HTV9 - MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN
1. Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc
2. TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG - CỎ MỸ
3. Nghi vấn nam thanh niên bị loạn thần sau khi sử dụng cỏ Mỹ
4. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN RƯỢU
5. VTV6 - Điểm nóng - Có những sự "trở về" như thế
6. VNExpress - Một số tài xế container sử dụng ma túy
7. Dân trí - Bi hài chuyện những gã “ngáo đá” nổi tiếng đất cảng
8. Sức khỏe & Đời sống - Bóc trần sự thật về thuốc cai nghiện rởm giá “trên trời” bán tại Sài Gòn
9. SGTT - Bán thuốc cai nghiện ma túy dễ như bán... Viagra
10. Người đưa tin - Rước họa vì thuốc cai nghiện trên mạng
11. SGPP - Cai từ tại gia cai qua... điện thoại
12. SGGP - Cai chưa xong, đã nghiện thuốc
13. Sức khỏe và đời sống - Tư vấn cai nghiện ma túy “chui”: ... Cho không lấy, thấy không chơi (?!)
14. ANTD - Giết vợ xong ngồi canh xác chờ công an đến… cứu
17. Kỹ năng TƯ VẤN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI
18. VTV9 - CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU ...
19. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự
20. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng
21. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt
22. Cai nghiện - Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ
23. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu
24. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần
25. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình
26. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”
27. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu
28. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi
29. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu
30. CAND - Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ
31. Lao động - Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới
32. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy
33. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả
34. Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu
35. Báo mới - Điều trị nghiện rượu như thế nào?
36. Người đưa tin - Tuyệt tự vì mê đắm trong 'cõi lưu linh'
37. ANTĐ - Nghiện rượu và những hệ luỵ
38. Dân trí - Chồng lấy xăng thiêu sống vợ ngay tại nhà
39. CAND - Chống nghiện rượu - kế hoạch hàng đầu của nước Nga
40. CATP - Điên vì nghiện rượu
41. VietNamNet - Tâm thần, tự sát vì rượu dịp Tết
42. Tuổi trẻ - Không uống không... chịu được
43. Lao Động - Có thể cai rượu bằng thuốc?
44. SK&ĐS - Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc
45. PNO - Thương con “ngáo đá”, mẹ gánh hậu quả
46. HTV7 - Vì cuộc sống cộng đồng
47. HTV9 - Điều kỳ diệu của sự yêu thương
49. TIN MỚI - Cận cảnh khuôn mặt biến dạng theo thời gian vì nghiện ma túy
51. Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy
52. Nghệ An: Triệt phá đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam
53. Bài 4 - Sàng lọc - Đánh giá và lập kế hoạch cho người nghiện ma túy
54. Bài 5 - Các dịch vụ phục hồi chức năng cho người nghiện ma túy
55. Vai trò công tác tư vấn và trị liệu tâm lý trong cai nghiện - phục hồi cho người nghiện ma túy
56. Hải Phòng: Triệt phá đường dây sản xuất ma túy giả
57. 6 người chết ở quán karaoke: Nạn nhân dương tính với ma túy
58. Con trai trùm ma túy sa lưới
59. 204.377 người nghiện chỉ bắt đi cai được... 33
60. Không thể đưa người nghiện đi cai, tội phạm TP HCM đang tăng
61. Tràn lan người nghiện 'xin đểu' tại trung tâm TP HCM
62. Hải Phòng: Hàng trăm học viên cai nghiện tràn ra phố
63. Giấu cần sa trong khung, lốp và thùng nhiên liệu
64. Tổng quan về điều trị lệ thuộc chất dạng thuốc phiện theo GS Robert Ali
65. Hiệu quả kinh tế của các biện pháp điều trị lệ thuộc heroin hoặc thuốc phiện
66. Nghiện các chất dạng thuốc phiện (CDTP) và các phương pháp điều trị ở Việt Nam
68. CAND - Một ổ buôn ma túy lớn không ngờ
69. CAND - Công điện của Bộ trưởng Bộ Công an về mở đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm
70. CAND - Giết người yêu vì ảo giác
71. SGGP - Chung tay phòng, chống ma túy
72. Người lao động - Cai nghiện tại gia: Khó trăm bề!
73. Người lao động - Thách thức với Methadone
74. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả
75. SGGP - Phá đường dây buôn bán ma túy từ Lào về Việt Nam, thu giữ 120.000 viên ma túy tổng hợp
76. VNEXPRESS - 66 người trong đường dây buôn heroin đối mặt án tử hình
77. VNEXPRESS - Bên trong làng ma túy số một Trung Quốc
78. VietNamNet - Gã nghiện sát hại dã man người yêu đang mang thai
79. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự
80. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng
81. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt
82. Cai nghiện - Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ
83. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu
84. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần
85. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình
86. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”
87. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu
88. Chính phủ - Rượu bia và hệ lụy: Câu chuyện từ gia đình đến pháp đình
89. Người lao động - Tan nát gia đình vì rượu
90. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi
91. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu
92. CAND - Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ
93. VNEXPRESS - Hàng loạt lái xe khách nghiện ma túy
94. PLXH - Tội ác khó dung của gã chồng nghiện rượu
96. Thông tin báo chí về cai nghiện rượu
97. PLVN - Bàng hoàng: cháu giết bà trong cơn nghiện rượu
98. Thanh niên - Loạn thần do rượu
99. Lao động - Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới
100. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy
TÁC HẠI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN (GÂY YÊN DỊU, GÂY NGỦ VÀ GIẢI LO ÂU)
TÁC HẠI CỦA CÁC THUỐC HƯỚNG THẦN (GÂY YÊN DỊU, GÂY NGỦ VÀ GIẢI LO ÂU)
Bác sĩ Chuyên khoa II, thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh TuấnCác thuốc gây êm dịu có tác dụng làm giảm căng thẳng và làm yên dịu tâm thần. Thuật ngữ gây yên dịu đồng nghĩa với thuật ngữ giải lo âu. Các thuốc gây ngủ được sử dụng để gây ngủ. Các thuốc gây yên dịu và giải lo âu là thuốc được dùng ban ngày còn thuốc ngủ được dùng ban đêm. Khi các thuốc gây yên dịu và giải lo âu được dùng ở liều cao chúng có thể gây ngủ như các thuốc gây ngủ. Ngược lại, khi các thuốc gây ngủ được dùng ở liều thấp chúng có thể gây yên dịu ban ngày, giống như các thuốc gây yên dịu và giải lo âu.
Các thuốc gây yên dịu và giải lo âu bao gồm benzodiazepine (Diazepam. Seduxem, Clorazepate, Alprazolam, Bromazepam, Clonazepam, Zolpidem...), họ meprobamate, họ piperazine (Atarax), họ benzoxazine (Stresam), họ azaspirodecadiones (Buspirone), họ cyclopyrolones (Zopiclone)...
Các thuốc gây ngủ bao gồm barbiturate và các chất tương tự barbiturate, một số benzodiazepnine (zolpidem: Stilnox; flunitrazepam: Rohypnol, nitrazepam: Mogadon)...Ngoài ra các thuốc này còn có chỉ định khác (ngoài tâm thần) như chống động kinh, chống co giật, giãn cơ, gây mê và kết hợp trong gây mê. Toàn bộ các thuốc này đều có dung nạp chéo với rượu và gây nghiện, gây tăng liều và gây hội chứng cai về cơ thể và tâm thần.
A. DỊCH TỄ
Theo DSM IV, ở Mỹ, khoảng 1/4-1/3 toàn bộ các chất nào có liên quan tới các trường hợp cấp cứu do lạm dụng chất. Tỉ lệ sử dụng các chất này giữa nữ và nam là 3/1. Benzodiazepine thường bị lạm dụng một mình nhưng những người nghiện cocaine cũng thường sử dụng benzodiazepine để giảm hội chứng cai. Còn những người lạm dụng các chất dạng thuốc phiện sử dụng chúng để tăng hiệu quả khoái cảm của các chất dạng thuốc phiện. Những người lạm dụng amphetamine để giảm lo âu do các chất đó gây ra.
Ở Pháp, những người tuổi từ 18-75, sử dụng thường xuyên các thuốc hướng thần là 9%, trong đó nữ là 12% và nam là 6% (EROPP 2002, OFDT). Và ở lứa tuổi 17-18 là 2,9% trong dó nữ là 4,7% và nam là 1,3%.
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ
Benzodiazepines, Barbiturates và các chất giống barbiturates có hiệu quả trước tiên trên phúc hợp receptor gama-amino-butyric acid (GABA) loại A (GABAA), các receptor này bao gồm kênh ion Clo gắn vào điểm GABA và cũng đã được xác định gắn vào các điểm tiếp nhận benzodiazepines. Khi các chất benzodiazepines, barbiturates hoặc các chất dạng barbiturates gắn vào các phức hợp receptor này, hiệu quả là làm tăng ái lực của receptor với các chất trung gian hóa học nội sinh của nó (GABA), và tăng lưu lượng ion Clo vào kênh neuron. Hiệu quả của sự tràn ngập ion Clo âm đi vào neuron dẫn đến sự ức chế, dẫn đến tăng phân cực các neuron tiếp theo đi ra ngoài tế bào.
Mặc dù tất cả các thuốc hướng thần nếu trên gây dung nạp và phụ thuộc vào cơ thể, cơ chế đằng sau các tác dụng này đã được hiểu rõ đối với benzodiazepines. Sau một thời gian sử dụng benzodiazepines kéo dài, có một sự giảm sút các hiệu quả của receptor gây ra bới sự đồng vận. Đặc biệt sau giai đoạn sử dụng benzodiazepine kéo dài, sự kích thích GABA của receptor GABAA làm lượng ion Clo đi vào ít hơn đã bị gây ra bởi sự kích thích GABA trước khi sử dụng.benzodiazepine. Sự điều hòa đáp ứng receptor kém đi không phải do giảm số lượng receptor hoặc giảm ái lực của receptor với GABA. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ sự kết nối giữa các điểm gắn GABA với sự kích hoạt kênh ion Clo. Sự giảm hiệu quả trong sự liên kết đó có thể được điều hòa chính bên trong của phức hợp receptor GABAA hoặc bởi cơ chế thần kinh khác.
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
- Sử dụng đường uống: các thuốc hướng thần nêu trên được sử dụng qua đường uống có hiệu quả như thư giãn vào buổi tối, tăng hoạt động tình dục, khoái cảm nhẹ, trong thời gian ngắn, giải lo âu, gây ngủ. Thường gặp ở những người trung niên, lớn tuổi.
- Sử dụng đường tiêm tĩnh mạch: thường gặp ở những người trẻ tuổi, thường liên quan tới sử dụng bất hợp pháp. Tiêm tĩnh mạch barbiturate gây thoải mái, ấm người, cảm giác buồn ngủ, và người sử dụng có khuynh hướng sử dụng barbiturate nhiều hơn các chất dạng thuốc phiện do giá rẻ hơn. Sự nguy hiểm khi sử dụng bơm kim tiêm không sạch gây các bệnh lây nhiễm qua đường tiêm chích như HIV, viêm gian, nhiễm khuẩn huyết... Việc tiêm tĩnh mạch các thuốc này gây dung nạp nhanh và mạnh, gây phụ thuộc và hội chứng cai mạnh.
- Quá liều:
+ Benzodiazepine
Khác với barbiturate và các chất dạng barbiturate, với benzodiazepine có khoảng cách giữa liều điều trị và liều ngộ độc rất rộng nên an toàn hơn khi dùng quá liều. Tỉ lệ giữa liều tử vong và liều điều trị là 200/1 hoặc cao hơn bởi vì nguy cơ gây suy hô hấp rất thấp. Thậm chí khi dùng liều quá lớn (trên 2 gram) để tự sát, các triệu chứng cũng chỉ bao gồm: buồn ngủ, ngủ sâu, mất điều hòa động tác, hơi lú lẫn, các dấu hiệu sinh tồn suy giảm chút ít. Điều nguy hiểm hơn là uống benzodiazepine quá liều kết hợp với các chất gây ngủ, yên dịu khác như rượu chẳng hạn. thuốc flumazenil (Mazicon), một thuốc đối vận đặc trưng của benzodiazepine do vậy nó được sử dụng ở cơ sở cấp cứu.
+ Barbiturates
Các thuốc này gây tử vong khi sử dụng quá liều do làm suy hô hấp. Hiện tượng tử vong do thuốc này khá phổ biến ở những người nghiện, có ý đinh tự sát hoặc không cố y tự sát. Và nó cũng là loại thuốc thường gây tử vong ở trẻ em khi sử dụng quá liều. Tử vong do barbiturate được biểu hiện bằng hôn mê, ngừng thở, trụy tim mạch và tử vong.
- Liều tử vong phụ thuộc đường sử dụng, mức độ dung nạp. Ở phần lớn những người lạm dụng barbiturate, tỉ lệ giữa liều tử vong và liều điều trị là từ 3/1 - 30/1. Những người nghiện sử dụng 1,5 gram/ ngày loại tác dụng nhanh, một số người nói rằng họ sử dụng 2,5 gram/ ngày trong vòng một tháng. Liều tử vong không có sự khác biệt lớn giữa người sử dụng lâu hay mới sử dụng. Sử dụng nạp diễn ra nhanh chóng.
D. CHẨN ĐOÁN
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán lạm dụng và nghiện các thuốc hướng thần gây yên dịu, gây lo âu, gây ngủ
Theo tiêu chuẩn chung (DSM IV).
2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc các thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ
a. Vừa mới sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.
b. Biến đổi tâm lý và hành vi, xảy ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ (ví dụ như: có hành vi tấn công hoặc tình dục không hợp lệ, cảm xúc không ổn định, lý lẽ, các chúc năng nghề nghiệp, xã hội bị suy giảm).
c. Có ít nhất một trong các biểu hiện sau đây, xuất hiện trong hoặc ngay sau khi sử dụng các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.
-
(1) Nói líu lưỡi.
-
(2) Mất phối hợp vận động.
-
(3) Dáng đi thay đổi.
-
(4) Rung giật nhãn cầu.
-
(5) Suy giảm chú ý và trí nhớ.
-
(6) Sững sờ hoặc hôn mê.
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rối loạn tâm thần khác gây ra.
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng cai các thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ
a. Ngừng hoặc giam liều mạnh và kéo dài các thuốc gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ.
b. Có ít nhất 2 trong số các biểu hiện sau dây, xảy ra từ vài giờ tới vài ngày sau tiêu chuẩn a.
-
(1) Tăng hoạt hệ thần kinh thực vật (vã mồ hôi hoặc mạch trên 100 ck/phút).
-
(2) Run tay mạnh.
-
(3) Mất ngủ.
-
(4) Buồn nôn.
-
(5) Có ảo tưởng hoặc ảo thính giác, xúc giác, thị giác tạm thời.
-
(6) Kích động tâm thần vận động.
-
(7) Lo âu.
-
(8) Có cơn co giật toàn thể.
c. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn b gây ra đau khổ rõ rệt hoặc làm giảm sút các chức năng xã hội, nghề nghiệp hoặc các lĩnh vực quan trọng khác.
d. Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rối loạn tâm thần khác gây ra.
4. Sảng run với thuốc hướng thần gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ
DSM IV cho phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Cần phân biệt với sảng run do hội chứng cai rượu thường gặp hơn so với sảng run do barbiturate hoặc benzodiazepine. Sảng run kết hợp với nhiễm độc có thể xảy ra với barbiturate hoặc benzodiazepine nếu liều sử dụng đủ cao.
5. Sa sút trí tuệ dai dẳng
DSM IV cho phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Sự tồn tại của chẩn đoán này đàng còn tranh luận bởi vì không chắc có hay không sự sa sút trí tuệ dai dẳng do chính việc sử dụng các chất trên. Vì vậy cần đánh giá chặt chẽ và thận trọng khi làm chẩn đoán này.
6. Rối loạn trí nhớ dai dẳng
DSM IV chi phép làm chẩn đoán này với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ. Rối loạn trí nhớ kết hợp với các chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ có thể được làm chẩn đoán phụ. Một số trường hợp có giai đoạn mất nhớ kết hợp với sử dụng ngắn hạn benzodiazepine với thời gian bán hủy ngắn như triazolam (halcion).
7. Rối loạn loạn thần
Các triệu chứng loạn thần của hội chứng cai barbiturate có thể được phân biệt với triệu chứng của sảng run do rượu. Kích động, hoang tưởng và ảo giác thường gặp là ảo thị, nhưng đôi khi là ảo xúc hoặc ảo thanh, xuất hiện sau hội chứng cai khoảng 1 tuần. Các triệu chứng loạn thần kết hợp với nhiễm độc hoặc hội chứng cai thường gặp do barbiturate nhiều hơn là do benzodiazepine và nó được chẩn đoán do chất gây yên dịu, giải lo âu, gây ngủ gây ra tình trạng loạn thần này. Tuy nhiên thầy thuốc có thể xác định có hay không các hoang tưởng hoặc ảo giác là các triệu chứng chiếm ưu thế.
Bóng cười là gì?
Bóng cười là gì?
Bóng cười là khí gây cười, tên hóa học là Đinitơ monoxit hay nitrous oxide, là hợp chất hóa học với công thức N2O. Khi bơm vào bóng bay, gọi là bóng cười (funkyball).
Mới chỉ du nhập vào Việt Nam không lâu, nhưng bóng cười đã nhanh chóng trở thành trào lưu được giới trẻ yêu thích thậm chí coi nó như một thú vui mỗi khi đi hộp đêm, hít một hơi bạn sẽ cười không ngừng nghỉ.
Tại các hộp đêm ở Hà Nội, không khó để tìm được bóng cười vì chúng được bán bí mật một cách "công khai" tại đây để phục vụ các dân chơi.
Bóng cười hay còn được gọi với tên Funkyball là một trong những trào lưu đang được giới trẻ ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam thịnh hành nhất hiện nay, họ coi đây là một thú vui dùng để xả stress.
Bóng cười không phải là một loại thuốc hay trò chơi nó thực chất chỉ là những quả bóng bay bình thường nhưng được bơm thêm khí nitrous oxide và công việc của người dùng chỉ là "thổi" và "hít" - "hít" và "thổi".
Những quả bóng cười này được người bán bơm khí ga bằng một dụng cụ bơm chuyên dụng. Sau đó người mua sẽ cầm bóng để hít hà, khí hết cũng là lúc quả bóng lép xẹp. Khí nitrous oxide lan tỏa, ngấm vào cơ thể sẽ tạo cảm giác phấn khích, tạo ảo giác gây cười cho người sử dụng.
Bóng cười có hại như thế nào?
Trông tưởng như bình thường, nhưng chơi và hít hơi bóng cười lại ẩn chứa nhiều mối nguy hại. Được biết ở một số nước châu Âu, chất này là chất kích thích được bán hợp pháp tại các hộp đêm.
Khi hít bóng cười người chơi sẽ thấy sảng khoái cứ thế tuôn cười không thể kiểm soát được, sau đó hoàn toàn chìm đắm trong ảo giác, những đê mê về mọi thứ xung quanh.
Các bác sĩ trên thế giới cũng từng cảnh báo rằng, việc hít bóng cười hay khí cười ảnh hưởng trực tiếp tới tim mạch, hệ thần kinh mà hậu quả xấu nhất nếu làm dụng là dẫn tới trầm cảm hoặc thiệt mạng. Hít khí này vào cảm giác tê tê, đặc biệt là nghe nhạc rõ, sau đó phấn khích, cười ngả nghiêng.
Theo báo chí, vào năm 2010, diễn viên Mỹ Demi Moore sau khi hít loại bóng cười này trong những buổi tiệc đã phải nhập viện với triệu chứng co giật, run rẩy. Cuối năm 2012, một sinh viên Trường Đại học Illinois là Benjamin Collen, 19 tuổi, đã tử vong vì bị ngạt khí N2O.
Mới đây nhất, một hot girl Hà Nội cũng đã nhập viện vì hút bóng cười bị ngộ độc khí N2O dẫn đến ức chế thần kinh, gây đột quỵ dạng nhẹ.
Điều nguy hại là nếu lạm dụng chất gây ảo giác lâu ngày sẽ rất dễ đi đến sử dụng thuốc gây nghiện thật sự, thậm chí là sử dụng ma túy. Bởi vì, khi đã quen cảm giá "phê" với ảo giác, các bạn trẻ rất dễ tìm đến thứ tạo cảm giác"phê" mạnh hơn. Các em đã quen dùng khí cười để "phê" thì sẽ có lúc chơi thử bồ đà, thuốc lắc, "hàng đá"... Đến lúc nào đó sẽ chơi thử heroin, từ hút đến tiêm chích và rồi chắc chắn việc nghiện tiêm chích ma túy cộng với nhiễm HIV/AIDS sẽ đến cái chết.
TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG – LSD
TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG - LSD
LYSERGIC ACID DIETHYLAMIDE( LSD)
Bác sĩ Chuyên khoa II - Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Minh Tuấn
A. DỊCH TỄ HỌC:
Theo số liệu dịch tễ của Mỹ năm 1991, khoảng 8,1% dân số Mỹ đã sử dụng chất gây ảo giác ít nhất một lần, 1,2% đã sử dụng trong năm vừa qua, 0,3% đã sử dụng trong tháng qua. Sử dụng chất gây ảo giác khá phổ biến ở nam giới da trắng lứa tuổi từ 15-35 tuổi. Theo số liệu của viện nghiên cứu quốc gia Hoa kỳ về lạm dụng chất (NIDA) công bố năm 1991, khoảng 13,1% người lớn, 7,8% người già và 3,3 % thanh niên nói rằng họ đã sử dụng chất gây ảo giác.
Số liệu của Pháp (EROPP, OFDT): Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi 18-75, năm 2002.
Bảng 5-1: Tỉ lệ sử dụng nấm gây ảo giác và LSD ở lứa tuổi từ 18-75, năm 2002 ở Pháp.
Tuổi | 18-75 | 18-25 | 26-44 | 45-75 | Nam | Nữ |
Nấm | 1,1% | 2,3% | 1,6% | 0,3% | 1,4% | 0,9% |
LSD | 1,1% | 1,2% | 1,9% | 0,5% | 2,1% | 0,2% |
Số liệu của Pháp ( ESCAPAD, OFDT): Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và Ketamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002.
Bảng 5-2. Tỉ lệ sử dụng mới đây nấm gây ảo giác, LSD và kétamine ở lứa tuổi từ 17-18, năm 2002
Nữ | Nam | Tổng số | Nữ | Nam | Tổng số | |
Nấm | 2,6% | 5,9% | 4,3% | 0,6% | 1,4% | 1,0% |
LSD | 0,9% | 1,9% | 1,4% | 0,3% | 0,7% | 0,5% |
Kétamine | 0,4% | 0,7% | 0,6% |
B. ĐẶC ĐIỂM DƯỢC LÝ:
Sự tranh luận về việc có hay không tác động của LSD như một chất đối vận hoặc đồng vận với hệ thống serotoninergic. Các số liệu hiện nay gợi ý rằng tác động của LSD như một chất đồng vận một phần của các receptor serotonine hậu synapse.
Phần lớn các chất gây ảo giác hấp thu tốt sau khi uống, đỉnh huyết tương của LSD trong vòng 60 phút sau khi uống và thải trừ chậm qua đường nước tiểu và phát hiện chất chuyển hóa của nó trong nước tiểu có thể sau 3-4 ngày. Tuy nhiên, một liều rất nhỏ cần thiết để gây ra một hiệu quả loạn thần rất khó phát hiện trong nước tiểu. Mặc dù một số loạichất gây ảo giác được sủ dụng bằng đường hút, hít hoặc tim tĩnh mạch, sự dung nạp với LSD hoặc các chất gây ảo giác khác sảy ra nhanh và hầu như hoàn toàn sau 3 hoặc 4 ngày sử dụng liên tiếp. Sự dung nạp cũng quay lại nhanh, thông thường trong 4 đến 7 ngày. Không có sự phụ thuộc về cơ thể và không có hội chứng cai. Tuy nhiên sự phụ thuộc về tâm thần có thể phát triển thấy được.
C. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG:
Tri giác trở nên rực rỡ và mãnh liệt khác thường. Màu sắc và cấu trúc phong phú hơn so với trước, các đường nét bên ngoài trở nên sắc nét hơn và xúc động hơn và tăng cảm giác về mùi vị. Thường gặp loạn cảm giác, có thể tô điểm thêm tiếng nói hoặc âm thanh. Có nhiều biến đổi về hình ảnh cơ thể và rối loạn định hướng về không gian và thời gian. Các ảo giác thông thường là thị giác ( thường là hình thái và hình ảnh), nhưng ảo thanh và ảo giác xúc giác đôi khi cũng xúc hiện. Cảm xúc thường trở nên mãnh liệt và có thể thay đổi đột ngột và thường xuyên.
Các nét lâm sàng chủ yếu của nhiễm độc các chất gây ảo giác đó là sự xuất hiện của lo âu hoặc trầm cảm, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí nhớ, ý tưởng paranoid, biến đổi tri giác, mất ngủ hoàn toàn và tăng tỉnh táo, suy giảm lý lẽ hoặc suy giảm các chức năng xã hội nghề nghiệp diễn ra trong hoặc ngay khi sử dụng các chất gây ảo giác.Những sự thay đổi này bao gồm sự tăng cường mang tính cá thể của tri giác, giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại, ảo tưởng, ảo giác và loại cảm giác bản thể. Ở người nghiện còn có các biểu hiện cơ thể khác như giãn đồng tử, mạch nhanh, vã mồ hôi, đánh trống ngực, mờ mắt, run và mất phối hợp động tác. Sự nhiễm độc các chất gây ảo giác thường bắt đầu bằng các hoạt động không ngừng, tăng hoạt hệ thống thần kinh thực vật và buồn nôn.
Các rối loạn cấp: cảm xúc không ổn định hoặc dễ thay đổi với cảm giác khoái cảm nhanh chóng được thay thế bằng cười khó hiểu, trầm cảm hoặc hưng cảm cũng thường thấy. Ảo tưởng thị giác lúc đầu hoặc lúc nặng hơn có thể dẫn tới ảo giác. Ở liều cao hơn, sự thay đổi tri giác bao gồm loạn cmar giác bản thể (rối loạn hỗn hợp cảm giác quan) và ảo giác. Thường là các ảo thị thật, thường biến đổi hình thể, đôi khi thấy con người và đồ vật cũng bị biến đổi và họ hành động theo những biến đổi này. Hiếm gặp hơn là các ảo thanh và ảo giác xúc giác.
Nguyên nhân gây tử vong có thể liên quan tới bệnh lý tim mạch hoặc bệnh lý mạch máu não kết hợp với tăng huyết áp hoặc tăng huyết áp hoặc tăng thân nhiệt , triệu chứng giống hội chứng an thần kinh ác tính.
D. CHẨN ĐOÁN:
1. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng
Xem chương trước, chung cho mọi chất.
2. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm độc chất gây ảo giác (DSM IV)
a. Vừa mới sử dụng chất gây ảo giác.
b. Có các biểu hiện thay đổi tâm lý và hành vi không thích hợp ( lo âu hoặc trầm cảm rõ rệt, ý tưởng liên hệ, sợ mất trí, ý tưởng paranoid, suy giảm lý lẽ hoặc các chức năng nghề nghiệp, xã hội) diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.
c. Thay đổi nhận thức xảy ra với biểu hiện mất ngủ hoàn toàn và tỉnh táo ( tăng nhận thức chủ quan, giải thể nhận cách, mất liên hệ thực tại, ảo tưởng, ảo giác, loạn cảm giác bản thể) diễn ra trong khi hoặc ngay khi sử dụng chất gây ảo giác.
d. Có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau đây diễn ra trong khi hoặc ngay sau khi sử dụng chất gây ảo giác.
(1) Giãn đồng tử.
(2) Nhịp tim nhanh
(3) Vã mồ hôi
(4) Đánh trống ngực
(5) Mờ mắt
(6) Run
(7) Mất điều phối
Các triệu chứng trên không do bệnh cơ thể hoặc các rồi loạn tâm thần khác gây ra.
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nhận thức dai dẳng do chất gây ảo giác
a. Sau khi ngừng sử dụng chất gây ảo giác, tái xuất hiện một hoặc nhiều các triệu chứng nhận thức đã được biểu lộ khi bị nhiễm độc chất gây ảo giác (ảo giác hình thể hoặc nhận thức sai lệch về sự chuyển động ở thị trường ngoại vi, sự lóe sáng của màu sắc, màu săc rực rỡ, hình ảnh đồ vật chuyển động, lưu giữ hình ảnh dương bản, vầng sáng xung quanh đồ vật, hình ảnh khổng lồ hoặc tí hon)
b. Các triệu chứng ở tiêu chuẩn gây ra đau khổ rõ rệt hoặc giảm sút các chức năng nghề nghiệp, xã hội và các lĩnh vực quan trọng khác.
c. Các triệu chứng trên không do các bệnh cơ thể (tổn thương giải phẩu và nhiễm trùng não, động kinh với biểu hiện rối loạn thị giác) và các dấu hiệu tâm thần khác gây ra (sảng run, sa sút trí tuệ, tâm thần phân liệt) hoặc các thuốc ngủ gây ảo giác.
4. Sảng run do nhiễm độc chất gây ảo giác
Rối loạn này tương đối hiếm, nó thường xảy ra trong giai đoạn nhiễm độc khi người bệnh sử dụng nguyên chất. Tuy nhiên, các chất gây ảo giác thường pha trộn với các chất hay các hợp chất khác, tương tác của chúng có thể gây ra sảng run.
5. Các rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác
Tác dụng có hại lớn nhất của LSD và các chất liên quan là một sự say thuốc tồi tệ, nó tương tự như là một phản ứng hoảng sợ cấp của cannabis nhưng có thể nặng hơn; sự say thuốc tồi tệ có thể ngẫu nhiên gây ra các triệu chứng loạn thần rõ rệt. Sự say thuốc tồi tệ này thông thường kết thúc khi tác động tức thi của chất gây ảo giác mất đi. Tuy nhiên, diễn biến của tình trạng này thay đổi, thường là một giai đoạn loạn thần kéo dài khó phân biệt với rối loạn loạn thần không thực tổn.
Thông thường rối loạn loạn thần kéo dài, đặc biệt ở những người trước đó đã có rối loạn nhân cách bệnh dạng phân liệt và nhân cách tiền loạn thần.
6. Rối loạn cảm xúc do chất gây ảo giác
Những người lạm dụng chất gây ảo giác có thể có các triệu chứng tương tự như hưng cảm bao gồm hoang tưởng tự cao hoặc giống như trầm cảm với các triệu chứng hỗn hợp. Tương tự như các triệu chứng rối loạn loạn thần do các chất gây ảo giác, các triệu chứng của rối loạn cảm xúc do các chất gây ảo giác hầu như rất giá trị một khi xét nghiệm phát hiện được chúng chất này trong cơ thể người bệnh.
7. Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác
Rối loạn lo âu do chất gây ảo giác cũng rất thay đổi trong các biểu hiện các triệu chứng. Ví dụ có người bệnh vào cấp cứu vì rối loạn liên quan đến chất gây ảo giác tuy nhiên các triệu chứng gây biểu hiện lại là rối loạn hoảng sợ với chứng sợ không rộng.
NGÁO ĐÁ LÀ GÌ?
NGÁO ĐÁ LÀ GÌ?
Ngáo đá: là trạng thái loạn thần do sử dụng ma túy đá. Sau khi sử dụng ma túy đá, người chơi xuất hiện hoang tưởng, ảo giác, rối loạn hành vi. Những triệu chứng loạn thần trên dân gian gọi là ngáo đá.
Ma túy đá không chỉ được biết đến với tác dụng gây phê cho người nghiện mà còn là một loại thuốc khiến người dùng thèm muốn cả chuyện quan hệ tình dục. Nhiều người dùng ma túy đá để vui chơi hết mình, chứng tỏ đẳng cấp mà không biết rằng có sức tàn phá đối với sức khỏe, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến xã hội. Biểu hiện của những người thường xuyên sử dụng ma túy gây ra hậu quả thường thấy ảnh hưởng cho xã hội như chém giết người vô cớ, cuồng dâm, hoang tưởng, mất kiểm soát hành vi, nặng hơn sẽ mắc tâm thần và hậu quả cá nhân là suy kiệt thể chất và suy giảm khả năng tình dục và dần dần dẫn đến tình trạng mất trí (ngáo đá).
Bình đập đá " cóong "
Đập đá là tiếng lóng của dân chơi ma túy đá nói riêng hay câu nói quen thuộc của dân chơi ma túy tổng hợp nói chung: "cắn kẹo, đập đá, phá ke", để thể hiện sự sành điệu trong giới ăn chơi. Khi sử dụng ma túy đá (quá trình đập đá) dân chơi có một bộ dụng cụ được gọi là "cóong" để sử dụng ma túy đá. Về bản chất "cóong" có cấu tạo giống như điếu cày hay bát điếu thuốc lào. Dân chơi cho ma túy đá vào lõ của cóong rồi đốt để ma túy đá nóng chảy bốc hơi, hơi này được dẫn qua một bầu nước để làm giảm bới sự độc hại, rồi được hít vào trong phổi giống như hút thuốc lào.
A. TÁC DỤNG SINH HỌC CỦA MA TÚY ĐÁ (XEM BÀI TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH):
Khi ma túy đá vào cơ thể nó kích thích tế bào thần kinh trung ương tăng sinh nồng độ chất dẫn tryền thần kinh một cách cao độ làm nồng độ chất dẵn truyền thần kinh tăng vọt trong máu đưa người chơi và trạng thái hưng phất một cách tột độ.
B. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG KHI SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ GỒM:
I. KHI MỚI SỬ DỤNG CÓ NHỮNG BIỂU HIỆN SAU:
- 1. Cảm thấy khoẻ khoắn, lâng lâng sung sướng
- 2. Tỉnh táo hơn và tràn đầy sinh lực
- 3. Tăng ham muốn tình dục
- 4. Tăng khả năng giao tiếp
- 5. Không cảm thấy đói
- 6. Thông thái hơn, tâm trạng tốt hơn
- 7. Nhịp tim và huyết áp tăng
- 8. Tăng thân nhiệt
- 9. Giãn đồng tử
- 10. Thở nhanh
- 11. Khô miệng và khó nuốt, nếu nặng có thể gây tình trạng mất nước và sốt cao
C. KHI SỬ DỤNG LÂU DÀI NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ CÓ NHỮNG BIỂU HIỆN SAU:
I. MẤT NGỦ DO MA TÚY ĐÁ:
Là triệu chứng hay gặp nhất sau khi dùng ma túy đá. Người bệnh thường mất ngủ trắng đêm. Hết đêm này đến đêm khác làm người bệnh suy nhược thần kinh ở mức độ nặng, bộ mặt bơ phờ nhớn nhác, ngáo ngơ, mất tập trung nên người ta hay gọi là NGÁO ĐÁ. Người bệnh rất muốn ngủ nhưng không thể ngủ được và đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy người bệnh tiếp tục dùng ma túy đá.
II. CẢM GIÁC CUỐN:
Sau khi chơi ma túy đá đân chơi bị cuốn vào một việc gì đó ví dụ nghe nhạc, chơi games, sửa chữa đồ đạc trong nhà hoặc thoát lạc trong những cơn cuồng tình dục...
III. RỐI LOẠN CẢM XÚC:
Người sử dụng ma tuý đá có cảm xúc rất thất thường. Đặc biệt là khó khiểm soát cảm xúc vì vậy người bệnh hay cáu gắt, dễ nổi nóng kể cả ngay với những kích thích rất nhỏ . Ví dụ hay nổi khùng, có thể kích động, đập phá và đánh lại người nhà khi mà trái ý họ...
IV. ẢO GIÁC DO MA TÚY ĐÁ::
Thường là ảo thanh. Bệnh nhân nghe thấy tiếng nói trong đầu với nội dung xui khiến, ra lệnh, trò chuyện với bệnh nhân. Nội dung của ảo thanh thường mang nội dung xấu, tiêu cực vì vậy người bệnh có thể có những hành vi nguy hiểm cho bản thân bệnh nhân và những người xung quanh. Các hành vi hay gặp: tự hủy hoại cơ thể (đốt túi ni lông cho nóng chảy rồi nhỏ lên cơ thể. Vị trí nhỏ thường lên tay hoặc đùi). Có bệnh nhân còn tự chặt ngón chân hoặc ngón tay của mình mà không ý thức được việc mình làm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội thường là: dùng những vật sắc nhọn có tính sát thương cao tấn công người xung quanh...
V. HOANG TƯỞNG HAY GẶP MA TÚY ĐÁ:
Là hoang tưởng bị hại và-hoặc hoang tưởng ghen tuông. Trong khi người bệnh (ngáo đá) có hoang tưởng và ảo giác đi kèm thì rất dễ gây tổn thương cho bản thân và những người xung quanh. Trường hợp nhẹ hơn thì hay gặp đa nghi, nghi ngờ người khác đặc biệt là vợ, chồng hay người yêu... (người thân thích).
VI. TRẦM CẢM DO MA TÚY ĐÁ:
Sau một thời gian hưng phấn cao độ do ma túy đá mang lại, dân chơi ma túy đá thường rơi vào trạng thái trầm cảm. Biểu hiện là sự cáu bẳn, rất dẽ bị kích động và giảm khả năng kiềm chế. Người mệt mỏi rã rời, vẻ mặt buồn rầu và thường nằm lì trong phòng không chụi giao tiếp. ăn uống kém, cơ thể bệ rạc, bơ phờ. Chính cảm giác mệt mỏi này sẽ thúc đẩy người nghiện tiếp tục đi tìm (vì ngay sau khi chơi lại đá, dân chơi thấy khỏe mạnh và tràn đầy sinh lực. Và đây là nguyên nhân chính làm cho dân chơi ma túy đá không thể từ bỏ được nó và họ nghiện ma túy đá lúc nào không biết. Mặc dù dân chơi đá luôn kháo nhau rằng:"dùng hàng đá thì không bao giờ nghiện". Đó là một quan niệm sai lầm chết người, khiến dân chơi đá khó mà thoát được vòng luẩn quẩn của ma túy đá
VII. SỬ DỤNG MA TÚY ĐÁ LÂU DÀI DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG MẤT TRÍ:
Do tác hại của ma túy đá khá nặng nề như trên nên người nghiện ma túy đá phải được điều trị kịp thời. Bệnh nhân cần được cách ly môi trường và được dùng các thuốc đặc hiệu để điều trị chứng loạn thần do ma túy đá gây nên. Loạn thần do ma túy đá thường rất hay tái phát vì bệnh nhân rất dễ tái nghiện. Vì vậy điều trị sau khi cai nghiện ma túy đá là rất quan trọng để người nghiện không tái sử dụng ma túy đá
VIDEO TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH
VIDEO TÁC HẠI CỦA MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG KÍCH THÍCH
- VTV1: Tác hại "c.h.ế.t n.g.ư.ờ.i" của ma túy tổng hợp
- VTC14 : Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường
- VTC14: Ma túy tổng hợp gây ngộ độc như thế nào?
- VTV1: Tác hại của ma túy tổng hợp và khó khăn trong tổ chức cai nghiện
- VTV1: Tiêu điểm: Nguy hiểm từ các loại ma túy mới
- KTV: Sử dụng ma túy đá - Nghiện hay không nghiện?
- Tuổi Trẻ: Nghiện ma túy dẫn đến bệnh tâm thần, khoảng cách mong manh
- VTC14: Những ngày tháng sống ảo cùng ma túy đá
- VTC14: Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường
- VTC14: Chơi ma túy đá, tàn phá cuộc đời
- VTV1: Ma túy đá tác hại khôn lường
- VTV24: Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá
- NLĐ: Phóng sự: Ma túy đá biến con người thành ác quỷ
- VTV1: Gia tăng người trẻ nghiện ma túy
- Thanh Niên: Việt Nam bắt hơn 8 tấn ma túy chỉ trong năm 2019
- VGP: Cuộc chiến chống ma túy: thấy gì từ các vụ án khủng
- VTV1: Cai nghiện ma túy tổng hợp bằng biện pháp tâm lý: còn nhiều khó khăn, bất cập
- VTV9: Từ ngáo đá đến tâm thần - con đường cực ngắn
- VTC14: Ma túy tổng hợp được kinh doanh theo hình thức mới
- KTV: Sử dụng ma túy đá - Nghiện hay không nghiện?
- THTPCT: Ma tuý đá đang tấn công giới trẻ
- THĐT: Gần 1 năm để triệt phá xưởng sản xuất ma túy đá lớn nhất nước
- THĐT: Người nghiện ma túy đá tại TP. HCM ngày càng trẻ hóa
- VTC9: Tâm sự của bạn trẻ từng sa ngã vì ma túy
- VTV: Nghiện ma túy rất khó cai
- VTV24: Trầm cảm sau khi chơi ma túy đá
- VTC14: Ngộ độc vì “thử” ma túy thế hệ mới
- VTC14: Vì sao tôi dùng ma túy khi lái xe đường dài?
- VTV1: Hậu qua kinh hoàng từ "loạn thần" do ma túy đá
- VTV1: Những suy nghĩ sai lầm về ma túy đá
- VTV9: Dấu hiệu ban đầu nhận biết người sử dụng ma túy đá
- Báo NA: Triệt phá đường dây ma túy xuyên quốc gia, thu giữ 700kg ma túy đá
- Tuổi Trẻ: Buôn 8 bánh heroin và 4kg ma túy đá, lĩnh án tử hình
- VTV1: Ma túy "biến hình" thành hàng chục loại khác nhau
- VTC14: Vì sao ma túy gây ảo giác “lên ngôi?
- ANTV: Lời chứng người vợ có chồng nghiện ma túy
- VTC1: Anh Lê Trung Tuấn "trải lòng" với nỗi niềm về những năm tháng chiến đấu chống ma túy
- ANTV: Phút trải lòng của nữ sinh mất gia đình vì... ma túy
- ANTV: Cô Gái Nghiện : Cảm Thấy Bình Yên Hơn Khi Ở Trong Tù
- ANTV: Bí mật kho ma túy khủng của cặp vợ chồng “tài sắc”
- ANTV: Truy bắt nhóm "bố già" cộm cán buôn ma túy vùng "tam giác vàng"
- VTC1: Ma túy đá: "Cơn phê" chết người
- VTV24: Triệt phá đường dây ma túy buôn 300 kg ma túy đá xuyên quốc gia
Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy
Cận cảnh khuôn mặt biến dạng
do sử dụng ma túy tổng hợp
Amphetamin thường sử dụng qua đường uống, hút, hít hay tiêm chích. Hình thức tiêm qua đường tĩnh mạch (tiêm ven) đang trở nên hết sức phổ biến trên toàn thế giới. Loại ma túy này đang được nhiều người sử dụng vì nó đem lại cảm giác hưng phấn mạnh mẽ, gây khoái cảm, phấn khích, tinh thần mẫn tiệp; không còn cảm giác đói mệt, thiếu ngủ; tăng cường (đôi khi giả tạo) sức lao động chân tay và trí não. Amphetamin được phổ biến trong giới sinh viên, binh lính, lái xe đường dài, công nhân ca đêm, vận động viên thể dục thể thao...v.v.















MA TÚY – HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI
MA TÚY -
HIỂM HỌA CỦA SỨC KHỎE CON NGƯỜI
TRẦN VIỆT TRUNG
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp
cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS
Ma túy đang hàng ngày hủy hoại biết bao tâm hồn, giết chết nhiều nhân mạng và hơn thế nữa, phá vỡ cuộc sống bình yên của hàng vạn gia đình và đe dọa an ninh trật tự xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng minh ma quỷ của ma túy là bệnh tật và HIV/AIDS. Ngày 26/6 hàng năm là ngày Liên Hợp Quốc lấy làm ngày Quốc tế phòng, chống ma túy và đối với nước ta là ngày Toàn dân phòng, chống ma túy. Nhân ngày 26/6/2013, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông Trần Việt Trung-nguyên Phó cục trưởng Cục Phòng, chống Tệ nạn xã hội, hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Trợ giúp cộng đồng phòng, chống HIV/AIDS thuộc Hội Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam.
Đứng trước hiểm họa to lớn mang tính toàn cầu của tệ nạn ma túy đối với từng quốc gia nói riêng và cả nhân loại nói chung, cách đây trên 26 năm, bắt đầu từ năm 1987, Liên Hợp Quốc đã ra Nghị quyết lấy ngày 26 tháng 6 làm ngày Quốc tế phòng chống ma túy và từ đó, nhân ngày này hàng năm, Liên Hợp Quốc đưa ra các thông điệp với các chủ đề khác nhau, mang ý nghĩa như một lời kêu gọi các quốc gia trên thế giới cần tập trung các hoạt động phòng chống, kiểm soát ma túy theo định hướng về một vấn đề bức xúc, cấp thiết trong từng thời kỳ.
Hưởng ứng ngày Quốc tế phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc, từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã quyết định lấy ngày 26/6 hàng năm là ngày “Toàn dân phòng chống ma túy”. Như vậy, song song với việc hưởng ứng thông điệp và chủ đề phòng chống, kiểm soát ma túy của Liên Hợp Quốc, hàng năm Chính phủ phát động những tháng cao điểm phòng chống ma túy với nhiều hoạt động trên các lĩnh vực công tác phòng chống, kiểm soát ma túy, trong đó có chỉ đạo trọng tâm theo từng chủ đề của Liên Hợp Quốc đưa ra hàng năm.
Gần đây, việc xuất hiện các chất mới có tác dụng tâm thần (tên tiếng Anh viết tắt là NPS), có đặc tính dược lý và tác dụng tương tự như các loại chất đã được biết đến trước đó nhưng nằm ngoài danh mục các chất bị kiểm soát theo Công ước quốc tế của Liên Hợp Quốc và được mua bán một cách hợp pháp tại nhiều quốc gia đã gây nhiều khó khăn cho các cơ quan chức năng. Do đó, năm nay Liên Hợp Quốc đưa ra Thông điệp nhân ngày 26/6 kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy xây dựng một cuộc sống lành mạnh, đề cao việc rèn luyện sức khỏe để tránh xa ma túy: “Hãy bằng sức khỏe của bạn “thăng hoa” trong cuộc sống, không cần ma túy” (Tên gốc tiếng Anh: “Make health your “new high” in life, not drugs”).
1. SỰ TRỞ LẠI CỦA MỘT LOẠI TỆ NẠN:
Cho tới nay, không ai khẳng định được cây thuốc phiện (còn gọi là cây Anh túc) được đưa vào trồng ở Việt Nam bằng cách nào và từ bao giờ. Tuy nhiên, ta thấy trong các văn bản của Nhà Nguyễn để lại về các điều Luật và Hình phạt thì đã có nhiều nội dung liên quan tới những hành vi buôn bán và sử dụng thuốc phiện. Phải chăng vào cuối thế kỷ XIX, tương tự nhà Thanh bên Trung Quốc khi chịu khuất phục Đế quốc Anh sau hai cuộc Chiến tranh nha phiến Lần thứ nhất (năm 1840) và Lần thứ hai (năm 1855) đã phải để cho thuốc phiện tràn lan ở Trung Quốc thì ở Việt Nam, Triều đình nhà Nguyễn phải cay đắng chấp nhận dã tâm của thực dân Pháp cho trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta sau khi Bắc Kỳ trở thành thuộc địa của chúng. Với việc cho trồng, sử dụng tự do thuốc phiện ở nước ta, thực dân Pháp nhằm 2 mục đích: phục vụ bọn quan lại thực dân phong kiến cùng đội quân viễn chinh của chúng và đầu độc dân ta bằng ma túy cả về sức khỏe và tinh thần. Chúng định dùng ma túy làm tê liệt lòng yêu nước và ý chí đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Nhưng chúng đã lầm, thời Pháp thuộc, người dùng thuốc phiện chỉ tập trung ở một vài thành phố lớn, trong hàng ngũ quan lại hoặc công chức, trí thức làm việc cho Pháp. Còn với đại đa số nhân dân ta, đó là trò chơi hoàn toàn xa lạ.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cấm trồng , buôn bán và sử dụng ma túy ngoài mục đích y tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi việc xóa bỏ tệ nạn ma túy là một trong những nhiệm vụ cấp bách trước tiên của Nhà nước Việt Nam non trẻ. Người đã ra Lời kêu gọi: “Tôi đề nghị đồng bào tuyệt đối cấm hút thuốc phiện”. Sau Hiệp định hòa bình Giơ-ne-vơ (7/1954) miền Bắc bước vào con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, tiếp tục chủ trương kiên quyết xóa bỏ tệ nghiện ma túy ở nước ta. Cho tới đầu thập kỷ 80 (giai đoạn 1984-1985), tệ trồng và sử dụng thuốc phiện ở miền Bắc nước ta đã giải quyết được cơ bản và có thể nói hầu như đã bị xóa bỏ. Chỉ còn rải rác một số tỉnh miền núi cao phía Bắc trồng với sản lượng không đáng kể và chủ yếu là người già dân tộc thiểu số hút theo thói quen lâu đời khó bỏ. Ở miền Nam, dưới chế độ thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, tệ nạn ma túy bùng phát với phạm vi, quy mô lớn để phục vụ cho mưu đồ làm giàu cá nhân của những tướng lĩnh ngụy quân, chóp bu ngụy quyền Sài Gòn. Họ chuyển ma túy bằng tàu xe, quân đội, thậm chí lợi dụng chuyên cơ buôn bán ma túy từ Tam giác Vàng về Việt Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, chế độ cũ đã để lại hơn 170.000 người nghiện hút, chích ma túy (xì ke) cùng với những vấn đề phức tạp nhiều mặt về kinh tế-xã hội đất nước. Một lần nữa, chúng ta lại bắt tay vào giải quyết những hậu quả của chiến tranh, trong đó có một công việc nặng nề là chữa trị, giáo dục và cai nghiện cho những người nghiện ma túy ở phía Nam. Với sự nỗ lực của toàn dân, toàn xã hội, chúng ta đã cải tạo, hoàn lương hơn 100.000 người nghiện, đưa họ trở lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc như các công dân khác trong xã hội. Kết quả, đầu những năm 80, theo số liệu của các cơ quan chức năng, cả nước chỉ còn khoảng 30.000 - 40.000 người nghiện ma túy.
Vào cuối những năm 80, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tệ nạn xã hội nói chung, tệ nghiện ma túy nói riêng lại hồi sinh, nảy nở và phát triển mau chóng. Sự mở cửa và những mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực tới một số lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nạn tái trồng cây thuốc phiện ở một số tỉnh miền núi phía Bắc kéo theo tệ nghiện ma túy đã phục hồi và lây lan nhanh chóng nhiều nơi và trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt trong lứa tuổi thanh thiếu niên.
2. SỰ GIA TĂNG SỐ LƯỢNG NGƯỜI NGHIỆN MA TÚY.
Trong thời kỳ những năm 2000 - 2008, sự gia tăng nhanh chóng số lượng người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh một số người nghiện mới gia tăng, phần lớn là số người nghiện cũ nay mới được phát hiện hoặc tự khai báo và đăng ký các hình thức cai nghiện. Số liệu gia tăng người nghiện của thành phố Hồ Chí Minh là một biểu hiện rõ nét: vào cuối năm 2000 có 15.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, đến tháng 12/2008 đã có hơn 32.000 người nghiện được cai tập trung tại 17 cơ sở cai nghiện của thành phố. Tại tỉnh Sơn La, một địa phương nghèo của miền núi phía Bắc, năm 2000 mới có khoảng 4.000 người nghiện có hồ sơ quản lý thì tới năm 2008 đã phát hiện trên 16.000 người nghiện và nếu kể cả số nghi nghiện thì con số trên lên tới 23.000 người! Tình hình ở nhiều địa phương khác cũng tương tự như vậy. Những năm gần đây, mặc dù chúng ta đạt được nhiều thành tích, kết quả đáng mừng trong các hoạt động ngăn chặn và triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển và ổ nhóm tổ chức sử dụng ma túy, trong công tác cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai nghiện nhưng tình hình tệ nạn ma túy vẫn diễn biến phức tạp, số người nghiện giảm không đáng kể, thậm chí có nhiều địa bàn, nhiều địa phương số người nghiện còn gia tăng nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2012, số người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước là 171.000 người, giảm so với năm 2007 (178.000 người) nhưng lại tăng so với năm 2010 (132.000 người).
Thời gian qua, mặc dù các đường dây, ổ nhóm buôn bán, vận chuyển ma túy lớn ở trong nước và cả xuyên quốc gia bị truy quét, triệt phá mạnh nhưng bằng nhiều con đường, ma tuý vẫn thẩm lậu khá nhiều vào nước ta và hệ thống, mạng lưới bán lẻ ly ti ở khắp nơi vẫn chưa bị xóa bỏ cơ bản, vẫn là nguồn cung cấp ma túy dồi dào cho dân nghiện. Điều nguy hiểm hơn là sự xuất hiện ngày càng nhiều ở một số địa phương, đặc biệt ở các thành phố lớn, các loại ma túy tổng hợp dạng kích thích (ATS, Estasy)… với mức độ độc hại rất cao, lại dễ vận chuyển, dễ bán lẻ trao tay, sử dụng bằng đường uống như các loại tân dược thông thường hoặc các dụng cụ hút hít đơn giản đang là nguy cơ làm gia tăng nhanh chóng số người nghiện ở nước ta, đặc biệt trong lứa tuổi trẻ. Gần đây, giới ăn chơi nhiều tiền trong thanh niên đang sử dụng loại ma túy mới được gọi là hàng “đá” (một dạng của Methammetamine) với cách hút, hít bằng các dụng cụ dễ tự chế. Đây là loại ma tuý hết sức nguy hiểm tới thần kinh và sức khỏe con người. Ma túy là kẻ đồng hành với tội phạm, bệnh tật và đại dịch HIV/AIDS. Khoảng trên 60% trong số trên 272.000 người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện cho tới nay còn sống bị lây truyền do qua con đường tiêm chích ma túy.
3. MỘT CUỘC CHIẾN GAY GO VÀ PHỨC TẠP:
Trước sự lây lan, phát triển nhanh chóng tệ nạn ma túy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối và chính sách kịp thời, kiên quyết về phòng, chống và kiểm soát ma túy. Nghị quyết 06/CP ngày 29/1/1993 được mở đầu như hiệu lệnh cho một cuộc chiến mới với ma túy được chính thức phát động. Đồng thời Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng ban hành nhiều Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh ngăn chặn sự lây lan, phát triển của tệ nạn ma túy, coi đó là một nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Những nội dung công tác và cũng là nhiệm vụ chủ yếu được đặt ra là: Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân về tác hại, hiểm họa cả trước mắt và lâu dài của tệ nạn ma túy, về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và công tác phòng, chống tệ nạn ma túy để mọi người dân hiểu, đồng tình ủng hộ và tham gia cuộc đấu tranh chung; vận động, thuyết phục đồng bào miền núi không trồng cây thuốc phiện và chuyển sang trồng loại cây khác; tổ chức chữa bệnh, giáo dục, dạy nghề và tìm kiếm việc làm cho người nghiện ma túy; phát hiện và trừng trị nghiêm bọn tội phạm. Song song với sự ra đời các văn bản pháp luật, hệ thống tổ chức bộ máy từ cơ quan chỉ đạo, tham mưu giúp việc cho tới các cơ quan chuyên trách của các ngành chức năng được hình thành, củng cố. Công tác phòng, chống ma túy do Chính phủ phát động đã được sự hưởng ứng, tham gia tích cực của các Bộ, Ngành, Đoàn thể Trung ương, các địa phương và cơ sở cũng như của toàn dân và toàn xã hội.
Tuy nhiên, ma túy tựa con quái vật khổng lồ chặt đứt vòi này, lại mọc vòi khác. Cũng như tệ nạn mại dâm, tệ buôn ma túy đem lại những món lợi lớn cho những kẻ ham tiền liều mạng. Với lãi suất thông thường từ 5-7 lần cho tới hàng chục lần nếu bán tận tay người nghiện (thậm chí nếu trung chuyển được sang một số quốc gia khác có thể lên tới hàng trăm lần) thì bọn tội phạm không trừ một thủ đoạn nào, một mưu mô, phương kế hiểm độc nào để thực hiện những hành vi phạm tội và trốn tránh pháp luật. Đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy ngày càng trở nên có quy mô, tổ chức lớn, phức tạp, từ những đường dây xuyên quốc gia, liên tỉnh cho tới mạng lưới bán lẻ với hàng vạn chiếc vòi nhỏ vươn tới từng ngõ hẻm, trường học, vườn hoa, nơi sinh hoạt công cộng… tại các đô thị, thành phố lớn đến tận những làng quê heo hút, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh với tệ nạn ma túy trên các lĩnh vực giảm cung giảm cầu đòi hỏi lòng quyết tâm, sự dũng cảm, tính kiên trì và linh hoạt của những người làm công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, trước hết là những người hàng ngày đối mặt trực tiếp với tệ nạn này. Cuộc chiến với ma túy vẫn đang là một mặt trận nóng bỏng, đầy hiểm nguy và đổ máu, hy sinh.
4. MỐI QUAN HỆ CUNG CẦU:
Trong cuộc đấu tranh này, cung và cầu về ma túy có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Nguồn cung bị chặt mạnh sẽ làm có tác động làm giảm cầu và ngược lại, giảm mạnh cầu có hiệu quả góp phần hạn chế cung. Một số địa phương tuy nghèo nhưng vì là vùng giáp biên hoặc nằm trên trục đường buôn bán, vận chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam nên có số người nghiện khá cao như Điện Biên, Sơn La, Lao Cai, Nghệ An…Mặt khác tại những thành phố lớn hoặc nơi tập trung dân cư, khu công nghiệp, du lịch v.v do các tệ nạn xã hội lây lan, phát triển mạnh đã kéo theo tệ buôn bán, tổ chức sử dụng ma túy trên nhiều địa bàn, trong nhiều lứa tuổi, dẫn tới gia tăng tệ nghiện hút, chích ma túy, đặc biệt là thanh, thiếu niên. Không ít gia đình vừa có người nghiện ma túy vừa có người tham gia các tội phạm về buôn bán hoặc tổ chức sử dụng ma túy. Thực tế trên đòi hỏi trong cuộc đấu tranh, ngăn chặn tệ nạn ma túy, không thể thiên về mặt nào và cũng không thể chỉ một Bộ, ngành nào đảm nhiệm, mà phải là sự đồng tâm, hiệp lực của toàn dân, toàn xã hội trong cuộc đấu tranh đầy gian khó, phức tạp này. Nếu không, mọi sự nỗ lực, cố gắng của chúng ta sẽ chỉ là uổng công, vô nghĩa./.
PHIM TÀI LIỆU VỀ MA TÚY
PHIM TÀI LIỆU VỀ CAI NGHIỆN MA TÚY
- VTC14: Vì sao cai nghiện rượu khó hơn cai nghiện ma túy?
- VTV9: Xem người nghiện ma túy là bệnh nhân
- VTV1: Chiến dịch chống ma túy gây tranh cãi ở Philippines
- VTC14: Những tác hại khôn lường của ma túy tổng hợp nhìn từ vụ Châu Việt Cường
- VTC14: Chơi ma túy đá, tàn phá cuộc đời
- VTV1: Ma túy đá tác hại khôn lường
- VTV24: Tiêu điểm: Hiểm họa ma túy đá
- NLĐ: Phóng sự: Ma túy đá biến con người thành ác quỷ
- VTV1: 90% Người nghiện ma túy tái nghiện
- VTV1: Bắt vụ vận chuyển ma túy số lượng lớn
- VTV1: Lạng Sơn bắt đối tượng vận chuyển 12kg ma túy đá
- VTV1: Gia tăng người trẻ nghiện ma túy
- Thanh Niên: Việt Nam bắt hơn 8 tấn ma túy chỉ trong năm 2019
- VGP: Cuộc chiến chống ma túy: thấy gì từ các vụ án khủng
- VTV1: Cai nghiện ma túy tổng hợp bằng biện pháp tâm lý: còn nhiều khó khăn, bất cập
- VTC14: Khi người nghiện kể chuyện cai nghiện
- VTC9: Methadone: Vị cứu tinh của người nghiện ma túy
- VTV9: Từ ngáo đá đến tâm thần - con đường cực ngắn
- VTC14: Ma túy tổng hợp được kinh doanh theo hình thức mới
- VTC1: ‘Cỏ Mỹ’- Chất cấm hành hạ giới trẻ Việt Nam
- VTC1: Mua ma túy tem giấy dễ như mua kẹo?
- THTPCT: Dùng cỏ Mỹ, bóng cười, 3 thanh niên lên cơn co giật
- VTV1: Cỏ Mỹ gây ảo giác mạnh, loạn thần
- ANTV: Thâm nhập chợ "cỏ Mỹ" công khai giữa Hà Nội
- VTC14: “Ngáo” cỏ Mỹ, thiếu niên cắn lìa tai bạn rồi nuốt vào bụng
- VTV24: Tác hại kinh hoàng khi sử dụng cỏ mỹ
- KTV: Sử dụng ma túy đá - Nghiện hay không nghiện?
- THTPCT: Ma tuý đá đang tấn công giới trẻ
- THĐT: Gần 1 năm để triệt phá xưởng sản xuất ma túy đá lớn nhất nước
- THĐT: Người nghiện ma túy đá tại TP. HCM ngày càng trẻ hóa
- VTC9: Tâm sự của bạn trẻ từng sa ngã vì ma túy
- VTV: Nghiện ma túy rất khó cai
- VTV24: Trầm cảm sau khi chơi ma túy đá
- VTC14: Ngộ độc vì “thử” ma túy thế hệ mới
- VTC14: Vì sao tôi dùng ma túy khi lái xe đường dài?
- VTV1: Hậu qua kinh hoàng từ "loạn thần" do ma túy đá
- VTV1: Những suy nghĩ sai lầm về ma túy đá
- VTV9: Dấu hiệu ban đầu nhận biết người sử dụng ma túy đá
- Báo NA: Triệt phá đường dây ma túy xuyên quốc gia, thu giữ 700kg ma túy đá
- Tuổi Trẻ: Buôn 8 bánh heroin và 4kg ma túy đá, lĩnh án tử hình
- VTV1: Ma túy "biến hình" thành hàng chục loại khác nhau
- ANTV: Nghe dân chơi trải lòng về ma dược “cỏ” Mỹ
- VTC14: Bóng cười, bùa lưỡi: Sành điệu hay chết người?
- ANTV: “Cỏ Mỹ” tàn phá, giới trẻ Việt “mê man, què quặt”
- ANTV: Đột nhập ‘ổ’ buôn cỏ Mỹ số lượng lớn, phát hiện ‘sốc’
- VTC9: Cảnh báo tình trạng buôn bán cỏ Mỹ tràn lan ở TPHCM
- Tuổi Trẻ: Ma túy “cỏ Mỹ” đang tàn phá ngư dân trẻ
- VTC1: Cỏ Mỹ: Cơn sóng ngầm khủng khiếp
- VietLive: 3 thanh niên chơi cỏ mỹ tobaco và cái kết khiến nhiều bậc phụ huynh giật mình
- VTC14: Vì sao ma túy gây ảo giác “lên ngôi?
- ANTV: Lời chứng người vợ có chồng nghiện ma túy
- VTC1: Anh Lê Trung Tuấn "trải lòng" với nỗi niềm về những năm tháng chiến đấu chống ma túy
- ANTV: Phút trải lòng của nữ sinh mất gia đình vì... ma túy
- ANTV: Cô Gái Nghiện : Cảm Thấy Bình Yên Hơn Khi Ở Trong Tù
- ANTV: Bí mật kho ma túy khủng của cặp vợ chồng “tài sắc”
- ANTV: Truy bắt nhóm "bố già" cộm cán buôn ma túy vùng "tam giác vàng"
- ANTV: Báo động "cỏ Mỹ" tàn phá học sinh nông thôn
- VTV1: Mục kích tụ điểm chuyên bán cỏ Mỹ tại TP.HCM
- ANTV: Lo ngại tình trạng thanh, thiếu niên dùng cỏ Mỹ
- VTC1: Ma túy đá: "Cơn phê" chết người
- VTC14: Thản nhiên tiêm chích giữa khu dân cư
- VTV24: Triệt phá đường dây ma túy buôn 300 kg ma túy đá xuyên quốc gia
- Mua bán và sử dụng ma túy tại Trung tâm điều trị Methadone
- HTV9 - MA TÚY VÀ CÁC CHẤT GÂY NGHIỆN
- Phức tạp quanh Trung tâm điều trị nghiện bằng Methadone
VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php
VẤN NẠN BUÔN BÁN MA TÚY
Ở VIỆT NAM TRƯỚC 30/04/1975
Đề tài này được coi như là một phần của vấn nạn tham nhũng, cho nên đáng lý ra nó phải nằm trong Chương 90. Nhưng vì Chương 90 quá dài, chúng tôi phải tách riêng phần này ra làm chủ đề cho Chương 91. Phần lớn những dữ kiện được sử dụng trong đề tài này được căn cứ vào cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy, (New York:Harper Colophon Books,1972) và cuốn Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy (bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000).
Từ kép “ma túy” trong bài được sử dụng để nói chung cho thuốc phiện và tất cả các sản phẩm chế biến từ thuốc phiện (opium) hay những chất (substance) mà tiếng Anh gọi là “narcotic”, “morphin”, “heroin”, v.v… . Tác giả xin thỉnh ý quý vị nếu có một từ khác thích hợp hơn. Đa tạ.
Nguyễn Mạnh Quang
Ma túy hay thuốc phiện có tác dụng làm cho người hút dễ bị nghiền. Một khi đã trở thành nghiền rồi, người nghiện luốn luôn thèm khát, đòi hỏi phải hút đều đều và càng hút nhiều hơn càng cảm thấy lâng lâng cảm khoái. Tình trạng này làm cho tâm trí của họ lúc nào cũng nghĩ đến phương cách phải có thuốc đều đều. Cũng vì thế, đối với người nghiền ma túy, có bao nhiều tiền bạc cũng dành để mua thuốc phiện không cần biết đến tình trạng tài chánh hay hoàn cảnh túng thiếu của chính bản thân hay gia đình họ.
Hậu quả là:
1.- Gia đình họ bị khánh kiệt.
2.- Vợ con của họ bị điêu đứng khốn khổ.
3.- Đói ăn vụng, túng làm liều. Khi cơn nghiền lên, không có tiền mua thuốc, họ có thể làm bất cứ chuyện gì (ăn cắp, ăn trộm, lừa đảo, giết người đoạt của, lường thày, phản bạn, bán nước, bán vợ, đợ con, v.v…) để có tiền mua thuốc phiện.
4.- Nếu không có đủ thuốc hút để thỏa mãn sức mạnh đòi hỏi của cơn nghiền, cơ thể của người nghiền sẽ bị suy nhược, mất hết nghị lực sinh tồn, không còn nghĩ đến tương lai của bản thân, không còn nghĩ đến hạnh phúc của gia đình, bất cần đến những người xung quanh, nói chi đến quốc gia và dân tộc.
5.- Nếu quốc gia có quá nhiều người như vậy thì dân nước sẽ không còn ý chí đấu tranh để tự tồn, để mặc cho ngoại nhân thao túng tự tung tự tác. Hậu quả là quốc gia đó sẽ lụn bại, suy vong rồi sớm muộn cũng rơi vào cảnh lệ thuộc nước ngoài.
Cũng vì thế mà cuối thập niên 1830, Đế Quốc Anh mới tiến hành chính sách sử dụng thuốc phiện làm băng họai tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Hoa và đã gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842).
Đây là nguyên nhân TẠI SAO, từ ngàn xưa, những người hút hay nghiện thuốc phiện bị coi như là phần tử không tốt cho xã hội, và mọi người đều muốn lánh xa. Cũng vì thế mà bất kỳ thế lực nào lên nắm chính quyền mà có lòng vì nước vì dân cũng đều phải ra lệnh triệt đế cấm lưu hành sản phẩm này.
Điều đau buồn là trong thời Thực dân Pháp đánh chiếm và thống trị nước ta 1858-1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954, ở những vùng Liên Minh Pháp –Vatican tạm chiếm và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, thuốc phiện lại do chính quyền chủ động nhập cảng, thiết lập các cơ sở chế biến, tổ chức hệ thống phân phối, khuyên khích mở các tiệm hút và tiệm bán công khai cho khách hàng tiêu thụ, rồi nắm độc quyền buốn bán sản phẩm này.
Không ai chối cãi được rằng dã tâm của Liên Minh Pháp –Vatican là đem thuốc phiện vào Việt Nam để đầu độc và giảm bớt tiềm năng chiến đấu chống lại chúng, nhiên hậu, chúng sẽ dễ dàng thôn tính và thống trị dân ta. Để đạt được mục đích này, chúng phải tạo điều kiện thuận lợi cho càng nhiều người càng tốt dễ dàng sử dụng sản phẩm này để cho họ sa ngã vào tình trạng nghiện ngập, làm hư hại cả cuộc đời và trở thành gánh nặng cho gia đình, cho xã hội, và không còn quan tâm đến sự tồn vong của đất nước và dân tộc..
Tìm hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, sách sử đều ghi nhận rằng, chủ trương của Thực dân Pháp trong việc nhập cảng, chế biên và phân phối thuốc phiện bán cho đại khối quần chúng là để vừa làm tiêu tan ý chí đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, vừa lấy tiền chi phí cho bộ máy cai trị tại Đông Dương.
Theo dõi vấn đề ma túy ở trên thế giới, người viết nhận thấy rằng, từ đầu thế kỳ 19 đến ngày nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới cũng có vấn nạn buôn bán nha phiến. Thường thường, những kẻ chủ mưu nhập cảng, biến chế và phân phối cho khách hàng tiêu thụ sản phẩm này đều là những tổ chức tội ác hay những thế lực ngoại thù như trường hợp người Anh nhập cảng nha phiến vào Trung Hoa và gây nên cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-1842) và Thực dân Pháp nhập cảng nha phiến vào Đông Dương.
NGUỒN GỐC CỦA VIỆC
BUÔN BÁN MA TÚY Ở VIỆT NAM
Trước thế kỷ 19, Việt Nam có một số người hút thuốc phiện, nhưng hầu như không có vấn nạn buôn bán ma túy. Từ đầu thế kỷ 19, những tầu thuyền chuyên chở thuốc phiện (hầu hết là của người Anh) trên đường đưa vào thị trường Trung Hoa, thường ghé bến ở Việt Nam. Tại đây, bọn con buôn móc nối được một số Hoa thương để bán sản phẩm này ở nước ta. Thấy vậy, vào năm 1820, triều đình Huế bèn ban hành lệnh đặt việc buôn bán và hút thuốc phiện ra ngoài vòng pháp luật.
Từ năm 1858, Thực dân Pháp dùng chiến lược nội công ngoại kích tấn công Việt Nam, quân dân Việt Nam không chống cự nổi. Triều đình Huế bắt buộc phải chấp nhận ký Hiệp Ước Nhâm Tuất 1862. Theo hiệp ước này, Nhà Nguyễn phải chấp nhận 12 điều khoản:
1.- Phải để cho các giáo sĩ Pháp và Tây Ban Nha được tự đi lại truyền đạo ở trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
2.- Nhường cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (gồm các tỉnh Đồng Nai, Gia Định và Định Tường),
3.- Phải bồi thường cho liên minh giặc một khoản tiền chiến phí là 4 triệu quan (phải trả trong 10 năm), và nhận chịu nhiều điều khoản bất công khác nữa.
…..
Kể từ đó, các Hoa Thương được tự do đem thuốc phiện vào bán ở những vùng do Thực dân Pháp kiểm soát và phải đóng thuế 10% tính theo giá bán. Cũng từ đó, trên lãnh thổ Đông Dương, quyền lực của Thực dân Pháp mở rộng đến đâu thì ở đó việc buốn bán nha phiến được hợp pháp hóa. Như đã nói ở trên, đây cũng là độc kế của Pháp và Vatican là vừa làm cho dân ta bạc nhược mất hết nhuệ khí của truyền thống “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, vừa có thể thâu nhập được một khoản tiền khá lớn, đài thọ được một phần nào gánh nặng tài chính chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân ta.
Mấy năm sau, thấy rằng chính sách hợp pháp hóa việc buôn bán thuốc phiện ở Đông Dương đem lại một số lợi nhuận khổng lồ, chính quyền Bảo hộ bèn quyết định nắm độc quyền việc nhâp cảng, biến chế, phân phối và khuếch trương các tiệm bán sản phẩm này cho khách hàng tiêu thụ, đặc biệt nhất là từ thời Toàn Quyền Paul Doumer 12/1896-4/1889), trở về sau (cho đến năm 1945).
Vào năm 1918, việc làm ăn bất lương này rất thịnh đạt. Trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương có tới 1,512 tiệm hút công khai, và có tới 3,098 tiệm bán lẻ cung ứng cho khách hàng tiệu thụ. [1] Vào năm 1938, riêng những dịch vụ buôn bán thuốc phiện đem lại cho chính quyền bảo hộ tới 15% của tổng số tiền thâu nhập.
Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) đã ảnh hưởng ít nhiều đến vần đề phân phối thuốc phiện tại các địa phương và con số khách hàng tiêu thụ. Trong thời gian này, con số tiệm bán lẻ giảm xuống còn có 2,500 tiệm, nhưng con số dân nghiền vẫn còn tới cả 100 ngàn người, và vẫn mang lại cho chính quyền 15% của tổng số tiền thâu nhập, giống như hồi năm 1938.
Kết luận: Tại Đông Dương, chính quyền Thực dân Pháp là thủ phạm của những hành động tội ác:
1.- Nhập cảng thuốc phiện ,
2.- Thiết lập các cơ sở chế biến,
3.- Tổ chức hệ thống phân phối,
4.- Khuyến khich việc mở mang bán sỉ, bán lẻ và các tiệm hút.
Mục đích của việc làm bất chính và dã man này là để vừa đầu độc dân ta rơi vào tình trạng nghiện ngập nhằm làm suy yếu tinh thần chống ngoại xâm, vừa để kinh doanh lấy tiền đài thọ cho bộ máy đàn áp nhân dân ta. Những sư kiện này cũng được sử gia Alfred W McCoy ghi nhận trong cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia với nguyên văn như sau:
“Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ ở Cao Mên (1863), Trung Kỳ (1883), Bắc Kỳ (1884) và Lào (1893), người Pháp nắm độc quyền nhập cảng và phân phối thuốc phiện để lấy tiền tài trợ gánh nặng chi phí cho bộ máy cai trị tại thuộc địa. Trong khi việc buôn bán thuốc phiện ở Nam Kỳ đã thảnh công trong nhiều năm, sự bành trướng các cơ sở kinh doanh của người Pháp (ở Đông Dương) vào các thập niên 1880 và 1900 đã tạo nên tình trạng ngân quỹ bị thiếu hụt trầm trọng cho toàn cõi Đông Dương. Hơn nữa, các chính quyền hổ lốn của năm thuộc địa riêng rẽ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Mên và Lào) là một kiểu mẫu thiếu năng lực, và những bầy đoàn công chức người Pháp đã làm hoang phí những nguồn lợi tức nhỏ bé của các thuộc địa này. Dù là đã có những cải cách hành chánh để hoàn chỉnh những thiệt hại trong những năm đầu thập niên 1890, tình trạng thiếu hụt ngân sách vẫn tiếp tục đe doạ tương lai của Đông Dương thuộc Pháp.
Vào lúc này, Paul Doumer, một chuyên viên phân tích về ngân sách, được đưa lên nắm giữ chức vụ Toàn Quyền Đông Dương. Ngay khi vừa rời nước Pháp đến nhận nhiệm sở ở Đông Dương vào năm 1897, Toàn Quyền Doumer đã cho tiến hành một loạt biện pháp cải cách về ngân khoản chi tiêu. Đó là những biện pháp: Tạm ngưng tuyển mộ các công chức, cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết, và tập trung 5 ngân quỹ rời rạc của 5 xứ thuộc địa vào một sở ngân khố trung ương. Nhưng quan trọng hơn hết là vào năm 1899, Doumer tổ chức lại công việc làm ăn về thuốc phiện, khuếch trương hệ thống bán sản phẩm này và làm giảm rất nhiều những khoản chi tiêu khác. Sau khi gom 5 cơ quan thuốc phiện tự trị lại thành một Sở Độc Quyền Thuốc Phiện, Doumer thiết lập một nhà máy biến chế thuốc phiện ở Sài Gòn để biến chế thuộc phiện sống Ấn Độ thành thuốc phiện đã hoàn chế cho dân nghiền sử dụng. Nhà máy biến chế mới này sản xuất một loại thuốc phiện đã hoàn chế có thể cháy mau hơn khiến cho người hút có thể tiêu thụ nhiều hơn thường lệ. Theo chỉ thị của Doumer, Sở Độc Quyền Thuốc Phiện mua thuốc phiện với giá rẻ ở tỉnh Vân Nam, Trung Hoa, để các tiệm bán lẻ và những tiệm hút của chính quyền có thể lôi cuốn được nhiều khách hàng thuộc giới lao động nghèo mà họ không có đủ tiền để sử dụng loại thuốc phiện đắt tiền mang nhãn hiệu Ấn Độ. Nhà nước lại cho mở thêm các tiệm hút và các tiệm bán lẻ để đáp ứng cho nhu cầu khách hàng càng ngày càng gia tăng. (Năm 1918) có 1,512 tiệm hút và 3,098 tiệm bán lẻ). Việc buôn bán thuốc phiện rất là thịnh đạt.
Là Toàn Quyền Đông Dương, chính Doumerđã hãnh diện tường trình rằng những cải cách làm tăng thêm tiền thâu nhập về thuốc phiện khoảng 50 phần trăm trong thời gian bốn năm tại chức của ông ta, chiếm trên 1/3 của tất cả tiền thâu nhập ở thuộc địa. Tính đến lúc đó, lần đầu tiên trong hơn mười năm có tiền thặng dư trong ngân khố. Hơn nữa, những cải cách của Doumer còn tạo cho người Pháp một niềm tự tin mới vào việc đầu tư kinh doanh vào Đông Dương, và ông ta có thể vận động vay tới 200 triệu Phật lăng để tài trợ cho nhiều dự án lớn lao. Một phần của những dự án này là dự án làm hệ thống đường xe lửa ở Đông Dương và nhiều dự án thiết lập nhà thương và trường học.
Thực dân Pháp cũng không có ảo ảnh về cách thức họ tài trợ cho các dự án phát triển ở Đông Dương. Khi chính quyền loan báo dự án xây đường xe lửa ngược theo dòng Sông Hồng lên tỉnh Vân Nam ở Trung Hoa, phát ngôn viên của giới kinh doanh (người Pháp) giải thích một trong những mục đích tiên khởi của dự án này là:
Điều chú ý đặc biệt là vào lúc người ta sắp sửa bỏ phiếu chuẩn chi tiền tài trợ cho việc xây cất đương xe lửa đi Vân Nam để tìm phương cách tăng cường việc buôn bán giữa Vân Nam với Đông Dương… Việc điều hành thuốc phiện và muối ở Vân Nam có thể được điều chỉnh theo phương cách làm cho việc buôn bán này dễ dàng và gia tăng khối lượng hàng hóa chuyển vận bằng đường xe lửa.
Vào trong các thập niên 1920 và 1930, trong khi các nước trên thế giới lao vào cuộc chiến chống “tội ác thuốc phiện” , bắt buộc các chính quyền thuộc địa khác ở Đông Nam Á phải giảm bớt dịch vụ độc quyền buôn bán thuốc phiện, thì chính quyền Pháp ở Đông Dương vẫn thản nhiên, vẫn tiếp tục theo đuổi buôn bán thứ hàng hóa tội ác này. Khi cuộc đại Khủng Hoảng Kinh Tế xẩy ra vào năm 1929 làm cho thuế thâu nhập giảm bớt đi rất nhiều, người Pháp lại cố gắng nâng mức lợi tức (đã giảm đi) của dịch vụ buôn bán thuốc phiện để quân bình ngân sách. Lợi tức thâu nhập của dịch vụ buôn bán thuốc phiện đã tăng lên đều đều. Vào năm 1938, tiền thậu nhập do việc buôn bán thuốc phiện mang lại lên tới 15% của tổng số tiền thuế thâu nhập ở thuộc địa tại Đông Dương – cao nhất ở Đông Nam Á.” [2]
Biến cố Nhật Bản hất cẳng chính quyền Liên Minh Pháp-Vatican tại Đông Dương vào chiều tối ngày 9/3/1945 và cuộc Tổng Khởi Nghĩa của nhân dân ta vào ngày 19/8/1945 làm cho công việc làm ăn bất lương này của chính quyền bảo hộ Pháp - Vatican ngưng trệ.
A.- MIỀN BẮC:
Người viết cố gắng tìm tài liệu nói về vấn đề buôn bán ma túy có liên hệ với chính quyền Kháng Chiến (1945-1954) do Viêt Minh lãnh đạo và chính quyền miền Bắc trong những năm 1954-1975, nhưng vẫn không tìm được một tài liệu nào cả. Đồng thời, lại thấy, các sách giáo khoa môn công dân ở bậc trung học, đều có ghi lời khuyên dạy “Nghiện hút ma túy sẽ nguy hiểm đến tính mạng và là gánh nặng cho gia đình và xã hội.” Như vậy, chính quyền Việt Nam hiện nay (cũng là chính quyền Kháng Chiến 1945-1954 và chính quyền Bắc trong những năm 1954-1975) chủ trương tích cực chống việc sản xuất, nhập cảng, biến chế, phân phối và lưu hành ma túy, ngoại trử việc sử dụng sản phẩm này trong lãnh vực y khoa.B.- MIỀN NAM:
Như đã nói ở trên, việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là do chính quyền miền Nam chủ mưu: điều khiển việc nhập cảng, bảo trợ việc biến chế, gói thành gói, mở mang các tiệm hút và phân phối cho khách hàng tiêu thụ.Sách sử cho biết, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1950 cho đến tháng 4 năm 1975, việc buôn bán ma túy đều do các chính quyền Bảo Đại, chế độ cha cố Ngô Đình Diệm, chính quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chủ trương bất kể gì là sản phẩm này có tác dụng làm nguy hại cho nòi giống, dân tộc và tiền đồ của đất nước.
Với những hành động vừa phi pháp, vừa bất nhân và dã man, vừa hại nước hại dân, vừa phản dân tộc, các chính quyền miền Nam đã trở thành những tổ chức tội ác đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Chính vì vậy mà sử gia Alfred McCoy mới gọi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” (Diem Dynasty and the Nhu Bandits” (Alfred McCoy, The Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row Publishers, 1972), p. 159). Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho độc giả có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này.
1.- QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Trong thời kỳ Kháng Chiến 1945-1954, Phòng Nhì Pháp chủ trương tái lập việc làm ăn bất chính này, rồi cấu kết với băng đảng Bình Xuyên do Bẩy Viễn cầm đầu và toa rập với Quốc Trưởng Bảo Đại để tái lập việc nhập cảng lậu thuốc phiện, tiến hành các cơ sở biến chế, thiết lập hệ thống phân phối và mở mang các tiệm hút. Tuy nhiên, có lẽ một phần vì nhân dân ta đã ý thức được tác dụng nguy hại của ma túy, và một phần vì chiến tranh đang diễn ra gay go quyết liệt, khiến cho phần lớn dân ta lao vào cuộc chiến, cho nên con số người nghiện hút không nhiều như những năm trước năm 1945. Vì thế mà trong những năm 1950-1954, chỉ có hàng trăm (nghĩa là chưa tới một ngàn) tiệm hút ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Lẽ dĩ nhiên, dù nhiều hay ít tiệm hút, số tiền lời của việc làm ăn bất chính này cũng phải chia theo tỉ lệ phần trăm cho ông Bảo Đại, Phòng Nhì và Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực của Pháp tại Đông Dương. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in Southeast Asia ghi nhận như sau:“Vào một thời điểm sau năm 1950, quân đội Pháp đặc thưởng cho Bình Xuyên một món hàng béo bở của thực dân. Đó là việc buôn bán ma túy. Bình Xuyên khởi công biến chế thuốc phiện sống (do người Mèo sản xuất và được các lực lượng phụ lực Pháp chuyển về Sài Gòn), rồi phân phối cho hàng trăm tiệm hút ở rải rác trong thành phố Sài Gòn Chợ Lớn để cung ứng cho giới dân nghiền. Họ chia tiền lời của việc làm ăn bất chính theo tỉ lệ đã được ấn định cho Hoàng Đế Bảo Đại, Phòng Nhì và Quân Đội Phụ Lực của Pháp. Sau này Đại Tá Lansdale của CIA báo cáo như vậy.” Nguyên văn: “Some time after 1950 the French military awarded the Binh Xuyen another lucrative colonial asset, Saigon ‘s opium commerce. The Binh Xuyen started processing MACG ‘s raw Meo opium and distributing prepared smokers’ opium to hundreds of dens scattered throughout the twin cities. They paid fixed percentage of their profits to Emperor Bao Dai, the 2ème Bureau, and the MAAG commados. The CIA’s Colonel Lansdale later reported that.”[3]
Thật là vô liêm sỉ đến cùng độ của vô liêm sỉ. Đường đường là một vị lãnh đạo một chính quyền thường được rêu rao là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” ra đời cùng với “lá cờ vàng ba sọc đỏ” vào ngày 2/6/1948 để tranh đấu cho tự do dân chủ mà lại gục mặt xuống đồng lõa với bọn ăn cướp Bình Xuyên và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican trong việc làm bất chính hại dân hai nước như vậy! Bộ mặt thật của nhà lãnh đạo đầu tiên của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” của “những người Quốc Gia chân chính yêu nước” như thế đó! Và “lá cờ vàng ba sọc đỏ” biểu tượng cho chế độ của hạng người lãnh đạo vô liêm sỉ như thế đó!
Qua những sự kiện này, chúng ta có thể nói là “Đừng tin những gì mà những kẻ tự xưng là “người quốc gia chân chính” làm, mà hãy nhìn vào những việc làm vô liêm sỉ này và những hành động bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và cho Đế quốc Mỹ của bọn chúng.”
2.- CHẾ ĐỘ CHA CỐ NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Hơn một năm sau khi được Đế quốc Mỹ đưa về Việt Nam cầm quyền với cuơng vị là thủ tướng vào ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào ngày 23/10/1955 với dã tâm truất phế QuốcTrưởng Bảo Đại để tiếm quyền. Làm xong việc làm phản trắc này, ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước Cộng Hòa Việt Nam và tự phong là Tổng Thống, rồi cho mở chiến dịch tuyên tuyền rầm rộ bài trừ các tệ đoan xã hội, trong đó có việc cấm hút thuốc phiện để làm bức bình phong che đậy việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô và gia đình trị đang được tiến hành.Năm 1958, sau khi đã củng cố xong quyền lực, anh em nhà Ngô cho tái lập kỹ nghệ buôn lậu thuốc phiện sống, thiết lập các cơ sở biến chế và khuếch trương kỹ nghệ này bằng cách cấu kết với các tên đầu nậu Ba Tầu (trong đó có tên Mã Tuyên) ở Chợ Lớn để mở mang các tiệm hút và các tiệm bán sỉ bán lẻ sản phẩm này ở Sài Gòn Chợ Lớn một cách công khai. Vào khoảng năm 1963, công việc làm ăn phi pháp này của chính quyền Diệm khá phát đạt. Riêng ở Chợ Lớn, con số tiệm hút hoạt động công khai lên đến 2,500 tiệm. Dưới đây là đoạn văn của tác giả Alfred McCoy viết trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia về việc làm bất chính hại dân hại nước này của chế độ cha cố Ngô Đình Diệm:
“Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng Ngô Đình Nhu quyết định tái lập việc buôn bán nha phiến đê lấy tiền. Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.
Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương Bonaventure “Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối liên giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ chuyển vận món hàng này về miền Nam Việt Nam..
Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không Lực Việt Nam.
Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một lý thuyết gia chính trị của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân Đội, và quan trọng nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong chính phủ và trong quân đội. Chính quyền Sài Gòn kiểm soát chặt chẽ việc thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên cho sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở Sài Gòn-Cholon đều có chỉ điểm viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà sở biết được đầy đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt và nội dung các cuộc họp của đối tượng. Một số các nhà quan sát cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn nhân viên mật vụ làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.
Vì có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những dịch vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống tình báo của ông.” [4]
Phần trích dẫn trên đây chỉ là có 2 trong số gần 7 trang nói về việc buôn bán ma túy trong thời chế độc cha cố Ngô Đình Diệm.
Đồng thời, chính quyền Ngô Đình Diệm còn biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille chuyên biến thuốc phiện sống thành bạch phiến rổi chuyển vận sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khác hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba: (1) Nguồn thuốc phiện sống phát xúat từ miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm cung cấp, (2) trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển, và (3) trung tâm phân phố bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điểu khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante Sự kiện này được hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee ghi nhận trong csách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm như sau.
“Và năm 1958, khi Diệm – Nhu tái lập lưu thông thuc phiện về Sài Gòn, Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn con nghiện ở Sài Gòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới - đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường và không chắc chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phân ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế nào?
Nhu và Rock Francisici đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cap để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như một thứ Bộ TRưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở Marseille một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một vụ làm ăn ngon lành.
Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sài Gòn và chuyển hàng xong hết mà không gặp nhiểu kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Phi Đội Vận Tải số 1 của riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA]) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sài Gòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến Mỹ.
Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci - thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiện tới Sài Gòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sấn (tới phạm vi hoạt động) của Francisci.
Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, đồng thời nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ cũng vậy.
Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành nững đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dinh dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.”[5]
“Giữa tất cả nhũng điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh tại Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là người Pháp.
Bây giờ chúng ta gặp một người Pháp nữa, giống như Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này la Matthew Franchini. Bề ngòai ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sài Gòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sài Gòn sang các lò bạch phiến ở Marseille. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đương dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sài Gòn (những chuyến này do Nhu bảo kê).”[6]
Ngoài ra, lại cón có Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Lào, Trần Kim Tuyên và bọn Cần Lao tin cẩn, người phụ trách chuyển vận thuốc phiện từ Lào về Sài Gòn nữa.
Có thể do việc làm ăn bất lương này, anh em ông Ngô Đình Diệm mới bắt đầu kết thân sống chết với tên Mã Tuyên, một tên đầu nậu khét tiếng trong bang Triều Châu ở Chợ Lớn. Xin nhắc lại, cũng vì ma túy có tác dụng làm suy yếu sức khỏe của con người, làm cho gia đình những người nghiện khốn đốn điêu linh, và làm cho các quốc gia có nhiều người nghiện trở nên suy nhược, cho nên hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm bán sản phẩm này cho quảng đại quần chúng, và chỉ cho phép được sử dụng trong phạm vi y khoa mà thôi. Cũng vì thế mà tác giả Alfred W. McCoy mới gọi chế độ đạo phiệt gia đình trị Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.” Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159.
3.- TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Khi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, việc làm ăn bất lương này chuyển vào tay băng đảng của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in South East Asia viết như sau:“Dĩ nhiên, việc “Phục hồi hệ thống làm ăn cũ” có nghĩa là làm sống lại việc tham những trên một bình diện đại quy mô để có tiền mặt chi phí những món tiền thưởng ban phát cho những nhân viên do thám bán thời gian khi họ mang lại một nguồn tin tình báo mới. Ông (Nguyễn Ngọc) Loan và những chuyên viên cảnh sát tình báo nhà nghề đã hệ thống hóa vấn đề tham nhũng và quy định bao nhiêu tiền cho mỗi cơ quan đặc biệt, mỗi viên chức được giữ lại bao nhiêu cho riêng cá nhân và bao nhiêu phần trăm dành cho bộ máy chính trị của Thủ Tướng Kỳ. Cá nhân nào tham nhũng quá đáng thì bị khui ra và sẽ bị xử lý. Những mánh mung thủ đoạn làm tiền bất chính cũng như việc bảo vệ những việc làm bất chính này và tiền đút lót đều được kiểm soát chặt chẽ. Sau nhiều năm quan sát và điều nghiên những hoạt động trong hệ thống tham nhũng của ông Loan, ông Charles Sweet cho rằng có 4 nguồn tham nhũng chính ở miền Nam Việt Nam: (1) bán các chức vụ và chỗ làm trong chính quyền, (2) tham nhũng trong các cơ quan hành chánh (biển thủ, toa rập với các nhà buôn và nhà thầu để ăn chia theo phần trăm trong các dịch vụ giao dịch giữa nhà buôn hay nhà thầu với các cơ quan trong chính quyền, hối lộ, v.v…, (3) tham nhũng trong quân đội (ăn cắp vật liệu, gian lận trong sổ lương lính), (4) buôn bán ma túy. Ông Sweet kết luận rằng, trong 4 loại làm tiền bất chính trên đây, việc buôn bán ma túy đem lại nguồn lợi tức bất chính quan trọng nhất.
Là người trung gian (ủy nhiệm) của Thủ Tướng Kỳ, ông Loan chỉ đảm nhiệm việc chỉ huy tất cả các hình thức tham những ở trên bình diện hành chánh tổng quát và để lại những vấn để tham nhũng tầm thường nhỏ nhặt, tổ chức và điều hành cho những người phụ tá đáng tín cậy.”[7]
Trên đây là nói về vấn đề buôn bán ma túy trong những năm ông Nguyễn Cao Kỳ còn nắm quyền thủ tướng (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương) từ ngày 19/6/1965 cho đến khi ông Nguyễn Văn Thiệu được Đế quốc Mỹ đưa lên làm Tổng Thống vào ngày 3/9/1967:
“Ngày 3/9/1967, nhờ sự tiếp tay của Hồng Y New York là Francis Spellman (Vatican) và Đại Sứ Ellsworth Bunker, Thiệu được “đắc cử” Tổng Thống nền Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975) với 34.8% số phiếu.” [8]
4.- CHẾ ĐỘ QUÂN PHIỆT DA TÔ NGUYỄN VĂN THIỆU VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Quyền lực của Tướng kỳ bắt đầu sụp đổ kể từ khi cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức vào ngày 3 tháng 9 năm 1967. Kể từ đó, việc làm ăn bất lương này dần dần lọt vào tay Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tướng Trần Thiện Khiêm và Tướng Đặng Văn Quang. Với sự hiện diện của hơn 500 ngàn quân Mỹ và nhiều ngàn quân lính đồng minh của Mỹ như Úc Đại Lợi, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, việc làm ăn này càng phát triển và càng kiếm được nhiều tiền hơn. Cũng vì thế mà trong thời kỳ này, việc buốn bán ma túy gần như hoạt động công khai trước mắt người dân và các nhà quan sát quốc tế. Mấy đoạn văn trích dẫn từ trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia dưới đây sẽ cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng về việc buôn bán ma túy ở miền Nam trong thời ông Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ và Vatican đưa lên nắm giữ chức vụ tổng thống từ tháng 9/1967 cho đến ngày 30/4/1975:“Sự gia tăng đột phá về tầm mức và lợi nhuận trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam do thị trường mới là lính Mỹ càng ngày càng đông cũng như nhu cầu đã tăng lên của các tổ chức ma túy quốc tế đưa đến kết quả là gia tăng những băng đảng nhỏ mới xuất hiện để làm ăn trong việc làm phi pháp này.
Vào khoảng năm 1970, việc buôn bán ma túy ở miền Nam coi như là được chia làm ba phe đảng quan trọng: (1) Phe Không Quân, (2) Phe chính quyền (nghĩa là cảnh sát, các cơ quan quan thuế, và cơ quan coi về các hải cảng và giang cảng) dưới quyền điều khiển của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm càng ngày càng hoạt động mạnh hơn, và (3) quân đội, hải quân và hạ viện trong Quốc Hội hoạt động cho phe đảng của Tổng Thống Thiệu.
Có lẽ vì sự “liên hệ” với số tiền lợi nhuận quá lớn trong việc làm phi pháp này, cho nên giữa những phe đảng này có một mối oán cừu đáng kể.
“Liên hệ” trong việc buôn bán nha phiến túy ở miền Nam có nhiều hình thức. Thường thường, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội nắm giữ vai trò cố vấn hoặc người bảo vệ hay bao che cho các tổ chức của người Tầu Triều Châu chuyên nhập cảng lậu thuốc phiện sống, rồi biến chế, gói thành gói và phân phối đến các nơi tiêu thụ. (Triều Châu là người Trung Hoa từ vùng Tô Châu ở miền Nam Trung Hoa, tổ chức này của người Triều Châu đã kiểm soát phần lớn hệ thống buôn bán ma túy ở Á Châu từ giữa thế kỷ 19 và nắm giữ một vai trò trong các tổ chức tội ác ở Trung Hoa, tương tự như tổ chức tội ác của người Sicilian ở Ý Đại Lợi và người Corse ở Pháp. Chi tiết về các tổ chức này đã được trình bày ở Chương 6 - trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia.) Sự quan trọng của việc bảo vệ hay bao che trong việc làm ăn phi pháp này không thể coi thường hay đánh giá thấp được, vì rằng không có sự bảo vệ hay bao che thì việc buôn bán ma túy không thể tiến hành được. Đồng thời, những nhân vật quyền thế trong chính quyền và trong quân đội liên hệ trực tiếp rất nhiều vào việc nhập cảng lậu ma túy vào miền Nam Việt Nam. Những quân nhân miền Nam có thể tới gần các phi cơ, xe chuyển vận nhà binh, tầu thuyền của hải quân mà người Trung Hoa không thể tới được, và phần lớn những người Việt Nam có quyền thế có rất nhiều hoàn cảnh dễ dàng để mang nha phiến qua các cửa ải quan thuế và các trạm kiểm soát ở biên giới hơn là những người Trung Hoa.” [9]
“Thiệu nắm quyền chỉ huy.- Vào khi quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Kỳ xuống dốc một cách thảm thương, các sĩ quan cao cấp thân Tổng Thống Thiệu trở thành những nhân vật nổi trong việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam. Giống như những người tiền nhiệm là Tổng Thống Diệm và Thủ Tướng Kỳ, Tổng Thống Thiệu đã cố tình tránh né để cho cá nhân ông không mang tiếng vào những việc tham nhũng về chính trị. Tuy nhiên, người ủy nhiệm của ông là Tướng Đặng Văn Quang, người nắm giữ vai trò cố vấn tình báo tại Phủ Tổng Thống, lại liên hệ nặng nề vào những việc làm ô nhục và ghê tởm này. Qua những sĩ quan cao cấp trung thành với chính ông hay với Tổng Thống Thiệu ở trong quân đội và hải quân, Tướng Đặng Văn Quang đã thiết lập được một lực lượng hùng hậu tiếp tay cho ông. Dù là đối với quốc tế, tư thế của Tướng Quang kém hơn tư thế của Tướng Kỳ, nhưng Tướng Quang nắm quyền kiểm soát hải quân miền Nam. Thế lực này chứa chấp một tổ chức nhập cảng lậu một số lượng ma túy rất lớn bằng cách sử dụng các tầu thuyền của hải quân để chuyển vận và được những nhà hàng hải buôn lậu người Trung Hoa bảo vệ. Trong khi ảnh hưởng của Tướng Kỳ đối với các sĩ quan cao cấp trong quân đội bị suy yếu nặng nề, thì quyền kiểm soát quân đội lại lọt vào tay Tướng Quang. Vào lúc này, phần lớn việc phân phối và bán ma túy cho quân lính Mỹ nằm ở trong tay quân đội. Hơn nữa, khối dân biểu thân Tổng Thống Thiệu ở hạ viện trong Quốc Hội đã công khai để lộ ra những hoạt động buôn lậu ma túy, nhưng hình như họ làm ăn độc lập với Tướng Quang hơn là quân đội và hải quân.
Vào ngày 15/7/1971, trong Bản Tin Chiều Tối của đài truyền hình BBC, phóng viên của đài truyền hình này từ Sài Gòn là ông Phil Brady nói với khán thính giả toàn quốc rằng cả Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ đều dùng tiền lợi nhuận của buôn bán ma túy để tài trợ cho chi phí vận động tranh cử. Ông Brady viện dẫn “nguồn tin rất đáng tin cậy” như là nói rằng Tướng Đặng Văn Quang, cố vấn tình báo của Tổng Thống Thiêu, là “tay buôn bán ma túy lớn nhất” ở miền Nam Việt Nam. Mặc dù viên chức phụ trách văn phòng báo chí của Tổng Thống Thiệu công bố bàn văn phủ nhận thẳng thừng lời lên án trên đây và tố cáo ông Brady “loan tin ngụy tạo để phỉ báng các nhà lãnh đạo chính quyền miền Nam nhằm hỗ trợ và làm hài lòng Cộng Sản,” nhưng ông ta lại không cố gắng bảo vệ Tướng Quang, người nổi tiếng là một trong những các ông tướng bất lương nhất ở miền Nam Việt Nam khi ông tướng này còn là Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở vùng châu thổ Sông Cửu Long.
Tháng 7 năm 1969, phóng viên của tạp chí Time ở Sài Gòn điện về văn phòng tại New York báo cáo về những hoạt động của Tướng Quang ở vùng IV như sau:
Có báo cáo rằng Tướng Quang đã kiếm được hàng triệu bạc bằng cách bán những chức vụ trong chính quyền và thâu tiền bất chính tính theo phần trăm trong việc sản xuất và bán lúa gạo trong vùng trị nhậm. Có một chuyện nổi tiếng xẩy ra được ghi rõ ràng trong hồ sơ tham nhũng của ông Tướng này ở Quân Đoàn IV. Đó là chuyện ông Đại Tá Nguyễn Văn Minh được đưa lên nắm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 21. Ông đại tá này đã từng là sĩ quan phụ tá cho Tướng Quang ở Quân Đoàn IV. Vào giờ lễ nhậm chức, người vợ của viên tư lệnh phải ra đi đứng lên la lớn trước mọi người rằng Đại Tá Nguyễn Văn Minh đã trả cho Tướng Quang 2 triệu đồng [7,300 Mỹ kim] để được nắm giữ chức vụ này… Sau cùng, theo sự yêu cầu của người Mỹ, Tướng Quang bị mất chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV.
Cuối năm 1966, Tướng Quang được chuyển về Sài Gòn và trở thành tổng trưởng kế hoạch và phát triển, một chức vụ ngồi chơi xới nước để cứu vớt thể diện. Ngay sau khi Tướng Thiệu đắc cử Tổng Thống trong kỳ bầu cử được tổ chức vào tháng 9 năm 1967, Tướng Quang được cho giữ chức vụ phụ tá đặc biệt về an ninh quân sự và trở thành người ủy nhiệm đặc trách việc làm tiền bất chính này để gây qũy cho bộ máy chính trị của Tổng Thống Thiệu, giống như vai trò của Tướng Loan đối với Tướng Kỳ trước đó.
Tuy nhiên, Tổng Thống Thiệu không đặt tin tưởng tuyệt đối vào Tướng Quang như Tướng Kỳ đối với Tướng Loan. Cá nhân Tướng Loan được Tướng Kỳ trao cho quyền hành hầu như không giới hạn. Mặt khác, Tổng Thống Thiệu thiết lập nhiều trung tâm ganh đua nhau về quyền lực ở ngay trong bộ máy chính trị của ông ta để giữ cho Tướng Quang khỏi có quá nhiều quyền lực. Kết quả là Tướng Quang chẳng bao giờ kiểm soát được tất cả các băng đảng nho nhỏ thân Tổng Thống Thiệu như vai trò Tướng Loan trong bộ máy chính trị của Tướng Kỳ. Khi bộ máy kiểm soát các tổ chức làm tiền phi pháp của Tướng Kỳ ở Sài Gòn bị suy yếu từ sau tháng 6 năm 1968, những băng đảng thân Tổng Thống Thiệu tiến vào thay thế. Trong tình trạng thay đổi quyền lực chính trị như vậy, Tướng Quang được nắm quyền kiểm soát lực lượng đặc biệt, hải quân và quân đội, nhưng một trong những băng đảng khác cũng thân Tổng Thống Thiệu do Tướng Trần Thiện Khiêm chỉ huy nắm được quyền lực đủ mạnh để dần dần tạo thành một băng đảng riêng rẽ. Tuy nhiên, ngay từ lúc bắt đầu chiếm được quyền lực vào khi quyền lực của Tướng Kỳ sụp đổ, hình như quyền lực của phe Tổng Thống Thiệu nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang.”
Có bằng chứng cho thấy rằng một trong những nhóm mới bắt đầu nhập cảng lậu nha phiến vào miền Nam Việt Nam là toán quân trong lực lượng đặc biệt của miền Nam (nằm dưới quyền điều khiển của Tướng Quang) hoạt động ở miền nam nước Ai Lao. Tháng 8 năm 1972, tờ New York Times tường trình rằng có nhiều chuyến bay chuyển vận ma túy vào miền Nam Việt Nam “có liên hệ với lực lượng đặc biệt hoạt động trong hệ thống mật dọc theo Đường Mòn Hồ Chí Minh ở Ai Lao. Có căn cứ ở tỉnh Kontum, phía bắc Pleiku, toán quân đặc nhiệm của lực lượng đặc biệt này có không đoàn trực thăng và những phi cơ nhẹ thường xuyên chuyển vận những toán lính phá hoại vào miền Nam Ai Lao và để thực hiện những phi vụ do thám. Một vài sĩ quan trong toán lực lượng đặc biệt này nói rằng vào giữa năm 1971 vị chỉ huy của toán lính này bị chuyển đến một nơi đồn trú khác vì chuyện ông ta liên hệ nặng nề đến việc chuyển vận ma túy có cơ nguy bị bại lộ.” [10]
5.- HẠ VIỆN TRONG QUỐC HỘI MIỀN NAM VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN
Kinh tởm hơn nữa là việc buôn bán ma túy không phải chỉ giới hạn trong ngành hành pháp, cũng không phải chỉ giới hạn trong các binh chủng không quân, hải quân, lục quân và các đơn vị lực lượng đặc biệt, mà còn lan tràn sang cả ngành lập pháp. Đoạn văn dưới đây nói về các ông dân biểu trong Quốc Hội (Ha Viện) làm tay sai cho Nguyễn Văn Thiệu trong hoạt động buôn bán bạch phiến:“Tại Hạ Viện, Tổng Thống Thiệu trông cậy vào những thành viên của Khối Độc Lập để lo việc mà cả và trả tiền (cho những dân biểu làm tay sai cho ông), hơn là chính cá nhân ông thương lượng trực tiếp hay qua các ông tướng cố vấn quân sự của ông. Khối Độc Lập trong hạ viện được thành lập từ năm 1967, gồm toàn những tín đồ Da-tô người Bắc Kỳ di cư hung hăng chống Cộng. Mặc dù, trên danh nghĩa là độc lập, nhưng ngay sau khi vừa mới được thành lập, vị lãnh tụ của khối này là Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện đến gặp Tổng Thống Thiệu và “hứa miệng” là ủng hộ tổng thống để được hưởng những ân huệ (không nói rõ những thứ ân huệ này.) Khối này có ảnh hưởng ra ngoài cả những thành viên của khối và tất cả các thành viên của khối đều nắm giữ những chức vụ quan trọng như là các chức chủ tịch của các ủy ban trong hạ viện, thí dụ như ủy ban vận động quyên tiền gây quỹ, hay viên chức liên lạc thông tin những lệnh truyền của trưởng khối cho các thành viên trong khối; vỏn vẹn chỉ có 19 thành viên, Khối Độc Lập nắm giữ 6 trong số 16 chức vụ chủ tịch ủy ban tại hạ viện. Thí dụ, trong kỳ thảo luận về luật bầu cử tổng thống vào năm 1971, thành viên của Khối Độc Lập là Dân Biểu Phạm Hữu Giao lo việc vận động cho điều khoản 10 được thông qua. Điều khoản gây tranh luận sôi nổi này đòi hỏi cá nhân nào muốn ra ứng cử tổng thống thì phải có tối thiểu 40 chữ ký của các dân biểu quốc hội. Mục đích của điều khoản này là giúp cho Tổng Thống Thiệu dễ dàng làm cho Phó Tổng Thống Kỳ không thể ra tranh cử được. Những ngày đầu trong việc thảo luận điều khoản này, Dân Biểu Phạm Hữu Giao đã mà cả kèo nài với các dân biểu thuộc các sắc tộc thiểu số là 350 Mỹ kim một phiếu và phần lớn các phiếu của các dân biểu gốc Cao Mên là 700 Mỹ kim. Tuy nhiên, vào ba ngày tranh luận sôi nổi sau cùng trước khi bỏ phiếu, giá tiền mỗi lá phiếu nhẩy vọt lên từ 1,000 tới 1,800 Mỹ kim để tranh thủ cho có đủ túc số 75 phiếu hầu thông qua điều khoản này.
Trung thành với Tổng Thống Thiệu hình như có nhiều lợi lộc. Không có dân biểu đối lập nào có liên hệ nghiêm trọng đến một vụ buôn lậu nào. Tất cả dân biểu tại hạ viện có liên hệ đến việc buôn bán bạch phiến và vàng lậu đều thuộc Khối Độc Lập hoặc là trong hiện tại hoặc là trong quá khứ. Lý do thật là đơn giản. Các ông dân biểu đối lập thường thường không có đủ tiền cần thiết để chi phí cho những chuyến đi xuất ngoại như vậy, và cũng không được bảo đảm lúc trở về “sẽ được tiếp đãi lịch sự khi đi qua cửa ải quan thuế.” Tuy nhiên, các ông dân biểu thân chính quyền được tài trợ bằng một khoản tiền (đặc biệt) hoặc là tiền để dành trong những tháng bỏ phiếu và có quyền được cấp hộ chiếu xuất ngoại bốn (4) lần trong một năm, một đặc ân dành cho các dân biểu đuợc xuất ngoại vào những ngày Quốc Hội nghỉ, không nhóm họp. Kết quả là đã có những buổi vui chơi yến tiệc của các ông dân biểu thân chính quyền ở ngoại quốc với danh nghĩa bề ngoài là đi công tác cho chính quyền. Trong năm 1969-1970 các ông dân biểu vui chơi yến tiệc ở ngoại quốc này đã sử dụng tới 821.000 (821 ngàn) Mỹ kim để mua hàng hóa quốc ngoại. Một dân biểu thân chính quyền thuộc loại nổi đã lưu lại ở ngoại quốc tới 119 ngày trong năm 1969, 98 ngày trong năm 1970, và 75 ngày trong ba tháng đầu của năm 1971.” [11]
6.- CÁC SƠ ĐỒ BUÔN BÁN NHA PHIẾN TRONG THỜI NGUYỄN VĂN THIỆU
Trên đây chỉ là mấy đoạn trích dẫn từ một vài trang trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia (của Alfred W. McCoy) dày 375 trang, không kể các trang ghi chú. Trong cuốn sách này, tác giả dành ra tới 150 trang (từ trang 72 đến trang 222) để nói về vấn đề ma túy ở miền Nam từ việc nhập cảng lậu sản phẩm này cho đến các việc thiết lập các cơ sở biến chế, phân phối và mở mang các tiệm hút ở Sài Gòn - Chợ Lớn cũng như ở nhiều nơi khác.Trong số 150 trang nói về việc làm ăn phi pháp này ở miền Nam Việt Nam từ năm 1950 cho đến năm 1971, tác giả Alfred W. McCoy còn đưa ra 5 bản sơ đồ tổ chức của những phe đảng của các thế lực cầm quyền ở miền Nam có liên hệ đến vấn đề buôn bán ma túy trong thời gian này.
1.- Sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954.
2.- Sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ có liên hệ đến những hoạt động buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1968.
3.- Sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có liên hệ đến những hoạt động buôn bán nha phiến ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970-1971.
4.- Sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về tổ chức Hải Quân Việt Nam được thiết lập trong thời gian miền Nam xua quân sang tấn công Cao Mên vào mùa Xuân 1970. Dĩ nhiên là tổ chức này có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy và nằm dưới quyền chỉ huy của Tướng Đặng Văn Quang.
5.- Sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy phiến trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam.
Trong mỗi sơ đồ trên đây, tác giả đều ghi rõ danh tính của từng cá nhân phụ trách phần vụ nào trong hệ thống quyền lực và liên hệ đến việc buôn bán ma túy.
Nhìn vào sơ đồ số 1 nơi trang 97 trình bày tổ chức phụ lực quân và tình báo Pháp hoạt động kỹ nghệ buôn bán ma túy ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong những năm 1950-1954, chúng ta thấy đứng đầu trên hết là Bộ Chiến Tranh tại Pháp chỉ đạo, kế đến là cơ quan thâu thập tài liệu và phản gián, và Đoàn Quân Viễn Chinh Pháp (tại Đông Dương).
Đoàn Quân Viễn Chinh tại Đông Dương chỉ đạo hai cơ quan: (1) Phòng Nhì, và (2) Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực.
Phòng Nhì nối kết với Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên. Sở Liên Lạc Các Đơn Vị Phụ Lực chỉ đạo Nhóm Không Vận Biệt Kích Hỗn Hợp. Nhóm này nối kết với Vùng Bắc (Northern Zone). Tại đây có hai nhân vật quan trọng là Touby Lý Foung (người H. Mong = Mèo ) và Đèo Văn Long (người Thái).
Hai nhân vật này thâu mua thuốc phiện sống sản xuất tại đia phương để cung cấp cho Phòng Nhì. Phòng Nhì chuyển cho Nhóm Không Vận Biệt Kích chuyển vận bằng phi cơ vào Sài Gòn để giao cho Bình Xuyên. Bình Xuyên cấu kết người Tầu Triều Châu ở Chợ Lớn lo việc việc biến chế, gói lại thành từng gói rồi phân phối đến các tiệm bán sỉ, bán lẻ và cho khách hàng tiêu thụ tại các tiệm hút do Bình Xuyên quản lý.
(Cũng nên biết, phần lớn thuốc phiện sống được sản xuất ở vùng Tam Giác Vàng (nằm trong vùng Đông Nam Miến Điện,Tây Bắc Thái Lan và Tây Bắc Ai Lao) do đám tàn quân (khoảng 12 ngàn) Quốc Dân Đảng Trung Hoa chạy sang vùng này chủ mưu và đảm trách.)
Nhìn vào sơ đồ số 2 nơi trang 175 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ trong những năm 1965-1968, chúng ta thấy có Quân Đội (một số đơn vị trong quân đội), Không Quân, Thương Cảng Sài Gòn và Sở Quan Thuế. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng của tổ chức này được nêu đích danh là Bà Nguyễn Thị Lý (chị ruột Tướng Nguyễn Cao Kỳ), Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia), Trung Tá Khu Đức Nùng (Biệt phái tại Ai Lao), Tướng Vĩnh Lộc (Tư Lệnh Quân Đoàn II), Tướng Lê Nguyên Khang (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Đại Tá Trần Văn Thăng (An Ninh Quân Đội), Đại Tá Phan Ngọc Huấn (Giám Đốc Sở CIO), Đại Tá Nguyễn Thanh Tùng (Mai Đen), Trung Tá Phó Quốc Chụ (Thương Cảng Sài Gòn), Trung Tá Nguyễn Văn Luận (Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Đại Tá Nguyên Ngọc Xinh (Trường Phòng một cơ quan Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn), Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ (Trương Ty Cảnh Sát Quân 5, Sài Gòn), ông Nguyễn Văn Lộc (Tổng Giám Đốc Nha Quan Thuế), Đại Tá Lưu Kim Cương (Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 33 kiêm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhất), và Thiếu Tá Phan Phụng Tiên.
Nhìn vào sơ đồ số 3 nơi trang 191 nói về tổ chức quyền lực chính trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những năm 1970-1971, chúng ta thấy có Quân Đội, Hải Quân và Hạ Viện trong Quốc Hội. Về danh tính của những nhân vật chỉ huy các phần vụ quan trọng trong tổ chức này được nêu đích danh là Tướng Hoàng Xuân Lãm (Tư Lệnh Quân Đoàn I), Tướng Lữ Lan (Tư Lệnh Quân Đoàn II trong những năm 1968-1970), Tướng Ngô Dzu (Tư Lệnh Quân Đoàn II, kế nhiệm Tướng Lữ Lan), Tướng Nguyễn Văn Minh (Tư Lệnh Quân Đoàn III), Tướng Trần Văn Hai (Tư Lệnh Quân Đoàn IV), Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang (Tư Lệnh Hải Quân, cố vấn đặc biệt cho Tướng Đặng Văn Quang về Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Chống Ma Túy - hết sức khôi hài - NMQ), Đề Đốc Lâm Nguyên Tánh (Tư Lệnh Phó Hải Quân và là Chủ Tịch Ủy Ban Chống Ma Túy trong Hải Quân – cũng hết sức khôi hai - NMQ), Hải Quân Đại Tá Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Tư Lệnh Hạm Đội Hải Quân Việt Nam, tổng hành dinh tại Sài Gòn), Đại Tá Hải Quân Nguyễn Hữu Chí (Tư Lệnh Lực lượng Tuần Duyên, tổng hành dinh tại Nha Trang), cùng các căn cứ hải quân tại Rạch Sỏi, Tân Châu, Long Xuyên, v.v…
Cũng trong sơ đồ này, chúng ta còn thấy có tên các ông dân biểu tại hạ viện trong Quốc Hội như Dân Biểu Phạm Hữu Giao (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào tháng 8 và tháng 12 năm 1970 vì tội mang vàng lậu và các hàng hóa lậu thuế khác), Dân Biểu Võ Văn Mầu (bị bắt ở phi cảng Tân Sơn Nhất vào ngày 10 tháng 3 năm 1971 vì tội mang lậu 9.6 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Phạm Chí Thiện (bị bắt vào ngày 17/3/1971 tại phi cảng Tân Sơn Nhất vì tội mang lậu 4 kí lô bạch phiến), Dân Biểu Nguyễn Quang Luyện (bị bắt ở Bangkok vào ngày 18/3/1971 vì tội mang 15 kí lô vàng lậu), Dân Biểu Nguyễn Văn Chính (bị bắt vào tháng 9/1970 tại phi cảng Tân Sơn Nhất ví tội mang một triệu bạc Việt Nam ra khỏi nước). Ngoài các dân biểu có thành tích tội ác kể trên, còn có Dân Biểu Hoàng Thông và Dân Biểu Trần Kim Thoa cũng ở trong băng đảng này. (Nhiều chi tiết về thành tích buôn bán vàng và ma tuý của các ông dân biểu thuộc Khối Độc Lập này được trình bày đầy đủ cơi các trang 201-205 trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred McCoy.)
Nhìn vào sơ đồ số 4 nơi trang 193 nói về Tổ Chức Hải Quân có liên hệ đến vấn đề ma túy trong thời gian quân đội miền Nam tấn công Cao Miên vào mùa Xuân năm 1970, chúng ta thấy có Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu (Chỉ Huy Trưởng Các Hạm Đội Việt Nam), Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Đặc Nhiệm Các Giang Thuyền), Đại Tá Hải Quân Diệp Quang Thùy (Tham Mưu Trưởng Hải Quân Việt Nam), Hải Quân Thiếu Tá Hồ Quang Minh (Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Giang Thuyền Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long điều hợp các bộ phận trong khi hành quân). Tất cả các vị sĩ quan này đều liên lạc trực tiếp với các bộ phận tại Pnom Penh, Neak Luong, Tân Châu và Bình Thủy.
Nhìn vào sơ đồ số 5 nơi trang 206 nói về tổ chức quyền lực chính trị của gia đình Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm có liên hệ khắng khít với việc buôn bán ma túy trong những năm 1970-1971 ở miền Nam Việt Nam, chúng ta thấy, đứng đầu là Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ Tướng chính phủ trong những năm 1969-1971 – đúng ra còn lâu hơn nhiều - NMQ). Tiếp theo là các bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm và bà con về phía Tướng Trần Thiện Khiêm. Bà con về phía bà Trần Thiện Khiêm thì có Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu (anh em cột chèo với Tướng Khiêm, nắm giữ chức Đô Trưởng Sài Gòn) và Tướng Trần Thanh Phong (vợ Tướng Phong và vợ Tướng Khiêm có bà con với nhau). Bà con về phía Tương Khiêm thì có Trần Thiện Khởi (Giám Đốc Nha Bài Trừ hàng lậu trực thuộc Nha Quan Thuế - hết sức khôi hài - NMQ), Đại Tá Trần Thiện Thanh (Nắm giữ một chức vụ tại Sài Gòn Gia Định mà tác giả ghi nhận là Dep. Gov. Gen. Saigon – Gia Định), và ông Trần Thiện Phương (Giám Đốc Nha Thương Cảng Sài Gòn).
7.- MỘT LỜI KẾT
Sau khi cho ra đời cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại” ngày 2/6/1948, các “chính quyền quốc gia” miền Nam liên tục thả cửa cho dân chúng dùng ma túy trong kế hoạch đầu độc dân ta, và triệt tiêu tiềm năng chiến đấu chống lại thế lực của liên minh giặc. Ngay từ năm 1950, Bảo Đại cũng đã có liên hệ chặt chẽ với vấn đề buôn bán ma túy để được chia chác tiền lời của việc làm bất chính, bất nhân và dã man này..Sau này, trong những năm đất nước bị chia đôi, người Pháp công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc và rút quân về nước. Kể từ đó, Liên Minh Chính Trị Pháp – Vatican tan vỡ. Liên Minh Chính Trị Mỹ - Vatican thành hình, miền Nam Việt Nam trở thành thuộc địa của cả Hoa Kỳ và Vatican (1954-1975). Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế và Ngô Đình Diệm được đưa lên thay thế. Kể từ đây, anh em Ngô Đình Diệm và băng đảng Cần Lao nhẩy lên bàn độc múa may quay cuồng, thi hành chính sách bạo trị, coi nhân dân miền Nam như chó như ngựa. Cũng vì thế mà sử gia Nigel Cawthorne mới liệt kê Ngô Đình Diệm vào danh sách của một trăm tên bạo chúa độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. [12]
Trong thời kỳ này, việc buôn bán ma túy ở miền Nam được anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao triệt để khai thác, khuếch trương và coi như một kế sách quan trọng vào bậc nhất của chính quyền, biến miền Nam thành kho hàng chứa và cung cấp thuốc phiện sống (thô) cho trung tâm biến chế và sản xuất bạch phiến ở Marseille rồi chuyển vận sang Mỹ Châu cho khách hành tiêu thụ ở Hoa Kỳ”. Cũng vì thế mà tác giả Alfred McCoy mới gọi tập đoàn Da-tô Việt gian này là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.”
Chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm sụp đổ vào ngày 1/11/1963, việc buôn bán túy lọt vào tay bọn Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954 với những nhân vật như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Lê Nguyên Khang. Vĩnh Lộc, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Hoàng Xuân Lãm, Ngô Du, Lữ Lan, Nguyễn Quang Luyện, Phạm Hữu Giao, Nguyễn Văn Chính, Võ Văn Mầu, Phạm Chí Thiện, Hoàng Thông, v.v…
Nhìn lại từ đầu cho đến cuối, từ ngày được Thực dân Pháp cho ra đời vào ngày 2/6/1948 cho đến khi ra ngũ tan hàng vào ngày 30/4/1975, những nhân vật quan trọng, nắm quyền lãnh đạo của cái gọi là “chính quyền Quốc Gia”, tự phong là những “người Việt Quốc Gia” đều là những tên Da-tô Việt gian “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, và bọn Việt gian đã từng chiến đấu trong đạo quân đánh thuê cho Thực dân Pháp trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Những người này đều có liên hệ chặt chẽ với việc buôn bán ma tuý ở và liên hệ với nhiều việc làm ăn bất chính khác ở miền Nam Việt Nam như đã trình bày trong chương sách nói về vấn nạn tham nhũng trước đây. Thật là nhục nhã!
“Chính quyền Quốc Gia” và “Người Việt Quốc Gia” (với lá cờ vàng ba sọc đỏ biểu tượng cho cái chính quyền này và bọn người này) là thế đó! Bới thế cho nên, khi đặt ra vấn đề “lằn ranh Quốc Cộng” và tranh đấu để duy trì “lá cờ vàng ba sọc đỏ”, thiết tưởng cũng nên nhớ đến những điều ô nhục này. Nếu không biết hay không nhớ những điều này thì quả thật là không biết gì về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, và không nhận diện được giặc thù của đất nước. Không phân biệt được ai là giặc và ai là cha, tức là biến thành những đứa con hoang của đất nước.
CHÚ THÍCH
[2] Alfred W McCoy, Sđd., pp. 73-75.
Nguyên văn: “Shortly after the French established a protectorate over Cambodia (1863) and central Vietnam (1883), and annexed Tonkin (northern Vietnam, 1884) and Laos (1893), they founded autonomous opium monopolies to finance the heavy initial expenses of coloniale rule. While the opium franchise had succeeded in putting southern Vietnam on a paying basis within several years, the rapid expansion of French holdings in the 1880s and 1890s created a huge fiscal deficit for Indochina as a whole. Moreover, a hodgepodge administration of five separate colonies was a model of inefficiency, and hordes of French functionaries were wasting what little profits these colonies generated. While a series of administrative rerforms repaired much of damage in the early 1890s, continuing fiscal deficit still threatened the future of French Indochina.
The man of the hour was a former Parisian budget analyst named Paul Doumer, and one of his solutions was opium. Soon after he stepped off the boat from France in 1897, Governor-General Doumer began a series of major fiscal reforms: a job freeze was imposed on the colonial bureaucracy, unnecessary expenses were cut, and the five autonomous colonial budgets were consolidated under a centralized treasury. But most importantly, Doumer reorganized the opium business in 1899, expanding sales and sharply reducing expenses. After consolidating the five autonomous opium agencies into the single Opium Monopoly, Doumer constructed a modern efficient opium refinery in Saigon to process raw Indian resin into smoker’s opium. The new factory devised a special mixture of prepared opium that burned quickly, thus encouraging the smoker to consume more opium than he might ordinarily. Under his direction, the Opium Monopoly made it first purchases of cheap opium from China’s Yunnan Province so that government dens and retail shops could expand their clientele to include the poorer workers who could not afford the high priced Indian brands. More dens and shops were opened to meet expanded consumer demand (in 1918 there were 1,512 dens and 3,098 retailed shops). Business boomed.
As Governor-General Doumer himself has proudly reported, these reforms increased opium revenues by 50 percent during his four years in office, accounting for one-third of all colonial revenues. For the first time in over ten years there was a surplus in the tresury. Moreover, Doumer’s reforms gave French investors new confidence in the Indochina venture, and he was able to raise a 200 million franc loan, which financed a major public works program, part of Indochina’s railrway network, and many of the colony’s hospital and schools.
Nor did the French colonists have any illusions about how they were financing Indochina’s development. When the government announced plans to build a railway up the Red River valley into China’s Yannan Province, a spokesman for the business community explained one of primary goal:
It is particulary interesting. At the moment one is about to vote funds for the construction of a railway to Yannan, to search for ways to augment the commerce between the province and our territory…. The regulation of commerce in opium and salt in Yannan might be adjusted in such a way as to facilitate commerce and increase the tonnage carried on our railway.
While a vigourous international crusade against the “evils of opium” during the 1920s and 1930s forced other colonial administrations in Southeast Asia to reduce the scope of their opium monopolies, French officials remained immune to such moralizing. When the Great Depression of 1929 pinched tax revenues, they managed to raise opium monopoly profits (which had been declining) to balance the books. Opium revenues climbed steadily, and by 1938 accounted for 15 percent of all colonial tax revenues – the highest in Southeast Asia.”
[3] Alfred McCoy, Sđd., tr.118.
[4]Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159-161.
Nguyên Văn: “Diem’s Dynasty and the Nhu’s Bandits.- …But Nhu was determined to go ahead, and to revive the opium traffic to provide the necessary funding... Although most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a distribution network for smuggled opium. Within a matter of months hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred dens operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.
To keep these outlets supplied, Nhu established two pipelines from Laos poppy fields to South Vietnam. The major pipeline was a small charter airline, Air Laos Commercial, managed by Indochina most flamboyant Corsican gangster, Bonaventure “Rock” Francisci. Although there were at least four small Corsican airlines smuggling between Laos and South Vietnam, only Francisci’s dealt directly with Nhu. According to Lt. Colonel Lucien Conein, a former high ranking CIA officer in Saigon, their relationship began in 1958 when Francisci made a deal Ngo Dinh Nhu to smuggle Laotian opium into South Vietnam. After Nhu guaranteed his opium shipment safe conduct, Fracisci’s fleet of twin engine Beechcrafts began making clandestine airdrop inside South Vietnam on a daily basis.
Nhu supplemented these shipments by dispatching intelligence agents to Laos with orders to send back raw opium on the Vietnam air force transports that shuttled back and forth carrying agents and supplies.
While Nhu seems to have dealy with the Corsican personally, the intelligence missions to Laos were manged by the head of his secret police apparatus, Dr. Tran Kim Tuyen. Although most account have portrayed Nhu as the Diem regime’s Machiiavelli, many insiders feel that it was the diminitiuve ex-seminary student. Dr, Tuyen, who had the real lust and capacity for intrigue. As the head of the secret police, euphemistically titled Office of Social and Political Study, Dr. Tuyen commanded a vast intelligene network that included the CIA financed special forces, the Military Security Service, and most importantly, the clandesdtine Can Lao party. Through Can Lao party, Tuyen recruited spies and political cadres in every branch of the military and civil bureaucracy. Promotions were strictly controlled by the central government, and those who cooperated with Dr. Tuyen were rewarded with rapid advancement. With profits from the opium trade and other officially sanctioned corruption, the Office and Political Study was able to hire thousands of cyclo-drivers, dance hall girls (”taxi dancers”) and street vendors as partime spies for an intelligence network that soon covers every block of Saigon-Cholon. Instead of maintaining surveillance on a suspect by having him followed, Tuyen simply passed the word to his “door to door” intelligence net work and got back precise, detailed reports on the subject’s movements, meetings, and converstions. Some observers think that Tuyen may have had as many as hundred thousand full and part time agents operating in South Vietnam. Through this remarkable system Tuyen kept detailed dosiers on every important figure in the country, including paricularly complete files on Diem, Madame Nhu, and Nhu himself which he sent out of the country as a form of personal “life insurance.”
Since Tuyen was responsible for much of the Diem regime’ foreign intelligence network, he was able to disguise his narcotics dealing in Laos under the cover ordinary intelligence work.”
[5] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F. Kennedy [bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch] (Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000), tr 51-53.
[6] Bradley S. O’ Leary và Edward Lee, Sđd.,tr 306-307.
[7] Alfred W. McCoy., Sđd.., tr.169.
Nguyên văn: “Putting “the old system back together again,” of course, meant reviving large-scale corruption to finance each rewards paid to these part-time agents whenever they dilvered information. Loan and the police intelligence professionals systematized the corruption, regulating how much each particular agency would collect, how much each officer would skim off for his personal use, and what percentage would be turned over to Ky’s political machine. Exessive individual corruption was rooted out, and Saigon-Cholon’s vice rackets, protection rackets, and payoffs were strictly controlled. After several years of watching Loan’s system in action, Charles Sweet feels that there were four major sources of graft in South Vietnam: (1) sale of government jobs by generals or their wives, (2) administrative corruption (graft, kickbacks, bribes, etc.), (3) military corruption (theft of goods and payroll frauds), (4) the opium traffic. And out of the four, Sweet concluded that the opium traffic was undeniably the most important source of illicit revenue.
As Premier Ky’s power broker, Loan merely supervised all of the various forms of corruption at a general administrative level, he usually left the mundane problems of organization and management of individual rackets to the trusted assistants.”
[8] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr. 403.
[9] Alfred McCoy, Ibid., p. 185-186.
Nguyên văn: “The quantum leap in the size and profitability of South Vietnam’s narcotics trade, due both to the new burgeoning GI market as well as the increased demand on the part of the international narcotics syndicates, resulted in a number of new mini-cliques coming into the traffic.
But by 1970 the traffic appeared to be divided among three major factions: (1) elements in the South Vietnamese air force, particularly the air transport wing; (2) the civil bureaucracy (i.e police, customs and port authority), increasingly under the control of Prime Minister Tran Thien Khiem’s family; and (3) the army, navy and National Assembly’ lower house, who answer to President Thieu. In spite, or perhaps because, of the enormous amounts of money involved, there were considerable anomosity among the three major factions.
“Involvement” in the nation’s narcotics traffic took a number of different forms. Usually it meant that influential Vietnamese political and military leaders worked as consultants and protectors for chiu chau syndicates, which actually managed wholesale distribution, packaging, refining, and some of the smuggling. (Chiu chau are Chinese from the Swatow region of the southern China, and chiu chau syndicates have controlled much of Asia’ s iilicit drug traffic since the mid 1800s and have played a role in China’s organized crime similar to the Scilian in Italy and the Corsican syndicates in France. (Chapter 6 for more details.) The importance of this protection, however, should not be underestimated, for without it the heroin traffic could not continue. Also, powerful Vietnamese military and civil officials are directly involved in much of the actual smuggling of narcotics into South Vietnam. The Vietnamese military has access to aircraft, trucks, and ships that the Chinese do not, and most of the Vietnamese have much easier time bringing narcotics through customs and border checkpoints than their Chinese clients.”
[10] Alfred McCoy, Ibid., pp. 188-190.
Nguyên văn: “Thieu Takes Comand.- In the wake of Air Vice-Marshal Ky’s precipitous political decline, ranking military officers responsible to President Thieu appear emerged as dominant narcotics traffickers in South Vietnam. Like his predecessors, Pressident Diem and Premier Ky, President Thieu has studiously avoid involving himself personally in political corruption. However, his power broker pressidential intelligence adviser Gen. Dang Van Quang is heavily involved in these unsavory activities. Working through high-ranking army and navy ofiicers personally loyal to himself or President Thieu, General Quang has built up a formidable power base. Although General Quang ‘s international network appears to be weaker than Ky’s, General Quang does control the Vietnamese navy, which houses an elaborate smuggling organization that imports large quantities of narcotics either by protecting Chinese maritime smugglers or by actually using Vietnamese naval vessels. Ky’s influence among high-ranking army officers has weakened considerably, and control over the army has now shifted to General Quang. The army now manages most of the distribution and sale of heroin to American GIs. In addition, a bloc of pro-Thieu deputies in the lower house of the National Assembly have been publicly exposed as being actively engaged in heroin smuggling, but they appear to operate somewhat more independently of General Quang than the army and navy.
On July 15, 1971, edition of the NBC Nightly News, the network’s Saigon correspondent, Phil Brady, told a nationwide viewing audience that both President Thieu and Vice-President Ky were financing their election campaigns from the narcotics traffic. Brady quoted “extremely reliable sources” as saying that President Thieu’s chief intelligence adviser, Gen. Dang Van Quang, was “the biggest pusher” in South Vietnam. Although Thieu’s press secretary issued a flat denial and accused Brady of “spreading falsehoods and slanders against leaders in the government, thereby providing help and comfort to the Communist enemy, he did not try to defend General Quang, renowned as one of the most dishonest generals in South Vietnam when he was commander of IV Corp in the Mekong Delta.
In July 1969 Time Magazine’s Saigon correspondent cabled the New York office this report on Gen. Quang’s activities in IV Corps:
While there he reportedly made millions selling offices and taking a rake off on rice production. There was the famous incidents, described in past corruption files, when Col. Nguyen Van Minh was being invested as 21st Division commander. He had been Quang’s deputy corps commander. At the ceremony, the wife of the outgoing commander stood up and shouted to the assembled that Minh had paid Quang 2 million piasters [$7,300] for the position… Quang was finally removed from Four Corps at the insistence of the Americans.
General Quang was transferred to Saigon in late 1966 and became minister of planning and development, a face-saving sinecure. Soon after President Thieu’s election in September 1967, he was appointed special assistant for military and security affairs. General Quang quickly emerged as President Thieu’s power broker, and now does the same kind of illicit fund raising for Thieu’ s political machine that the heavy-handed General Loan did for Ky.
President Thieu, however, is much less sure of Quang than Premier Ky had been of General Loan. Loan had enjoyed Ky’s absolute confidences and was entrusted with almost unlimited personal power. Thieu, on the other hand, took care to build up competing centers of power inside his political machine to keep General Quang from gaining too much power. As a result, Quang has never had the same control over the various pro-Thieu mini-factions as Loan had over Ky’s appratus. As the Ky apparatus’ s control over Saigon’s rackets weakened after June 1968, various pro-Thieu moved in. In the political shift, General Quang gained control of the special forces, the navy, and the army, but one of the pro-Thieu cliques, that headed by Gen. Tran Thien Khiem, gained enough power so that it gradually emerged as an independent faction itself. However, at the very beginning most of the power and influence gained from Ky’ downfall seemed to be securely lodged in the Thieu camp under General Quang’s supervision.
There is evidence that one of the first new groups which began smuggling opium into South Vietnam was the Vietnamese special forces contigents operating in southern Laos. In August 1971, The New York Times reported that many of the aircraft flying natcotics into South Vietnam “are connected with secret South Vietnamese special forces operating along the Ho Chi Minh Trail network in Laos.” Based in Kontum Province, north of Pleiku, the special forces “assault task force” has a small fleet of heliccopters, transports, and light aircraft that fly into southern Laos on regular sabotage and long range-reconnaissance forays. Some special forces claim that the commander of this unit was transferred to another post in mid 1971 because his existence involvement in the narcotics trafic risked exposure.”
[11] Alfred McCoy, Ibid., pp. 201-202.
Nguyên văn: “In the lower house, President Thieu relied on members of the Independence Bloc to do the bargaining and make the payments, rather than negotiating personally or working through his military advisers. Consisting almost entirely of North Vietnamese Catholic refugees, this bloc has maintained a militantly anti-Communist position since it was formed in 1967. Although the bloc is nominally independent, its leader Rep. Nguyen Quang Luyen met with President Thieu soon after it was formed and “verbally agreed” to support the president in exchange for unspecified favors. The bloc has influence far beyond its numerical strength, and all its members occupy key positions as committee chairmen, fund raisers, or whips; with only nineteen members, the Independence Bloc controls six out of lower house’s sixteen committee chairmanships. During the debates over the 1971 election law, for example, it was an Independence Bloc member Pham Huu Giao who floor managed the passage of article 10. This controversial clause required a minimum of forty Congressional signatures on every nominating petition for upcoming presidential election and made it possible for President Thieu eliminate Ky from the running. Early in the debates, Rep. Pham Huu Giao reported tied down a few hill tribe votes for as little $350 apiece and most of Cambodian minority’s ballots for a mere $700 each. However, in the three days of intense bargaining preceding the final balloting, the price jumped from $1.000 to $1.800 for final handful that completed the proposal’s winning tally of seventy five votes.
Loyalty to Thieu seems to have its benefits. No opposition members have even implicated in a sreious smuggling case. All lower house representatives implicated in the heroin and gold traffic are either present or past members of the Independence Bloc. The reason for this is simple; opposition deputies often lack the necessary capital to finance such trips, and are not guaranteed “courtesy of the port” when they return. However, pro-government deputies who are bankrolled by an official travel grant or savings from months of voting the right way are able to take advantage of their four exit visas per year, a privilege guaranteed all deputies for foreign travel during the legislative holidays. The result has been an orgy of foreign junketeering on the part of pro-government deputies. In 1969-1970 junketeering representatives purchased $821.000 worth of foreign currency for their travel. One pro-government representative was abroad for 119 days in 1969, 98 days in 1970, and 75 days during the first three months of 1971.”
[12] Nigel Cawthorne,TYRANTS History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London:Acrturus, 2004), pp. 167-168.
© sachhiem.net