy đã phát sinh những biểu hiện bệnh lý nặng nề, khó khăn trong việc điều trị, trong đó cần sự can thiệp điều chỉnh nhân cách hành vi của đối tượng nghiện ma túy và chống tái nghiện, tìm hiểu nguyên nhân và can thiệp sớm.


I. PHÒNG BỆNH:

1. SỰ CAN THIỆP CỦA TẬP THỂ VÀ GIA ĐÌNH:

Có ảnh hưởng ngăn chặn việc đối tượng sử dụng ma túy, tuy nhiên sự đam mê và tính phức tạp của các vấn đề thường dẫn sự can thiệp đến thất bại , nếu sự can thiệp quá đơn giản hoặc quá chậm. Các nỗ lực phòng bệnhtrước hết là ưu tiên cho việc giáo dục , thuyết phụcSử dụng các báo chí hiện nay vẫn là phương tiện chính mặc dù những phương pháp này vẫn có những mặt hạn chế nhất định.


2. CÁC PHƯƠNG TIỆN BÁO CHÍ 

Có quá ít trong khi các tác động trực tiếp và gián tiếp của ma túy đối với một số đối tượng lại khá mãnh liệt. Bên cạnh đó các khẩu hiệu tuyên truyền hay giáo điều, thậm chí có mặt thô thiển trong việc giáo dục. Các cách giải quyết như trên có khi lại gây hậu quả trái ngược.


Đa số các chương trình giáo dục phòng bệnh qua các phương tiện thông tin thiếu thường xuyên và liên tục cho thấy hiệu quả không tốt . Không những các chương trình này không giới hạn được việc tăng sử dụng ma túy mà có thể còn có tác động thúc đẩy bằng cách làm tăng việc thực nghiệm ma túy.


Một nghiên cứu được thực hiện trên 935 thanh niên học sinh đã cho thấy những người được theo một chương trình giáo dục phòng ngừa ma túy không chuẩn bị đầy đủ sẽ tăng kiến thức của họ về ma túy , nhưng đồng thời cũng làm tăng việc sử dụng rựơu, marijuana và LSD của họ ( Stuart, 1974 ).


Nguyên nhânsự việc này có thể gắn với sự tăng trí tò mò, với các kiến thức thu được về việc sử dụng ma túy, nhất là đối với thanh thiếu niên ở trạng thái chống đối.


3. MỘT TIẾP CẬN KIÊN TRÌ 

Yêu cầu sự tham gia tích cực sáng tạo của thanh thiếu niên trái lại có thể đạt được  những kết quả hơn các phương pháp truyền thống về thông tin và giáo dục phòng bệnh.


Vì những lý do trên, việc thực hiện các chương trình cần đầy đủ và công phuMục đích các chương trình này nhằm làm tăng lòng tự trọng và huy động sự phát triển bản thân hay đưa thanh niên tham gia các hoạt động có tổ chức, phát triển các năng lực của xã hội và bản thân đặc biệt là cac kỹ năng đặc hiệu để chống lại có hiệu quả các ảnh hưởng xấu của bạn bè.


Nhiều nghiên cứu khác nhau đã cho thấy phương pháp này có hiệu quả trong việc đề phòng nghiện ma túy khi được áp dụng ở cuối tuổi trẻ em và đầu tuổi thanh niên theo (Bagnall, 1990; Botvin và ctv, 1990; Johnson và ctv, 1990).


Việc giảng dạy các nhận thức và hành vi nhằm củng cố lòng tự tin, chống lại các áp lực của việc lôi kéo của bạn bè, làm chủ trạng thái lo sợ giao tiếp một cách có hiệu quả hơnphát triển một mối quan hệ giữa người với người và xác định các quyền của họ kết hợp với các phương pháp như thao diễn, kiến tập, các trò chơi sắm vai và các nhiệm vụ phải thực hiện trong đời sống xã hội ; Chương trình được thực hiện do những người hướng dẫn trong một ê – kíp. Nhóm hướng dẫn này phải được đào tạo về nhận thức – trình độ nghiệp vụ. Trong trường hợp, trên 3684 thanh niên đã được giáo dục chỉ mới 60% chương trình, đã thấy một hiệu quả phòng bệnh có ý nghĩa sau ba năm đối với thuốc lá và ma túy.


Johnson và ctv. (1990) đã bổ sung công trình của nhóm ở môi trường học đường bằng các trò chơi sắm vai trong gia đình và huấn luyện bố mẹ về các kỹ xảo giao tiếp với thanh thiếu niên. Nghiên cứu theo chiều dọc của các tác giả này cho thấy hiệu quả phòng bệnh đối với thuốc lá và ma túy.


II. ĐIỀU TRỊ – PHỤC HỒI:

Điều trị nghiện ma túy là một sự tổng hợp của nhiều liệu pháp : liệu pháp sinh học, liệu pháp tâm lý (cá nhân, gia đình, nhóm). Tư vấn (cá nhân – gia đình – nhóm) và các liệu pháp y – xã hội. Thiếu sự nghiên cứu đánh giá việc tổng hợp liệu pháp khác nhau làm cho việc điều trị cai nghiện ma túy mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa.

Thiếu một phương thức chiến lược cho việc điều trị dẫn đến việc đối tượng nghiện ma túy chán nản trong điều trị, thiếu quyết tâm và nghị lực – bỏ điều trị nửa chừng.

Cần phải phân biệt TƯ VẤN không phải là ĐIỀU TRỊ TÂM LÝ: (Liệu pháp Tâm lý)


1. TƯ VẤN: Là một tiến trình tương tác, một cuộc đối thoại giữa đối tượng, gia đình với nhân viên điều trị để nhằm mục tiêu :

+  Thấu hiểu tình trạng của đối tượngvà gia đình, cảm xúc, nhận thức, hành vi.

Qua đó thúc đẩy thành công người nghiện và gia đình tham gia việc điều trị.

TƯ VẤN giúp ta nhận thức được thực tại, nhấn mạnh vào yếu tố bình thường, từ đó sự trợ giúp phục hồi và giúp cho họ tự tìm ra con đường họ phải đi. Với định nghĩa như vậy, bất kể là ai có quan tâm đến người nghiện, thì đều làm tư vấn được.


2. ĐIỀU TRỊ TÂM LÝ nhấn mạnh vào việc mất chức năng, chú trọng vào việc phân tích để mưu sự tái thiết. Điều trị tâm lý thì giúp đỡ bệnh nhân đi tới con đường đã được định hướng trước từ những phân tích sâu xa mà có.

Nhân viên điều trị không nên nhầm lẫn Tư vấn Tâm lý với việc Điều trị Tâm lý để cho rằng mình không phải chuyên gia về tâm thầntừ chối tương tác với người nghiện.

Không có tư vấn, không bao giờ nhân viên điều trị có thể hiểu được đối tượng và giúp đỡ họ được.


SO SÁNH TƯ VẤN VÀ LIỆU PHÁP TÂM LÝ :

TƯ VẤN LIỆU PHÁP TÂM LÝ
- Tính trực tiếp - Không trực tiếp
- Tính giáo dục - Gợi mở tư duy
Hỗ trợ - Tính cấu trúc lại – Tìm kiếm sự lập lại các hành vi
- Tình hình và sự phát triển - Tác động mạnh về tâm lý
- Giải quyết các vấn đề - Phân tích
Nêu ra những vấn đề về mặt nhận thức Suy ngẫm về những hành vi đã qua
Nhấn mạnh vào cái gì được coi là hành vi tốt và chưa tốt Hướng vào vấn đề tồn tại về mặt tình cảm

III. KỸ NĂNG TƯ VẤN CÁ NHÂN – GIA ĐÌNH - NHÓM:

1. ĐỊNH NGHĨA:

Tư vấn là một quá trình giúp đỡ một cá nhân, gia đình hoặc nhóm người giải quyết những khó khăn của họ. Hoạt động tư vấn không chỉ nhằm giúp đỡ đối tượng giải quyết vấn đề hiện tại của họ mà còn tăng cường khả năng đối phó của các đối tượng với các vấn đề trong tương lai.


2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN:

  • - Lấy đối tượng làm trung tâm.

  •  - Tiếp cận đối tượng về mặt sinh học – tâm lý – xã hội.

  • - Tập trung tới các vấn đề hiện tại của đối tượng và gia đình: Có giới hạn thời gian.


3. MỤC TIÊU CỦA TƯ VẤN :

  • - Giúp đối tượng giảm bớt những xúc cảm tiêu cực trong hoàn cảnh khó khăn.

  • - Giúp đối tượng tăng thêm hiểu biết về bản thân họ và hoàn cảnh của họ.

  • - Giúp đối tượng khôi phục lại hoặc nâng cao khả năng của họ.

  • - Khuyến khíchhọ có các phương pháp đối phó hữu hiệu cho tương lai.


4. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TRONG TƯ VẤN:

4.1 TIN TƯỞNG VÀO KHẢ NĂNG CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Mỗi một cá nhân đều có khả năng giải quyết các vấn đề của riêng mình. Đối tượng sẽ có thể giải quyết các khó khăn của họ một cách hữu hiệu hơn nếu họ nhận được sự khích lệ sự trợ giúp của Tư vấn viên.


4.2 KHÔNG PHÁN XÉT:

Mỗi một cá nhân là cá thể riêng biệt và khác với cá nhân khác. Mỗi người có một hệ thống giá trịniềm tinvà kinh nghiệm của riêng mình. Tư vấn viên nên tìm hiểu nét cá biệt của từng đối tượng và không nên áp đặt hệ thống giá trị của mình lên đối tượng.


4.3 TÔN TRỌNG ĐỐI TƯỢNG:

Người tư vấn phải tôn trọng mọi đối tượng như một cá nhân với lòng tự trọng và giá trị vốn có của riêng họ. Đối tượng phải được tôn trọng, dù cho các niềm tin và giá trị của họ không được chấp nhậnNgay cả khi đó là một phần nguyên nhân gây ra vấn đề là do họ gây nên. Chúng ta nên giúp đối tượng hiểu tác động của nhận thức đã ảnh hưởng như thế nào tới họ.


4.4 TRAO QUYỀN CHO ĐỐI TƯỢNG:

Người tư vấn không làm thay cho đối tượng nhưng phải hỗ trợ để họ tăng cường khả năng hành động của chính mình như: dạy cho họ kỹ năng giải quyết vấn đề, trợ giúp và khuyến khích đối tượng cố gắng giải quyết vấn đề của họ.


4.5 SỰ TỰ QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Người tư vấn nên tránh đưa ra lời khuyên mang tính áp đặt quyết định vào đối tượng. Tuy nhiên, nếu đối tượng bị loạn tâm, muốn tự tử, giết người, hoặc quá trầm nhược (nên không thể đưa ra các quyết định cho bản thân họ), thì người tư vấn phải đóng một vai trò tích cực và tham gia trực tiếp.


4.6 ĐẢM BẢO TÍNH BÍ MẬT:

Bất cứ điều gì đã đem ra thảo luận giữa người tư vấn và đối tượng trong suốt thời gian tư vấn đều không nên chia sẻ với người khác nếu không có sự đồng ý của đối tượngTư vấn viên có thể chỉ chia sẻ thông tin nếu tình hình nguy hiểm có thể đe doạ bản thân, đối tượng hoặc những người khác và sự chia sẻ thông tin đó có ích cho đối tượng.


5. CÁC BƯỚC HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TÁC TƯ VẤN:

5.1 TIẾP XÚC BAN ĐẦU:

Lần tiếp xúc ban đầugiữa tư vấn viên và đối tượng, nhóm hoặc gia đình là thời điểm quan trọng nhằm thiết lập một bầu không khí tin tưởng và hiểu biết lẫn nhauBuổi tiếp xúc ban đầu thường có tính chất quyết định để có buổi tiếp theo hay không.


Sau đây là một số phương pháp để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với đối tượng trong lần tiếp xúc ban đầu :

  • - Thiết lập một bầu không khí cho đối tượng có được sự tin tưởng, tự tin. Giới thiệu bản thântên – vị trí công tác – mục đích cuộc gặp gỡ và bản thân như một người chuyên môn có sự hiểu biết, có học thức và khả năng giúp đỡ người khác để tạo sự yên tâm tin tưởng của đối tượng.

  • - Không được chỉ trích mà nên tôn trọng đối tượng tạo bầu không khí thân thiện cởi mở.

  • - Nhận thức được những giới hạn cá nhân (trí tuệ và tình cảm) của đối tượng.

  • - Bình tĩnh, kiên trì kể cả với những đối tượng kiêu ngạo và không hợp tác.

  • - Theo dõi người đối thoại qua âm của giọng nói, biểu hiện của nét mặt, điệu bộ và cách dùng từ.


Một số phương pháp để đối tượng tin tưởng vào sự quan tâm và hiểu biết của người tư vấn:

  • - Để đối tượng bộc lộ về các vấn đề liên quan đến họ, họ sẽ cảm thấy dễ chịu hơn vì có người đang quan tâm.

  • - Lắng nghe một cách chăm chú cẩn thận.

  • - Hỏi đối tượng một cách bình tĩnh – rõ ràng – tình cảm.

  • - Hiểu và đánh giá đúngnhững cảm xúc của đối tượng.


Một số cách thức dưới đây giúp đối tượng nhận thức được vấn đề của bản thân:

  • - Bàn bạc về nguyên nhân của vấn đề mà đối tượng đang quan tâm.

  • - Thảo luận và khám phá cùng đối tượng về hành vi và tác động tiêu cực, ảnh hưởng của chúng tới đối tượng.

  • - So sánh tình trạng của đối tượng trước đây với thời điểm có vấn đề.


5.2 ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ:

Mục đích người tư vấn thu thập thông tin là để tìm ra thực chất của vấn đề và giúp đối tượng hiểu tình huống và vấn đề của họ. Người tư vấn tìm hiểu vấn đề một cách chính xác thông qua việc phân tích như sau :

  • - Vấn đề trước mắt là gì ?

  • - Mức độ nghiêm trọng của vấn đề?

  • - Vấn đề đã tồn tại bao lâu?

  • - Vấn đề đã xảy ra như thế nàoNguyên nhân của vấn đề là gì?

  • - Vấn đề đã được giải quyết như thế nào? đối tượng đã cố gắng giải quyết vấn đề như thế nào? đối tượng có tìm kiếm sự giúp đỡ của ai khác không?

  • - Đối tượng cảm thấy vấn đề như thế nào? Có hành động để giải quyết vấn đề không? Có nghĩ hoặc cảm thấy vấn đề được giải quyết khôngThụ động hay tích cực trong đối phó với vấn đề?


5.3 XÁC ĐỊNH GIẢI PHÁP VÀ SỰ LỰA CHỌN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

Khi đã xác định được và hiểu biết rõ ràng nguyên nhân của vấn đề, người tư vấn nên giúp đối tượng tìm kiếm các giải pháp khả thi để giải quyết các vấn đề đó. Một số nguyên tắc dùng để xác định các giải pháp cho đối tượng:

  • - Không nên đưa ra các giải pháp thay cho đối tượng, mà nên động viên và chỉ dẫn họ tự đưa ra những giải pháp khác nhau.

  • - Nếu đối tượng không thể tự đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề của họ thì người tư vấn có thể gợi ý để họ lựa chọn.

  • - Giúp đối tượng tìm hiểu những nguồn hỗ trợ và những giới hạn bằng việc cung cấp cho họ những thông tin hữu ích.

  • - Không nên phủ nhận bất cứ một quan điểm hay sự lựa chọn nào mà đối tượng đã đưa ra mà chỉ giúp đối tượng thấy và hiểu được mọi thuận lợi và không thuận lợi của mỗi một sự lựa chọn.


5.4 LỰA CHỌN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG:

Tư vấn viên không nên lựa chọn thay cho đối tượng hoặc không nên khuyên đối tượng chọn phương pháp nào.


Người tư vấn nên tôn trọng quyết định của đối tượng mặc dù tư vấn viên tin rằng sự lựa chọn khác là cách hành động tốt hơn.


Từ những nhận thức trên, đối tượng cảm nhận về sự quan tâm của người tư vấn tới các quyết định của họ và tin tưởng rằng quyết định của họ sẽ được hỗ trợ.


5.5 CHIẾN LƯỢC TIẾN HÀNH:

Khi đối tượng quyết định cách thức hành động thì chúng ta nên hỗ trợ, chỉ định cho họ trong quá trình tiến hành các cách thức lựa chọn. Sau đây là một số gợi ý giúp đối tượng tiến hành các biện pháp:

  • - Mục đích của mỗi một giải pháp phải rõ ràng.

  • - Các nhiệm vụ phải mang tính thực tế khả thi. Nếu những việc làm vượt quá khả năng của đối tượng thì dễ dẫn đến sự thất bại. Nếu những nhiệm vụ đưa ra thực tế và khả thi sẽ tạo lòng tự tin và thúc đẩy việc hoàn thành công việc.

  • - Đối tượng cần hiểu rõ những công việc gì, trách nhiệm và nhiệm vụ sẽ được hoàn thành như thế nào?

  • - Người tư vấn cần tránh làm hộ các công việc mà đối tượng có thể làm được, vì nếu làm thay cho đối tượng thì sẽ làm cho họ trở nên lệ thuộc.


5.6.  ĐÁNH GIÁ VÀ TỔNG KẾT:

Sau mỗi một hành động hoặc sau các sự lựa chọn, người tư vấn và đối tượng nên thảo luận và tổng kếtĐánh giá là hoạt động quan trọng để xác định chiến lược mới nếu có nhu cầu thay đổi, và để giúp đối tượng cảm nhận về tình huống của họ sau khi họ đã thực hiện các hoạt động. Sau khi kết thúc, theo dõi trong một thời gianlà cần thiết để đảm bảo rằng đối tượng làm việc tốt.


IV. TRỊ LIỆU TÂM LÝ CÁ NHÂN - GIA ĐÌNH - NHÓM:

1. TRỊ LIỆU TÂM LÝ CÁ NHÂN:

Phương pháp tâm lý liệu pháp phân tâm thường được đề nghị sử dụng đối với đối tượng nghiện ma túy. Các xung đột về lệ thuộc hoạt hoá nhanh trong quan hệ bệnh nhân với thầy thuốc.


Các biểu hiện rối loạn tâm sinh lý đe doạ cắt đứt việc chữa bệnh khi thầy thuốc điều trị bàng quan và thiếu thông cảm có thể nghĩ rằng đối tượng có thể đe doạ ảnh hưởng chung quanh.


Điều chỉnh mối quan hệ để thích ứng với các thái độ trái ngược và hai chiều của đối tượng không đủ. Đối tượng thường : Biểu hiện trực tiếp hay gián tiếp các cảm nghĩ thù nghịch do đó mục tiêu là xác định, thảo luận làm rõ kế hoạch đối phó nhằm giáo dục ngăn chặn khi có biểu hiện chống đối.


Thanh thiếu niên cần một mối quan hệ nhưng các em thường hay phát sinh những cơn giận dữ – Người điều trị không được ghét bỏ nhưng cũng không đầu hàng mà trái lại phải tạm giải quyết rồi nghiên cứu phân tích một cách kỹ lưỡng chi tiết để có biện pháp giải quyết thích hợp.


Những căng thẳng ở đối tượng thường được trút vào các hành độngvà do đó cần được nghiên cứu và giải thích và đối xử một cách phù hợp với hành động phát sinh do cảm xúc đó.


Một số các hành động của thanh thiếu niên có thể bắt buộc người điều trị tự mình phải hành động. Thường khó tránh được việc đặt ra ranh giới cho các hành vi đã xử sự của đối tượng, đặc biệt khi các ranh giới đó đặt nó vào một tình thế nguy hiểm. Một số vấn đề cần được thảo luận và giải quyết:

  • + Nếu người điều trị bắt ngừng dùng ma túy và phải điều trị thì đối tượng có thể nghĩ rằng mục tiêu của thầy thuốc điều trị là cưỡng bức, kiểm tra đối tượng.

  • Nếu trái lại vấn đề đó không đặt ra, thì đối tượng có thể nghĩ rằng người điều trị không quan tâm đến đối tượng và không thể hi vọng một thay đổi nào.

  • + Sự tạo lập các ranh giới có vai trò cố gắng và khôi phục một khoảng tâm trí bên trong có thể dễ dàng tạo dựng các xung đột chuyển di ( Jeammet, 1987 ) mà nó có thể hoạt hoá một số mặt.


Tiếp cận nhận thức đề ra những phương pháp có ích để đề cập và làm biến đổi các tư duy loạn chức năng liên quanđến ma túy, quan niệm về bản thân và các mối quan hệ. Những vấn đề trên góp phần vào một quá trình trị liệu thuộc cảm hứng phân tích trội.


Được sử dụng đơn độc, các phương tiện này có thể cho phép thu được các thích ứng hời hợt với các mong đợi của thầy điều trị, tạo điều kiện tốt cho việc tổ chức cái mà Winnicott đã gọi là cái tôi giả (Faux – self )


2. TRỊ LIỆU TÂM LÝ GIA ĐÌNH:

  • - Liệu pháp gia đình giúp cha mẹ biết cách giáo dục và theo dõi con cái một cách hiệu quả. Nhiều bậc cha mẹ do không biết cách giáo dục đã đẩy con cái thêm vào con đường nghiện ngập, do bất mãn, do nuông chiều nhiều lý do khác.

  • -  Cần giúp đỡ gia đình biện pháp giáo dục tuỳ thuộc từng đối tượng , tuỳ thuộc từng hoàn cảnh nhất là đối với những gia đình có vấn đề phức tạp giữa cha mẹ cần làm cho cha mẹ xích lại gần nhau bằng cách giúp họ xác định những trách nhiệm và hậu quả đối với con cái để họ hợp tác thực hiện các mục đích đề ra. Khi các hành vi của người nghiện khả quan hơn thì cácxung đột giữa cặp cha mẹ lại có thể cải thiện diễn biến tốt hơn.

  • -  Tiếp cận hành vimục đích nhằm cải thiện sự quan hệ trong gia đìnhcải thiện các vấn đề giữa các thành viên trong gia đình và mặc nhiên tạo một số nguyên tắc ứng xử giữa đối tượng và cha mẹ, cùng thân nhân của đối tượng cai nghiện ma túy.

  • -  Tiếp cận phân tâm giới hạn nói chung ở chỗ cố gắng ngăn ngừa đối tượng khỏi bị ảnh hưởng của xung đột gia đình để có thể đạt tới trị liệu cá nhân. Các khó khăn khi làm giảm các xung đột trong các mối quan hệ luôn đòi hỏi việc kết hợp sự cải thiện các mối quan hệ trong gia đình và các phương thức trị liệu cá nhân.


3. TRỊ LIỆU TÂM LÝ NHÓM:

  • - Các nhóm bạn bè đối tượng và các nhóm cha mẹ phải được hướng dẫn để hiểu biết nguyên nhân và hậu quả các hành vi nghiện ma túy, các khó khăn về tâm lý và các vấn đề liên quan giữa các nhân với những người chung quanh việc nâng đỡ của nhóm làm giảm các thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm của đối tượng.


  • -  Trị liệu nhóm sử dụng các biện pháp đấu tranh trực tiếp chống các tư tưởng, các hành vi nghiện ngập, chống lại sự nài xin sử dụng chất ma túy. Ngoài ra, còn giúp đỡ đối tượng nâng cao kỹ năng xã hội tạo quan hệ, sự giao tiếp giải quyết các vấn đề giữa con người và con người .


4. CHIẾN LƯỢC TRỊ LIỆU:

  • - Các nghiên cứu so sánh và các theo dõi tình trạng điều trị kéo dài (rất ít) nênkhông biết rõ hiệu quả tương đối hiệu quả dài hạn của các phương pháp trị liệu.


  • - Việc điều trị chứng nghiện ma túy cần thiết phải kết hợp nhiều loại can thiệp khác nhau, kể cả trị liệu cá nhân và tại cộng đồng.


  • - Các tác động xã hội, nhằm đấu tranh chống các hành vi nghiện ma túy tiếp tục sử dụng ma túy.


  • -  Trị liệu gia đình thường không đủ nhưng phương pháp trị liệu này cần thiết phải giải phóng thanh thiếu niên khỏi các xung đột gia đình, để cho phép đối tượng chấp nhận một trị liệu cá nhân.


  • -  Điều trị cá nhân đối tượng phải được thông báo về sự diễn biến của gia đình. Việc điều trị và theo dõi gồm một nhóm điều trị gồm nhiều ngành: y tế – giáo dục – xã hội – quản lý – dạy nghề thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau trong đócần đặt nặng phương thức trị liệu nhóm.


  • -  Việc điều trị – phục hồi cần một thời gian tương đối dài do tính chất bệnh lý phức tạp. Đối tượng cần sự điều trị của nhiều người với nhiều chức năng khác nhau nên dễ bị tình trạng phân cắt. Do đó, cần phải có sự thống nhất trong cùng một nhóm điều trị và có chiến lược điều trị cho từng đối tượng cai nghiện ma túy.


B. TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ CÁ NHÂN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

I. MỤC ĐÍCH

Giúp cá nhân giải quyết  một số vấn đề khó khăn nhất thời về cảm xúc, tâm lý (tư vấn khủng hoảng). Hình thức này có thể dành cho bất kỳ học viên nào có vấn đề khó khăn trong thời gian đang điều trị tại Trung TâmThời gian và mục tiêu có giới hạn và được định hướng theo vấn đề.


Giúp cá nhân học viên tự hiểu mình, tự đánh giá và tự thực hiện tiến trình thay đổi hành vi - nhận thức, hướng tới tái thích nghi với hoàn cảnh sống của bản thân mình. Hình thức này dành cho những học viên có những khó khăn mang tính chất kéo dài: mâu thuẫn gia đình, trở ngại trong việc học, việc làm, tình cảm cá nhân ….  Thời gian và mục tiêu có định hướng dài hạn.


Giúp học viên có kiến thức hiểu biết về những tác hại của ma túy, quá trình hồi phụccác yếu tố bảo vệ cũng như những yếu tố nguy cơ dẫn đến tái nghiệnNội dung này luôn được lồng ghép vào trong nội dung tư vấn cá nhân cho mọi đối tượng tham gia tư vấn.


Trị liệu tâm lý hỗ trợ cho các đối tượng có các rối loạn tâm lýnhư lo âu, trầm cảm, ám ảnh … (Có kết hợp hội chẩn với bộ phận y tế của Trung Tâm để chỉ định dùng thuốc khi thật sự cần thiết).

Tư vấn cá nhân cũng có thể được thực hiện như bước đầu chuẩn bị cho học viên tham gia vào tư vấn nhóm. Tư vấn cá nhânlà một  tiến trình tương tác, một cuộc đối thoại giữa người nghiện ma túy với nhân viên điều trị để nhằm mục tiêu:

  • - Thấu hiểu tình trạng của người nghiệncảm giác, nhận thức, hành vi.

  • - Qua đó thúc đẩy thành công người nghiệntham gia việc điều trị.

  • - Với định nghĩa như vậy, bất kể là ai có quan tâm đến người nghiệnthì điều làm tư vấn cá nhân được.


II. NHỮNG KHÓ KHĂN THƯỜNG GẶP PHẢI KHI LÀM TƯ VẤN CÁ NHÂN:

Trong giai đoạn đầu của điều trị, tư vấn cá nhân rất khó khăn vì những hiện tượng rối loạn tâm lý của bệnh nhân thông thường như sau:

  • - Nhớ ma túy vô cùng.

  • - Trong lòng muốn bỏ điều trị.

  • - Nhớ nhà, buồn chán, cô đơn.

  • - Bị giam lỏng trong Trung Tâm, không có tự do như trước.

  • - Khó khăn trong việc chung sống tập thể. Trước đây thế giới của bệnh nhân là ma túy, bây giờ không còn ma túy, bắt đầu giao tiếp với người khác bước đầu không quen.


Một khó khăn luôn xảy ra trongsuốt quá trình điều trị phục hồi do bởi điều kiện của người nghiện, ví dụ:

  • - Động cơ điều trị là do xã hội hay gia đình bắt buộc.

  • - Nhận thức sai lầm, lệch lạctrên nhiều khía cạnh.

  • - Khả năng giao tiếp kém.

  • - Khả năng diễn tả vấn đề của mình kém.

  • - Thiếu lòng tin, sống co rút  và luôn luôn đề phòng người khác.

  • - Thiếu thành thật, nói dối quanh co

  • - Không tự trọng.


Vượt qua được tất cả những khó khăn trên, thúc đẩy được một người nghiện tự nguyện tham gia điều trị là thành công của nhà tư vấn tâm lý.


III. NHỮNG KỸ NĂNG TƯ VẤN CÁ NHÂN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Tư vấn cá nhân là điều ai cũng có thể làm với người nghiệntừ người đơn giãn với những lời nói mộc mạc, đến người tinh tế nhạy bén trong nhận thức. Nhưng để tư vấn thành công, tức là thúc đẩy được quá trình điều trị, tư vấn cũng cần một số điều kiện:

1. QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU LÀ LẤY ĐƯỢC LÒNG TIN CỦA NGƯỜI NGHIỆN:

Thời gian dài sử dụng ma túy làm cho đối tượng bất cần đời, không tin ai. Nếu như được họ tin cậy, nhân viên tư vấn đã đi được hơn nửa đường công việc. Cách lấy lòng tin của ta gồm:

  • - Đồng cảm với họ: hãy đặt mình vào vị trí hoàn cảnh người nghiện, từ đó mới cảm nhận đau đớn họ đang chịu đựng.

  • - Biết lắng nghe họ nóiđể từ đó tìm ra những điểm trọng yếu trong vấn đề phức tạp của họ. Nếutư vấn nói nhiều hơn bệnh nhân, có nghĩa là ông ta không còn cơ may hiểu biết.

  • - Tích cực quan tâm đến vui buồn của họ, hãy để cho họ cảm nhận rằng: nhân viên điều trị rất lo âu về họquan tâm đến cuộc đời họ.

  • - Thiết lập một quan hệ tốt với bệnh nhân và giúp họ ngay khi có thể giúp đỡ được.


2. NẮM VỮNG TÂM SINH LÝ của họ để biết được thời điểm họ thay đổi nhận thức. Đây là điều khó khăn nếu nhân viên điều trị không gần gũi và thân thiết người nghiện nghe họ bộc bạch,tâm sự.


3. BIẾT CÁCH LỢI DỤNG NGHỊCH CẢNH CỦA HỌ VÀ NỘI QUI CHẶT CHẼ trong Trung Tâm để hướng bệnh nhân cộng tác với điều trị.

Nếu một bệnh nhân thực sự chưa muốn thoát ra khỏi ma túy, người tư vấn nên gợi cho bệnh nhân rằng: họ sẽ tiếp tục nghiện thì sẽ được gì?


4. NHẬN BIẾT ĐƯỢC NHỮNG ĐIỂM MẠNH, NHỮNG SỞ TRƯỜNG của người nghiện để nhắc nhở họ rằng: họ vẫn là người đầy đủ khả năng sống và làm việc như một người bình thường không có ma túy.


5. BIẾT LẮNG NGHE những ý kiến phản hồi của người nghiện về cách thức tiếp cận vấn đề của mình.


6. TẠO RA CHO NGƯỜI NGHIỆN NHỮNG THỬ THÁCH từ nhỏ đến lớn để tăng dần chí phấn đấu và lòng tự trọng của họ.


7. BIẾT CÁCH CỔ VŨ, KHÍCH LỆ bệnh nhân khi họ làm tốt, chia sẻ an ủi khi họ có cố gắng mà vẫn chưa làm tốt được.


8. SAU CÙNGNẾU NGƯỜI NGHIỆN KHÔNG THỂ CHUYỂN ĐỔI HÀNH VI của họ được, hoặc CHUYỂN ĐỔI THÀNH CÔNG, nhà tư vấn phải hiểu tại sao.Chuyển đổi là một quá trình khoa học nhiều cơ sở để dự đoán trước.


IV. TRỊ LIỆU TÂM LÝ CÁ NHÂN CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Phương pháp tâm lý liệu pháp phân tâm thường được đề nghị sử dụng đối với đối tượng nghiện ma túy. Các xung đột về lệ thuộc hoạt hóa nhanh  trong quan hệ bệnh nhân với thầy thuốc.


Các biểu hiện rối loạn tâm sinh lý đe dọa cắt đứt việc chữa bệnh khi thầy thuốc đang điều trị bàng quan và thiếu thông cảm có thể nghĩ rằng đối tượng có thể đe dọa ảnh hưởng chung quanh.


Điều chỉnh mối quan hệ để thích ứng với các thái độ trái ngược và hai chiều của đối tượng không  đủ.


Đối tượngthường: Biểu hiện trực tiếp  haygián tiếp các cảm nghĩ thù nghịch do đó các mục tiêu là việc xác định thảo luận làm rõ kế hoạch đối phó nhằm giáo dục ngăn chặn khi có biểi hiện chống đối.


C. TƯ VẤN VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ CHO GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

I. MỤC ĐÍCH:

Giúp các thành viên khác nhau trong gia đình của học viên hiểu rõ những vấn đề liên qua đến ma túy, tác hại của ma túy, quy trình cai nghiện – phục hồi, nội quy và hoạt động của Trung Tâm. Hình thức có thể áp dụng: tư vấn cho gia đình từng học viên hoặc tư vấn nhóm gia đình (của nhiều học viên).


Giúp gia đình tiếp nhận học viên trở vềsau quá trình điều trị tại Trung tâm: Biện pháp ngăn ngừa sử dụng ma túy: các yếu tố bảo vệ, các yếu tố nguy cơ , kỹ năng hỗ trợ người nghiện chống nguy cơ tái nghiện và giúp họ từng bước tái hoà nhập cộng đồng.


Tư vấn gia đình khi cần giải quyết các vấn đề mâu thuẫn, xung đột giữa các thành viên (thông thường cần có sự tham gia của người nghiện và các thành viên liên quan ).


II. TƯ VẤN CHO GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Gia đình đóng vai quan trọng trong sự quyết định hay đề phòng việc sử dụng ma túy: việc sử dụng ma túy của cha mẹ, tâm bệnh lý của cha mẹ, các mối quan hệ vợ chồng, các mối quan hệ cha mẹ con cái là những yếu tố phụ thuộc lẫn nhauRối loạn các yếu tố này, có thể ảnh hưởng tới toàn bộ các yếu tố khác.


Việc dùng ma túy của thanh thiếu niên cũng có thể là thái độ phản ứng lại mối quan hệ hay tâm bệnh lý của cha mẹ đối tượng không đồng ý. Do đó vấn đề tư vấn cho gia đình người nghiện ma túy là một vấn đề khó khăn và đề nghịngười tư vấn cần phải làm rõ.


1. GIA ĐÌNH CÓ NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY:

Không ít trường hợp có gia đình hơn hai người sử dụng hoặc buôn bán ma túy cùng lúc. Đây là một vấn đề rất khó khăn cho công tác điều trị khi rời trung tâm về. Khả năng tái nghiện hầu như chắc chắn.


Trong gia đình nếu có hơn 2 anh chị em nghiện ma túy mà chỉ có một người chịu cai nghiện thì việcphục hồi rất khó khăn. Trong trường hợp này phải :

  • -  Xem xét hoàn cảnh gia đình đối tượng cùng những ảnh hưởng của nó tới cơ hội phục hồi của đối tượng.

  • -  Động viên tất cả những thành viên trong gia đình,nhất là những người có nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của đối tượng.

  • -  Phải tính đến một môi trường khác, nếu trở về gia đình việc chống tái nghiện bị đe doạ.


2. CHA MẸ SỬ DỤNG MA TÚY:  

Khi cha mẹ một hoặc hai sử dụng ma túy – việc cai nghiện của đối tượng vô cùng khó khăn : hai nhân tố bảo vệ đã mất mộthoặc cả hai. Cha mẹ nghiện thì không thể giúp đỡ về tình cảm cũng nhưđạo đức cho con mình.. Trong trường hợp này phải :

  • - Nói rõ với cha mẹ, nếu muốn con cái họ từ bỏ được ma túy, trước tiên họ phải cai nghiện.

  • - Nếu không thể tạo ra được một môi trường gia đình tốt cho đối tượng, thì khi về cần nghĩ đến việc để đối tượng cai nghiện sống với những người thân khác.


Các nghiên cứu về các chất ma túy của Needle và ctv ( 1988 ) thấy các bà mẹ (chứ không phải các ông cha) sử dụng ma túy thì con cái thường dùng chất ma túy nhiều hơn các thanh thiếu niên có mẹ không dùng ma tuý.


Các yếu tố khác có thể tăng nguy cơ dùng ma túy ở con cái các người nghiện rượu và nghiện ma túy: do bị ngược đãi, bạo hành, bị bỏ rơi.


Ở New York năm 1987, 64% số trẻ em bị ngược đãi và bỏ rơi liên quan đến lạm dụng ma túy hay rượu ( Chasnoff, 1988 ). Khi có vấn đề, cả gia đình ở trong tình trạng mất thăng bằng, sinh hoạt gia đình bị rối loạn.


3. HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH QUÁ KHÓ KHĂN VỀ KINH TẾ:

Người nghiện ma túy thuộc thành phần nghèo khó thường cha mẹ ít quan tâm đến việc điều trị cho con cái. Họ giao phó tất cả cho Nhà Nước, hoặc các Trung tâm cai nghiện dễ dàng bỏ điều trị ngay khi con cái họ có yêu cầu.


Trong trường hợp này cần giải thích với gia đình người nghiện về những tác hại và lợi ích của việc cai nghiện nhằm mục đích lôi kéo sự tham gia của gia đình vào việc điều trị.  Gia đình phải được thừơng xuyên thông báo tiến trình điều trị của đối tượng nhằm kích thích sự quan tâm của gia đình đối với con cái.


Nếu có điều kiện kêu gọi sự hỗ trợ của xã hội giúp đỡ họ bằng những biện pháp cụ thể, để họ có thể tiếp tục thực hiện những yêu cầu điều trị.


4. THÁI ĐỘ CHA MẸ ĐỐI VỚI CON CÁI NGHIỆN MA TÚY:

Một số gia đình khi biết con cái nghiện ma túy cócảm giác bất lực, xấu hổ, thất bại, thiếu bổn phận và rất ngại để lộ vấn đề này ra ngoài gia đìnhVì những suy nghĩ này – cha mẹ không có hành động thích hợp bằng cách chỉ  cho con cái họ điều trị tại gia đình, mời thầy thuốc về nhà cai nghiện thay vì đến các trung tâm cai nghiện.


Trong truờng hợp này, công tác tư vấn giúp đỡ cho các bậc cha mẹ hiểu rõ tác hại và hậu quả của việc sử dụng ma túy nếu để tình trạng nghiện ngập con em họ kéo dài sẽ càng thêm tác hại và càng làm gia đình họ thêm tan nát.


5. TÂM BỆNH LÝ CỦA CHA MẸ:

Các đối tượng nào có cha hay mẹ mắc một bệnh tâm trí thường có khuynh hướng sử dụng ma tuý nhiều hơn người khác ( Choquet và ctv., 1990 ). Trường hợp cha mẹ bị trầm nhược thì con cái có nguy cơ dễ sử dụng các chất ma túy.


6. SỰ ĐỔ VỠ CỦA GIA ĐÌNH:

Sự phân ly gia đình do chết, ly thân hay ly dị là một nhân tố nguy cơ của lạm dụng ma túy ở thanh thiếu niên.


Một số đối tượng đã nghiện ma túy vì những tổn thương tình cảm phát sinh từ gia đình, do đỗ vỡ của cha mẹ. Việc cha mẹ chia tay thường đi kèm với những bất hoà, xích mích.


Một trong những hậu quả của gia  đình tan vỡ là sự buông lỏng kỷ luật trong gia đình, khiến cho trẻ em vượt ra ngoài quản lý của cha mẹ.


Có những trường hợp đối tượng đã sử dụng ma túy như một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc hôn nhân của cha mẹ bằng cách nghiện để buộc cha mẹ thôi bất hoà mà quan tâm đến đối tượng hơn.


Anh hưởng của việc gia đình tan vỡ đối với vấn đề lạm dụng ma túy của đối tượng cần phải được giải quyết trong quá trình điều trị. Nhân viên tư vấn cố gắng giúp đối tượng chấp nhận vấn đề và phải trang bị cho đối tượng những tư tưởng ổn định khi rời trung tâm về sống với một trong hai người.


Việc sử dụng ma túy gấp 2 lần nhiều hơn trong các gia đình bị tan vỡ (Leselbaum và ctv, 1984). Các gia đình bị tan vỡ có số người sử dụng ma túy nhiều hơn so các người gia đình có hạnh phúc.


7. GIA ĐÌNH KHÔNG HOÀ THUẬN:


Sự bất hoà của cha mẹ liên quan đến việc dùng ma túy ở tuổi thanh thiếu niên. Nadier và ctv (1981) thấy có sự quan hệ không tốt giữa cha mẹ ngày càng làm tăng tần suất sử dụng ma túyCha Mẹ cãi nhau thường xuyên sẽ khiến con cái sử dụng ma túy hơn.


Một người nghiện ma túy thường gây nên những đổ nát trong gia đình. Sau bao năm cố gắng chung sống và chịu đựng với người nghiện, gia đình luôn luôn sống trong tình trạng bất hoà, xáo trộn nhiều mặt.


Nếu gia đình trước đó đã gặp nhiều khó khăn, tình trạng nghiện của đối tượng làm cho gia đình càng trở nên tồi tệ hơn.


Một gia đình bất hoà sẽ khó lòng nhất trí với trung tâm về biện pháp cai nghiện cho đối tượng. Các thành viên quan trọng trong gia đình này thườngcó những quyết định mâu thuẫn nhau làm chochương trình điều trị bị phá hoại, săn sóc hậu cai không thực hiện được.


Trong một số trường hợp khác, người nghiện bị giằng co giữa các thế lực trong gia đình và họ thường lợi dụng khe khở này để bỏ dở điều trị. Với các gia đình này, nhân viên tư vấn phải :


- Thông qua người nghiện, người điều trị phải nắm được một cách sâu sắc động cơ gây ra bất hoà trong gia đình họ. Vấn đề sau đó là giúp đối tượng thoát ra khỏi những ảnh hưởng không lành mạnh từ phía gia đình không ổn định của học viên.


- Tìm ra người nào có ảnh hưởng lớn nhất trong gia đình, hướng họ đếncộng tác với chương trình điều trị như một trợ thủ cho trung tâm.


8. CÁC MỐI QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON CÁI:

a)Phong cách giáo dục:

Leselbaum và ctv (1984) thấy có sự liên quan giữa sử dụng ma túy và kiểm tra của gia đình : các thanh niên sử dụng ma túy nói rằng cha mẹ họ ít kiểm tra việc đi chơi và việc học tập của họ.


Trong nghiên cứu của Barnes và Windle (1987), cha mẹ càng đặt ra các quy tắc về các hoạt động của con cái thì tỷ lệ các vấn đề liên quan đến rượu, sử dụng các chất ma túy bất hợp pháp và các hành vi lệch lạc ngày càng ít hơn. Tỷ lệ Thanh thiến niên sử dụng ma túy cao ở những người có cha mẹ lơ là tình cảm


b)Các mối quan hệ tình cảm:

Quan hệ xung đột ở cha mẹ luôn luôn ảnh hưởng lớn đến số thanh thiếu niên sử dụng ma túy. Sự thương yêu giữa cha mẹ giảm việc dùng ma túy ở thanh thiếu niên.


Các hậu quả của các mối quan hệ với cha và mẹ đã được biệt hoá. Kandel và ctv (1978) báo cáo rằng sự thiếu thốn tình cảm cần thiết củacha ảnh hưởng đến việc sử dụng các chất ma túy. Brook và ctv (1981) xác nhận rằng một mối quan hệ nồng ấm với cha làm giảm việc sử dụng các chất ma túy. Trong nghiên cứu của Mellinger và ctv (1975), các thanh niên sinh viên không sử dụng ma túy cảm thấy gần gũi với cha họ hơn và có ít xung đột với cha. Các học  sinh trung học có dùng chất ma túy với liều cao đã nêu lên sự bàng quan của người cha trong 18% trường hợp (Dandson và Choquet 1980).


Việc nuông chiều của người mẹ liên quan với các nguy cơ sau này của việc dùng thuốc lá, rượu và ma túySự nuông chiều của mẹ với thanh thiếu niên tạo điều kiện xấu cho việc xử dụng các chất ma túy (Brook và ctv 1989). Các thanh thiếu niên đang điều trị tại các trung tâm cai nghiện ma túy theo nghiên cứu của Denoff (1988) cho rằng các bà mẹ hay chen vào nhiều vấn đề không phù hơp. Schwartz và ctv (1990) đã đánh giá về xúc cảm quá đáng của người mẹ : mức độ cao về xúc cảm bộc lộ của bà mẹ liên quan đến một nguy cơ nhân lên 3 lần về trầm nhược, lạm dụng ma túy hay các rối loạn hành vi ở trẻ em.


9. CÁC HÀNH HẠ VỀ CƠ THỂ VÀ TÌNH DỤC:

Các hành hạ về thể xác và tình dục thường kết hợp với lạm dụng và lệ thuộc ma túy của thanh thiếu niên : Cavaiola và Schiff (1989) đã khảo sát trong 500 thanh thiếu niên cai nghiện ma túy, thấy 15% trường hợp bị hành hạ về thể chất, 6% bị hành hạ về tình dục, 5% loạn luân kết hợp với hành hạ thể chất, 5% loạn luân không có hành hạ thể chất.


Trong nghiên cứu Edwal và ctv (1989), 597 thanh thiếu niên được điều trị vì lạm dụng ma túy, tự khai là nạn nhân của các vụ hành hạ tình dục trong và ngoài gia đình : 7,2% trường hợp bị hành hạ tình dục trong gia đình, 7,9% trường hợp bị hành hạ tình dục ngoài gia đình .


Các thanh thiếu niên nghiện ma túy nạn nhân của các hành hạ tình dục biểu hiện các rối loạn tâm bệnh lý nặng hơn đặc biệt  một tần suất lớn hơn về các hành vi tự sát : ý định tự sát đã được thực hiện trên 56,5 nạn nhân của tệ loạn luân, 35,7% nạn nhân của tệ hành hạ tình dục ngoài gia đình, so với 20,4% số thanh thiếu niên nghiện ma túy không phải là nạn nhân của các hành hạ tình dục.


III. TRỊ LIỆU TÂM LÝ GIA ĐÌNH NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Là phương thức được sử dụng để giúp gia đình giảm các xung đột và tăng cường trách nhiệm của các thành viên. Quá trình này dựa trên giả thuyết rằng các hoạt động giúp đỡ của nhân viên tập trung vào lĩnh vực gia đình, không phải chỉ với một cá nhân nào khác. Đơn vị cần thay đổi là gia đìnhTất cả các thành viên trong gia đình đều cần tham gia vào các hoạt động thay đổi. Các yếu tố cơ cấu, mối quan hệ giữa các thành viên rất quan trọng. Gia đình đóng vai trò rất quan trọng vào kết quả trị liệu, vìcả gia đình được xem như là một hệ thống, bao gồm nhiều nhân tố, nhiều cá nhân có điều kiện hỗ trợ tốt nhất. Vì thế, mục đích trong quá trình này là giúp cho cả gia đình lấy lại được thăng bằngtăng cường trách nhiệm, đẩy mạnh sự hoà hợp, và hoàn thiện các mối quan hệ.


Hiện nay có rất nhiều lý thuyết và phương thức  trị liệu gia đình. Nhân viên điều trị có thể làm việc với một hay nhiều thành viên trong gia đình vào những lúc khác nhau và chú trọng vào những quan hệ trong gia đình, gồm vấn đề như sau :


1/ NHẬN ĐỊNH TÌNH HUỐNG: nhân viên điều trị nhận định tình huống của toàn thể gia đình: cơ cấu, tiểu sử, mối quan hệ, vấn đề hiện nay và cácnhu cầu – qua từng quan niệm của mỗi thành viên vì mỗi thành viên có thể có cách nhìn khác nhau về cùng một vấn đề.


2/ XÁC ĐỊNH LẠI VẤN ĐỀ: khi gia đình đến tìm sự giúp đỡ , họ thường có một cách nhìn của riêng họ về nguyên nhân tính chất của vấn đề. Vấn đề có thể trở nên phức tạp hơn khi ta xem xét quan niệm và nhu cầu khác nhau của mỗi thành viên trong gia đình. Thường khi, nhân viên phải giúp gia đình xác định lại vấn đề với nhiều nguyên nhân và yếu tố khác nhau.


3/ NHẬN ĐỊNH NHU CẦU CẦN THAY ĐỔI: vì các thành viên trong gia đình có cách nhìn nhận khác nhau, nhân viên cần giúp gia đình xem xét lại nhu cầu của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể gia đình và đặt mục tiêu cụ thể. Đôi khi các thành viên có những mục tiêu đối lập lẫn nhau.


4/ XÁC ĐỊNH CÁC NGUỒN HỔ TRỢtrong và ngoài gia đình : nhân viên giúp gia đình nhận định những tiềm năng trong gia đình và các nguồn hỗ trợ ngoài gia đình.


5/ THỰC HIỆN CÁC CHIẾN LƯỢC ĐỂ THAY ĐỔI: nhân viên điều trị sử dụng một số các kỹ thuật như thảo luận, hồi tưởng diễn lại tình huống, bài tập thay đổi hành vi v.v. để tạo sự thay đổi trong hệ thống gia đình. Sự thay đổi có thể nhắm vào cơ cấu, mối quan hệ cụ thể, và sự tác động qua lại hoặcmột số hành vi cụ thể .


6/ ĐÁNH GIÁ, KẾT THÚC VÀ THEO DÕI: nhân viên điều trị giúp gia đình nhận định và đánh giá các thay đổi, trong từng cá nhân và trong gia đình, và giúp họ chuẩn bị tinh thần cho những tình huống khó khăn có thể xảy ra trong tương lai. Đôi khi cũng cần có sự theo dõi sau khi kết thúc để xác định mức độ tiến triển.


Phương thức này có nhiều kỹ thuật khác  nhau, và thời gian trị  liệu cũng tuỳ thuộc theo tính chất và mức độ của vấn đề khó khăn của gia đình.

  • - Các trị liệu tâm lý gia đình giúp cha mẹ biết cách giáo dục và theo dõi con cái một cách hiệu quả. Nhiều bậc cha mẹ do không biết cách giáo dục đã đẩy con cái thêm vào con đường nghiện ngập, do bất mãn, do nuông chiều và nhiều lý do khác.


  • - Cần giúp đỡ gia đình biện pháp giáo dục tuỳ thuộc từng đối tượngtuỳ thuộc từng hoàn cảnh nhất là đối với những gia đình có vấn đề phức tạp giữa cha mẹ khi giữa cha và mẹ có những đỗ vỡ cần làm cho cha mẹ xích lại gần nhau bằng cách giúp họ xác định trách nhiệm và hậu quả đối với con cái để họ hợp tác thực hiện các mục đích đề ra. Khi các hành vi của người nghiện khả quan hơn thì các xung đột giữa cặp cha mẹ lại có thể cải thiện diễn biến tốt hơn.


  • Tiếp cận hành vi, mục đích nhằm cải thiện sự quan hệ trong gia đình, cải thiện các vấn đề giữa các thành viên trong gia đình và mặc nhiên tạo một số nguyên tắc ứng xử giữa đối tượng và cha mẹ, cùng thân nhân của đối tượng cai nghiện ma túy.


  • Tiếp cận phân tâm giới hạn nói chung ở chỗ cố gắng ngăn ngừa đối tượng khỏi bị ảnh hưởng của các xung đột gia đình để có thể đạt tới trị liệu cá nhân. Các khó khăn khi làm giảm các xung đột trong các mối quan hệ luôn đòi hỏi sự kết hợp việc cải thiện các mối quan hệ trong gia đình và các phương thức trị liệu cá nhân.


D. TƯ VẤN VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU NHÓM NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Trị liệu tâm lý nhóm và tư vấn nhóm có nhiều điểm tương đồng trong trình tự tiến hành. Mặc dù cùng chung mục đích là điều trị. Tư vấn tâm lý nhóm nhấn mạnh vào những hành vigắng công gọt dũa và thay đổi chúng. Còn trị liệu tâm lý nhóm có tính chất đi sâu hơn vào nội tâm người nghiện, hướng vào việc điều chỉnh những vấn đề có tính chất bản chất, những xung đột của bệnh nhân về phương tiện cảm xúc. Tuy khác nhau về phương thức giải quyết nhưng các bước chuẩn bị lại giống như nhau, và nhân viên điều trị làm trưởng nhóm có thể hướng dẫn nhóm theo hướng tích cực thấy cần thiết.


Bước 1: Nội dung bước 1:

1.1 Những yêu cầu của nhân viên điều trị.

1.2 Đặt ra những ý muốn của từng học viên.

1.3 Quy định thời gian sinh hoạt.

1.4  Quy định tiêu chuẩn của tiêu chuẩn thành phần – tổ chức.

1.5 Nội quy nhóm.

1.6 Những quy định cho một môi trường an toàn gồm các yếu tố:

  • - Mọi thông tin trong nhóm không được phổ biến ra ngoài cho các học viên khác biết.

  • - Mọi lời nói hành động đều phải có tính cách xây dựng, giúp đỡ, không được mang tính chất đả phá, chỉ trích, triệt hạ nhau.

  • - Nếu vi phạm kỷ luật sẽ bị chuyển ra nhómmang tính chất đối đầu cao hơn.

  • - Mọi tâm tư, nguyện vọng của thành viên đều được nhân viên điều trị tận tình giúp đỡ. Nếu vượt ra khỏi thẩm quyền, sẽ chuyển đến cấp cao hơn để đảm bảo rằng mọi nguyện vọng đúng đắn của học viên sẽ được giải quyết.


Bước 2: Biện pháp hoạt động:

  • Những vấn đề cần đề cập.

  • - Biện pháp để xây dựng chỉnh đốn hành vi cho nhau.

  • - Biện pháp kỷ luật đối với thành viên ngoan cố (hình phạt nặng nhất là đuổi khỏi nhóm – nghiêm trọng hơn thì sẽ bị xử phạt cấp Trung Tâm).


Bước 3: Nội dung điều trị:

  • - Trình bày những vấn đề thiết thực, có nội dung tốt, nêu lên những nhân tố điển hình người khác noi gương.

  • - Đặt ra những vấn đề đòi hỏi học viên phải động não, xử lý. Qua đó bộc lộ được nội tâm và hành vi.


Quy định cho cả nhóm được biến thành một nội quy sinh hoạt, nhấn mạnh vào:

  • a) Phải tôn trọng lẫn nhau.

  • b) Phải trách nhiệm với nhau.

  • c) Chú ý lắng nghe và có sự thông cảm nhau

  • d) Thấy rõ và phát hiện những điều chưa tốt

  • e) Luôn luôn xây dựng lẫn nhau


Khuôn khổ chương trình điều trị đề cập đến những vấn đề như sau:

  • - Những triển vọng về giải pháp chữa trị

  • Những triển vọng về bệnh nhân nghiện ma túy.

  • Thời gian hoạt động của nhóm.

  • Những quy định tham gia nhóm

  • Những quy định chăm sóc

  • Những quy định về an toàn

  • Những vấn đề về thành phần nhóm


1. AN TOÀN:

An toàn đề cập đến hệ thống các quy định nhằm quản lý :

  • - Những hành vi đúng đắn (bằng lời).

  • - Các điều kiện theo đó một người sẽ bị chuyển ra khỏi nhóm (nếu có  hành vi bạo lực đối với các thành viên khác) và phải đổi qua nhóm khác có những điều kiện khắc khe hơn.

  • - Các điều kiện đảm bảo giữ kín các thông tin của các thành viên trong nhóm.

  • Tâm tư của các thành viên trong nhóm sẽ được sự giúp đỡ thông qua các nhân viên điều trị hoặc bởi các thành viên khác trong nhóm.


2. THÀNH PHẦN CỦA NHÓM:

Các nhóm được hình thành từ những người có đặc điểm tương tự (không giống nhau) có kết quả cai nghiện giống nhau. Các nhóm người nghiện là không đồng nhất.


3. QUY MÔ CỦA NHÓM: Các nhóm thường vào khoảng từ 5 – 15 thành viên.


4. PHÂN LOẠI NHÓM:

CÁC NHÓM “ ĐÓNG ”: Gồm khoản 10 thành viên cùng lứa tuổi, giới, có những đặc điểm tương tự nhau. Hình thức nhóm đóng này được sử dụng cho những mục tiêu được xác định trước và thời gian sinh hoạt không dài ngày. Nhóm trưởng là nhân viên điều trị có cá tính cương quyết.


CÁC NHÓM “ MỞ ”: Gồm khoản 30 thành viên, có thể thu nhận thành viên mới, và các thành viên  có thể được đưa sang các nhóm đóng do một yêu cầu điều trị có mục tiêu rõ rệt.


Khi các nhóm mở này được sử dụng cho các chương trình điều trị kéo dài, nếu cần nhóm mở vẫn phải được đối phó như nhóm đóng. Sinh hoạt của nhóm có thể tuần 3 lầnhoặc hàng ngày dưới hình thức thảo luận hay bài giảng. Đặc điểm của nhóm đóng là đối chất, đấu tranh (Trưởng nhóm là nhân viên điều trị có chuyên môn tâm lý, hiểu biết đối tượng).


5. CÁC GIAI ĐOẠN HOẠT ĐỘNG:

5.1 BƯỚC ĐẦU CÁC THÀNH VIÊN ĐƯỢC ĐỊNH HƯỚNG, biết cách tham gia vào chương trình.

5.2 SAU ĐÓ PHÁT HIỆN – GIẢI QUYẾT là những mâu thuẫn, những sai phạm, những chống đối  để sửa chữa cho nhau.


Về phương tiện điều trị, nhóm là đại diện cho một xã hội, một môi trường sinh hoạt nhỏ. Mọi sinh hoạt trong nhóm dần dần giúp cho học viên hiểu biết về mặt xã hội để sửa đổi hành vi. Mỗi thành viên trong nhóm sau một thời gian điều trị có thể là người dự báo tốt nhất về sự thành công hay thất bại trong mỗi mô hình điều trị. Một câu tục ngữ Pháp phát biểu: "Cho tôi biết bạn anh là ai tôi sẽ biết anh là người như thế nào”. Thật vậy sự thành đạt của một thành viên trong nhóm có thể phản ánh sự thành công của nhóm, và sự tái hoà nhập cộng đồng chỉ có thể tốt lành một khi người nghiện có những kỹ năng đầy đủ về mặt xã hội.


6. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC SINH HOẠT NHÓM:

  • Liên hệ

  • Tôn trọng lẫn nhau

  • Tập trung chú ý

  • Quan tâm một cách có trách nhiệm

  • Chú ý lắng nghe

  • Sự cảm thông


Trao đổi thông tin với ý thức xây dựng mà những thông tin này có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với các thành viên trong nhóm. Sự nhận diện, phát hiện các vấn đề có liên quan.


I. TƯ VẤN NHÓM CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Nhóm là đại diện cho một xã hội thu gọn. Sửa đổi hành vi một cách tốt nhất là thông qua sự hiểu biết về mặt xã hội và thông qua các sinh hoạt trong nhóm. Mỗi thành viên là người dự báo tốt nhất về sự thành công hay không thành công của mỗi quá trình cai nghiện. Tái hoà nhập cộng đồng chỉ có thể xảy ra nếu bệnh nhân có hiểu biết đầy đủ về mặt xã hội.


1.ĐỊNH NGHĨA:

Tư vấn nhóm là một hình thức điều trị gồm một số những người nghiện hình thành một tổ chức trong đó :

  • Hành vi của mỗi thành viên được cả nhóm cùng biết.

  • - Các thành viên trong nhóm đều đồng đẳng và học tập lẫn nhau.


Sự tập hợp các đối tượng nghiện thành từng nhóm sinh hoạt riêng có một lợi ích nhất định trong quá trình điều trị.


1.1  Mỗi thành viên thể hiện sự hiện hữu cũng như nhận thức của mình bằng chính những phát biểu của mình trước tập thể.


1.2 Mỗi thành viên được nhóm đóng góp hiểu rằng họ sẽ ảnh hưởng đến những người khác cũng như sửa chữa những khuyết điểm của họ.


1.3 Học viên được giúp đỡ để phân tích và nhận thức những hành vi bình thường và không bình thườnghành vi đúng sai. Họ được giúp đỡ để biết hành vi của chính mình thông qua sự phản hồi của những thành viên khác trong nhóm.


1.4 Học viên được học để hiểu rằng họ không phải là người xấu, họ có thể có những suy nghĩ, những tình cảm đúng đắn của mình để nhận xét giúp đỡ người khác trong cùng nhóm hoặc người ngoài nhóm. Như vậy qua tư vấn nhóm, hai phương diện chứa nguy cơ cao là nội tâm và quan hệ cá nhân sẽ được bộc lộ, sinh hoạt nhóm sẽ được bộc lộ, sinh hoạt nhóm sẽ đạt được một số yếu tố sau :


  • - Những hiểu biết thêm về bản thân mình cũng như các thành viên khác trong nhóm.

  • - Những hy vọng về tương laicuộc sống không có ma túy.

  • - Những hiểu biết về cuộc sống tập thể, những mối quan hệ đúng đắn giữa người và người.

  • - Lòng vị tha săn sóc lẫn nhau.

  • Học tập lẫn nhau.

  • Học tập kỹ năng xã hội hoá.Những cách sống sao với nhau cho hoà thuận

  • Học tập kỹ năng xử lý thông tin. Biết cách đánh giá và phát huy những hiểu biết đã qua.

  • Sự phấn chấn, hăng hái do sống trong môi trường lành mạnh

  • - Học tập về tình yêu thương gia đìnhtập thể và ngay cả cá nhân mình.

  • - Sẽ tạo được sự tự tin dần dần cho các học viên.

  • Sự bắt chước học tập lẫn nhau.

  • - Trong các yếu tố lợi ích do tư vấn nhóm đem lại, hai yếu tố học tập lẫn nhau hăng hái sống tác dụng mạnh mẽ nhất trongtác động chuyển đổi hành vi.


2. MỤC ĐÍCH CỦA TƯ VẤN NHÓM:

Trọng tâm của tư vấn nhóm là nhằm tập hợp những đối tượng học viên tích cực, có tiến bộ trong quá trình điều trị tại trung tâm để xây dựng một (hoặc nhiều) nhóm đồng đẳng, dùng sự tương tác nhóm, năng động nhóm để gây ảnh hưởng lên trên hành vi, nhận thức của từng cá nhân thành viên. Trọng tâm của sinh hoạt nhóm là phát triển kỹ năng quan hệ xã hộikỹ năng làm việc tập thểkỹ năng tự quảnbộc lộchia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.


Nguyên tắc: tất cả thành viên trong nhóm đều bình đẳng với nhau, phải hiểu biết hoàn cảnh của nhauxem vấn đề của từng thành viên như vấn đề chung mà nhóm cần phải giải quyết.


Nhóm đồng đẳng khi hoạt động tốt sẽ giúp hình thành một tập thể các hạt nhân tích cực góp phần thúc đẩy các học viên khác trong Trung tâm tham gia các hoạt động giáo dục và trị liệu.


Trong giáo dục các đối tượng nghiện ma túy, tư vấn nhóm rất quan trọng để thay đổi thái độ, hành vi và tạo điều kiện thay đổi lối sống. Thông qua sinh hoạt nhóm giúp các cá nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ kinh nghiệm để tạo sự thay đổi hành vi và thái độ, tăng cường khả năng giải quyết vấn đề, quyết tâm cai nghiện.


2.1 MỤC ĐÍCH CỦA HOẠT ĐỘNG NHÓM:

Tăng cường sự gắn bó giữa các nhóm viên. Giúp các thành viên chia sẻ thông tin, nhu cầu giao tiếp, chia sẻ tâm tư tình cảm, tạo ảnh hưởng của mình đối với nhóm.


Giúp các cá nhân tăng cường khả năng xã hội hoátạo sự thay đổi hành vi, thái độ thông qua các hoạt động của nhómtăng tính tự trọng trong giao tiếpkhả năng hợp tácthực hành tương tác trong nhóm tăng cường khả năng ứng phó với khủng hoảng.


Tạo sự thay đổi hành vi thái độ thông qua hoạt động nhóm, cácquy định trong nhóm để tạo sự thay đổi hành vi, thay đổi của mỗi cá nhân riêng lẻ.


2.2 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG NHÓM ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

Thông qua sinh hoạt nhóm giúp các thành viên nâng cao hiểu biết về các kiến thức tự nhiên và xã hộicách giao tiếp và ứng xử với bạn bè cùng có chung hoàn cảnh. Từ đó giúp các đối tượng cải thiện các quan hệ, tăng cường tính tự tin.


Giúp các đối tượng giải tỏa tâm lý tự titiêu cựctăng cường tính tự tin, xây dựng niềm tin chấp nhận cuộc sống mới.


Tạo ảnh hưởng kiểm soát nhóm tới hành vi cá nhân: qua quan sát thái độ, hành vi của các thành viên khác trong nhóm, kỷ luật do nhóm đặt ramỗi cá nhân sẽ phải tuân theo và rèn luyện tính kỷ luật.


Nhóm đem lại những tình huống đời thường, những tình cảm giữa những người có chung cảnh ngộ, thay thế những tình cảm đã bị mất mát do nghiện ngập gây nên.


Thông qua sinh hoạt nhóm các đối tượng sẽ được chia sẻ những kinh nghiệm cai nghiện hoặc cách đối phó với những vấn đề khó khăn thường gặp trong cuộc sống.


II. TÂM LÝ TRỊ LIỆU NHÓM NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY:

1.CÁC LOẠI NHÓM VÀ MỤC ĐÍCH:

1.1 NHÓM GẶP GỠ CƠ BẢN (BASIC ENCOUNTER GROUP):

Trong đời sống, người ta thường gặp nhau ở bề ngoài hời hợt, quan hệ xã giao. Nhóm này giúp các thành viên gặp gỡ nhau ở chiều sâu.


1.2 NHÓM LUYỆN TẬP (TRAINING GROUP):

Thường tư tưởng và ý kiến thì dễ bộc lộ hay diễn đạt ra nhưng phần tình cảm thì hay bị bế tắc (block) không bộc lộ ra được (nhất là ở xã hội VN) ; nó chỉ ngấm ngầm hoặc nghẹn lại nên nhóm này giúp ta phải cố gắng luyện tập (training)đểbộc lộ ra, đểtruyền thông được (communication).


1.3 NĂNG ĐỘNG NHÓM (DYNAMIC GROUP):

Mục đích của sự thành nhân là mục đích của nhóm:

  • - Tìm được một nhân cách thuần nhất(không bị khe hở nội tâm).

  • - Ý thức thực tại.

  • - Dám liều lĩnh trước những mới lạ của cuộc đời. Dám nói dù biết rằng đã bị phán xét, dù sẽ có thể nói hớ…

  • - Biết tự bộc lộ, thắng được kháng cự bên trong tađể khám phá và phát huy một sức mạnh trong chính mình hầu biết tự lập, chủ động và đứng vững môt mình.

  • - Biết truyền thông.


2. PHƯƠNG PHÁP:

2.1 CHÚ Ý TẠI ĐÂY VÀ BÂY GIỜ, chú ý trạng thái của những người đang có mặt.


2.2 ĐỐI THOẠI TAY ĐÔI, không được nói đến kẻ thứ 3 (3è personme) như anh ấy, anh ta .. Phải là nói tới, không nói lui (có thể nói về một người đang có mặt trong nhóm ).


2.3 TẬP LẮNG NGHE: quan tâm đến một thành viên đang bộc lộ bằng một khía cạnh (thông điệp có lời, thông điệp không lời) bằng cả giác quan của mình (tay nghe mắt nhìn).

  • - Nhắc lại mọi người nói chuyện với nhóm chứ không phải nói với người điều phối.

  • - Nhắc thành viên diễn tả đúng tên, đúng sự việc

Vd: Tôi không ưa mấy" hay "Chị muốn nói là chị ghét phải không?"


2.4 CẦN HIỂU ĐƯỢC VÀ SỬ DỤNG NHỮNG SỰ THINH LẶNG.

Nó thường xảy ra:

Khi người ta khổ sở.

Sau mỗi lần nói thật …


2.5 BIẾT LÀM SÁNG TỎ NHỮNG THÔNG ĐIỆP:

Thông điệp không lời : nhún vai, quay mặt chỗ khác, nụ cười lúng túng, mắc cỡ hay mỉa mai, chế nhạo … ). Mời đương sự diễn tả: "anh cảm thấy thế nào?”


Thông điệp hàm hồ: "Không ai thương tôi, đi đâu cũng bị la", "Ai không thương anh ? Anh đi đâu bị la ?"


Thông điệp mâu thuẫn:"Tôi nghe được hai điều khác nhau (giận khi về trễ, mặc kệ khi về trễ …) vậy cái nào là ý chị ?", "Chị nói không giận nhưng giọng nói chị cho biết là khác".


2.6 NGƯỜI ĐIỀU HOÀ CẦN NHẮC NHỞ:

a. Ba quy tắc của nhóm:

  • 1. Tại đây lúc này.

  • 2. Phải tự bộc lộ.

  • 3. Mỗi người có trách nhiệm cho sự tiến triển của nhóm.


b. Thời gian trong nhóm là quan trọng:

  • - Đừng để trên đường về, hối tiếc vì đã không nói điều gì, chưa thực hiện việc gì…

  • - Dù sự thinh lặng là nơi trú ẩn an toàn nhưng nó làm cho mình không sử dụng hết khả năng, không tăng trưởng, không quan hệ được với thân nhân, không sống…


* Nên quan tâm đến thành viên tích cực muốn xây dựng nhóm – không mất thì giờ với kẻ diễu cợt, bắt bẻ, chơi nổi … làm trì trệ nhịp tiến của nhóm.


3. ĐIỀU TRỊ THEO NHÓM:

Điều trị nhóm hình thành một môi trường trong đó:

  • - Hành vi của mỗi thành viên được cả nhóm cùng biết.

  • - Các thành viên giúp đỡ điều chỉnh hành vi lẫn cho nhau.

  • - Các thành viên biết được từ những người cùng nhóm.

  • - Các thành viên dần dần trở thành những thành viên tích cực có thể tự điều chỉnh hành vi và giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình cai nghiện.


ĐIỀU TRỊ THEO NHÓM TẠO THÀNH MÔI TRƯỜNG, trong đó:

  • - Các thành viên biết thể hiện tình cảm của mình bằng lời nói.

  • - Hành vivà thái độ của mỗi thành viên được phân tích để họ:

  • Hiểu được họ bị ảnh hưởng bởi những người khác nhau như thế nào.

     Hiểu được ảnh hưởng của họ đối với những người khác

  • - Nêu ra các thành viên những ví dụ thực về những hành vi bình thường và những hành vi không bình thường. Cách thành viên biết cách nhìn nhận đánh giá hành vi chính họ thông qua sự phản ảnh và hoạt động của những người khác.

  • - Các thành viên có được một môi trường an toàn ở đó hành vi của họ được người khác nhận xét gợi ý và họ có thể góp ý cho người khác. Môi trường ở đó những suy nghĩ và hành vi chưa đúng đắn sẽ được đề cập đến đúng mức để điều chỉnh, còn bản thân họ không phải là người xấu.

  • - Môi trường mà các thành viên có điều kiện thể hiện tình cảm suy nghĩ phù hợp, đúng đắn của mình.


4. TÓM TẮT PHƯƠNG THỨC ĐIỀU TRỊ THEO NHÓM:

Các nhóm hình thành cho các thành viên những yếu tố thuận lợi sau:

  • - Thông tin

  • - Hy vọng

  • - Hiểu biết những vấn đề chung

  • - Lòng vị tha

  • - Học tập lẫn nhau

  • - Kỹ thuật xã hội hoá

  • - Đánh giá đúng những hoạt động đã qua

  • - Sự phấn chấn

  • - Sự gắn bó các thành viên trong nhóm

  • - Tự tin vào cuộc sống

  • - Bắt chước


Học tập lẫn nhau và sự phấn chấn là hai yếu tố có tác dụng mạnh mẽ nhất


5.TÂM LÝ TRỊ LIỆU NHÓM:

Các nhóm bạn bè đối tượng và các nhóm cha mẹ phải được hướng dẫn để hiểu biết nguyên nhân và hậu quả các hành vi nghiện ma túy, các khó khăn về tâm lý và các vấn đề có liên quan giữa cá nhân với những người chung quanh việc nâng đỡ của nhóm làm giảm các thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm của đối tượng.


Trị liệu nhóm nhằm giải quyết thích ứng bằng cách sử dụng các biện pháp đấu tranh trực tiếp chống các tư tưởng, các hành vi nghiện ngậpchống lại sự nài xin và sử dụng chất ma túy. Ngoài ra, còn giúp đỡ đối tượng nâng cao kỹ năng xã hội tạo quan hệsự giao tiếp giải quyết cácvấn đề giữa con người với con người


5.1 KỸ THUẬT ĐIỀU TRỊ NHÓM:

Trưởng nhóm phải có trình độ và hiểu rõ các phương pháp để điều hành nhóm, có khả năng xử lý những tình huống đặc biện nhưbiết rõ về đối tượng của mình.


a) Sự bất ổn của học viên : Khi đối tượng lo âu, bất ổn là lúc họ có vấn đề. Người trưởng nhóm phải biết được vấn đề đógiúp đỡ họ vượt quaMọi xử lý vội vàng như đuổi học viên ra khỏi nhóm làm giảm kết quả điều trị.


b)Cố gắng thúc đẩy tính tự giác đối tượng, phải biết nhận lỗi mình trước nhóm. Tính tự giác sẽ gây một không khí phấn chấn trong nhóm, rất lợi cho việc điều trị.


c) Nêu ra những người tốt để làm gương và thúc đẩy cả tập thể.


d) Sự thiếu hoà hợp với tập thể và sinh hoạt do bị áp lực tâm lý là những vấn đề nghiêm trọng sẽ đưa đến những rối loạn về thái độ và hành vi của đối tượng. Những trường hợp này cần tư vấn cá nhân để kịp thời giải quyết.


e) Phải hướng dẫn toàn nhóm biết lắng nghe ý kiến của người khác về bản thân mình.


f) Phân công từng học viên nhập vai trò lãnh đạo. Kỹ thuật này giúp đối tượng học được tính tự tin và khả năng phân tích, phán đoán hành vi.


g) Toàn nhóm phải dân chủ bình đẳng.


5.2 SO SÁNH TƯ VẤN NHÓM VÀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ NHÓM:

TƯ VẤN NHÓM LIỆU PHÁP TÂM LÝ NHÓM
- Tính trực tiếp - Không trực tiếp
- Tính giáo dục - Gợi mở tư duy
- Hỗ trợ - Tính cấu trúc lại – Tìm kiếm sự lặp lại các hành vi
- Tình hình và sự phát triển - Tác động mạnh vềtâm lý
- Giải quyết các vấn đề - Phân tích
- Nêura các vấn đề về mặt nhận thức - Suy ngẫmvề những hành vi đã qua
- Nhấn mạnhvào cái gì được coi là hành vi tốt chưa tốt Hướng vào vấn đề tồn tại về mặt tình cảm

5.3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG ĐIỀU TRỊ NHÓM:

LO ÂU: Khi ta quá lo âu sẽ dẫn đến những thay đổi. Cần cho đối tượng cảm giác an toàn nơi họ đang ở. Sự quá lo âu còn dẫn đến họ sẽ từ bỏ nhóm.


PHẤN CHẤN: Đề cập đến việc thành viên "nhận lỗi trước nhóm“ điều này tạo ra cảm giác phấn chấn bởi sự thành thật của người có lỗi trước tất cả các thành viên trong nhóm.


PHẢN CHIẾU: Đưa ra một ví dụ cho hành vi đúng đắn để noi gương và thực hiện.


SỰ KHÔNG HOÀ HỢP VÀ BỊ ÉP BUỘC: Các thành viên trong nhóm cai nghiện bị điều chỉnh dưới áp lực những người khác trong nhóm(điều chỉnh tác động từ bên ngoài) để thay đổi thái độ và hành vi. Hành vi mới dẫn đến thái độ mới.


HỒI ÂM: Các thành viên trong nhóm được biết những hậu quả do những suy nghĩ và hành vi của họ. Phát hiện và khuyến khích những điểm mạnh của họ. Làm mẫu đóng vai trò lãnh đạo.Phát huyquyền dân chủ và bình đẳng trong nhóm.


5.4 CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH TRONG CAI NGHIỆN NHÓM:

Định hướng, tham gia, phụ thuộc: Các thành viên được xác định cácđịnh hướng, biết cách tham gia vào chương trình và biết cách gắn bó các thành viên trong nhóm khác nhau.


Mâu thuẫn, chống đối: các thành viên biết thể hiện sự quan tâm có tính trách nhiệm, tôn trọng nhau và bắt đầusửa chữa điều chỉnh hành vi của chính mình và cho những người khác.


Sự gắn bó: Các thành viên có khả năng nhận biết vấn đề, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau và cam kết thực hiện các mục tiêu của chương trình điều trị.


E. QUẢN LÝ CA (CASE MANAGEMENT):

Quản lý ca là tổ chức hoặc điều phối các dịch vụ nhằm giúp đỡ đối tượng giải quyết trường hợp khó khăn của họ một cách hiệu quả. Họat động này bao gồm:

  • - Đánh giá hoàn cảnh đối tượng.

  • - Hỗ trợ đối tượng giải quyết vấn đề.

  • - Lập hồ sơ cá nhân.

  • - Ghi lại những thông tin cần thiết để tiện theo dõi.

  • - Cung cấp tư vấn.

  • - Chuyển giao đối tượngđến các nhà chuyên môn và tổ chức khác để có sự trợ giúp cần thiết mà bản thân cán bộ điều trị không làm được.

  • - Biện hộ cho đối tượng trước tổ chức khác….


Trong quá trình này, cán bộ điều trị làm nhiệm vụ điều phối các dịch vụ tâm lý xã hội để chăm sóc, giúp đỡ đối tượng vượt qua những khó khăn về thể chất tâm thần, tâm lý xã hội, và giúp họ phục hồi, phòng chống các vấn đề khó khăn có thể xảy ra. Cán bộ điều trị hoạt động như người điều hành để đảm bảo việc chuyển giao các dịch vụ cần thiết tới đối tượng một cách kịp thời. Vai trò của người xử lý ca rất quan trọng, đặc biệt là với nhóm người dễ bị tổn thương trong đó có đối tượng nghiện ma túyCác đối tượng này thường gặp khó khăn trong việc tìm đến các dịch vụ tâm lý xã hội bởi vì:

  • - Do giới hạn chức năng của thể chất hoặc tâm thần, có sự đau đớn cực độ và những khó chịu khác.

  • - Thiếu thông tin về các nguồn hỗ trợ hoặc không có đủ điều kiện để tìm đến nguồn hỗ trợ.

  • - Chưa hiểu được tầm quan trọng trong công tác quản lý ca.

  • - Nhu cầu người nghiện thông thường bao gồm:

  • + Hiểu biết về tác hại của ma túy và phương pháp điều trị.

  • + Hỗ trợ tâm lývề gia đình, bạn bè, cộng đồng.

  • + Nâng cao lòng tự trọng, giá trị của bản thânvà những suy nghĩ tích cực.

  • + Có tính tự giác tinh thần trách nhiệm đối với những hậu quả về hành động của bản thân.

  • + Được tin cậy và tôn trọng.

  • + Độc lập về kinh tế.

  • + Hồi phục chức năng.

  • + Sự hiểu biết về tâm lý và sức khỏe.


I. CÁC KỸ NĂNG TƯ VẤN TRONG VIỆC QUẢN LÝ CA:

1. BẮT ĐẦU TỪ ĐỐI TƯỢNG:

Để xây dựng các mối quan hệ tương trợ cán bộ điều trị cần:

  • Nhận định các nhu cầu, cảm xúc vàmong muốn đặc biệt của đối tượng.

  • Lắng nghe đối tượng giải thích về vấn đề của họ.

  • Khai thác các ý kiến cho việc giải quyết vấn đề.

  • Khai thác các mong muốn của đối tượng về sự hỗ trợ mà họ cần tới.

  • Nhận thức về các vấn đề khi mà đối tượng quan tâm.


Từ những vấn đề này, cán bộ điều trị và đối tượng phân tích và thảo luận các phương cách giải quyết.


2. HOẠT ĐỘNG THEO NHỊP ĐỘ TIẾN TRIỂN CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Vì mỗi đối tượng có cá tính và vấn đề khác nhau, nên các hoạt động của cán bộ điều trị phải đi theo đà tiến triển của họCán bộ điều trị nên theo dõi các cảm nghĩ, tư tưởng và hành động của đối tượng và giải quyết theo tiến độ của vấn đề của từng cá nhân. Cán bộ điều trị phải luôn luôn nhận định, phân tích vấn đề để hỗ trợ đối tượng thực hiện một cách phù hợp trong điều kiện của họ.


3. XÂY DỰNG MỤC ĐÍCH VÀ CÁC NHIỆM VỤ:

Cách tiếp cận dưới đây có thể giúp cán bộ điều trị và đối tượng tập trung vào các vấn đề sau:

  • - Cán bộ điều trị và đối tượng nên thống nhất về những vấn đề đang tồn tại cần giải quyết.

  • - Cán bộ điều trị và đối tượng nhất trí về các phương án hành động để giải quyết vấn đề.

  • - Cán bộ điều trị và đối tượng xác định các phương pháp thực hiện thiết thực và mang tính khả thi.

  • Cán bộ điều trị và đối tượng đưa ra thứ tự ưu tiên cần thiết giải quyết của mỗi vấn đề.


4. CÁC PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TỪNG ĐỐI TƯỢNG:

Kế họach hành động để giải quyết vấn đề cần được xây dựng trên cơ sở cách thức hỗ trợ đối với mỗi đối tượngMột số cá nhân cần sự hỗ trợ cụ thể, những người khác lại cần sự thông cảm và thông tin cần thiết cho cách giải quyết của họ. Đa số đối tượng cần sự phối hợp của các dịch vụ tâm lý xã hội. Có rất nhiều hình thức họat động, nhưng tất cả cần sự tập trung vào việc giải quyết vấn đề một cách tế nhị và có sự tương trợ chân thành.


Một số yếu tố lưu ý ở đối tượng bao gồm:

  • - Tính cách đối tượng.

  • - Sự hỗ trợ và các nguồn hỗ trợ.

  • - Động cơ thúc đẩy hành động.

  • Đặc điểm và mức độ nghiêm túc của vấn đề.

  • - Tiến trình quản lý ca:

  • - Tiếp cận ca và xác định vấn đề.

  • - Thu thập tư liệu, thông tin.

  • - Chẩn đoán, phân tích thông tin.

  • - Trị liệu, lập kế hoạch giúp đỡ.

  • - Tổ chức thực hiện.

  • - Lượng giá bước.


Kết thúc, đánh giá tổng quát kết quả, chuyển giao đối tượng. Để đảm bảo cho hiệu quả hoạt động, cán bộ điều trị làm công tác xử lý ca cần phải có các kiến thức và các kỹ năng để hiểu biết rộng rãi về các nguồn hỗ trợ và phải có kiến thức chuyên ngành.


5. PHƯƠNG THỨC VỚI HOẠT ĐỘNG CỤ THỂ: (TASK CENTERED MODEL):

Đây là một phương thức thực hành rộng rãi và gồm có những đặc điểm như : có giới hạn và thời hạn, có mục tiêu cụ thể, có định hướng rõ ràng, và được thực hiện theo hệ thống. Cán bộ điều trị làm việc trực tiếp với đối tượng để thiết kế và thực hiện các kế hoạch hành động của đối tượng nhằm đạt được mục đích của đối tượng. Khi cần thiết, nhân viên và đối tượng có một sự cam kết để thúc đẩy đối tượng chủ động trong việc giải quyết vấn đề của mình. Trong quá trình giúp đỡ đối tượng cần phải có sự nhận định tình huống rất rõ ràng và chính xác, và mục đích của đối tượng thường được phân tích chia thành nhiều mục tiêu cụ thể sao cho các hoạt động giải quyết vấn đề dễ thực hiện và có hiệu quả. Các hoạt động cũng được phân loại thành các hành động cụ thể, theo thứ tự hợp lý giúp đối tượng dễ hiểu vàhoàn thành. Nhân viên hỗ trợ đối tượng lên kế hoạch chương trình, hướng dẫn đối tượng, và nâng đỡ khuyến khích trong những lúc nản chí. Quá trình giúp đối tượng có thể được phân chia như sau:


5.1 KHUYẾN KHÍCH ĐỐI TƯỢNG RA QUYẾT ĐỊNH làm một việc cụ thể để giải quyết vấn đề khó khăn của mình: hiểu rõ việc cụ thể, lý do và kết quả của việc đó trong việc giải quyết vấn đề.


5.2 ĐẶT KẾ HOẠCH CỤ THỂ để thực hiện một việc cụ thể.


5.3 PHÂN TÍCH VÀ DỰ TÍNH những trở ngại có thể xảy ratrong quá trình thực hiện: chú trọng những ưu điểm và hạn chế của đối tượng và dự tính những trở ngại.


5.4 TỔNG KẾT VÀ TÓM TẮT KẾ HOẠCH, VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐỘNG VIÊN. Một đặc điểm rất quan trọng trong phương thức này là cần phải có sự liên tục và phải định hướng các hoạt động giúp đỡ đối tượng. Nhân viên điều trị luôn luôn xem xét các họat động, xác định và khuyến khích đối tượng với những việc đã làm và chuẩn bị cho những việc đối tượng sẽ phải làm. Phương thức này chú trọng vào những diễn biến trong hiện tại, vàkhông đề cập đến những yếu tố tâm lý vô thức trong quá khứ.


II.TÂM LÝ TRỊ LIỆU TRONG VIỆC QUẢN LÝ CA:

Có thái độ không phán xét đối với hành vi và những vấn đề của đối tượng


Đối tượng là người biết rõ vết thương nằm ở chỗ nào, chiều hướng ra sao, vấn đề chính yếu là gì và kinh nghiệm nào đã được chôn lấp sâu xa…… mà đối tượng cần nhận biết chiều hướng phải đi trong tiến trình trị liệu.


Rogers đưa ra phương pháp trị liệu tâm lý mà nhân vật trung tâm không phải là bác sỹ mà là thân chủ. Người bệnh phải được hướng dẫn đểphát huy vai trò chủ động của họBác sỹ không giảng giải, không nhận xét … không “làm thay” mà chỉ cần tạo một bầu không khí an toàn cho phép thân chủ mạnh dạn bày tỏ, biểu lộ ra, mạnh dạn nhìn nhận tất cả cảm quan, tư duy hay kinh nghiệm của bản thân mình, mạnh dạn nhớ lại những hoài niệm kinh sợ mà họ đã cố ý lảng tránh …


Xây dựng mối tương giao lành mạnh – tôn trọng nhựng thông tin cá nhân được cung cấp bởi đối tượng: Bầu không khí an toàn nói trên phải nhờ vào người hướng dẫn xây dựng nên, còn gọi là tương giao trợ lực.


Những rối loạn tâm lý được gây ra bởi những mối tương giao mang tính xung đột. Như vậy cần phải xây dựng một mối tương giao lành mạnh, phải tạo ra một bầu không khí an toàn khi tiếp xúc hầu giúp đối tượng dựa vào đó mà lấy lại sự bình quân dần dần và sẽ tự họ phát triển trưởng thành, nhận thức tốt.


Thái độ của nhà trị liệu là nên hiểu người bệnh trong ý nghĩa đặc biệt màmột số hành vi hiện ra nơi bệnh nhân (lắng nghe từng lời nói, cử chỉ) thay vì coi họ như một “ca bệnh” hay chỉ là “đối tượng chẩn bệnh”.


Trong bầu không khí an toàn, đối tượng không còn sợ phê bình, bị đánh giá (hay tệ hơn là bị xuyên tạc) thì đối tượng sẽ cởi mỡ hơn, dám sống hết mình hơn, dám tự bộc lộ hơn … họ sẽ nhìn thấy mình rõ hơn để tiến tới việc tự khẳng định “tôi là ai, tôi nghĩ gì, tôi thích gì …?”. Như vậy họ sẽ tự phát triển để trưởng thành, để thành nhân. Cảm giác an toàn đồng nghĩa với ý thức sự tự do trong nội tâm của một người. Đó là yếu tố làm con người được trưởng thành, nhận thức tốt hơn.


Muốn xây dựng một mối tương giao lành mạnh, an toàn hầu thân củ có thể sử dụng được thì nhà trị liệu phải đạt được 3 điều kiện như sau:


1. TRUNG THỰC (CONGRUENCE):

Trung thực là người hướng dẫn phải biểu hiện ra bên ngoài  như bên trong; không làm bộ, không đeo mặt nạ, không đóng kịch. “Trung thực nghĩa là khi kinh nghiệm của tôi trong phút này xuất hiện trong ý thức của tôi và điều gì hiện diện trong ý thức của tôi cũng hiện diện trong diễn tả ra ngoài; khi đó cả ba bình diện (kinh nghiệm, ý thức, diễn tả) đều ăn khớp nhau”.


Rogers mô tả điều kiện này trong quyển “Tiến trình thành nhân” (Chương I): “trong khi tiếp xúc với người khác, tôi đã nhận thấy rằng nếu tôi hành động có vẻ như không trung thực là tôi, thì kết cục chẳng giúp ích gì cho ai cả, nghĩa là nếu thực sự tôi bực mình và gay gắt, mà làm ra vẻ bình thản vui vẻ thì chẳng ích gì … Nói một cách khác, trong tương giao của tôi và đối tượng, nếu tôi cố mang mặt nạ để che dấu tâm trạng thực sự của tôi ở bên trong thì mối tương giao của tôi chẳng đem lại kết quả hữu ích nào”. “Chỉ khi nào tôi cung cấp thực tại chân thực trong tôi thì người khác mới có thể tìm được thực trạng trong họ”. Muốn trung thực như vậy, cán bộ điều trị phải có một nhân cách đã được khẳng định vững vàng.


2. TÔN TRỌNG QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM TỰ QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Tôn trọng vô điều kiện là không khen cũng không chêTôn trọng vô điều kiện là nhiệt tình tôn trọng đối tượng như một con người có giá trị tự tại, không kể địa vị, hành vi hoặc cảm quan tích cực hay tiêu cực của người ấy. Nó có ý nghĩa là tôn trọng đối tượng như một con người riêng biệt, muốn cho người ấy có những cảm quan riêng theo cung cách riêng của mình.


Thái độ tương tự thái độ của người mẹ đối với đứa con "nhũ nhi" của mình. Theo Rogers "khi nhà trị liệu kinh nghiệm được môt tình cảm nồng nhiệt, tích cực và chấp nhận đối với thân chủ thì thái độ này sẽ tạo ra sự thay đổi. Điều này hàm ý là nhà trị liệu chân thành mong muốn thân chủ sống với bất cứ cảm quan nào đang diễn ra trong lòng y lúc đó: sợ hãi, bối rối, kiêu hãnh, giận dữ, thù ghét, thương yêu, can đảm hay kinh hoàng".


Sự chấp nhận mọi phương tiện của thân chủ tạo nên một mối tương giao ấm cúng , an toàn mà người ấy có thể sử dụng được.


Sự chấp nhận để tạo bầu không khí thuận lợi cho người kia thay đổi: tự chấp nhận mình, được sống hài hoà, tràn đầy. Chấp nhận không có nghĩa là tán thành. Khi bệnh nhân được tôn trọng – không phòng vệ – bộc lộ mình – mất khe hở nội tâm.


3. SỰ THẤU CẢM (EMPATHY):

Chấp nhận là để đi đến sự cảm thôngKhi ta yêu mến và tôn trọng đối tượng thì ta sẽ lắng nghe chăm chú, nhạy cảm và chính xác, từ đó sẽ cảm được từ bên trong những cảm quan mà đối tượng đang sống, hiểu vấn đề từ quan điểm nhìn mọi việc bằng nhãn quan của đối tượng. Thấu cảm là một sự thông cảm trọn vẹn.


Chỉ khi tôi cảm thông được các cảm quan và tư tưởng, dù chúng hết sức kinh khủng đối với bạn, hết sức yếu đuối, hết sức tình cảm, hoặc hết sức kỳ quái – chỉ khi tôi thấy chúng y như bạn thấy chúngchấp nhận chúng, chấp nhận bạn thì bạn mới thật sự cảm thấy được tự do thám hiểm mọi gốc kẹt dấu kín và những nứt rạn đáng sợ trong nội tâm của bạn, cũng như những kinh nghiệm thường bị chôn vùi của bạn”. (Tiến trình thành nhân – Chương II – P. 54 Rogers).


III. CÁC TRƯỜNG HỢP THÔNG THƯỜNG CẦN TRỊ LIỆU:

1. XỬ LÝ CĂNG THẲNG THẦN KINH:

1.1 CĂNG THẲNG:

Căng thẳng là một trạng thái tình cảm được biểu hiện bởi sự quá tải về tâm lýlo âu sợ hãi được gây ra bởi các áp lực từ bên trong hoặc môi trường bên ngoài xã hội. Căng thẳng mang tính chủ quan. Trong cùng một tình huống có thể dễ gây căng thẳng với người này nhưng không sao với người khác. Căng thẳng cũng là một phần trong cuộc sống hàng ngày. Phần lớn chúng ta có thể xử lý sự căng thẳng mà không ảnh hưởng tới các mối quan hệ công việc của mình.


1.2 PHÂN LOẠI CĂNG THẲNG:

  • Căng thẳng hàng ngày là sự căng thẳng thường ngày có thể xảy ra.

  • Căng thẳng tích tụ: Đó là kết quả tích tụ, kéo dài của sự căng thẳng các sự kiện căng thẳng đa dạng từ gia đình, cá nhân , môi trường.

  • Sự suy nhược (sự kiệt sức): là trạng thái khi một cá nhân trở nên kiệt sức bởi quá nhiều căng thẳng và cá nhân không thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả hơn.

  • Căng thẳng bất ngờ: Xảy ra do một sự kiện bất ngờ như bạo lực, tai nạn mà con người không thể điều khiển được.


1.3. NGUYÊN NHÂN CỦA CĂNG THẲNG:

  • Những áp lực về thời gian: Công việc quá nhiều, trách nhiệm lớn, hoàn thành việc đúng hạn, môi trường ồn ào.

  • Những thay đổi trong cuộc sống: Công việc mới, nơi sinh hoạt mới, sự ra đi của người thân, cưới vợ, cưới chồng.

  • Những cản trở trong cuộc sống: mất tự do , bị chèn ép, xung đột khác, thất bại trong công việc.

  • Sự đe doạ đến tính mạng: Lo bị ngược đãi, lo sợ chiến tranh.


1.4. PHƯƠNG PHÁP ĐỐI VỚI CÁC CĂNG THẲNG:

  • - Các bài tập thể chất như là tập thể dục.

  • - Chia sẻ sự căng thẳng( nói, điện thoại cho bạn )

  • - Biết được cái ngưỡng của mình

  • - Tự chăm sóc( ăn các đồ ăn có nhiều chất dinh dưỡng, nghỉ ngơi, thư giãn )

  • -Có được thời gian thư giản , giải trí.

  • - Không nên ở riêng một mình.

  • - Sắp xếp thời gian

  • - Cố gắng hợp tác thay vì đối đầu

  • - Khóc là một điều bình thường

  • - Tránh sử dụng thuốc không có sự hướng dẫn của bác sĩ, không lạm dụng thức ăn, rượu và ma túy.


2. CAN THIỆP KHỦNG HOẢNG:

2.1. KHÁI NIỆM KHỦNG HOẢNG: là một trạng thái của sự mất thăng bằng khi cá nhân không thể đối phó với một tình huống bất bình thường. Những phương pháp thông thường để đối phó với các tình huống dễ gây căng thẳng không có hiệu quả nữa.


2.2. ĐẶC ĐIỂM KHỦNG HOẢNG:

  • - Có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm sinh lý cũng như thể chất của con người và các chức năng xã hội.

  • - Khiến cho cá nhân rơi vào tình trạng bị rối loạn và không tự lo liệu được.

  • - Trong khoảng từ 4 - 8 tuần.


2.3. PHÂN LOẠI KHỦNG HOẢNG:

Khủng hoảng theo quá trình phát triển: xuất hiện khi một người chuyển từ giai đoạn phát triển này sang một giai đoạn phát triển khác.


Khủng hoảng tình huống:

  • - Xuất hiện khi một việc đau buồn nào đó xảy ra, ví dụ như người thân yêu chết.

  • - Các dạng khủng hoảng tình huống:

  • + Khủng hoảng đoán trước được: Khi mà một người biết được các tình huống dễ gây căng thẳng thậm chí có thể xảy ra trong tương lai như là người chuyển ra nước ngoài.

  • + Khủng hoảng không biết trước: Khi có một điều gì đó xảy ra bất ngờ như là cháy nhà, tai nạn.


2.4. HỖ TRỢ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG (CRISIS INTERVENTION):

Phương thức này có dạng tương tự như phương thức trên, nhưng thường sử dụng trong trường hợp đối tượng đang trong tình trạng khủng hoảng. Quá trình này có những mục đích như : giúp đối tượng trấn tĩnh và lấy lại bình tĩnh, dự tính trước những tình huống khó khăn, và tăng thêm chức năng đối phó với những tình huống trong tương lai. Các hoạt động giúp đỡ cũng có giới hạn thời gian và có mục tiêu cụ thể. Nhân viên điều trị chú trọng vào vấn đề cụ thể tức thời của đối tượng trong tình trạng khủng hoảng, và các phương án đối phó trước đó. Các hoạt động giúp đỡ thường tăng chức năng ứng phó chứ không chú trọng vào các nhược điểm của đối tượng. Trong quá trình này, nhân viên điều trị làm việc trực tiếp với đối tượng, và sử dụng nhiều kỹ thuật và chiến lược khác nhau để cải thiện hoàn cảnh của đối tượng.


Trong giai đoạn đầu của quá trình giúp đỡ, nhân viên điều trị giúp đối tượng giảm bớt sự căng thẳng và cảm thấy rối trí. Việc nhận định tình huống rất quan trọng, để hiểu rõ nguyên nhân của tình trạng khủng hoảng, để nhận định những nguồn năng lực ứng phó của đối tượng, và để giúp đối tượng thiết kế các hành động đối phó. Nhân viên điều trị và đối tượng trong việc thực hiện kế hoạchMột việc rất quan trọng trước khi kết thúc là giúp đối tượng dự tính những trở ngại hoặc khó khăn có thể xảy ra trong tương lai.


Sau đây là một số hoạt động của nhân viên điều trị đểgiúp đối tượng trong tình trạng khủng hoảng:

  • - Nhận định và phân tích tình huống và nguyên nhân của sự khủng hoảng và sự căng thẳng.

  • - Nhận định những phương án ứng phó của đối tượng với những tình huống tương tự trong quá khứ để có thể giúp đối phó với tình huống hiện tại.

  • - Dự tính những nhu cầu, vấn đề cần thiết.

  • - Xác định và sử dụng những nguồn hỗ trợvà các tiềm năng của đối tượng.

  • - Thiết kế và thực hiện những việc cần phải làm trong thời gian nhất định.


2.5 TRỊ LIỆU NHẬN THỨC (COGNITIVE THERAPY):

Phương thức này còn có nhiều tên khác nhau như giải quyết vấn đề (Problem – solving), phân tích sự thực hiện (transactional – analysis). v.v. Đây là một phương thức thực hành dựa trên giả thuyết rằng tư duy và sự nhận thức của cá nhân rất quan trọng trong việc giải quyết vấn đề. Giả thuyết cho rằng các hành vi sai lầm là do sự nhận thức không đúng của cá nhân về chính họ, về những người chung quanh, và về các tình huống. Một số phương thức trị liệu tư duy đã được kết hợp với các phương thức thay đổi hành vi để trị các vấn đề tâm lý như bệnh trầm cảm, lo hãi, và trong những trường hợp đối tượng cần kiềm chế sự tức giận. Phương thức này cũng có thể dùng để giúp những người thiếu tự tin, hoặc thiếu tự chủ.


Phương thức này sử dụng kỹ thuật “tái cấu trúc nhận thức” (cognitive restructring) trong hoạt động giúp đối tượng. Kỹ thuật này gồm có các yếu tố:

  • - Giúp đối tượng nhận thức được các suy nghĩ sai lầm đã có ảnh hưởng đến các hoạt động chức năng của bản thân.

  • -  Xoá bỏ những suy nghĩ sai lầmvà thay vào đó là những tư duy xác thực và các hành động có tính chất tích cực để tăng cường các hoạt động chức năng của đối tượng.


Dựa trên giả thuyết rằng tư duy là một yếu tố cơ bản đối với các hành động của con người, việc phân tích giữa “lý trí” “cảm xúc” rất quan trọng. Sự phân tích này có mục đích là để giúp đối tượng giảm bớt sự bối rối, rối trí, và để họ có thể nhận định tình huống và vấn đề một cách rõ ràng từ đó dễ đối phó và giải quyết vấn đề. Một giả thuyết thứ hai là sự ảnh hưởng của các tư duy sai lầm đối với các hành động trong hiện tại của thân chủ. Vì thế, hoạt động giúp đỡ không nhắm vào các ý tưởng trong quá khứ, nhưng chú trọng vào các ý tưởng hiện tại và trong tương lai. Giả thuyết thứ ba là mỗi cá nhân đều có trách nhiệm hoàn thiện bằng cách thay đổi tư duy và hành động của chính mình. Nhân viên điều trị có thể giúp đối tượng thực hiện những hoạt động trên.


Trong quá trình này, các hành vi của đối tượng được phân tích rõ ràng thông qua việc nhận định tình huống, xác định các yếu tố ảnh hưởng đã tạo ra các hành vi tiêu cực của bản thân. Việc nhận định tình huống và đặt mục tiêu cụ thể và thiết thực là các hành động chủ yếu trong quá trình này. Sự kiên trì, tính liên tục, và sự khuyến khích đúng mực là yếu tố quan trọng.


Cần phải đặt ra một mức tiêu chuẩn nhất định ngay lúc bắt đầu để giúp đối tượng đo lường được sự tiến triển của mình. Cần có sự thống nhất ý kiến giữa nhân viên điều trị và đối tượng trong việc động viên và theo dõi tiến trình của đối tượng, để nhận định:

  • - Các mục tiêu của quá trình giúp đỡ

  • - Vai trò của nhân viên điều trị và của đối tượng

  • - Các hoạt động của nhân viên và của đối tượng

  • - Hạn định thời gian và lịch trình

  • - Cách thức theo dõi tiến triển của đối tượng

  • - Các điều kiện để quyết định sự cam kết giữa nhân viên và đối tượng

  • - Và các chi tiết hành chính khác


Một trong những hạn chế của phương thức thực hành này là phần lớn chú trọng đến hành động, và không đề cập đến các yếu tố cảm xúc và là lý trí của đối tượng. Vì vậy, phương thức này thường được sử dụng cùng lúc với một hoặc hai phương thức khác, để giúpđối tượng một cách toàn diện hơn.


KẾT LUẬN

Bằng phương pháp tư vấn và tâm lý trị liệu cá nhân – nhóm – gia đình và biện pháp quản lý ca – đối tượng cai nghiện ma túy đạt được:

  • - Một sự chân thật và trong suốt, trong đó đối tượng sống với các cảm quan thật của chính bản thân họ.

  • - Một sự tôn trọng và chấp nhận của đối tượng về chính bản thân mình.

  • - Một khả năng nhạy cảm để nhìn thế giới của chính mình.

  • - Kinh nghiệm và hiểu được những khía cạnh của chính mình mà họ trước đây bị đè nén.

  • - Thấy mình trở nên hợp nhất hơn, có thể hành động hữu hiệu hơn.

  • - Trở nên giống mẫu người mà mình ao ước muốn trở thành.

  • - Tự chủ hơn và tự tin hơn.

  • - Trở nên người trưởng thành hơn, độc đáo hơn, tự bộc lộ hơn.

  • - Có quan hệ khác với người chung quanh.

  • - Hiểu người khác và chấp nhận người khác hơn.


Bằng những phương pháp trên, đối tượng cai nghiện ma túy nhận thức rõ bản thân, sự việc -  biết cách xử lý các tình huống không thuận lợi. Và tạo được cho mình tính tự chủ và niềm tin trong quá trình chiến đấu nhằm thoát khỏi sự lệ thuộc của ma túy.


Tuy nhiên Tư vấn – Tâm lý trị liệu cũng chỉgiữ một phần vai trò trong vấn đề cai nghiện – Để thoát khỏi ma túy đòi hỏi phải có một sự điều trị tổng hợp trong quá trình phục hồi của người nghiện.


ĐỂ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU TRÊN, TRUNG TÂM ĐIỀU DƯỠNG VÀ CAI NGHIỆN MA TÚY THANH ĐA ĐÃ XÂY DỰNG MỘT LỰC LƯỢNG CHUYÊN MÔN MẠNH:

KHỐI Y TẾ

- Tổng số: 33 CBNV

- Trên Đại học: 1 Tiến sỹ Y khoa

- Đại học: 6 Bác sĩ, 1 Dược sĩ

- Y sỹ - Điều dưỡng:  20 NV

Y - Bác sỹ khối Y tế đã được huấn luyện điều trị và tư vấn về ma túy + các bệnh Lao - HIV/AIDS các bệnh truyền nhiễm và các phương pháp chống tái nghiện (đã được các cơ quan chức năng cấp giấy chứng nhận.)

* CBNV thuộc nhiều chuyên ngành: Cai nghiện phục hồi - Tâm thần - Da liễu - Gan mật - Điều dưỡng - Tim mạch - Sản phụ khoa....

KHỐI TƯ VẤN - TÂM LÝ TRỊ LIỆU – GIÁO DỤC TRỊ LIỆU – HUẤN NGHIỆP, LAO ĐỘNG TRỊ LIỆU

- Tổng số: 30 CBNV

+Trên Đại học: 05 (02 Tiến sĩ Xã hội học, 03 Thạc sỹ Tâm lý Giáo dục).
+ Đại học: 20 (03 Cử nhân Tâm lý Trị liệu + 08 Cử nhân Tâm lý Giáo dục + 03 Cử nhân Xã hội học + 06 Đại học khác).

- Đội ngũ CBNV có trình độ - đa dạng - năng động và nhạy bén.
Đội ngũ CBNV gồm từ nhiều nguồn như Đai học Y - Dược, ĐH Sư phạm, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH Thể dục - Thể thao, ĐH Luật, Cán bộ phong trào, Cựu sỹ quan Công an - Bộ đội nhiều binh chủng khác nhau… đã đươc tập huấn, bồi dưỡng nhiều chương trình, nhiều lớp chuyên đề về cai nghiện - phục hồi - tâm lý - xã hội.
- Ngoài ra còn 10 giáo viên kỹ thuật của Trường Cao Đẳng Nghề Nguyễn Trường Tộ  Tp. Hồ Chí Minh đến dạy nghề cho học viên.

Tài liệu do Trung tâm Điều dưỡng và Cai nghiện Ma túy Thanh Đa biên soạn.

VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ – XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

VAI TRÒ CỦA LIỆU PHÁP GIÁO DỤC TÂM LÝ – XÃ HỘI CHO NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY

Nghiện ma túy là một bệnh mãn tính – khó chữa có đặc tính là dễ tái nghiện. Việc điều trị – phục hồi cho người nghiện ma túy đòi hỏi phải kiên nhẫn và phải có những kiến thức về cai nghiện ma túy.


Việc tìm kiếm mô hình điều trị tốt quả là rất khó khăn vì không có phương pháp điều trị chung nào thích hợp với mọi loại người nghiện. Phương pháp điều trị tốt cho người này chưa hẳn đã phù hợp cho người khácphương pháp điều trị có hiệu quả cần đáp ứng nhu cầu đa dạng của người nghiện chứ không chỉ đơn thuần nhắmvào việc xử dụng ma túy của họ. 


Khi người nghiện càng xử dụng ma túy càng lâu, liều lượng càng tăng thì hậu quả càng nhiều và càng nặng nề bấy nhiêu. Những tác động của ma túy trên não bộ gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn trên người nghiện và làm người nghiện ma túy suy giảm khả năng suy đoán- xử lý thông tin- khả năng tự chủ tạo ký ức hồi tưởng nên dễ lệ thuộc vào những khoái cảm ngất ngây, kích động mạnh mẽ khi nghĩ hoặc xử dụng  ma túy.


Vì lệ thuộc vào ma túy, cuộc sống người nghiện suốt ngày loanh quanh trong việc sử dụng nó. Đó là phương thức tồn tại của người nghiện.


Về mặt hành vi, người nghiện phát triển những cách ứng xử không thích nghi hoặc những thói quen xấu- những hành vi đó đã ngăn cách người nghiện với cộng đồng, mất đi lòng tự trọng, tinh thần trách nhiệm. Hầu hết người nghiện không cần hoặc không còn khả năng hiểu biết những hậu quả do hành vi mình gây nên.


Người nghiện ma túy không đủ nghị lực cũng như không đủ nhận thức để sống một cách trong sạchlành mạnh có kỹ năng làm việc. Về mặt tinh thần, sức khỏenghề nghiệp, trách nhiệm với gia đình xã hội… có thể suy sụp đến một mức làm sự điều trị - phục hồi cho đối tượng trở thành hết sức khó khăn.


Từ những rối loạn tâm sinh lý trên cộng thêm những bối cảnh tiêu cực của bản thân - gia đình – xã hội rất dễ dẫn người đã cai nghiện đến tái nghiện. Hiện nay có nhiều phương pháp, nhiều mô hình về cai nghiện ma túy. Tuy nhiên, dù bằng phương pháp nào, mô hình nào cách điều trị phải đảm bảo được  các yếu tố sau:


I. ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÓ KẾT QUẢ PHẢI DUY TRÌ THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ ĐỦ DÀI:

Thời gian cai nghiện trung bình là 2 năm.

Một quan điểm rất sai lầm của nhiều người cắt cơn nghiện là chữa xong ma túy. Thực chất cắt cơn nghiện ma túy chỉ là giai đoạn đầu của điều trị cai nghiện, bản thân việc cắt cơn nghiện có rất ít tác động đến việc thay đổi tình trạng xử dụng ma túy mà cần phải điều trị hậu cai một thời gian dài. Việc cắt cơn nghiện được ví như chiếc xe nổ máy nhưng chưa chạy được.


Do các rối loạn tâm trí thực tổn, các phản ứng tâm lý và đặc biệt là hội chứng hồi tưởng: dẫn đến  những cơn nhớ ma túy với tất cả sự khoái cảm của nó và sự phản ứng yếu ớt của bản thân trước sự quyến rũ của ma túy. Nếu được điều trị tích cực đúng cách , đủ thời gian, cách ly với môi trường ma túy: cường độ và tần số nhớ này sẽ giảm dần – nhưng ngay cả khi tạm gọi là cai nghiện thành công, người nghiện vẫn phải tiếp tục cai nghiện cả đời.


II. YẾU TỐ TIÊN QUYẾT LÀ QUYẾT TÂM CAI NGHIỆN CỦA ĐỐI TƯỢNG:

Khi đối tượng không chịu cai nghiện thì khó thể chữa được bệnh. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội theo quan điểm chúng tôi chỉ còn biện pháp tạm thời  cách ly họ khỏi xã hội để cưỡng bức điều trị.


Biện pháp cai nghiện bắt buộc không phải là không có kết quả. Tại các Trung tâm cai nghiện cưỡng bứcđối tượng có thời gian cách ly với môi trường ma túy sẽ có thời gian suy nghĩ lại mình. Nếu tại các Trung tâm cai nghiện tốt, đối tượng sẽ được giúp đỡ quan tâm, giáo dục đúng đắn: do đó nhận thức, tư tưởng, đối tượng sẽ được chuyển đổi dần thành cai nghiện tự nguyện. Trái lại tại các Trung tâm cai nghiện không tốt dù tự nguyện hay không tự nguyện đối tượng cũng sẽ dễ dẫn đến những đối kháng với Trung tâm, dẫn đến đối kháng thêm với gia đình – dễ có những hành vi hung hăng, bạo loạn bộc phát. Tại các Trung tâm trên, một số đối tượng khác không thể phản kháng được, âm thầm chấp nhận sự cai nghiện tại Trung Tâm Cai nghiện nhưng rất dễ dẫn đến trầm cảm phản ứng là chấp nhận đủ thời gian cai nghiện  và sau khi rời Trung tâm về dễ bùng phát dẫn đến tái nghiện nhanh.


III. THUỐC:

Là yếu tố quan trọng trong việc cắt cơn giải độc và điều trị các bệnh cơ hội đính kèm góp phần giải quyết các rối loạn tâm sinh lý nhất là các hội chứng hưng trầm cảm sau cắt cơn của đối tượng cai nghiện. Tuy nhiên bản thân của thuốc phải kết hợp với rất nhiều biện pháp điều trị không dùng thuốc kháckhông có một loại thuốc  nào đơn thuần chữa được bệnh nghiện ma túy.


IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ  KHÔNG DÙNG THUỐC:

Vấn đề quan trọng là phục hồi cho người nghiện ma túy sau cắt cơn bằng nhiều biện pháp điều trị tổng hợp như Giáo Dục Trị Liệu – Tâm Lý Trị Liệu – Vật Lý Trị Liệu – Hoạt Động Trị Liệu trong đó có Giải Trí Trị Liệu, Lao Động Trị Liệu và các Liệu pháp khác. Ngoài ra các Trung tâm cai nghiện cần phải có hoạt động Tư vấn, sinh hoạt cá nhân, nhóm, gia đình nhằm chuyển đổi nhận thức hành vinhân cách, quan điểm sống của người nghiện và thái độ ứng xử của gia đình đối với người nghiện ma túy. Các động tác này được lặp đi, lặp lại thành một thói quen – một nếp sống – một nếp nghĩ cho người nghiện, nhằm giáo dục phục hồi hành vi nhân cách cho người nghiện.


Việc để người nghiện có quyền ý kiến và tham gia vào môi trường điều trị của mình là điều cần làm vì như vậy học viên có trách nhiệm và thể hiện được vai trò của mìnhnhận thức và tự chủ dần các hành động của bản thân. Nhưng nhất thiết dù biện pháp nào, cũng phải đảm bảo đối tượng không lợi  dụng qua đó có điều kiện xử dụng lại ma túy. Một yếu tố không thể thiếu được là sự hợp tác chặt chẻ giữa “Gia Đình + Đối Tượng + Trung Tâm Cai Nghiện”.


Khi đối tượng trở về cộng đồng, công thức: “Gia Đình + Đối Tượng + Trung Tâm Cai Nghiện + Cộng Đồng” là không thể thiếu được.


Mục tiêu cuối cùng của giai đoạn phục hồi là khi trả về cộng đồng đối tượng cai nghiện được trang bị những nhận thức và thói quen tốt có thể tạm đi trên hai chân của mình với sự tiếp tục quản lý, giúp đỡ, quan tâm của Gia Đình - Xã Hội và Trung tâm cai nghiện để tiến vững bước dần trong môi trường lành mạnh.