Thông Tin Báo Chí Về Ma Túy

  1. Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc

  2. TÁC HẠI MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG HOANG TƯỞNG - CỎ MỸ

  3. Nghi vấn nam thanh niên bị loạn thần sau khi sử dụng cỏ Mỹ

  4. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN RƯỢU

  5. VTV6 - Điểm nóng - Có những sự "trở về" như thế

  6. VNExpress - Một số tài xế container sử dụng ma túy

  7. Dân trí - ​Bi hài chuyện những gã “ngáo đá” nổi tiếng đất cảng

  8. Sức khỏe & Đời sống - Bóc trần sự thật về thuốc cai nghiện rởm giá “trên trời” bán tại Sài Gòn

  9. SGTT - Bán thuốc cai nghiện ma túy dễ như bán... Viagra

 10. Người đưa tin - Rước họa vì thuốc cai nghiện trên mạng

 11. SGPP - Cai từ tại gia cai qua... điện thoại

 12. SGGP - Cai chưa xong, đã nghiện thuốc

 13. Sức khỏe và đời sống - Tư vấn cai nghiện ma túy “chui”: ... Cho không lấy, thấy không chơi (?!)

 14. ANTD - Giết vợ xong ngồi canh xác chờ công an đến… cứu

 15. HTV7 - Các bác sĩ nói gì

 16. HTV7 - Các bác sĩ nói gì

 17. Kỹ năng TƯ VẤN TRONG CAI NGHIỆN PHỤC HỒI

 18. VTV9 - CỘNG ĐỒNG TRỊ LIỆU ...

 19. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự

 20. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng

 21. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt

 22. Cai nghiện - ​Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ

 23. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

 24. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần

 25. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình

 26. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”

 27. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu

 28. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi

 29. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu

 30. CAND - ​Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ

 31. Lao động - ​Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới

 32. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy

 33. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

 34. Nhận biết và đánh giá các vấn đề liên quan đến rượu

 35. Báo mới - Điều trị nghiện rượu như thế nào?

 36. Người đưa tin - Tuyệt tự vì mê đắm trong 'cõi lưu linh'

 37. ANTĐ - Nghiện rượu và những hệ luỵ

 38. Dân trí - Chồng lấy xăng thiêu sống vợ ngay tại nhà

 39. CAND - ​Chống nghiện rượu - kế hoạch hàng đầu của nước Nga

 40. CATP - Điên vì nghiện rượu

 41. VietNamNet - Tâm thần, tự sát vì rượu dịp Tết

 42. Tuổi trẻ - Không uống không... chịu được

 43. Lao Động - Có thể cai rượu bằng thuốc?

 44. SK&ĐS - Lưu ý khi cai rượu bằng thuốc

 45. PNO - Thương con “ngáo đá”, mẹ gánh hậu quả

 46. HTV7 - Vì cuộc sống cộng đồng

 47. HTV9 - Điều kỳ diệu của sự yêu thương

 48. Trị liệu gia đình

 49. TIN MỚI - Cận cảnh khuôn mặt biến dạng theo thời gian vì nghiện ma túy

 50. HTV - Hoa cuộc sống

 51. Cận cảnh khuôn mặt biến dạng do sử dụng ma túy

 52. Nghệ An: Triệt phá đường dây ma túy lớn từ Lào về Việt Nam

 53. Bài 4 - Sàng lọc - Đánh giá và lập kế hoạch cho người nghiện ma túy

 54. Bài 5 - Các dịch vụ phục hồi chức năng cho người nghiện ma túy

 55. Vai trò công tác tư vấn và trị liệu tâm lý trong cai nghiện - phục hồi cho người nghiện ma túy

 56. Hải Phòng: Triệt phá đường dây sản xuất ma túy giả

 57. 6 người chết ở quán karaoke: Nạn nhân dương tính với ma túy

 58. Con trai trùm ma túy sa lưới

 59. 204.377 người nghiện chỉ bắt đi cai được... 33

 60. Không thể đưa người nghiện đi cai, tội phạm TP HCM đang tăng

 61. Tràn lan người nghiện 'xin đểu' tại trung tâm TP HCM

 62. Hải Phòng: Hàng trăm học viên cai nghiện tràn ra phố

 63. Giấu cần sa trong khung, lốp và thùng nhiên liệu

 64. Tổng quan về điều trị lệ thuộc chất dạng thuốc phiện theo GS Robert Ali

 65. Hiệu quả kinh tế của các biện pháp điều trị lệ thuộc heroin hoặc thuốc phiện

 66. Nghiện các chất dạng thuốc phiện (CDTP) và các phương pháp điều trị ở Việt Nam

 67. Kết quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Tp Hải Phòng

 68. CAND - Một ổ buôn ma túy lớn không ngờ

 69. CAND - Công điện của Bộ trưởng Bộ Công an về mở đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm

 70. CAND - Giết người yêu vì ảo giác

 71. SGGP - Chung tay phòng, chống ma túy

 72. Người lao động - Cai nghiện tại gia: Khó trăm bề!

 73. Người lao động - Thách thức với Methadone

 74. SGGP - Hiểu để phòng, chống ma túy hiệu quả

 75. SGGP - Phá đường dây buôn bán ma túy từ Lào về Việt Nam, thu giữ 120.000 viên ma túy tổng hợp

 76. VNEXPRESS - 66 người trong đường dây buôn heroin đối mặt án tử hình

 77. VNEXPRESS - Bên trong làng ma túy số một Trung Quốc

 78. VietNamNet - Gã nghiện sát hại dã man người yêu đang mang thai

 79. VNEXPRESS - Xác cô gái lõa thể trong biệt thự

 80. VNEXPRESS - Những bí mật khi xóa sổ điểm thác loạn bậc nhất đất Cảng

 81. VNEXPRESS - Trùm ma túy khét tiếng thế giới bị bắt

 82. Cai nghiện - ​Cha nghiện rượu, con ám ảnh vì tiếng khóc của mẹ suốt năm tháng tuổi thơ

 83. Tiền Phong - Vào Viện Sức khỏe tâm thần nghe chuyện rượu

 84. BSTT - Lạm dụng rượu bia có thể dẫn đến loạn thần

 85. Chính phủ - Đệ tử lưu linh thấy rắn rết bò lổm ngổm khắp mình

 86. SGGP - Xe vi phạm giao thông chở ma túy “khủng”

 87. VNEXPRESS - Bé gái 5 tuổi một mình chăm cha nghiện rượu

 88. Chính phủ - Rượu bia và hệ lụy: Câu chuyện từ gia đình đến pháp đình

 89. Người lao động - Tan nát gia đình vì rượu

 90. Phụ nữ Online - Sống trong sợ hãi

 91. TGCM - Bi kịch của kẻ nghiện rượu

 92. CAND - ​Con nghiện rượu hành hung mẹ đẻ

 93. VNEXPRESS - Hàng loạt lái xe khách nghiện ma túy

 94. PLXH - Tội ác khó dung của gã chồng nghiện rượu

 95. PNO - Ký ức buồn

 96. Thông tin báo chí về cai nghiện rượu

 97. PLVN - Bàng hoàng: cháu giết bà trong cơn nghiện rượu

 98. Thanh niên - Loạn thần do rượu

 99. Lao động - ​Ma túy “ăn thịt người” kinh khủng nhất thế giới

100. VNEXPRESS - Tiến trình hủy diệt con người nhanh chóng của ma túy

CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN  NHÓM MA TÚY DẠNG KÍCH THÍCH

CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN  NHÓM MA TÚY DẠNG KÍCH THÍCH

MÔ TẢ CHƯƠNG TRÌNH

Chương trình điều trị ngoại trú tập trung Matrix (Intensive Outpatient Program - IOP) để điều trị lạm dụng chất kích thích trong thời gian 16 tuần, là một mô hình điều trị theo cấu trúc được thiết kế nhằm cung cấp cho những người lạm dụng chất kích thích hệ thống kiến thức và hỗ trợ giúp họ có thể đạt được mục tiêu dừng không sử dụng ma tuý, chất cồn để bắt đầu một quá trình phục hồi trong một thời gian dài. Chương trình sử dụng các tài liệu đã được phát triển và đánh giá trong chương trình nghiên cứu của Trung tâm Matrix từ năm 1984. Các tài liệu cho chương trình điều trị ngoại trú tập trung này được điều chỉnh từ Mô hình Matrix trong điều trị lạm dụng chất kích thích bằng thuốc an thần, Mô hình Matrix trong điều trị lạm dụng chất cồn và có chứa cồn, Mô hình Matrix trong điều trị nghiện các chất dạng opiat bằng Naltrexone và Chương trình điều trị ngoại trú tập trung Matrix trong điều trị các rối loạn liên quan đến lạm dụng và lệ thuộc chất gây nghiện trong 16 tuần. Bản in xuất bản lần này của tài liệu được thiết kế nhằm giải quyết một cách cụ thể các vấn đề hầu hết gặp phải của của các bệnh nhân lệ thuộc chất kích thích, mà cụ thể là lệ thuộc methaphetamine và cocaine. Các tài liệu được xây dựng thành dạng chương trình thực nghiệm tập trung trong thời gian 16 tuần và sau đó sẽ là các can thiệp chăm sóc sau cai được thực hiện hàng tuần. Đây là chương trình có sự khác biệt với mô hình tập trung 16 tuần trước đó - mô hình mà đã được phát triển để áp dụng cho những bệnh nhân đang được điều trị lệ thuộc rượu và tất cả các loại ma tuý khác.  Cả hai chương trình này đều khác với các mô hình điều trị 6 tháng mà trong đó thời gian số tuần được giảm từ 24 xuống còn 16 và nhiều tài liệu trước đây được sử dụng trong các buổi sinh hoạt cá nhân nay được đưa vào các buổi sinh hoạt nhóm. Ba (3) buổi sinh hoạt cá nhân được thiết kế nhằm: (1) định hướng cho người bệnh, và khi có thể, các thành viên gia đình cũng có thể được mong đợi sẽ tham gia chương trình Matrix, hoàn thiện việc thu thập tài liệu thông tin mang tính hành chính và thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với người bệnh để khuyến khích việc họ tham gia điều trị; (2) thưc hiện việc xem xét, đánh giá sự tiến bộ tại thời điểm khoảng 30 - 45 ngày sau khi tiếp nhận hoặc đối phó với một tình trạng khủng hoảng đòi hỏi phải có một buổi tiếp xúc với cá nhân; (3) giúp đỡ người bệnh xây dựng kế hoạch điều trị, chăm sóc liên tục phù hợp với lượng chuyên môn hỗ trợ và các hỗ trợ tự giúp đỡ cần thiết cho một quá trình phục hồi trong thời gian dài. Hiếm khi đó là một trường hợp cấp bách về y xảy ra trong một buổi sinh hoạt lồng ghép. Trong những tình huống đó, một trong số các buổi sinh hoạt cá nhân có thể dành thời gian để thực hiện một buổi gặp gỡ, tư vấn như vậy. Và chủ đề cơ bản của buổi can thiệp cá nhân đó vẫn cần được giải quyết. Phần Nhóm các kỹ năng phục hồi ban đầu gồm 8 buổi sinh hoạt nhóm, mỗi buổi được thực hiện trong vòng 1 giờ và được thực hiện trong suốt tháng điều trị đầu tiên. Trong các buổi sinh hoạt nhóm này, người bệnh nhận được nhiều kỹ năng cơ bản mà họ cần để ổn định trong giai đoạn ban đầu. Trong buổi sinh hoạt nhóm về các kỹ năng phục hồi ban đầu, người bệnh sẽ được giới thiệu về phương pháp tham gia 12 bước và củng cố gá trị của sự tham gia 12 bước. Tất cả người bệnh và thành viên gia đình của họ đều tham dự Nhóm giáo dục gia đình trong một thời gian là 12 tuần. Vì đây là một trong những thành tố của chương trình đòi hỏi có sự tham gia thường xuyên của các thành viên gia đình, nên các nhóm như thế này được thiết kế có sự tương tác qua lại nhằm cho phép trưởng nhóm có thể bao quát được các vấn đề trọng tâm nhất đối với cả người bệnh và các thành viên gia đình họ. Phần Nhóm dự phòng tái nghiện là thành tố trung tâm của mô hình điều này. 16 tuần tham gia nhóm dự phòng tái nghiện được thiết kế nhằm cung cấp thông tin, hỗ trợ và tạo sự thân thiện cho người bệnh để họ thực hiện được hết quá trình phục hồi. Hợp phần này là phần trung tâm của tất cả các chương trình điều trị theo mô hình Matrix. Phần Nhóm hỗ trợ xã hội được thiết kế nhằm giúp đỡ người nghiện trong quá trình học tập các kỹ năng tái hoà nhập xã hội trong một môi trường an toàn và thân thiện. Tất cả các mô hình điều trị Matrix đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt của việc tận dụng các chương trình 12 bước trong giai đoạn điều trị tập trung ban đầu nhằm cung cấp sự hỗ trợ tiếp tục cho quá trình phục hồi khi giai đoạn tập trung trong chương trình điều trị kết thúc. Trong khi thực hiện vừa cần thận trọng không để bệnh nhân bở dở quá trình điều trị đối với những người ban đầu không nhận thấy được nhu cầu phải đến các buổi gặp gỡ sinh hoạt, thì điều quan trọng nữa là phải truyền cho người bệnh mong muốn và hy vọng rằng việc làm quen được với các chương trình 12 bước chính là một phần thiết yếu trong điều trị bằng mô hình này. Trong bố cục chương trình này có rất ít các buổi sinh hoạt, tiếp xúc cá nhân. Chính vì vậy, sự can dự của một người giám hộ trong chương trình 12 bước là cực kỳ quan trọng. Các trường hợp thành công nhất đều dựa chủ yếu vào các chương trình 12 bước để hỗ trợ và nuôi dưỡng tinh thần.  

KẾ HOẠCH THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH

Bảng dưới đây là một kế hoạch mẫu của Chương trình điều trị ngoại trú tập trung IOP Matrix:

Kế hoạch thực hiện Chương trình điều trị ngoại trú tập trung

Tuần

Thứ 2

Thứ 3

Thứ 4

Thứ 5

Thứ 6

Thứ bảy & Chủ nhật

Các tuần từ 1 đến 4

6.00-7.00 sáng

Các kỹ năng phục hồi ban đầu

7.00-8.30 tối

Dự phòng tái nghiện

7.00-8.30 tối

Nhóm giáo dục gia đình

6.00-7.00 sáng

Các kỹ năng phục hồi ban đầu

7.00-8.30 tối

Dự phòng tái nghiện

Gặp gỡ 12 bước và các hoạt động phục hồi khác

Các tuần từ 5 đến 16

7.00-8.30 tối

Nhóm dự phòng tái nghiện

Gặp gỡ 12 bước

7.00-8.30 tối

Nhóm giáo dục gia đình hoặc Hỗ trợ xã hội

Gặp gỡ 12 bước

7.00-8.30 tối

Nhóm dự phòng tái nghiện

Các tuần từ 17 đến 52

7.00-8.30 tối

Hỗ trợ xã hội

Xét nghiệm nước tiểu và xét nghiệm cồn trong hơi thở được tiến hành hàng tuần

03 buổi tiếp xúc cá nhân trong thời gian 16 tuần đầu tiên

     

1. CÁC BUỔI TRỊ LIỆU CÁ NHÂN/CÁC BUỔI LỒNG GHÉP

 
 
Triết lý Trong mô hình điều trị Matrix, mối quan hệ giữa người tư vấn và người bệnh là động lực điều trị cơ bản. Mỗi người bệnh có một một người tư vấn chính riêng, người này quyết định khi nào thì cần đưa các phần khác nhau vào trong chương trình điều trị và người này cũng có trách nhiệm lồng ghép các tài liệu từ nhiều dạng nhóm khác nhau vào trong để trở thành một quá trình điều trị một cách phối hợp cho người bệnh. Người tư vấn cần phải quen với các tài liệu hiện tại đang được sử dụng cho người bệnh trong hợp phần giáo dục và người tư vấn cũng cần khuyến khích, củng cố và thảo luận về các tài liệu sẽ được nêu ra sử dụng trong một buổi gặp gỡ một - một (AA). Người tư vấn cần có khả năng ứng dụng các tư tưởng, khái niệm từ mô hình Matrix với các tài liệu AA , cũng như với điều trị trị liệu tâm lý hay tác động tâm lý cho người bệnh, người hiện đang trong qúa trình trị liệu. Người tư vấn, bằng việc mở rộng chương trình, cần không bao giờ được để xảy ra xung đột trong các can thiệp cán nhân một - một (AA) hoặc xung đột với sự tham gia của các chuyên gia khác. Nếu xảy ra xung đột giữa các khuyến nghị của chương trình đưa ra với một chương trình hoặc một người cung cấp hỗ trợ nào khác, thì cần liên hệ với cán bộ chuyên môn. Không   bao giờ đặt người bệnh vào trung tâm của sự xung đột giữa các khuyến nghị của hai chuyên gia tư vấn hoặc hai chương trình khác nhau. Tóm lại, người tư vấn điều phối tất cả các phần trong chương trình điều trị. Sử dụng các phần này, người tư vấn xây dựng nên một khung chương trình hoạt động, điều này sẽ hỗ trợ người bệnh trong suốt qúa trình phục hồi. Tất cả các phần này đều cần phải ăn khớp với nhau. Người bệnh cần biết chắc chắn rằng người tư vấn có thể nhận thức được tất cả các khía cạnh liên quan đến qúa trình điều trị của anh ta/chị ta. Hãy nhớ rằng những người nghiện tham gia điều trị là những người mất khả năng kiểm soát. Họ đang mong đợi chương trình sẽ giúp họ lấy lại được khả năng kiểm soát của mình. Nếu như chương trình tỏ ra là một chuỗi các phần không có sự liên quan với nhau và giữa các phần không thể lồng ghép được, thì người nghiện sẽ không thể cảm thấy là chương trình đó có thể giúp họ lấy lại được sự kiểm soát. Điều này dẫn đến việc điều trị không thành công và/hoặc nóng vội để đạt kết quả điều trị. Người tư vấn cần tập trung vào sự cân bằng giữa cả các buổi tiếp xúc cá nhân và các buổi sinh hoạt nhóm bằng cách sử dụng tài liệu viết mà vẫn cho người bệnh có đủ thời gian để thảo luận, trao đổi về các vấn đề khác. Nếu quá dựa vào tài liệu viết sẽ khiến cho người bệnh cảm thấy không quan trọng và không được coi trọng. Việc áp dụng máy móc tài liệu viết sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa người bệnh và người trị liệu, đồng thời người bệnh sẽ cảm thấy là người trị liệu như một người cung cấp thông tin vô cảm. Ngược lại, đối với một số người, nếu được cho phép, sẽ hoàn toàn tự xây dựng được lịch trình điều trị cho mình. Thông thường, tài liệu mà họ muốn thảo luận có thể nhận thức như là những vấn đề cấp bách mang tính tạo động cơ về mặt tinh thần (ví dụ như “Tôi cần nắm bắt được gốc rễ của vấn đề”); hoặc được định hướng đến một ai đó cũng đang có vấn đề như vậy (“Liệu mối quan hệ này có cải thiện không nếu như tôi không gặp vấn đề như vậy”) hoặc hướng dẫn cho người trị liệu thoát khỏi các vấn đề quan trọng (“Chúng ta hãy đừng nói về chuyện rượu bia nữa. Vì đó chẳng phải là một vấn đề”). Cho phép người bệnh kiểm soát quá nhiều trong việc đặt lịch cho các buổi tiếp xúc cá nhân có thể dẫn đến kết quả là những tài liệu quan trọng bị gạt đi, không được thảo luận đến. Các khái niệm có tính chỉ trích, phê phán quan điểm cho rằng người nghiện có khả năng đạt được việc không sử dụng cũng cần phải được đưa vào trao đổi với người bệnh. Quá trình điều trị bằng mô hình Matrix sẽ cung cấp cho người bệnh một bộ công cụ nhằm giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề liên quan đến sử dụng ma tuý. Việc để rơi vào việc tư vấn không có kết thúc sẽ làm lỡ việc cung cấp cho người bệnh một phần trong điều trị lệ thuộc là dùng thuốc một cách phù hợp, có hệ thống. Vấn đề cuối cùng trong việc tiến hành thực hiện các buổi tiếp xúc cá nhân như là một phần trong chương trình trị liệu an thần là vệc khó xác định nhất và cũng là vấn đề quan trọng nhất. Điều này liên quan đến việc phát triển mối quan hệ tốt đẹp góp phần trong trị liệu giữa người tư vấn và người bệnh. Mối quan hệ hình thành và phát triển giữa người tư vấn và người bệnh là thành tố quan trọng nhất trong mô hình điều trị Matrix. Gerald Corey đã nêu như vậy trong tài liệu “Lý thuyết và thực tiễn của tư vấn và trị liệu tâm lý” (1982). “Mức độ quan tâm, chăm sóc và khả năng giúp đỡ khách hàng cũng như sự chân thành của các nhà trị liệu là những yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người bệnh và nhà trị liệu. Khách hàng cũng góp phần làm nên mối quan hệ khác nhau căn cứ trên động cơ, sự hợp tác, sự quan tâm, mức độ lo lắng, thái độ, sự nhận thức, mong đợi, hành vi và phản ứng của khách hàng đối với nhà trị liệu. Tư vấn hay trị liệu tâm lý là một vấn đề mang tính cá nhân liên quan đến một mối quan hệ cá nhân cụ thể, và bằng chứng đã chỉ ra rằng sự trung thành, chân thật, tin tưởng, nhiệt tình, hiểu biết, và sự tự nhiên trong giao tiếp là những yếu tố cơ bản giúp có được những kết quả điều trị thành công”. Patterson (năm 1973) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ mang tính trị liệu, ông này cho rằng các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra là nhân tố hiệu quả trong trị liẹu chính là mối quan hệ giữa người bệnh và người trị liệu. Ông này cũng đưa ra quan điểm cho rằng người trị liệu cần làm thực hiện vai trò như như một người củng cố, có như vậy thì sự tôn trọng và quan tâm của người trị liệu đối với người bệnh mới trở thành yếu tố có trọng lượng, có khả năng tác động đến hành vi của người bệnh. Người trị liệu cũng cung cấp một mẫu hình thế nào là một mối quan hệ cá nhân tốt đẹp để giúp người bệnh có thể dùng mối quan hệ đó xây dựng mối quan hệ của chính mình. Patterson chỉ rõ rằng trị liệu không thể là đơn thuần trị liệu y tế, và rằng qúa trình đó không thể đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật mà vấn đề quan hệ con người với con người của người trị liệu mới là điều thiết yếu. Ông này cũng tuyên bố “bằng chứng dường như chỉ ra rằng việc thiết lập một quan hệ tốt đẹp quan người trị liệu và người bệnh chính là thành tố chủ chốt trong tư vấn hay trị liệu tâm lý. Đó là một mối quan hệ mang đặc trưng không phải là nhiều kỹ thuật được nhà trị liệu sử dụng, cũng không phải là nhiều cách thức mà nhà trị liệu sử dụng” (1973, trang 535-536). Truax và Carkhuff (1967) đã ủng hộ quan điểm của Patterson khi cho rằng “Các yếu tố trọng tâm là sự thấu cảm, nhiệt tình và chân thật không phải là đại diện cho “kỹ thuật” của trị liệu tâm lý hay tư vấn, mà đó là những kỹ năng giao tiếp cá nhân mà nhà tư vấn hay nhà trị liệu cần sử dụng trong qúa trình áp dụng “các kỹ thuật” hay “sự hiểu biết chuyên môn” của mình” (trích trang 31). Vậy những gì là đặc trưng cơ bản của một nhà trị liệu mà có thể dẫn đến tính cách cá nhân tích cực và có thể giúp người bệnh thay đổi hành vi? Truax và Carkhuff (1967, trang 25) đã tìm thấy có 3 (ba) nét tính cách thể hiện trong hầu hết các cách tiếp cận mang tính trị liệu chủ yếu là: sự thấu cảm xác đáng, sự nhiệt tình không chủ ý và sự chân thành. Tóm lại, phần lớn các phương pháp tiếp cận mang tính trị liệu đều nhấn mạnh về tầm quan trọng của khả năng của người trị liệu khi thực hiện các hoạt động trị liệu như là một người dễ hoà nhập, chín chắn, trung thực, chân thành, đáng tin cậy, và phù hợp. Người trị liệu cũng là người sẽ mang đến cho người bệnh không khí an toàn, không có sự đe doạ và đáng tin cậy bằng việc thể hiện sự nhiệt tình không chủ ý đối với người bệnh, điều này sẽ giúp họ can dự được sâu hơn và tự khám phá được những điểm chính yếu, nắm được khuôn khổ bên trong sự trải nghiệm của người bệnh, cũng như hiểu được những ý nghĩa của các suy nghĩ, hành vi và trải nghiệm của người bệnh”. Rõ ràng là những đặc trưng được trích dẫn ở phần trên là quan trọng giúp người trị liệu trong quá trình tư vấn. Tuy nhiên, những điều đó lại càng đặc biệt quan trọng và đặc biệt khó áp dụng đối với những người bệnh là người nghiện. Vấn đề sức khoẻ tinh thần có một tiền sử xấu trong những người nghiện đang được điều trị vì hầu hết các chuyên gia sức khoẻ tinh thần đều không hiểu về tình trạng nghiện. Vì sự thiếu hiểu biết này, hành vi của người nghiện có thể thường mang tính chống đối lại tư vấn viên. Nhiều người nghiện đi đến chỗ ghét việc điều trị, nghi ngờ và chống lại không thực hiện các chỉ dẫn điều trị. Họ thể hiện những hành vi thiếu chín chắn, mang tính tự huỷ hoại bản thân, hấp tấp và chống đối; khi đó công việc của người tư vấn là phải tiếp tục làm việc với họ mà thường ít nhận được lời cảm ơn hay đánh giá cao từ phía người nghiện. Tái nghiện là vấn đề không mong muốn, kết quả thường xuyên xảy ra theo cơ sở bệnh lý học và tác động của tình trạng nghiện đối với vấn đề việc làm, gia đình và các mối quan hệ có thể khiến cho tình tình trở nên bế tắc, không có hy vọng. Cầu nguyện để giải quyết vấn đề, sự mẫu thuẫn trong tư tưởng khi thì yêu quý khi thì ghét bỏ đối với người nghiện và việc nài nỉ để người nghiện có những hành vi hợp tác thường có thể gây khó khăn cho nhà trị liệu để giữ được thái độ tích cực và tập trung vào áp dụng các kỹ thuật điều trị. Ngoài tất cả những điều nêu trên, còn có một thực tế nữa là người trị liệu trong mô hình điều trị này còn phải phát triển mối quan hệ trị liệu trong bối cảnh làm việc với người bệnh lần đầu tham gia hình thức sinh hoạt nhóm. Những điều có thể dễ dàng xảy ra khi đối phó với một loạt vấn đề khó khăn ở đây chính là việc người trị liệu trở thành người bị lấn át và không được còn sự khích lệ. Điều này có thể dẫn đến sự thiếu kiên nhẫn và sự mất kiên nhân có thể biến thành “người đưa ra những chỉ định” từ đó dẫn đến trở thành “người đưa ra các mệnh lệnh” cho người bệnh. Người bệnh khi tham gia điều trị cần nhận được sự định hướng và hỗ trợ, chứ không phải là đòi hỏi có một cán bộ giám sát. Nếu quá trình này xảy ra, nhà tư vấn có thể dễ dàng trở thành một quan toà và đánh mất sự khách quan. Nếu người bệnh không thực hiện, người tư vấn sẽ trở nên không còn sự khích lệ; và nếu người tư vấn trở nên nói nhiều điều chướng tai người bệnh hơn, thì người bệnh càng trở nên chống đối nhiều hơn, và toàn bộ tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn. Người tư vấn không bao giờ có thể quên một thực tế rằng chính anh ta là một chuyên gia đang cung cấp một dịch vụ. Trừ khi người tư vấn duy trì được việc tập trung vào cung cấp một dịch vụ chuyên môn điều trị mang tính “thấu cảm, nhiệt tình và chân thành”, giai đoạn điều trị đó chắc chắn sẽ gặp phải một loạt thất bại mà người nghiện phải trải qua. Nếu không phải là giúp đỡ cho người nghiện, thì “điều trị” có thể sẽ làm trầm trọng thêm sự tự coi thường chính bản thân mình của người nghiện. Mối quan hệ mang tính trị liệu với người tư vấn cung cấp cơ hội cho người bệnh tham gia vào một mối quan hệ an toàn với một con người, người mà sẽ quan tâm, chăm sóc nhiều cho anh ấy/cô ấy. Nghiện là một sự đáp ứng với một loạt các điều kiện do một con người chưa hoàn hảo phải trải qua. Mỗi người bệnh phải được coi trọng và đối xử một cách tôn trọng. Việc tăng cường lòng tự trọng cho người nghiện sẽ không thể đạt được trong một môi trường tiêu cực, đầy phê phán và chỉ trích. Người tư vấn phải cung cấp cho họ niềm hy vọng, sự khích lệ, lòng trắc ẩn, sự hỗ trợ và phải nhìn nhận rằng sinh hoạt nhóm có thể giúp người bệnh có được sự tin tưởng đó. Những phẩm chất này tạo nên công thức hoá học giúp quá trình điều trị bằng mô hình Matrix hoạt động. Các buổi sinh hoạt lồng ghép thường là phần quan trọng nhằm giữ người bệnh ở lại với chương trình điều trị. Tầm quan trọng của một mối quan hệ ban đầu với người bệnh không thể được đánh giá quá cao.  Điều thiết yếu là hầu hết các thành viên chính trong gia đình hoặc các thành viên khác phải được tham gia vào qúa trình điều trị. Các chuyên gia, những người cố gắng tạo nên những thay đổi mà không cần giải quyết vấn đề với gia đình cuối cùng sẽ khiến quá trình phục hồi của người bệnh trở nên khó khăn hơn nhiều. Do vậy, điều quan trọng đối với người trị liệu là nhận thức được bằng cách nào mà hệ thống gia đình người bệnh có thể được tác động nhờ quá trình phục của người bệnh và làm thế nào để đưa một thành viên quan trọng trong gia đình vào thành một phần tham gia tất cả các phần can thiệp trong bất kỳ thời điểm nào có thể. Hình thức Giống như tất cả các thành tố trong chương trình điều trị, việc nhanh chóng, kịp thời bắt đầu thực hiện các phần can thiệp là điều quan trọng. Người trị liệu nên thực hiện mọi nỗ lực có thể tập trung quan sát người bệnh trong vòng 5 phút ngay khi anh ta đến văn phòng tư vấn. Hiển nhiên là sẽ có một số lần khi người bệnh đến sớm hơn giờ hẹn hoặc buổi làm việc với người trước diễn ra hơi lâu khiến người bệnh có thể phải chờ đợi lâu hơn 5phút. Tuy nhiên, điều cần thiết là người bệnh cảm thấy được là chuyến đi gặp gỡ với nhà trị liệu của họ là một phần quan trọng trong ngày làm việc của người trị liệu. Hãy cố gắng thu xếp chỗ những bệnh nhân có vấn đề không đến kịp giờ bằng cách đặt kế hoạch hẹn gặp họ trong những thời gian thuận tiện hơn. Người trị liệu nên cố gắng ra chào người bệnh ở phòng chờ và dẫn anh ta/chị ta vào phòng làm việc. Nhìn chung nếu một thành viên gia đình người bệnh cũng có mặt ở đó, thì người trị liệu sẽ gặp người bệnh trong nửa đầu của buổi trị liệu và gặp gỡ, trao đổi với người nhà bệnh nhân ở nửa cuối của buổi trị liệu. Cũng nên chào người nhà bệnh nhân cùng với bệnh nhân trước khi tiến hành buổi trị liệu và người trị liệu nên giải thích về quy trình tiến hành buổi trị liệu cho cả bệnh nhân và người nhà của họ. Cần quan tâm để đảm bảo chắc chắn rằng cả bệnh nhân và người nhà của họ đều có cơ hội trình bày các vấn đề cấp bách và không đưa ra các thông tin khiến trạng thái cảm xúc bị thay đổi. Nếu có thông tin cấp bách, ví dụ như việc người bệnh tái nghiện, thì cần phải giải quyết ngay. Nếu mọi chuyện dường như đang diễn ra tốt đẹp, thì người trị liệu nên giới thiệu thông tin về kế hoạch buổi làm việc kế tiếp. Bất kỳ một thay đổi tích cực nào trong hành vi và thái độ của người bệnh cũng đều cần được khuyến khích, củng cố mạnh mẽ. Người trị liệu phải nhấn mạnh để khuyến khích và củng cố sự thay đổi tích cực. Ví dụ, một người bệnh người đã từng làm được một việc tốt là dừng không sử dụng ma tuý và rượu, thì cần xây dựng kế hoạch tiếp tục và chú ý đến những buổi gặp tiếp theo, nhưng nếu là người chưa từng từbỏ được, thì cần được tập trung khích lệ họ cải thiện tình trạng lệ thuộc hiện nay. Dù là như trên đã đề cập người bệnh có thể tìm thấy lợi ích từ việc tập luyện, thì người trị liệu không nên để bị cuốn vào một cuộc tranh cãi về riêng một lĩnh vực nào đó mà có kháng cự của người bệnh. Mối liên hệ giữa người bệnh và người trị liệu là mối liên hệ quan trọng nhất cần được tạo dựng trong quá trình điều trị. Hãy sử dụng lẽ thường, sự lịch sự nhã nhặn, lòng trắc ẩn và sự tôn trọng trong khi giao tiếp với người bệnh. Mục đích đối với các buổi tiếp xúc trị liệu cá nhân/ các buổi trị liệu lồng ghép: 1. Cung cấp cho người bệnh và gia đình họ cơ hội để xây dựng mối liên hệ cá nhân với người trị liệu. 2. Cung cấp một môi trường trong đó người bệnh và đình họ có thể giải quyết vượt qua các khủng hoảng, các vấn đề về không khí giao tiếp và đi đến quyết tâm thực hiện quá trình điều trị với một người trị liệu có vai trò như một người hướng dẫn. 3. Cho phép người bệnh thảo luận về vấn đề nghiện của họ một cách cởi mở trong một bối cảnh không có sự phán xét và có sự quan tâm đầy đủ của người trị liệu. 4. Huy động một/nhiều thành viên trong gia đình người bệnh tham gia vào qúa trình điều trị. 5. Mang đến sự củng cố và khích lệ cho người nghiện để có những thay đổi tích cực. 6. Tạo cho người nghiện cảm giác người trị liệu vừa là một người thầy, một người hướng dẫn và cũng là một người biết quan tâm.
 

Chỉ dẫn cho người trị liệu

 
Trong chương trình điều trị ngoại trú tập trung theo mô hình Matrix, có 3 buổi can thiệp cá nhân. Trong đó, có 2 buổi được thiết kế nhằm “đặt mục tiêu” cho chương trình điều trị và buổi thứ 3 được sử dụng để tiến hành một đánh giá nhanh về tình trạng tiến bộ của người bệnh, và nhằm giải quyết một khủng hoảng không lường trước được hoặc nhằm phối hợp việc điều trị trong mô hình Matrix với các nguồn điều trị khác. Dù là trong buổi trị nào nào đi nữa, thì người trị liệu vẫn phải tận dụng buổi trị liệu cá nhân đó như là một buổi trị liệu lồng ghép. Các buổi trị liệu cá nhân, dù không phải là một thành tố trung tâm của chương trình điều trị này, vẫn là những sự kiện quan trọng. Tài liệu phát tay các buổi: Tài liệu phát tay dùng trong Buổi 1: Thoả thuận và đồng ý dịch vụ Buổi gặp gỡ ban đầu được thực hiện trước buổi tiếp xúc nhóm đầu tiên, được thiết kế nhằm đảm bảo chắc chắn rằng người bệnh (và gia đình người bệnh khi có thể) có được sự định hướng thích hợp đối với việc điều trị và nhằm tạo cho người bệnh và người nhà của họ một cơ hội được gặp gỡ người trị liệu và nghe giới thiệu về chương trình. Tài liệu phát tay dùng trong Buổi 2:
  1. Kiểm tra danh sách phục hồi
  2. Sơ đồ phân tích tái nghiện
Buổi gặp thứ 2, thường được tiến hành khoảng 30-45 ngày sau khi bắt đầu tham gia điều trị, được thiết kế nhằm đưa ra một đánh giá về sự tiến bộ của người bệnh, củng cố các hoạt động phục hồi đã bắt đầu thực hiện được cùng với những đề xuất và gợi ý nhằm khuyến khích sự tiến bộ của người bệnh hơn nữa. Buổi này cũng có thể được sử dụng như một buổi can thiệp giải quyết khủng hoảng hoặc như một buổi giải quyết vấn đề tiếp tục tái nghiện. Khi được sử dụng như một buổi can thiệp giải quyết khủng hoảng, người trị liệu cũng nên cố gắng kết hợp thực hiện được một đánh giá về mức độ tiến bộ của người bệnh đến thời điểm đó. Tài liệu phát tay dùng trong Buổi 3:
  1. Đánh giá sau điều trị
  2. Kế hoạch Giai đoạn II
Buổi gặp cuối cùng này nhằm xem xét lại sự tiến bộ của người bệnh trong suốt quá trình điều trị và giúp người bệnh xây dựng một kế hoạch chăm sóc sau cai trong đó cung cấp sự hỗ trợ chuyên môn và tự giúp đỡ một cách phù hợp. Tái nghiện không phải là xảy ra một cách bất ngờ và không dự đoán được. Nhưng đối với khách hàng thì người ta thường cảm thấy là việc tái nghiện xảy ra một cách bất ngờ, không dự doán được. Người trị liệu cần hiểu được bối cảnh của việc tái nghiện nhằm chỉnh khung sự kiện trên cho khách hàng. Có một số điểm quan trọng dưới đây cần lưu ý khi làm việc với một khách hàng đã tái nghiện: 1) Việc sử dụng ma tuý xảy ra trong vòng vài tuần đầu được coi là việc tiếp tục sử dụng, không phải là tái nghiện; 2) Ít nhất 50% người hoàn thành chương trình điều trị ngoại trú một cách thành công đều trải qua một lần tái nghiện tại một thời điểm nào đó; 3) Một lần tái nghiện không cho đó là thất bại, ngược lại cần xem đó như một cơ hội để điều chỉnh kế hoạch điều trị cho phù hợp. Sơ đồ phân tích tái nghiện có thể được sử dụng trong một buổi tư vấn trị liệu cá nhân như một phương tiện giúp người bệnh và người tư vấn có thể phân tích dự đoán những tình huống dễ bị tổn thương có thể góp phần dẫn đến tái nghiện và nhằm nghiên cứu, điều chỉnh kế hoạch điều trị để tránh tiếp tục xảy ra trong tương lai.
 

NHÓM CÁC KỸ NĂNG PHỤC HỒI BAN ĐẦU

 
Triết lý Nhóm các kỹ năng phục hồi ban đầu (ERS) được thiết kế nhằm cung cấp cho người bệnh một bộ kỹ năng cần thiết để thiết lập tình trạng “sạch” (không sử dụng ma tuý và rượu). Đây là các kỹ năng chính được trích từ cuốn “101 Kỹ năng phục hồi”. Có 2 thông điệp cơ bản được đưa ra trong nhóm. Đó là: (1) Bạn có thể thay đổi hành vi của mình theo các cách mà sẽ khiến dễ giữ được tỉnh táo hơn. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn một số thủ thuật để biết bắt đầu như thế nào; (2) Các hoạt động điều trị là một nguồn thông tin và hỗ trợ. Tuy nhiên, để đạt được đầy đủ kết quả từ việc điều trị, các hoạt động tư vấn cần được lồng ghép trong các can thiệp tự giúp đỡ. Để giúp bạn làm quen với chương trình 12 bước, chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn về các hoạt động tự giúp đỡ. Nhóm các kỹ năng phục hồi ban đầu định hướng người bệnh đến các kỹ năng cơ bản cần thiết để duy trì tình trạng không sử dụng. Các kỹ thuật hoàn toàn liên quan đến hành vi và có một mục đích quan trọng là “làm thế nào để”. Nhóm kỹ năng này không được thiết kế như là một nhóm “trị liệu”. Nó cũng không có xu hướng tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong nhóm, dù là có một số mối quan hệ sẽ được thiết lập. Nó được thiêt kế như là một diễn đàn mà ở đó người trị liệu có thể phối hợp chặt chẽ với từng bệnh nhân để hỗ trợ họ xây dựng chương trình phục hồi trong giai đoạn ban đầu. Mỗi nhóm có một cơ cấu rõ ràng và xác định. Cơ cấu và lộ trình hoạt động của nhóm là cần thiết. Đối với những người bệnh mới tham gia, lộ trình điều trị này rõ ràng là quan trọng như việc các thông tin được trao đổi. Hình thức Nhóm do một người trị liệu chủ trì và đồng chủ trì là một người nghọên đang phục hồi. Người đồng chủ trì này thường là một bệnh nhân hiện đang tham gia điều trị và có thời gian 3 tháng tỉnh táo. Bệnh nhân đó phải thực hiện tốt chương trình, không uống rượu, bia hay sử dụng bất kỳ một loại ma tuý nào, và tích cực tham gia chương trình tự giúp đỡ. Những bệnh nhân là người tích cực “chống rượu và amphetamin” (anti-AA) không được coi là người đồng chủ trì. Người đồng chủ trì có thể được chỉ định và tuyển chọn từ nhóm dự phòng tái nghiện trên cơ sở tự nguyện. Những người đồng chủ trì có thể quay vòng hàng tháng hoặc có thể sử dụng trong suốt thời gian lên đến 3 tháng. Người chủ trì và người đồng chủ trì cần gặp gỡ, trao đổi trong 15 phút trước khi nhóm tiến hành thảo luận về chủ đề của buổi gặp gỡ buổi tối và các vấn đề mới về người bệnh. Không có thông tin bí mật nào có thể cung cấp cho nhứng người đồng chủ trì. Họ là những người tự nguyện và là người bệnh, không phải là người được tuyển dụng để làm việc. Họ nên được hướng dẫn để chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân liên quan đến chủ đề thảo luận của nhóm và không cố gắng để trở thành những nhà trị liệu. Cuối mỗi buổi sinh hoạt, người chủ trì tóm tắt lại những gì người đồng chủ trì đã chia sẻ nhằm tái tập trung và giúp người đồng chủ trì ổn định dần. Nhóm được tổ chức với quy mô nhỏ (tối đa khoảng 6 đến 8 người) và sinh hoạt trong khoảng thời gian tương đôi ngắn (50 phút). Vì các bệnh nhân có thể sẽ rất bất ổn, nên nhóm cần phải duy trì cơ cấu và cần được quản lý. Điều cực kỳ quan trọng đối với người chủ trì là giữ thái độ nghiêm túc, tập trung và không góp phần làm tăng năng lượng của nhóm, cảm giác “nằm ngoài khả năng kiểm soát” có thể là đặc trưng của những người bệnh này. Người chủ trì giới thiệu nhóm như một mô hình trong đó hướng dẫn các thành viên những kỹ năng cơ bản nhằm duy trì được tình trạng tỉnh táo. Tất cả các thành viên tham gia đều được giới thiệu và đề nghị tóm tắt một số thông tin về việc tham gia của anh ấy/chị ấy trong quá trình điều trị. Các thành viên tham gia lần đầu cần được dành vài phút để giới thiệu tóm tắt về lịch sử bản thân. Trong khi đang trình bày tóm tắt về tiền sử sử dụng ma tuý của bản thân, người bệnh có thể được đề nghị ngừng lại một cách lịch sự và đề nghị trao đổi về các vấn đề liên quan đến điều trị. Người đồng chủ trì được giới thiệu như một người hiện đang trải qua giai đoạn phục hồi và là người có thể cung cấp thông tin cá nhân về việc chương trình đã hỗ trợ anh ấy/chị ấy như thế nào. Sau bước định hướng ban đầu như trên, người chủ trì sẽ giới thiệu chủ đề, đọc qua toàn bộ tài liệu phát tay và đưa ra một cái nhìn tổng quát về việc tại sao chủ đề này lại quan trọng trong cai nghiện. Người đồng chủ trì có thể liên hệ việc chủ đề này đã có lợi như thế nào đối với các giai đoạn phục hồi ban đầu của bản thân. Mỗi bệnh nhân sẽ được yêu cầu mô tả việc mình hiện đang sử dụng các kỹ năng được thảo luận như thế nào. Hỏi xem liệu các bệnh nhân có gặp vấn đề gì không, cần đưa ra các gợi ý giải quyết và những lời khuyên từ các thành viên khác trong nhóm. Khoảng 35 phút là thời gian dành cho chủ đề nhóm. Phần tiếp theo, nhóm cần được dành thời gian để thảo luận về chủ đề xây dựng kế hoạch. Mỗi người phải có một kế hoạch cho khoảng thời gian giữa buổi sinh hoạt hiện tại và buổi sinh hoạt tiếp theo. Nếu không còn vấn đề gì, có thể gợi ý các buổi sinh hoạt cụ thể về AA, NA và CA. Không nên khuyến khích các bệnh nhân cùng nhau xây dựng kế hoạch chung hoặc xây dựng kế hoạch hộ cho người khác trong giai đoạn phục hồi ban đầu này. Nhóm sẽ kết thúc buổi sinh hoạt với một lưu ý tích cực bằng cách nhấn mạnh một số lợi ích mà mỗi bệnh nhân có thể có được từ việc duy trì sự tỉnh táo. Bất kỳ bệnh nhân nàocũng có thể được dành ít phút để trao đổi về những lợi ích của nhóm đã mang lại cho mình trong tháng đầu tiên duy trì sự tỉnh táo. Sau khi nhóm kết thúc, bất kỳ thành viên nào là người đang đấu tranh để từ bỏ cũng cần gặp và trao đổi ngắn gọn với người chủ trì hoặc một người tư vấn khác. Người đồng chủ trì không tham dự vào các cuộc tư vấn một-một. Các bệnh nhân nên được khuyến khích nghỉ giải lao trước khi họ tham dự nhóm dự phòng tái nghiện. Một số vấn đề đặc biệt Những bệnh nhân này không đạt được thành công nhiều trong việc duy trì sự tỉnh táo. Vì điều đó, mà hành vi của họ có thể đòi hỏi người chủ trì phải can thiệp và đòi hỏi phải có sự kiểm soát mạnh mẽ nhưng vẫn phải đảm bảo lịch sự, nhã nhặn. Đó là những tình huống thường gặp dưới đây: 1. Trong qúa trình trao đổi, thảo luận về việc tham gia chương trình tự giúp đỡ, thường có những ý kiến không chính thống về giá trị của việc tham gia. Người chủ trì cần phải đưa ra một thông điệp rõ ràng là kết quả điều trị đối với những người có tham gia chương trình tự giúp đỡ khả quan hơn nhiều so với những người không tham gia chương trình. Trung tâm Matrix đã tiến hành một số khảo sát về kết quả điều trị và sự tham gia chương trình 12 bước và đã thống nhất thấy rằng có một mối quan hệ rất tích cực giữa 2 nội dung này. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân sẽ vẫn tranh cãi rằng họ chẳng hề thấy những buổi sinh hoạt như thế này giúp ích được gì và họ sẽ không tham gia. Sự chống cự không tham gia chương trình 12 bước là một vấn đề quan trọng. Người chủ trì nên cố gắng nhận thức rằng không phải là hiếm thấy việc nhiều người ban đầu có thể thấy ngay sự thoải mái trong chương trình 12 bước, nhưng người chủ trì cần nỗ lực theo nhiều cách có thể để khuyến khích các bệnh nhân tham gia một chương trình 12 bước mẫu. Những bệnh nhân chống cự lại những khía cạnh tinh thần của chương trình 12 bước cần được khuyến khích cam kết sẽ tham gia nhiều hơn vào mối quan hệ này. Những người cảm thấy không thoải mái khi đến với những buổi gặp gỡ mà họ còn chưa quen có thể bố trí để gặp, trao đổi với người đồng chủ trì hoặc các thành viên khác trong các buổi sinh hoạt nhóm. Các buổi gặp gỡ thực tế tại trung tâm điều trị có thể là một điều gì đó khiến giảm bớt sự e ngại và có thể là một địa điểm tốt giúp người bệnh làm quen dần với chương trình. Tranh luận với các bệnh nhân chống đối là một việc làm phản tác dụng. Việc sử dụng các thành viên khác trong nhóm, hoặc những kinh nghiệm tích cực của người đồng chủ trì đối với các buổi trị liệu là một phương pháp tốt hơn nhiều để có thể giải quyết tình trạng bệnh nhân chống cự. Cần khuyến khích những bệnh nhân tham gia chương trình 12 bước chia sẻ về những lợi ích chính đáng của việc tham gia chương trình 12 bước. Các hoạt đông xã hội, như uống café sau các buổi gặp, và việc luôn sẵn có những người khác để trò chuyện vào những lúc gặp vấn đề rắc rối có thể khuyến khích được các khía cạnh tham gia vào chương trình 12 bước đối với những thành viên hay chống đối. Một số bệnh nhân có thể sẵn lòng tham dự các buổi sinh hoạt, nhưng lại chống cự lại việc tiếp nhận một người hỗ trợ và thực hiện các bước của chương trình. Trong trường hợp đó, hãy sử dụng người chủ trì và các thành viên khác để khuyến khích sự tham dự của bệnh nhân vào các hoạt động của chương trình 12 bước. Càng tham dự nhiều hoạt động trong chương trình, càng giúp phục hồi tốt. Việc sử dụng một người trợ giúp như một huấn luyện viên trong chương trình 12 bước là một việc vô cùng giá trị. Hãy hướng dẫn người bệnh lựa chọn một người trợ giúp, người sẽ chấp nhận sự tham dự hiện tại của người bệnh trong quá trình điều trị một cách chuyên nghiệp. Đối với những bệnh nhân vẫn tiếp tục chống đối không tham dự các hoạt động 12 bước, cần gợi ý cho họ những lựa chọn tự giúp đỡ khác như Phục hồi dần dần, Yêu cầu như các thầy dòng duy trì tình trạng không sử dụng (SOS), Thuyết bất khả tri trong gặp gỡ AA,… Những buổi gặp tự giúp đỡ thay thế này có thể giúp người bệnh có cảm giác giống như nhận được sự hỗ trợ và trợ giúp. 2. Một bệnh nhân có thể được cung cấp các đề nghị không phù hợp hoặc có thể gây nguy hiểm cho anh ta/chị ta. Ví dụ, nếu chủ đề thảo luận là làm thế nào để dừng không nghĩ đến việc sử dụng và người bệnh đề nghị một bệnh nhân khác là anh ta phải nghĩ về suy nghĩ việc dùng ma tuý của mình trong mọi trường hợp chứ không phải là dừng lại không suy nghĩ đến, thì trong trường hợp đó người chủ trì cần can thiệp một cách lịch sự rằng “Có thể điều đó có ích với bạn, nhưng hầu hết moi người đều thấy rằng đó là một phương pháp nguy hiểm. Và hầu hết những bệnh nhân khác thấy rằng việc sử dụng quy trình dừng không nghĩ đến việc sử dụng ma tuý là phương pháp giúp ích được họ nhiều hơn”. Người chủ trì cần phải lịch sự và tôn trọng tất cả các thành viên trong nhóm, nhưng cũng cần kiểm soát tình huống một cách rõ ràng. 3. Trong những tình huống mà những bệnh nhân bất ổn không thể thực hiện theo sự hướng dẫn tài tình hoặc kết quả buổi làm việc bị hạn chế tương đối, thì người chủ trì nên nói một điều gì đó giống như “Tối hôm nay các bạn thật ồn. Nào hãy chắc chắn là tất cả mọi người đều có một thời gian không gian thư giãn nào đó. Đề nghị hãy lắng nghe trong một lát thôi”. Nếu khủng hoảng xảy ra, người chủ trì cần trò chuyện riêng với bệnh nhân đó sau buổi sinh hoạt nhóm về vấn đề cụ thể của chính anh ấy/cô ấy. 4. Nếu một bệnh nhân được cho là đang say thuốc, người chủ trì nên đề nghị bệnh nhân đó đi ra ngoài cùng mình. Hãy xem xem liệu có một tư vấn viên khác có thể làm việc với anh ấy /cô ấy không. Nếu không có, người đồng chủ trì có thể tiếp tục cho nhóm thảo luận trong khi người chủ trì sẽ cố gắng đánh giá về điều kiện sức khoẻ của cá nhân bệnh nhân đó và thảo luận về những hoàn cảnh dẫn đến việc anh ta sử dụng ma tuý hoặc rượu. Tuỳ thuộc vào mức độ say thuốc của người bệnh, có thể cần thiết bố trí người đưa anh ta về nhà một cách an toàn và trước khi có thể tiến hành bất kỳ một cuộc trao đổi nào về chủ đề này cho đến khi có buổi hẹn gặp lần sau. Hãy tránh đối đầu với bệnh nhân. Mục đích 1. Cung cấp một nơi thuận tiện cho những bệnh nhân mới hiểu biết về các kỹ năng phục hồi và chương trình tự hỗ trợ. 2. Giới thiệu với các bệnh nhân về các công cụ cơ bản giúp phục hồi và hỗ trợ họ trong việc dừng không sử dụng ma tuý và rượu. 3. Giới thiệu chương trình tham gia 12 bước và tạo dựng một mong đợi đối với phục hồi 12 bướ như là một phần trong mô hình điều trị Matrix. 4. Tăng cường số lượng bệnh nhân tham gia mô hình nhóm khi cần thiết trong Chương trình phục hồi, Hỗ trợ xã hội và Gặp gỡ 12 bước. 5. Cho phép người đồng chủ trì cung cấp một mô hình để đạt được việc duy trì không sử dụng trong thời gian đầu. 6. Cung cấp cho người đồng chủ trì sự tự tin và thúc đẩy, khuyến khích sự tiến bộ của người đồng chủ trì.            
 

Chỉ dẫn cho người trị liệu

 
Tất cả nhóm Trong vòng 15 phút cuối mỗi buổi sinh hoạt nhóm kỹ năng phục hồi ban đầu, cần luyện tập 2 bài tập sau. Cả 2 bài đều được thiết kế nhằm cung cấp cho người bệnh một cách thức để xây dựng một kế hoạch phục hồi và giám sát sự tiến bộ của mình. Chủ đề: Lập kế hoạch Tài liệu phát tay: a) Lập kế hoạch, “Liệu đó có phải là điều quan trọng không” b) Kế hoạch hàng ngày/hàng giờ Lập kế hoạch là một kỹ năng quan trọng giúp người bệnh xây dựng được cơ cấu chương trình phục hồi và đưa ra những chỉ dẫn (bản đồ dẫn đường) để duy trì tình trạng tỉnh táo từ khi kết thúc buổi gặp hiện tại đến khi trở lại tham gia vào buổi gặp tiếp theo. Chủ đề: Đánh dấu thời gian Tài liệu phát tay: a) Lịch và ghi chú b) 5 (năm) lịch sinh hoạt Việc đánh dấu mỗi ngày phục hồi thành công vào một quyển lịch có thể giúp  người bệnh nhận thức được sự tiến bộ phục hồi từng ngày và cung cấp thêm ý thức để tiếp tục thực hiện và hoàn thành chương trình. Buổi 1. Chủ đề: Hãy dừng cái vòng luẩn quẩn này lại! Tài liệu phát tay: a) Các động cơ thôi thúc sử dụng. b) Các động cơ thôi thúc sử dụng - Suy nghĩ - Thèm nhớ - Sử dụng. c) Các kỹ thuật dừng không suy nghĩ đến. Hãy đề nghị bệnh nhân xem xét lại các tình huống dẫn đến động cơ thôi thúc sử dụng cụ thể. Dừng lại mô tả chi tiết về các lần sử dụng rượu và sử dụng ma tuý, và những cảm giác xảy ra trong suốt quá trình chuẩn bị sử dụng. Không để nhóm biến thành một buổi chia sẻ những kinh nghiệm về các động cơ thôi thúc người bệnh sửe dụng mà không thể kiểm soát được. Hãy tập trung người bệnh vào những điều gì bây giờ họ cần phải tránh, hoặc làm thế nào để giải quyết vấn đề theo một cách mới khi có những tình huống xuất hiện động cơ thôi thúc người bệnh sử dụng. Giúp họ xây dựng các kế hoạch, chương trình để đối phó với những tình huống có thể xảy ra việc tác động khiến họ nghĩ đến việc sử dụng vào dịp cuối tuần. Đây chắc chắn là một chủ đề dễ bị thay đổi. Hãy đảm bảo chắc chắn là có thể duy trì các bệnh nhân chỉ tập trung vào việc hiện nay chúng ta giải quyết vấn đề này như thế nào, không nên đi quá sâu vào việc mô tả những gì đã thường xảy ra. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một kế hoạch giúp thay đổi hành vi bằng việc đưa ra những định hướng tốt và cam kết mạnh mẽ để đối phó. Cho phép người đồng chủ trì thảo luận về những điều gì đã xảy ra nhằm tăng cường những ứng phó của anh ta chống lại những tác động khiến anh ta sử dụng ma tuý. Các bệnh nhân cần được biết rằng cảm giác bị hối thúc này sẽ ít dần khi họ chuyển sang ngừng không sử dụng. Dừng việc suy nghĩ đến sẽ là một kỹ năng mà người bệnh có thể sử dụng để tạm khóa những suy nghĩ về ma tuý và nhờ đó có thể lấy lại được khả năng kiểm soát quá trình suy nghĩ của bản thân. Các cơn thèm nhớ phải không để trở nên áp đảo họ. Họ có thể khiến các cơn thèm nhớ không xảy ra bằng cách khoá những suy nghĩ liên quan đến ma tuý của bản thân lại. Họ cần sử dụng qúa trình này nhanh chóng trước khi chức năng sinh lý của cơ thể đối với các cơn thèm nhớ bắt đầu được kích hoạt. Hãy trao đổi về chu kỳ xuất hiện các cơn thèm nhớ trong ngày đối với họ và tìm ra các cách giúp họ giúp can thiệp phá vỡ chu kỳ đó. Hãy thảo luận về việc làm thế nào để thoát khỏi tình trạng luẩn quẩn đó của họ.   Buổi 2. Chủ đề: Xác định những động cơ bên ngoài thôi thúc người nghiện sử dụng ma tuý Tài liệu phát tay: a) Bảng hỏi về các động cơ bên ngoài. b) Sơ đồ tác động của các động cơ đến việc sử dụng. Bảng hỏi về động cơ thôi thúc sử dụng từ  bên ngoài giúp xác định các tác động bên ngoài đối với việc sử dụng ma tuý. Điều quan trọng là sử dụng bảng mẫu này như một bài luyện tập để có được bức tranh toàn diện về tình hình, địa điểm và thời điểm lúc những suy nghĩ và các cơn thèm nhớ có thể bị thôi thúc. Hãy hỏi về những động cơ đặc trưng có thể không được liệt kê trong bảng hỏi. Xem xét nhu cầu xây dựng kế hoạch cho các hoạt động ứng phó để thoát ra khỏi những tình huống tác động như vậy. Đảm bảo rằng mỗi cá nhân đều hoàn thành một danh sách hoàn chỉnh về những động cơ thôi thúc sử dụng từ bên ngoài. Xem xét một cách tóm tắt cách thức đối phó đối với một tình huống tác động mà người bệnh đã không thể tránh được. Sơ đồ động cơ tác động đến việc sử dụng ma tuý giúp cho người bệnh ý thức rằng việc sử dụng chất kích thích không phải là hệ quả của những sự kiện xuất hiện ngẫu nhiên, không dự đoán được. Bằng cách thay đổi hành vi của người nghiện, cơ hội để anh ta sử dụng ma tuý cũng có thể được giảm xuống. Nếu không có % nào cho những tình huống có thể xảy ra, hãy đề cập đến các buổi trị liệu 12 bước. Bài tập này giúp tăng cường sự hiểu biết của người bệnh về cơ hội xuất hiện các lần sử dụng và làm thế nào để có thể tránh được.       Buổi 3. Chủ đề: Xác định những động cơ bên trong thôi thúc người nghiện sử dụng ma tuý Tài liệu phát tay: Bảng hỏi về các động cơ bên trong Mẫu bảng hỏi này giúp đưa ra một bức tranh toàn điện về những tình trạng bên trong dẫn đến việc thôi thúc người nghiện sử dụng ma tuý. Nhiều cảm xúc được nêu trong bảng hỏi đan xen nhau. Không nên đi sâu vào từng cảm xúc riêng mà điều quan trọng là phải có được một bức tranh về những tình trạng cảm xúc nổi bật mà khiến thôi thúc người nghiện suy nghĩ và thèm nhớ đến ma tuý. Nhìn chung, con người thường bị hối thúc khi có những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực, hoặc một số người là cả hai. Sau đó hãy phản ánh lại cho người bệnh biết về bức tranh mà họ đang gặp phải trước những hối thúc cảm xúc từ bên trong chính bản thân họ và hỏi xem liệu điều đó có đúng không. Trước khi hoàn thành bảng hỏi, người trị liệu nên đưa ra cho từng người bệnh một số ý tưởng rõ ràng về đâu là những loại phản ứng cảm xúc khiến người nghiện thèm nhớ ma tuý và dẫn đến sử dụng. Nếu việc sử dụng ma tuý của một người bệnh nào đó là tự động và không bị tác động hay hối thúc về cảm xúc ngay trước khi anh ta tham gia điều trị, thì hãy hỏi anh ta về đâu là những tác động trong thời gian anh ta nghiện trước đây. Hãy thảo luận những biện pháp thay thế giúp anh ta đối mặt với những tác động cảm xúc hối thúc mạnh mẽ từ chính bản thân anh ta. Vào cuối buổi trị liệu này, hãy quay lại thảo luận về Sơ đồ tác động của các động cơ và bổ sung thêm những trạng thái cảm xúc một cách cụ thể an toàn hoặc không an toàn từ bên trong. Khi hoàn thiện xong sơ đồ tác động, hãy đưa cho người bệnh xem để biết những sự lựa chọn mà cô ấy/anh ấy đang quan tâm liên quan đến những người hoặc những nơi, những thứ mà chắc chắn sẽ dẫn cô ấy/anh ấy đến việc tái nghiện. Buổi 4. Chủ đề: Giới thiệu 12 bước Tài liệu phát tay: Giới thiệu 12 bước Việc tham gia vào các hoạt động 12 bước là một phần thiết yếu trong quá trình điều trị đối với người bệnh. Người bệnh nên xem xét việc họ tham dự vào các buổi sinh hoạt AA cũng cần thiết như việc họ tham dự vào các buổi sinh hoạt của mô hình Matrix. Họ cũng cần được người trị liệu cung cấp cho họ hy vọng và mong muốn rằng việc tham gia các chương trình 12 bước là một phần yêu cầu trong quá trình điều trị. Việc này có thể do người trị liệu thực hiện bằng một cách rất tích cực nhằm giúp họ hiểu rằng các chương trình 12 bước sẽ có hiệu quả bằng việc thu hút và rằng họ chính là yếu tố nguồn tích cực và rất có giá trị để các chương trình này được thành công. Buổi 5. Chủ đề: Những thay đổi sinh hóa của cơ thể trong quá trình phục hồi Tài liệu phát tay: Bản đồ chỉ đường cho việc Phục hồi Sự suy nhược thể chất, ngủ không ngon giấc, đau đầu và một số ít trường hợp là cả lo lắng là tất cả những triệu chứng tiếp tục trong suốt quá trình cắt cơn. Hãy giúp người bệnh nhớ lại quá trình phục hồi dần dần về sinh học trong cơ thể đang xảy của họ. Điều này sẽ giúp người bệnh tập trung vào việc phục hồi và cho họ hy vọng là tình hình sẽ được cải thiện nhanh chóng. Việc xem xét các thay đổi về mặt sinh học đáng xảy ra trong người có thể giúp người bệnh ý thức được về những gì sẽ xảy ra trong suốt quá trình điều trị. Hãy thảo trao đổi về những nỗ lực và trải nghiệm điều trị họ đã trải qua với những giai đoạn phục hồi này. Buổi 6. Chủ đề: Các vấn đề xảy ra trong giai đoạn phục hồi ban đầu Tài liệu phát tay:
  1. 5 vấn đề thường gặp trong giai đoạn phục hồi ban đầu
  2. Tranh luận về rượu
Có một số vấn đề có xu hướng nổi lên ngay lập tức giống như những vấn đề rắc rối đối với những người bệnh trong giai đoạn phục hồi ban đầu. Đối với phần lớn người sử dụng ma tuý thi có 5 vấn đề quan ngại rất quan trọng. Và chủ đề chính trong việc giải quyết các vấn đề này là việc có một cách hiệu quả hơn việc đối phó với sử dụng ma tuý một cách thông thường nhằm đối phó với những tình huống này. Người đồng chủ trì sẽ chia sẻ về kinh nghiệm của anh ấy/cô ấy với một hoặc nhiều người về những vấn đề này.  Hãy củng cố những thành viên có các giải pháp tích cực khác để giải quyết vấn đề. Hỗ trợ và khuyến khích sự tin tưởng rằng phục hồi bao gồm việc cùng nhau đưa ra các hoạt động mới và dùng nhiều phương pháp để đưa ra một giải pháp cùng một lúc. Nếu người bệnh vẫn còn do dự về việc dừng sử dụng (có lẽ vì họ không nhìn ra thực thế là việc sử dụng rượu như vấn đề ban đầu), thì bài tập sử dụng bảng Tranh luận về rượu có là một thách thức đối với những suy nghĩ của họ. Buổi 7. Chủ đề: Suy nghĩ, cảm nhận và hành động Tài liệu phát tay:
  1. Suy nghĩ, cảm xúc và hành vi
  2. Hành vi của người nghiện
Để có được sự kiển soát trong hành vi của người bệnh, điều quan trọng thiết yếu đối với họ là phải có thể phân biệt được giữa các suy nghĩ, cảm xúc và hành vi. Điều này có thể là một khái niệm hoàn toàn mới đối với một số người. Hãy chắc chắn là người bệnh hiểu rõ nguyên tắc này trước khi chuiyển sang tài liệu phát tay thứ hai. Người bệnh có một số mức độ kiểm soát nhất định về việc phục hồi là quá trình khó khăn như thế nào. Những người bệnh nào tiếp tục cư xử như những người lạm dụng ma tuý sẽ tiếp tục trở thành những người lạm dụng ma tuý. Không thể thành công trong việc dừng sử dụng ma tuý và tiếp tục can dự vào các hành vi của người nghiện. Những người bệnh cần được dạy về mối quan hệ giữa hành vi cư xủa của họ với thành công trong quá trình phục hồi của họ. Buổi 8. Chủ đề: Tài liệu phát tay: Các mẹo 12 bước Một chút khôn ngoan từ chương trình AA có thể cung cấp những công cụ rất có giá trị cho người bệnh trong giai đoạn phục hồi ban đầu. Những lời nói hay khái niệm này cần được lưu ý xem xét để trở nên giá trị đối với người bệnh và như những bằng chứng chứng minh rõ ràng hơn những lợi ích có thể có được từ việc tham gia các buổi trị liệu 12 bước.
 

NHÓM DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN

 
Triết lý Nhóm dự phòng tái nghiện (Relapse Prevention - RP) là một thành tố trung tâm của gói điều trị theo mô hình Matrix. Nhóm này có một mục đích cụ thể cũng như một hình thức cụ thể. Nhưng cũng có thể có một số điều mà nhóm này không phải là như vậy. Ví như nhóm này không phải là một nhóm huấn luyện sự quyết đoán hoặc dễ nhạy cảm. Đó cũng không phải là một buổi sinh hoạt trị liệu 12 bước. Đó không phải là một hoạt động nhằm giảm căng thẳng hoặc nhóm trao đổi về “bất cứ điều gì bạn đang suy nghĩ trong đầu” không có hồi kết. Mỗi nhóm dự phòng tái nghiện được tổ chức quanh một chủ đề nhất định. Mục đích của nhóm là nhằm cung cấp một diễn đàn ở đó những người lệ thuộc chất hoá học kích thích có thể nhận được sự hỗ trợ để giải quyết các vấn về nhằm xây dựng một chương trình phục hồi và tránh tái nghiện. Tái nghiện không phải là một sự kiện diễn ra một cách ngẫu nhiên. Qúa trình tái nghiện mang những đặc trưng có thể dự đoán được. Nhóm này sẽ cung cấp một địa điểm để chia sẻ các thông tin về vấn đề tái nghiện và dự phòng tái nghiện. Các dấu hiệu đe doạ dẫn đến tái nghiện có thể được xác định bởi cán bộ điều trị và người bệnh. Những bệnh nhân có xu hướng tái nghiện có thể được chỉnh hướng trong khi cần khuyến khích những người đang thực hiện tốt quá trình phục   hồi. Điều kiện sinh hoạt của nhóm cho phép các bệnh nhân hỗ trợ nhau trong khuôn khổ hướng dẫn của người trưởng nhóm. Nhóm được chủ trì bởi một người trị liệu và một người đồng chủ trì. Người trị liệu là một người chuyên môn hoàn toàn người cũng giám sát các thành viên của nhóm để đưa ra nững can thiệp trị liệu cá nhân phù hợp. Lợi ích của mối quan hệ hai mặt này là người trị liệu có thể phối hợp hiệu quả hơn và hướng dẫn quá trình phục hồi một cách có tiến bộ của mỗi cá nhân người bệnh. Việc thường xuyên liên hệ với người bệnh cũng giúp tăng cường mối liên hệ trị liệu giúp duy trì người nghiện thực hiện điều trị. Bất lợi có thể có của mối quan hệ hai mặt này là những nguy hiểm có thể xảy ra đối với người trị liệu không chú ý đến việc tiết lộ thông tin mang tính bảo mật cá nhân đối với nhóm trước khi người bệnh lựa chọn sẽ làm như vậy. Đó là một sự vi phạm đến ranh giới đối với người trị liệu nhằm ngụ ý là những thông tin đó tồn tại và cố gắng ép một người bệnh chia sẻ thông tin đó nếu người bệnh chưa được lập kế hoạch để thảo luận về các vấn đề trong nhóm. Có một mối nguy hiểm khác có thể tránh được là khả năng các thành viên trong nhóm có thể nhận ra dành sự ưu ái đối với một số bệnh nhân cụ thể hơn các người khác. Điều quan trọng là người trị liệu cần phải cung cấp sự hỗ trợ công bằng cho tất cả các thành viên trong nhóm và không cho phép các thành viên bị lôi kéo vào một cuộc ganh đua để dành đựơc sự quan tâm của ngươì trị liệu. Tất cả các bệnh nhân trong nhóm sẽ xây dựng một mối quan hệ cá nhân với người chủ trì. Mức độ người chủ trì có thể khuyến khích sự thay đổi tích cực trong cuộc sống của họ sẽ có mối liên hệ trực tiếp với sự tín nhiệm mà người chủ trì xây dựng được với các thành viên. Người chủ trì nhóm phải nắm được các thành viên nhận thức như một nguồn cung cấp các thông tin liên quan đến lạm dụng ma tuý một cách đáng tin cậy. Hai điểm chính để xây dựng được lòng tin với người bệnh là mức độ người chủ trì áp dụng để kiểm soát tình hình nhóm và năng lực của người chủ trì trong việc biến nhóm trở thành một nơi an toàn đối với tất cả các thành viên. Hai yếu tố này có mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Để nhóm cảm nhận được sự an toàn, các thành viên phải xem người chủ trì của nhóm như một người tài giỏi và có khả năng kiểm soát tốt. Đôi khi, các thành viên trong nhóm tham gia quá tích cực, nói nhiều và làm chuyện huyên náo, ồn ĩ. Khi đó người chủ trì nhóm phải sử dụng các phương pháp giao tiếp có lời và cả không lời để làm giảm nhiệt của nhóm và giúp nhóm tập trung vào thảo luận chủ đề của buổi sinh hoạt. Thông thường thì tình trạng này xảy ra trong dịp những ngày nghỉ nếu có một số thành viên tái nghiện trở lại. Ngược lại, có nhiều trường hơp các thành viên trong nhóm thờ ơ, uể oải và không tập trung. Trong trường hợp này, người chủ trì cần phải truyền năng lượng cho các thành viên và tác động để họ thấu cảm. Người chủ trì cần phải nhận thức được đặc điểm mang tính cảm xúc này và có cách để ứng phó phù hợp. Cũng bằng cách tương tự như vậy, các thành viên trong nhóm cần cảm thấy rằng người chủ trì nhóm đang giữ cho nhóm hoạt động đi theo hướng có lợi và lành mạnh. Người chủ trì nhóm phải sẵn sàng biết cách ngắt lời các thành viên trong khi thảo luận nhóm một cách hợp lý, đề nghị tạm dừng câu chuyện liên quan đến việc sử dụng ma tuý hoặc định hướng những trình bày quá dài. Mọi thành viên đều phải được tạo cơ hội để tiếp nhận. Hàng tuần người chủ trì cần phải đảm bảo chắc chắn rằng một hoặc hai thành viên không phải luân luôn là người nói đầu hoặc độc diễn trong toàn bộ thời gian sinh hoạt của nhóm. Các thành viên cần phải cảm thấy là người chủ trì quan tâm đến sự tham gia của họ trong nhóm vì điều này có liên quan đến việc duy trì không tình trạng không sử dụng. Người chủ trì nhóm phải là một người rõ ràng, năng động, không để người khác nghi ngờ đặt câu hỏi trong việc kiểm soát, điều hành nhóm. Người đồng chủ trì là một nhân tố quan trọng trong hoạt động của nhóm. Với tư cách là một người đã có nhiều phục hồi thành công, người này được đặt trong vị trí phải giải quyết những vấn đề khó khăn, nhiều mâu thuẫn từ những mong đợi thông qua việc chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân. Những người đồng chủ trì cần được đào tạo đẻ đưa ra kết quả của mình theo những thông điệp của chính bản thân mình “Tôi…”. Nhóm được điều hành theo cách thức phù hợp với mô hình Matrix. Những người chủ trì cần phải là người nhạy bén đối với những thông tin được đưa ra trong một nhóm các thành viên phức tạp, không theo một trật tự nhất định. Một số trường hợp, người chủ trì có thể còn cần là một người có khả năng định hướng, có thể đối mặt hoặc tóm tắt, nêu ra những đặc trưng chính từ các thành viên trong nhóm khi họ phải ảnh những suy nghĩ mang đặc trưng của người nghiện. Sự tập trung vào những ví dụ như thế này của người chủ trì phải là sự tập trung vào vấn đề nghiện như là một vấn đề chống tại người nghiện. Nói một cách khác, sự quan tâm phải được thực hiện nhằm tránh đưa ra những định hướng phản hồi tiêu cực đối với người bệnh, thay vào đó hãy tập trung và những khía cạnh của vấn đề trên cơ sở vấn đề nghiện của chính những hành vi, suy nghĩ của người bệnh. Hình thức Mỗi buổi sinh hoạt nhóm dự phòng tái nghiện bắt đầu vào việc giới thiệu những thành viên mới, và những người này sẽ được đề nghị mô tả tóm tắt về tiền sử sử dụng ma tuý của bản thân. Người này sẽ giới thiệu trực tiếp với các thành viên trong nhóm và với người chủ trì nhóm. Việc trình bày này không quá chi tiết hoặc phải biểu đồ hoá, cũng không giống như việc tái hiện lại “những câu chuyện thời chiến tranh”. Việc giới thiệu này chỉ nhằm mục đích để cung cấp thông tin rất cơ bản như loại ma tuý sử dụng, lý do tham gia điều trị. Khi người bệnh nói lan man, hoặc cung cấp những thông tin chi tiết về việc sử dụng không cần thiết, cần phải đề nghị họ tóm gọn lại và dừng trình bày. Trong 15 phút đầu của buổi sinh hoạt, người chủ trì sẽ nêu ra một chủ đề cụ thể bằng một cách tự nhiên và nhẹ nhàng. Chủ đề cụ thể đó sẽ thảo luận cùng với những đóng góp của các thành viên trong khoảng 45 phút. Người chủ trì cần đảm bảo chắc chắn rằng những vấn đề quan trọng có liên quan đến chủ đề đó đều được thảo luận và tránh việc đưa ra những định hướng chưa chín chắn từ các vấn đề của chủ đề chính. Cũng cần phải đảm bảo chắc chắn rằng những bệnh nhân đang thực hiện một lịch trình không có liên quan đến chủ đề thảo luận sẽ có cơ hội để thảo luận về các vấn đề của họ sau thời gian thảo luận về chủ đề hàng tuần của nhóm. Người chủ trì tóm lược quá trình thảo luận bằng việc bóc tách các phần trong chủ đề thảo luận và những vấn đề quan trọng có liên quan đến chủ đề đó. Trong khoảng thời gian kéo dài 30 phút mỗi buổi sinh hoạt nhóm, các bệnh nhân sẽ được hỏi về việc liệu họ đang có bất kỳ một vấn đề gì không, hoặc liệu là có bất kỳ một vấn đề gì mà họ mong muốn được trao đổi không. Từng bệnh nhân, đặc biệt là những người đã từng có một vấn đề gì đó hoặc những người không tham gia trong nhóm, sẽ được hỏi cụ thể. Câu hỏi chung có thể sử dụng là “Mọi thứ đang diễn ra thế nào với anh?” hoặc “Thế có bất kỳ tiến triển nào mới trong vấn đề của bạn đã nêu ra lần trước không?” hay “Bạn đã bao giờ có những động cơ thôi thúc bạn sử dụng ma tuý không?’, “Anh có kế hoạch như thế nào để duy trì việc không sử dụng trong tuần này?” thường khơi gợi bệnh nhân trả lời. Cũng cần đặc biệt lưu ý giải quyết tất cả những ai không lên tiếng trong nhóm. Thông thường, các bệnh nhân những người mà giữ im lặng hoặc không giao tiếp trong nhóm là những người hiện đang cố gắng giải quyết các vấn đề cần được thảo luận hoặc gợi ý nêu ra. Nhóm dự phòng là nơi cố gắng tạo ra cơ hội để lôi kéo hoặc khích lệ một người tham gia từ các thành viên khác trong nhóm. Người chủ trì nhóm nên đề nghị các thành viên khác cho ý kiến góp ý về một vấn đề nào đó đang được thảo luận, đặc biệt là khi có một số thành viên trong nhóm đang phải đương đầu với vấn đề đó. Ví dụ, những người đã và đang chuyển sang thời gian kiêng không sử dụng lâu hơn thì có thể được đề nghị hãy mô tả về cách thức làm thế nào mà họ có thể đối phó với những vấn đề khó khăn mà họ gặp phải trong suốt quãng thời gian này. Tuy nhiên, người chủ trì nhóm cũng không nên dừng kiểm soát nhóm hoặc thúc đẩy việc trao đổi giữa các cá nhân không theo định hướng về việc mỗi người cảm nhận như thế nào về những điều do người khác chia sẻ. Người chủ trì cần phải duy trì việc thảo luận và định hướng được các cuộc trao đổi, đồng thời phải luôn sẵn sàng điều chỉnh định hướng cho các cuộc trao đổi đang có xu hướng tản mạn, không đi đúng chủ đề, không phù hợp hoặc có tính bất ổn. Người đồng chủ trì có thể được tham gia với tư cách như một mô hình thực tế có vai trò tích cực và nhằm tăng cường thêm những khuyến nghị và lời khuyên cho nhóm trên cơ sở kinh nghiệm của chính bản thân. Người đồng chủ trì cần tránh ca tụng, mà anh ấy/cô ấy nên cố gắng nói về mình và thuyết phục các thành viên khác trong nhóm bằng cách chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn của chính bản thân. Người đồng chủ trì có thể sẽ rất có hiệu quả trong những trường hợp có một thành viên đang chống cự lại các ý kiến, kết quả góp ý của người chủ trì. Trong những trường hợp như vậy, có thể đề nghị người đồng chủ trì chia sẻ về những gì đã giúp ích cho anh ta trong đó nhấn mạnh đến vì những lý do gì mà những điều đó đáng giá, từ đó giúp ích chứ không phải là mời anh ta tranh luận hoặc thảo luận thêm nữa. Những người tham gia nhóm dự phòng ngay từ khi bắt đầu điều trị và sẽ tiếp tục duy trì việc tham gia này trong suốt 16 tuần hồi phục ban đầu. Trong quá trình này, người bệnh sẽ tạo dựng được mối liên hệ có tính phụ thuộc. Tiến trình của nhóm khuyến khích mối dây liên hệ này và chính sự gắn kết đó có thể là một động cơ tích cực mang tính xây dựng khiến có thể giúp người bệnh duy trì được việc đeo đuổi chương trình điều trị. Mặc dù nhiều người bệnh nên được khuyến khích xem xét, nhìn nhận rằng chính họ cần có trách nhiệm với nhóm và cam kết tham gia tích cực và gắn bó với nhóm, nhưng cũng nên lưu ý là sự hồi phục của họ là do chính bản thân họ làm nên. Điều quan trọng giúp người bệnh nhìn nhận ra rằng sự hồi phục của họ là kết quả đạt được của chính bản thân họ và trong đó có sự hỗ trợ, khuyến khích của các thành viên khác trong nhóm. Sự hồi phục của người bệnh có tính độc lập nói trên có thể giúp họ phòng ngừa được các nguy cơ dẫn đến tái nghiện nếu có một vài thành viên khác trong nhóm có thể bị tái nghiện trở lại. Cần có được sự cân bằng giữa việc có được sự hỗ trợ và khuyến khích từ nhóm với sự độc lập riêng trong nhóm để từ bỏ được ma tuý. Sự thân thiết và gắn kết trong một nhóm dự phòng tái nghiện là vô cùng giá trị đối với quá trình điều trị. Tuy nhiên, người bệnh cũng cần được thận trọng lưu ý tránh sự cường điệu về chương trình điều trị và sự can dự khác từ các thành viên khác trong nhóm. Người bệnh ký một bản thoả thuận khi bắt đầu đăng ký tham gia chương trình để tránh các mối quan hệ “ngoài lề” nhóm, tuy nhiên họ cũng cần được thường xuyên nhắc nhở lại để nhớ về bản thoả thuận đã cam kết này. Nếu trong nhóm có hai thành viên bắt đầu trở nên can dự, quan hệ không phù hợp với nhau, thì khi đó người chủ trì cần nhắc lại cho họ nhớ về bản thoả thuận mà họ đã ký để họ tránh những quan hệ đó và giải thích để họ hiểu lý do vì sao những mối quan hệ này lại không được khuyến khích. Tuy nhiên, cũng không nên để người bệnh bị mất động lực phấn đấu từ việc được hỗ trợ bởi các thành viên khác. Trong giai đoạn hồi phục ban đầu, điều này cần được thực hiện trong bối cảnh có các nhóm hỗ trợ 12 bước và nhóm hỗ trợ xã hội kết hợp cùng lúc. Người bệnh cũng không nên để bị khuyến khích tìm kiếm một hệ thống hỗ trợ lâu dài thông qua việc họ tham gia vào các nhóm AA, CA hoặc NA. Một người hỗ trợ trong nhóm AA có thể là nguồn hỗ trợ vô cùng giá trị đối với người bệnh. Việc tham gia vào các cuộc gặp gỡ và giao lưu xã hội hoá với các thành viên trong nhóm AA có thể cung cấp một nguồn hỗ trợ hoàn toàn mới gồm những người bạn đã phục hồi không còn sử dụng và các hoạt động không liên quan đến việc sử dụng. Nếu người bệnh trong giai đoạn phục hồi ban đầu chỉ tiếp cận với các người bạn khác để tìm kiếm sự hỗ trợ mà không có mối liên hệ nào với những người đã duy trì được việc từ bỏ không sử dụng trong một thời gian lâu dài, thì trong quá trình được hỗ trợ, họ sẽ dễ có nguy cơ bị tái nghiện trở lại. Các tình huống đặc biệt: Tại những thời điểm mà người chủ trì nhóm có thể cần can thiệp một cách mạnh mẽ nhằm đối phó với một số hành vi đặc biệt của người bệnh trong nhóm. Sự can thiệp này có thể là yêu cầu nhóm giữ yên lặng hoặc hạn chế sự tham gia của cá nhân đó trong nhóm, hoặc đề nghị cá nhân đó ra ngoài, không tham gia trong nhóm. Hành vi: cứ mãi kiên trì về một vấn đề nào đó Biện pháp can thiệp cần sử dụng: lịch sự đề nghị rằng đã đến lúc cần để cho những người khác được tham gia thảo luận về các vấn đề của họ và sau đó sẽ tiếp tục. Hành vi: Tranh cãi về một trường hợp hành vi  gặp phải trong quá trình phục hồi (ví dụ như việc sử dụng trở lại, từ bỏ không sinh hoạt nhóm, sử dụng cách thức “tự kiểm soát” để chống lại hoặc tránh các cơn thèm muốn rượu,...) sau khi nhận được phản hồi lặp lại nhiều lần. Biện pháp can thiệp cần sử dụng: chỉ ra sự vô ích của các cách đối phó như vậy trong bối cảnh thực tiễn của việc nghiện và chia sẻ kinh nghiệm đã từng xảy ra của những người khác. Nếu người vẫn tiếp tục theo cách đó một thời gian lâu, hãy đề nghị anh ta/chị ta lắng nghe những người còn lại trong nhóm chia sẻ vì mọi vấn đề gặp phải đều cần được các cá nhân thảo luận với người tư vấn. Hành vi: Đe dạo, có thái độ xấc xược hoặc sỉ nhục hoặc các dấu hiệu điều hành mang tính cá nhân, cư xử theo cách thức rõ ràng cho thấy là đang bị phê thuốc. Biện pháp can thiệp: để lại nhóm cho người đó, và người đồng chủ trì sẽ phụ trách nhóm. Sau đó có một buổi trao đổi ngắn gọn mang tính cá nhân, hoặc sử dụng một biện pháp can thiệp trị liệu khác. Nên để mắt quan sát người bệnh đó trước khi để anh ta/chị ta ở lại. Nếu cần thiết, có thể phải bố trí chuyển tuyến. Hành vi: Nhìn chung thiếu sự cam kết đối với việc sẽ thực hiện chương trình điều trị, điều này có thể được thể hiện qua các biểu hiện như việc tham gia kém, chống đối lại các can thiệp điều trị, có những cách cư xử mang tính phá phách, hoặc có thường xuyên hay tái nghiện lặp lại nhiều lần. Biện pháp can thiệp cần sử dụng: đánh giá lại và điều chỉnh kế hoạch điều trị trong nội dung can thiệp nhóm hoặc can thiệp bổ sung. Miễn là người bệnh không bị phê thuốc trở lại hoặc không thích hợp, còn lại đều có thể cho phép họ tham gia nhóm nhưng cũng cần phải đề nghị họ lắng nghe và tham gia thảo luận. Người chủ trì nhóm nên trao đổi về hình thức này với người bệnh trước khi sinh hoạt nhóm. Cũng nên nói với người bệnh rằng anh ta/chị ta sẽ được tạo cơ hội để thảo luận về một số vấn đề khi buổi sinh hoạt kết thúc. Kết thúc buổi sinh hoạt: Người chủ trì cần thâu tóm lại những kết luận và tóm tắt nội dung thảo luận. Những vấn đề không hoặc chưa giải quyết được có thể được thừa nhận và thảo luận về những vấn đề cần thực hiện trong buổi gặp lần sau. Người bệnh những người đã chia sẻ và nêu lên những vấn đề quan trọng liên quan đến việc hồi phục của họ được định hướng sẽ tiếp tục thảo luận về các vấn đề này trong buổi sinh hoạt nhóm tiếp theo của họ. Yêu cầu những người có dấu hiệu lo lắng, giận dữ, phiền muộn hoặc những người đề cập đến cơn thèm muốn trong suốt buổi sinh hoạt cần phải tiếp tục ở lại sau buổi sinh hoạt. Hãy nói chuyện một cách ngắn gọn với họ về những vấn đề của cá nhân và lập kế hoạch cho họ có buổi can thiệp tư vấn cá nhân càng sớm càng tốt. Lưu ý nên kết thúc buổi sinh hoạt bằng một lưu ý mang tính tích cực. Tất cả các buổi sinh hoạt nên kết thúc bằng một lời hứa có sự tin tưởng và một cam kết sẽ tham gia nhóm vào tuần sau. Mục đích: 1. Cho phép người bệnh liên hệ qua lại với các người khác trong qúa trình hồi phục. 2. Cung cấp các tài liệu cụ thể liên quan đến dự phòng tái nghiện. 3. Cho phép người đồng chủ trì chia sẻ với nhóm kinh nghiệm duy trì không sử dụng lại trong một thời gian lâu dài. 4. Tạo ra một số sự gắn kết giữa các bệnh nhân. 5.Cho phép người chủ trì nhóm tận mắt chứng kiện sự liên hệ qua lại giữa các bệnh nhân. 6. Cho phép bệnh nhân tận dụng việc tham gia vào các trải nghiệm của nhóm một cách lâu dài.  
 
   

Chỉ dẫn cho người trị liệu

 
1. Rượu - Loại lại ma tuý hợp pháp Vì rượu là một phần lớn trong đời sống hàng ngày của con người, nên người ta thường không nghĩ nó là một loại ma tuý. Bài tập này được thiết kế nhằm giúp người bệnh nhìn nhận ra các tình huống mà họ sẽ có thể phải đối mặt ở những nơi mà việc uống rượu dường như giống nha một điều gì đó cần phải làm. Lập các kế hoạch trước để đối phó với các tình huống như vậy có thể giúp người bệnh đối phó dễ dàng hơn với việc phải duy trì tình trạng kiêng khem không sử dụng. 2. Sự buồn chán: Trong quá trình điều trị, điều cần thiết là phải luôn luôn lấp đầy cuộc sống bằng những hoạt động mới. Nhu cầu này không dừng lại sau một vài tháng kiêng khem không sử dụng mà còn kéo dài. Các sở thích, cách thức phản ứng tình huống hoặc các mối quan tâm mới sẽ góp phần làm cho cuộc sống trở nên thú vị. Sự buồn chán là một dấu hiệu cho thấy tình trạng trì trệ đang được thiết lập. Đây là một dấu hiệu cảnh báo về tình trạng tái nghiện và sẽ dẫn đến việc quay trở lại sử dụng ma tuý trừ khi thực hiện một số biện pháp nào đó. Sự buồn chán sẽ không dễ dàng qua đi, do vậy cần phải làm một số điều gì đó để đối phó với tình trạng này .3. Tránh xu hướng tái nghiện trở lại/các đường mỏ neo: Bài tập về các đường mỏ neo sẽ giúp ích cho người nghiện xác định rõ những gì họ đang làm là thực sự có ích và giám sát được các hành vi trong tương lai nhằm đảm bảo việc tiếp tục không sử dụng. 4. Việc làm và sự phục hồi: Có một số vấn đề xung quanh việc làm và vì sao tình trạng về việc làm của người nghiện lại ảnh hưởng đến quá trình phục hồi. Tài liệu phát tay này sẽ giải quyết một số trong số các vấn đề như vậy ví dụ liệu người nghiện đó có đang thất nghiệp (?), có là người tham công tiêc việc hay đang có việc làm, tất cả những điều này đều có tác động dẫn đến việc khó khăn cho người đó phục hồi. 5. Mặc cảm tội lỗi và sự xấu hổ: Mục đích của nhóm này là nhằm giúp người nghiện nhận thức được sự khác nhau giữa việc tham gia vào một hành vi xấu với việc trở thành một người xấu. Điều quan trọng là phải gán cho một số cảm xúc tiêu cực, những cảm xúc mà người nghiện sẽ cảm nhận được trong quá trình phục hồi như là việc có liên quan đến các hành vi chứ không phải là bản chất của con người đó. Cần khuyến khích người bệnh cởi mở chia sẻ những vấn đề này, nhưng nếu nhóm vẫn chưa tìm ra được một nơi an toàn cho một người bệnh cụ thể nào đó, thì hãy đừng bắt ép họ chia sẻ, tiết lộ các thông tin mà họ cảm thấy xấu hổ. 6. Duy trì trạng thái luôn bận rộn: Cấu trúc không thể tồn tại trong một kế hoạch mà không có các hoạt động. Các thành viên trong nhóm có thể hỗ trợ cho nhau trong việc đưa ra các gợi ý về các hoạt động mang tính tích cực mà người bệnh có thể thực hiện để làm đầy thời gian nhàn rỗi của mình. Tài liệu phát tay này sẽ giúp giải thích cho người bệnh hiểu vì sao các khoảng thời gian nhàn rỗi có thể là một tác nhân có thể dễ dẫn đến người ta nghĩ đến việc sử dụng trở lại. 7. Động lực để phục hồi: Trong qúa trình người bệnh trải qua giai đoạn phục hồi, các lý do khiến họ duy trì tình trạng không sử dụng cũng sẽ thay đổi theo. Hãy cố gắng nêu bật được những sự thay đổi này. Hãy khuyến khích người bệnh tập trung vào các lợi ích mà họ có thể có được khi phục hồi. Mỗi người bệnh nên được tạo cơ hội để chia sẻ một lý do giúp họ duy trì được việc không còn sử dụng như hiện nay. Còn đối với những người không thể làm được điều đó, thì có thể thảo luận về vấn đề của họ là gì và cần được giúp đỡ như thế nào để cam kết không sử dụng nữa. 8. Sự thành thực: Sự thành thực là một trong những điều quan trọng nhất trong quá trình phục hồi. Bài tập này đưa ra ý tưởng rằng sự thành thực trong việc chống lại việc sử dụng là khác nhau giữa bản chất thực sự và hình thức thể hiện bề ngoài. Sự thành thực của người bệnh là điều thiết yếu để xây dựng nền tảng cho qúa trình phục hồi trong thực tế thay vì những ảo tưởng về tình trạng nghiện. Chủ đề này cần được nêu ra một cách nghiêm túc. Các câu hỏi ở phần cuối của tài liệu phát tay này cung cấp cho người bệnh một cơ hội để được thảo luận về các lĩnh vực mà trong đó sự thành thực vẫn còn là một vấn đề đối với cá nhân. Những ai đã dũng cảm thừa nhận rằng mình có sử dụng trở lại một cách thành thực cần phải được hoan nghênh vì sự thành thực của họ. 9. Kiêng sử dụng hoàn toàn: Mỗi bệnh nhân đều đã có cam kết ngay khi bắt đầu tham gia chương trình điều trị rằng sẽ không sử dụng bất kỳ một loại ma tuý dạng thay thế nào hoặc chất cồn (rượu, bia). Đôi khi giá trị của cam kết này không rõ ràng đối với bệnh nhân. Việc thảo luận về chủ đề này cần được đưa vào chương trình sau khi người bệnh đã đồng ý đồng thời cũng cần đánh giá cao việc các thành viên trong nhóm giám sát nhau việc thực hiện các cam kết của chính họ. 10. Tình dục và sự phục hồi: Mục đích của nhóm này là nhằm hỗ trợ người bệnh hiểu được sự khác nhu giữa quan hệ tình dục, như là việc mở rộng mối quan hệ thân mật, với các hành vi tình dục có tính kích thích. Đối với đa số, các hành vi tình dục có tính kích thích có liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng ma tuý, trong khi quan hệ tình dục thông thường lại không. Cần phải chuẩn bị tinh thần để đối phó với những câu chuyện khôi hài từ các thành viên trong nhóm khi đề cập đến vấn đề này. Và do vậy người chủ trì và người đồng chủ trì cần phải giữ thái độ nghiêm túc để duy rì một không khí phù hợp khi thảo luận về vấn đề quan trọng này. 11. Dự phòng tái nghiện: Tái nghiện không xảy ra một cách bất ngờ. Có những dấu hiệu cảnh báo về hành vi và suy nghĩ của người bệnh do vậy họ cần được chỉ bảo, hướng dẫn cách để kiểm soát tình huống. Ngoài ra, cũng thường có những cảm xúc xuất hiện trước khi người ta tái nghiện trở lại. Đây là một khái niệm rất nhạy cảm và khó phát hiện. Người nghiện cần được hướng dẫn về các dấu hiệu chỉ báo về tình trạng căng thẳng, hoặc hồi họpp ví như chứng mất ngủ, hồi hộp hoặc đau đầu, và để từ đó người nghiện biết nhìn nhận ra những điều đó chính là các dấu hiệu khiến họ có thể bị tái nghiện trở lại. Một khi các dấu hiệu chỉ báo về tái nghiện được xác đinh, cần nhanh chóng xúc tiến xây dựng một kế hoạch nhằm ứng phó với các nhu cầu thèm muốn của cá nhân. Việc học hỏi kinh nghiệm từ những lần tái nghiện trước để rút ra cách ứng phó cho các lần tiếp theo là vô cùng quan trọng. 12.  Sự tin tưởng: Các mối quan hệ của người bệnh đã bị phá hỏng trong suốt quá trình người đó nghiện. Cần phải có thời gian để mối quan hệ đó bắt đầu được cải thiện ngay cả khi việc sử dụng ma tuý chưa được người nghiện từ bỏ hoàn toàn. Bài tập này cho phép người bệnh thừa nhận một thực tế là gia đình và bạn bè của họ có những lý do để nghi ngờ họ, và cần phải thảo luận về việc chính những phản ứng của họ dẫn dến sự nghi ngờ đó. Điều cần thực hiện ở đây là con người không thể đơn giản quyết định tin tưởng một ai, mà lòng tin chỉ có thể có được trở lại như là kết quả của việc người đó tiếp tục kiêng không sử dụng ma tuý. 13. Lịch thiệp, không mạnh mẽ: Điểm mấu chốt của bài tập này là việc bạn không thể mạnh mẽ hơn việc nghiện. Muốn trở thành người từ bỏ được ma tuý vẫn là chưa đủ, cho dù ý nghĩ đó mạnh mẽ đến chừng nào. Điều cần thiết là phải duy trì một khoảng cách tối đa tránh xa ma tuý bằng việc tránh các nguy có và thiết lập được các hoạt động mang tính tích cực, không có liên quan đến ma tuý. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong qúa trình phục hồi. Giữ một khoảng cách không để việc tái nghiện xảy ra, bản thân điều này đã là việc phục hồi. Tuy nhiên, điều này cho phép hướng đến kết quả phục hồi toàn diện. 14. Xác định các vấn đề thuộc về tinh thần: Phần này tập trung vào việc giúp người bệnh hiểu được sự khác biệt giữa tôn giáo và tinh thần như được nêu trong chương trình 12 bước. Điều cực kỳ quan trọng đối với những ai nghĩ rằng các chương trình tự giúp đỡ là tôn giáo chứ không mở rộng khái niệm về các vấn đề tinh thần. Chủ đề này cần được thảo luận thoải mái và không nêu ra như một yếu tố thúc đẩy chương trình điều trị 12 bước. 15. Quan tâm đến việc kinh doanh/quản lý tiền: Nhiều nhiệm vụ bình thường trong cuộc sống thường ngày của người nghiện bị phớt lờ khi họ sống trong một cuộc sống chìm đắm trong nghiện ngập. Hãy khuyến khích các thành viên trong nhóm thảo luận về những nhiệm vụ cụ thể mà họ đã phớt lờ, bỏ qua và bổ thêm các nhiệm vụ khác tương tự cho họ. Cần đảm bảo chắc chắn là người bệnh không cảm thấy qúa tải và bị chìm đắm trong các nhiệm vụ sau khi họ tham gia thảo luận vấn đề này. Hãy trao đổi về thời gian và tiền bạc chính là hai nguồn chính mà mỗi chúng ta phải tiết kiệm vì chúng ta phải lựa chọn chúng cẩn trọng. Hãy chỉ ra cho ho thấy những sự lựa chọn này sẽ quyết định chất lượng cuộc sống một con người. Việc sử dụng các câu hỏi nhằm thảo luận với mỗi bệnh nhân về tình huống, điều kiện của cá nhân họ liên quan đến tiền. Phần này cung cấp cho người nghiện một cơ hội tuyệt vời để giảm bớt cảm giác xấu hổ và tội lỗi mà chính những cảm giác này vẫn tồn tại làm ảnh hưởng đến các hành vi liên quan đến tiền trong quá khứ của người nghiện. Nhấn mạnh vào sự khác biệt giữa hành vi của người nghiện đối với tiền và hành vi của người không nghiện đối với tiền. 16. Lý lẽ bào chữa cho việc tái nghiện I: Suy nghĩ cho rằng bản chất của một người dẫn đến việc người ta dùng ma tuý là nội dung xem xét trong phần này. Điều phải làm ở đây là cần phải nhấn mạnh rằng một người có thể ít bị ảnh hưởng bỏi các lý lẽ bào chữa cho việc tái nghiện nếu những lý lẽ này được xác định và đánh giá trước về thời gian. Hãy đề nghị người bệnh chỉ ra những lý lẽ cụ thể về tình trạng tái nghiện để từ đó họ có thể bị tái nghiện trong quá khứ. 17. Quan tâm, chăm sóc bản thân: Nội dung phần này tập trung là nhằm nâng cao nhận thức của người bệnh về các kinh nghiệm thực tế phổ biến về việc tự quan tâm, chăm sóc bản thân và đánh giá xem đến nay họ đã thực hiện được việc từ bỏ được các thói quen trước khi nghiện như thế nào. Nhấn mạnh việc chăm sóc bản thân về mặt sinh lý có thể cải thiện như thế nào sự tự tin và nhấn mạnh đến việc tự quan tâm, chăm sóc bản thân , từ đó gắn kết với vấn đề phục hồi. 18. Các cảm xúc nguy hiểm: Một số loại trạng thái tiêu cực là yếu tố dễ dàng thúc đẩy người nghiện sử dụng ma tuý trở lại. Tài liệu phát tay này sẽ giải thích về một số trạng thái cảm xúc thường gặp. Việc thảo luận có thể hỗ trợ các thành viên nhóm trong việc xác định những yếu tố cảm xúc nào có thể, hoặc dễ dàng thúc đẩy người ta sử dụng ma tuý trở lại. 19. Ốm đau: Bị ốm hoặc thiếu năng lực sẽ khiến con người yếu đi về mặt thể lực và làm gián đoạn động lực trong quá trình phục hồi. Tần suất tái nghiện tiếp theo các giai đoạn này khiến người bệnh phải ngạc nhiên. Họ thường xuyên cảm thấy là họ không phải chịu trách nhiệm về quá trình này, và do vậy, họ cũng thất bại trong việc chịu trách nhiệm về việc có thể thực hiện được quá trình phục hồi hay không. Được cảnh báo trước tức là đã được trang bị trước. 20. Nhận biết tình trạng căng thẳng (stress): Đây là một bài tập nhằm giúp người bệnh có thể nhận thức rõ hơn về bản thân mình và từ đó nhận biết được tốt hơn các dấu hiệu về tình trạng stress đối với những gì đang diễn ra. Thông tin này có thể được sử dụng trong các nhóm trong tương lai khi có bằng chứng về các chỉ báo được xác định liên quan đến tình trạng stress. Người bệnh có thể chỉ ra một cách rõ ràng các dấu hiệu về tình trạng stress nhưng vẫn chưa giỏi xác định các dấu hiệu của chính bản thân mình. Người chủ trì và các thành viên trong nhóm có thể có khả năng giúp mang đến những dấu hiệu để thu hút sự chú ý của người bệnh. 21. Lý lẽ bào chữa cho sự tái nghiện II: Chủ đề này là một sự tiếp tục của lý lẽ bào chữa cho sự tái nghiện I với một số dạng lý lẽ bổ sung thêm được mô tả. 22. Giảm stress: Một khi các dấu hiệu của tình trạng stress được nhận biết thì điều quan trọng là khả năng có thể biến hành vi thành việc giảm mức độ. Khi người bệnh trở nên quen thuộc với nhiều kỹ thuật khác nhau, họ cũng nên được khuyến khích áp dụng các kỹ thuật này vào trong cuộc sống hàng ngày của mình để nhằm ngăn ngừa việc tích tuỹ các trạng thái stress thái quá. 23. Quản lý sự tức giận: Sự tức giận nhiều lần được định nghĩa như là một yếu tố thúc đẩy các trạng thái cảm xúc tiêu cực không chống cự được. Mục đích của bài tập này là nhằm cung cấp cho người bệnh nhiều cách để đối phó với cơn tức giận, nhằm tránh cảm giác quá ức chế, và tránh việc dẫn đến tái nghiện. 24. Chấp nhận: Chấp nhận thực tế rằng bạn là một người nghiện, và vì vậy bạn cần duy trì một số ngưỡng giới hạn nhất định, là một điều khó khăn. Đây tương tự như bước đầu tiên của quá trình tư vấn AA. Sử dụng bản tài liệu phát tay này nhằm giúp cho người bệnh hiểu rằng “việc từ bỏ không sử dụng ma tuý” là bước đầu tiên trong quá trình lấy lại được sự kiểm soát về cuộc sống của chính họ. 25. Kết bạn với những người bạn mới: Những người bắt đầu bước vào giai đoạn phục hồi thường nỗ lực duy trì các mối quan hệ liên quan đến ma tuý trong khi họ lại muốn từ bỏ không dùng ma tuý. Tài liệu phát tay phần này có xu hướng được sử dụng nhằm giúp những bệnh nhân bắt đầu có những cách nhìn nhận chỉ trích những người mà lựa chọn việc dành thời gian vô bổ cho việc sử dụng ma tuý. Những người mới đi theo con đường từ bỏ ma tuý cần được giúp đỡ để hiểu về quá trình gặp gỡ và kết bạn với những người bạn mới và dần dần quyết định rằng liệu những người đó có thể xứng đáng là bạn bè của mình hay không. Giúp họ phân biệt được giữa những người bạn khác những người họ quen và nghĩ đến những nơi mới để gặp gỡ những người mới. 26. Chuẩn bị cho các mối quan hệ: Bài tập này có thể được giới thiệu khi có một số vấn đề cần chú ý tức thời hoặc đối với những người mới tham gia chương trình điều trị, có một số việc cần phải suy nghĩ và chú ý sau này. Với một số tài liệu phát tay, phần đầu tiên của bảng biểu này có thể được hoàn thành và thảo luận trước khi chuyển đến các câu hỏi cuối cùng. Người bệnh sẽ cần giúp đỡ trong việc quyết định xem những can thiệp nào là phù hợp. Chủ đề này được giới thiệu song hành với bước 8 trong chương trình 12 bước. 27. Cầu nguyện sự thanh thản: Khái niệm về việc có khả năng phân biệt sự khác nhau giữa những điều có thể bị kiểm soát với những điều không thể bị kiểm soát là một khái niệm cơ quan và quan trọng để tiếp tục phục hồi. Việc không hiểu được khái niệm này có thể dẫn đến sự thất vọng, giận dữ, căng thẳng và dễ dẫn đến tái nghiện trở lại. Không nên nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc sử dụng một bài thơ như một lời cầu nguyện. Hãy sử dụng những ví dụ trong việc giải quyết tình trạng giao thông, việc làm, xử trí các mối quan hệ với chính vấn đề giao thông, việc làm hay mối quan hệ đó để áp dụng với việc nghiện ma tuý. 28. Các hành vi có xu hướng ép buộc/Phòng chống tái nghiện đối với tình dục Không có một câu trả lời nào là chung cho tất cả mọi người về vấn đề này. Một số người cần từ bỏ mọi thứ ngay một lúc và điều đó có thể có kết quả đối với họ. Nhưng những người khác có thể cố gắng để làm như vậy nhưng vẫn tái nghiện vìhọ không thể đạt được một mục tiêu mà đối với họ là không thể làm được. Hãy cố gắng giúp đỡ người bệnh hiểu rằng không có một “con đường nào là đúng duy nhất” và cần phải nâng cao nhận thức của họ để họ hiểu được thực sự những gì là có hiệu quả đối với họ. Việc đặc biệt khinh thường đối với việc nghiện có thể dẫn đến những hành vi/vấn đề mang tính cưỡng ép. 29. Giải quyết các cảm giác/suy yếu thể lực: Nội dung tập trung chủ yếu của phần buổi tư vấn/can thiệp này là cần phải giúp người nghiện trở nên nhận thức hoặc chấp nhận được các cảm xúc của chính họ hoặc từ chối chúng. Một số bệnh nhân sẽ có đủ nhận thức để tiến tới việc xử lý các phản ứng. Các câu hỏi được đưa ra nối tiếp theo mức độ nhận thức. Hãy tập trung vào các mức độ nhận thức phù hợp của mỗi cá nhân. Có một vấn đề thường gặp đối với những người nghiện mới từ bỏ ma tuý. Đối với một số người, các triệu chứng chỉ đơn thuần là một chỉ báo cho thấy quá trình hồi phục đang tiến triển. Tất cả những gì họ đều cần phải hành động là duy trì tình trạng không sử dụng đó và các triệu chứng sẽ giảm bớt. Đối với những người khác, tình trạng rối loạn dẫn đến suy yếu về thể lực thực sự bộc lộ trong suốt các giai đoạn không sử dụng. Đối với những người này, việc đánh giá và điều trị hợp lý tình trạng rối loạn suy yếu thể lực là cần thiết. 30. Chương trình 12 bước: Mục đích của tài liệu phát tay này là nhằm thúc đẩy sự tác động trong các chương trình tự hỗ trợ. Đối với những người không đi theo tôn giáo, hãy nhấn mạnh đến các lợi ích đối với xã hội. Còn đối với những người hay ngại ngùng tham gia các hoạt động nhóm, hãy chú ý đến nhóm nhỏ, hoặc tính chất tham gia các buổi gặp gỡ được giữ kín tên cá nhân hoặc không có tính bắt buộc. Đối với những người đã tham gia các buổi gặp gỡ thì hãy sử dụng bảng biểu này để đánh giá về các loại hỗ trợ khác nhau mà họ đã nhận được trong qúa trình điều trị và thông qua các buổi gặp. Cả 2 loại hỗ trợ trên đều có giá trị nhưng mức độ tác động là khác nhau. 31. Nhìn về phía trước: Giải quyết những thời gian chết. Việc lập kế hoạch về những hòn đảo nghỉ ngơi và tái tạo trong tương lai nhằm duy trì qúa trình phục hồi tránh không tình trạng không có điểm dừng và rồi thất bại. Những ốc đảo này cung cấp một vài việc để làm để tiến tiếp và chúng cũng giúp thư giãn để tiến tới việc có thể vượt qua được khó khăn. Khuyến khích người bệnh xác định được những hòn đảo tiềm năng. Nhấn mạnh với họ rằng việc xây dựng hòn đảo cần được duy trì để trở thành một hoạt động liên tục trong suốt qúa trình phục hồi. 32. Một ngày trong qúa khứ: Hầu hết bệnh nhân bắt đầu một qúa trình phục hồi bằng một đống đổ nát trong qúa khứ, những điều có thể quy cho là, và là một phần tương đối lớn, đối với lịch sử về việc sử dụng ma tuý hoặc rượu/bia của họ. Việc dọn sạch đống đổ nát này thường dẫn tới cảm giác qúa thất vọng và làm tê liệt các nỗi sợ hãi về tương lai của bản thân có thể sẽ bị “đào thải”. Những cảm giác tiêu cực này dựa trên một mức độ căng thẳng khác, điều mà có thể dẫn đến việc họ tái nghiện trở lại. Chủ đề này sẽ giúp người bệnh tập trung vào hiện tại và hy vọng là có thể giúp cho các khách hàng tránh được các cảm giác bị quá tải. 33. Các chủ đề tự chọn: Sử dụng một chủ đề tự chọn phù hợp từ phần được nêu dưới đây: Các hoạt động mang tính tái tạo: Bệnh nhân chắc hẳn đã được nhắc nhở về tầm quan trọng của việc đưa thêm những hoạt động mới vào đời sống của mình đồng thời duy trì tránh không sử dụng. Phục hồi giúp làm cho cuộc sống trở nên vui tươi và hấp dẫn với những hoạt động mới có tính tái tạo. Hãy thận trọng với những bệnh nhân mà tất cả các hoạt động mới đều không khiến họ vui ngay được, mà tất cả các sở thích và hoạt động tái tạo trước kia dường như cũng không giống trước khi không có ma tuý. Không phụ thuộc vào việc các cảm giác đó như thế nào, điều cần thiết là phải tiếp tục thử với các hoạt động mới. Xem xét, đánh giá tình trạng của bệnh nhân: Việc xem xét, đánh giá này sẽ giải quyết nhiều vấn đề trong phòng ngừa tái nghiện: như việc vui chơi, luyện tập, các mối quan hệ, các cơn thèm nhớ,... Phạm vi rộng lớn của các vấn đề liên quan đến phục hồi được làm rõ qua việc xem xét, đánh giá này. Điều này cần được làm rõ với việc lưu ý rằng việc dự phòng tái nghiện thành công được đòi hỏi một sự đánh giá, nhìn nhận qua từng thời kỳ đối với những lĩnh vực này trong suốt quá trình phục hồi. Thảo luận về các lĩnh vực có khó khăn, nhận được các gợi ý để cải thiện tình hình khó khăn đó. Không nên đọc qua các mục của tất cả mọi người một cách tuần tự. Mà thay vào đó hãy chọn mục ở dưới cùng trang giấy rồi thảo luận vấn đề cụ thể đó. Các kỳ nghỉ và quá trìnhphục hồi: Các kỳ nghỉ, cụ thể như mùa Giáng sinh Năm mới, có thể là một thời điểm khó khăn. Hãy bổ sung thêm chủ đề này vào kế hoạch của cuối năm hoặc vào những dịp nghỉ khác, như là ngày 4/7. Nhận thấy được khó khăn của các giai đoạn này đối với những người mới phục hồi và giúp đỡ họ đưa ra những ý tưởng để giải quyết khó khăn trong những thời điểm như vậy.
 

NHÓM GI ÁO D ỤC GIA Đ ÌNH

 

 
 
Triết lý Nhóm này thường là nhóm đầu tiên với sự tham dự của người bệnh và gia đình của họ. Nhóm này cung cấp một môi trường không có tính răn đe mà trong đó các thông tin về việc nghiện có thể được trình bày. Đây là một cơ hội giúp cho người bệnh và gia đình của họ cảm thấy thoải mái và được hoan nghênh trong việc hỗ trợ người nghiện điều trị. Các tư liệu được nêu ra trong những phần thảo luận này cung cấp một phạm vi rộng lớn các thông tin về vấn đề nghiện, điều trị, phục hồi và làm thế nào để tác động được đến gia đình. Một số chủ đề được sử dụng cụ thể trọng mô hình Matrix này trong khi có một số chủ đề khác lại giải quyết nhiều vấn đề chung hơn. Nhóm giáo dục gia đình tương tự như một dạng nhóm nhiều gia đình, chỉ trừ một điểm khác biệt đó là các buổi sinh hoạt thường rất tập trung và dựa trên cơ sở thông tin. Điều quan trọng là các thành viên trong gia đình được mời tham gia với tư cách cá nhân bởi cán bộ trị liệu ban đầu để tham gia vào chuỗi các buổi thảo luận. Sự tương tác mang tính tiêu cực của các gia đình ngay khi bắt đầu điều trị thường dẫn đến việc người bệnh cho rằng mình sẽ phải thực hiện chương trình điều trị môt mình. Nghiên cứu mang tính hệ thống về gia đình đã cho thấy nếu cha mẹ có liên quan chặt chẽ đến các yêú tố quan trọng khác, các thành viên này là một phần trong qúa trình phục hồi khi họ có tham dự hoặc không tham dự tại phòng khám. Những thay đổi của việc thành công trong điều trị tăng lên rõ rệt nếu những thành viên quan trọng khác trong gia đình có thể được giáo dục về những thay đổi có thể dự đoán được trước sẽ diễn ra trong mối quan hệ với người bệnh trong suốt qúa trình phục hồi. Cán bộ trị liệu ban đầu cần giáo dục, khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ cho sự tham gia của những thành viên quan trọng khác cũng như cha mẹ người nghiện trong nhóm giáo dục gia đình. Hình thức Một seri các buổi sinh hoạt gia đình mang tính giáo dục bao gồm 12 tuần đưa ra các vấn đề, chủ đề mang tính thông tin dưới nhiều dạng khác nhau. 3 chủ đề được trình bày bằng slide và 6 chủ đề dạng băng video. 9 buổi sinh hoạt với 9 chủ đề này và thời lượng 1,5 giờ/chủ đề bắt đầu bằng một phần trình bày từ 40-45 phút cung cấp thông tin và tiếp sau đó là thảo luận về tài liệu vừa được trình bày. Một trong số 12 buổi sinh hoạt dưới dạng trình bày đối thoại. Hình thức trình bày đối thoại bao gồm giới thiệu chung về các nội dung sẽ trình bày, từng thành viên trình bày ý kiến cá nhân về một vấn đề/câu hỏi và trả lời liên quan tiếp theo dẫn chứng mộtcâu chuyện cụ thể và cuối cùng người chủ trì sẽ tóm lược lại các thông tin do thành viên đó chia sẻ. 3 trong số các chủ đề được đưa ra dưới dạng thảo luận nhóm có sử dụng các bảng tài liệu phát tay. Trong buổi sinh hoạt này người chủ trì nhóm, sử dụng các tài liệu phát tay trong vòng từ 10-15 phút, trình bày về chủ đề. Tiếp theo phần trình bày là thảo luận về chủ đề với việc người chủ trì nhóm đóng vai trò như một người hướng dẫn/hỗ trợ nhóm thảo luận. Tài liệu bao gồm nội dung của 3 phần trình bày slide, đề cương và tài liệu phát tay để thảo luận nhóm, hướng dẫn cho người trình bày về dạng trình bày đối thoại, tóm tắt băng video, tài liệu phát tay cho học viên đi kèm với phần trình bày bằng video, và một danh sách các địa chỉ/địa điểm có thể có được các băng video theo gợi ý. Chủ đề cần được đưa ra có trật tự, có sự chuẩn bị sắp xếp nhằm đảm bảo phù hợp với tất cả người bệnh và gia đình họ. Hướng dẫn bao gồm một trật tự cá chuỗi chủ đề đã được gợi ý, đảm bảo một chương trình mang tính toàn diện. Các chủ đề tập trung vào ma tuý, rượu bia hoặc các vấn đề của gia đình được bố trí sao cho có thể được trình bày sắp xếp trong vòng phù hợp với giai đoạn 4 tuần. Người chủ trì nhóm có trách nhiệm tổ chức ghế ngồi, các thiết bị nói, video, slide và tài liệu phát tay. Nếu có điều kiện, các ghế ngồi nên được bố trí dưới dạng bán vòng tròn (hình chữ C) để khuyến khích, thúc đẩy các thành viên tham gia thảo luận. Người chủ trì nhóm cũng nên đóng vai như người chủ nhóm, chào mừng các bậc cha mẹ và các gia đình, và giới thiệu về bản thân anh ta/chị ta với các thành viên mới. Các bảng biểu để đăng ký được truyền cho nhau và người chủ trì nhóm cần đảm bảo được rằng cả cha mẹ và các thành viên trong gia đình đều được khen ngợi vì đã tham gia vào hoạt động này. Các phần trình bày cần bắt đầu đúng giờ. Người chủ trì nhóm giới thiệu về mình, đề nghị những người sẽ trình bày giới thiệu về bản thân họ và trình bày chủ đề của buổi sinh hoạt tối ngày hôm đó. Đối với những bài trình bày bằng slide, cần lưu ý để đèn phòng tối đi một chút và bắt đầu trình bày. Khi chiếu băng video, người chủ trì nên giới thiệu chung và sau đó ở lại trong phòng cùng mọi người xem khi băng chạy. Nếu là trường hợp trình bày đối thoại, người chủ trì cần hỗ trợ cho các thành viên đối thoại và những khán giả khác trong nhóm giới thiệu để họ làm quyen với nhau. Người chủ trì đóng vai trò như một người trung gian của nhóm. Các nhóm thảo luận cũng được tiến hành với sự chủ trì của người chủ trì nhóm - người có trách nhiệm hỗ trợ giới thiệu và hướng dẫn quá trình thảo luận. Trước khi cho chạy băng video, người chủ trì phân phát các tài liệu phát tay đã được thiết kế nhằm tập trung sự chú ý của khán giả và khuyến khích, thúc đẩy họ thảo luận sau khi xem xong. Trong khi trình bày bằng slide và băng video, người chủ trì có thể dừng lại và đưa ra một số lời nhận xét, giải thích cụ thể về phần tư liệu đang được trình chiếu. Người bệnh và các thành viên trong gia đình cần được khuyến khích nêu câu hỏi. Các thảo luận tại cuối phần trình bày sẽ trên cơ sở xuất phát từ các vấn đề nêu trong các tài liệu phát tay và phần giải thích, bình luận của người hướng dẫn. Người chủ trì nên nhận biết rằng các thảo luận về việc sử dụng ma tuý và rượu/bia có thể như một yếu tố kích thích tác động đến người bệnh và có thể kích thích các cơn thèm nhớk, đặc biệt là đối với những người nghiện các chất kích thích. Bất kỳ ai có tác động này xảy ra đều nên ở lại sau buổi sinh hoạt nhóm và trao đổi với cán bộ trị liệu về vấn đề của mình cho đến khi họ cảm thấy mình có thể tập trung lại được. Họ cũng có thể sẽ muốn gọi điện về nhà và để cho các thành viên trong gia đình biết họ đã bắt đầu trên đường trở về nhà. Người chủ trì cần thắt chặt mối quan hệ với nhóm bằng việc cảm ơn mọi người đã tham dự và nhắc mọi người về chủ đề của tuần tiếp theo. Khi các thành viên rời nhóm và văn phòng, người chủ trì nên ở lại để sẵn sàng trả lời các câu hỏi và trò chuyện với bất cứ bệnh nhân nào có thể có xảy ra một vấn đề gì đó trong buổi thảo luận hoặc là người mong muốn trò chuyện riêng với người chủ trì. Mục đích: 1. Nhằm trình bày các thông tin một cách chính xác về vấn đề nghiện, phục hồi, điều trị từ đó dẫn đến khuyến khích sự tham gia thông qua việc trình bày các tài liệu cập nhật nhất hiện có. 2. Nhằm giảng dạy, thúc đẩy và khuyến khích từng cá nhân cha mẹ, thành viên trong gia đình trong các mối quan hệ liên quan đến nghiện ma tuý. 3. Nhằm cung cấp một không khí có tính chuyên môn cao nơi cha mẹ và gia đình người bệnh được đối xử trong phẩm giá và tôn trọng. 4. Nhằm cho phép người bệnh và gia đình có cơ hội thoải mái trong việc hỗ trợ người nghiện điều trị, phục hồi. 5. Nhằm cung cấp cho cha mẹ và các thành viên trong nhóm một hình thức sinh hoạt nhóm không mang tính răn đe và trải nghiệm với những người khác đang trong giai đoạn phục hồi và gia đình họ. 6. Nhằm cung cấp một hợp phần chương trình được thiết kế cho người bệnh và gia đình họ để trong đó họ có thể cùng tham gia với nhau. 7. Nhằm giúp đỡ người bệnh hiểu về quá trình phục hồi có thể tác động đến các mối quan hệ hiện tại và tương lai như thế nào.  

 

NHÓM HỖ TRỢ XÃ HỘI

 

 
Triết lý: Các nhóm trong các giai đoạn tập trung của chương trình điều trị Matrix này tập trung vào việc hỗ trợ người bệnh trong suốt giai đoạn đầu của quá trình phục hồi. Nhóm giáo dục gia đình quan trọng như một phương tiện để chuyển tải thông tin giáo dục và để huy động sự tham gia của các yếu tố quan trọng khác trong quá trình điều trị. Nhóm kỹ năng phục hồi ban đầu và Giới thiệu các kinh nghiệm về phục hồi dạy về các kỹ năng phục hồi cơ bản, hướng dẫn và hỗ trợ sự tham gia 12 bước và khuyến khích người bệnh xây dựng quản lý được thời gian của bản thân thông qua việc lập lịch trình cá nhân. Nhóm dự phòng tái nghiện tập trung vào việc giữ và duy trì tình trạng không sử dụng để vượt qua quãng thời gian ban đầu không sử dụng nhằm chuyển đến giai đoạn giữa của quá trình không sử dụng. Trong suốt giai đoạn giữa của qúa trình phục hồi, có một nhu cầu đối với người bệnh là cần có cơ hội để học tập các kỹ năng tái hoà nhập xã hội. Người phục hồi từ nghiện ma tuý, người đã học được cách làm thế nào để dừng việc sử dụng và làm thế nào để tránh bị tái nghiện sẽ sẵn sàng phát triển và duy trì một cách sống không ma tuý và điêù này sẽ hỗ trợ quá trình phục hồi mới. Nhóm hỗ trợ xã hội được tổ chức như một cách để hỗ trợ người bệnh là những người đang ở giai đoạn giữa của quá trình phục hồi học tập được cách để tái hoà nhập xã hội với những người đã đoạn tuyệt với ma tuý ở mức độ cao hơn trong một môi trường thân thiện và an toàn. Người bệnh sau đó sẽ có cơ hội làm quen với các kỹ năng, nếu không phải là từ bạn bè, để hoà nhập hơn nữa vào quá trình sinh hoạt giống như cuộc sống ở ngoài trung tâm cai nghiện. Nhóm này đặc biệt có ích với những người mà bản thân họ đóng vai trò như những điển hình, khuyến khích và tăng cường quá trình phục hồi của họ và buộc họ phải nhận thức và biết cách duy trì tình trạng không sử dụng ma tuý của mình. Hình thức Những người đủ điều kiện tham gia Nhóm hỗ trợ xã hội là những người đạt được sự phục hồi ổn định và đã hoàn thành giai đoạn tập trung trong Chương trình điều trị Matrix. Nhóm này luôn sẵn sàng tiếp nhận những bệnh nhân của chương trình Matrix IOP trong các tháng từ 4-12 và cho các bệnh nhân IRP trong các tuần từ 7-52. Các bệnh nhân cũng được yêu cầu phải là những người đóng vai trò như người đồng chủ trì trong các nhóm phục hồi theo mô hình Matrix. Những người ngoài cũng có thể được mời tham gia với sự suy xét kỹ càng của người chủ trì nhóm. Các nhóm được định hướng về chủ đề sinh hoạt bởi một chủ đề một thế giới. Người chủ trì nhóm mở đầu buổi sinh hoạt bằng việc chào mừng các bệnh nhân, đề nghị họ giới thiệu về bản thân khi cần thiết, thông báo một số thông báo cần thiết và giới thiệu chủ đề của buổi sinh hoạt tối hôm đó. Sau khi giới thiệu chủ đề, người chủ trì nhóm sẽ hướng dẫn, hỗ trợ thảo luận. Nội dung thảo luận có thể bao gồm chủ đề của buổi sinh hoạt, vấn đề kiêng không sử dụng, các vấn đề hiện tại mà bệnh nhân có thể đang phải trải qua trong quá trình xây dựng, thiết lập một cách sống không có ma tuý. Các nhóm thảo luận nên hạn chế số lượng khoảng từ 8-10 người để mỗi bệnh nhân đều có thời gian tham gia. Nếu nhóm lớn hơn, người trưởng nhóm có thể chọn một số thành viên đã từng là người đồng chủ trì nhóm và quan sát sự hỗ trợ của họ cho nhóm thảo luận dưới sự giám sát của người chủ trì. Những người hỗ trợ nhóm thảo luận cần được sàng lọc cẩn thận để đảm bảo một số tiêu chí như có mức độ ổn định về cảm xúc, có ưu điểm trong phục hồi, và tư duy tốt. Họ nên làm một cam kết tham gia đều đặn 6 tháng và cần gặp gỡ, trao đổi với người chủ trì nhóm trước buổi sinh hoạt nhóm để người chủ trì tóm tắt về chủ đề và một số vấn đề liên quan trước mắt đến các thành viên nhóm. Một tài liệu phát tay dành cho những người hướng dẫn nhóm được xây dựng kèm theo trong phần này. Các đề cương về thông tin cần được rà soát, xem xét bởi người chủ trì và người hướng dẫn trước phiên làm việc của người đó trong nhóm. Cuộc gặp gỡ trao đổi nhóm sẽ bố trí trong khoảng 1,5 giờ, nếu được chia thành các thảo luận nhỏ hơn, thì sau đó sẽ tập hợp lại trong nhóm lớn để tóm lược và sau đó giải tán bởi người chủ trì. Nếu có các vấn đề liên quan đến y tế cần có sự chú ý của người chủ trì trước khi cho nhóm giải tán, người hướng dẫn cần lưu ý cho người chủ trì biết để xử lý. Mục đích: 1. Cung cấp một mô hình để tổ chức nhóm mang tính an toàn, thân thiện, ít cồng kềnh về cơ cấu, là nơi các bệnh nhân có thể bắt đầu luyện tập các kỹ năng tái hoà nhập xã hội của mình. 2. Hướng dẫn, hỗ trợ để tiếp cận những học viên hoàn thành chương trình - những người có thể đóng vai trò như những điển hình cho các bệnh nhân trong giai đoạn giữa của quá trình phục hồi. 3. Khuyến khích người bệnh tiếp tục mở rộng hệ thống hỗ trợ bản thân từ các bạn bè người đang hồi phục và không sử dụng. 4. Cung cấp một nhóm hỗ trợ cho bệnh nhân chuyển từ giai đoạn đầu của chương trình sang giai đoạn thứ hai của chương trình. 5. Cung cấp cho bệnh nhân cơ hội để sắp xếp đi ra ngoài các buổi gặp cùng với những học viên khác đã hoàn thành các chương trình điều trị theo mô hình Matrix.      
 

Chỉ dẫn cho người trị liệu

 
Các chủ đề 1 từ sau đây là phù hợp để sử dụng trong các buổi sinh hoạt Nhóm hỗ trợ xã hội. Dưới mỗi từ là một số câu hỏi có thể được sử dụng để giới thiệu về chủ đề để thảo luận. Bạn có thể thêm các từ và tập trung các câu hỏi của mình. Tránh các câu hỏi “Tại sao” - nhằm tìm kiếm các động cơ bên trong có xu hướng làm cho các thành viên phản kháng lại. Các chủ đề có thể được sử dụng theo bất kỳ trật tự nào. AA 1. Bạn cảm thấy như thế nào về các chương trình 12 bước? 2. Bạn đã tham gia khi nào và ở đâu? 3. Bạn có suy nghĩ như thế nào về việc chương trình nên hoặc không nên đối với bạn? AGING (Vấn đề tuổi tác) 1. Vấn đề tuổi tác liệu có ảnh hưởng gì đến việc bạn từ bỏ không sử dụng? 2. Bạn nhìn nhận về vấn đề tuổi tác như thế nào? 3. Bạn mong đợi điều gì sẽ xảy ra khi bạn có tuổi? ANGER (Sự giận dữ) 1. Bạn cảm thấy như thế nào về cách kiềm chế sự giận dữ của mình? 2. Bạn có cảm thấy như thế nào mỗi sự tức giận nhằm vào bạn? 3. Liệu sự giận dữ có phải là một trong những yếu tố dễ gây kích thích bạn sử dụng lại không? CODEPENDENCY (cùng phụ thuộc) 1. Từ đó có ý nghĩa gì đối với bạn? 2. Liệu điều đó có diễn tả được hành vi của bạn không? 3. Bạn đang thay đổi những hành vi đó như thế nào? COMMITMENT (Cam kết) 1. Điều đó có nghĩa gì đối với bạn? 2. Khi nào bạn nhìn thấy hoặc rơi vào tình thế như thế? 3. Bạn có cần thêm điều đó trong cuộc sống của bạn hiện nay không? COMPULSIONS (Sự ép buộc) 1. Bạn đã bao giờ học về những gì bạn có thể và không thể kiểm soát chưa? 2. Bạn có thể buông tha các vấn đề mà bạn không thể kiểm soát không? 3. Bạn thay đổi những gì bạn có thể chứ? CRAVINGS (Cơn thèm nhớ) 1. Bạn vẫn còn cảm thấy thèm nhớ phải không? 2. Khi nào bạn nhận ra các cơn thèm nhớ? 3. Bạn thèm nhớ cái gì? DEPRESSION (Suy yếu về thể lực) 1. Liệu sự suy yếu về thể lực có phải là một yếu tố kích thích bạn sử dụng trở lại không? 2. Bạn giải quyết sự suy yếu bằng cách nào? 3. Điều trì góp phần làm cho bạn bị suy yếu? EMOTIONS (cảm xúc) 1. Liệu đàn ông và phụ nữ có khác nhau về cảm xúc không? 2. Bạn có thể trở nên nhận biết tốt hơn về các cảm xúc của mình không? 3. Các cảm xúc của bạn có kiểm soát bạn từng thời điểm không? FEAR (Nỗi sợ hãi) 1. Bạn sợ nhất điều gì? 2. Bạn đã được dạy phải sợ những gì? 3. Có những nỗi sợ kìm giữ bạn không? FRIENDSHIP (Tình bạn) 1. Từ này có nghĩa gì đối với bạn? 2. Khi nào và bằng cách nào bạn đề nghị điều đó? 3. Bạn có cảm thấy thoải mái không khi đón nhận tình bạn? FUN (niềm vui) 1. Bạn đã làm gì để mình vui? 2. Nghĩa của từ này có thay đổi không? 3. Bạn cảm thấy vui với ai? GRIEF (Nỗi đau buồn) 1. Bạn đã bao giờ trải qua nỗi đau buồn? 2. Bạn làm thế nào để đối phó với cảm giác đó? 3. Bạn làm gì để tránh sự đau buồn? GUILTY (Mắc lỗi) 1.Bạn cảm thấy có lỗi lần gần đây nhất là khi nào? 2. Việc mắc lỗi khác như thế nào so với xấu hổ? 3. Bạn có thể làm thế nào để giảm việc mắc lỗi của mình? HAPPINESS (Hạnh phúc) 1. Hạnh phúc là gì? 2. Bạn có thể có được trạng thái đó không? 3. Bạn trải qua điều đó khi nào? HONESTY (Tính chân thật) 1. Từ này đối với bạn quen thuộc như thế nào? 2. Liệu sự chân thật có tính tương đối không? 3. Phẩm chất này có quan hệ như thế nào với tự trọng? INTIMACY (Sự thân mật, gần gũi) 1. Điều đó có ý nghĩa gì? 2. Bạn có sợ từ đó/cảm giác đó không? 3. Bạn đã bao giờ trải qua cảm giác đó chưa? ISOLATION (Sự cô lập) 1. Đã bao giờ bạn trải qua tình trạng cô lập chưa ? 2. Cảm giác này liên quan đến việc bạn sử dụng ma tuý như thế nào ? 3. Làm thế nào để bạn tránh được cô lập ? JUSTIFICATIONS (Sự bào chữa, biện hộ) 1. Bạn dễ bị tác động bởi lý lẽ nào nhất dẫn đến bị tái nghiện trở lại ? 2. Làm thế nào để bạn có thể giải quyết những lý lẽ biện hộ có thể xảy ra ? 3. Bạn có đang biện hộ cho những hành vi của người nghiện hiện nay không ? MASKS (Sự nguỵ trang) 1. Bạn có thể hiện bản thân mình như mình đang cảm nhận không ? 2. Bạn có xử sự khác với những gì là con người thực của bạn không ? 3. Bạn thường nguỵ trang bản thân thường xuyên nhất là tại những nơi nào ? OVERWHELMED (Cảm giác bị lấn át) 1. Những điều gì góp phần khiến bạn có cảm giác như vậy ? 2. Bằng cách nào bạn có thể đối phó với cảm giác đó ? 3. Lần cuối cùng bạn cảm thấy như thế nào là khi nào ? PATIENCE (Sự kiên nhẫn) 1. Bạn có hài lòng với sự kiễn nhẫn thường ngày của mình không ? 2. Bạn có thể quá kiên nhẫn không ? 3. Bạn kiên nhẫn hơn với bản thân hay với người khác ? PHYSICAL (thể lực) 1. Bạn cảm thấy như thế nào về thể lực của bản thân? 2. Bạn đang thay đổi về mặt thể lực như thế nào? 3. Bạn có nhìn nhận bản thân mình như người khác nhìn nhận bạn không? RECOVERY (Phục hồi) 1. Bạn cảm thấy như thế nào về bản thân mình? 2. Bạn đang tập trung vào điều gì trong quá trình phục hồi? 3. Bạn có một mô hình phục hồi riêng không? REJECTION (Bác bỏ) 1. Bạn có e sợ gì về điều này không? 2. Nếu điều đó xảy ra với bạn thì đó là việc gì? 3. Khi nào điều đó xảy ra với bạn? RELAXED (thư giãn) 1. Bạn đã đạt được trạng thái này bằng cách nào? 2. Bạn có thích cảm giác này không? 3. Bạn đã nhìn thấy người những người lớn thư giãn như thế nào khi bạn lớn lên? RULES (các quy tắc) 1. Bạn đáp lại các quy tắc bằng cách nào? 2. Bạn có xây dựng những quy tắc cho bản thân mình không? 3. Những quy tắc nào có hiệu quả đối với bạn? SCHEDULING (Lập kế hoạch) 1. Bạn đã bao giờ học công cụ này chưa? 2. Khi nào bạn sử dụng công cụ này? 3. Điều gì khiến cho việc lập kế hoạch trở nên khó khăn? SEFISH (Sự ích kỷ) 1. Có phải sự ích kỷ luôn là một vấn đề tiêu cực? 2. Bạn ích kỷ theo những cách như thế nào? 3. Bạn muốn thay đổi như thế nào liên quan đến khái niệm này? SEX (Quan hệ tình dục) 1. Đây là một khái niệm tích cực và tiêu cực? 2. Những suy nghĩ gì khiến từ này trở thành một yếu tố gây kích thích tái nghiện? 3. Hãy đưa ra một điều gì mà bạn chưa bao giờ nghĩ là bạn sẽ trao đổi với nhóm. SMART (Sự khéo léo, tài tình) 1. Bạn có thể khéo léo hơn khi bạn nghiện không? 2. Bạn đã từng cố gắng để trở nên mạnh mẽ hơn chưa? 3. Những điều gì là bạn đang đấu tranh mà bạn có thể tránh được? THOUGHTS (Suy nghĩ) 1. Gần đây bạn có phải sử dụng đến kỹ năng dừng không suy nghĩ không? 2. Bạn có thường xuyên sử dụng kỹ năng này không? 3. Bạn nhìn thấy những điều gì trong suốt quá trình phục hồi này? TRIGGERS (Yếu tố kích thích gây bùng phát) 1. Những yếu tố kích thích gì vẫn còn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của bạn? 2. Bạn đang cố gắng thay đổi điều đó như thế nào? 3. Liệu có những yếu tố/tính huống kích thích nào mà bạn không thể tránh khỏi không? TRUST (Sự tin tưởng) 1. Sự tin tưởng là gì? 2. Đã bao giờ bạn tin tưởng ? 3. Người khác có tin tưởng bạn không ? WORK (Làm việc) 1. Làm việc như thế nào và bạn phục hồi được năng lực làm việc của mình như thế nào ? 2. Công việc có ý nghĩa gì trong gia đình bạn ? 3. Bạn cảm thấy như thế nào về mối quan hệ của bản thân với công việc ?
 

XÉT NGHIỆM NƯỚC TIỂU

  Triết lý Những người đang trong quá trình điều trị ngoại trú cần càng nhiều công cụ càng tốt để hỗ trợ họ phục hồi. Để lấy lại được khả năng kiểm soát được cuộc sống của bản thân, người bệnh cần tận dụng các cấu trúc/yếu tố xung quanh cách cư xử của bản thân họ. Xét nghiệm nước tiểu là một phần trong cấu trúc có thể giúp họ kiểm soát và phòng chống được việc sử dụng ma tuý của bản thân. Xét nghiệm nước tiểu là một công cụ có giá trị được tiến hành đối với các bệnh nhân như là một cách nào đó có ích, hỗ trợ họ trong quá trình phục hồi. Công cụ này không nên áp dụng hoặc thực hiện ngay từ đầu như một biện pháp nhằm giám sát người bệnh, mà cần coi đó như một phương tiện để tìm hiểu "thực sự điều gì đang diễn ra" đối với người bệnh, việc xét nghiệm này cần được đưa ra sử dụng như một cách để giúp người một người không sử dụng ma tuý. Cũng không nên thực hiện việc xét nghiệm này như một cách để cho thấy cóviệc không tin tưởng vào sự trung thực của một người nào đó. Xét nghiệm nước tiểu sẽ giúp cán bộ trị liệu và người bệnh giữ cho cách cư xử của người bệnh phù hợp với tiến độ phục hồi. Các kết quả xét nghiệm có thể ít khi cho thấy tình trạng sử dụng ma tuý mà trước đó chưa được khai báo. Các kết quả xét nghiệm có thể cung cấp một số dữ liệu về y tế có giá trị khác liên quan đến tình trạng nghiện của bệnh nhân ví dụ như đối với trường hợp đã xảy ra việc tái nghiện nhưng bệnh nhân lại không thể nói điều đó. Thực tế của tình trạng tái nghiện và việc che giấu sự thật làm cho việc xét nghiệm nước tiểu trở thành một thành tố thiết yếu trong bất kỳ một chương trình điều trị nghiện ma tuý ngoại trú nào. Cuối cùng, xét nghiệm nước tiểu là một cách chứng tỏ không có tình trạng nghiện hoặc cho thấy đang nghiện. Các cá nhân bị gia đình, bạn bè hoặc chủ cơ quan nghi ngờ là đang có vấn đề liên quan đến ma tuý và nhừng người đang bị đánh giá như vậy có thể tham gia vào một chương trình xét nghiệm nước tiểu để được sáng tỏ về kết quả liên quan đến ma tuý hoặc không. Xét nghiệm nước tiểu có thể được thực hiện với các cá nhân trong những trường hợp trên như là một cách hữu ích về việc có tài liệu giúp ích cho những bất đồng liên quan đến vấn đề này được sáng tỏ. Ngoài ra, một xét nghiệm có kết quả dương tính sẽ cung cấp một bằng chứng không thể bác bỏ được. Nên có một thoả thuận thống nhất giữa các bên liên quan trước khi bắt đầu chương trình xét nghiệm để có cơ sở giải quyết những gì sẽ xảy ra nếu kết quả xét nghiệm là dương tính hay âm tính. Hình thức  Tất cả bệnh nhân đều được yêu cầu cung cấp một mẫu xét nghiệm để phân tích các yếu tố liên quan đến ma tuý mỗi tuần một lần. Ngày xét nghiệm không được định trước nhưng nên là một ngày nào đó gần những thời điểm có nguy cơ tái nghiện cao (như dịp cuối tuần, ngày thăm gặp,…). Những xét nghiệm ngoài kế hoạch cũng có thể được yêu cầu nếu hành vi của người bệnh cho thấy điều đó. Bỏ lỡ không tham những buổi hẹn gặp mà không có lý do hoặc giải thích, những cách cư xử không bình thường trong các buổi sinh hoạt nhóm, hoặc gia đình báo cáo là có những hành vi khác thường có thể là cơ sở cho thấy việc cần phải có xét nghiệm ngoài kế hoạch. Cán cán bộ cũng nên nhạy cảm trước những biểu hiện lúng túng/bối rối của bệnh nhân và tránh bất kỳ một cuộc thảo luận không cần thiết nào tại nơi đông người hoặc đùa cợt về việc xét nghiệm. Chai đựng nước tiểu cần được dán nhãn và đưa cho bệnh nhân để lấy mẫu xét nghiệm. Cần phải cẩn thận trong việc xử lý các mẫu xét nghiệm và nên đi găng tay cao su trong lúc đóng gói mẫu. Cán bộ cần đề nghị những người giám sát hướng dẫn đối với các trường hợp bệnh nhân viêm gan hoặc là người nhiễm HIV. Mẫu xét nghiệm được sàng lọc để phục vụ riêng mục đích kiểm tra chất ma tuý. Các sàng lọc khác có thể được yêu cầu thực hiện chỉ khi có những lý do cụ thể (ví dụ giám sát giảm đau, tiền sử sử dụng ma tuý, gia đình hoặc chủ lao động báo cáo có sử dụng loại ma tuý khác). Cũng nên ít đề nghị sàng lọc xét nghiệm chất cồn. Cán bộ có thể dựa vào mùi hoặc hơi thở để phát hiện có sử dụng cồn hay không. Việc sàng lọc chất cồn sẽ không cho thấy điều gì liên quan đến tình trạng sử dụng cồn của bệnh nhân ngoại trừ khẳng định mức độ cồn hiện tại trong máu. Ví dụ, nếu bạn có thể phát hiện ra mùi cồn, xét nghiệm nước tiểu cũng sẽ cho kết quả dương tính. Tuy nhiên, xét nghiệm sẽ không có kết quả dương tính nếu người bệnh đã sử dụng cồn trước đó 24 giờ và từ đó đến lúc xét nghiệm họ không dùng tiếp. Sàng lọc tổng thể cần được thực hiện trong những trường hợp có một số lý do để nghi ngờ một người đã sử dụng loại ma tuý mà trước đó chưa khai báo. Cần phải chờ ít nhất 4 tuần trước khi một sàng lọc THC đối với một người sử dụng cần sa lâu năm có thể có ý nghĩa. Trong một số trường hợp, có thể sẽ là cần thiết phải chờ đến 8 tuần trước khi tiến hành xét nghiệm THC. Đối với những người sử dụng ít, việc sàng lọc có thể được thực hiện ngay sau 10 ngày từ thời điểm họ bắt đầu kiêng không sử dụng. Nếu có lý do hợp lý để thu thập được thông tin về mức độ cần sa cụ thể hơn, thì có thể bố trí thực hiện các xét nghiệm đặc biệt về chất lượng. Xử lý khi kết quả xét nghiệm nước tiểu là dương tính Trong điều trị, một xét nghiệm nước tiểu cho kết quả dương tính không mong đợi là một sự kiện hết sức đáng quan tâm. Điều đó có thể có nghĩa là người đó đã có 1 lần sử dụng ma tuý hoặc có thể điều đó chỉ ra rằng anh ta đang quay lại việc sử dụng nhiều lần. Để ứng phó với kết quả dương tính này : 1. Hãy đánh giá lại trong một thời gian gần thời điểm tiến hành xét nghiệm. Liệu còn có những chỉ báo khác cho thấy vấn đề sử dụng lại như là vắng không có mặt tại các buổi hẹn gặp, có những cư xử hoặc thảo luận không bình thường trong các buổi sinh hoạt nhóm hoặc các buổi điều trị hay gia đình báo cáo về những hoạt động khác thường ? 2. Không nên đối đầu với người bệnh. Mà thay vào đó, hãy cho anh ta cơ hội để giải thích về kết quả đó. Ví dụ, "tôi đã nhận được kết quả dương tính trong xét nghiệm nước tiểu của anh từ phòng thí nghiệm chuyển lên từ chủ nhật trước. Liệu có điều gì đã xảy ra trong kỳ nghỉ cuối tuần vừa rồi mà bạn đã quên chưa nói với tôi không ? 3. Không nên bàn luận về tính chính xác của kết quả xét nghiệm (ví dụ như phòng thí nghiệm đã có sai sót, chai mẫu thí nghiệm bị lẫn lộn với mẫu của những người khác). Hãy chuyển chủ đề sang bàn luận về các vấn đề khác. 4. Không cần để ý những sự giải thích của người bệnh hoặc là người bệnh không giải thích, mà hãy đảm bảo chắc chắn rằng như vậy là ít nhất đã có một lần người đó sử dụng lại ma tuý. Sau đó có lẽ cũng sẽ cần phải thường xuyên tăng dần tần xuất xét nghiệm đối với người đó để biết được rõ hơn về mức độ anh ta đã sử dụng. Một số bệnh nhân sẽ thừa nhận ngay việc mình đã sử dụng lại. Sự chân thật này cần phải được khích lệ và coi đó như một điều quan trọng trong quá trình trị liệu. Phản ứng này hiếm khi có thể dẫn đến việc thừa nhận về những lần sử dụng ma tuý khác mà không bị phát hiện. Đôi khi một bệnh nhân sẽ thú nhận một phần về việc mình sử dụng lại ma tuý. Ví dụ, anh ta đã tham gia một bữa tiệc và được mời sử dụng ma tuý nhưng anh ta đã không sử dụng. Những thông tin thú nhận này thường có liên quan rất gần đến việc có thể người đó có thể thực sự thừa nhận là mình đã sử dụng lại. Cán bộ trị liệu không cần phải cố gắng yêu cầu người bệnh hoàn toàn thừa nhận mà từ đó có thể cho rằng như vậy là đã xảy ra việc anh ta sử dụng lại và chuyển sang các vấn đề khác. Hiếm khi bệnh nhân sẽ phản ứng một cách giận dữ. Mà điển hình là cán bộ trị liệu sẽ buộc tội cho bệnh nhân là không thành thật và bực tức cho rằng người đó đã sử dụng lại. Những phản ứng như thế này có thể rất thuyết phục và có thể khiến cho cán bộ sẽ nhanh chóng phản ứng mang tính kháng cự lại. Người bệnh cần được thông tin về sự cần thiết phải trao đổi về kết quả xét nghiệm dương tính và cần phải đặt câu hỏi về sự quan tâm thực sự nhất của anh ta lúc này là gì. Cán bộ trị liệu nên cố gắng chuyển sang các vấn đề khác. Và khi trao đổi về các vấn đề khác, có thể cán bộ sẽ lồng vào trao đổi về sự thành thật và rồi cho người bệnh một cơ hội để trao đổi về kết quả xét nghiệm. Nếu kết quả xét nghiệm nhiều lần lặp là dương tính, thì có thể sẽ cần phải có sự trao đổi thẳng thắn mang tính trực diện nào đó. Thậm chí khi bệnh nhân bác bỏ việc anh ta đã sử dụng lại, cán bộ trị liệu vẫn cần trao đổi trực diện như thể là chắc chắn anh ta đã sử dụng. Cũng cần phải phân tích về những lần tái sử dụng (sử dụng sơ đồ phân tích về tình trạng tái nghiện) hoặc cần phải nhờ đến các kỹ thuật của bệnh viện. Đối với điểm này thì việc sự tin tưởng và chắc chắn của cán bộ trị liệu vào kết quả xét nghiệm là quan trọng và có thể là phương tiện mang lại sự giải thích trung thực về những gì đã xảy ra.   Những mẫu xét nghiệm đã bị làm giả mạo/sai lệch Việc người bệnh cố gắng che giấu việc mình đã sử dụng lại ma tuý bằng cách can thiệp vào mẫu nước tiểu xét nghiệm là hiếm. Các thủ đoạn có thể bao gồm việc mang nộp một mẫu nước tiểu đã được đổ nước vào, hoặc cho một chất (thường là chất nước) chứ không phải là nước tiểu, hoặc đôi khi là nước tiểu của một người khác. Các mẫu làm giả đó thường là có thể phát hiện thấy ngay bằng việc quan sát (ví như nhìn trong hơn, không có màu vàng) hoặc nhiệt độ (chai đựng mẫu nước tiểu đó quá lạnh so với thân nhiệt của cơ thể người). Đối với những mẫu đó không nên gửi đến phòng xét nghiệm nữa. Ngay lúc mang nộp mẫu, cần chú ý ngay đến bệnh nhân đó và hỏi anh ta xem lý do vì sao anh ta lại mang nộp một mẫu giả như vậy. Bệnh nhân có thể hoặc là trao đổi ngay về những gì đã xảy ra đối với mình hoặc sẽ đưa ra một mẫu khác. Nếu sự việc trên vẫn lặp lại đối với một bệnh nhân, thì có thể sẽ cần phải giám sát bệnh nhân đó khi họ đi lấy mẫu. Những mẫu xét nghiệm bị bệnh nhân làm giả là một chỉ bảo cho thấy có thể người đó đã sử dụng ma tuý trở lại. Những bệnh nhân có liên quan đến việc làm giả mẫu xét nghiệm hiếm khi thừa nhận điều đó. Đây là một tình huống quan trọng trong khi điều trị và có thể là dấu hiệu của việc tái nghiện nghiêm trọng. Việc sử dụng ma tuý liên quan đến việc che giấu sự thật có thể cho thấy quá trình trị liệu đã thất bại. Việc quan sát bậnh nhân trong khi anh ta đang lấy mẫu để nộp xét nghiệm là nỗ lực cuối cùng về việc thiết lập những gì đang thực sự diễn ra không kể đến việc anh ta đã sử dụng trở lại và cũng là để khuyến khích anh ta trung thực. Một ví dụ ít nghiêm trọng hơn liên quan đến việc làm giả mẫu nước tiểu của bệnh nhân là việc hãy cố gắng để các mẫu cùng nhau. Những người cố cãi rằng họ không thể đi tiểu (như là sẽ nói "Tôi vừa mới đi tiểu trước khi tôi đến đây", hoặc "Có thể để lần sau tôi mới xét nghiệm được không ?", hay "Tôi không thể đi được") hoặc những người dường như quá sốt sắng đòi đến ngay phòng xét nghiệm để chứng minh nhưng thực chất là dựng lên một cái cớ là bọng đái của mình trống rỗng, không thể đi tiểu được lúc này có thể là những người đang cố gắng che giấu việc bản thân đã sử dụng lại. Có thể sẽ cần đưa cho anh ta nước hoặc đồ uống và đề nghị anh ta chờ đến khi muốn đi tiểu thì lấy mẫu hoặc quay lại sau để lấy mẫu nhưng cùng trong ngày hôm đó. Giám sát việc đi tiểu để lấy mẫu Nếu một tình huống cho thấy cấn phải giám sát việc lấy mẫu, hãy yêu cầu một người giám sát đồng ý và hướng dẫn. Đây là một việc không thoải mái và có thể sẽ xúc phạm đến bệnh nhân. Cũng cần phải giải thích cho bệnh nhân rằng việc giám sát anh ta như vậy là trường hợp hiếm cần thiết chỉ nhằm mục đích có cơ sở để chắc chắn và tin tưởng đối với giá trị của việc xét nghiệm này. Nếu bệnh nhân đưa nộp những mẫu nóng, lạnh hoặc có màu trong, cần nói với anh ta rằng có những sự không chắc chắn đối với mẫu anh ta mang nộp. Không nên đối đầu. Hãy cố gắng để bệnh nhân cảm thấy thoải mái nhưng tránh đưa ra những lời nói làm dịu căng thẳng mà có thể liên quan đến thông điệp sai lệch về mục đích của những gì đang diễn ra./.

Naltrexone – Chất đối kháng Ma tuý

National Institute on Drug Abuse (NIDA)

Viện Quốc gia về Lạm dụng Thuốc
----------------------------------------

NGHIÊN CỨU

Naltrexone - Chất đối kháng điều trị nghiện Ma tuý - không gây nghiện


BÁO CÁO

Biên tập:       Bác sĩ Demetrios Julius

                 Bác sĩ Pierre Renault

Bộ phận Nghiên cứu

Viện Quốc gia về Lạm dụng Thuốc

Bộ Y tế, Giáo dục và Phúc lợi Hoa Kỳ

Sở Y tế

Cơ quan quản lý về Rượu cồn, Lạm dụng thuốc và Sức khoẻ tâm thần


LỜI NÓI ĐẦU

Hội nghị về chất naltrexone được báo cáo ở đây đại diện một bước tiến mới của bản kế hoạch đã được chuẩn bị kỹ lưỡng nhằm tìm ra những phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho căn bệnh nghiện ma tuý opioid. Cơ sở lý thuyết của việc sử dụng chất đối kháng được Abraham Wikler xây dựng vào năm 1955 khi ông nhận thấy hiện tượng là khi nghiện các chất opioid thì cơ thể liên tục có nhu cầu “tổng hợp” mà nhu cầu này sẽ được giải quyết bằng việc sử dụng opioid, việc cai nghiện có thể bị tác động bởi tác nhân môi trường, và những yếu tố đó đóng vai trò quan trọng trong việc tái nghiện, xảy ra sau một thời gian dài đã cai nghiện hoàn toàn.
10 năm sau, khám pháp về vai trò tác động của các yếu tố môi trường và của các opioid đối với hành vi thèm ma tuý mới được áp dụng vào điều trị thực tiễn. Trong một loạt bài viết, bắt đầu vào năm 1965, William Martin và các cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu Nghiện tại Lexington, Kentucky, đã trình bày về tác dụng dược lý của cyclazocine, là một chất đối kháng với ma tuý, loại thuốc uống có hiệu quả trong thời gian dài, và đã đề xuất một số cách sử dụng một số thuốc giống như cyclazocine trong điều trị. Về bản chất, Martin và các đồng nghiệp đã chỉ ra việc cyclazocine đã chặn lại tác dụng của các opioid hoạt động cấp tính, khi cyclazocine được đưa vào cơ thể hàng ngày thì thậm trí cả việc sử dụng opioid kinh niên cũng sẽ không gây nghiện, lượng thuốc đã dùng không gây lờn thuốc cyclazocine, và đặc biệt cyclazocine (không đối kháng như nalorphine) không thuộc loại thuốc có khả năng gây nghiện. Vì vậy, cyclazocine có khả năng là (1) ngăn chặn hành vi thèm thuốc, dập tắt cơn đói ma tuý; (2) ngăn ngừa nghiện, xoá đi nguồn tác nhân gây nghiện; và (3) là phòng chống tái nghiện lại, cho phép đánh giá kết quả cai trải qua thử thách thường xuyên. Cuối cùng, việc sử dụng chất đối kháng có khả năng ngăn ngừa tử vong do dùng ma tuý quá liều với những người chưa cai hoàn toàn.

Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng người nghiện opioid có tự nguyện chấp nhận điều trị với cyclazocine – là thuốc chỉ có tác dụng ngăn ngừa ảnh hưởng của ma tuý opioid, đã nhanh chóng có lời giải đáp. Jaffe và Brill vào năm 1966, và Freedman cùng nhóm vào năm 1967, đã công bố những kinh nghiệm của họ khi làm việc với người nghiện heroin tình nguyện tham gia chương trình điều trị có trọng tâm sử dụng cyclazocine. Kết quả hiển nhiên là có một nhóm người nghiện opioid, ở một góc độ, đã hoàn toàn cai được, không còn nhu cầu ma tuý opioid.
Tuy nhiên, có một số vấn đề nảy sinh trong những nghiên cứu trên lâm sàng ban đầu - những vấn đề chưa được giải quyết đầy đủ, trực tiếp dẫn đến hội nghị này và dẫn đến nhận thức của chúng ta hiện nay. Thứ nhất, hầu hết các đối tượng tình nguyện đến điều trị bằng cyclazocine thường luôn xao nhãng, không dùng thuốc đều; sau vài tháng điều trị là bỏ dở, nhiều người quay trở lại tái nghiện (thường là heroin). Thứ hai, nhiều người nghiện không tiếp tục điều trị, phàn nàn về những tác dụng phụ không thoải mái do cyclazocine sinh ra. Với nhân viên điều tra thì những phàn nàn đó dường như chỉ là sự hợp lý hoá, song từ quan điểm thực tiễn thì việc thuyết phục người bệnh tiếp tục điều trị là công việc khó khăn. Để thử nghiệm thuyết điều kiện và xác định xem chất đối kháng có thể đóng vai trò hữu hiệu trong điều trị, thì cần phải có những chất đối kháng tốt hơn; nghĩa là cần có những thuốc giảm thiểu tác dụng phụ, uống một lần nhưng lại có tác dụng trong thời gian dài. Đây là một vấn đề thuộc về công nghệ, và nó đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí mới có thể giải quyết nổi.
Do vậy, vào năm 1967 bản kế hoạch cơ bản về việc thử nghiệm đặc tính của chất đối kháng ma tuý trong điều trị cai nghiện đã được hình thành. Mặc dù Freedman và Fink cùng các cộng sự vẫn tiếp tục nghiên cứu theo hướng cho uống naloxone với liều lượng cao – nó cũng gần như là một chất đối kháng; song hầu hết các nhà nghiên cứu đều cảm thấy rằng tác dụng của thuốc là ngắn cùng với một số hạn chế khác của nó. Cũng cùng năm đó, 1967, Blumberg cùng các đồng nghiệp đã công bố báo cáo về tác dụng trên động vật của một chất đối kháng mới triết xuất từ oxymorphone, EN-1639A, và sau đó được lấy tên là naltrexone. Naltrexone được xem như chất đối kháng được mong chờ -- nó tương đối không có ảnh hưởng phụ, và có thời gian tác dụng dài lâu hơn hẳn noloxone. Mặc dù mãi tới năm 1973 ấn bản phẩm chính thức mới xuất hiện, nhưng tại hội nghị năm 1971 của Uỷ ban NAS/NRC về các Vấn đề về Nghiện ma tuý, Martin, Jasinski và các cộng sự đã báo cáo cho hay rằng trong cai nghiện, uống naltrexone có hiệu quả, tác dụng lâu và tương đối không có phản ứng phụ.

Nỗ lực để đưa naltrexone từ thực nghiệm sơ bộ trên vài bệnh nhân ở Trung tâm Nghiên cứu Cai nghiện tại Lexington đến tay những người làm trên thực tiễn lâm sàng ngay lập tức đã được đẩy mạnh và tăng cường khi mà Tổng thống Nixon cho thành lập Văn phòng Đặc biệt về Phòng chống Ma tuý (SAODAP) vào ngày 17/6/1971. Cùng với văn phòng này là Văn phòng của Tổng thống, cả hai cùng là nguồn lực kinh tế và ảnh hưởng cần thiết để thúc đẩy sự phát triển chất đối kháng ma tuý. Là giám đốc đầu tiên của SAODAP tôi coi trọng việc phát triển naltrexone là một trong những ưu tiên hàng đầu của mình. Giả thiết là tôi chưa cảm thấy rằng việc phát triển naltrexone là đáng giá, thì tôi cũng cảm thấy phải có bổn phận, cố gắng nỗ lực để triển khai nó trên lâm sàng. Các đại biểu có ảnh hưởng trong Quốc hội đã nhiệt tình ủng hộ phát triển loại thuốc không gây nghiện thay thế cho thuốc methadone. Quốc hội bao gồm chức năng lập pháp đã tạo ra SAODAP, một cơ sở để phát triển những chất đối kháng ma tuý cùng với những định hướng cụ thể cho sự phát triển này.
Trong quá trình thực hiện cũng có nhiều khó khăn cản trở mà một trong số đó là việc cung cấp thebaine là chất dùng để sản xuất naltrexone, và kèm theo là qui định hạn chế trong việc sản xuất thuốc. Ngoài ra, việc không muốn đặt toàn bộ hy vọng vào một loại thuốc, nên SAODAP cũng đã tiến hành nghiên cứu các chất đối kháng khác; đồng thời với tác dụng của naltrexone chỉ khoảng 2 đến 3 ngày được xem là quá ngắn nên SAODAP cũng đã nỗ lực phát triển các toa thuốc có tác dụng dài hơn. Tóm lại, các yếu tố gồm con người, tài chính và kế hoạch đều được kết hợp lại để sản xuất ra sản phẩm và đưa ra dữ liệu.

Tại nhiều thời điểm trong suốt 10 năm qua, việc đánh giá kiểm nghiệm chất đối kháng đã được nỗ lực thực hiện, nhưng tôi nhận thấy rằng dù có nhiều hứa hẹn song chất đối kháng mới chỉ chứng minh tác dụng trên một số người nghiện. Tuy vậy, sau mỗi lần kiểm tra đó lại rút ra được một chút kinh nghiệm thực tiễn để rồi tiếp tục hoàn thiện cho lần thử nghiệm lâm sàng lần sau cũng như để có dữ liệu tổng hợp cho công tác đánh giá, phân tích một cách nghiêm túc và khách quan. Một số kết quả đó được trình bày ở đây.

BS. Jerome Jaffe

Đại học Y Nội khoa và Ngoại khoa

Đại học Tổng hợp Columbia, New York


Mục lục
Lời nói đầu
Jerome Jaffe
Giới thiệu
BS. Pierre Renault                                                                                                        1
VAI TRÒ CỦA LIÊN BANG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN NALTREXONE
CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NALTREXONE CỦA TỔ CHỨC NIDA
BS. Demetrios Julius                                                                                                      5
NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN MỘT LOẠI THUỐC MỚI
TS. Edward C. Tocus                                                                                            12
NGHIÊN CỨU TIỀN LÂM SÀNG VỀ ĐỘC TÍNH CỦA NALTREXONE
TS. Monique C. Braude và Ths. Michael Morrison                                                        16
TÁC DỤNG CỦA NALTREXONE TRÊN THỂ TUỶ SỐNG CẤP Ở MÈO VÀ TUỶ SỐNG  MÃN TÍNH Ở CHÓ; KHẢ NĂNG TƯƠNG TÁC TỰ NHIÊN VỚI LOẠI CHẤT ĐỐI KHÁNG TƯƠNG TỰ MORPHINE
BS. William Martin, TS. James Bell, TS. Paul Gilbert, BS. Jewell Sloan,                    27
James Thompson     
           
PHÁT TRIỂN TÁC DỤNG, KHẢ NĂNG  DUY TRÌ CỦA CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ TS. Robert E. Willette                                                                                                31
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÙ ĐÔI (ĐOUBLE-BLIND) CỦA NAS
NGHIÊN CỨU CỦA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC QUỐC GIA VỀ NALTREXONE
BS. Samuel C. Kaim                                                                                                 37
LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU Ở NAS CENA
BS. Leo E. Hollister                                                                                                    45
TIẾN HÀNH NALTREXONE TRÊN LÂM SÀNG
BS. Marc Hurzeler, Ths. David Gewirts, BS. Herbert Kleber                                        48

PHẢN ỨNG VỚI NALTREXONE TRÊN BỆNH NHÂN: DUNG NẠP THUỐC, TÁC DỤNG VÀ LIỀU LƯỢNG
Ths. Stephen Curran, và BS. Charles Savage                                                                   67
SỬ DỤNG NALTREXONE TRONG CAI NGHIỆN VỚI BỆNH NHÂN VẪN DUY TRÌ METHADONE
BS. Neil Haas, BS. Walter Ling, TS. Elaine Holmes, BS. Mara Blakis,                        70.
Ths. Margaret Litaker
MỘT SỐ PHÁT HIỆN VÀ BÌNH LUẬN TỪ MỘT NGHIÊN CỨU VỀ  NALTREXONE SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP MÙ ĐÔI
Ths. John Keegan, Carol Lavenduski, ACSW,  BS. Kenneth Schoof                          74
MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG TRONG ĐIỀU TRỊ VỚI CHẤT ĐỐI KHÁNG
BS. Sadashiv Parwatikar, FRCP (C), Ths. James Craw Crawford,                                77 John V. Nelkupa,  Ths. Chona DeGracia   
MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRÊN LÂM SÀNG CỦA NIDA
QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
Ths. Richard B. Resnick, và Elaine Schuyten-Resnick, MSW                                      84
           
KINH NGHIỆM TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG BẰNG NALTREXONE
TRÊN 370 NGƯỜI CAI NGHIỆN
Muriel Thomas RN, Ths. Frank Kauders, Marcel Harris, Judy Cooperstein, RN,
TS. Gordon Hough, Ths. Richard Resnick                                                                       88
MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ HÀNH VI CỦA TỔ CHỨC NIDA
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
BS. Abraham Wikler                                                                                                         120
NHỮNG HẠN CHÉ TRONG PHƯƠNG PHÁP CAI NGHIỆN BẰNG CHẤT
ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
BS. Roger Meyer, Ths. Mary Randall, Cn. Cecily Barrington,                                   123
BS. Steven Mirin, TS. Isaac Greenberg
VAI TRÒ CỦA NALTREXONE TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ HÀNH VI
TS. BS. Charles O’Brien, BS. Robert Greenstein                                             136
BÁO CÁO SƠ BỘ VỀ KINH NGHIỆM LÂM SÀNG TRONG NGHIÊN CỨU DÙNG  NALTREXONE ĐIỀU TRỊ HÀNH VI
BS. Robert Greenstein, TS. BS. Charles O’Brien,                                                        141
TS. Jim Mink, BS. George Woody, Cn. Nancy Hanna
SO SÁNH 2 CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ: CHỈ DÙNG  NALTREXONE VÀ DÙNG NALTREXONE KẾT HỢP LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ HÀNH VI
TS. Edward Callahan, TS. Richard Rawson, Ths. Michael Glazer,                            150
Cn. Beverly McCleave, Cn. Richard Arias
VAI TRÒ CỦA NALTREXONE TRONG VIỆC KIỂM SOÁT NGHIỆN HEROIN: 
MỘT SỐ PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ CƠ BẢN
BS. Avram Goldstein                                                                                                141
HIỆN TRẠNG SỐ LIỆU VỀ ĐỘ AN TOÀN CỦA NALTREXONE
BÁO CÁO SƠ BỘ VỀ KẾT QUẢ VÀ MỨC ĐỘ AN TOÀN QUA 17 CUỘC NGHIÊN CÚU VỀ NALTREXONE DO TỔ CHỨC NIDA TÀI TRỢ
Ths. Alex Bradford, TS. Frank Hurley                                                                           163
Oksana Golondzowski, Catharine Dorrier



Chương trình - Hội nghị vệ tinh của tổ chức NAS – NIDA về Naltrexone               172
Các ấn bản phẩm về Naltrexone đã xuất bản                                                               176
GIỚI THIỆU
BS. Pierre F. Renault

Vào cuối Giai đoạn II thử nghiệm trên lâm sàng chất naltrexone đồng thời thực hiện kế hoạch cho Giai đoạn III, có thể là thời điểm thích hợp để xem xét, đánh giá lại các kết quả đã đạt được, cả về mặt lý thuyết và cơ sở lý luận. Hiển nhiên là công việc này không thể hoàn thành trọn vẹn chỉ trong một tập sách. Toàn bộ hiệu quả của naltrexone sẽ được thể hiện sau nhiều năm được cải tiến trên lâm sàng và được xem xét đánh giá kỹ lưỡng. Mục đích của tập sách này là cung cấp thông tin, tư liệu phục vụ cho công tác lâm sàng, tạo điều kiện, khuyến khích nghiên cứu, cải tiến thêm cho loại thuốc mới và quan trọng này.
Tập sách này bao gồm một loạt xê-ri với 5 mục, điểm lại quá trình phát triển trên cả phương diện chính trị và tổ chức, nó cho phép chúng ta biết được sự phát triển của chất naltrexone. BS. Julius đưa ra báo cáo bày tỏ sự quan tâm của Chính phủ liên bang, cho phép sử dụng chất đối kháng ma tuý trong điều trị cai nghiện. BS. Kaim trình bày chi tiết về quyết định việc thành lập uỷ ban CENA và Viện hàn lập khoa học quốc gia. TS. Tocus trình bày những thủ tục từ Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (Food and Drug Administration - FDA) để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của các loại thuốc được lưu hành trên thị trường Mỹ. Đây là một mục thiết thực với hầu hết các bác sĩ điều trị cũng như các nhà khoa học. Braude và Morrison báo cáo tóm tắt về công trình nghiên cứu về độc tố được thử nghiệm trên động vật, là một bước quan trọng và khó khăn trong quá trình tạo ra loại thuốc mới. BS. Hollister thẳng thắn đưa ra những khó khăn, áp lực do những suy nghĩ thiển cận và những phi thực tế, đã làm phức tạp việc phát triển ban đầu chất naltrexone. Báo cáo nhấn mạnh một áp lực, một tồn tại chung có ở cả các báo cáo khác trong tập sách này, đó là áp lực giữa việc đáp ứng yêu cầu của xã hội là phải tìm ra giải pháp cho vấn đề nghiện ma tuý, và mong muốn tìm ra phương pháp vừa điều trị hiệu quả cho người bệnh lại vừa tránh được rủi ro cho những tình nguyện viên phục vụ. Trong khi đó một thực tế nữa là áp lực về chính trị cũng tác động quan trọng trong việc phát triển naltrexone, nó song hành với những yêu cầu khắt khe về độ an toàn cũng như những yêu cầu từ phía FDA. Báo cáo của TS. Willette về loại dược liệu có tác dụng lâu dài đã hướng chúng ta tới tương lai. Còn nhiều vấn đề chưa có lời giải đáp. Liệu loại dược liệu này sẽ có vị trí nào trong tương lai? Nó có thể bảo vệ, dần dập tắt sự ham muốn đang thôi thúc hay đơn giản chỉ là một thoái thác khác từ phía bệnh nhân với chuộc chiến chống lại heroin? Phương thuốc đó vượt lên như thế nào khi mà chất gây mê vẫn còn cần thiết?

CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NALTREXONE CỦA TỔ CHỨC NIDA
BS. Demetrios Julius
Giải thích từ ngữ:
- “drug-seeking behavior”: Hành vi đi tìm kiếm ma tuý.
- abstinence syndrome: là hội chứng xảy ra khi cai nghiện, đặc biệt là biểu hiện khi
                                         lên cơn đói ma tuý - xảy ra khi người nghiện không dược

     dùng thuốc.

- conditioned abstinence phenomena:  Trạng thái không dùng thuốc có điều kiện
                                                       -nói ngắn gọn tức là cai nghiện


Chương trình nghiên cứu hiện nay về chất naltrexone do Viện Quốc gia về Lạm dụng Thuốc trợ giúp bắt đầu manh nha phát triển vào giữa thập niên 1960. Lúc đó TS. William Martin cùng các cộng sự tại Trung tâm Nghiên cứu Cai nghiện ở Lexington, Kentucky đã thực hiện một loạt nghiên cứu về việc sử dụng chất đối kháng ma tuý để điều trị cai nghiện (Martin và cộng sự, 1966). Những nghiên cứu này là bước phát triển tiếp theo trên cơ sở lý luận của TS. Abraham Wikler được thực hiện trước đó (Wikler, 1948 và 1965). Kết quả nghiên cứu cho thấy là chất đối kháng ma tuý có thể sử dụng hiệu quả để chặn lại tác dụng gây nghiện và hưng phấn của opioids trên người. Ngoài ra, đặc tính hoá trị liệu của thuốc lại không gây tác dụng phụ gây nghiện, một đặc tính mà các loại thuốc trước đó thường có kèm theo ở một mức độ nào đó.
Những nghiên cứu ban đầu về sử dụng liệu pháp đối kháng ma tuý trên lâm sàng cũng gặp phải những khó khăn do tình hình chính trị và xã hội xảy ra liên tiếp lúc đó. Trong những năm tiếp theo, sau bi kịch Tổng thống Kennedy bị ám sát ngày 22/11/1963, nước Mỹ lâm vào những bất ổn ở trong nước và cả trong quân đội ở ngoài nước. Cuối thập niên 1960 những bất ổn từ nhiều phía ở trong nước đã tác động dẫn tới hàng trăm nghìn người muốn tìm đến những nơi trốn thư giãn. Nhiều người đã chọn ẩn náu, giải khuây bằng ma tuý bất hợp pháp. Về xã hội học thì có thể xem như là việc tự tìm thuốc chữa. Với nhiều người thì hậu quả cuối cùng là bị nghiện ngập ma tuý. Hậu quả là năm 1970 tình trạng sử dụng heroin cả ở trong nước và cả binh lính ở nước ngoài đã trở thành một đại dịch. Với cơ quan chức năng của nhà nước thì tình trạng nghiện ma tuý tồn tại trong các quân nhân và cả nhóm phản đối chính phủ, chống chiến tranh – tràn ngập đường phố, đi tìm kiếm ma tuý, đã buộc các cơ quan hành pháp và lập pháp phải vào cuộc, cấp kinh phí cho công tác nghiên cứu và điều trị cai nghiện.
Ngày 17/6/1971, tổng thống Nixon đã ký cho thành lập Văn phòng Đặc biệt về Phòng chống Ma tuý (SAODAP), để phối hợp cùng các cơ quan khác của Chính phủ liên bang kiểm soát sự lan tràn ma tuý bất hợp pháp. Chức năng nghiên cứu, phòng chống và điều trị cai nghiện ma tuý được giao trước đó cho khoảng 14 cơ quan. Năm 1972, Quốc hội đã thông qua vấn đề Văn phòng về Ma tuý và Đạo luật Điều trị, được ký thành Bộ luật 92-255, Tiết đoạn 224, đề mục 86, 72 vào ngày 21/3/1972. Trong luật này có phần về hỗ trợ tài chính cho công tác nghiên cứu thuốc đối kháng - điều trị hiệu quả, có tác dụng lâu dài, không tác dụng phụ gây nghiện, hoặc dược phẩm điều trị cai nghiện heroin. Dựa trên cơ sở này, Giám đốc đầu tiên của SAODAP là TS. Jerome Jaffe đã đặt việc phát triển một loại chất đối kháng ma tuý vừa an toàn vừa hiệu quả làm ưu tiên hàng đầu của Văn phòng mới này


Cơ sở lý thuyết của liệu pháp đối kháng ma tuý:
Về dược lý, chất đối kháng ma tuý là chất có khả năng chặn lại tác dụng gây nghiện và gây cảm giác sảng khoái của opioid (theo Martin, 1967). Hiện giờ thì lý thuyết cho rằng loại thuốc này thực hiện được vai trò này bởi nó có cấu trúc tương tự như chất ma tuý. Do vậy, chất đối kháng có khả năng chiếm lĩnh vùng bộ phận tiếp nhận cảm giác của cơ thể, tương tự như tác dụng của chất ma tuý, và do vậy tạo ra ức chế cạnh tranh với ma tuý. Các loại thuốc đối kháng ma tuý khác cũng có tác dụng đối kháng và đối vận. Tất nhiên chính tính chất này quyết định việc lựa chọn loại chất đối kháng nào cho loại liệu pháp được sử dụng. Cần lưu ý là một chất đối kháng thuần chủng khác biệt rất lớn với loại thuốc disulfuram là loại chữa chứng nghiện rượu mãn tính. Khi một người uống một lượng rượu và cho dùng disulfuram thì có xảy ra phản ứng dữ dội trong cơ thể mà có thể nguy hiểm đến tính mạng. Còn khi heroin được đưa vào cơ thể với một liều lượng, và nó bị chặn lại bởi chất đối kháng thì không xảy ra phản ứng trong cơ thể. Tất nhiên, nếu người đó sử dụng với một lượng quá lớn heroin thì sẽ xảy ra quá liều gây tử vong.
Nhóm chất đối kháng này đã hình thành cơ sở cho một phương pháp điều trị mới có triển vọng, đã được phác thảo bởi Wikler (1948, 1965) và Martin, cộng sự (1966). Họ đã khẳng định có một số điều kiện, hoàn cảnh đóng vai trò quan trọng dẫn đến việc dùng và nghiện ma tuý. Lúc ban đầu, tác dụng gây cảm giác dễ chịu của ma tuý được xem là động lực của “hành vi đi tìm kiếm ma tuý” ở nhóm người nghiện. Sau đó thì càng ngày họ lại phải dùng liều lượng cao hơn mới đạt được mức đê mê. Đồng thời, bên cạnh cảm giác đê mê, dễ chịu, thì người nghiện cũng dần hình thành ý thức chống đau/ lên cơn vật vã khi đói thuốc (hội chứng khi không dùng thuốc). Chính hội chứng này tác động duy trì và làm tăng cường “hành vi đi tìm kiếm ma tuý”. Rõ ràng là những “hội chứng do cai nghiện” rất có thể bị ảnh hưởng bởi các tác động từ môi trường xung quanh, đã ngấm ngầm tác động từ lúc họ nghiện. Thường thì sau khi đã cai các độc tố opiate, người nghiện bắt đầu thể hiện kết quả cai thành công bằng việc được tiếp xúc với môi trường trước kia. Triệu chứng cai nghiện ở người nghiện có đặc điểm là: gia tăng phản ứng với các kích thích, có những phản ứng tự động bất bình thường kéo dài, cảm giác khó chịu, và cảm giác “thèm thuốc”.
Về lôgíc, theo lý thuyết thì chất đối kháng ma tuý được dùng để kiểm soát các tác nhân gây nên hành vi đi tìm kiếm ma tuý ở người nghiện. Bởi nó có tác dụng chặn lại tác dụng gây cảm giác đê mê và gây nghiện của opiate – là 2 tác nhân thúc đẩy hành vi tìm kiếm ma tuý ở người nghiện. Ngoài ra, chất đối kháng còn bảo vệ người đã cai chống lại những triệu chứng do cai nghiện gây ra. Do vậy việc dỡ bỏ 2 tác nhân đó cũng dần làm dập tắt hành vi tìm kiếm ma tuý.
Việc bảo vệ của chất đối kháng cũng tạo cho người cai nghiện có thời gian cần thiết để điều chỉnh lại cuộc sống. Về mặt liệu pháp tâm lý mang tính gần gũi và nhân văn thì cá nhân có thể học để lấy lại bản lĩnh, vượt qua số phận của bản thân. Nói cách khác, người cai nghiện có thể phát triển nội tâm tốt hơn, vững vàng hơn và độc lập hơn, tự giải thoát bản thân khỏi mạng lưới ma tuý quyến rũ bên ngoài cũng như những áp lực đã điều khiển cuộc sống của họ.




Sự phát triển của một chất đối kháng tối ưu:
Trong hoàn cảnh chính trị xã hội như đã nêu ở trên cùng với những khái niệm và lý thuyết về chất đối kháng, chúng ta có thể dễ dàng hiểu vì sao việc phát triển chất đối kháng vừa an toàn lại vừa hiệu quả được coi là ưu tiên hàng đầu của SAODAP vào năm 1971. Các giám đốc của tổ chức này đều nhận thấy việc lựa chọn và phát triển chất đối kháng chưa được sự quan tâm nhiều của ngành công nghiệp dược tư nhân. Kinh phí được lập cho công tác nghiên cứu, phát triển, và thời gian dường như đã vượt mức thực hiện. Kinh phí dự án cao bởi việc phát triển một loại thuốc mới là công việc phức tạp và tốn thời gian.
Theo luật pháp, bất kỳ loại thuốc mới nào đều phải trải qua các khâu thử nghiêm, kiểm tra chặt chẽ, trên các loại động vật và trên người trước khi được đưa ra thị trường. Việc thử nghiệm gồm một giai đoạn tiền lâm sàng và 3 giai đoạn lâm sàng. Trong giai đoạn tiền lâm sàng, toàn bộ nghiên cứu cai, loại trừ độc cần thực hiện trên ít nhất là 2 loại động vật. Trường hợp thuốc chứng minh có đủ độ an toàn trong loạt nghiên cứu trên thì nó có thể được thử nghiệm trên người để xác định mức độ an toàn và hiệu quả của thuốc. Giai đoạn I nghiên cứu trên lâm sàng tìm hiểu tác dụng dược lý của thuốc trên người như liều dùng, mức độ hấp thu thuốc, trao đổi chất, vv. Giai đoạn II là thử nghiệm áp dụng trên lâm sàng nhằm đánh giá độ an toàn và hiệu quả của thuốc. Để có kết quả tin cậy cần tiến hành nghiên cứu theo phương pháp mù đôi và trấn an (double-blind placebo design). Nghĩa là nhóm bệnh nhân được làm thí nghiệm và cả người tiến hành thí nghiệm đều không được biết Ai là người được dùng loại thuốc Thật và ai đang được dùng loại giả thuốc chỉ có tác dụng trấn an. Giai đoạn III được thực hiện trên lâm sàng với số lượng lớn bệnh nhân, nhóm thực và nhóm đối chứng. Thành công của giai đoạn này sẽ chứng minh hiệu quả của thuốc, là bước cuối cùng trước khi thuốc được dệ trình lên Cơ quan quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA). Khi thuốc được chứng thực công nhận thì mới đủ điều kiện được phép đưa ra thị trường cho công chúng sử dụng. Tất nhiên có thể có một số khó khăn trong quá trình triển khai và phát triển thuốc thậm trí có thể phải dừng sản xuất như là khó khăn về tài chính hoặc vì hiệu quả cai thực sự của thuốc.
Thủ tục tốn thời gian và phức tạp là theo qui định của Chính phủ Liên bang để đảm bảo thuốc đối kháng phải an toàn và hiệu quả, được thực hiện thông qua Văn phòng Đặc biệt về Phòng chống Ma tuý (SAODAP) và Bộ phận đặc trách về lạm dụng và nghiện ma tuý (DNADA, NIMH). Kế hoạch nghiên cứu do DNADA bắt đầu vào tháng 9/1971, nó bao gồm nội dung nghiên cứu tiền lâm sàng, trình tự kiểm tra trên lâm sàng và chi phí, dự toán. Ngoài ra, các đặc điểm tối ưu của một chất đối kháng ma tuý cũng được miêu tả như sau:

1.      Khả năng đối kháng với tác dụng tạo cảm giác đê mê của opiate.

2.      Không có hoặc ở mức thấp nhất tác dụng đối vận, đặc biệt là những cái không mong muốn.

3.      Không gây tác dụng nghiện với cơ thể.

4.      Dung nạp thuốc phải ổn định (không phải tăng liều dùng).

5.      Không có độc tố và các tác dụng phụ nghiêm trọng kể cả việc sử dụng trong thời gian dài.

6.      Sử dụng thuốc dễ dàng, không cần phẫu thuật can thiệp hoặc gây đau đớn.

7.      Thuốc có tác dụng trong thời gian dài.

8.      Không có hoặc ở mức thấp nhất nguy cơ bị lạm dụng.

9.      Tác dụng trái ngược trong trường hợp cấp cứu.

10. Có nhiều khả năng cho phép sử dụng cả những lượng nhỏ trong dẫn truyền phân huỷ bởi vi khuẩn.

11. Dễ dàng sẵn có và không tốn kém.

12. Tác dụng hiệu quả trong điều trị cai nghiện.



Khoảng đầu năm 1972 có nhiều chất đối kháng đang trong giai đoạn phát triển khác nhau. Loại thuần khiết nhất là naloxone, được xem là loại có tiềm năng, chưa thấy có tác dụng đối vận. Hạn chế chủ yếu của naloxone bao gồm là giá thành khá cao, khó tổng hợp được nó, kém hấp thu qua đường uống và đặc biệt là chỉ cho tác dụng ngắn trên người. Naloxone đã được FDA phê duyệt, được phép sử dụng ngắn hạn ở người như là thuốc giải độc trong trường hợp quá liều opiate. Dù có những hạn chế ở trên song naloxone cũng đã đạt được thành công nhất định, được các bác sĩ dùng bổ sung trong điều trị. Điều này đã góp phần khuyến khích dùng chất đối kháng trong điều trị nói chung.
Loại đối kháng có triển vọng và hứa hẹn đang được phát triển hiện nay là cyclazocine (Jaffe, 1967; Resnick, cộng sự, 1970 và 1971). Loại thuốc này đã chứng minh có tác dụng dài hơn, lên đến 24 giờ với liều 4 milligram. Tuy nhiên, những hạn chế của thuốc cũng được xác định trong đó có đặc tính đối vận mạnh khi được sử dụng cấp. Đặc tính bao gồm cả cảm giác khó chịu, tâm thần bất an. Dù được công nhận song loại thuốc cyclazocine không được những người nghiện tình nguyện hồ hởi đón nhận và sớm bị mang tiếng xấu. Dù sao thì loại thuốc này cũng đã điều trị thành công cho một số người, hiện thuốc vẫn đang được dùng trong điều trị ở một số cơ sở ở thành phố New York.
Ngoài ra, có 3 loại khác là M-5050, BC-2605 và EN-1639A đã gần đi đến giai đoạn thử nghiệm trên động vật và trên người. Trong đó loại EN-1639A được xem là loại đối kháng có triển vọng, không gây khó chịu và tác dụng phụ không mong muốn như chất cyclazocine (Blumberg và Dayton, 1973). Thuốc có tác dụng lâu, với một lượng 50mg nó có thể chặn tác dụng của ma tuý trong 24 giờ. Cuối năm 1972, một chế phẩm của dòng thuốc này được hoàn thành và đưa ra kiểm nghiệm, lấy tên là naltrexone. Giữa năm 1973, có bằng chứng cho thấy là naltrexone đảm bảo các tiêu chuẩn của một thuốc đối kháng, nó vượt qua thông số của các chất đối kháng khác (Martin, cộng sự, 1973a và 1973b; Resnick, và cộng sự, 1974a, 1974b, và 1974c).
Bên cạnh công tác nghiên cứu đang được triển khai thì cũng có những thay đổi trong công tác quản lý Nhà nước. Năm 1973, Bộ phận đặc trách về lạm dụng và nghiện ma tuý được tách ra khỏi NIGH và mở rộng thành Viện Quốc gia về Lạm dụng Thuốc. Do vậy từ 1973 đến 1974, NIDA và SAODAP cùng chia sẻ trách nhiệm tiếp tục phát triển chất đối kháng ma tuý nói chung và naltrexone nói riêng. Giữa năm 1974, SAODAP bắt đầu giải thể và toàn bộ công tác điều hành và giám sát chất naltrexone chuyển sang cho Bộ phận Nghiên cứu của NIDA.

Công tác nghiên cứu về Naltrexone của Tổ chức NIDA:
Từ 1973 đến 1974, NIDA đã hỗ trợ cho 26 hợp đồng và khế ước về nghiên cứu trên lâm sàng và tiền lâm sàng liên quan trực tiếp đến chất đối kháng ma tuý, với tổng trị giá là trên 5 triệu đô la. Trong đó có gần 17 hợp đồng và khế ước thực hiện nghiên cứu naltrexone trên lâm sàng, tất cả nằm trong một chương trình tổng thể nghiên cứu về naltrexone. Trong số đó có 5 cơ sở nghiên cứu được chọn áp dụng theo phương pháp mù đôi và trấn an (double-blind placebo – xem giải thích ở trên). Một trong số đó hiện vẫn đang được thực hiện bởi Viện hàn lâm khoa học quốc gia (NAS). Trên kế hoạch thì mục đích của nghiên cứu là hoàn thành yêu cầu của Giai đoạn II, nhằm chứng minh hiệu quả và độ an toàn của naltrexone. 5 cơ sở nghiên cứu của NAS có áp dụng một chuẩn gồm 3 thể thức. Sự khác nhau của 3 thể thức này ở chỗ là chúng dùng nhóm loại bệnh nhân nghiện khác nhau. Cơ sở điều trị Baltimore và New Haven chỉ dùng đối tượng nghiện nặng trong nghiên cứu, Cơ sở Detroit và Sepulveda sử dụng người nghiện loại methadone, và Cơ sở St. Louis chỉ dùng đối tượng nghiện “đường phố”.
Những hợp đồng và khế ước còn lại thì thực hiện nghiên cứu naltrexone trên lâm sàng, có và không đối chứng (Brahen, cộng sự, 1974; Brahen, 1975; Brahen, cộng sự, 1976; O’Brien, cộng sự, 1975; Schecter, 1975; và Taintor, cộng sự, 1975). Các nghiên cứu này tự do chọn thể thức nghiên cứu, hướng nghiên cứu và nhóm đối tượng nghiện. Nhóm các hợp đồng và khế ước nghiên cứu này được gọi là nhóm nghiên cứu NIDA. Nhóm này lại được chia ra làm 2 nhóm nhằm góp phần vào chương trình nghiên cứu naltrexone tổng thể, gồm có: nhóm “nghiên cứu naltrexone trên lâm sàng mở” (open clinical naltrexone studies) – nhóm này nghiên cứu naltrexone trên các tình huống lâm sàng khác nhau, và nhóm “nghiên cứu naltrexone về hành vi” (behavioural naltrexone studies) – chú trọng nghiên cứu về việc hình thành hành vi.
Toàn bộ nghiên cứu thực hiện trong giai đoạn năm 1974 đều do NIDA chỉ đạo để hoàn thành Giai đoạn II nghiên cứu naltrexone. Trong giai đoạn này, một trong những trách nhiệm chính của NIDA là kiểm tra mức độ an toàn của thuốc ở trên người. Để thực hiện được điều đó thì nhất thiết phải có một hệ thống giám sát chặt chẽ, có đủ nhân viên để đảm bảo phát hiện ngay bất kỳ tác dụng xấu nào của thuốc. Chúng tôi đã quyết định thiết lập một hệ thống giám sát tại các cơ sở nghiên cứu của chúng tôi, chúng tương tự như hệ thống ở 5 cơ sở nghiên cứu của Viện hàn lâm khoa học quốc gia. Viện nghiên cứu sinh trắc học (BRI) của thành phố Washington, D.C. đã giúp trong công tác giám sát và thống kê cho các nghiên cứu của NAS và đã xây dựng một số biểu mẫu (form) cùng chung với uỷ ban phối hợp NAS-CENA để cùng thực hiện. Chúng tôi đã phối hợp cùng BRI triển khai hệ thống giám sát tại các cơ sở nghiên cứu của NIDA bao gồm việc thu thập thông tin về: báo cáo phòng thí nghiệm hàng tháng (NAS-5a), báo cáo tổng kết về tâm thần và thể chất hàng tháng (NAS-5b), danh sách kiểm tra triệu chứng hàng tuần (NAS-7), và báo cáo kết quả điều trị hàng ngày (NAS-9 và 9a). Vì vậy, đầu năm 1975, chúng tôi đã thu thập được một số lượng lớn thông tin về cả mức độ an toàn và hiệu quả của thuốc, đưa vào ngân hàng dữ liệu trung ương của BRI và đã hoàn toàn chủ động theo dõi các tác dụng và ảnh hưởng của thuốc.
Cho đến nay, chúng tôi chưa gặp phải bất kỳ tác dụng xấu nào của naltrexone với hệ thần kinh và tâm thần. Câu hỏi được đặt ra trước đây là liệu thuốc có gây tăng huyết áp. Theo dữ liệu được thu thập thì có một lượng nhỏ (2-3 millimet chất thuỷ ngân), không đáng kể về mặt thống kê, xuất hiện ở cả huyết áp tâm thu và tâm trương sau khi dùng naltrexone những lần đầu. Tuy nhiên chỉ 4 đến 6 tuần nó lại quay trở về mức ban đầu, tức giảm 2-3 millimet tương ứng. Phản ứng phụ rõ rệt duy nhất của thuốc là lên hệ tiêu hoá ở phần bụng, dạ dày và ruột. Khi những hiện tượng này xuất hiện ở giai đoạn đầu điều trị, chúng được coi là những triệu chứng nhỏ khi cai nghiện bởi lúc đó ma tuý vẫn còn trong cơ thể. Những triệu chứng này sau đó cũng đã được ghi nhận trong điều trị. Một số nhà nghiên cứu đã phát hiện rằng những triệu chứng đó đôi khi cũng được giải quyết bằng việc giảm a xít trong dạ dày hoặc cho uống thuốc sau khi ăn. Do đó chất naltrexone có thể được coi là chất kích thích đối với dạ dày với một số trường hợp người nghiện.
Còn một vấn đề mang tính khoa học nữa là về: mức độ tương tác của naltrexone với các thành phần nội sinh có tính chất tương tự như ma tuý opiate, một chất mà các nhà nghiên cứu còn đang bỏ ngỏ? Những triệu chứng ở phần bụng có ảnh hưởng ra sao? Nếu một người đang được điều trị bằng naltrexone lại bí mật đưa vào cơ thể chất nội sinh mà thực chất lại là ma tuý opiate thì có thể cho rằng: những triệu chứng xảy ra không được coi là do ma tuý bên ngoài gây nên? Vậy có thể bao gồm cả những triệu chứng nhỏ xuất hiện khi cai có đặc điểm như ở phần bụng đã miêu tả ở trên.
Dù còn có vài tác dụng phụ nhỏ như trên, song chúng tôi thấy không có tác dụng nào kéo dài và nghiêm trọng trực tiếp tới sự tiêu hoá naltrexone. Chất đối kháng này vẫn được xem là loại thuốc an toàn trong điều trị cai nghiện.
Chương trình phát triển Naltrexone trong tương lai:
Chương trình nghiên cứu về chất Naltrexone của NIDA hiện nay gồm các phần: nghiên cứu kết hợp của 2 cơ quan NAS-CENA, nghiên cứu naltrexone về hành vi, nghiên cứu naltrexone trên lâm sàng mở, và một số nghiên cứu tại các cơ sở điều trị của NAS là nơi nghiên cứu chủ chốt về độ an toàn và hiệu quả của naltrexone không sử dụng hình thức thí nghiệm mù đôi (double-blind). Các nghiên cứu kết hợp của 2 cơ quan NAS-CENA bắt đầu thực hiện từ giữa năm 1974 và hiện đang trong giai đoạn thu thập dữ liệu kết quả điều trị. BRI hiện đang sắp xếp và phân tích các dữ liệu. Kết quả sẽ được trình lên uỷ ban NAS-CENA là cơ quan sẽ đưa ra báo cáo kết luận cuối cùng vào khoảng cuối năm 1976. Gần 190 đối tượng được thí nghiệm nghiên cứu được dùng ít nhất là một liều thuốc, một nửa là dùng giả thuốc (trấn an), một nửa cho dùng naltrexone. Kết quả chưa chính thức song có nhận thấy là naltrexone đã có tác dụng nhất định trong nghiên cứu.
Ngoài nghiên cứu kết hợp NAS-CENA ở trên, trong một thí nghiệm khác, trên 690 người đã được cho dùng ít nhất là một liều naltrexone tại các cơ sở khác do NIDA tài trợ, nghĩa là tổng số người được thí nghiệm là trên 775 người. Số lượng này vượt con số theo yêu cầu của Giai đoạn II kiểm tra trên lâm sàng. Do vậy chúng tôi có xem xét đưa chương trình nghiên cứu vào bước cuối Giai đoạn II và đang chuẩn bị dữ liệu để trình lên FDA vào đầu năm 1977.
Khi giai đoạn phát triển naltrexone đi đến được kết luận trước khi chuyển sang Giai đoạn III, việc tài trợ cho chương trình vẫn do tổ chức NIDA. Do vậy chúng tôi vẫn liên tục khuyến khích các nhà nghiên cứu tìm kiếm, kêu gọi nguồn tài trợ cho công tác nghiên cứu. Cho đến nay công tác nghiên cứu naltrexone vẫn đang được duy trì tiếp tục.
Bước sang Giai đoạn III, chúng tôi có xem xét khả năng việc Hãng nghiên cứu Endo, là một công ty dược phẩm và sở hữu bằng sáng chế naltrexone, sẽ thực hiện tiếp giai đoạn nghiên cứu này. Dù thuốc đã được kiểm nghiệm qua Giai đoạn II song vẫn cần phải kiểm tra và đánh giá hơn nữa trong Giai đoạn III.
Naltrexone được chứng minh là một chất thú vị, hoàn toàn không hẳn là thuốc bởi còn thiếu một số công nhận khác ngoài tác dụng đối kháng ma tuý của nó. Việc không có tác dụng dược lý khác cũng có thể được xem là một đặc điểm thú vị của thuốc. Trường hợp mà các liệu pháp khác như methadone và LAAM có xu hướng không được đồng tình, thì chúng tôi sẽ lấy liệu pháp dùng naltrexone làm chương trình trọng tâm. Tinh thần “chống nghiện ngập” đang có ở 2 vùng là California và Massachusetts. Đây là 2 nơi tiên phong và thí điểm cho các nơi khác, có tinh thần đón nhận naltrexone sử dụng làm liệu pháp.
Naltrexone được sử dụng cho đến nay và đã cho thấy hiệu quả và an toàn trên một số người nghiện. Tuy nhiên vẫn cần phải kiểm tra và đánh giá hơn nữa bằng các phương pháp mới và tiên tiến. Một số câu hỏi được đặt ra là: Làm sao để nâng cao hiệu quả của naltrexone lên mức cao nhất. Có nên nghĩ rằng thuốc như là một liệu pháp duy trì lâu dài? Hoặc nó có thể hiệu quả hơn khi được dùng kết hợp với các kỹ thuật can thiệp khủng hoảng ngắn hạn khác; hoặc là kết hợp với các liệu pháp điều chỉnh hành vi khác, tất cả đều nhằm giúp người nghiện đến với điều trị bằng naltrexone. Ngoài ra, nghiên cứu tiền lâm sàng việc áp dụng cấy thuốc vào cơ thể cũng vẫn đang được tiếp tục. Bên cạnh các câu hỏi liên quan đến chuyên môn thì cũng có những câu hỏi khác về các yếu tố ảnh hưởng như văn hoá, xã hội, môi trường, quan điểm thái độ của cả bác sĩ điều trị và của cả người bệnh. Đặc điểm về tính cách hoặc nội tâm lý của người nghiện có thuận lợi, phù hợp với phương pháp điều trị nào? (Goldstein, 1975 và 1976; Martin, 1975; Willete, 1976).
Các bài viết tiếp sau trong chuyên đề này sẽ đề cập, giải quyết các câu hỏi này cũng như làm sáng tỏ hơn, đi vào chi tiết hơn của nhiều lĩnh vực nghiên cứu về chất naltrexone. Hy vọng của chúng tôi là các nghiên cứu sẽ tiếp tục làm hé mở ra các giải pháp, làm cho liệu pháp naltrexone hiệu quả và năng suất nhất trong điều trị cai nghiện ma tuý.

References      -   Phần tài liệu tham khảo
Xem nguyên bản tiếng Anh
(liệt kê: tên tác giả, tên bài, tên nhà xuất bản, số trang, năm)

NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN
MỘT LOẠI THUỐC MỚI
TS. Edward C. Tocus
Nghiên cứu và phát triển một loại thuốc mới để đưa ra thị trường là một chủ đề có thể chiếm toàn bộ của một tập bài giảng. Trong 20 phút tới, chúng tôi chỉ có thể trình bày một phần của chủ đề này. Cụ thể là một số những qui định và yêu cầu của Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm (FDA).
FDA có thẩm quyền xem xét về độ an toàn và hiệu quả của các loại thuốc, dược phẩm được lưu hành, buôn bán trên thị trường ở các bang của Mỹ.
Chương 505 trong Luật về mỹ phẩm, thuốc, thực phẩm có quy định rằng không cá nhân nào được giới thiệu, đưa chuyển vào thị trường các bang bất kỳ loại thuốc nào mà chưa có phê duyệt cho phép sử dụng. Luật cũng cho phép mọi người được nộp hồ sơ xin cấp phép cho thuốc được thương mại ở các bang. Hồ sơ phải có đầy đủ các báo cáo thẩm tra khoa học trong đó có phần đảm bảo an toàn và hiệu quả của thuốc như đã được nêu. Ngoài ra phải có cả danh sách các bài viết, thành phần đầy đủ của thuốc, cách dùng thuốc, cơ sở và qui trình sản xuất, đóng gói. Gửi kèm cả mẫu thuốc và vật phẩm.
Có một số mục là bắt buộc để có thể giới thiệu loại thuốc mới vào thị trường các bang. Thời gian còn lại chúng ta sẽ xem xét những yêu cầu của bản báo cáo thẩm tra vè độ an toàn và hiệu quả của thuốc.
Việc thẩm tra thuốc được thực hiện theo Quy định về thẩm tra loại thuốc mới (Investigational new drug regulation), gọi tắt là Quy định IND. Thuốc đang được thẩm tra vẫn có thể được vận chuyển qua các bang để nghiên cứu, nhưng phải mang nhãn hiệu là thuốc dùng cho thẩm tra. Cá nhân, đơn vị nộp hồ sơ cần chứng minh được tác dụng dược lý của sản phẩm, trên động vật hoặc là trong ống nghiệm trước khi thực hiện trên người.
Cũng có một số ngoại lệ trong chính sách, ví dụ như những tình huống được quan sát trên người được dùng thuốc theo chỉ định. Có thể có một số ngoại lệ hy hữu khác.
Ngoài tác dụng dược lý trên động vật, nhà nghiên cứu cũng cần xác định mức độ độc hại của thuốc trên động vật để từ đó xác định tác hại của thuốc với các bộ phận của cơ thể sống.
Tuỳ vào loại thuốc được điều tra mà cách xác định mức độ độc trên động vật cũng khác nhau. Thường thì người ta dùng ½ liều loại gây chết người LD50, áp dụng trên nhiều chủng loại động vật, đưa thuốc vào bằng các cách, nhằm xác định mức độ độc gây chết người của thuốc. Sau đó nghiên cứu được thực hiện bằng nhiều liều thuốc khác nhau, động vật được thí nghiệm bị giết để lấy bộ phận của nó ra làm xét nghiệm mức độ độc.Trước khi thử nghiệm trên người thì phải thử nghiệm rất lâu dài trên động vật, ít nhất là trên 2 loại động vật và phải tương đương với thời gian dự định thử trên người.
Với một số loại thuốc, ngoài việc nghiên cứu trên động vật để xác định mức độ độc trong thời gian dài còn phải phát hiện khả năng gây ung thư của thuốc.
Trước khi đưa thuốc cho phụ nữ còn khả năng sinh nở sử dụng, thì cũng cần nghiên cứu trên động vật về tác dụng của thuốc đối với chức năng sinh sản. Phần 1 của nghiên cứu này là cho dùng thuốc trước khi cho giao cấu sau đó đánh giá xác định ảnh hưởng của thuốc với khả năng sinh sản. Phần 2 là cho nhóm động vật đang mang thai dùng thuốc để xác định ảnh hưởng của thuốc tới sự phát triển của bào thai. Phần 3 là việc cho dùng thuốc trước khi sinh và trong khi cho bú để xác định tác dụng của thuốc khi sinh đẻ và với sự phát triển của sơ sinh. Dù có những thử nghiệm cận thận như ở trên song việc áp dụng thuốc trên người vẫn phải thực hiện hết sức cẩn trọng kết hợp với những kinh nghiệm lâm sàng.
Khi nghiên cứu độc tố của thuốc thử nghiệm trên động vật đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo an toàn để thử nghiệm trên người tình nguyện, đồng thời thành phần hoá học của thuốc cũng đã được kiểm nghiệm đảm bảo chất lượng, công tác thử nghiệm lâm sàng trên người bắt đầu được thực hiện.
Công tác thử nghiệm trên lâm sàng này có thể được chia ra làm 3 giai đoạn:<
Giai đoạn I. Nghiên cứu dược lý trên lâm sàng - thử nghiệm thuốc trên người, trước hết là thử nghiệm trên những ngưừi tình nguyện để xác định tác dụng của thuốc, ngay tiếp theo là đánh giá theo liều dùng về mức độ an toàn và hiệu quả của thuốc. Hoặc vì lý do nào khác như là về mặt đạo đức, yêu cầu khoa học, thì có thể cần phải chọn lựa đối tượng để thử nghiệm. Tất cả thử nghiệm đó đều được coi là một phần của Giai đoạn I.
Tất nhiên là số lượng nghiên cứu và số lượng bệnh nhân là tuỳ thuộc vào loại thuốc song thường là nằm trong khoảng 20-80. Nghiên cứu về độ hoạt mạnh và chuyển hoá của thuốc cũng nằm trong giai đoạn này. Nghiên cứu về độ ngấm, hấp thụ thuốc được thực hiện trước, và về mức độ chuyển hoá thì được thực hiện sau.
Giai đoạn II. Điều tra trên lâm sàng trong đó có thử nghiệm so sánh đối chứng nhằm chứng minh mức độ hiệu quả và an toàn. Thông thường thì nghiên cứu được thực hiện trên một số lượng bệnh nhân hạn chế và được giám sát chặt chẽ. Cũng có khi sử dụng 100-200 bệnh nhân, tuân theo các qui định theo dõi chặt chẽ.
Giai đoạn III. Thử nghiệm trên lâm sàng được mở rộng phạm vi, được thực hiện sau khi đã có chứng minh về hiệu quả của thuốc ở một mức độ nào đó. Giai đoạn này nhằm thu thập thêm bằng chứng về hiệu quả cũng như mức độ an toàn của thuốc và cả các tác dụng phụ khác.
Các nguyên tắc sau đây được xây dựng qua nhiều năm và đã được công nhận bởi cộng đồng khoa học. Kế hoạch hoặc cách nghiên cứu, cũng như báo cáo kết quả nghiên cứu phải bao gồm như sau:

1.      Nêu rõ mục đích và yêu cầu của nghiên cứu.

2.      Phương pháp lựa chọn chủ đề cần có:

(a)  Cần đảm bảo phù hợp với mục đích của nghiên cứu, các loại chẩn đoán, xét nghiệm phù hợp, trong trường hợp là phòng bệnh thì cần có tính mẫn cảm tính trơ.

(b)  Chỉ định nhóm đối tượng được thực hiện thí nghiệm nhằm đạt khách quan.

(c)  Đảm bảo tính đồng đều của các thông số như độ tuổi, giới tính, mức độ nặng hoặc thời gian bị bệnh, loại thuốc đã sử dụng.

3.     Giải thích phương pháp điều tra và ghi kết quả bao gồm cả các thông số đã được đo, định lượng, đánh giá phản ứng, thực hiện khách quan về phía đối tượng được nghiên cứu và cả người thực hiện.

4.     So sánh kết quả điều trị hoặc chẩn đoán theo cách cho phép đánh giá định lượng. Yêu cầu phải chính xác và phải khách quan đối với người thu thập kết quả và người làm phân tích dữ liệu. Nêu ra mức độ và phương pháp “điều tra kín” (blinding - giấu không cho biết vì mục đích đánh giá khách quan). Nói chung có 4 loại so sách được công nhận là:

a.      Không điều trị: Trường hợp này không quan tâm nhiều đến việc cho dùng loại giả thuốc (nhằm trấn an). So sánh kết quả một cách khách quan của nhóm được điều trị và nhóm bệnh nhân không được điều trị.

b.      So sánh kết quả của nhóm được dùng thuốc thật với nhóm cho dùng loại thuốc nhìn giống hệt thuốc thật nhưng không có tác dụng.

c.      Một chế độ ăn uống, dinh dưỡng hợp lý cũng được dùng trong việc so sánh, khi mà các điều kiện chăm sóc cho các nhóm không điều trị hoặc dùng loại giả thuốc là điều trái ngược với mong muốn của người bệnh.

d.      Về lịch sử bệnh trước đây: Trong một số trường hợp có liên quan đến bệnh nguy cơ tử vong cao (bạch cầu cấp từ lúc thơ ấu), có dấu hiệu và triệu chứng bệnh nặng hoặc lâu ngày (sốt khi viêm nhiễm), hoặc trong phòng bệnh mà lại có nguy cơ bệnh dịch cao, thì kết quả của việc sử dụng loại thuốc mới sẽ được so sánh về định lượng với số liệu trước đây.

5.     Báo cáo tổng kết về phương pháp phân tích và đánh giá dữ liệu lấy từ nghiên cứu bao gồm bất kỳ phương pháp thống kê thấy phù hợp.

a.      Để loại thuốc mới được phê duyệt thì đòi hỏi công tác điều tra, đánh giá phải đầy đủ, theo các tiêu chuẩn về cách xác định, khoảng thời gian, chất lượng, tinh khiết, liều dùng,  cũng nhằm giúp kết quả điều tra có ý nghĩa.

b.      Các nghiên cứu không có đối chứng hoặc chỉ được đối chứng một phần sẽ không được phê duyệt. Các nghiên cứu được thực hiện cẩn thận với đầy đủ tài liệu sẽ minh chứng cho hiệu quả và độ an toàn của thuốc được kiểm nghiệm. Các nghiên cứu được xem xét, đánh giá theo các quy định và tiêu chí ở đây. Những báo cáo về một ca biệt lập, kinh nghiệm ngẫu nhiên, hay các báo cáo thiếu đánh gia khoa học đều không được xem xét.


Khi có đầy đủ kết quả nghiên cứu, được phân tích, tổng kết theo đúng qui trình và phù hợp. Kết quả được đưa vào Form xin chứng nhận loại thuốc mới. Nếu FDA phê duyệt, thì thuốc sẽ được phép lưu hành. Trường hợp hồ sơ thiếu, không đủ bằng chứng thì cũng được trả lời là chưa đủ điều kiện cùng với lý do. Nếu hồ sơ được hoàn thiện, bổ sung đầy đủ thì việc cấp phép vẫn sẽ được thực hiện sau đó.

NGHIÊN CỨU TIỀN LÂM SÀNG VỀ ĐỘC TÍNH CỦA NALTREXONE
TS. Monique C. Braude và Ths. Michael Morrison
Giới thiệu:
Nghiên cứu về độc tính có trong một loại thuốc mới được thực hiện trên động vật trước khi được thử nghiệm trên lâm sàng. Nghiên cứu mức độ độc cấp tính và mãn tính để có thể quyết định xem có nên sử dụng thuốc trên người cũng như để khuyến cáo các bác sĩ điều trị. Vì lý do này nên liều dùng cần phải đủ mạnh để xác định độ độc cũng như xác định liều có thể gây tử vong.
Nghiên cứu cũng để tìm ra mối quan hệ của chất độc với liều dùng có hiệu quả song kết quả không thể áp dụng trực tiếp sang người được. Liều lượng được dùng trên động vật cao hơn nhiều liều lượng trên lâm sàng cần. Không thể so sánh tuổi thọ của người và của dộng vật được thí nghiệm, nên có hiện tượng là số lượng con vật sẽ chết dần theo thời gian, ví dụ sau khoảng 12 tháng. Do vậy tỷ lệ chết trong năm thứ 2 của nghiên cứu có thể được cho là do tuổi già, hay là do tác dụng của thuốc, hoặc do cả 2 nguyên nhân. FDA hướng dẫn là thí nghiệm nên kèm với tỷ lệ là 1:1. Thí nghiệm này dùng chuột và khỉ.
Nghiên cứu tiền lâm sàng độc tính của Naltrexone:
Naltrexone là một chất đặc kết tinh màu trắng, hoà tan trong nước, có nhiệt dộ tan chảy là 275oC. Công thức phân tử: C20 H23 NO4-HC1 . Naltrexone lần đầu tiên được thực hiện kiểm tra bởi Cơ quan thí nghiệm Endo về độc tính cấp của nó ở trên chuột, chuột nang (guinea pig) và chó. Kết quả là không thấy độc tính cấp. Ở chuột trong tĩnh mạch (i.v.) kết quả LD50 là 180 ± 24 mg/kg, ở dưới da (s.c.) LD50 là 570 ± 19 mg/kg, và ở miệng kết quả LD50 là 1100 ± 96 mg/kg. Ở loại chuột nang, kết quả là: (s.c.) LD50 là 1930 ± 338 mg/kg, và ở miệng kết quả LD50 là 1450 ± 265 mg/kg. Ở chó, kết quả là: (s.c.) LD50 là khoảng 200 mg/kg, và liều uống gây tử vong là xấp xỉ trên 130 mg/kg. Nghiên cứu độc tố cấp qua đường miệng ở chó không thực hiện được do thuốc gây làm con vật nôn.
Trong tất cả các nghiên cứu này, tử vong xảy ra sau những cơn co giật. Trước đó thường có biểu hiện gồm trạng thái bất yên, run run ủ dột, trầm uất, chảy dãi, nôn mửa. Cơn đỉnh điểm là sau 30 đến 60 phút cho dùng dưới da (s.c.). Các dấu hiệu dần hết sau 2 đến 4 giờ và khả năng tử vong là không suy giảm.
Trong một loạt nghiên cứu được thực hiện bởi Industrial Bio-Test theo một hợp đồng của NIDA, một số khỉ trưởng thành (2 đực và 2 cái) được cho dùng naltrexone theo liều tăng lôga. Bằng liều dùng dưới da (s.c.), quan sát thấy trọng lượng giảm với liều dùng là 100 mg/kg; hiện tượng kiệt sức, co giật và chết thấy ở cả 4 con với liều 300 mg/kg. Uống naltrexone dạng con nhộng gây lờ đờ, chảy dãi và nôn mửa với liều 1000 mg/kg và một trong số 4 con đã co giật và chết với liều 3000 mg/kg.

Nghiên cứu về độc tính bán cấp tính ở chuột:
Naltrexone được dùng bằng đường uống, truyền qua bằng ống, với liều dùng 90 ngày, cho 3 nhóm gồm 50 con chuột (25 con đực và 25 con cái). 3 nhóm cho tương ứng với 3 liều là 35, 70 và 560 mg/kg của trọng lượng cơ thể, dùng 6 ngày/tuần. Một nhóm khác là 25 con dùng làm đối chứng, cho dùng nước nhỏ giọt. Liều lượng naltrexone trong thí nghiệm này cao gấp 35, 70 và 560 lần liều dùng trên lâm sàng ở người là 1 mg/kg/ngày. Ngoài hiện tượng chảy dãi có ở hầu hết các con vật khi được dùng liều cao, được coi như là một phản ứng có điều kiện, thì mọi hoạt động của con vật được nhận thấy cơ bản là bình thường. Trọng lượng tăng, ăn uống như nhóm đối chứng, các chỉ số huyết học cũng như vậy, ngoại trừ chỉ số SGPT tăng nhưng chưa chính thức ở một nhóm chuột cho dùng liều cao. Ở nhóm được dùng liều cao thì ngoại trừ chỉ số xeton (ketone) tăng nhẹ , toàn bộ nước tiểu được phân tích, xét nghiệm thấy bình thường. Ở nhóm này mặc dù một số bộ phận có thấy xu hướng tăng cân, cũng như tăng cân của toàn bộ cơ thể, song không nhiều, không cho thấy mối quan hệ chính xác với liều lượng thuốc đượcdùng. Không thấy yếu tố gây tử vong của thuốc song một chuột đực ở nhóm dùng liều cao đã bị chết trong một tai biến do liều cao. Toàn bộ xét nghiệm qua việc mổ xác và xét nghiệm các mô trên kính hiển vi đều bình thường. Chưa phát hiện được nghiêm trọng nào ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc.
Một nghiên cứu khác về độc tính bán cấp tính 30 ngày, truyền bằng đường dưới da (s.c.) với các liều là 3, 15 và 300 mg/kg cũng cho các kết quả tương tự. Không có nguy cơ gây tử vong, chỉ khi dùng liều cao mới thấy có hiện tượng chảy dãi và hơi có trạng thái bất yên. Ở những con đực dùng liều cao có thấy trọng lượng tăng dưới mức bình thường song không có thay đổi về huyết học, bệnh lý hoặc trên lâm sàng.
Nghiên cứu về độc tính bán cấp tính ở chó:
Naltrexone được cho dùng bằng đường uống với loại thuốc viên con nhộng trong 90 ngày. Thí nghiệm gồm 3 nhóm, mỗi nhóm có 3 con đực và 3 con cái, liều dùng naltrexone là 20, 40 và 100 mg/kg, dùng 6 ngày/tuần. Liều lượng cao lúc ban đầu là 130 mg/kg nhưng sau vài ngày phải giảm bớt do con vật bị nôn ói. Một nhóm khác gồm 6 con được dùng làm nhóm đối chứng.
Trong thời gian nghiên cứu, biểu hiện của hầu hết các con chó được thí nghiệm đều thấy bình thường. Trong vài ngày đầu dùng thuốc, có biểu hiện hơi ủ dột ở 2 con khi được dùng liều nhẹ và ở 3 con khi dùng liều vừa phải, song tất cả biểu hiện này rồi cũng dần mất đi. Với liều cao là 130 mg/kg thì hiện tượng run, chảy dãi và nôn ói xảy ra ở tất cả chó được thí nghiệm, song nó giảm rõ rệt khi liều dùng giảm xuống còn 100 mg/kg. Các trạng thái như chảy dãi, nôn ói, ủ dột không liên tục, chân sau co cứng, và run rùng mình vẫn tiếp tục xảy ra nhưng với tần số giảm dần trong quá trình nghiên cứu. Khám mắt, thần kinh, thể chất, ăn uống và tăng cân đều thấy bình thường. Các chỉ số huyết học, xét nghiệm nước tiểu, khám bệnh, thần kinh được so sánh giữa nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng, tương đương với các mức trước khi tiến hành kiểm tra, xét nghiệm. Dù có một chút tăng cân ở một số bộ phận hoặc trọng lượng chung song điều này không cho thấy có mối quan hệ giữa liều dùng và cách dùng thuốc. Phát hiện duy nhất ở phần lớn nhóm được thí nghiệm và ở 2 con trong số nhóm đối chứng khi mổ xác là một số bất bình thường nhỏ ở phổi và có xung huyết tại dạ dày và tá tràng. Hai hiện tượng này này được cho là có thể một phần do dùng thuốc lâu, cùng với việc chảy dãi, nôn ói đã xảy ra ở hầu hết những con khi dùng liều cao.và ở một vài con khi dùng liều vừa phải. Về mô học, phổi cho thấy bằng chứng viêm phổi, viêm phế quản mãn ở mức nhẹ đến vừa. Dạ dày và tá tràng cơ bản là bình thường. Mô vú ở tất cả các con cái của cả 2 nhóm trong thí nghiệm cho thấy mức độ các ống tia không đồng đều và có sự gia tăng, căng phồng các ống tia này. Cũng có ghi nhận vài trường hợp tăng sản sinh ở 2 nhóm dùng mức liều thấp và mức liều cao. Hình ảnh cấu trúc mô vú thấy tương tự trạng thái tiết sữa. Các phần của gan ở cả 2 nhóm thí nghiệm và đối chứng có những thay đổi nhỏ trong đó có viêm nhẹ tính mạch trung tâm, u hạt hoại tử ổ và xung huyết.

Hình biểu đồ 3                                              (trang 22)


Nghiên cứu về độc tính của chất Naltrexone


Biểu diễn trọng lượng cơ thể của chuột đực thay đổi,
được kiểm tra qua 24 tháng nghiên cứu
Ký hiệu:    -  * :    Nhóm đối chứng

-    ê:   Nhóm dùng 10 mg/kg

-         :   Nhóm dùng 30 mg/kg

-     +  :   Nhóm dùng 100 mg/kg



Hình biểu đồ 4                                              (trang 23)


Nghiên cứu về độc tính của chất Naltrexone, dùng qua đường uống
Biểu diễn trọng lượng cơ thể của chuột cái thay đổi,
được kiểm tra qua 24 tháng nghiên cứu
Khi liều dùng đạt mức 144 mg/kg, thấy có biểu hiện chán ăn, nhưng khi liều giảm xuống còn 126 mg/kg thì biểu hiện này cũng hết. Không có dấu hiệu độc nào khác ở cả 3 con khỉ.
Trong thí nghiệm kéo dài 1 năm này, các con vật dùng làm thí nghiệm được lấy từ một nhà nhập khẩu động vật, họ cách ly chúng 8 tuần rồi mới thả ra sử dụng để đảm bảo không bị các bệnh nghiêm trọng. Sau khi những con khỉ đến tay chủ hợp đồng nghiên cứu, chúng dần được làm quen, thích nghi với phòng thí nghiệm trong 8 tuần và cũng để đảm bảo là chúng không bị các bệnh ký sinh trùng và lao phổi. Những con khỉ giống Rhesus mới trưởng thành (3-4 kg) không có khác biệt mấy với những con vẫn thường được dùng trong các thí nghiệm.
Trong nghiên cứu này, các con khỉ được cho dùng hàng ngày loại bột naltrexone được bọc viên con nhộng, cùng với ống bắn thú y (balling gun). Nhóm đối chứng cũng dùng viên bọc nhưng là rỗng trong vài tháng đầu nghiên cứu, sau đó thì dùng loại viên chứa chất bột lactose. Chúng được cân trọng lượng và được cho liều dùng cùng một thời gian trong ngày, theo cùng trình tự, được quan sát, theo dõi về hành vi và phản ứng hàng ngày, 7 ngày/tuần.
Liều dùng được phân như sau:
Nhóm Liều dùng Số lượng con đực Số lượng con cái
Nhóm dùng đối chứng 0 8 8
Nhóm T-I 6 mg/kg 8 8
Nhóm T-II 12 mg/kg 8 8
Nhóm T-III 24 mg/kg 8 8
Nhóm T-IV 72 mg/kg 8 8

Lưu ý: Nhóm T-II bắt đầu sau 3 tháng từ khi Nghiên cứu bắt đầu, với liều lượng bắt đầu là 3 mg/kg và cho tăng dần, cứ sau 2 tuần lại tăng thêm 3 mg/kg cho đến khi đạt liều đầy đủ là 12 mg/kg. Các nhóm khác đều bắt đâu ngay với liều đầy đủ.
Kết quả:
Các dấu hiệu về độc tính được mô tả như là một “hội chứng phản ứng”, chúng được ghi nhận có ở trên 41 trong tổng số 80 con. Kết quả về tỷ lệ “hội chứng phản ứng” và cả tỷ lệ tử vong được ghi ở Bảng 1. Hội chứng thường có di chứng và triệu chứng như nhau, đầu tiên là trạng thái chán ăn, kế tiếp là hiện tượng giảm cân. Dấu hiệu tiếp theo thường xuất hiện 2-3 ngày sau là viêm mũi, trong một số trường hợp có bị viêm ruột kết, thường kèm theo một số viêm nhiễm đường hô hấp bao gồm cả viêm hạch bạch huyết vùng cổ. Tử vong xảy ra sau từ 2 đến 10 ngày kể từ lúc bắt đầu chán ăn, và xảy ra ở tất cả các con nếu  không giảm thuốc hoặc không dừng thuốc.
Do cần phải có một số khỉ vẫn sống tại thời điểm cuối của một năm nhằm để phân tích bệnh học và để xác định mức độ an toàn nên nghiên cứu quyết định dừng thuốc khi thấy có hội chứng phản ứng. Con vật sau đó được phục hồi và cho quay trở về liều lượng ban đầu bằng việc giảm 3 mg/kg cứ sau 1 tuần. Trường hợp con vật bị ốm thì liều lượng được giảm ở mức thấp hơn, rồi quay trở về mức bình thường sau khi phục hồi. Toàn bộ nhóm 72 mg/kg được dừng lại sau 18 ngày thuốc; nhóm 24 mg/kg được giảm xuống 18 mg/kg sau 36 tuần thực hiện; một nhóm khác được bổ sung thêm 12 mg/kg. Nhóm 12 mg/kg được hình thành từ mức 3 mg/kg bằng việc tăng đều đăn cứ sau 2 tuần.một lượng là 3 mg/kg.
Phân tích về mô bệnh học của những con đã tử vong không phát hiện thấy có liên quan đến thuốc nhưng có thấy viêm phổi hoặc viêm thanh quản có thể có liên quan đến liều dùng trong 7 trên 12 con được nghiên cứu.
Sau thời điểm (tháng 3/1974) mà hội chứng phản ứng và tử vong đã xảy ra, nghiên cứu được thiết kế lại, không có thêm con vật nào bị ốm. Có một con bị chết do bị tai biến quá liều.trước khi bước sang tuần thứ 52. Không có dấu hiệu rút thuốc khi tạm ngưng thuốc.
Huyết học, hoá lâm sàng và xét nghiệm nước tiểu được thực hiện vào các tuần: 0, 4, 13, 26, 39, 48 và 52. Thay đổi duy nhất được thấy là sự gia tăng của tiểu huyết cầu đối với 3 con cái còn sống sốt trong nhóm T-III vào tuần thứ 52, đã tăng ở mức trên 1 triệu. Không có bất bình thường nào được thấy sau khi khám mắt hoặc ở huyết áp, EKG và tần số hô hấp được đo tại các tuần: 0, 13 và 26 của nghiên cứu.
Kiểm tra tổng thể và kiểm tra về mô bệnh của tất cả các con vật đã thực nghiệm tại  các tuần 26 và 52 thì không thấy có bằng chứng nào về bệnh lý liên quan đến thuốc.

Kết luận:
Kết quả của nghiên cứu này lấy tại thời điểm giảm bớt và dừng liều dùng khi bắt đầu xuất hiện hội chứng phản ứng. Nghiên cứu cho thấy có thể dùng thuốc với hàm lượng 12 mg/kg một cách lâu dài không sợ bị tác dụng phụ với điều kiện là phải tăng liều từ từ. Hội chứng phản ứng không xảy ra với liều dùng là 3 mg/kg nhưng có xảy ra ở tất cả các liều cao hơn mức này. Hội chứng này có liên quan đến việc suy giảm khả năng chống viêm nhiễm song liệu rằng đây có phải một tác dụng trực tiếp hoặc là gián tiếp đối với trạng thái biếng ăn, hoặc là do tác dụng của độc tố thì hiện vẫn chưa biết.
Năm thứ 2 của Nghiên cứu tiến hành trên Khỉ:
Nghiên cứu trong 01 năm đầu được thực hiện ở Industial Bio-Test, do đó Nghiên cứu dài 01 năm tiếp theo được thực hiện ở Viện nghiên cứu Mason.
Mô hình của nghiên cứu được thiết kế như sau:
Liều dùng Số lượng con đực Số lượng con cái
0 5 5
1 mg/kg 5 5
5 mg/kg 5 5
10 mg/kg 5 5
20 mg/kg> 5 5
Naltrexone được dùng bằng đường ống Nelton với tỷ lệ: mỗi 1 ml/kg thì lại đi kèm với 4 ml nước nhỏ giọt. Trong tháng điều trị đầu tiên, liều dùng được tăng dần, tương ứng với từng tuần là từ 1 →5 →10 →20 mg/kg. Đạt liều đầy đủ vào tháng 8/1975, kết thúc điều trị vào tháng 8/1976. Tại thời điêm tháng thứ 6, mỗi nhóm loại bỏ ra một đôi đực cái và cho chúng 2 tháng hồi phục. Sử dụng thuốc hàng ngày, 7 ngày/tuần.
Kết quả:
Nhìn chung không có dấu hiệu độc tố của thuốc ảnh hưởng đến thể chất và hành vi ngoại trừ một ảnh hưởng là khả năng cương cứng của dương vật tại những tuần đầu của nghiên cứu. Xét nghiệm nước tiểu, các chỉ số hoá học trên lâm sàng, huyết học, hấp thu dinh dưỡng và sức khoẻ chung đều bình thường. Sự phát triển của cơ thể có giảm gián đoạn ở một số con nhưng không liên quan đến liều dùng hoặc ảnh hưởng đến việc ăn uống. Việc trọng lượng cơ thể giảm sút vào tháng thứ 6 ở những con cái chưa thể khẳng định là có liên quan đến thuốc bởi số liệu chưa đầy đủ. Những con bị loại bỏ vào tháng thứ 6 cũng không thấy có những thay đổi về mô bệnh học Trong lượng tương đối và tuyệt đối của một số bộ phận tương dương như của nhóm đối chứng. Trong nghiên cứu không có con khỉ nào chết tự nhiên hoặc do bệnh tật.

Kết luận chung:
Từ báo cáo nghiên cứu được trình bày ở đây, cho thấy bằng chứng là naltrexone không gây độc cho các con vật với liều 20 mg/kg. Đây là mức cao gấp 20 lần liều sử dụng trên lâm sàng là 1 mg/kg. Số liệu từ nghiên cứu trên chuột và chó cho thấy là tăng lề an toàn cao hơn nữa là hoàn toàn có thể.
Dựa trên các nghiên cứu tiền lâm sàng này, cần lưu ý xem xét cẩn thận các yếu tố sau trong nghiên cứu naltrexone trên lâm sàng:

-         Biểu hiện biếng ăn

-         Tính dễ nổi nóng

-         Buồn nôn và nôn mửa

-         Các chỉ số hoá của máu và huyết học

Prothrombin

Tiểu cầu

Urê Nitơ trong máu

   

Bảng 1                                               (trang 25)

 
Liều lượng mg/kg Nhóm con đực Nhóm con cái
Tỷ lệ mắc hội chứng (Tuần được kiểm tra) Tỷ lệ tử vong (Tuần được kiểm tra) Tỷ lệ mắc hội chứng (Tuần được kiểm tra) Tỷ lệ tử vong (Tuần được kiểm tra)
0        
6        
12        
24/18        
72   4/8 (2) (3) (3) (4)    

Số liệu trong ngoặc đơn biểu thị cho Tuần mà có xuất hiện hội chứng phản ứng và Tuần mà con vật bị tử vong. Ví dụ: 4/8 (2)  (3)  (3)  (4) – nghĩa là: 4 con trên tổng số 8 con đã bị tử vong, chết vào các tuần là 2, 3, 3 và 4.


TÁC DỤNG CỦA NALTREXONE TRÊN THỂ TUỶ SỐNG CẤP Ở MÈO VÀ TUỶ SỐNG MÃN TÍNH Ở CHÓ; KHẢ NĂNG TƯƠNG TÁC
TỰ NHIÊN VỚI LOẠI ĐỐI VẬN TƯƠNG TỰ MORPHINE
BS. William Martin, TS. James Bell, TS. Paul Gilbert,
BS. Jewell Sloan, James Thompson
Vài năm gần đây, công tác nghiên cứu của chúng tôi về dược lý của chất đối kháng ma tuý có thay đổi nhanh chóng. Kế tiếp các nghiên cứu mà chúng tôi đã chứng minh được rằng chất đối kháng ma tuý cyclazoncine và nalorphine có tác dụng đối vận, đồng thời có gây tác dụng nghiện thuốc nhưng nó khác với tác dụng nghiện do morphine gây ra. Chúng tôi nhận thấy chúng có tác dụng đối vận tại cơ quan cảm thụ nalorphine (receptor), nhưng mức tác dụng không lớn hoặc không hoàn chỉnh, có tính đối kháng tại cơ quan cảm thụ morphine (Martin và đồng nghiệp, 1965; Martin và Gorodetzky, 1965; Martin, 1967). Những quan sát này đã đưa chúng tôi đến ứng dụng thực tiễn đầu tiên, dùng chất đối kháng ma tuý trong điều trị cai nghiện bởi lẽ chúng tôi đã chứng minh được là: (1) Mặc dù thuốc có bị lờn thuốc đối với tác dụng đối vận nhưng nó lại không xảy ra với tác dụng đối kháng của thuốc, và (2) là cyclazocine có tác dụng lâu dài khi được áp dụng bằng đường uống ở người.
Chúng tôi đề xuất là có thể dùng chất đối kháng giúp bệnh nhân duy trì, không trở thành nạn nhân của hành vi sử dụng ma tuý dù là trong những lúc bị căng thẳng, stress, xoá hẳn trong tâm trí những hành vi và ám ảnh của ma tuý, cũng như dập tắt đi những ham muốn của thể xác (Martin, cộng sự, 1966; Martin và Corodetzky, 1967; Martin, 1968). Chúng tôi có may mắn là đã.nghiên cứu naloxone trước đây và nhận thấy là nó không có tác dụng đối vận với morphine và tuýp morphine (Jasinski và cộng sự, 1967).
Trong các nghiên cứu đó, chúng tôi cũng khám phá ra khả năng dùng naloxone thay cho cyclazocine trong liệu pháp đối kháng song thời gian tác dụng của nó quá ngắn và lượng thuốc dùng qua đường uống cũng quá nhỏ. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại đưa chúng tôi đến việc nghiên cứu chất cùng họ N-methylcyclopropyl của naloxone là naltrexone -  được xem là một chất đối kháng thuần khiết có thời gian tác dụng lâu và có hiệu quả, sử dụng được qua đường miệng/uống (Martin, cộng sự, 1971, 1973). Theo chúng tôi thì naloxone đã giải quyết đến vấn đề là: liệu morphine có phải là một chất đối vận hay không và coi nó là một chất đối vận. Đây là một khái niệm vẫn chưa được rõ ràng vào thời gian đó (Martin, 1967). Chúng tôi cũng đã tính đến khả năng cho tồn tại một chất đối vận tự nhiên và đã xem xét tác dụng của nalorphine trên điện não đồ (EEG), các chức năng hô hấp và cơ duỗi đẩy một bên của cơ thể ở một số loài vật cũng phù hợp với phương pháp đó. Do naloxone không gây tăng cảm giác đau, giãn đồng tử, kích thích hô hấp, ở trên hầu hết các tiêu bản chế phẩm nên chúng tôi thấy là không có chất đối vận tự nhiên tác động tới các chức năng này. Khi Hughes (1975) lần đầu tiên báo cáo về chất polypeptide có tác dụng cùng với morphine trên ruột hồi của loài chuột lang (guinea-pig), chúng tôi lại tiếp tục xem xét nghiêm túc về chất đối vận và xem lại các thực nghiệm (McClane và Martin, 1967) mà trong đó chúng tôi đã chứng minh được là naloxone có tác dụng tạo thuận lợi cho phản xạ cơ gấp. Việc tạo thuận lợi này được xem là một “tác nhân kích thích chưa rõ ràng” của naloxone và có quan hệ tới tác dụng gây co giật của naloxone. Naltrexone cũng có tạo thuận lợi cho phản xạ cơ gấp ở thể tuỷ sống mãn của chó (Martin và cộng sự, trên ấn phẩm). Quan sát gần đây thấy rằng có 3 thụ thể liên quan chặt chẽ ở trong não là thụ thể: µ, K và , chúng có nhiệm vụ tương ứng là cảm nhận sự khoan khoái, giảm đau và gây ảo giác do tác tác dụng của morphine cũng như thuốc tương tự morphine; phát hiện này đã làm thay đổi về vai trò của đối vận với morphine trong chức năng của bộ não. Trong các nghiên cứu gần đây, TS. Bell đã phát hiện rằng cả naloxone và naltrexone đều tạo thuận lợi cho sợi nhiễm sắc (C-fiber) và phản xạ đau ở rễ trước trên thể tuỷ sống cấp ở mèo. Ngược lại với quan sát trước đó trên thể tuỷ sống mãn ở chó, tác dụng tạo thuận lợi gia tăng với liều dùng đã được thấy rõ với những liều dùng nhỏ của cả naloxone và naltrexone. Ngoài ra, Bell và Martin cùng quan sát thấy nalorphine là một đối vận nhỏ của thụ thể K và , và là một đối kháng của thụ thể µ - cũng tạo thuận lợi cho cả phản xạ  ở sợi nhiễm sắc trên thể tuỷ sống cấp ở mèo. Trên thể tuỷ sống mãn ở chó, tác dụng nổi bật của nalorphine là làm suy giảm phản xạ cơ gấp bởi tác dụng đối vận với thụ thể K của nó. Bell và Martin cùng xác nhận kết quả của Koll (1963) cho thấy là morphine làm suy giảm phản xạ sợi nhiễm sắc. WIN 35, 1972 là một đối vận với thụ thể K không chiếm giữ cơ quan cảm thụ morphine, nó cũng làm suy giảm phản xạ của sợi nhiễm sắc. Naloxone và naltrexone đối kháng với tác dụng của cả morphine và WIN 35, 1972 nhưng cao gấp 6 lần mà naloxone và naltrexone cần để đối kháng WIN 35, 1972 khi cần để đối kháng morphine. Những phát hiện này tương tự với kết quả của Kosterlitz (1974) trên ruột hồi của chuột lang cũng như phù hợp với thực nghiệm của Gilbert và Martin trên con vật cho nghiện morphine và cyclazocine. Cyclazocine là một đối vận với cả thụ thể K và .

Kết quả nghiên cứu về sau đã cho thấy rõ là tuỷ sống của chó và mèo giống nhau đều có cơ quan cảm thụ µ và K, và mặc dù naloxone và naltrexone hoạt động như những đối kháng tại các thụ thể nhưng tại thụ thể µ cao hơn thủ thể K. Thực nghiệm với nalorphine cũng đưa ra là có đối vận µ tự nhiên trong tuỷ sống. Nếu coi nalorphine là một đối vận của thụ thể K, thì mức µ trong tuỷ sống phải lớn hơn tác dụng đối vận làm suy giảm K của nalorphine và khi µ được suy giảm bớt bởi tác dụng đối kháng của nalorphine, kết quả của sự ức chế. Để giải thích việc naloxone và naltrexone tạo thuận lợi cho phản xạ cơ gấp trên thể tuỷ sống cấp ở mèo nhưng không có tác dụng mấy trên thể tuỷ sống mãn ở chó, chúng tôi cho rằng có thụ cảm µ chạy từ thân não ức chế phản xạ cơ gấp và sợi nhiễm sắc (Bell và Martin thực hiện). Cũng có những nơron K ức chế trong tuỷ sống ở thể tuỷ sống cấp của mèo. Đường dẫn µ gây ức chế phải thấp hơn mức cắt ngang, do vậy naloxone và naltrexone có tác động lớn với các phản xạ. Tuy nhiên ở thể tuỷ sống mãn ở chó thì đường dẫn này có thể bị thoái hoá nên chỉ còn lại đường dẫn K trong tuỷ sống, nó thấp hơn mức hoạt động (xem Hình minh hoạ 1).
Vẫn cần phải chứng minh rằng naloxone và naltrexone có tác dụng giảm đau, thực nghiệm trên động vật, chúng tôi cho rằng khả năng này trên chó, chuột trong tình trạng tỉnh táo là khá thấp; tuy nhiên, nếu giả sử là một trong những vai trò của hệ đối vận K trên chó là việc gây ngủ và ức chế một số co giật, thì việc giải thích ảnh hưởng gây co giật của naloxone và naltrexone, tác dụng làm dịu của WIN 35, 1972 và keto-cyclazoncine là đều có thể thực hiện được.
Như đã được đề cập trước đây, các thực nghiệm của Gilbert và Martin đã mạnh mẽ cho rằng morphine là một đối vận với cả µ và K. Do vậy chúng tôi bắt đầu thực hiện các thực nghiệm để xác định morphine và các thụ thể K, được tiến hành trong ống nghiệm. Trong dịch treo mô đồng thể ở não được ủ với naloxone, morphine, levorphanol và WIN 35, 1972 cản trở việc kết hợp của naloxone với các vùng cảm thụ trong dịch đồng thể ở não chuột. Ức chế sự kết hợp naloxone có liên quan đến liều dùng; tuy nhiên, hiệu quả cao nhất đạt được bằng sự có mặt của cả 3 loại thuốc. Việc WIN 35, 1972 thay thế cho naloxone đã chứng tỏ là có thụ thể K nằm trong dịch đồng thể ở não chuột.

 

Hình 1 - Giả thiết về vai trò của đối vận µ và K trong chức năng tuỷ sống.
Nửa bên phải của biểu đồ minh hoạ trạng thái cấp tính và nửa bên trái là trạng thái mãn tính trên tuỷ sống của con vật. Các nơron sợi trục dài nổi lên trong thân não và lồi xuống tuỷ sống, xuống tận xương cùng. Giả thiết cho rằng các nơron dài giải phóng đối vận µ đang bị ức chế đối với phản xạ của sợi nhiễm sắc và cơ gấp. Đồng thời cũng minh hoạ các nơron sợi trục ngắn trong tuỷ sống giải phóng đối vận K đang bị ức chế đối với phản xạ của sợi nhiễm sắc và cơ gấp.


PHÁT TRIỂN TÁC DỤNG, KHẢ NĂNG  DUY TRÌ CỦA CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
TS. Robert E. Willette
Giới thiệu
Sử dụng chất đối kháng ma tuý trong điều trị cai nghiện ma tuý được dựa trên khái niệm là dùng tác dụng dược lý của thuốc ngăn chặn lại tác dụng của liều ma túy mà người nghiện đưa vào cơ thể. Cơ sở lý thuyết của việc sử dụng này là chất đối kháng chặn lại “cao trào” của opiate, làm mất tác dụng gây sảng khoái, dễ chịu của nó, làm tan biến đi cơn thèm ma tuý của người nghiện. Liệu pháp sử dụng cyclazocine và naloxone thành công trước đây đã dấy lên việc phát triển có qui mô của một loại thuốc đối kháng mới và vượt trội. Hiện nay Naltrexone là loại thuốc được đánh giá mạnh nhất trên lâm sàng và được xem là ứng cử viên đầy hứa hẹn.
Trước tiên thì yếu tố cần nhất của liệu pháp đối kháng là thuốc phải có tác dụng lâu dài để người nghiện không phải suy nghĩ nhiều trước khi quyết định điều trị. Với liều uống 70mg, Naltrexone có thể có tác dụng bảo vệ được ít nhất là 48 giờ, hoặc có thể là 72 giờ ở một số người. Khoảng cách thời gian giữa 2 liều này dường như chưa đủ độ lâu cần thiết để người nghiện tách hẳn khỏi hành vi sử dụng ma tuý.
Một điều sớm được nhận thấy là để đạt được khoảng cách giữa 2 liều là 1 tuần, 1 tháng hoặc lâu hơn nữa thì cần phải phát triển một hệ thống phân phối loại thuốc có tác dụng dài ngày, hoặc một chất đối kháng dù có tác dụng ngắn nhưng có khả năng duy trì đều thuốc. “Hệ thống cung ứng thuốc” này dù có thể cồng kềnh song hiện vẫn đang được ưu chuộng, bao gồm bất cứ chế phẩm thuốc nào đáp ứng được yêu cầu của một chất đối kháng là có tác dụng dài ngày hoặc khả năng duy trì đều lâu dài. Tác dụng này có thể thực hiện một cách cơ học (ví dụ bằng cách cấy các đĩa có chứa thuốc) hoặc theo cách hoá học (ví dụ: thuốc bao viên hình con nhộng, ống thuốc, thuốc viên, thuốc tiêm). Ngoài vấn đề chính là nghiên cứu tìm ra một chất đối kháng tối ưu, thì còn một vấn đề chưa được xem xét ở đây là tìm ra vật mang, truyền chất đối kháng (carrier).
Việc nghiên cứu Hệ thống phân phối thuốc trên bắt đầu được tiến hành vào đầu những năm 1970, được thực hiện bởi Sở Y tế thành phố New York và Bộ phận phụ trách nghiện ma tuý của NIMH, hiện nay là Viện Quốc gia về Lạm dụng Thuốc (NIDA).
Trong giai đoạn đầu này, đi tiên phong là TS. Seymour Yolles, Đại học Delaware, lần đầu tiên đã chứng minh được về một cơ chế cung ứng thuốc đối kháng được thực hiện bằng các hợp chất cao phân tử (polymer) do vi khuẩn phân huỷ, hay còn gọi là axít polylactic. Thành công này đã tạo ra bước tiến mới mà tổng kết của nó chính là chủ đề của bài viết này. Hiện tại, chương trình do NIDA hỗ trợ bao gồm 6 hợp đồng liên quan đến việc phát triển hệ thống cung ứng thuốc và 3 hợp đồng khác về việc kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu trên lâm sàng. Chương trình đang được thu hẹp lại, tập trung vào những ứng cử viên có khả năng nhất để đảm bảo thành công trên lâm sàng.

Yêu cầu kỹ thuật của hệ thống:
Có những đặc điểm và tính chất cần có trong việc hình thành và phát triển một hệ thống phân phối đầy đủ và hữu hiệu trên lâm sàng. Một số trong những yêu cầu đó là:

1.      Tỷ lệ lan toả thuốc đều đặn, dễ chịu và đầy đủ

2.      Dễ chịu khi được cấy dùng hoặc được tiêm

3.      Xem xét những khó khăn khi cai của người bệnh, đối lập lại với những mong mỏi của bác sĩ điều trị

4.      Tính tương đồng về sinh học hoặc thiếu phản ứng mô cơ nghịch, hoặc đau khi tiêm

5.      Thuận lợi và chi phí trong việc sản xuất

6.      Công tác tiệt trùng, sát khuẩn ổn định

7.      Đặc điểm về bảo quản và tính ổn định

8.      Khả năng chấp thuận của bác sĩ điều trị và của người bệnh.


Mỗi một đặc điểm trên đều có vai trò quan trọng khác nhau. Nhiệm vụ của nhóm nghiên cứu là chọn những phương pháp tối ưu, những tiêu chí phù hợp để đưa  liệu pháp có triển vọng thử nghiệm trên lâm sàng. Tất nhiên, thử nghiệm lần đầu tiên có thể chưa được tốt song nó sẽ được hoàn thiện ở những lần sau trước khi chính thức được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng.
Kế hoạch phát triển:
Mùa xuân năm 1973, chương trình phát triển một chất đối kháng ma tuý mới có hiệu quả tác dụng lâu dài bắt đầu được thực hiện. Chương trình gồm 2 hợp đồng và 2 khế ước liên quan trực tiếp đến việc thiết kế và chuẩn bị cho liệu pháp. Mỗi nhóm cũng có trách nhiệm thực hiện điều tra, đánh giá liệu pháp trên cơ thể sống và trong ống nghiệm nhằm chọn ra liệu pháp tốt nhất. Nhóm này thực hiện nghiên cứu trên các loại: bao con nhộng polylactide, loại hạt polyglycolide, loại viên polyglyceride và loại phức hợp muối hoà tan. 3 nghiên cứu còn lại có nguồn gốc từ một chương trình trước đây của thành phố New York.
Ngoài các dự án trên, 3 hợp đồng nữa được thực hiện ở các cơ sở trung tâm nhằm đánh giá các đề tài có khả thi của các nhà nghiên cứu, trong đó việc kiểm tra thành phần dược của thuốc và mức độ độc tố. Toàn bộ công việc này được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ qua từng khâu.
Kế hoạch này có sự tham gia của một nhóm cố vấn gồm nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực liên quan. Họ trực tiếp giám sát, đưa ra các quyết định quan trọng, ý kiến của họ đóng vai trò quan trọng cho sự thành công cũng như tiến độ của chương trình.

Hiện nay chương trình đang tập trung vào 4 giải pháp được chứng minh là có triển vọng nhât là:
Sử dụng ống Polypeptide – tác giả: Arthur D. Little, Inc.
Để giảm khối lượng thử nghiệm trên động vật mà vẫn đảm bảo theo yêu cầu của FDA cho giai đoạn đầu thử nghiệm trên lâm sàng thì cần phải chọn một hệ thống cung ứng thuốc cho cơ thể mà có khả năng dỡ bỏ vào thời điểm cuối của một tháng nhưng đồng thời vẫn cho phép cấy đặt tiếp. Phương pháp này đáp ứng các tiêu chuẩn, nó là một ống hõm có chứa chất polypeptide tổng hợp có tỷ lệ đồng trùng hợp 35/65 của axít glutamic và leucine. Dưới tác dụng phân huỷ dần, các ống có đường kính 2 mm và dài từ 10 đến 20 mm có chứa đầy chất naltrexone được thẩm thấu qua thành ống. Tỷ lệ thẩm thấu có thể được điều chỉnh bằng độ dày của ống.
Các ống được sản xuất theo cách tương tự với nến, với một trục bằng kính mịn được nhúng vào dung dịch polymer nóng. Sau đó ống được nhấc ra, được nạp vào một chút dung dịch muối và một thỏi rắn chứa 90% chất naltrexone, bao bọc trong polymer, được gắn xi. Tiệt trùng được thực hiện bằng nồi hấp.
Các mẫu ống thử nghiệm đã chứng minh tác dụng duy trì thuốc lên tới 60 ngày. Các dụng cụ hiện nay cho thải từ 10 đến 30 microgram chất naltrexone trên một giờ, tỷ lệ này được xem là thấp so với nhu cầu ở người. Các thiết bị khác có khả năng cung cấp ở mức cao hơn vẫn đang được thử nghiệm. Công tác nghiên cứu các cấu trúc polymer khác nhau cũng đang được thực hiện để đạt được tốc độ phân huỷ nhanh hơn nữa.
Công việc này hiện dưới sự giám sát của ông Kenneth Sidman.
Chuỗi hạt Axít Polylactic/glycolic
Cty Dynatech
Được thực hiện bởi các phẫu thuật viên, những hạt nhỏ bằng 1/16 inch chứa chất đồng trùng hợp tỷ lệ 90/10 của polylactic và axít glycolic tạo sự thoải mái, dễ chịu khi sử dụng. Được cấy vào cơ thể bằng dùi chọc hút, hạt chứa 70% naltrexone duy trì thuốc được trên một tháng. Định kỳ các mẫu hạt được lấy ra và đem đi xét nghiệm. Chúng dần bị mềm đi, bị nhỏ lại hoặc bị vụn, và cuối cùng trở nên không thể phát hiện được.
Còn một số vấn đề đó là việc khử trùng, sát khuẩn, sản xuất trên qui mô lớn và khả năng tổng hợp polymer trong đó có khó khăn là sản xuất polymer không có chất xúc tác kim loại.
Công tác này vẫn đang dược điều hành bởi TS. Donald Wise.
Phương pháp dùng viên nang A-xít Polylactic - Trường dại học Washington
2 lợi điểm chính của phương pháp dùng viên bao nang là không cần phải tính đến mức độ thẩm thấu thuốc và không phải tiêm. Cho đến nay, các viên nang chứa không đến 180 micron các vi hạt naltrexone được bọc với a-xít dl-polylactic đã cho liều duy trì lên tới trên 40 ngày. Cho đến nay mới dùng chất gel stearate đơn nhôm 2% trong dầu đậu phộng, các phương pháp khác đang được thử nghiệm.
Ngoài ra công tác hoàn thiện sản phẩm viên nang naltrexone vẫn đang được thực hiện để sản phẩm được hoàn hảo hơn, ít độc tố nhất. Chu trình khử trùng chưa được hoàn thành và phê duyệt. Nhiều phương pháp đang được kiểm nghiệm để rút ra một phương pháp tiên tiến.
Các hệ thống này đang được phát triển bởi TS. Kurt Thies.
Chất Tannate Nhôm Naltrexone – IITRI
Dựa trên các phương pháp và công thức cũ, chất phức hợp tannate nhôm không tan được tiêm vào cơ bắp cùng với chất gel dầu đậu phộng stearate đơn nhôm 2% đã cho liều duy trì được trên 30 ngày. Chất phức hợp đã được chuẩn bị sẵn sàng và dễ dàng sát khuẩn.
Trong các nghiên cứu ban đầu về tính tương đồng của mô cơ có phát hiện thấy một số phản ứng nhỏ. Tuy nhiên đây là do dầu đậu phộng và dù sao thuốc này vẫn cần phải kiểm tra nhiều về độc tố trước khi thử nghiệm trên người.
Thuốc này đang được phát triển bởi TS. Allan Gray.
Trình tự đánh giá:
Xem xét đánh giá sơ bộ:
Mỗi nhà nghiên cứu đều có trách nhiệm theo dõi đánh giá sản phẩm thuốc của mình qua các thử nghiệm trong ống nghiệm (in vitro) và trên cơ thể sống (in vivo). Phương pháp kiểm tra được dùng phổ biến là phương pháp búng đuôi chuột của Dewey và Harris. Con vật được tiêm hoặc được cấy thuốc tại các thời điểm khác nhau, các nhóm khác được tiêm morphine và loại giảm đau để đo độ đối kháng. Xét nghiệm một số chỉ số trong ống nghiệm được thực hiện với mục đích chính là xác lập mối tương quan giữa các xét nghiệm (trên động vật). Cuối cùng thì chỉ lấy phương pháp trên cơ thể sống để xem xét theo dõi tổng thể. Tiếp theo là kiểm tra vùng được tiêm để xem xét phản ứng về bệnh học. Thường thì không phát hiện được bằng mắt thường, chỉ phát hiện một chút về mô.học.
Đánh giá về dược lý:
Tại Đại học bang Ohio dưới sự điều hành của TS. Richard Reuning, các ứng cử viên sau khi được chọn lựa từ vòng đánh giá sơ bộ sẽ được kiểm tra bằng phương pháp búng đuôi chuột theo các điều kiện chuẩn. Sau đó, các thuốc có hứa hẹn triển vọng tiếp tục được thử nghiệm trên chuột, có nghiên cứu dược động học của thuốc.
Trong quá trình nghiên cứu có tiến hành tìm hiểu cơ chế trao đổi chất và dược động học của naltrexone. Đây là khâu cơ bản để tính toán mức độ lan toả thực sự của thuốc.
Đánh giá về độc tố:
Các thuốc đã qua khâu kiểm tra về dược lý, tiếp tục được kiểm tra song song tại Industrial Bio-Test, do ông Carmen Mastri thực hiện. Phụ thuộc vào liều dùng, thuốc sẽ được cấy hoặc được tiêm trêm chuột cống, chuột lang và cả trên thỏ. Cuối cùng là kiểm tra mức độ kích thích theo phương pháp U.S.P cổ điển. Đồng thời với việc xem xét các chất kiểm soát âm tính và dương tính.
Đánh giá cuối cùng trên động vật:
Loại thuốc có triển vọng nhất sẽ bước vào giai đoạn kiểm tra nghiêm ngặt nhất. Kiểm tra về dược lý được thực hiện trên những con khỉ đã được huấn luyện biết tự dùng morphine. Được phát triển tại Parke, Davis and Company bởi TS. Duncan McCarthy, nghiên cứu đã chỉ ra khoảng thời gian mà hệ thống đã cung ứng đủ lượng naltrexone cho cơ thể. Đồng thời mẫu huyết thanh được lấy tại các thời điểm và được phân tích tại nhóm nghiên cứu của bang Ohio đã xác định được chính xác nồng độ thuốc. Kết hợp dữ liệu này cùng với số liệu đo dược động học của naltrexone trên cùng các con vật đã cho kết quả kỹ lưỡng về hệ thống cung ứng thuốc đó.
Một trong các ứng cử viên trên sẽ được kiểm tra đánh giá chi tiết về độc tính cũng tại Parke-Davis. Được thực hiện trên 3 loại con vật với 3 liều lượng. Định kỳ có kiểm tra đáh giá về bệnh học. Sẽ đề ra một cơ chế để thực hiện thử nghiệm trên lâm sàng vẫn dựa trên ý tưởng ban đầu là cho dừng thuốc tại cuối tháng để kiểm tra đánh giá.
Tóm tắt lại:
Sau nhiều năm miệt mài cố gắng với không ít thất vọng, đến nay đã có một vài phương thuốc đã gần đến giai đoạn đánh giá cuối cùng và đang có dự kiến sẽ sớm được thử nghiệm trên người.

THE  NAS  DOUBLE-BLIND  STUDY
Nghiên cứu với phương pháp mù đôi
của Viện hàn lâm khoa học quốc gia
Giải thích lại từ ngữ:
double-blind placebo design: Phương pháp nghiên cứu Mù đôi với một giả dược - là phương pháp nghiên cứu trong đó nhóm bệnh nhân được làm thí nghiệm và cả người tiến hành thí nghiệm đều không biết Ai là người được dùng loại thuốc Thật và ai đang được dùng loại giả thuốc chỉ có tác dụng trấn an.
NGHIÊN CỨU CỦA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC QUỐC GIA
VỀ NALTREXONE
BS. Samuel C. Kaim
Trong văn bản pháp lý năm 1972 về việc thành lập Văn phòng đặc biệt của Nhà trắng về Phòng chống Ma tuý (SAODAP) có điều khoản khuyến khích Giám đốc của Văn phòng tăng cường các chương trình nghiên cứu để tìm ra, phát triển và thử nghiệm 3 loại thuốc là:

1.      Thuốc giảm đau tổng hợp không gây nghiện để thay thế loại ma tuý và các chế phẩm của nó được dùng trong y tế.

2.      Hoạt chất giải độc làm giảm các triệu chứng khó chịu khi cai nghiện.

3.      Chất đối kháng ma tuý không gây nghiện, có tác dụng trong thời gian dài để dùng trong điều trị cai nghiện.


Qua kiểm tra và đánh giá các phương pháp điều trị, SAODAP nhận thấy phương pháp duy trì methadone là phương pháp có hiệu quả nhất, được sử dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ một số nhược điểm bao gồm:

1.      Chữa nghiện ma tuý nhưng lại gây nghiện thuốc

2.      Gây tác dụng phụ do tác dụng đối vận của methadone

3.      Những hệ luỵ kéo theo do dùng thuốc hàng ngày

4.      Biến methadone trở thành một mặt hàng nguy hiểm trên thị trường bất hợp pháp

5.      Mặt tiêu cực khác là methadone trở thành công cụ của một số ít người làm lũng loạn xã hội.


Do xuất hiện những khó khăn, cản trở như trên nên SAODAP tiến hành nghiên cứu các phương pháp diều trị mới, tập trung chủ yếu về dược lý của chất đối kháng ma tuý. Thuốc làm mất tác dụng của ma tuý ở người nghiện và cảm giác nghiện của họ. SAODAP cũng nhận thấy rằng liệu pháp đối kháng này cũng đòi hỏi sự quyết tâm và hợp tác nên không thể áp dụng cho tất cả người nghiện.
Tuy nhiên, qua các ca đang được điều trị nhận thấy liệu pháp có hiệu quả với nhóm người nghiện, đồng thời SAODAP vẫn đánh giá cao các phương pháp cũ có hiệu quả. Để thực hiện nghiên cứu này thì SAODAP nhận thấy một số cần thiết là:

1.      thực hiện thông qua một tổ chức phi chính phủ (Có nhiều qui định bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, trong đó có qui định về thời gian thuê mướn người lao động)

2.      tránh việc gián đoạn, trì hoãn thời gian mở thầu, cho các cơ sở  thuộc các trường đại học, viện nghiên cứu, cty dược hoặc phòng thí nghiệm độc lập được tham gia

3.      chọn nhà thầu độc lập có đủ năng lực, không đòi hỏi nhiều.


SAODAP đã hợp đồng với Uỷ ban về các vấn đề nghiện ma tuý của NAS/NRC vì lý do:

A.    uy tín của NAS đảm bảo cho năng lực của nhà thầu

B.     CPDD là cơ quan lâu đời nhất về vấn đề nghiện ma tuý (trên 40 năm tồn tại)

C.     CPDD có nhiều thành viên tham gia phát triển và kiểm tra chất đối kháng ma tuý.


Tại cuộc họp đầu tiên giữa SAODAP và CPDD, TS. Jerome Jaffe – giám đốc đầu tiên của SAODAP, đã phát biểu rằng chất đối kháng ma tuý có giá trị tiềm năng trong nhiều tình huống lâm sàng là:

1.      người nghiện cai thuốc methadone

2.      người nghiện không quan tâm, hứng thú với điều trị bằng methadone

3.      nhóm trẻ tuổi và nhóm mới sử dụng không thích hợp với điều trị bằng methadone.


Chất đối kháng được sử dụng trên lâm sàng cần cơ bản là không có tính đối vận (agonist) và cần phải có hiệu quả ít nhất là 24 tiếng sau một liều uống. Trước đây SAODAP đã có nhiều cố gắng trong đó có việc kết hợp với ngành công nghiệp dược và cộng đồng nghiên cứu để phát triển các thuốc đối kháng ma tuý. Trong đó có một số loại đã qua kiểm tra độc tố thử nghiệm trên động vật, một số đã qua Giai đoạn I kiểm tra trên người, và một số cũng đã bước vào Giai đoạn II thử nghiệm. Trong một nỗ lực ban đầu để xác định hiệu quả của chất đối kháng ma tuý, SAODAP gần đây đã bắt đầu thực hiện chương trình thử nghiệm Giai đoạn II ở gần 10 cơ sở lâm sàng.
TS. Philip Handler - Chủ tịch của Viện hàn lâm khoa học quốc gia đã cho biết khả năng tham gia của Viện vào chương trình và bày tỏ sự quan tâm của bản thân với vấn đề nghiện ma tuý đang được xã hội quan tâm, e rằng cảnh sát sẽ phải quyết liệt ghê gớm nếu như không sớm chứng minh được rằng vấn đề nghiện ma tuý sẽ được kiểm soát bằng các biện pháp y tế. Mặc dù Viện hàn lâm thường không tham gia trực tiếp vào các dự án nghiên cứu song trước một vấn đề cấp bách, TS. Handler thấy rằng cũng cần có những ngoại lệ. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy rằng đòi hỏi thực tế là vượt ngoài khả năng của CPDD nên cần phải có giải pháp. Những thương thảo sau đó giữa SAODAP và Viện hàn lâm đã đi đến một hợp đồng và thành lập một uỷ ban (với nhân sự phù hợp) trực thuộc Bộ phận Khoa học Y tế của NRC để thực hiện các chức năng sau:

A.    Tư vấn, đề xuất cho công tác kiểm nghiệm các loại thuốc dự kiến sẽ thử nghiệm trên lâm sàng nhằm xác định hiệu quả của thuốc trên các điều kiện lâm sàng khác nhau cũng như các loại hình liệu pháp khác nhau, loại bệnh nhân khác nhau.

B.     Thiết kế:

1.      Thể thức nghiên cứu ban đầu

2.      Cơ chế và trình tự thu thập dữ liệu

3.      Các tiêu chí và cơ chế đánh giá công tác nghiên cứu cũng như sản phẩm.

C.     Xây dựng hướng dẫn sử dụng ở một số cơ sở lâm sàng để tham gia vào nghiên cứu thí điểm, giúp đỡ và tư vấn cho SAODAP lựa chọn đối tác phù hợp trong công tác về lâm sàng và giám sát

D.    Tiếp nhận các ý kiến của các cán bộ giám sát mà SAODAP đã chọn để tham gia vào nghiên cứu thí điểm, bao gồm các vấn đề về thể thức nghiên cứu, các tiêu chí, cơ chế, trình tự đã được nêu ở mục B và lập báo cáo phù hợp tương ứng.

E.     Trên cơ sở định kỳ đã được uỷ ban qui định, thực hiện tiếp nhận, phân tích và đánh giá các báo cáo của các cơ sở lâm sàng tham gia nghiên cứu thí điểm. Đánh giá các báo cáo về mức độ phù hợp của chúng với các qui định đã được đề ra.

F.      Tại một thời điểm thích hợp trong quá trình nghiên cứu thí điểm, cần đánh giá kết quả đã đạt được trên các mặt của nghiên cứu, cần thiết có thể sơ kết đánh giá để phục vụ các nghiên cứu toàn diện sau này.

G.    Tư vấn và trợ giúp cho SAODAP lựa chọn các đối tác phù hợp trong công tác về lâm sàng và giám sát để phục vụ giai đoạn nghiên cứu toàn diện (full scale)

H.    Thực hiện tiếp nhận, phân tích và đánh giá các báo cáo của các cơ sở lâm sàng tham gia nghiên cứu toàn diện.

I.        Tiếp nhận và phân tích các báo cáo về kết quả quá trình nghiên cứu trên các bệnh nhân trong giai đoạn thử nghiệm thí điểm và toàn diện (pilot and full-scale trials)

J.       Chuẩn bị viết báo cáo theo yêu cầu của SAODAP và báo cáo tổng kết khi kết thúc nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của chất đối kháng và đề ra phương hướng nghiên cứu tiếp theo về công tác điều trị hoặc phòng chống nghiện ma tuý.


Bước tiếp theo là thành lập Uỷ ban thuộc CENA. Chủ tịch của Uỷ ban CPDD, TS. Leo Hollister được đề nghị giúp tiến cử một số người từ CPDD sang Uỷ ban đặc biệt. 4 người của CPDD đã được bổ nhiệm, cùng với TS. Leo Hollister làm chủ tịch; 4 người khác ở bên ngoài (không thuộc CPDD) cũng đã được bổ nhiệm thêm, nâng tổng số người trong uỷ ban lên là 9 người.

Quá trình phát triển của các chất đối kháng ma tuý:
Trước đây SAODAP đã từng nêu ra việc phát triển và thử nghiệm chất đối kháng với nhiều cơ quan, tổ chức trong đó có NIMH, FDA, DOD và VA.
Là giám đốc của Cơ quan dịch vụ cai ma tuý và rượu (Alcolhol and Drug Dependence Service) của VA, tôi đã bàn bạc về lợi ích của chất đối kháng ma tuý cùng với TS. Jaffe và đã nghiên cứu nhằm xác định loại nào là tốt nhất để đưa vào nghiên cứu trên lâm sàng.
Nalorphine trước đó đã được xem xét thử nghiệm trên lâm sàng điều trị cai nghiện song nó không đáp ứng được thực tiễn bởi nó tác dụng không lâu và còn có ảnh hưởng đối vận (Fink 1971).
Cyclazocine:
Năm 1959, cyclazocine - một chế phẩm của benzomorphan, được phát hiện có tác dụng giảm đau có hiệu quả trong việc ngăn chặn tác dụng của ma tuý ở người nghiện. Năm 1966, Jaffe, Brill và Martin cùng cộng sự đã báo cáo về kết quả thử nghiệm trên lâm sàng với cyclazocine trong điều trị cai nghiện.
Mặc dù cyclazocine cũng có tác dụng phụ đối vận với ma tuý song nó đã thể hiện được tác dụng đối kháng ma tuý khá lâu, có hiệu quả qua đường uống và được xem là phương pháp hiệu quả trong điều trị cai nghiện. Kể từ thử nghiệm đầu tiên đã có nhiều báo cáo về các mức dộ hiệụ quả thành công khác nhau về sử dụng cyclazocine.
Martin và Sloan (1968) báo cáo cho hay cyclazocine có thể gây tê giảm đau, giảm hô hấp, làm nhỏ đồng tử, táo bón, giảm đau, dễ cáu giận, gây ảo giác.Dung nạp thuốc có tác động đến các triệu chứng trên song không tác động đến tác dụng đối kháng.
Họ cũng báo cáo cho biết là với liều lượng chậm, cyclazocine vẫn có ảnh hưởng dung nạp thuốc với các phản ứng phụ. Họ bắt đầu với 6 đối tượng cho uống 0,1 mg b.i.d. rồi cho đạt đến liều cuối cùng là 2 mg b.i.d. sau từ 13 đến 33 ngày. Với liều 4 mg hàng ngày, cho thấy cần một mức ma tuý cao gấp từ 6 – 10 lần mới tạo ra được mức ảnh hưởng tương tự trên cùng vật đó như lúc chúng không dùng cyclazocine.
Họ cũng báo cáo về một số hội chứng nhỏ khi dừng sử dụng cyclazocine ở nhóm đã dùng trường kỳ. Không có hành vi thèm ma tuý. Một triệu chứng đầu tiên được nhận thấy là cảm giác nhức đầu nhẹ mà bệnh nhân coi là “điện giật”.
Jaffe và Brill (1966) bắt đầu thử nghiệm cyclazocine với một nhóm nhỏ người nghiện thuộc một trong các diện sau:

1)    đối tượng tình nguyện dùng ma tuý để phục vụ liệu pháp điều trị

2)    nhóm người bệnh được nghe nói về cyclazocine từ người khác, và phản đối việc dùng methadone

3)    nhóm người mong muốn được điều trị và sẵn sàng chấp thuận bất cứ loại thuốc nào.


Các bệnh nhân được khám bệnh, kiểm tra sức khoẻ và làm các xét nghiệm. Với nhóm người nghiện ma tuý đã dùng methadone ổn định thì sẽ cho dừng thuốc sau từ 3 – 6 ngày. 48 giờ sau liều dùng methadone cuối cùng, bệnh nhân được thử nghiệm với 7 mg nalorphine. Nếu họ không có điều gì bất ổn, thì bắt đầu cho uống 0,25 mg cyclazocine, 8 giờ sau khi dùng nalorphine. Toàn bộ liều dùng hàng ngày (tính trung bình) tăng 0,25 mg vào mỗi ngày tiếp theo.
Tác dụng phụ thấy bao gồm: suy nghĩ chậm chạp, uể oải, mắt khó tập trung, mặt đờ đẫn, có cử chỉ mất tư cách kèm với tâm trạng lo âu, mất ngủ và thường có cảm giác phấn khích. Ảnh hưởng dung nạp thuốc có tác động đến các triệu chứng này.
Có 13 trong số 15 đối tượng đã ở lại điều trị được vài tháng tại thời điểm báo cáo. Có một số bệnh nhân không điển hình là: nhóm lớn tuổi và trung niên, ít hiểu biết về luật pháp, ít cố gắng điều trị. Liệu pháp nhóm được sử dụng, hình thành các nhóm người bệnh nhiệt tình giúp đỡ người khác đến với liệu pháp cai nghiện mới.
Trong một báo cáo tiếp theo, Brill, Jaffe và Laskowitz (1967) đã báo cáo về nhóm 15 người sau thêm 72 người bệnh mới được điều trị với cyclazocine. Thời gian ở bệnh viện trung bình là 2 tuần, tiếp theo là ngoại trú 1 tuần đến 1 lần. 16 người vẫn đang điều trị nội trú tại thời điểm báo cáo thứ 2 và 5 người đã dừng sử dụng cyclazocine nhưng vẫn giữ liên lạc đều đặn với bác sĩ điều trị. Hầu hết những bệnh nhân này vẫn tiếp tục sử dụng thuốc nhưng ở mức gián đoạn hơn.
Ladewig (1971) báo cáo kết quả điều trị 12 người nghiện với cyclazocine. 10 bệnh nhân được điều trị trong 1 năm. 7 trong số 10 người không tái nghiện, 3 người quay trở lại dùng ma tuý.
Petursson và Preble (1970) báo cáo kết quả điều trị cai nghiện ma tuý tại Khu nghiện của Bệnh viện bang Manhattan trong 9 tháng nội trú + thêm 27 tháng ngoại trú. 62 người nghiện nam giới được điều trị với cyclazocine: 53 người đạt liều duy trì là 8 ng hàng ngày, 9 người đạt mức liều là 12 mg.
36 người hoàn thành chương trình nội trú; 13 người bỏ trốn bệnh viện; 11 bỏ phần điều trị sau cai. 75% người nghiện này đã có rối loạn tính cách. Các thầy thuốc đã xem xét tác dụng điều trị của cyclazocine đối với các ca này.
Resnick, Fink và Freedman (1971) báo cáo về 2 nhóm bệnh nhân nghiện nam giới được điều trị bằng cyclazocine tại khu đặc biệt của Trung tâm Y tế Mental thuộc Bệnh viện Thành phố. Đây là các bệnh nhân nghiện ma tuý, trên 18 tuổi và tự nguyện.
Bệnh nhân được phép lựa chọn cách cai độc tố, dùng methadone hoặc cyclazocine. Cyclazocine bắt đầu với liều 1 mg hàng ngày, sau trung bình là 4 ngày thì tăng lên liều dùng hàng ngày là 4 mg. Naloxone có sẵn cho người bệnh theo yêu cầu, được xem là cách chống lại tác dụng phụ của cyclazocine.
Cyclazocine được phát tại nơi điều trị hoặc phát bởi một người có trách nhiệm sống cùng bệnh nhân. Trong 62 bệnh nhân, 60 người đã hoàn thành 4 ngày điều trị; 38 người yêu cầu cho dùng naloxone trong khi điều trị, 3 người điều trị lâu hơn (lên tới 14 ngày).
21 bệnh nhân duy trì từ nghiên cứu trước đó đã dùng cyclazocine được từ 1 – 4 năm, tất cả đều đang đi làm việc hoặc đi học. 4 bệnh nhân bỏ dùng cyclazocine nhưng vẫn không tái nghiện. 6 bệnh nhân bỏ sau khi đã điều trị được từ 7 tháng đến 3,5 năm bằng cyclazocine.
Trong một nghiên cứu tiếp theo, 59 bệnh nhân tự yêu cầu và đã được dùng cyclazocine. (trong nghiên cứu trước bệnh nhân bị bắt buộc phải dùng cyclazocine). 22 người của nhóm này đã bỏ phần thử nghiệm. Cuộc sống hôn nhân, công việc hoặc việc học hành đều được tiên lượng khả quan.
Naloxone:
Naloxone (N-ally1 noroxymorphone hydrochloride) đã được Blumberg và cộng sự báo cáo (1961) về đặc tính đối kháng ma tuý của nó. Jasinski và cộng sự (1967) phát hiện thấy naloxone có khả năng cao gấp từ 5 – 8 lần tác dụng đối với người nghiện so với nalorphine. Ngược lại với nalorphine và cyclazocine, naloxone không gây nghiện thuốc và cũng không có tác dụng đối vận. Cũng như nalorphine và cyclazocine, naloxone không bị dung nạp thuốc đối với tác đụng đối kháng của thuốc dù sử dụng lâu dài.
Zaks và cộng sự (1969) nhận thấy rằng xét về ảnh hưởng đối vận và tác dụng phụ thì naloxone sẽ được ưu chuộng hơn so với cyclazocine trong điều trị cai nghiện. Họ phát hiện: một liều uống 200 mg có tác dụng bảo vệ được trong 6 giờ chống lại 25 mg heroin. 400 mg chất naloxone ngăn chặn được 50 mg heroin trong 6 giờ. Từ 800 đến 1250 mg Naloxone chống lại được 50 mg heroin trong 18 giờ. Nghiên cứu vẫn chưa đạt được mức 24 giờ với liều 1500 mg naloxone.
Kurland và cộng sự (1973) đã báo cáo về một nghiên cứu mù đôi dùng naloxone điều trị cho 119 người nghiện nam giới là phạm nhân được án treo, được điều trị 9 tháng. Các đối tượng được phân ra ngẫu nhiên làm 3 nhóm: a) nhóm đối chứng được áp dụng chương trình liệu pháp tâm lý và có theo dõi xét nghiệm nước tiểu hàng tuần; b) nhóm được dùng naloxone với liều từ 200 đến 800 mg hàng ngày, phụ thuộc vào các kết quả xét nghiệm nước tiểu; c) nhóm thứ 3 chỉ dùng loại viên giả thuốc được xếp theo số từ 2 đến 8, cũng phụ thuộc vào kết quả nước tiểu. Cả 3 nhóm này đều nằm trong chương trình liệu pháp tâm lý theo nhóm, thực hiện hàng tuần.
Chỉ 25% trong nhóm đối chứng là theo hết chương trình, nhóm dùng naloxone là 44%, và nhóm dùng viên giả thuốc là 51%. Nhóm dùng naloxone có kết quả tốt hơn, bằng chứng là nước tiểu dươn tính là; 11% vs. , nhóm dùng viên giả thuốc là 30%.
Các tác giả nghiên cứu suy đoán rằng kết quả trên phản ánh mối quan hệ phủ định giữa hiệu quả điều trị và tâm lý của người nghiện trên khi điều trị là: đối tượng dùng giả thuốc mà thiếu ý chí có thể sẽ chủ quan, còn đối tượng được điều trị bằng naloxone mà cũng thiếu ý chí thì cũng có thể bỏ dở chương trình khi thuốc có tác dụng.
Naltrexone:
Naltrexone Hcl được tổng hợp bởi Blumberg, Pachter và Matossian tại Cơ quan Thí nghiệm Endo (1972). Nó bắt nguồn từ việc thay thế nhóm cyclopropylmethyl với nhóm methyl trên nguyên tử Nitơ của oxymorphone là một ma tuý gây mê. Do vậy về hoá học nó có quan hệ với naloxone, hoàn toàn là một chất đối kháng ma tuý.
Naltrexone có tác dụng đối vận nhẹ ở trên động vật và là một chất đối kháng mạnh đã được chứng minh ở trên động vật, khoảng gấp 8 lần so với naloxone (bằng đường miệng) và cũng có tác dụng lâu dài hơn.
Naltrexone đã được nghiên cứu về độc tính cấp tính và bán cấp tính trong 90 ngày trên động vật. Nó gây độc tính nhẹ với liều uống là 100 mg/kg/ngày, đây là liều cao gấp 30 lần liều dùng cao nhất trên lâm sàng là 200 mg/60 kg/ngày.
Martin, Jasinski và Mansky (1971) đã thử nghiệm naltrexone trên một số tù nhân nghiện tình nguyện. Thử nghiệm cho uống thấy hầu hết các đối tượng không có các triệu chứng, ngoại trừ 2 người thấy buồn ngủ. Huyết áp tâm trương tăng nhẹ, thân nhiệt giảm nhẹ, 2 đồng tử co lại.
Nhóm Lexington phát hiện thấy uống 50 mg naltrexone tạo ra được mức đối kháng ma tuý tương đương với liều dùng 4 mg cyclazocine. Không có hội chứng rút thuốc (withdrawal symptoms) khi ngưng dùng naltrexone sau khi đã cho uống lâu dài với mức 30 hoặc 50 mg hàng ngày.
Các tác giả thấy rằng naltrexone có những ưu việt hơn hẳn naloxone: tác dụng mạnh hơn, thời gian lâu hơn. Ngoài ra naltrexone cũng hơn hẳn cyclazocine là không ảnh hưởng đối vận.
Resnick và cộng sự (1973) đã thực hiện nghiên cứu dùng naltrexone trên 37 người nghiện trong thời gian từ tháng giêng đến 4/1973. Vài người trong số những người tình nguyện tham gia thí nghiệm này đã tiếp tục với chương trình sử dụng methadone.
Các bệnh nhân trước tiên được cai, khử độc tố của ma tuý và được khám sức khoẻ, chụp X-quang ngực, SMA-6, SMA-12, CBC, đo hồng cầu lưới, đo tiểu huyết cầu, ESR và xét nghiệm nước tiểu. Các xét nghiệm này được thực hiện lại trước khi xuất viện. Các đối tượng được cho dùng naltrexone với liều hàng ngày là từ 120 đến 200 mg.
Naltrexone được cho uống hàng ngày, bắt đầu là 20 mg mỗi ngày, sau đó tăng lên là 30, 40 và 50 mg/ngày. Lúc đầu mức tăng chỉ 10 mg/ngày, sau đó nâng lên là 20 mg/ngày.
13 trong số 37 bệnh nhân không có các triệu chứng trong 2 ngày đầu tiên dùng naltrexone: một số cảm thấy mệt, uể oải, lo lắng, bồn chồn, một số thấy khó ngủ an giấc. Những tác dụng phụ này chỉ nhẹ, vừa phải, giảm dần trong vài ngày sau đó, bất kể là vẫn tăng liều dùng. Không có bệnh nhân nào còn triệu chứng trong giai đoạn uống đều ổn định. Các tác giả cho rằng những triệu chứng này là do không dùng ma tuý.
Sau 4 ngày đầu tiên sử dụng naltrexone, 22 trong số 34 bệnh nhân không có các triệu chứng trong suốt giai đoạn cho tăng liều, ở mức tỷ lệ 1,26 – tăng cho đến mức cuối là 200 mg/ngày. Không có khác biệt mấy trong các triệu chứng giữa mức tăng 20 mg/ngày và mức tăng 10 mg/ngày.
5 bệnh nhân có phàn nàn về có những đau ở vùng bụng, thỉnh thoảng đi kèm với hơi buồn nôn. Đau đầu là một triệu chứng xuất hiện phổ biến nhưng ngắn. Hầu hết các triệu chứng này đều đồng thời giảm dần hoặc thuyên giảm bằng việc cho dùng diazepam 10-20 mg hàng ngày.
Huyết áp không thay đổi đáng kể nhưng có xu hướng là mạch hẹp. Nhịp tim và thân nhiệt dao động nhưng không liên quan đến liều dùng naltrexone. Không có thay đổi nhiều trong quyết định của cơ quan thí nghiệm.
8 trong số 10 đối tượng đột ngột bỏ khi đang dùng naltrexone 200 mg/ngày không có các biểu hiện triệu chứng. Một đối tượng phản ánh là có đau đầu, mệt mỏi và khó chiu; một người còn lại cảm thấy lạnh và đau vùng bụng vào ngày đầu tiên khi không dùng thuốc.
27 đối tượng thử cho dùng 25 mg heroin i.v. Cả 3 trong số 3 đối tượng được uống naltrexone đã chặn chống được trong 24 giờ. 6 trong tổng số 6 đối tượng cũng đã chặn chống được trong 48 giờ sau khi uống 120 mg naltrexone. Có 4 trong số 9 đối tượng có tác dụng thành công trong 72 giờ sau khi dùng liều 200 mg naltrexone. Có một đối tượng cần mức naltrexone 200 mg/ngày thì mới hoàn thành ở mức 24 giờ.
3 bệnh nhân không tiếp tục dùng naltrexone trong đợt điều trị hoàn chỉnh, nhưng có một người vẫn tiếp tục điều trị mà không lấy thuôc. Trong số 20 bệnh nhân chuyển sang ngoại trú, 17 người vẫn tiếp tục chương trình, nhận thuốc naltrexone hàng ngày, thuốc được phát để tự uống vào ngày nghỉ cuối tuần.
Các tác giả nhận thấy naltrexone đáp ứng đầy đủ các tiêu chí qui định trên lâm sàng cho việc điều trị cai nghiện ma tuý: a) có hiệu quả bằng đường uống, b) không gây nghiện, c) chặn được heroin trong 24 giờ hoặc hơn nữa với chỉ một liều dùng.
Công việc tiếp theo:
Sau khi nghỉ hưu từ cơ quan VA, rồi tham gia NRC làm Giám đốc của CENA, tôi đã thực hiện khảo sát một vòng trong số các thành viên của Uỷ ban CENA.
Mặc dù cũng có các chất đối kháng ma tuý khác (ví dụ như BC 2605. M5050) nhưng chưa có loại nào bước vào giai đoạn nghiên cứu cho phép thử nghiệm toàn diện trên người
Trong 3 ứng cử viên sáng nhất, thì naltrexone được thấy là đáp ứng đầy đủ nhất các tiêu chí của một chất đối kháng ma tuý dùng cho điều trị cai nghiện:

1)    uống qua miệng, có hiệu quả 24-72 giờ

2)    không gây nghiện

3)    tương đối không độc tố

4)    tác dụng phụ hoàn toàn nhỏ


Ngược lại, cyclazocine có nhiều tác dụng đối vận khó chấp nhận và naloxone thì lại chỉ có tác dụng ngắn, dù là với liều lớn.
Khó khăn với naltrexone là nó còn thiếu, chưa được chính thức thử nghiệm trên người. Tuy nhiên các nghiên cứu trên động vật và trên người đều đang được thực hiện. Uỷ ban đã quyết định là nếu chứng minh được mức độ an toàn của thuốc ở liều dùng dài ngày thì naltrexone hoàn toàn sẽ được chọn lựa.
Tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban, vào 21/9/1973, Chủ tịch đã bổ nhiệm một tiểu ban chuyên trách cho công tác nghiên cúu thí điểm của CENA và một tiểu ban khác phục vụ cho công tác nghiên cứu. TS. Hollister cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của các cơ sở thực hành tham gia vào nghiên cứu, về chuyên môn, trang thiết bị và nhân viên.
Tại cuộc họp của Uỷ ban vào tháng 2/1974, đã quyết định kiểm tra các thiết bị dùng để đo đánh giá ở 6 bệnh viện của VA cũng như khảo sát các cơ sở điều trị, về lượng bệnh nhân, tư tưởng, thái độ của cả thầy thuốc cũng như bệnh nhân đối với các liệu pháp điều trị.
Sau các cuộc họp của 2 tiểu ban, các thiết bị và 3 qui chế về nghiên cứu đã được phê duyệt.
Các cơ sở điều trị đáp ứng tiêu chí của uỷ ban đã được nhân viên của CENA đến xem xét và được chọn tham gia vào nghiên cứu, một cơ sở được giao tiếp nhận loại “nghiện lang thang”, 2 cơ sở phục vụ nhóm “nghiện lâu năm” và 2 cơ sở còn lại dùng cho nhóm methadone; Được sự cho phép của SAODAP, NAS ký hợp đồng phụ với Educational Testing Service về bảo dưỡng các thiết bị, và với Biometric Research Institute về việc thu thập và phân tích số liệu. Tập huấn tại thực địa được thực hiện bởi nhân viên của CENA và BRI cho 5 cơ sở điều trị lâm sàng và cho 2 bệnh viện của VA.
Cty dược phẩm PHS ở Perry Point, Maryland đã chuẩn bị thuốc cho nghiên cứu, chuyển thuốc vào giữa năm 1974 và các cơ sở điều trị thì bắt đầu tiếp nhận bệnh nhân chuẩn bị cho nghiên cứu.

LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU Ở NAS CENA

   (trang 45)

BS. Leo E. Hollister
Giải thích từ ngữ:
- Drug Dependence: Sự phụ thuộc vào thuốc, cũng có thể hiểu là trạng thái nghiện
Tên gọi của một số tổ chức:

- Committee on Problems of Drug Dependence (CPDD): Uỷ ban về các vấn đề nghiện ma tuý

- Committee on Evaluation of Narcotic Antagonist (CENA): Uỷ ban đánh giá kết quả nghiên cứu chất đối kháng ma tuý.



Chất đối kháng ma tuý có khả năng điều trị cai nghiện là một ví dụ cổ điển cho thấy khoa học y tế ảnh hưởng đến chính trị. Mặc dù có vài số liệu cho thấy số lượng người nghiện ở Mỹ hiện nay có giảm, song những áp lực về chính trị vẫn ở mức cao trong năm 1973, cần phải làm gì đó với vấn nạn này. Ít nhất là với một số chính trị gia, thì chất đối kháng ma tuý được xem là một viên đạn kỳ diệu có thể giải quyết vấn đề vừa nhanh lại rẻ tiền. Cái gì có thể đơn giản hơn việc chặn lại hoàn toàn tác dụng của ma tuý trong cơ thể, để không còn ham thích ma tuý nữa? Và cũng chẳng gì đơn giản hơn là bỏ vào một khoản lớn tiền để bắn viên đạn kỳ diệu đó vào những bệnh nhân?
Việc cấp thiết cần sớm giải quyết đó là công tác quản lý, nó chưa được xem xét đầy đủ. Không nên mất nhiều thời gian chờ đợi để được cấp phép nghiên cứu hay là được thực hiện những hợp đồng bình thường. Một nhà thầu của một đề tài khoa học quan trọng cần phải có được tư cách độc lập để tiến hành nghiên cứu. Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia (NAS),  thông qua Uỷ ban của mình là CPDD, là nhà thầu của dự án. Theo đó, đề xuất chính thức đầu tiên từ Văn phòng Đặc biệt về Phòng chống ma tuý (SAODAP) là đề cử Uỷ ban CPDD của NAS.
Vì còn có những lý do còn chưa được rõ ràng, đầy đủ, nên nội bộ của NAS đi đến quyết định là CPDD chưa đủ năng lực để thực hiện dự án nghiên cứu, vẫn cần phải có một uỷ ban đặc biệt, do đó mà CENA đã được thành lập. Chủ tịch của CENA đồng thời kiêm chủ tịch của CPDD, nhiều cán bộ của CPDD được thuyên chuyển sang CENA. Về tổ chức, 2 uỷ ban này hoạt động độc lập, riêng rẽ. Những người được tuyển dụng thêm, từ bên ngoài vẫn phải đảm bảo đủ năng lực phù hợp.
Trong các buổi thảo luận sơ bộ ban đầu, vấn đề cần làm rõ là chức năng “thực hiện nghiên cứu” và chức năng “tư vấn”. NAS chỉ giữ vai trò tư vấn chứ không muốn thực hiện nghiên cứu. Do vậy mà nó làm giảm hy vọng của SAODAP là CENA có thể đứng làm nhà thầu độc lập thực hiện dự án nghiên cứu. Thực ra CENA chỉ là một uỷ ban tư vấn và SAODAP buộc phải hợp đồng với các bệnh viện lâm sàng để thực hiện nghiên cứu. Hợp đồng được ký vào ngày cuối của năm tài chính có đủ kinh phí, một việc không có gì là bất thường.
Với chức năng đã được làm rõ, nhiệm vụ của CENA là chọn loại thuốc để nghiên cứu, tư vấn, đề xuất lựa chọn bệnh viện để tiến hành nghiên cứu, xây dựng phương thức/chuẩn trong nghiên cứu và trình tự thu thập số liệu, chọn lựa nhà thầu độc lập để phân tích số liệu, chuẩn bị báo cáo tổng kết khi kết thúc nghiên cứu. Toàn bộ công việc này được thực hiện trong 3 năm.
Với nhiệm vụ chính của CENA là xây dựng phương thức/chuẩn trong nghiên cứu và trình tự thu thập số liệu, chúng tôi quyết định dùng phương pháp so sánh giữa nhóm dùng thuốc đối kháng ma tuý và nhóm dùng loại giả thuốc (placebo). Quyết định này là bởi vì chúng tôi thấy cần thiết phải đảm bảo tính khả thi của nghiên cứu, không như việc đã từng xảy ra với methadone. Mong muốn của chúng tôi là nghiên cứu không chỉ có tính khả thi mà còn phải thể hiện được tính hiệu quả của Naltrexone. Lý do khác của việc dùng giả dược là không phải dò xét về độc tính của thuốc cũng như các tác dụng phụ trên lâm sàng hoặc các kết quả không bình thường trong phòng thí nghiệm.
Xem lại khâu thu thập số liệu, chúng tôi nhận thấy có khiếm khuyết là đã thu thập quá nhiều dữ liệu trên mức cần thiết, dẫu sao đây cũng là một lỗi phổ biến trong các nghiên cứu lớn. Điều này khó tránh khỏi va đôi khi cũng cần và nó cũng hỗ trợ cho lần sau thu thập dữ liêu hợp lý và hiệu quả.
Chúng tôi có hy vọng là khám phá đồng thời cơ chế của cả 3 tuýp nghiện: a) nhóm vừa cai xong độc tố, đến trực tiếp từ đường phố; b) nhóm có nguy cơ cao tái nghiện dù là hiện nay đã hoàn toàn cai hẳn, ví dụ như nhóm quay trở về đường phố sau khi mãn hạn giam giữ, hoặc đã có cam kết với nơi giam giữ để được đi điều trị; c) nhóm đã cai độc tố sau một đợt dài điều trị với methadone. Mục đích nghiên cứu là hoàn toàn đúng nhưng về sau nhận thấy là chúng chưa hoàn toàn khả thi vì một số lý do.
Chúng tôi thấy trước là rất nhiều bệnh nhân có nhiều triển vọng trong điều trị và điều quan trọng là cần biết về nhóm bệnh nhân phù hợp điều trị và cả nhóm không phù hợp. Trong nghiên cứu chúng tôi cũng luôn lường trước các khả năng như số người từ chối không tham gia vào chương trình điều trị, tỷ lệ bỏ dở điều trị giữa chừng. Ở lần này, tuy có những tiến bộ song số lượng bệnh nhân thực tế vẫn khác xa so với số lượng dự đoán. Có lo ngại cho rằng nhóm bệnh nhân dùng giả dược có thể tự uống quá liều để phát hiện xem mình đang được dùng Naltrexone hay chỉ là loại giả dược. Điều này không đáng ngại bởi theo chúng tôi không ai uống ngay một liều lớn, mà chỉ khi thấy liều đang dùng chưa thấy có tác dụng. Từ lúc bắt đầu cũng như trong suốt thời gian điều trị, heroin hoàn toàn không có. Chúng tôi muốn ý nghĩa “che mắt” của phương pháp nghiên cứu mù đôi chỉ mang ý nghĩa tương đối.
Chúng tôi bước vào giai đoạn III của nghiên cứu trong khi vẫn đang thực hiện các thử nghiệm của giai đoạn II. Khi các chính trị gia muốn có câu trả lời, họ muốn phải nhanh chóng đáp ứng, hoặc chưa có câu trả lời thì cũng phải thể hiện bằng những hành động mạnh mẽ. Các điều kiện bắt buộc trong nghiên cứu này vẫn chưa được cân nhắc, tính toán thấu đáo bởi giới khoa học chuyên môn.
Liệu sau 3 năm nữa chương trình nghiên cứu sẽ như thế nào? Liệu có phải toàn bộ nghiên cứu của CENA là uổng phí về thời gian, tiền bạc và công sức? Có ý kiến cho là “đúng” song cũng có ý kiến cho là “sai”.
CENA đã chứng minh được tính khả thi của Naltrexone trong nghiên cứu đối chứng của mình, có so sánh với nhóm được dùng giả dược và có thu thập đầy đủ số liệu quan trọng về kết quả khác nhau giữa 2 nhóm. Chi phí trong lần nghiên cứu so sánh này vẫn ở mức cao và cả tỷ lệ bỏ dở điều trị cũng ở mức cao. Số lượng bệnh nhân theo hết đợt điều trị không lớn, nó tạo ra một sự bi quan không nhỏ. Phải nhận thấy là chỉ có những bệnh nhân thực sự nhiệt tình mới đến và ở lại điều trị đầy đủ, và họ cũng là những người ít cần sự trợ giúp nhất. Vậy liệu chúng tôi có nên đưa ra sự khác biệt đáng kể giữa nhóm được điều trị bằng Naltrexone và nhóm được dùng giả dược về mặt tự giác ở lại điều trị hoặc sự khác biệt về việc sử dụng ma tuý khi.vẫn đang được điều trị, điều này sẽ bác bỏ sự bi quan đã nói ở trên.
Nghiên cứu của CENA đã thu được khá nhiều thông tin có những giá trị nhất định nên hiện nay có thể thu xếp, chuẩn bị cho lần thu thập dữ liệu lần sau đạt hiệu quả cao hơn và phù hợp hơn. Đáng tiếc là chúng tôi chưa kiểm chứng độ tin cậy của dữ liệu. Khi nghiên cứu về người nghiện thì độ tin cậy là mối quan tâm chủ yếu.
Nghiên cứu của CENA cũng là nghiên cứu có giá trị nhất cho thấy naltrexone là thuốc có thể kê đơn liều dùng rộng rãi, đảm bảo an toàn. Nghiên cứu có thực hiện so sánh với nhóm dùng giả dược nên tránh bớt được những hoài nghi cũng như nó tái khẳng định về độ an toàn và hiệu quả của thuốc. Các thử nghiệm khác được thực hiện song song với nghiên cứu của CENA cũng đã khẳng định về độ an toàn của thuốc.
Vậy hiện nay chúng ta đã đạt được những gì? Thu thập, tổng hợp dữ liệu, phân tích dữ liệu và lập báo cáo cần hoàn thành vào cuối của năm nghiên cứu. Nghiên cứu của CENA chưa hoàn toàn khẳng định song nó cũng chỉ ra là thuốc uống naltrexone là được chấp nhận, có hiệu quả điều trị tốt đối với nhóm bệnh nhân thực sự mong muốn được cai nghiện.

TIẾN HÀNH NALTREXONE TRÊN LÂM SÀNG
(trang 48)
BS. Marc Hurzeler, Ths. David Gewirts, BS. Herbert Kleber
Sử dụng các chất đối kháng ma tuý trong điều trị cai nghiện ma tuý là một chủ đề đang được nhiều người quan tâm. Các phương pháp truyền thống như liệu pháp dùng methadone và liệu pháp cộng đồng đều có những hạn chế riêng và không đề cập lại ở đây. Các phương pháp mới thay thế cho các phương pháp điều trị cai nghiện cũ là điều đáng được hoan nghênh.
Chất đối kháng ma tuý đã được biết đến từ rất lâu, khoảng năm 1915 (Jaffe, 1975), song việc nghiên cứu áp dụng thực sự nó vào điều trị cai nghiện ma tuý trên lâm sàng một cách có hệ thống thì mới chỉ thực hiện được khoảng 10 năm trở lại đây. Phần lớn các thực nghiệm cho đến nay đều dựa trên khái niệm là diệt trừ các điều kiện có thể dẫn tới hành vi sử dụng ma tuý như Wikler (1964) đã miêu tả. Nghiên cứu về Cyclazocine và Naloxone (Jaffe 1975) cho thấy chúng đều là những chất có hiệu quả nhưng vẫn còn nhiều hạn ché. Cyclazocine có tác dụng lâu nhưng lại đi kèm nhiều tác dụng phụ, còn Naloxone có tác dụng ngắn nhưng lại có rất ít tác dụng phụ.
Khi Naltrexone được tổng hợp (năm 1965), nó nhanh chóng được công nhận là có chất lượng hơn hẳn Cyclazocine và Naloxone, được xem là ứng cử viên hàng đầu trong việc nghiên cứu về liệu pháp sử dụng chất đối kháng ma tuý. Naltrexone có rất ít hay là không có tác dụng phụ và có tác dụng trong thời gian dài, với một liều uống phù hợp có thể ngăn chặn tác dụng của heroin trong 24, 48, hoặc thậm trí 72 giờ (Resnick, 1974).
Do đó Naltrexone trở thành chủ đề của nhiều nhà nghiên cứu về liệu pháp đối kháng. Vấn đề đã được đạt ra giải quyết là mức độ hiệu quả và độ an toàn, còn một vấn đề nữa đó là tính khả năng ứng dụng của liệu pháp. Giả dụ, đối tượng nào phù hợp nhất với liệu pháp? Ai sẽ sẵn sàng sử dụng loại chất này, một loại thuốc không gây nghiện giống như Methadone và không có những hạn chế giống như liệu pháp điều trị tại nhà? Naltrexone là một chất chữa bệnh đang được nghiên cứu do đó 3 câu hỏi trên được đặt ra để đi tìm giải đáp, đó là độ an toàn, hiệu quả và tính ứng dụng của nó.
Cho đến nay thì 2 câu hỏi đầu đã được giải đáp bởi các nghiên cứu khác (Resnick và cộng sự, 1974; Martin và cộng sự, 1973) cũng như bằng nghiên cứu thực nghiệm (được miêu tả ở dưới đây). Câu hỏi thứ 3 vẫn chưa được giải đáp và là trọng tâm chính của bài viết này. Rõ hơn là đề cập đến việc áp dụng Naltrexone trên các hoàn cảnh lâm sàng  khác nhau - được dùng như là một phương tiện đối với người nghiên cứu. Trong các phần tiếp theo, chương trình nghiên cứu được trình bày trước tiên, sau đó là kết quả của chương trình dưới 3 nhan đề: Quan sát về chuyên môn, Những tồn tại của chương trình, và Một số phát hiện liên quan khác (về những yếu tố liên quan tác động đến thành công của chương trình). Sau đó là một số kết luận và phụ lục từ chuyên môn và từ viết tắt trong bài viết.
Naltrexone được thực nghiệm trên lâm sàng tại Bộ phận phụ trách nghiện ma tuý thuộc Trung tâm Y tế tâm thần Connecticut từ năm 1973. Quá trình nghiên cứu này không liên tục mà được chia làm 3 giai đoạn là Naltrexone I, Naltrexone II, và Naltrexone III (còn được gọi là Naltrexone Sê-ri 1, Naltrexone Sê-ri 2, và Naltrexone Sê-ri 3)
Trước khi trình bày về các chương trình theo các tiêu đề trên, xin trình bày tóm lược về Chương trình Can thiệp ở mức thấp và bệnh nhân được điều trị trên lâm sàng .
Chương trình nghiên cứu:
Chương trình Can thiệp ở mức thấp là một phần trong công tác của Bộ phận phụ trách nghiện ma tuý thuộc Trung tâm Y tế tâm thần Connecticut. Tại đây, người nghiện được điều trị 2 lần trong một tuần liệu pháp nhóm (90 phút, vào buổi tối, kiểu gặp gỡ) và có tư vấn khi thấy cần. Người bệnh cũng có thể qua 3 lần kiểm tra nước tiểu trong một tuần, tiến hành ngẫu nhiên, được cho dùng thuốc đối kháng ma tuý. Tại thời điểm trong chương trình mà liệu pháp đối kháng ma tuý kết thúc thì người nghiện vẫn được tiếp tục điều trị với những phần cơ bản là liệu pháp nhóm, kiểm tra nước tiểu cho đến khi thực sự sẵn sàng để xuất viện. Việc cho phép xuất viện được quyết định bởi bác sĩ điều trị sau khi đã xem xét cẩn thận những tiến bộ mà người nghiện đã đạt được trong suốt thời gian khoảng một năm điều trị. Cụ thể hơn, trong Chương trình Can thiệp ở mức thấp này người nghiện vẫn đi làm hoặc đi học bình thường vào ban ngày, và đến tham gia vào liệu pháp nhóm vào 2 buổi tối/tuần, kiểm tra ngẫu nhiên nước tiểu 3 lần/tuần. Ngoài 2 lần tiếp xúc chính thức, thì còn có những buổi tiếp xúc bổ sung với các tư vấn viên và các y tá. Như đã nói ở trên, bệnh nhân ngoài ra còn được tư vấn khi cần. Một điểm cần lưu ý là nhiệm vụ, trách nhiệm của người bệnh; điều này được cụ thể hơn qua việc bàn bạc với người bệnh. Thành phần của đội ngũ nhân viên bao gồm: một giám đốc, 3 tư vấn viên là người đã từng nghiện, 2 y tá, 01 trợ lý nghiên cứu, 01 thư ký (tất cả đều làm việc chính thức, cả ngày (full time)), một bác sĩ nội khoa và một tư vấn viên khác là làm thêm, ngoài giờ (part time). Cách bố trí nhân viên như trên được duy trì suốt chương trình, tuy nhiên cũng có những điều chỉnh đối với số lượng người làm trực tiếp trên lâm sàng tuỳ thuộc vào thực tế.
Các loại đối tượng bệnh nhân nghiện:
Đối tượng bệnh nhân nghiện trong chương trình nghiên cứu Naltrexone gồm 3 giai đoạn được phân loại theo các nhóm dựa vào một số tiêu chuẩn. Cũng có một số thay đổi trong các tiêu chuẩn này song nó rất nhỏ và sẽ được giải thích về sau. Tiêu chuẩn về giới tính là nam giới, tuổi từ 18 – 45, cùng với thâm niên nghiện (đầu tiên ấn định là 2 năm nghiện; tại thời điểm là Giai đoạn 3 của nghiên cứu do NAS bảo trợ thì tiêu chuẩn này được giảm xuống đối với tất cả các đối tượng là 6 tháng. Thực ra hầu hết người nghiện đều có thâm niên nghiện lâu hơn mức đó, trung bình là trên 2 năm). Nhóm bệnh nhân nữa là loại đang có bệnh về thể chất hoặc thần kinh; bệnh lý này tác động khiến người bệnh không đến điều trị hoặc là phải tiếp tục dùng thuốc điều trị (nó có thể gây ra những phản ứng với thuốc đối kháng, hoặc là không thể thực hiện được đánh giá về tác dụng phụ). Ngoài thay đổi về thời gian nghiện như trên, thì còn một thay đổi nữa là về hiện trạng nghiện. Lúc bắt đầu của Nghiên cứu của NAS (Naltrexone III) thì có qui định là chỉ tiếp nhận người bệnh không còn nghiện (với người hiện vẫn đang nghiện thì được tiếp nhận ở một chương trình khác của NAS).
Thực chất cũng để phòng ngừa nhận đối tượng là vừa ra tù. Song trên thực tế thì hầu hết các đối tượng được tiếp nhận vào chương trình đều không thuộc diện mới ra tù, có một người là dạng lang thang đường phố và đã sử dụng đến mức bị tái nghiện. Sau đó nhiều tháng thì tiêu chuẩn tiếp nhận bệnh nhân thay đổi, quay trở lại với tiêu chuẩn như những nghiên cứu trước đây, đó là nam giới, được kiểm tra nước tiểu, sức khoẻ và lý lịch; trường hợp vẫn đang nghiện thì được cai bằng Methadone. Đặc điêm của nhóm đối tượng nghiện được phân loại còn dựa vào yếu tố nhân khẩu học; tính trung bình thì đều là nam giới đã trưởng thành trẻ tuổi (trung bình là 24,69 tuổi), da đen là 54% và da trắng là 46%, chủ yếu sống ở thành thị, địa vị về kinh tế-xã hội, giáo dục ở mức vừa hoặc thấp (trung bình là có 11,3 năm đi học), trước khi đến với chúng tôi thì cũng đã từng đến ít nhất là một chương trình điều trị. Ngoài ra, một tiêu chuẩn được đặt ra trong Chương trình đối với người nghiện là họ có việc làm, hoặc đi học, học nghề, hay chứng minh được khả năng ổn định, đuy trì được tổ ấm gia đình. Có một điều là việc đánh giá tình trạng công ăn việc có thể phù hợp với người này nhưng chưa hẳn phù hợp với người khác do đó tiêu chuẩn đánh giá này được sử dụng song chưa hẳn là những tiêu chuẩn quyết định.

Về tổng thể thì hầu hết các đối tượng cai nghiện đều là nam giới có địa vị, trình độ và giáo dục ở mức thấp.
Sau đây là những kinh nghiệm sử dụng Naltrexone trong Chương trình Can thiệp ở mức độ thấp (gồm 3 sê-ri). Chúng sẽ được miêu tả ngắn gọn theo thứ tự, phần kết quả được trình bày ở những phần sau.
Sê-ri đầu tiên bắt đầu thực hiện vào tháng 6/1973 trong đó thời gian tiếp nhận được thực hiện cho đến tháng 9 của năm đó. Chương trình bắt đầu với bệnh nhân nội trú để nhằm quản lý và giám sát được chặt chẽ. Đầu tiên chương trình cần 10 bệnh nhân điều trị nội trú. 12 bệnh nhân đã được tiếp nhận; kết quả là trong số này thì có 10 người đã hoàn thành giai đoạn nội trú, 01 người có triệu chứng viêm gan cấp và được loại bỏ khỏi chương trình nghiên cứu, 01 người khác thì không hợp tác ngay sau khi nhập viện với lý do là phải nghỉ do công việc. Người này đã được thuyết phục 2 lần nhưng sau cả 2 lần vẫn không đến. Nghe nói là anh ta sau đó có đến điều trị với Methadone ở một bang khác.
10 bệnh nhân được điều trị nội trú trong khoảng thời gian xấp xỉ là 28 ngày (có trường hợp xuất viện sớm hơn một chút), được thực hiện tại Trung tâm Sức khoẻ tâm thần Conncecticut. Sau đó họ được chuyển sang ngoại trú thuộc phần Chương trình Can thiệp ở mức thấp. Đồng thời tiếp nhận thêm 5 bệnh nhân, điều trị ngoại trú luôn. Do đó tổng số bệnh nhân trong Sê-ri đầu tiên này là 17 người, với 15 người hoàn thành đầy đủ thời gian của chương trình, được cho dùng thuốc với liều lượng 10 mgm hàng ngày, rồi tăng lên mức là 50 mgms/ngày, điều trị 7 ngày/tuần. Duy trì liều 50 mgms/ngày trong 90 ngày thì ngưng sử dụng thuốc. Như đã nói ở trên, bệnh nhân theo liệu trình điều trị trung bình là khoảng 01 năm. Một đặc điểm nhận thấy là 2/3 người bệnh không chỉ được điều trị trong môi trường nội trú mà họ còn được hưởng bầu không khí lạc quan và cảm thông giữa những người bệnh với nhau và từ các nhân viên. Naltrexone được xã hội mong chờ, vui mừng chào đón do tính ưu việt của nó, có thể do Cyclazocine đã bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế. Nghe nói nhiều bệnh nhân đã bày tỏ ngạc nhiên và vui mừng là thuốc có rất ít tác dụng phụ. Tất cả bệnh nhân đều được khám, kiểm tra sức khoẻ, làm các xét nghiệm cần thiết, CBC, LJA và SMA-12 hàng tuần trong tháng đầu tiên, và về sau thì thực hiện trên cơ sở hàng tháng.
Nghiên cứu Naltrexone – Sê-ri 2:
Như đã trình bày ở trên, trong sê-ri 1 việc tiếp nhận bệnh nhân bắt đầu từ tháng 6 cho đến tháng 9/1973. Theo qui định của FDA việc tiếp nhận thêm là không được phép. Tuy nhiên vẫn có một số bệnh nhân được tiếp nhận thêm vào Chương trình Can thiệp ở mức độ thấp do họ đã được kiểm tra là phù hợp với chương trình này. Như vậy số lượng tổng số tham gia vào Chương trình là 15 người, được áp dụng liệu pháp điều trị như nhau. Các bệnh nhận này được dùng thuốc đối kháng Naloxone với liều là 800 mgm/ngày. Tất nhiên là liều lượng này không đủ ngăn chặn được 24 giờ. Thuốc được dùng vào cuối buổi chiều nhằm đón cơn dù rằng vẫn còn cả một khoảng thời gian của buổi tối (Kurland và cộng sự, 1973). Trong loạt nghiên cứu trên 15 bệnh nhân này, họ vẫn được đối xử như là những bệnh nhân giống như Sê-ri trước, ngoại trừ là được dùng Naltrexone khi mà việc cấm sử dụng loại thuốc này được FDA dỡ bỏ với liệu trình điều trị như ở Sê-ri trước. Thời gian điều trị là 6 tháng theo qui định của FDA vào lúc đó. Kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày rõ ở phần kết quả. Khám và kiểm tra sức khoẻ vẫn được thực hiện giống y như ở Sê-ri đầu ngoại trừ là có thêm điện não đồ.
Nghiên cứu Naltrexone – Sê-ri 3:
Thực hiện Sê-ri 2 chiếm vài tháng đầu của năm 1974. Trong thời gian này có tổ chức các buổi thảo luận giữa NAS (Viện hàn lâm khoa học quốc gia) và NRC (Uỷ ban nghiên cứu nhà nước), bàn về một phương thức mới trong nghiên cứu Naltrexone. Uỷ ban đánh giá chất đối kháng ma tuý trên lâm sàng của NAS đưa ra phương pháp nghiên cứu mù đôi nhằm đánh giá tác dụng thực sự cuả Naltrexone cả về chủ quan và khách quan. Phương thức nghiên cứu mới này cũng có tác dụng khích lệ người bệnh đến với phương pháp điều trị bởi bản chất của chương trình này là khuấy động trí tò mò của người bệnh, hãy thử xem tác dụng của chất đối kháng là như thế nào. Trong nghiên cứu của NAS có đánh giá các cá nhân một cách kỹ lưỡng về y học. Trong các kiểm tra đó có việc khám mắt bằng loại đèn có khe (các sê-ri nghiên cứu trước có Điện não đồ, nhưng nó được loại bỏ trong nghiên cứu của NAS). Khám bệnh chung và khám hệ thần kinh thực hiện theo vạch ranh giới (và cứ 3 tháng lại nhắc lại). Chụp X-quang vùng ngực thực hiện theo vạch ranh giới và khi kết thúc. CBC, UA và SMA-12 được thực hiện hàng tháng. Kháng nguyên Úc, VDRL và huyết học đặc biệt thực hiện theo vạch ranh giới và khi kết thúc của chương trình.
Với việc cho sử dụng Naltrexone trên cơ sở 3 mgày/tuần là hoàn toàn khả thi thực hiện được nên NAS cho áp dụng liều dùng 100 mgm vào ngày thứ Hai và thứ Tư, liều 150 mgm vào thứ Sáu. Tiếp theo là cho tăng dần 10 mgm cho đến mức 50 mgm. Liệu lượng 100 mgm và 150 mgm cho từng giai đoạn 2 và 3 ngày đã được chứng minh là có hiệu quả bởi Resnick (Resnick, 1974).
Nghiên cứu về Naltrexone của tổ chức NAS bắt đầu vào tháng 8/1974 tiếp tục cho đến 31/7/1975. Trong 11 tháng này có tổng số 73 bệnh nhân, nhưng chỉ có 54 người là đã thực sự uống thuốc từ một lần trở lên. Khi đến đây họ được cấp phát các chai thuốc nhưng sau đố một số người đã không quay trở lại, những bệnh nhân này được coi là bỏ điều trị và không được tính vào số lượng trong nghiên cứu. Các phát hiện tại nghiên cứu này được gọi là Naltrexone III sẽ được thể hiện cùng các kết quả khác trong phần tiếp theo.

Kết quả I – Quan sát về y học:
Một điểm quan trọng trong việc khám phá tác dụng của Naltrexone là mức độ an toàn của thuốc. Loại thuốc mới này đã được thí nghiệm trên động vật và thử nghiệm trên một số người tình nguyện (Martin, Jasinsky & Mansky, 1973) nhưng vẫn còn ở giai đoạn đầu trong nghiên cứu khoa học của chúng tôi. Do đó việc nghiên cứu toàn diện và cả các đánh giá về hệ thần kinh vẫn được thực hiện trong cả 3 giai đoạn nghiên cứu. Các kiểm tra đánh giá giống hệt ở Sê-ri 1 và Sê-ri 2, và cũng hoàn toàn giống ở Sê-ri 3.
Các xét nghiệm cho Sê-ri 1 và 2 được thực hiện theo đường ranh giới như sau: (1) chụp X-quang vùng ngực, (2) lao tố Turberculin, (3) EKG, (4) điện não, (5) xét nghiệm nước tiểu với kính hiển vi, (6) CBC có phân biệt, (7) FBS, (8) BUN, (9) Uric acid, (10) chức năng gan, gồm: protein, albumin, bilirubin, alkaline phosphatate, SGOT và LDH, (11) huyết thanh testosterone.
Tiếp theo là xét nghiệm thực hiện hàng tuần gồm: 1) CBC, 2) nước tiểu, 3) BUN, 4) uric acid trong máu, 5) chức năng gan (như ở trên).
Sau cùng, các xét nghiệm thực hiện hàng tháng và khi kết thúc gồm: EKG, huyết thanh electrolytes, testosterone và điện não đồ.
Ở sê-ri nghiên cứu II, các xét nghiệm vẫn được thực hiện giống như ở sê-ri I ngoại trừ là bỏ các xét nghiệm: điện não và huyết thanh testosterone.
Ở sê-ri nghiên cứu III, các xét nghiệm sau được hiện theo đường ranh giới, hàng tháng và khi kết thúc bao gồm: (1) CBC có phân biệt, (2) SMA 12-60 gồm FBS, BUN, uric acid, phosphorous vô cơ, calcium, cholesterol và chức năng gan trong đó có protein, albumin, bilirubin, alkaline phosphatase, SGOT và LDH, và xét nghiệm nước tiểu. Các xét nghiệm thực hiện theo đường ranh giới, tháng thứ 3 và khi kết thúc gồm: (1) đếm hồng cầu lưới, (2) đếm tiểu huyết cầu. (3) prothrombin time, (4) chụp x-quang ngực, (5) kiểm tra mắt với đèn có khe, (6) EKG.
Một số kiểm tra định kỳ thường xuyên: kiểm tra hàng tuần Huyết áp và cân nặng
Khám sức khoẻ, phỏng vấn trắc nghiệm về tâm lý, kiểm tra hệ thần kinh được thực hiện theo vạch ranh giới, tháng thứ 3 và khi kết thúc.
Các kết quả có thể được đề cập bằng nhiều cách khác nhau song có lẽ cách dễ dàng nhất là theo các nhóm, trước tiên là nhóm nghiên cứu Sê-ri 1 và Sê-ri 2, rồi sau đó là Sê-ri 3.
Với nhóm nghiên cứu Sê-ri1 và 2 thì có thể nói như sau: 1) không thấy có thay đổi trên phim chụp vùng ngực. Có vài trường hợp xơ hoá nhẹ, 2) kiểm tra Tuberculin có thấy tăng nhưng không dấu hiệu bị bệnh, 3) không có thay dổi trong EKG đối với Naltrexone! một trường hợp dùng quinidine là loại thuốc làm chậm nhịp tim (để kiểm soát nhịp tim) thấy có kết quả tốt: anh ta có triệu chứng nhẹ từ lâu và thấy tốt hơn khi dùng thuốc. 4) điện não đồ không thay đổi trước, trong và sau khi dùng Naltrexone. 5) Xét nghiệm nước tiểu ở nhóm này (cũng như với nhóm sau) cho thấy có viêm nhiễm đường niệu – sau đó được điều trị bởi bác sĩ chuyên khoa. Chỉ có một trường hợp có khả năng là niệu albumin nhưng chưa được chứng minh trên nghiên cứu 24h. 6) Chỉ có thay đổi duy nhất ở CBC là có liên quan đến bệnh học – ví dụ nhiễm virut. Không có những thay đổi kếo dài hoặc khó lý giải ở hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. 7) FBS luôn bình thường; một vài trường hợp thấy bất thường nhưng sau kiểm tra lại thì thấy lại bình thường. 8) BUN: tổng thể là bình thường. 9) Uric acid có thấy tăng ở một số bệnh nhân nhưng chỉ ở mức độ nhẹ và không thay đổi với liều dùng Naltrexone. 10) kiểm tra chức năng gan thấy có mức thay đổi nhiều nhất – ví dụ, chỉ có 4 trong số 17 bệnh nhân thử nghiệm Naltrexone trong Sê-ri 1 là có mức SGOT bình thường đều đặn, và trong số 4 người này thì có 2 người là kiêng rượu hoàn toàn. Gần như là toàn bộ bệnh nhân ở sê-ri nghiên cứu này và ở sê-ri sau là đều có uống rượu, nhiều người là dùng rượu nặng và có nhiều người tiền sử dương tính với viêm gan. Điểm chú ý là một số bệnh nhân có thấy giảm dần mức SGOT (đồng thời giảm cả LDH, bilirubin và alkaline phosphatese) khi họ nhập viện nội trú (trong môi trường không có rượu). Việc giảm tương tự cũng thấy ở cả nhóm ngoại trú mà không sử dụng rượu. Giai đoạn viêm gan cấp không phải không phổ biến: ở Sê-ri nghiên cứu 1 được loại bỏ nhưng được lặp lại ở Sê-ri 2. Mức huyết thanh testosterone thay đổi đáng kể nhưng vẫn ở mức bình thường và xét nghiệm này về sau bị loại bỏ.
Trong Sê-ri 3 nghiên cứu Naltrexone, các kết quả cũng tương tự như ở sê-ri trước. Do đó thay đổi ở lượng bạch cầu và phân biệt chỉ là tạm thời và có quan hệ tới bệnh học xác định. Kết quả loạt xét nghiệm SMA-12 nhìn chung không có gì nổi bật ngoại trừ vẫn là mức bất bình thường cao của chức năng gan - chủ yếu là tăng SGOT và huyết tương protein, thường là tăng gamma globulin (protein trong huyết tương) và huyết tương kháng protein (serum immunoprotein). (IgM, IgA, và IgG).
Mức tăng không bình thường cũng thấy ở nhóm có tiền sử nghiện rượu và bị viêm gan. Thường thấy tăng đáng kể ở chỉ số của chức năng gan như SGOT, thấy rõ qua xét nghiệm máu sau khi có sử dụng rượu. Cũng tương tự như ở các sê-ri trước, trường hợp có bệnh lý về gan thì bác sĩ điều trị có thể có những điều chỉnh, can thiệp, có thể quyết định cho tiếp tục hoặc dừng thuốc điều trị. Nhiều trường hợp có bệnh lý cấp tính thì cần phải dừng điều trị bởi nó không đảm bảo cho nghiên cứu và được gọi là “Nhóm dừng điều trị có nguyên nhân”. Nhóm đã hoàn thành 150 ngày điều trị thì được coi là đủ thời gian điều trị. Luôn dừng thuốc điều trị cai nghiện khi kiểm tra thấy chức năng gan xấu đi mặc dù không sử dụng rượu. Trong toàn bộ 5094 lần xét nghiệm ở nhóm bệnh nhân điều trị với Naltrexone trong Sê-ri III thì có 436 kết quả (tức chiếm 8,5%) là không bình thường. Trong số không bình thường này, có 277 (chiếm 63%) là liên quan đến chức năng gan, 99 kết quả khác (tức 23%) là những phát hiện không bình thường qua xét nghiệm nước tiểu (điển hình là WBC trong nước tiểu). Còn lại 60 kết quả (13%) thuộc của 54 người bệnh là liên quan đến các bệnh lý khác.
Một kết quả kiểm tra khác đáng chú ý là kiểm tra mắt với loại đèn có khe. Tháng 5/1976, có 2 bệnh nhân đã được điều trị xong hoàn toàn được kiểm tra mắt với loại đèn khe này. Kết quả cho thấy họ có bệnh lý về võng mạc (một trường hợp là có lỗ võng mạc và một trường hợp là tuyến lệ võng mạc có hình móng ngựa), không xuất hiện ở vạch ranh giới. Dù không phải là số lượng lớn song vẫn cần được làm rõ là liệu Naltrexone có liên quan đến bệnh lý về võng mạc. Nghiên cứu mù đôi không áp dụng được với 2 trường hợp này. Bệnh nhân có bệnh lý rõ rệt nhất được cho dùng thuốc giả dược; người còn lại được điều trị bằng thuốc. Sau đó có 20 bệnh nhân được kiểm tra mắt và kết quả là không có những thay đổi rõ rệt đáng kể nào, vậy có thể kết luận khi so sánh với số đông được thí nghiệm. Tham khảo ý kiến với các bác sĩ chuyên khoa mắt cũng như hội ý với các nhà khoa học khác có thể kết luận lại rằng không có cơ sở về sự tác động của chất đối kháng ma tuý đối với võng mạc của vật được nghiên cứu trong đó có cả người.
Khám các chuyên khoa khác, gồm cả thần kinh cũng không phát hiện những bất thường đáng kể nào. Về trạng thái tâm thần cũng không có gì bất thường cho dù đây là nhóm nghiện tuổi còn trẻ với nhiều hoàn cảnh khác nhau như bỏ nhà, phạm pháp bị tống giam, có các khủng hoảng đầu đời.

Các triệu chứng phản ứng phụ:
Các triệu chứng này cần được nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng song tại thời điểm này có thể nói rằng Naltrexone hoàn toàn chấp nhận được. Những phàn nàn về thuốc rất ít thậm trí là không có ở một số bệnh nhân. Phàn nàn, kêu ca nhiều nhất là khó chịu ở phần bụng, thường là cảm giác co thắt hoặc cảm giác thấy nặng ở vùng thượng vị hoặc ở bụng dưới. Cảm giác đau là rất hiếm. Chỉ có 3 bệnh nhân dừng điều trị do phàn nàn về có bất ổn ở vùng bụng. Bệnh nhân thứ nhất là L.W. (NAS 016) thấy có triệu chứng do vi rút và huyết áp hơi cao ngay sau bắt đầu điều trị, anh ta kêu buồn nôn. Sau khi được điều trị triệu chứng do vi rút, người này vẫn kêu buồn nôn và nôn. Cho dừng sử dụng Naltrexone 2 lần, sau mỗi lần nghỉ, rồi bắt đầu dùng thuốc tiếp, anh ta vẫn thấy buồn nôn và nôn. Sau đó anh ta được dừng cai nghiện, chuyển sang điều trị huyết áp cao, sau khoảng 1 tháng thì thôi điều trị này. Gần đây được biết là anh ta đã cai nghiện xong.
Bệnh nhân khác là F.T. (NAS 028) cũng phàn nàn về những khó chiu liên tục ở vùng bụng, đôi khi có thấy buồn nôn và nôn: nhu động ruột bị co cứng (không ỉa chảy). Anh ta còn phàn nàn về nhu động ruột xanh nhưng thực ra đây chỉ là cảm tính, phân tích trên máy không phát hiện thấy. Cho dừng sử dụng Naltrexone thì người bệnh cảm thấy tốt hơn, tiếp tục sử dụng thuốc triệu chứng lại xuất hiện. Đánh giá về ca này là chưa ổn định bởi F.T. là một người nghiện rượu, anh ta cũng cảm thấy tốt hơn khi giảm uống rượu. Việc điều trị cho anh ta phải tạm dừng và có thể kết luận là với bệnh nhân này việc dùng Naltrexone trong khi vẫn sử dụng rượu là không thể được.
Hai bệnh nhân khác là K.A. (030) và W.H. (067) cũng có phàn nàn, tuy không nhiều, về những khó chịu ở vùng bụng, họ đề nghị cho dùng Naltrexone với liều là 6 ngày/tuần thay vì liều qui định là 3 ngày/tuần. Nên hiểu là liều trên cả tuần là như nhau nhưng với liều 6 ngày thì tất nhiên thuốc của mỗi ngày sẽ phải ít hơn. Kết quả là 2 người này cảm thấy phù hợp hơn. Điều này cho thấy là Naltrexone, ít nhất là ở một số bệnh nhân, có tác dụng kích thích dạ dày, ruột, và trong 2 trường hợp cụ thể này thì họ bị ảnh hưởng nhiều hơn những người khác và họ cần phải được thăm khám theo dõi thường xuyên hơn. Hai trường hợp này cũng phản ánh một thức tế là Naltrexone cũng có những hạn chế, ít nhất là đối với một số ít bệnh nhân.
Cả hai bệnh nhân trên đều có bệnh về dạ dày và họ vẫn được điều trị bởi bác sĩ chuyên khoa. Còn một bệnh nhân khác nữa cũng yêu cầu cho dùng liều 6 ngày/tuần, thực ra anh ta đề nghị là liều 7 ngày/tuần, bệnh nhân này là R.G. (NAS 071), 23 tuổi, có tiền sử bệnh dạ dày đã 8 năm. Khi các triệu chứng của bệnh dạ dày nghiêm trọng lên, việc ngưng sử dụng Naltrexone được thực hiện, nghiên cứu mù đôi không thể áp dụng và áp dụng cho anh ta loại giả dược để trấn an.
Ngoài các ca có triệu chứng về đường ruột nói trên, không còn phản ứng phụ nào khác trong các đối tượng mà chúng tôi thực hiện nghiên cứu.

Kết quả II – Duy trì điều trị và Bỏ dở điều trị:
Kết quả của Nghiên cứu Naltrexone Sê-ri 1 được thể hiện ở Hình 1 (Figure 1). Trong hình này cũng như ở các hình về sau, kết quả gồm 3 nhóm bệnh nhân. Nhóm đầu tiên là nhóm cá nhân bỏ điều trị - tự ý bỏ điều trị sớm. Nhóm tiếp theo là nhóm hoàn thành điều trị, có kết quả tốt. Nhóm cuối cùng là nhóm bị ngưng điều trị có lý do, có thể vì lý do thuốc hoặc chuyển địa điểm không thuộc cơ sở của chúng tôi, vv. Trong hình 1 có thể thấy nhóm 4 bệnh nhân đầu tiên là thuộc nhóm tự ý bỏ điều trị, chiếm 20% của tổng số cơ sở (base number) (Số cơ sở = Tổng số tham gia nghiên cứu – Số phải ngừng điều trị). 10 bệnh nhân tiếp theo là nhóm đã hoàn thành giai đoạn dùng thuốc Naltrexone trong chương trình điều trị - drug phase (nên phân biệt với Giai đoạn lâm sàng sau giai đoạn dùng thuốc của chương trình – post-drug clinical phase), nhóm này chiếm 71% của số cơ sở là 14 người. 3 bệnh nhân cuối là nhóm phải ngưng điều trị, chiếm 17% trong tổng số 17 người trong nghiên cứu. Nhóm phải ngưng điều trị - không cho dùng naltrexone, ngoài ý muốn của người bệnh, bởi lý do là họ có các bệnh lý. Những bệnh nhân hoàn thành chương trình ở Naltrexone I này (có thời gian dài hơn 90 ngày như đã định) là tương đối thấp (3 trong số toàn bộ). Có thể thấy ở đây, cũng như ở các sê-ri tiếp theo, là có sự chênh lệch giữa nhóm hoàn thành đủ thời gian dùng thuốc và nhóm hoàn thành đủ thời gian của chương trình. (cũng có thể thấy ở đây – Sê-ri 1, sự chênh lệch là lớn nhất, có thể là do thời gian chỉ là 3 tháng, trong khi thời gian của chương trình là 12 tháng, và trong thời gian đầu cũng có những trường hợp tái nghiện).
Hình 2 (Figure 2) thể hiện kết quả của Sê-ri 2 hay còn gọi là “Naltrexone II”. Cũng tương tự như ở Sê-ri trên là gồm 3 nhóm bệnh nhân song ở đây có một số đối tượng bất bình thường mà lẽ ra có thể sắp xếp vào một nhóm khác ngoài 3 nhóm kể trên.  Chúng tôi chỉ liệt kê ra 6 đối tượng có kết quả khác thường như sau:
(1) Bệnh nhân Số 1, M.S. phải ra khỏi chương trình nghiên cứu sau khi bị toà tuyên án. Lúc này anh ta mới tiết lộ rằng chỉ giả nghiện ngập để che đậy việc buôn bán ma tuý, có dùng heroin nhưng không nghiện.
(2) Bệnh nhân Số 6, J.M. dùng Naltrexone rất quyết liệt, nhưng sau đó lại dần chễ nải, bỏ bê không đến điều trị và dùng thuốc, cuối cùng thì anh ta bỏ dở và chuyển sang chương trình dùng Methadone.
(3) Bệnh nhân Số 12, S.B. đã sử dụng quá liều thuốc an thần barbituate sau khi cãi cọ với người yêu. Sau đó được chuyển đến bệnh viện, rồi chuyển về điều trị tại nhà.
(4) và (5) liên quan đến bệnh nhân số 13 và 14. Cả 2 bệnh nhân này đều có tính vô tổ chức từ khi vào điều trị. Bệnh nhân số 14 tình hình xấu nhanh hơn, có biểu hiện rối loạn tâm lý và hoang tưởng và được điều trị với phenothiazine, cuối cùng được chuyển sang điều trị duy trì với Methadone. Còn bệnh nhân số 13 thì ý thức dần dần vô tổ chức và kèm theo những dấu hiệu trầm uất, khiến anh ta tìm đến và muốn được tiếp xúc nhièu giờ với các nhân viên. Người này bắt đầu dùng đều đặn amphetamine và anh ta coi nó như là thứ thuốc tốt đối với anh ta. Anh ta dùng amphetamine sau khi tuyên bố là đã dùng thử Elavil và Triavil và thấy chúng không có hiệu quả. Đúng là cả 2 bệnh nhân số 13 và 14 đều có tiền sử bị bệnh tâm thần, nhưng lúc nhập viện thì bình thường, chưa biểu lộ bệnh. Có thể là do tác dụng làm dịu của ma tuý bị mất đi trong điều trị cai đã làm cho 2 người này mất trạng thái điều chỉnh của họ. Không có lý do gì để nghi ngờ là Naltrexone ảnh hưởng tới tâm thần của họ, đặc biệt là họ lại có tiền sử bệnh trước đây.  
(6) Bệnh nhân số 15 chuyển đi sinh sống ở một nơi khác xa, ngoài phạm vi của chúng tôi.
Nhìn tổng thể thì chúng tôi quyết định sắp xếp 4 trong số 6 bệnh nhân trên vào nhóm bỏ dở điều trị do có nguyên nhân như đã trình bày ở trên. Tỷ lệ là 4 trên tổng số 15 bệnh nhân trong nghiên cứu này, chiếm 26%, là tương đối cao (ở 2 sê-ri trước tỷ lệ này là 17% và 13%). Trong bất cứ trường hợp nào thì tỷ lệ % số điều trị thành công cũng ít hơn so với ở sê-ri đầu tiên, ở mức 45%, và tỷ lệ cá nhân tự ý bỏ dở điều trị tăng lên 54%, ở mức trên một nửa.
Tóm lại, nhóm 15 bệnh nhân được nghiên cứu này thì có 10 người đã có dùng Naloxone lúc đầu, được điều trị ngoại trú với Naltrexone trong 6 tháng với kết quả là 54% đã tự ý bỏ dở điều trị, 45% hoàn thành điều trị, và 26% là phải dừng điều trị do những nguyên nhân khác nhau. Số liệu này không thể đại diện cho toàn bộ số bệnh nhân được nghiên cứu trong sê-ri này của chúng tôi. Độc giả cũng cần lưu ý là có 2 bệnh nhân được thử thách trong quá trình điều trị của nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu Naltrexone ở Sê-ri thứ 3 được thể hiện ở Hình 3. Có thể thấy ngay là khoảng 1/3 số người trên bảng này kết thúc điều trị, hoàn thành chương trình nghiên cứu (dùng phương pháp nghiên cứu mù đôi, sử dụng thuốc thật và loại giả dược). Trên hình 3 có thể thấy là Tổng số N là 54 người, có 7 người trong tổng số 54 này, là thuộc nhóm bị loại bỏ do khách quan. Do đó số cơ sở (base number) còn lại là 47 người (54 - 7) với tỷ lệ 68% là bỏ do chủ quan (người bệnh tự ý bỏ) và còn lại là 32% là hoàn thành chương trình điều trị, trong số này có 3 người là được kết thúc sớm do một số lý do, được bác sĩ điều trị chấp thuận. 3 bệnh nhân này được đánh dấu sao (*) trên hình 3. Một người là được phép của bác sĩ chuyên khoa do có bệnh lý ở bụng, một người được chấp nhận bởi lý do đi làm cả ngày và đi học vào buổi tối, và một người là được bảo lãnh. Cả 3 người này đều tiến triển bình thường và vẫn liên lạc đều đặn với chương trình.
Tỷ lệ thấp của số người hoàn thành điều trị là do bởi mối quan hệ âm tuyến giữa độ dài của chương trình và số người theo, được minh hoạ ở Hình 4 - thể hiện việc giảm rõ rệt từ Sê-ri nghiên cứu I cho đến sê-ri 3 (Sê-ri 1: 90 ngày, sê-ri 2:180 ngày, sê-ri 3: 270 ngày). Tuy nhiên nhìn vào các Bảng 1, 2 và 3 (Table 1, 2 &3 – tương ứng với 3 sê-ri nghiên cứu) thể hiện số lượng bệnh nhân tự ý bỏ tương ứng tại các thời điểm (number of day: từ 0 đến 30 ngày, 31 – 60 ngày ..... 241 – 270 ngày) trong chương trình, và ở trên các Hình 5, 6 và 7 thể hiện tỷ lệ phần trăm (%): càng thể hiện rõ không có quan hệ tuyến tính giữa độ dài thời gian của chương trình và số lượng bỏ điều trị. Ở bảng 1 & 2 thể hiện số liệu của sê-ri 1 và 2 cho thấy ở thời điểm cuối của chương trình thì số người bỏ là 0. Tương tự ở bảng 3 – xê-ri 3: Duy nhất chỉ có 2 ngưòi bỏ. Sê-ri này áp dụng phương pháp mù đôi và cũng tại Sê-ri này cần lưu ý là số lượng bỏ lên mức cao nhất xảy ra vào ngày thứ 150 – minh hoạ trên Hình 7, kèm theo ở phía dưới là một dòng kẻ đứt nét, với 3 trường hợp bị đình chỉ do vi phạm qui định, trong qui định này có việc cấm đem theo vũ khí. 2 trường hợp là không chấp hành qui định của chương trình và 01 trường hợp là đồng loã với hành vi bị nghiêm cấm. Đây chỉ những trường hợp ngoại lệ đã xảy ra và hy vọng là nó sẽ không lặp lại ở những lần sau.
Để tiếp tục hảo luận thêm về việc người bệnh duy trì điều trị, số lượng suy giảm giữa sê-ri 1 và 2 có thể là do có sự liên quan giữa việc tăng thời gian điều trị từ 90 lên 180 ngày, đồng thời là việc nhóm loại bệnh nhân được tiếp nhận ở sê-ri 2 cũng đa dạng hơn
Được minh hoạ tại Hình 8 và trong các Bảng 4, 5 và 6 có một mục được đề cập gọi là Thử thách với người bệnh (challenge). Nó có nghĩa là việc người cai nghiện vẫn có dùng ma tuý trong thời gian đang được điều trị với Naltrexone. Trong các bảng 4, 5 và 6 có một cột là “miss med” tức là missed medication – nghĩa là: số lần người bệnh quên, nhỡ nhàng không dùng thuốc điều trị. Trong cột này chỉ duy nhất có 01 người trên tổng số 19 người là không bỏ sót một lần nào, tỷ lệ trung bình là có 10 lần bỏ. Cũng theo bảng này thì dữ liệu được tập hợp gồm 2 nhóm là: Thử thách trực tiếp (direct challenge) là nhóm có sử dụng ma tuý trong vòng 24 giờ sau khi uống Naltrexone (hoặc có thể là 48 hoặc 72 giờ tuỳ vào mức liều lượng lớn thuốc đã dùng); và một nhóm khác là Thử thách gián tiếp (indirect challenge) là nhóm có sử dụng ma tuý nhưng không cho dùng Naltrexone. Kết quả dược thể hiện ở Bảng 5 và 6.
Kết quả kiểm tra nước tiểu kết hợp với thông tin qua phỏng vấn, thăm hỏi người bệnh. Việc hỏi han cần khéo léo, thận trọng, sau đó thông tin này được đánh giá bởi những nhân viên có kinh nghiệm trong đó có cả những tư vấn viên là người trước kia đã từng nghiện. Chỉ có 6 trong số 19 bệnh nhân có thấy morphine trong nước tiểu nên việc áp dụng kết quả gián tiếp cho các ca khác là cần phải được đánh giá xem xét. Sai sót có thể xảy ra trong những phán đoán mang tính cảm tính và nhiều bệnh nhân chỉ thổ lộ cho đến khi sắp kết thúc, khi họ thấy “an toàn” để nói ra. Điển hình là họ rất muốn biết liệu có phải đang được dùng thuốc thật hay không. Điều khá lý thú là có một số bệnh nhân nói rằng họ cảm thấy chắc chắn là mình đang được dùng loại giả dược (placebo) và cuối cùng là họ bị tái nghiện (với bệnh nhân số 009 và 019) trong khi một số khác biết rõ thuốc của họ là giả dược nhưng lại vượt qua qua được (bệnh nhân số 023 và 072).
Hình 8 (Figure 8) minh hoạ kết quả nghiên cứu trong Naltrexone III, so sánh giữa kết quả của nhóm toàn bộ bệnh nhân (N=54) và kết quả của nhóm thí nghiệm cho thử thách (challenge – có N= 19 người). Có thể thấy là kết quả chung của 2 nhóm là giống nhau. Điều này cho thấy rằng việc được thử thách không ảnh hưởng tới việc người bệnh bỏ điều trị.
Bảng 5 (Table 5) là bảng tách ra từ Bảng 4, chỉ thể hiện kết quả của nhóm được Thử thách trực tiếp (direct challenger – nhóm có dùng đồng thời cả Naltrexone và ma tuý). Kết quả khá ổn định, với thời gian sử dụng thuốc điều trị trung bình là 176 ngày, và thời gian tham gia chương trình điều trị là 201 ngày. Ngược lại với Bảng 6 là của nhóm Thử thách gián tiếp (indirect challenger) có số ngày trung bình tương ứng là 66 và 71 ngày. Điều này cho thấy là những bệnh nhân ở Bảng 6 đã né tránh dùng thuốc đối kháng và tham gia chương trình. Sự khác biệt lớn giữa 2 nhóm nói trên “Trực tiếp/direct” và “Gián tiếp/in-direct” cũng đã được chứng minh qua thí nghiệm Mann-Whitney U-test  (với p ≤ 1). Như vậy có thể thấy rằng nhóm bệnh nhân có sử dụng thuốc đối kháng cho kết quả hoàn toàn khả quan, đồng thời thừa nhận là nhóm hoàn thành điều trị ở chương trình này còn thấp và hành vi của họ cũng đã được thử thách đáng kể.

Kết quả III - Một số phát hiện liên quan khác
Trong các nghiên cứu trên lâm sàng thì việc xác định hình thức điều trị nào là phù hợp nhất đối với một bệnh nhân cụ thể hoặc với một nhóm bệnh nhân là một việc quan trọng. Khi đã nắm biết được các yếu tố hoặc điều kiện, bác sĩ điều trị có thể phân loại được bệnh nhân thuộc nhóm nào, giúp cho việc điều trị được hiệu quả hơn. Điều này càng quan trọng hơn trong các chương trình do các tổ chức hoặc chính phủ tài trợ kinh phí. Ở New Haven, 3 năm qua đã có nhiều nỗ lực để tìm lời giải cho vấn đề ở trên đối với liệu pháp đối kháng. Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi tin tưởng là chúng tôi đã có thể thực hiện được: (1) loại bỏ bớt đi nhiều các yếu tố, những quan ngại về việc loại nghiện nào là phù hợp nhất đối với liệu pháp đối kháng ma tuý, và (2) xác định được một hoặc hai thông số liên quan nhiều nhất đối với vấn đề này. Nếu đề cập các thông số ngay ở đây có thể gây rối trí người đọc do đó chúng tôi đưa bộ các thông số vào phần Phụ lục A.
Cách tiếp cận với vấn đề của chúng tôi là theo hướng trực giác. Không có chuẩn chính thức nào áp dụng cho việc chọn các thông số. Người nghiên cứu chủ yếu dựa vào số liệu lấy từ nghiên cứu thực nghiệm và theo trực giác kinh nghiệm của bản thân. Tổng số có 35 thông số được chia vào 3 nhóm là: (1) Nhóm các chỉ số trong chương trình điều trị, (2) Nhóm các chỉ số về nhân khẩu học, (3) Lý lịch về quá trình nghiện
(Chi tiết xin xem phần Phụ lục A)

Kết luận:

1)    Ba nghiên cứu sử dụng Naltrexone để điều trị bệnh nhân nghiện ma tuý đã được trình bày. 3 sê-ri nghiên cứu có một số khác nhau như là về lượng thời gian điều trị, 2 sê-ri đầu thuộc diện nghiên cứu “mở” và sê-ri thứ 3 áp dụng phương pháp nghiên cứu mù đôi. Các sê-ri được thảo luận đồng thời với nhau bởi có những đặc điểm chung và cũng bởi việc nghiên cứu để tìm ra một phác đồ điều trị hiệu quả ằng Naltrexone là tâm điểm của nghiên cứu này.

2)    Qua các kết quả khám, kiểm tra sức khoẻ đảm bảo rằng Naltrexone là loại thuốc an toàn.

3)    Phản ánh chung từ người bệnh cho thấy rằng Naltrexone là loại thuốc chấp nhận được tuy nhiên cũng gây một số khó chịu ở bụng, thường xuất hiện ở những người tiền sử đã có bệnh về dường ruột hoặc nghiện rượu.

4)    Tỷ lệ khác biệt trong nhóm duy trì điều trị cùng các lý do kèm theo được thảo luận trong 3 nghiên cứu. Một yếu tố được cho là có liên quan đến tỷ lệ duy trì thấp ở sê-ri 3 được gọi là Thử thách (challenge) cùng với thuốc đối kháng cũng đã được đề cập.

5)    Phân tích số liệu của 35 chỉ số thuộc 3 nhóm chỉ số đưa đến kết luận là có một số thông tin lấy từ người bệnh không đảm bảo tin cậy để đánh giá mức độ điều trị thành công. Hai yếu tố được xem có liên quan đến kết quả điều trị và được đề xuất sử dụng ở những lần sau là có mức ổn định cuộc sống và tình trạng ổn định sau cai.

6)    Xin tiết lộ một nghiên cứu mới đang được thực hiện trong Chương trình Can thiệp ở mức độ thấp (Low Intervention Program). Nó còn quá sớm để có thể đánh giá song trải qua 4 tháng thực hiện thấy tiến triển tốt. Chương trình này chủ yếu tập trung vào động lực của người bệnh, khích lệ tính tự giác cao nhất của họ.


   
Phụ lục A - Giải thích các thuật ngữ
Phần 1:    Các chỉ số trong phần chương trình điều trị
(CBAD) Number of Urines Positive for Barbiturate and Amphetamines
Số lần có kết quả nước tiểu dương tính với loại thuốc an thần Barbiturate và loại thuốc kích thích Amphetamines
Tính từ lúc nhập viện cho đến khi kết thúc, ra viện.
(CHALLENG) Challenge
Nếu bệnh nhân có sử dụng ma tuý trong khi đang uống thuốc điều trị
(COILLD) Number of Urines Positive for Other Illicit Drugs
Số lần có kết quả nước tiểu dương tính với các loại thuốc bị cấm khác.
Tính từ lúc nhập viện cho đến khi kết thúc, ra viện.
(COMPD) Completion of Drug - Điều trị đầy đủ theo chương trình
Với Naltrexone I, bệnh nhân được uống thuốc điều trị trong 90 ngày.
Với Naltrexone II, bệnh nhân được uống thuốc điều trị trong 180 ngày
Với Naltrexone III, bệnh nhân được uống thuốc điều trị trong 270 ngày
(COPIATE) Number of Urines Positive for Opiate Drugs
Số lần có kết quả nước tiểu dương tính với ma tuý các loại.
Tính từ lúc nhập viện cho đến khi kết thúc, ra viện.
(ETOM) Elapsed Time on Medication
Số ngày mà bệnh nhân đã chính thức uống thuốc điều trị
(ETOP) Elapsed Time of Program
Số ngày mà bệnh nhân đã chính thức tham gia trong chương trình điều trị
(FOLLSTAT) Follow-up Status (1,2,3)
Chỉ số này có 3 giá trị là: 1) dương tính hay là tích cực, 2) tái nghiện, 3) chưa rõ.
Kết quả (1) phản ánh người nghiện không tái nghiện, thể hiện hành vi tốt.
(GROUP) Theo nhóm
Bệnh nhân được phân ra là nhóm hoàn thành đợt điều trị và nhóm tự ý bỏ.
(NUMISS) Number of Missed Urines
Số lần bỏ, không đến kiểm tra nước tiểu theo yêu cầu, từ lúc nhập viện cho đến khi kết thúc, ra viện.
(REQURIN) Required Urines
Số lần cần kiểm tra nước tiểu, từ ngày nhập viện cho đến khi kết thúc chương trình điều trị
(SAMPLE) các mẫu bao gồm: 1,2,3,   1&2,   2&3,   1&2 vs.3.

(2)  Đối tượng chỉ ở Naltrexone I

(3)  Đối tượng chỉ ở Naltrexone II

(4)  Đối tượng chỉ ở Naltrexone III

(1&2) Đối tượng ở Naltrexone I và Naltrexone II kết hợp

(2&3) Đối tượng ở Naltrexone II và Naltrexone III kết hợp

(1&2  vs.3) Đối tượng ở Naltrexone I và II kết hợp cùng nhóm III



Phần 2:    Các chỉ số về nhân khẩu học
(AGE) độ tuổi
Tuổi của bệnh nhân khi nhập viện điều trị
(DELREC) Delinquent Record - Tiền sử có vấn đề
Có tham gia vào các tổ chức tội phạm trước khi tròn 18 tuổi
(MOINCAR) Months of Incarceration - Số tháng bị tống giam
Số tháng bị giam giữ trong tù, trại hoặc nơi cải tạo dành cho vị thành nhiên. Nếu thông tin có sự mâu thuẫn, thì lấy thời gian bị giam giữ lâu nhất để tính.
(NUMARRST) Number of Arrests
Số lần bị bắt giữ, bất kể là có bị tuyên án hay không
(NUMINTRT) Number of Months in Prior Drug Treatment Programs
Số tháng mà người nghiện đã từng được điều trị ở các chương trình khác trước khi bắt đầu chương trình điều trị này. Nếu thông tin có sự mâu thuẫn, thì lấy thời gian điều trị lâu nhất để tính
(PRDRUGTRT) Number of Prior Drug Treatment Programs
Số các Chương trình điều trị cai nghiện đã từng tham gia (nội trú, ngoại trú, hoặc ở trong tù)
(RACE) Chủng tộc
Da trắng hoặc da đen. Các nhóm khác không có trong nghiên cứu
(STABLIV) Stable Living Arrangement – Có cuộc sống ổn định
được ghi điểm là tích cực nếu bệnh nhân có cuộc sống dễ chịu, thoải mái, thường là sống cùng bạn đời, hoặc cùng gia đình.
(YRED) Years of Education - Khoảng thời gian đã đi học
Học vấn cao nhất đã đạt được trước khi nhập viện điều trị
Phần 3:    Lý lịch về quá trình nghiện
(AMPHETAGE) Age of Onset of Amphetamine Use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng chất kích thích Amphetamine
(AMPHETYRS) Number of years patient used Amphetamines minus any known periods of incarceration and other drug treatment.
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng Amphetamine, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.
(BARBAGE) Age of Onset of Barbiturate Use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng chất an thần Barbiturate
(BARBYRS) Number of years patient used Barbiturate minus any known periods of incarceration and other drug treatment programs
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng Barbiturate, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.
(COCAGE) Age of onset of cocain use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng Cocain
(COCYRS) Number of years patient used Cocain minus any known periods of abstinence including periods of incarceration and other drug treatment programs
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng Cocain, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.
(LIQUAGE) Age of onset of alcohol use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng rượu cồn
(LIQYRS) Number of years patient used alcohol minus any known periods of abstinence including periods of incarceration and other drug treatment programs
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng rượu cồn, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.
(MARJAGE) Age of onset of marijuana use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng cần sa
(MARJYRS) Number of years patient used marijuana minus any known periods of abstinence including periods of incarceration and other drug treatment programs
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng cần sa, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.
(OPIATEAGE) Age of onset of opiate drug use
Tuổi lúc bắt đầu sử dụng ma tuý loại opiate
(OPYRS) Number of years patient used opiate drug  minus any known periods of abstinence including periods of incarceration and other drug treatment programs
Số năm mà bệnh nhân đã sử dụng ma tuý loại opiate, không tính thời gian bị bắt giam giữ và đang được điều trị cai nghiện.

PHẢN ỨNG CỦA BỆNH NHÂN ĐỐI VỚI NALTRELXONE:
CÁC VẤN ĐỀ GỒM VIỆC CHẤP NHẬN ĐIỀU TRỊ,
TÁC DỤNG VÀ LIỀU LƯỢNG DÙNG
                                                                                                                        (trang 67)
Ths. Stephen Curran, và BS. Charles Savage

Giới thiệu:
Bài viết này trình bày một số kinh nghiệm khi dùng naltrexone trong một nghiên cứu kết hợp của Viện hàn lâm khoa học quốc gia (NAS). 38 đối tượng được thử nghiệm với naltrexone trong một nghiên cứu mù đôi trong thời gian 9 tháng. Thuốc được dùng là 6 ngày/tuần trong 2 tháng đầu, sau đó giảm xuống là 3 ngày/tuần. Các xét nghiệm, kiểm tra được thực hiện để khẳng định rằng naltrexone là chất an toàn. Kiểm tra về nước tiểu, những thay đổi về nhân khẩu học và các phương pháp điều trị được theo dõi liên tục để đánh giá hiệu quả của naltrexone trong điều trị cai nghiện.
Các vấn đề liên quan đến naltrexone được trình bày trong bài này gồm: việc chấp nhận điều trị của bệnh nhân, hiệu quả điều trị và liều lượng dùng thuốc.
Đặc điểm của bệnh nhân trong nghiên cứu:
Bảng 1 minh hoạ đặc điểm của các đối tượng tình nguyện tham gia vào nghiên cứu thử nghiệm của NAS. Các đặc điểm này cũng tương tự như ở các nghiên cứu trên lâm sàng khác. Các đối tượng hầu hết là chưa vợ, từ 25 đến gần 30 tuổi, có học vấn ở bậc trung học phổ thông, da màu và có kinh tế ở mức thấp. Số đã từng trải qua chương trình cai nghiện, phục hồi là rất ít, chỉ có một số đã qua với khoảng thời gian là khoảng 4 tháng. Nhiều người thuộc diện được bảo lãnh, ân xá, từng có tiền án với trung bình là có 9 lần bị bắt giữ.
Việc chấp nhận, đồng ý của bệnh nhân:
Việc chấp nhận, đồng ý điều trị với naltrexone nói riêng và với khái niệm chất đối kháng ma tuý nói chung luôn là một vấn đề tiên quyết. Trong bối cảnh mà naltrexone đã được thử nghiệm thì trước khi được cộng đồng khoa học thừa nhận các kết quả cuối cùng đó thì hàng loạt câu hỏi được đặt ra giải quyết. Trong một nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ có 99 người đã được thẩm duyệt song chỉ có 38 người đồng ý tham gia chương trình điều trị dùng thuốc đối kháng. Số lượng lớn người không tham gia này không có nghĩa là 62% trong số họ phản bác liệu pháp điều trị này. Ngược lại, qua các lời phản ánh nhận được thì thấy là nhiều người từ chối bất cứ hình thức cai nghiện nào, có người cho rằng việc khám, xét nghiệm là “phiền phức”, nói một cách trung thực thì là sợ cai. Nhiều cán bộ có trách nhiệm vẫn cho rằng việc khám bệnh, kiểm tra và tuân theo các qui định là việc cần thiết, song không hẳn cứ phải tuân theo chúng thì việc đánh giá mới được khách quan. Tốt nhất, chỉ nên lấy những người bệnh tích cực để đưa vào đánh giá mức độ chấp nhận của người bệnh đối với nghiên cứu điều trị.
Kinh nghiệm qua nghiên cứu của chúng tôi là bệnh nhân phàn nàn về thuốc rất ít khi đang trong chương trình nghiên cứu, phàn nàn chủ yếu là ăn uống và những khó chịu ở bụng.
Lấy thời gian điều trị làm cơ sở đánh giá mức độ đồng ý, chấp nhận của người bệnh với điều trị bằng naltrexone trong nghiên cứu của NAS là 80,9 ngày và với nhóm nghiên cứu sử dụng giả dược là 92,1 ngày. 
Hiệu quả điều trị:
Bảng 2 minh hoạ kết quả điều trị của 38 người trong nghiên cứu. Có 4 người hoàn thành đầy đủ thời gian 9 tháng nghiên cứu, được chia đều cho 2 nhóm là nhóm dùng naltrexone và nhóm dùng giả dược.
Có 5 người đang dùng naltrexone thì phải dừng trong nghiên cứu bởi lý do có tác dụng phụ, trong đó có 3 người phàn nàn về những triệu chứng khó chịu khi không dùng heroin. Đã có khuyến cáo là không dùng heroin trong khi điều trị song kiểm tra nước tiểu thấy là họ đã sử dụng heroin trước khi uống thuốc Naltrexone. Những người này có xuất hiện một số phản ứng của cơ thể, được cho là bình thường, do vậy chúng không được coi là những tác dụng phụ của thuốc. 2 người còn lại thì một người có triệu chứng buồn nôn và một người khác thấy khó chịu ở dạ dạy và táo bón.

SỬ DỤNG NALTREXONE TRONG CAI NGHIỆN
VỚI BỆNH NHÂN VẪN DUY TRÌ METHADONE

(trang 70)


BS. Neil Haas, BS. Walter Ling, TS. Elaine Holmes,
BS. Mara Blakis, Ths. Margaret Litaker
Nghiên cứu này nhằm kiểm tra, đánh giá vai trò của Naltrexone với bệnh nhân vẫn đang duy trì Methadone với mong muốn cai nghiện. Lúc bắt đầu nghiên cứu, có gần 300 bệnh nhân trong chương trình điều trị dùng Methadone, phần lớn trong số họ đã theo chương trình được trên 2 năm, toàn bộ là nam giới. Về nhóm dân tộc thì gồm da trắng, da đen và người Mỹ-Mêhicô, mỗi nhóm chiếm 1/3. Toàn bộ bệnh nhân này có tinh thần cai nghiện và trong khoảng từ 7/1974 đến 10/1975, được tham gia vào chương trình điều trị, được dùng liều là 50 mg hoặc thấp hơn, tham gia vào chương trình được từ 6 tháng trở lên thì được ghi tên chính thức, bất kể họ có quan tâm đến naltrexone hay không. Không tính các bệnh nhân vẫn đang cai trừ độc tố. Các bệnh nhân được phổ biến về Naltrexone, tác dụng của thuốc và được biết về phương pháp thử nghiệm mù đôi; 104 bệnh nhân được ghi tên chính thức, 15 người bị loại vì các lý do về bệnh tật, rượu hoặc tâm thần; 28 người không hoàn thành phần cai trừ độc tố (nhóm không hoàn thành – Incomplete Group); 61 bệnh nhân hoàn thành trọn vẹn cai trừ độc tố với Methadone và 32 người trong số này được chọn vào chương trình nghiên cứu với thuốc Naltrexone (nhóm nghiên cứu – study group).
Nhóm cũng đã cai trừ được độc tố (detoxified) nhưng không tham gia Chương trình nghiên cứu thì được gọi là nhóm từ chối không tham gia (refuser). Về độ tuổi (Age) và thời gian (time) tham gia trong chương trình sử dụng Methadone của 3 nhóm thấy tương tự giống nhau. (xem Hình 1 – Figure 1).
Lý do chính để đi đến quyết định cai nghiện là tinh thần thực sự muốn cai nghiện, sau đó là mong muốn không còn bị ảnh hưởng bởi những qui định khi dùng Methadone, ví dụ như phải đến cơ sở điều trị hàng ngày, khó có thể đi nghỉ. Ngoài ra là họ cũng muốn tránh xa những đối tượng nghiện và muốn khẳng định mình. Cũng có một số người cai nghiện là do bị áp lực từ gia đình. Những người có vẻ có quyết tâm cai nghiện cương quyết, cứng rắn nhất thì lại thường ít quan tâm đến Naltrexone. Những người còn chưa dám khẳng định khả năng cai nghiện của bản thân và những người còn lo lắng, băn khoăn về sự đảm bảo của cuộc sống sau này (công việc, các mối quan hệ, các qui định bắt buộc cuả pháp luật) thì họ cảm thấy việc duy trì Methadone vẫn có thể đảm bảo cho họ
(Trang 71) Lẫn từ một bài khác
Ở nhóm gồm các con cái có liều dùng 30mg/kg có khoảng 15% có tác dụng vào tuần thứ 26. Tỷ lệ mắc bệnh hói do đó cũng giảm xuống dưới 5% ở tất cả các nhóm kể từ tuần thứ 52 cho đến khi hết thí nghiệm. Nhóm con đực không có dấu hiệu bị mất lông.
Không phát hiện thấy có các phản ứng bất thường nào khác trong tất cả các nhóm trong suốt thời gian thí nghiệm.
Cơ thể tăng cân:
Được thể hiện trên các Hình 3 và 4 là cân năng trung bình của mỗi nhóm. Nó cho thấy là có tăng cân ở tất cả các con đực trong nhóm nghiên cứu có thể so sánh với nhóm đối chứng trong suốt 18 tháng đầu của nghiên cứu. Mức độ biến đổi không phải do liều dùng liên quan và có thể đóng góp thêm vào số lượng của mỗi nhóm, dẫn đến sự thay đôi lớn trong giá trị trung bình khi có một số con vật bị chết.
Sự suy giảm việc tăng cân ở nhóm các con cái được điều trị được thấy từ tuần 8 hoặc 12 cho đến khi kết thúc thí nghiệm. Không có những khác biệt liên quan đến liều dùng trong nhóm được điều trị, và sự khác nhau giữa nhóm được điều trị và nhóm đối chứng cũng tương đối nhỏ.
Khẩu phần ăn trung bình của 2 nhóm: nghiên cứu và đối chứng cũng không có sự khác nhau mấy.
Kết quả xét nghiệm trên lâm sàng, huyết học, nước tiểu:
Các kết quả về huyết học cho thấy có sự tăng đáng kể về thời gian tạo prothrombin đối với nhóm con đực dùng liều 30 và 100 mg/kg tại các tuần 52 và 104 và ở nhóm con cái của nhóm thí nghiệm thì ở các tuần thứ 104. Tuy nhiên, các giá trị này lại dơi xuống mức bình thường khi thí nghiệm ở chuột. Lưu ý là các số liệu kết quả ở nhóm con đực được lấy từ số lượng không lớn của những con còn sống sót. Kết quả của tất cả các chỉ số huyết học khác trong nghiên cứu trên chuột đều ở mức bình thường, mặc dù có một số kết quả là khác với nhóm đối chứng. Ngoại trừ tăng của chỉ số BUN ở một vài con đực còn sống sót tại tuần thứ 104, nó không đáng kể về mặt thống kê và cũng không liên quan đến liều lượng dùng, các kết quả về hoá lâm sàng và nước tiểu không cho thấy bất kỳ giá trị nào nằm ngoài mức bình thường hoặc tác dụng do liều lượng dùng gây nên.

Về bệnh lý học:
 Quan sát trên tổng thể và về mô bệnh học trên những con chuột bị loại hoặc sau khi đã chết (post mortem) tại thời điểm giữa và khi kết thúc nghiên cứu thì thấy tương tự ở cả 2 nhóm nghiên cứu và đối chứng. Tỷ lệ trọng lượng của cơ quan nội tạng với cơ thể và của nội tạng với bộ não có thấy tăng lên ở những con cái ở mức liều dùng là 30 mg/kg và 100 mg/kg, với tuyến thượng thận tại các tuần thứ 13 và 26, với chức năng gan tại tuần 26 và 52 và với thận tại tuần thứ 52.
Cả 2 nhóm bị loại bỏ (sacrificed) và nhóm sau khi chết (post mortem) đều có xuất hiện những tổn thương của viêm phổi mãn tính. Ở một số con còn bị đồng thời cả tổn thương do viêm nhiễm ở phổi gồm viêm màng phổi và viêm cuống phổi khá nặng. Một số con có tổn thương do viêm nhiễm cấp tính ở một số phủ tạng có thể là do sự lan toả của máu từ phổi.
Nguyên nhân chết của hầu hết các con vật trong nghiên cứu này được cho là do những tổn thương viêm nhiễm của đường hô hấp, do viêm phổi.
U bướu phát hiện không thấy có sự khác nhau giữa nhóm con vật nghiên cứu và nhóm đối chứng
Kết luận:
Nghiên cứu 2 năm được thực hiện trên chuột với liều dùng hàng ngày thuốc Naltrexone là 10, 30 hoặc 100 mg/kg cho kết quả là không thấy có độc tố trong thuốc.
Nghiên cứu độc tố của thuốc uống được thực hiện trong một năm trên loài khỉ:
Nghiên cứu này được thực hiện theo bản hợp đồng của NIDA cùng với  Industrial Bio-Test, Northbrook, Illinois, và khu vực thực hiện là Decatur thuộc Phòng thí nghiệm Illinois. Để xác định liều dùng phù hợp trong nghiên cứu có thời gian là 01 năm này, thì một nghiên cứu thí điểm đã được thực hiện, trong đó có 3 khỉ cái đã trưởng thành (5 – 6,5 kg) đã được đưa đến phòng thí nghiệm, ở đó trong một thời gian dài và không hề cho dùng thuốc ít nhất là trong 8 tháng. Sau đó chúng được uống viên naltrexone theo lịch như sau:
(Trang 72) - Tiếp theo bài viết ở trên
Sau 2 tuần, việc sử dụng thuốc được tạm dừng, tâm trạng lo lắng vẫn còn. Sau đó, người bệnh này lại bắt đầu dùng Methadone nhằm giảm bớt những lo lắng đó. Mặc dù tâm trạng bất ổn này được cho là do việc cai mau chóng các độc tố gây nên song yếu tố khác về pháp luật và xã hội vẫn được tính đến.
Lý do chính của việc ngưng sử dụng này (xem Bảng 1) là bởi tái nghiện hoặc do yêu cầu cần quay trở lại việc duy trì dùng Methadone. Có 11 người dơi vào nhóm này. với thời lượng sử dụng thuốc là từ 01 ngày cho đến 8 tháng. Nhìn chung những bệnh nhân này đã bỏ thuốc điều trị và bị tái nghiện. Sau đó họ có trực tiếp yêu cầu được dùng Methadone hoặc là đã không thể cai trừ độc tố trong thời gian đã định đó để có thể bắt đầu lại việc dùng thuốc điều trị (naltrexone). Do đặc tính không rõ ràng của nghiên cứu mù đôi nên cả nhân viên và người bệnh đều có xu hướng trở lại dùng Methadone nhanh hơn mức cần thiết của một nghiên cứu mở. 2 bệnh nhân đã sử dụng heroin hàng ngày được trên 2 tuần bất kể đã có cảnh báo. Lý do họ quay trở lại dùng Methadone là bởi những vấn đề về xã hội, tài chính và tính hợp pháp (dùng methadone không vi phạm luật pháp). Một bệnh nhân đã cố gắng thử vượt qua bằng việc tự định ra một liều chỉ “nửa thìa” mỗi lần thôi, sau liều lần thứ 7 thì anh ta đã cảm nhận thấy một tác dụng vừa phải của heroin, và lần tiếp theo nữa thì thấy tác dụng đầy đủ. Vào thời điểm 1/5/1976, trên một nửa số bệnh nhân trong nghiên cứu đã quay trở lại dùng Methadone (xem Hình 3). Trong đó có một bệnh nhân đã hoàn thành tốt 9 tháng tham gia nghiên cứu, trong thời gian đó anh ta không hề có kết quả nước tiểu là dương tính. Quan trọng hơn, thu thập từ bộ câu hỏi điều tra đối với những bệnh nhân đã quay trở lại dùng Methadone, 2 trong số 3 người sẽ quay trở về dùng Naltrexone nếu điêu kiện cho phép. Nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi sẽ mách bảo chúng tôi có phải họ thực sự như vậy không.
Triển vọng trong tương lai: Những phát hiện và tìm tòi về Naltrexone đã khích lệ chúng tôi tiếp tục nghiên cứu của mình. Mặc dù đây không phải là liệu pháp thay thể cho Methadone đối với tất cả các bệnh nhân, song nó được xem là một bước tiếp theo đầy ấn tượng cho nhiều bệnh nhân đã ổn định được lối sống của mình bằng Methadone nhưng vẫn còn lo ngại những ảnh hưởng của ma tuý còn để lại. Trước khi Naltrexone ra đời, trong liệu pháp sử dụng Methadone đã có những câu hỏi được đặt ra bởi các nhân viên như là bệnh nhân phải duy trì Methadone trong bao lâu. Song hiếm thấy nhân viên nào chính thức đưa ra thảo luận hoặc hoàn toàn ủng hộ bệnh nhân nỗ lực cai trừ độc tố bởi họ còn chưa chắc chắn, tin tưởng. Với những ưu việt của Naltrexone thì có sự thay đổi hẳn về suy nghĩ của các nhân viên, họ cảm thấy rằng giờ đây họ đã có một thứ thuốc hiệu quả sau Methadone để giới thiệu với bệnh nhân. Nó giúp họ cảm thấy thoái mái khi thảo luận trao đổi không còn e ngại như trước.
Kết luận: Mặc dù những phát hiện và trải nghiệm của chúng tôi về Naltrexone, tiến hành sau liệu pháp Methadone, vẫn còn khá sớm để có thể đưa ra đánh giá đầy đủ. Quan trọng cần xem xét tỷ lệ không ít người tái nghiện sau điều trị với Methadone. Kinh nghiệm của chúng tôi thấy là người bệnh đến với Naltrexone không chỉ hoàn toàn là do tác dụng ngăn chặn của thuốc mà còn bởi do sự tổ chức chương trình điều trị của chúng tôi. Trước đây hầu hết các bệnh nhân đã qua điều trị cai với Methadone là được mau chóng đưa luôn vào chương trình, điều này làm cho người bệnh có rất ít cơ họi để trải nghiệm trạng thái đã cai, không còn ma tuý. Việc tiếp xúc chỉ còn được thực hiện khi họ bị tái nghiện hoặc là cần phải điều trị tiếp tục Methadone. Còn Naltrexone lại cho phép họ được tiếp tục tham gia một cách tích cực vào giai đoạn chuyển đổi. Với các nhân viên cũng vậy, họ thấy Naltrexone cho họ niềm tin tưởng khi điêu trị cho người bệnh trong giai đoạn cai trừ độc tố (detoxification) và cả giai đoạn chuyển sang Naltrexone. Nó cũng cố toàn bộ cả chương trình phục hồi, tăng hiệu quả công việc của cả thầy thuốc lẫn người bệnh.. Dù vẫn còn tỷ lệ không ít người bỏ dở điều trị nhưng sô lượng người duy trì chương trình điều trị vẫn còn cao hơn nhiều lần số bệnh nhận đã cai trừ độc tố (detoxified) nhưng lại từ chối với Naltrexone. Do đó Naltrexone vẫn được xem là một liệu pháp điều trị chuyển đổi đối với nhóm bệnh nhân đã qua điều trị với Methadone. Ở nghiên cứu này, việc quyết định tham gia vào nghiên cứu  được dựa trên sự tự lựa chọn của cá nhân. Trong tương lai sẽ cố gắng xác định những đặc điểm bệnh nhân phù hợp nhất với Naltrexone để đưa vào chương trình, được xem như là một mô hình chuyển đổi (từ Methadone sang Naltrexone).


MỘT SỐ PHÁT HIỆN VÀ BÌNH LUẬN TỪ MỘT NGHIÊN CỨU
VỀ  NALTREXONE SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP MÙ ĐÔI
(trang 74)
Ths. John Keegan, Carol Lavenduski, ACSW,  BS. Kenneth Schoof  

Đặc điểm bệnh nhân:
Cơ bản mấu chốt gồm có 3 nhóm bệnh nhân trong một nghiên cứu mù đôi với naltrexone thực hiện tại Bệnh viện Lafayette. Nhóm thứ nhất gồm những người đến với chương trình do được biết qua quảng cáo hoặc do được đưa đến chứ chưa hẳn đã muốn. Do vậy dữ liệu về họ chỉ gồm những thông tin cơ bản lấy từ tờ khai khi họ đến gặp. Nhóm thứ hai gồm những bệnh nhân đã được dùng Methadone (nhưng chưa dùng Naltrexone) nên thông tin dữ liệu về họ đầy đủ hơn. Nhóm thứ ba gồm bất cứ bệnh nhân nào đang được sử dụng thuốc của nghiên cứu (Naltrexone), dữ liệu của nhóm này cũng giống như của nhóm thứ 2 là tương đối đầy đủ.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định xem liệu có sự khác biệt nào giữa nhóm đang dùng Methadone và nhóm được dùng thuốc của nghiên cứu. Do nhóm đầu tiên thu thập được rất ít thông tin nên không đưa nhóm này vào so sánh. Còn lại 2 nhóm là nhóm dùng Methadone và nhóm nghiên cứu thì có những mục tương đồng về mặt phân tích khi so với thang điểm 45 MMPI cũng như với loại phân tích mã 2 điểm (two-point code). Thang điểm khó thích nghi với xã hội (social mal-adjustment scale) có mục về sự hổ thẹn và ít tham gia vào xã hội thì thấy có sự cao hơn đối với nhóm Methadone (p<05). Tuy nhiên cũng cần lưu ý là điểm số T (T score) của cả 2 nhóm đều tốt, trong giới hạn bình thường (T score < 60).
Trong thang điểm MMPI có một số mục có đặc điểm giống nhau, ví dụ như mục đánh giá về trạng thái u uất và tâm thần. Việc so sánh được thực hiện ở cả giữa thể thực và thể hư của cả 2 nhóm gồm các mục như: buồn rầu, chứng íctêri (quá kích động), rối loạn tâm thần, hoang tưởng và chứng điên. Ở cả 2 nhóm thì thể thực có tăng cao hơn thể hư song vẫn trong giới hạn bình thường. Phát hiện này cho thấy là cả 2 nhóm đều có xu hướng thổi phồng các triệu chứng của mình khi nhập viện điều trị cũng như sự thiếu tinh tế của họ.
Các chỉ số về xã hội và nhân khẩu học cũng được so sánh. Nhóm bệnh nhân dùng Naltrexone tương đối nhiều tuổi hơn (p<.05) so với nhóm dùng Methadone. Ở nhóm dùng Naltrexone thì số người là da đen và sống độc thân cũng nhiều hơn.
Giữa 2 nhóm cũng có sự khác biệt đáng kể (p<.05) trong 3 chỉ số về tiền sử xã hội: Nhóm bệnh nhân dùng Methadone chiếm số lượng nhiều hơn về có cha hư hỏng, còn nhóm dùng Naltrexone chiếm nhiều hơn về có cả cha và mẹ nghiện rượu hoặc ma tuý. Nhóm dùng Methadone sống cùng với người nghiện khác cũng chiếm số lượng nhiều hơn, những người nghiện khác ở đây có thể là vợ của họ. Chúng tôi có kinh nghiệm là trong 2 vợ chồng sống cùng nhau nếu một người đã nghiện thì rất có khả năng người kia cũng sẽ bị theo. Về tổng thể trên nhiều mặt có thể thấy là nhóm bệnh nhân dùng Naltrexone khá hơn, họ ít phạm pháp hơn, ít bị quản thúc hơn, có một số là cựu chiến binh. Về nguồn trợ giúp, thì nhóm bệnh nhân dùng Naltrexone có việc làm và có sự trợ giúp từ phía gia đình và bạn bè nhiều hơn, sự trợ giúp từ gia đình và xã hội đối với họ cũng ít hơn.
Cả 2 nhóm được đánh giá theo các tiêu chí gia đình như sau: Vai trò của cha mẹ và con cái, điểm tựa của gia đình, Mối quan hệ cộng sinh, trò chuyện trong gia đình, hợp tác trong gia đình, kỷ luật với con cái, sự ganh đua của bọn trẻ, ảnh hưởng của nhóm cùng trang lứa và vai trò của chủ hộ trong gia đình. Mặc dù ở đây không dùng cách phân loại theo phương pháp mù đôi song cũng không thấy có sự khác biệt lớn giữa 2 nhóm. Cả 2 nhóm đều có mối quan hệ trong gia đình không tốt, đặc biệt là cha mẹ không mẫu mực, các thành viên trong gia đình ít trò chuyện thân mật.

Việc sử dụng Naltrexone hiện nay:
Do nghiên cứu mù đôi dừng tiếp nhận nên chúng tôi quyết định sử dụng cách khác mà chúng tôi tin rằng có thể hiệu quả hơn. Đầu tiên, chúng tôi thử phương pháp phục vụ theo hướng công nghiệp, bằng cách đưa ra nhiều mô hình/phác đồ điều trị như là phác đồ: methadone, L-Methadylacetate, naltrexone, giả dược Dextromethorphan hydrobromide. Theo đó bệnh nhân sẽ được phân vào nhóm dùng Methadone hoặc nhóm cai phân theo các tiêu chí: MMPI, lý lịch nghề, phân loại theo tâm thần, tâm lý, động cơ, hoàn cảnh gia đình, mức độ phạm pháp. Sau đó họ lại được phân vào 1 trong 4 nhóm kể trên là methadone, LAAM, naltrexone, giả dược Dextromethorphan hydrobromide. Với cách làm này chúng tôi hy vọng biết được người nào phù hợp nhất từng phác đồ điều trị.
Những bệnh nhân đang được ân xá hoặc hưởng án treo cho thấy có kết quả điều trị tốt hơn. Tương tự như vây, chúng tôi tin rằng những bệnh nhân có nguồn thu nhập chịu sự ảnh hưởng của việc cai nghiện (cai tốt, thu nhập cũng tốt hơn) thì cũng cũng có tiến triển tốt hơn.
Độ an toàn của liệu pháp:
Chương trình nghiên cứu Naltrexone tại Detroit luôn theo dõi bệnh nhân cẩn thận trong đó có cả những bệnh nhân có huyết áp tâm thu và tâm trương tăng. Trạng thái tăng này không phải do Naltrexone mà có thể một số nguyên nhân là:

1)     do sử dụng các chất khác

2)     do những vấn đề về thể chất không liên quan đến Naltrexone

3)     do những lo lắng từ việc dùng methadone để cai

4)     lo lắng từ những việc đã được báo trước


Tuy nhiên nguyên nhân thực sự vẫn chưa có lời giải. Kết quả phân tích huyết áp của nhóm Naltrexone và nhóm giả dược khá hữu ích song số người dùng Naltrexone đủ thời gian chưa nhiều lắm nên chưa thể có kết luận cuối cùng.
Nhiều bệnh nhân ở Detroit trong khi đang được điều trị với Naltrexone vẫn còn sử dụng các chất khác như: rượu, barbituate (loại an thần), amphetamine (loại kích thích). Việc dùng naltrexone cùng các chất này có thể là nguyên nhân của một số tác dụng phụ. Nghiên cứu trong tương lai cần làm rõ vấn đề này.
Do nghiên cứu chưa thực hiện phân tích kết quả trên phụ nữ nên việc điều trị cho vợ và chồng của người nghiện có khó khăn hơn. Khi có kết luận chính thức về độ an toàn của naltrexone thì công tác điều trị trên lâm sàng cũng sẽ tăng đáng kể.

Một số vấn đề gặp phải trong nghiên cứu mù đôi:
Chương trình nghiên cứu Naltrexone dự định ban đầu chỉ điều trị cho nhóm người được ân xá hoặc được bảo lãnh song có xảy ra những nghi ngại về tính pháp lý đối với nhóm người này nên cuối cùng việc hạn chế đối tượng bệnh nhân được tiếp nhận vào điều trị này được dỡ bỏ..Do đó các nhân viên đã quyết định mở rộng đối tượng được tiếp nhận, gồm những người đã qua chương trình dùng methadone (6 tháng) và tất cả những ai thực sự muốn cai nghiện. Chúng tôi đã liên lạc với các giám đốc của các trung tâm điều trị dùng Methadone trong vùng Detroit, tuy nhiên họ cũng không giúp được gì nhiều. Một trong những lý do chính là bởi sự tài trợ kinh phí cho trung tâm của họ là phụ thuộc vào số bệnh nhân, nên họ cần phải giữ lại bệnh nhân càng nhiều càng tốt.
Bệnh viện Lafayette nằm ở trung tâm của Detroit và phần lớn đối tượng được đưa đến là người da đen và cộng đồng người da đen này biết khá rõ về mục đích của Bệnh viện này là nghiên cứu về tâm thần nên họ có những nghi ngờ do đó nó đã làm cản trở phần nào chương trình nghiên cứu Naltrexone.
Khó khăn nữa là việc liên lạc với các tư vấn viên, nhân viên xã hội và các bác sĩ điều trị là những người hàng ngày phải tiếp xúc với bệnh nhân, nõ lực thuyết phục, đưa thêm người bệnh đến điều trị song con số vẫn còn rất khiêm tốn. Ngoài ra, rõ ràng là nhiều bệnh nhân được đưa đến chỗ chúng tôi là thuộc diện ngán ngẩm trong các chương trình trước đây. Khó khăn của chúng tôi là chưa có được nhóm người bệnh phù hợp.
Mô hình ban đầu của nghiên cứu là phương pháp mù đôi. Chính điều này đã gây ra một số vấn đề, bao gồm:

1)    Người bệnh đã kiểm tra thuốc được sử dụng, họ biết mình được dùng thuốc gì

2)    Khi bệnh nhân phát hiện mình không được dùng Naltrexone thì họ cho rằng không có lý do gì để tiếp tục chương trình

3)    Họ có thể bị giảm ý chí khi được biết là họ có thể sẽ không được dùng naltrexone

4)    Khi được biết trước những rủi ro có thể gặp phải cũng sẽ làm giảm số người tham gia chương trình.


Cho đến giờ chúng tôi mới chỉ bắt đầu xác định một số yếu tố có khả năng ảnh hưởng đến điều trị bằng thuốc đối kháng. Hiện thì thấy các bệnh nhân chưa phù hợp hoàn toàn với thuốc đối kháng. Do đó mục tiêu trong tương lai là phải xác định rõ hơn bệnh nhân nào phù hợp nhất với phương pháp điều trị này.

MỘT SỐ NGHIÊN CỨU TRÊN LÂM SÀNG DO TỔ CHỨC NIDA THỰC HIỆN
The NIDA Clinical Studies
QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ (Trang 84)
Ths. Richard B. Resnick, và Elaine Schuyten-Resnick, MSW                                       

Khi chất đối kháng ma tuý lần đầu tiên được giới thiệu đưa vào điều trị cai nghiện, bệnh nhân được điều trị không được lựa chọn phân loại và việc đánh giá mức độ thành công hay thất bại lại chỉ được dựa vào thời gian mà họ duy trì điều trị. Tuy nhiên cho đến nay công tác đánh giá của chúng tôi đã được cải tiến nhiều, xem xét cụ thể hơn như là: thuốc có thực sự hiệu quả và nếu có thì đối tượng nào là phù hợp nhất, kỹ thuật nào là tốt nhất để nâng cao hơn nữa hiệu quả điều trị? Một điểm nổi bật trong nghiên cứu của chúng tôi về Naltrexone là tìm hiểu “Ai phù hợp nhất”. Hy vọng rằng khi nghiên cứu hoàn thành, nó sẽ góp phần khẳng định hoặc phủ nhận mô hình điều trị cai nghiện mà chúng ta đang nói đến.
Trong phần trình bày hôm nay, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn một số điểm trong phương pháp điều trị dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của chúng tôi. Là những nhà nghiên cứu, chúng ta.đều tâm nguyện hiến dâng cho sự nghiệp khoa học đầy khó khăn cùng những yêu cầu khắt khe. Tuy nhiên ở đây tôi không đề cập đến số liệu nghiên cứu cụ thể mà chỉ nêu lên một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng thuốc trên điều trị lâm sàng.
Mặc dù chúng ta đang dùng loại thuốc tiên tiến có tác dụng dượclý đến tâm thần của người bệnh song theo quan điểm của chúng tôi thì nó cũng có gây ảnh hưởng xấu không nhỏ trong điều trị của nghiên cứu này mà dự kiến sẽ dùng làm mẫu để đánh giá các liệu pháp dùng thuốc khác: ví dụ như các hoạt chất có mục đích là điều chỉnh rối loạn chức năng tâm thần hoặc quá trình phát triển bệnh, mục đích có thể là làm giảm, xoá hẳn hoặc làm trầm trọng thêm một “triệu chứng đích” (target symptom). Dễ dàng nhận thấy tác dụng của thuốc khi thuốc gây ra những thay đổi đáng kể (dù là thay đổi tích cực hay là tiêu cực) trên hệ tâm thần của đối tượng được nghiên cứu; ví như là tác dụng mà Lithium gây với bệnh hưng cảm hoặc Imiprimine với bệnh trầm cảm. Chất đối kháng ma tuý không tác dụng trực tiếp với hệ tâm thần của người bệnh; lợi ích của nó chỉ là thứ yếu (secondary), bằng cách bảo vệ bệnh nhân tránh khỏi tác dụng của ma tuý.
Do vậy mà mô hình làm mẫu ở trên không hẳn là giống với mô hình dùng đánh giá ảnh hưởng của hoạt chất đối với các hội chứng có thể nhận thấy trên lâm sàng mà ở nhiều trường hợp là rối loạn tiềm thức. Ví dụ với một số người trạng thái thoải mái, hài lòng lại bắt nguồn từ những hội chứng trầm cảm (depressive syndroms). Tất cả người nghiện đều cảm thấy hài lòng, mãn nguyện khi dùng ma tuý, bất chấp là hậu quả để lại ra sao đi nữa, chỉ là những mất mát thứ yếu (secondary losses). Tiếp tục như vậy chúng tôi quan sát và đưa ra các mức độ mà bệnh nhân bị ảnh hưởng (do dùng ma tuý để lại), chúng thường gây cản trở trong điều trị; lúc đầu chúng được xem là thứ yếu song thực tế cho thấy với người nghiện, chúng rất quan trọng, là tác nhân đưa họ đến với chúng tôi để điều trị. Chúng tôi biết chắc chắn là chất đối kháng ngăn cản tái nghiện. Tuỳ thuộc vào việc người bệnh tuân thủ điều trị theo đúng yêu cầu của thầy thuốc về liều lượng dùng cũng như thời gian dùng thuốc.
Còn một vấn đề nữa, trong trường hợp người bệnh tham gia điều trị, đó là nỗ lực của chúng tôi, dành hết tâm sức và sự khéo léo của mình để làm sao thay đổi thái độ của họ, chấm dứt sử dụng ma tuý, thấy được tác hại thực sự của ma tuý. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, một việclàm đáng được đánh giá. Do đó hiệu quả trên lâm sàng của các hoạt chất này không thể tách rời, mà nó song hành cùng với hiệu quả của bệnh viện, nơi đang sử dụng các hoạt chất đó.
 Tôi sẽ thảo luận một số kỹ thuật trên lâm sàng mà chúng tôi thấy là quan trọng nhất, mặc dù chúng ta phải thừ nhận sự thật hiển nhiên là:  đánh giá trên lâm sàng tốt chưa hẳn đã giải thích đầy đủ cơ sở, bản chất của kỹ thuật đó.
Khi sử dụng chất đối kháng ma tuý, điều then chốt là nhân viên phải giúp bệnh nhân hiểu rằng điều trị không chỉ đơn thuần là dùng thuốc. Rõ ràng để đạt được kết quả tốt, chính các nhân viên phải hiểu được, nắm được và tin tưởng công việc đang làm. Điều trị cai nghiện là công việc rất gian khó chứ không chỉ đơn giản là cấp phát thuốc. Như TS. Lee Schwarts, một cộng tác viên trong chương trình nghiên cứu của chúng tôi, thường nhắc nhở tôi là: “để chữa khỏi bệnh thì dùng thuốc thôi là chưa đủ”.
Tuy nhiên, thuốc chữa bệnh là công cụ để thực hiện trọng tâm ban đầu của liệu pháp – nó là một cách giúp người bệnh bắt đầu tin tưởng người thầy thuốc và nó tạo mối liên kết, hợp tác giữa đôi bên. Dù kỹ thuật liệu pháp nào được được đưa vào sử dụng thì chúng ta cũng không thể tập trung quá mức vào tầm quan trọng của mối quan hệ tốt và tích cực giữa giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Mối quan hệ này có thể được củng cố bằng nhiều cách, từ việc trợ giúp người bệnh trong giai đoạn sau cai cho đến các mặt tình cảm mà người nghiện thiếu thốn trong cuộc sống của họ. Khi lần đầu tiên chúng tôi triển khai chất đối kháng, chúng tôi đã không tính đến các yếu tố đó và kết quả khá nghèo nàn; người bệnh được củng cố khi họ được tiếp xúc đều đặn với nhân viên có chuyên môn và cảm thông, dù là mỗi lần gặp cũng chỉ ngắn ngủi.
Dần dần, người bệnh học được cách trông cậy vào thầy thuốc chứ không phải trông cậy vào ma tuý, giúp họ giải toả khỏi những âu lo, có được lời khuyên, giải pháp cho những vấn đề, những điều còn phân vân trong cuộc sống. Qua mối quan hệ liệu pháp này, bệnh nhân có động lực tích cực khi họ lựa chọn, quyết định các vấn đề, điều này góp phần giúp họ sớm ổn định và hoà nhập hơn.
Một yếu tố cần được xem xét trong điều trị đó là lợi ích khi mà bệnh nhân được giảng giải về thuyết điều kiện (conditioning theory) để họ có thể nhận thấy được những dấu hiệu của phản ứng có điệu kiện trong bản thân. Bệnh nhân hiểu được có thể hiện tiến triển đáng kể trong các lần phỏng vấn về sau. Ngoài ra, lợi ích nữa là cảnh báo họ về khả năng có thể xảy ra tái nghiện tại một lúc nào đó trong tương lai, dù là đã qua một thời gian dài đã được điều trị bằng chất đối kháng thành công.
Tuy nhiên, sự việc dừng sử dụng chất đối kháng rồi sau đó lại dùng ma tuý mà cho rằng việc điều trị là thất bại thì chưa được thoả đáng. Liệu bạn có thể nói lá mao địa hoàng là điều trị không hiệu quả nếu một người bệnh bị xung huyết tim dừng sử dụng nó? Qua các nghiên cứu được thực hiện, chúng tôi nhận thấy là khoảng thời gian bệnh nhân tham gia điều trị với Naltrexone tăng hơn lên ở mỗi lần điều trị về sau.
Cách thức mà chúng tôi sử dụng cũng tương tự như cách điều trị các bệnh mãn tính. Bệnh nhân phải được biết là khi nào tạm ngưng sử dụng thuốc, khi có triệu chứng tái nghiện thì họ cũng cần báo cáo để tiếp tục sử dụng chất đối kháng. Hãy hình dung tác dụng tích cực của nó đối với người bệnh và gia đình họ khi thấy không có gì phân biệt giữa điều trị cai nghiện với các loại bệnh khác. Tác động về tinh thần đối với người bệnh cũng khá nặng nề khi họ đã từng bị đối xử không tốt, bị xa lánh - mỗi lần tái nghiện lại bị coi là “đồ bỏ”- thực tế việc này đã xảy ra không ít. - “Ý tôi là nếu tôi có lỗi lầm, sai phạm, thì tôi còn có thể quay trở lại với chương trình?”.
Trọng tâm của điều trị là người bệnh cần thay đổi “lối sống” chứ không phải là “sẽ không bao giờ sử dụng ma tuý nữa”. Nếu đây là trọng tâm đúng, mà chúng tôi cũng tin tưởng là đúng, thì tiếp theo nhân viên điều trị cũng phải tin tưởng để truyền niềm tin đó tới người bệnh. Với một số người, bản cam kết phục hồi cùng chất đối kháng chỉ được thực hiện sau khi bị tái nghiện hoặc đã tái nghiện một vài lần. Một số tự cảm thấy hổ thẹn, một số khác cần có thêm thời gian để hiểu thầy thuốc có quan tâm tới họ, sẵn lòng giúp đỡ họ những lúc khó khăn.
Chúng tôi phát hiện là hầu hết những bệnh nhân phục hồi thành công đều là những người biết cách dựa vào sự giúp đỡ của thầy thuốc, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của điều trị. Khi mối quan hệ này trở nên tin cậy cùng với những nguồn vui mới thì bệnh nhân cũng ngày càng cảm thấy những hứng thú từ ma tuý cũng vơi đi.
Đưa ra đây một ví dụ cụ thể của một trường hợp để minh hoạ:.
Một bệnh nhân nam 28 tuổi đã được chúng tôi điều trị với Methadone được 4 năm, cảm thấy hoàn toàn không còn ma tuý, đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống. Thầy thuốc điều trị cũng đã có kết luận tốt song có đề nghị là điều trị thêm với Naltrexone. Ban đầu anh ta từ chối vì cho rằng không cần thiết. Hai tháng sau lần cuối cùng dùng Methadone, người bệnh này bắt đầu cảm thấy phải vật lộn với cảm giác khó chịu và thèm ma tuý ngày càng tăng. Anh ta dùng liều 400 mg Methadone tại nhà và bắt đầu có cảm giác dễ chịu ngay. Trong thời gian này anh ta gặp thầy thuốc hàng ngày, liên lạc cả vào ban đêm và ngày nghỉ cuối tuần khi cảm thấy căng thẳng và có triệu chứng nặng. Cuối cùng thì các triệu chứng vẫn càng ngày càng trầm trọng đến mức bệnh nhân cảm thấy không thể chịu đựng nổi và anh ta đã gọi điện thoại đến bệnh viện báo cáo sự việc. Trên đường tới bệnh viện có qua East Harlem là nơi trước đây thường kiếm ma tuý ở đó, anh ta đã phải quyết liệt chống lại cám dỗ. Bệnh nhân này cuối cùng đã đến bệnh viện và đề nghị cho được điều trị với Naltrexone.
Sau đó, anh ta đã tuyên bố rằng Naltrexone đã cho anh một tinh thần thoải mái, có nghị lực, bản lĩnh. Ngoài ra bệnh nhân cũng thừa nhận là duy trì mối quan hệ tốt với thầy thuốc đã giúp bệnh nhân vươn lên, hướng tới những điều tốt đẹp, không ma tuý. Trong những tháng đầu tiên điều trị cai nghiện, chính thầy thuốc là người giúp đỡ đầu tiên, sau đó là sự trợ giúp của thuốc Naltrexone. Nếu không đủ 2 sự trợ giúp này thì không thể thành công. Bệnh nhân này dùng Naltrexone chỉ 01 tháng, khi cảm thấy tốt là thôi không dùng. Cho đến hôm nay là đã được trên 2 năm, bệnh nhân vẫn duy trì tốt, không có ma tuý. Chúng tôi có nhiều bệnh nhân tương tự như vậy: Thuốc đối kháng và Thầy thuốc phải kết hợp cùng nhau giúp đỡ người nghiện.
 Việc đến điều trị cũng là một vấn đề quan trọng. Bệnh nhân dùng Methadone đến bởi họ sợ bị ốm đau, bệnh tật; bệnh nhân dùng thuốc đối kháng không có lo sợ như vậy. Việc đến với điều trị của họ xuất phát từ lòng mong muốn thực sự là duy trì một cơ thể không ma tuý, lo lắng với gia đình hay với những người thân yêu, hoặc bởi mối quan hệ tốt với thầy thuốc. Cũng có vài người đến bởi có cam kết từ đầu với thầy thuốc. Có thông điệp mạnh mẽ tới bệnh nhân là nếu họ bỏ một ngày điều trị thì sẽ bị thầy thuốc gọi ngay. Bệnh nhân đã bày tỏ ngạc nhiên về điều này bởi họ chưa từng thấy bao giờ như vậy ở những nơi họ đã từng đến điều trị.
Yêu cầu dùng thuốc hàng ngày là một cách tốt đối với bệnh nhân dùng chất đối kháng, ít nhất là trong những tháng đầu tiên. Nó không chỉ tạo quy củ trong cuộc sống của bệnh nhân cũng như tạo mối liên lạc giữa thầy thuốc và người bệnh mà nó còn nhắc nhở thầy thuốc về tiềm ẩn khả năng tái nghiện nếu họ bỏ một ngày thuốc. Nhiều bệnh nhân cảm thấy là họ có thể bỏ một ngày thuốc và dùng ma tuý chỉ “một thoáng thôi”. Về việc này chúng tôi thấy chất đối kháng có ưu điểm bởi 2 lý do: Bệnh nhân phải đưa ra một quyết định tỉnh táo khi bỏ thuốc điều trị, họ không thể phủ nhận trách nhiệm của mình khi dùng ma tuý. Rất nhiều bệnh nhân tích cực đang dùng chất đối kháng – theo nhận định của chúng tôi - lại có dấu hiệu dùng ma tuý do thụ động, do bốc đồng.
Bằng cách giúp bệnh nhân hiểu được những động cơ đó, người thầy thuốc đã làm cho bệnh nhân ý thức được hành động của họ, thay vì việc lấp liếm cho rằng việc dùng ma tuý là do một chút “yếu đuối”, không làm chủ được bản thân. Chúng tôi thường nói với bệnh nhân và gia đình họ rằng việc không chấp hành đúng chỉ định dùng thuốc cũng đồng nghĩa với việc bệnh sẽ nặng hơn. Một bệnh nhân còn đang lưỡng lự, chưa dùng thuốc thì cũng không hẳn là sẽ bỏ thuốc ngày hôm đó nếu anh ta biết rằng làm như vậy thì cũng như thể tuyên bố với gia đình và nhân viên rằng: ”Hôm nay tôi sẽ bắn vài bi heroin”. Chúng tôi thấy rằng sự tác động của gia đình rất có ảnh hưởng khi người cai nghiện còn đang lưỡng lự, anh ta sẽ được hỗ trợ để vượt qua cho đến khi có tâm lý ổn định, đủ tỉnh táo và bản lĩnh.
Kết luận lại chúng tôi mạnh mẽ nhấn mạnh rằng người thầy thuốc cần coi đối tượng nghiên cứu của mình nhưng các bệnh nhân - cần toàn tâm, toàn ý, hết lòng cứu chữa cho họ, hồi phục cho họ như với bất kỳ bệnh nhân nào khác – không phân biệt người nghiện với các người bệnh khác.

KINH NGHIỆM TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG BẰNG NALTREXONE TRÊN 370 NGƯỜI CAI NGHIỆN
(Trang 88)
Muriel Thomas RN, Ths. Frank Kauders,
Marcel Harris, Judy Cooperstein, RN,
TS. Gordon Hough, Ths. Richard Resnick
Giới thiệu chung:
Bộ phận Nghiên cứu và Điều trị cai nghiện (Division of Drug Abuse Research and Treatment) của Trường đại học y khoa New York bắt đầu sử dụng Naltrexone vào năm 1973. Kể từ đó, 370 người nghiện đã được điều trị cai trừ độc tố gây nghiện (gọi là cai nghiện – detoxified) và tiếp theo cho dùng Naltrexone. Nơi điều trị được đặt ở East Harlem là nơi có tỷ lệ người nghiện cao. Thành phần người nghiện được điều trị ở đây gồm: 38% là người da đen, 38% nữa là người Puerto Rican, và 24% còn lại là da trắng. Chất nghiện/ hay bị lạm dụng chủ yếu là Heroin /hoặc Methadone bất hợp pháp. Bệnh nhân đến đây điều trị thuộc đủ mọi thành phần xã hội song chủ yếu là tầng lớp có địa vị kinh tế - xã hội thấp. Họ được đưa đến điều trị từ các cơ quan, tổ chức trong cộng đồng như là các nhân viên thi hành án, các cơ sở cai nghiện trong khu vực, và cả những bênh nhân được biết tới Naltrexone và nói với bạn bè và người thân.
Khi chúng tôi bắt đầu nghiên cứu Naltrexone, rất nhiều bệnh nhân đã tỏ ý nghi ngờ. Lúc đó Cyclazocine đã phổ biến trong cộng đồng. Không giống như ở các cơ sở điều trị khác, bệnh nhân ở Trường đại học Y khoa New York đã được sử dụng Cyclazocine mà không gặp mấy khó khăn và tác dụng phụ. Do vậy việc triển khai dùng Naltrexone cần phải quảng bá để cả thầy thuốc và bệnh nhân tin tưởng, sẵn sàng đón nhận Naltrexone vào điều trị.

An toàn & Tác dụng phụ:
Phát hiện trước tiên và có thể là quan trọng nhất trong điều trị bệnh nhân với Naltrexone là thuốc an toàn với rất ít tác dụng phụ. Tác dụng phụ thường thấy (dù ở trên rất ít bệnh nhân) là đau thượng vị, đặc biệt là khi uống thuốc lúc đói, và huyết áp có tăng nhưng ở mức không đáng ngại. Triệu chứng đau thượng vị có giảm tần suất khi tần suất sử dụng thuốc có thay đổi. Ở những bệnh nhân đầu tiên, đây là triệu chứng duy nhất trên bảng danh sách, nó có tăng khi Naltrexone được dùng tiếp theo sau 7 ngày không dùng ma tuý hoặc sau một thời gian dùng loại giả dược. Triệu chứng đau này thường làm bệnh nhân thờ ơ trong lần 2 sử dụng thuốc tiếp theo.
Việc tiêm Narcan (0,8 – 1,2 mg naloxone) trước khi sử dụng Naltrexone được giới thiệu áp dụng. Nếu việc tiêm này làm lắng các triệu chứng thì việc dùng Naltrexone vẫn phải đợi cho đến khi kiểm tra Narcan là âm tính. Thử nghiệm trên hầu hết bệnh nhân cho thấy Narcan cho phép liều dùng 100 mg Naltrexone không gây khó chịu. Phát hiện này cho thấy là trên nhiều bệnh nhân triệu chứng đau trên chỉ là một triệu chứng thứ yếu khi cai. Đến nay thì số lượng bệnh nhân bị đau thượng vị còn rất ít, những bệnh nhân này thường là có tiền sử đau dạ dạy, ruột từ trước. Triệu chứng đau khi sử dụng Naltrexone có thể điều chỉnh bằng việc làm giảm a-xít trong dạ dày hoặc là ăn trước khi uống thuốc.

Một số xem xét khi điều trị:
Phát hiện thứ hai của chúng tôi là Naltrexone rất nhạy cảm với rất nhiều bệnh nhân, dù là có hiệu quả nhất nhưng nó đòi hỏi thái độ tích cực của nhân viên và chương trình điều trị phải đa dạng. Việc dùng Methadone vẫn nên duy trì, đặc biệt với bệnh nhân chưa phù hợp với chất đối kháng. Số liệu về nhập viện, xuất viện của 262 bệnh nhân được điều trị trong một năm rưỡi qua cho thấy có khoảng 40 người đã quay trở lại tái nhập viện 3 lần. Tại thời điểm viết báo cáo này (tháng 5/1976), có 9 trong số 50 bệnh nhân đang được điều trị với Naltrexone đã bỏ điều trị, bị tái nghiện, và sau đó đã quay trở lại. Số liệu ở chỗ chúng tôi cho thấy là bệnh nhân sẽ duy trì điều trị lâu hơn ở những lần được tái nhập viện về sau.
Trong 18 tháng vừa qua, có 20 người đã dùng Naltrexone chỉ 01 liều, 39 người dùng Naltrexone nhiều hơn 01 lần nhưng dưới 01 tuần, 132 dùng thuốc được từ 1 tuần đến 3 tháng, 50 người từ 3 tháng đến 6 tháng và 21 người là trên 6 tháng.
Nghiên cứu có cho thấy không có mấy yếu tố tác động đến việc bệnh nhân đồng ý sử dụng thuốc, ngoài việc bệnh nhân bày tỏ muốn cai hoàn toàn ma tuý. Chúng tôi tin rằng công tác tư vấn với việc phỏng vấn nghiêm túc, trò chuyện thân mật là một khâu rất quan trọng trong điều trị với Naltrexone. Mức độ mà tư vấn viên ảnh hưởng đến người nghiện có tác động đến việc duy trì hay quay trở lại điều trị của bệnh nhân. Khi tư vấn, nhân viên giúp bệnh nhân bày tỏ, nói ra những gì họ còn e ngại. phân vân; nhấn mạnh rằng để chữa khỏi bệnh thì chỉ dùng thuốc thôi là chưa đủ. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy: điều trị là cả một quá trình với những giai đoạn khác nhau, có cả những tiến bộ sau khi vượt qua tái nghiện. Chúng tôi nói với bệnh nhân rằng hãy quay lại điều trị nếu cảm thấy có triệu chứng thèm hoặc tái nghiện. Một điểm đặc biệt của Naltrexone là thuốc cho phép sử dụng khi họ cảm thấy có dấu hiệu thèm ma tuý, không sợ bị ảnh hưởng xấu do dùng thuốc.
Có một số bệnh nhân đến với cơ sở điều trị song vẫn có những e ngại, ngại ngùng tiếp xúc với thầy thuốc. Có một bệnh nhân đến chỗ chúng tôi 5 ngày/tuần, duy trì như vậy trong nhiều năm. Anh ta đã từ chối lịch làm việc 3 ngày/tuần khi cho dùng Methadone. Khi bệnh nhân này đã được điều trị cai xong (detoxified) và chuyển sang dùng Naltrexone thì anh ta lại tiếp tục đến khu điều trị 5 ngày/tuần. Gần đây anh ta đã đồng ý lịch 3 ngày/tuần. Tuy vậy quan hệ của bệnh nhân này với các thầy thuốc vẫn rất hời hợt, duy trì đến bệnh viện 3 ngày/tuần chỉ đơn giản là để lấy thuốc Naltrexone.
Nhìn chung nhân viên của chúng tôi chấp nhận cách đến điều trị như vậy; Bệnh nhân đến điều trị, có bỏ dở, rồi lại quay trở lại điều trị. Người bệnh tìm thấy sự tin cậy ở thầy thuốc và bệnh viện chứ không chỉ đơn thuần là thuốc điều trị. Ở chỗ chúng tôi cũng không còn thấy ngạc nhiên việc người bệnh hăm hở đến song rồi lại ca thán những khó khăn khi bắt đầu điều trị. Hầu hết là cần có thời gian để quen dần với việc điều trị và những thay đổi.

Một số chỉ định đặc biệt với Naltrexone:
Chúng tôi nhận thấy rằng Naltrexone còn có hữu hiệu với một số nhóm người nghiện khác ngoài nhóm nghiện ở đường phố. Thứ nhất là nhóm bệnh nhân đã cai nghiện với Methadone. Chúng tôi đang nghiên cứu dùng Naltrexone như là một phương pháp điều trị chuyển đổi (transitional treatment) cho nhóm này. Trong một nghiên cứu mù đôi thử nghiệm so sánh nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược: lấy 25 bệnh nhân thử nghiệm nghiên cứu; toàn bộ những người này đã được điều trị với Methadone được từ một năm rưỡi đến 3 năm, đang đi làm hoặc đi học và không hề lạm dụng ma tuý từ 6 tháng trở lên trước khi bắt đầu thực hiện cai. Sau khi có thoả thuận đồng ý, bệnh nhân được phân một cách ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược. 19 bệnh nhân đầu tiên được coi là có hiệu quả theo đánh giá chủ quan của các nhân viên và được đưa vào liệu pháp với tư vấn viên. 6 bệnh nhân gần đây nhất được giao cho một nhân viên quan sát theo dõi để đánh giá, người này hoàn toàn không biết bệnh nhân nào thuộc nhóm nào trong 2 nhóm nghiên cứu (Naltrexone & giả dược). Các bệnh nhân đều được cho biết về tác dụng của thuốc là có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi cai bằng Methadone.
Toàn bộ bệnh nhân dùng thuốc Naltrexone đều cho thấy có ít các triệu chứng hơn so với nhóm bệnh nhân dùng loại giả dược. Sự khác biệt giữa 2 nhóm chưa thể hiện rõ về mặt thống kê. 6 bệnh nhân gần đây nhất cũng được so sánh về phản ứng qua phỏng vấn trên lâm sàng. Một số bệnh nhân chủ yếu tập trung về những khó khăn trong mối quan hệ với mọi người ở nhà, tại cơ quan hay trường học; ít có những phàn nàn về thể trạng cơ thể. Với những bệnh nhân còn lại thì lại ngược lại: khi phỏng vấn trên lâm sàng họ chủ yếu phàn nàn về thể trạng cơ thể hơn là các khó khăn trong các mối quan hệ với mọi người. Khi nghiên cứu dừng áp dụng mù đôi, 6 tháng sau khi đã cai xong (detoxified) hoặc có thể gọi là kết thúc điều trị, thì các bệnh nhân hay phàn nàn về các vấn đề về giao tiếp với mọi người khác thì hầu hết là thuộc nhóm dùng thuốc Naltrexone; còn nhóm hay phàn nàn về thể trạng cơ thể lại thuộc nhóm dùng giả dược. Lấy một trường hợp nổi bật như sau: Một bệnh nhân có phàn nàn về khó khăn trong mối quan hệ với bạn gái xảy ra trong 8 tuần điều trị đầu tiên, đến tuần thứ 9 thì lại bắt đầu phàn nàn về những triệu chứng khó chịu của cơ thể như: đau mỏi khớp, cu rút dạ dày, cảm giác hay chảy nước mắt và ra mồ hôi. Nhân viên quan sát và theo dõi (observer) đã ghi lại những thay đổi này trong biểu đồ của bệnh nhân. Qua nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy rằng việc kê đơn thuốc cho bệnh nhân có thể thay đổi từ loại thuốc thật sang loại giả dược vào cùng thời điểm mà quan sát thấy có những thay đổi trên lâm sàng ở bệnh nhân có liên quan.
Sự khác biệt giữa 2 nhóm trên cho thấy là Naltrexone có thể làm mất đi các triệu chứng khi cai nghiện (loại thứ cấp), đặc biệt là trạng thái ngủ mê man, chán ăn, mệt mỏi, kém tập trung. Bệnh nhân nào cảm thấy Naltrexone có hữu hiệu thì được nhận thuốc Naltrexone, còn những người cảm thấy không hữu hiệu mấy thì nhận loại giả dược. Thử nghiệm tiếp tục được thực hiện và qua đó những phát hiện về sự khác biệt giữa 2 nhóm dùng thuốc thật và loại giả dược sẽ góp phần quan trọng vào công tác điều trị.

                                                                       
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
(Trang 119)
BS. Abraham Wikler
Giải thích từ ngữ: Trong bài này tác giả luôn dùng một số khái niệm như:

-     conditioned abstinence: Trạng thái cai có điều kiên,

         ở đây có thể hiểu là Cai có sự trợ giúp của thuốc.

-     unconditioned abstinence: Ngược lại với trên, trạng thái cai không điều kiên,

                                                chủ yếu nhờ vào sự tự chống đỡ của cơ thể.

Cơ sở lý luận về điều trị cai nghiện bằng chất đối kháng ma tuý đã được thể hiện rõ bởi Martin và các đồng nghiệp (1966). Tóm lại, việc bệnh nhân ngoại trú tiếp tục duy trì trạng thái đã cai nghiện bằng một liều uống hàng ngày chất đối kháng ma tuý nhằm 2 mục đích: (a) loại bỏ động cơ, ham muốn tìm kiếm và sử dụng ma tuý; và (b) là dập tắt trạng thái thèm thuốc của cơ thể (kể cả lên cơn nghiện) do kiêng khem không dùng ma tuý – có thể coi tác dụng của thuốc như là một phản ứng với các tác động kích thích của môi trường xung quanh, với tác dụng đó thì khiến cho việc cai không điều kiện trước đây trở thành có điều kiện (Wikler, 1948; 1965). Không cần phải thêm gì khác, chỉ cần bệnh nhân ngoại trú duy trì dùng chất đối kháng để “hồi phục”, đồng thời trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết để có một nghề nghiệp có ích trong xã hội, hình thành những mối quan hệ mới với những người không nghiện ngập để trợ giúp lẫn nhau, cũng như khuyến khích họ từ bỏ những thói hư, tật xấu được coi là bất hợp pháp, những thứ đã bám rễ, ăn sâu vào họ trong thời gian họ nghiện ngập. Quá trình duy trì dùng đối kháng ma tuý này cũng có tác dụng trợ giúp đắc lực cho những đối tượng đã được cai bắt buộc (theo qui định của nhà tù, có hoặc không có giai đoạn quản chế) trong đó nó có cho phép người cai nghiện tiếp xúc với những yếu tố “có thể gây nghiện” trong môi trường xung quanh; bệnh nhân có thể được thử thách với cả những triệu chứng do cai có điều kiện gây ra, cách điều trị này không sợ ảnh hưởng xấu từ tác dụng dược lý của ma tuý gây ra. Kết quả là nếu bệnh nhân được thử thách đầy đủ thì các triệu chứng do cai nghiện có điều kiện gây ra sẽ được dập tắt thông qua những thử thách được lặp đi lặp lại.

Nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc tiệt trừ các triệu chứng do cai có điều kiện gây ra và các hành vi tìm kiếm ma tuý là để giảm thiểu ở mức thấp nhất khả năng xảy ra tái  nghiện sau khi việc điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý của bệnh nhân ngoại trú kết thúc. Wikler (1974) đã đề xuất một chương trình “điều trị tích cực” thực hiện ngay khi bệnh nhân còn đang được điều trị cai nội trú trong bệnh viện, tiếp sau đó là điều trị ngoại trú bằng việc duy trì dùng chất đối kháng ma tuý. Dựa theo mô hình đã thí nghiệm trên động vật dùng để dập tắt các hành vi và phản ứng có điều kiện, một đề xuắt được đưa ra đối với nhóm bệnh nhân nội trú là: cho bệnh nhân đã cai và đã dùng chất đối kháng ma tuý được tiếp xúc với các điều kiện gây nghiện và tất nhiên cho thử thách với cả các triệu chứng do cai có điều kiên gây ra; thử cho đối tượng tiêm chích heroin vào người; hy vọng rằng, với tác dụng của chất đối kháng ma tuý thì ma tuý được tiêm chích này cũng mất tác dụng. Các điều kiện gây nghiện ở đây có thể là dùng bộ tranh về heroin (Teasdale, 1973) hoặc cảnh bệnh nhân đã cai tự tiêm chích heroin trong điều kiện không bị cản trở. Sau khi hoàn thành giai đoạn cai tích cực nội trú với chất đối kháng ma tuý, bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị ngoại trú, hàng ngày uống thuốc đối kháng ma tuý. Giả định dưới các điều kiện khác nhau trong môi trường ngoại trú, bệnh nhân có thể dễ dẫn tới các hành vi tái nghiện thì trong điều kiện “tự nhiên” như vậy thì cuộc chiến chống lại ma tuý vẫn không hề ngưng nghỉ, vẫn được theo dõi thường xuyên, dù việc kiểm tra morphine qua nước tiểu không còn theo lịch như trước. Do vậy có đề xuất là nên duy trì tiếp tục dùng chất đối kháng ma tuý từ 10 tháng cho đến 01 năm (ngoài khoảng thời gian cai kéo dài là khoảng 30 tuần, Martin và Jasinski, 1969)  và nếu nước tiểu vẫn âm tính với morphine thì có thể cho dừng chất đối kháng ma tuý. Các triệu chứng do cai có điều kiện và hành vi tìm kiếm ma tuý được tiệt trừ và bệnh nhân được “phục hồi”, khả năng tái nghiện giảm xuống mức thấp nhất.

Thí nghiệm trên chuột cho thấy tác dụng của liều tiêm chích morphine vào tĩnh mạch có thể được loại bỏ bằng việc điều trị (đón) trước bằng Naloxone và sự xuất hiện của một tác động có điều kiện thấy trong không gian kín đã được Davis và Smith (1974) chứng minh. Có một số câu hỏi được đặt ra trong nghiên cứu này là liệu rằng việc giảm áp lực đòn bẩy (lever-pressing) đối với morphine không hẳn là do các điều kiện bất lợi mà là do cai, với mức độ như là lúc vừa được điều trị trước với Naloxone; mức áp lực đòn bẩy không thấy tăng trước khi nó giảm sút nhanh chóng. Naloxone có thể gây ra một hội chứng tiềm ẩn do cai khá nghiêm trọng, ở chuột dù chỉ tiêm một liều lượng rất nhỏ morphine là 60 mcg/kg, trong 3 ngày trước khi có điều trị trước với Naloxone. Tuy nhiên ở một số con chuột khác cũng tiêm tĩnh mạch morphine, việc cai hoàn toàn được hoàn thành bằng việc dùng dung dịch nước muối (saline) thay thế cho morphine trong phòng kín và có tác động có điều kiện; dưới các điều kiện này áp lực đòn bẩy cũng không tăng.

Tuy nhiên như đã dự báo từ trước, tiến hành cai tích cực trên người gặp một số khó khăn đặc biệt bởi con người có giác quan nhận thức, suy luận, cảm nhận được hành động và sự việc nên kể cả người thực hiện thí nghiệm cũng khó đoán trước được. Từ một số báo cáo chưa được công bố cho thấy là có 2 vấn đề chủ chốt ảnh hưởng việc cai bằng chất đối kháng trên bệnh nhân nội trú: (a) bệnh nhân từ chối việc tiêm chích heroin hay bất kỳ chất ma túy nào khác khi thấy có tác dụng với chất đối kháng, anh ta biết rằng không còn bị “lên cơn” nữa; và (b) bệnh nhân báo cáo rằng chất đối kháng ma tuý đã làm anh ta không còn thèm ma tuý nữa, hay chất đối kháng có tác dụng “bão hoà”.
Vấn đề là liệu tác dụng đối kháng trong chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng hết chưa, tác dụng “bão hoà” trên cơ quan cảm thụ (receptor) là rất quan trọng trên cả 2 mặt là thực tiễn và lý thuyết. Nếu loại giả dược tạo ra dư vị giống như Naltrexone thì thử nghiệm mù đôi trong đó có cho đối  tượng tiêm chích heroin hoặc hydromorphone có thể giải đáp được vấn đề này. Nếu đúng, thì tác dụng “gây bão hoà” của chất đối kháng ma tuý sẽ giúp xoá đi các triệu chứng
Ví dụ, một người nghiện được nhâp viện và được điều trị cai các độc tố gây nghiện (detoxified), sau đó

Phụ lục - kết luận tổng kết:
Nếu được chứng minh rằng chất đối kháng ma tuý có tác dụng “làm bão hoà” thì việc xoá đi các triệu chứng xảy ra do cai có điều kiện có thể diễn ra như sau: Cho nhập viện một nhóm người nghiện đã được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), cho họ ký bản hợp đồng thoả thuận (có mức thưởng tiền); cho ở nội trú trong bệnh viện ít nhất là một tháng, bất kể có cho họ được phép tiêm chích ma tuý hay không. Chưa sử dụng bất kỳ chất đối kháng ma tuý nào. Sau đó cho phép một số đối tượng tiêm chích heroin nhưng chưa cho dùng chất đối kháng ma tuý; trong khi đó số đối tượng khác không được phép tiêm chích bất cứ thứ gì. Khi xem lớp đàn anh đang tiêm chích nhưng lại không được phép làm như vậy tất nhiên sẽ gây cho người nghiện cảm giác “thèm muốn” và các dấu hiệu/ hay triệu chứng khác (có điều kiện- conditioned abstinence), cứ lập lại hàng ngày thì sẽ dần dần quen dần và cuối cùng là biến mất. Sau đó nên cho các đối tượng này dùng liều kháng đầy đủ bằng Naltrexone và cho phép ngoại trú khi mà không còn hành vi tìm kiếm ma tuý; có thể là naltrexone được duy trì sử dụng hàng ngày và đối tượng vẫn “thèm” heroin hay các chất ma tuý khác. Lại tiếp nhận loạt bệnh nhân mới nhập viện, cho nội trú và lại lặp lại là cho phép tiêm chích nhưng không cho kháng ma tuý, trong khi đó thì nhóm đã được tiêm chích trước đó mà không dùng kháng (blockade) thì bây giờ được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), thực hiện theo trình tự, cho ký hợp đồng khác nếu thấy cần thiết. Sau khi những đối tượng này chuyển sang ngoại trú, nhóm nội trú lại được hình thành tiếp. Về việc kiểm soát, thì một số đối tượng mà được cho phép tự tiêm chích heroin mà không dùng kháng thì có thể lại được điều trị trừ độc tố, rồi chuyển sang ngoại trú với việc dùng Naltrexone mà không cần trải qua trình tự điều trị tiêu trừ các triệu chứng do không dùng ma tuý gây nên.

NHỮNG HẠN CHẾ TRONG PHƯƠNG PHÁP CAI NGHIỆN
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
BS. Roger Meyer, Ths. Mary Randall, Cn. Cecily Barrington,                              (trang 123)
BS. Steven Mirin, TS. Isaac Greenberg

Trong một nghiên cứu vào năm 1966, Martin đã đưa ra việc sử dụng Cyclazocine trong điều trị dài ngày cho người nghiện heroin. (1) Wikler đã đưa ra một chương trình về hành vi có ảnh hưởng tích cực trên bệnh nhân đang điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý, làm tiêu tan các triệu chứng do cai nhịn thuốc (đói ma tuýconditioned abstinence) và triệu chứng do vẫn dùng ma tuý. (2) Khi chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng một vài năm, thực hiện trên người bệnh vẫn hoạt động, đi lại; thì phác đồ của Wikler vẫn là phương pháp duy nhất trong điều trị bằng đối kháng ma tuý mà một mặt là hoàn toàn dựa trên cơ sở dữ liệu từ thực nghiệm trong Labô thí nghiệm, và mặt khác là dùng các đặc tính đặc biệt của chất đối kháng. Phác đồ của Wikler dựa trên khái niệm cho rằng các kích thích mà trước đó đi đôi với các triệu chứng do cai nhịn thuốc không điều kiện (unconditioned abstinence symptoms) cũng sẽ khơi gợi hiện tượng như trong hội chứng cai (abstinence syndrome) ở trên người đã từng nghiện ma tuý. Theo đó, những người này có thể bị tái nghiện do bị tác động từ các yếu tố từ môi trường xung quanh giống như ở trên. (3) Wikler đưa ra rằng với sự hiện diện của các yếu tố kích thích liên quan đó, thì người nghiện được điều trị với chất đối kháng ma tuý vẫn luôn phải có bản lĩnh trước ma tuý, cần dập tắt ngay hành vi sử dụng ma tuý. (2) Do đặc tính trung tâm của giả thiết cai nghiện dùng chất đối kháng ma tuý nên cần phải xem xét, đánh giá các số liệu gần đây, đây là việc quan trọng.và có thể tác động làm thay đổi phác đồ điều trị bằng chất đối kháng ma tuý này.
Khi định nghĩa trạng thái “tiệt trừ” (extinction), các nhà tâm lý học thực nghiệm (mà theo cá nhân tôi) có vẻ vẫn còn chưa đưa ra rõ ràng. (4) Một cái đơn giản nhất là việc tiệt trừ hành vi tìm kiếm thức ăn ở những con vật đang đói bụng, nó liên quan đến các yếu tố sau: 1) do những kích thích có sẵn trong môi trường, hình ảnh thức ăn phơi bày đã tạo ra cảm giác thèm ăn, và 2) các điều kiện có thể làm nảy sinh cảm giác thèm ăn (về hành vi/ behavior) nhưng động lực thúc đẩy (reinforcement) lại không xảy ra. Kết quả của điều kiện này là hành vi ban đầu đó (sự thèm thuồng) sẽ ngày càog lớn dần lên trước khi nó chấm dứt; ngưỡng hành vi bực tức giàm đi và tất nhiên làm cho hành vi này (sự bực tức) có khả năng tăng hơn.
Ở những con vật nghiện ở thể cho tự dùng ma tuý, hành vi tìm kiếm ma túy được dập tắt nếu cho thay dùng morphine bằng dung dịch muối. (5) nếu cho con vật nghiện dùng liều naloxone mức thấp, thì thấy hành vi tìm kiếm ma tuý của nó có tăng lên, giả sử trong trường hợp phản ứng lại với trạng thái khi cai nhịn ma tuý. (6) hành vi như vậy bị tiêu trừ khi có dùng liều chặn cao bằng Naloxone, do không thể giảm bớt triệu chứng do cai nhịn thuốc. (6) việc tiệt trừ biểu lộ phản ứng ở những con vật nghiện ma tuý có thể xảy ra. Cũng thấy rõ là hành vi có thể được tái lập lại dưới các điều kiện có mặt của các tác nhân kích thích.
Việc tiệt trừ các phản ứng tự phát ở thể có điều kiện xảy ra khi có một kích thích loại có điều kiện được lặp đi lặp lại mà lại không có tác động của loại kích thích không điều kiện. Theo đó, phản ứng tự phát sẽ không còn xảy ra đối với các kích thích có điều kiện. Do vậy, Goldberg và Schuster đã quan sát quá trình tiêu trừ nhanh chóng các phản ứng do cai nhịn có điều kiện (có quan hệ với ánh sáng đỏ - red light). (7) Ngược lại, các kích thích có quan hệ với việc làm gia tăng hành vi đến với ma tuý (v.d. một ánh sáng đỏ có mặt cùng với mỗi lần tiêm chích ma tuý) thì đòi hỏi cần có một số đặc tính bổ sung được duy trì cho đến 19 ngày sau khi cai hoàn toàn với ma tuý. (8) Giống như ánh sáng đỏ trong thực nghiệm của Goldberg và Schuster, một số kích thích cụ thể có thể đi đôi (theo mô hình điều kiện cũ) với những lúc cai không dùng ma tuý hoặc những lúc dùng thuốc đối kháng ma tuý, được thực hiện trên con vật nghiện (cai nhịn có điều kiện). Một số kích thích cụ thể khác cũng có thể có quan hệ với đặc tính gây nghiện của thuốc ma tuý, như đã được trình bày bởi Goldberg, Schuster, và Woods (8) và bởi một số người khác. Trong các thực nghiệm của Smith và David (9), các con chuột sẽ tiến tới, hay chúng bị đánh thức tỉnh bởi những âm thanh mà những âm thanh này trước đó có sự đi kèm với việc dùng ma tuý. Tóm lại, các con vật sẽ bị khơi dậy đến với ma tuý bởi những yếu tố kích thích trong môi trường xung quanh, những yếu tố mà trước đó chúng đã biết là có kèm với ma tuý.
Trong điều kiện có các yếu tố kích thích mà không liên quan đến ma tuý, thì người đã từng nghiện cũng sẽ không có xu hướng đến với ma tuý (ví dụ, người dùng heroin Việt nam quay trở lại Hoa Kỳ). Ngược lại, dưới các điều kiện kích thích có liên quan đến ma tuý – hình ảnh về việc sử dụng ma tuý trước đây, thì hoàn toàn có thể dẫn tới tái nghiện. Như Wikler đã chỉ ra rằng, sự tiệt trừ (extinction) sẽ không xảy ra ở những nơi mà trước kia không can hệ gì tới việc sử dụng ma tuý như là nhà tù và những nơi không ma tuý khác (gọi là dưới điều kiện không có ma tuý). (3) Vấn đề mấu chốt mà chúng tôi đang cố gắng xác định qua 3 năm thử nghiệm chất đối kháng ma tuý trên động vật và trên người là liệu rằng hành vi được quan sát dưới tác dụng của chất đối kháng ma tuý có phù hợp với những khái niệm về tiêu trừ trong các điều kiện như đã nói ở trên, hay nó phù hợp với các giải thích khác (ví dụ, về sự no nê bão hoà, trong điều kiện trái ngược, hoặc cả khuynh hướng phân biệt. (10, 11, 12, 13) Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng không chỉ về cách tiếp cận của chương trình điều trị với cá nhân bệnh nhân, mà nó còn quan trọng về mặt xác định độ dài tối ưu trong điều trị với chất đối kháng ma tuý và cả cách dùng. Nó cũng có thể mang cả ý nghĩa về khả năng hiệu quả của phương thuốc.

Các phương pháp:
Các phương pháp được áp dụng trong công tác của chúng tôi đã được trình bày kỹ tại các hội nghị trước đây của tổ chức và lần này sẽ lại được trình bày ở phần sau. Cơ bản thì việc sử dụng heroin dưới các điều kiện có cản trở/kháng đã được quan sát theo dõi tại khu vực nghiên cứu trong thời gian được 10 ngày. Thuốc kháng ma tuý đã được dùng (1) dưới các điều kiện không che dấu (nonblind) khi mà tất cả các đối tượng đã trải qua kháng ma tuý sau một giai đoạn là 10 ngày có dùng heroin không bị cản trở, vẫn ở trong cùng khu vực, (2) dưới các điều kiện không che dấu, các đối tượng không trải qua giai đoạn có dùng heroin không bị cản trở trước giai đoạn kháng với naltrexone, và (3) dưới các điều kiện mù đôi, các đối tượng sẽ nhận thuốc naltrexone hoặc loại giả dược naltrexone. Ở điều kiện sau, các đối tượng bị cản trở có mặt tại khu nghiên cứu cùng lúc với các đối tượng không bị cản trở, nhận heroin. Trong mô hình ở phần sau, việc kết hợp bệnh nhân trong khoa tại bất kỳ thời điểm có thể gồm nhóm không đồng nhất (một, hai, hoặc 3 bệnh nhân cho dùng naltrexone, cùng với 3, 2 hoặc 01 bệnh nhân dùng giả dược) hoặc nhóm đồng nhất (tất cả bệnh nhân đều dùng naltrexone).
Dữ liệu được ghi nhận trên 31 đối tượng là những người đã trải qua giai đoạn kháng ma tuý tại cơ sở và được phát dùng naltrexone trong giai đoạn tiếp theo sau điều trị*. Những bệnh nhân này có trung bình là 7,6 năm dùng heroin (trong phạm vi là 4 đến 20), do vậy việc điều trị có trung bình là 5,5 lần với trước đây (phạm vi 2-25).
Thủ tục ký cam kết đã từng được trình bày bao quát và sẽ được nói thêm ở phần cuối của báo cáo này.
Kháng ma tuý: chỉ trừ 2 bệnh nhân, còn lại trên tất cả bệnh nhân thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống hàng ngày 50 hoặc 70 mg chất Naltrexone. Trong các nghiên cứu mù đôi, thì sử dụng một lượng tương ứng nước xi-rô để làm giả dược. Còn trong nghiên cứu ban đầu, liên quan đến 2 bệnh nhân dưới các điều kiện kháng, thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống Naloxone 500 mg với 4 lần/ngày.
Naltrexone được phân phát cho người bệnh ở giai đoạn điều trị tiếp theo là tại các nhà thuốc trong khu vực. Trong 14 tháng tiếp theo đó, mỗi lần sử dụng naltrexone tại nhà thuốc, bệnh nhân được phát thưởng 1$. Cứ 7 ngày sử dụng naltrexone, 5$ được giải ngân cho bệnh viện mà bệnh nhân chọn đến điều trị hàng tháng.
Các bệnh nhân đều được các y tá điều dưỡng giám sát 30 phút sau khi uống thuốc kháng ma tuý để đảm bảo là thuốc đã ngấm và không bị nôn mất. Đối với bệnh nhân ngoại trú thì sẽ được giám sát bởi các dược sĩ.
Việc sử dụng heroin: Heroin được sử dụng theo đường tĩnh mạch dưới sự giám sát về y tế; luôn cho phép các đối tượng được lựa chọn là tự nguyện không dùng ma tuý dù có sẵn. Lịch dùng ma tuý cho phép bệnh nhân dùng đến 6mg vào ngày 1 và 60mg vào ngày 10 với mức tăng là 6mg mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 10. Liều cho phép 2 giờ tăng từ 0,5mg ở ngày 1 lên mức 5mg vào ngày 10; nếu chờ 4 tiếng giữa các liều thì đối tượng có thể cho gấp đôi liều 2 tiếng; nếu chờ 6 tiếng thì có thể gấp 3. Sau 6 tiếng thì không cho tăng luỹ tiến nữa. Nhóm dùng ma tuý được tính tích điểm, và điểm số có thể dùng để trao đổi với ma tuý trong những trường hợp cụ thể.
Đánh giá về tâm trạng và mức khao khát với ma tuý: đối tượng được ghi nhận lại về mức độ thèm muốn ma tuý theo các mức được tính trên thước 100mm. Trên thước này đối tượng ghi lại mức “thèm heroin” (từ cao nhất đến thấp nhất), thực hiện hàng ngày như là ghi điểm xuốt thời gian của chương trình nghiên cứu, trước và sau mỗi lần sử dụng heroin. Như đã trình bày, việc thèm ma tuý có quan hệ mật thiết với hành vi sử dụng thực sự các chất ma tuý dưới các điều kiện là bị cản trở hay không bị cản trở. Mạch, huyết áp, nhịp hô hấp và nhiệt độ được ghi lại hàng ngày (vào 8 giờ sáng), tại trước và sau khi dùng heroin. Kích thước đồng tử cũng được ghi lại trước và sau lần sử dụng đầu tiên trong ngày. Thiết bị đánh giá tâm trạng bệnh nhân – Osgood Semantic Differential Mood Self-report được sử dụng hàng ngày để đánh giá (vào 8 giờ sáng), và tại lúc trước và sau mỗi lần tiêm chích heroin.
Mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin có bị cản trở và các yếu tố nhân khẩu học và yếu tố thực nghiệm: Việc sử dụng heroin thực sự dưới các điều kiện có bị cản trở được nghiên cứu, xem như là một chức năng của các yếu tố về nhân khẩu học và thực nghiệm. Tổng số lần sử dụng, tần suất sử dụng và khối lượng heroin đã sử dụng thực sự dưới các điệu kiện có bị cản trở được sử dụng làm số liệu trong phân tích. Tuổi tác, số năm dùng heroin, tuổi bắt đầu sử dụng, số lần điều trị và số tháng ở trong tù kể từ khi bắt đầu dùng heroin đểu sử dụng làm các thông số về nhân khẩu học để xác định ảnh hưởng cuả tuổi tác, thời gian nghiện... Các điều kiện được dùng trong khu vực tiến hành nghiên cứu bao gồm: Thí nghiệm với thuốc Naltrexone theo phương pháp mù hoặc không mù (không cần che dấu), kinh nghiệm về kháng ma tuý đi kèm hoặc không đi kèm với kinh nghiệm trước đó về sử dụng heroin trong điều kiện có bị cản trở tại khu vực nghiên cứu điều trị, số đối tượng trong từng nghiên cứu, lấy mẫu đồng nhất đối chiếu với nhóm mẫu không đồng nhất.
Số liệu tiếp theo: Do mối quan hệ định đề giữa trạng thái “tiệt trừ” do cai và kết quả dài hạn trong cộng đồng sử dụng chất đối kháng nên dữ liệu cũng được đánh giá một cách tương đối với kết quả của những bệnh nhân đã trải qua kháng ma tuý trong khu nghiên cứu (cụ thể là liên hệ kết quả trong cộng đồng với tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở). Chúng tôi cũng so sánh kết quả của những bệnh nhân chỉ trải qua phần sử dụng heroin trong điều kiện không bị cản trở với những người trải qua giai đoạn kháng bằng việc dùng Naltrexone. Chúng tôi cũng so sánh kết quả ban đầu và kết quả dài hạn trong các nghiên cứu mù đôi và không mù mà trong đó có sử dụng naltrexone trong cộng đồng, có hoặc không có kèm theo khoản thưởng 1$ mỗi ngày.
Cuối cùng, dữ liệu được thảo luận có sự liên hệ với dữ liệu của các nghiên cứu trên động vật đã được thực hiện phối hợp với TS. Joseph Cochin và Gilbert Carnathan tại Khoa Dược, Đại học Boston.

Các kết quả:
Bảng 1 trình bày các điều kiện có trong thí nghiệm của nghiên cứu mù đôi và không mù. Lượng heroin và số lần sử dụng dưới các điều kiện này được so sánh. Tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở (blocked conditions) có tương quan tích cực với số năm được báo cáo là có sử dụng heroin (Spearman r = 0.45, p = < .01) và tương quan tiêu cực với độ tuổi bắt đầu sử dụng heroin (r = -0.33, p < .05) (nghĩa là tuổi bắt đầu dùng heroin càng trẻ thì càng có khả năng có tần suất cao hơn). Các yếu tố về nhân khẩu học khác (số tháng trong tù và số lần đã điều trị trước đây) không cho thấy có bất cứ mối quan hệ với tần suất sử dụng dưới các điều kiện có bị cản trở ở trong khu điều trị. Kiểm tra ban đầu với phương pháp Mann-Whitney U test để đánh giá ảnh hưởng của độ lớn của nhóm, tính đồng nhất của nhóm thử, các điều kiện có trong nghiên cứu mù đôi đối lập với những điều kiện có trong nghiên cứu thường khác với sự có mặt của chất đối kháng ma tuý. Không có yếu tố nào trong số này được dùng để phân biệt các tỷ lệ sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở. Thực ra thì các đối tượng có thâm niên nghiện lâu hơn (7-20 năm) sử dụng heroin nhiều hơn so với nhóm có thâm niên nghiện ít hơn (4-6 năm). Hình 1, 2 và 3 minh hoạ chiều hướng sử dụng heroin của 3 đối tượng có thâm niên ít hơn và các Hình 4,5 và 6 minh hoạ cho 3 đối tượng có thâm niên nghiện dài hơn.
Theo phương pháp của nghiên cứu mù đôi, một số bệnh nhân trải qua phần kháng ma tuý theo nhóm mà trong đó không có đối tượng bị cản trở, đồng thời một số đối tượng khác lại trải qua phần kháng với sự có mặt của các đối tượng vẫn đang “lên cơn nghiện”. Trong nghiên cứu này mới chỉ có 3 đối tượng trải qua kháng ma tuý trong điều kiện là trong nhóm có cả các đối tượng vẫn đang sử dụng heroin. Bảng II trình bày số liệu kết quả. Sự khác nhau giữa các nhóm chưa có ý nghĩa về mặt thống kê bởi số lượng đối tượng trong nghiên cứu không nhiều. Ngoài ra, hai trong số ba đối tượng trong nghiên cứu này có thâm niên sử dụng heroin trên 7 năm.
Quan hệ giữa việc cản trở/kháng (blockade) trong khu vực điều trị và việc sử dụng Naltrexone tại cộng đồng:
Cuối cùng, chúng tôi đã thực hiện kiểm tra mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin dưới các điều kiện cản trở/kháng trong khu nghiên cứu và động lực tự giác dùng thuốc Naltrexone tại cộng đồng, ít nhất là một ngày sau khi xuất viện. Thấy không có mối quan hệ nào giữa việc sử dụng thuốc kháng tại cộng đồng và tần suất sử dụng dưới các điều kiện kháng trong khu nghiên cứu. Cũng không có sự khác biệt về mặt thống kê trong kết quả giữa nhóm dùng giả dược trong nghiên cứu (và có “lên cơn” đói heroin) và nhóm dùng thuốc kháng ma tuý. Do vậy, sự có mặt của các cá nhân vẫn lên cơn dùng ma tuý không có ảnh hưởng mấy tới việc sử dụng naltrexone tại cộng đồng.

Qua một thời gian là 3 năm, có 83 bệnh nhân tham gia vào chương trình nghiên cứu (loại 4 giường),*. có 49 người đủ tiêu chuẩn để đưa tiếp vào giai đoạn sử dụng Naltrexone tại cộng đồng. Trong 49 người đủ tiêu chuẩn điều trị ngoại trú này thì chỉ có 40 người là đã sử dung thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Trong các nghiên cứu không mù đôi (non-double-blind studies) (Nhóm 1- Group 1), 21 đối tượng đã tham dự và có 10 đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng;**  trong các nghiên cứu mù đôi trước giai đoạn có thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 2), có 30 bệnh nhân tham gia và có 15 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone; trong khi tại các nghiên cứu mù đôi sau khi chúng tôi tiến hành việc thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 3), có 32 bệnh nhân tham gia và có 23 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng. (Bảng III). Toàn bộ 10 đối tượng trong Nhóm 1 đã sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng trong khi chỉ 5 trong số 15 và 19 người trong số 23 của các nhóm còn lại là có sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Xác định theo thang Chi-square cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa quan trọng về mặt thống kê trong việc sử dụng thực sự Naltrexone của các đối tượng trong các Nhóm 1 và 3 so sánh với Nhóm 2.
Kiểm tra theo T-test được thực hiện để so sánh việc sử dụng Naltrexone dài ngày của các bệnh nhân thuộc 3 nhóm, là những người đã sử dụng Naltrexone thực sự tại cộng đồng. Việc sử dụng Naltrexone trung bình tại các thời điểm là một tháng, ba tháng và sáu tháng của 3 nhóm được so sánh với nhau. Xu hướng là bệnh nhân trong Nhóm 1 (p = < 0.1) sử dụng Naltrexone tại cộng đồng lâu hơn bệnh nhân trong Nhóm 2 và 3. Không có sự khác biệt về việc sử dụng Naltrexone trong 3 nhóm tại thời điểm khoảng tháng thứ 6. Trong 10 bệnh nhân vẫn duy trì Naltrexone được trên 90 ngày, thì 7 người tái nghiện sau khi dừng sử dụng Naltrexone, 2 người vẫn duy trì không ma tuý, và một người vẫn tiếp tục theo dùng Naltrexone và tham gia phần tư vấn cá nhân. Cả hai bệnh nhân sau khi ngưng sử dụng Naltrexone vẫn duy trì được trạng thái không ma tuý đã thay dổi chỗ ở và có được việc làm ổn định. Trong 7 người tái nghiện sau khi ngưng sử dụng Naltrexone thì chỉ trừ có một người, thì còn lại đều không còn việc làm tại thời điểm tái nghiện. 6 bệnh nhân sử dụng Naltrexone tại cộng đồng được từ 60 đến 90 ngày thì chỉ trừ có một trường hợp còn toàn bộ bị tái nghiện. Ngoại lệ đơn lẻ vẫn duy trì có việc làm sau khi tái nghiện gồm một trường hợp và thêm một trường hợp khác thì đã sang một bang khác để chốn khỏi sự truy nã. Chúng tôi không có thông tin thêm về trường hợp này. 6 bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được từ 30 đến 60 ngày và 4 trong đó đã tái nghiện sau khi dừng không dùng Naltrexone, 2 người còn lại hiện vẫn đang theo điều trị. 18 bệnh nhân đã sử dungj Naltrexone được từ 0 đến 30 ngày (tại ngày 30/4), 3 bệnh nhân vẫn đang duy trì sử dụng Naltrexone theo chương trình điều trị. Số còn lại đều tái nghiện. Việc tái nghiện của rất nhiều người bệnh, chúng tôi không cho là một kết quả tồi tệ không thể tránh khỏi bởi cũng có khá nhiều người sau khi tái nghiện đã quay trở lại điều trị với liều duy trì Methadone, tham gia nhóm trợ giúp, và một số là dùng Naltrexone.


Quan hệ giữa Thông tin cá nhân, các điều kiện trong thí nghiệm và Kết quả:
Bệnh nhân khi đựơc nhập viện đều phải điền vào các mục về nhân khẩu học theo mẫu (của Đại học Cơ đốc Texas – TCU, Viện Nghiên cứu Hành vi, Hồ sơ trong chương trình cai nghiện), những thông tin này được dùng để phân tích. Sử dụng giải pháp của Varimax về luân phiên trực giao, tính các mục bằng cách lấy trung bình của các mục có kết quả từ 0.40 trở lên sau khi các mục đã được chuyển đổi sang T-score chuẩn. Có 7 yếu tố được lấy. Có 3 nhóm kết quả được đem so sánh là: bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn nhưng thất bại với dùng Naltrexone; bệnh nhân sử dụng Naltrexone từ 1 – 30 ngày; và bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được trên 30 ngày. Phân tích theo 2 chiều về sự khác nhau đã so sánh bệnh nhân của 3 nhóm đối với 7 yếu tố. 2 yếu tố liên quan đến kết quả với Naltrexone. Những bệnh nhân bắt đầu sử dụng ma tuý khi còn ít tuổi, cũng bị bắt giữ khi còn ít tuổi, đã tham gia một số chương trình điều trị, không được nuôi dưỡng bởi cả bố và mẹ cho đến năm 12 tuổi, có xu hướng xấu hơn (F = 4.59, p < .015). Ngoải ra, nhóm bệnh nhân có mẹ (F = 1.631, p < .210) và có bố (F = 1.776, p < .184) có trình độ văn hoá thấp lại có xu hướng tốt hơn khi sử dụng Naltrexone. Phân tích theo thang chi-square của các thông số/ mục về nhân khẩu học của cá nhân đã được điều trị đã xác nhận các mối quan hệ đó. Ngoài ra, các bệnh nhân sống cùng vợ/chồng, cha mẹ hoặc người thân cũng có xu hướng tốt hơn nhóm chỉ sống với bạn bè, sống một mình, hoặc không ổn định. (Chi-square = 13.583, p < .194). Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu mù đôi với việc sử dụng Naltrexon tại cộng đồng mà không được tiền thưởng (1$ /ngày) cũng kém hơn đáng kể so với nhóm trong nghiên cứu thường (không mù/nonblind) hoặc nhóm trong nghiên cứu mù đôi, sử dụng Naltrexone tại cộng đồng có thưởng (Chi-square = 21.592, p < .002).
Tóm lại chúng tôi có thể nói rằng việc thách thức đối với kháng ma tuý tại cộng đồng là không phổ biến. Nếu trường hợp này xảy ra thì bệnh nhân làm như vậy bởi họ cho rằng tác dụng của thuốc kháng ma tuý đã hết. Xen kẽ với đó là việc bệnh nhân báo cáo cho rằng họ gặp phải những tác nhân kích thích và dùng Naltrexone để tăng cường quyết tâm cai trừ ma tuý.
Thảo luận:
Thủ tục ký thoả thuận đồng ý:
Thoả thuận đồng ý của người nghiện heroin với chương trình nghiên cứu đôi khi có liên quan đến việc sử dụng heroin là một vấn đề cần xem xét cẩn thận. Ngoài những nghiên cứu về con người do uỷ ban xem xét, thì dự án này cũng được nghiên cứu cẩn thận bởi một nhóm người từ Ban kế hoạch phòng chống nghiện ma tuý của Thống đốc bang Massachusett và nhân viên của Bộ y tế chuyên quản khu vực. Ở mức liên bang thì các uỷ ban của Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm và Viện sức khoẻ tâm thần quốc gia xem xét các thủ tục liên quan đến đạo đức và tính nhân văn cũng như các vấn đề về lợi ích và rủi ro đối với đối tượng.
Toàn bộ bệnh nhân được nhập viện từ các cơ sở phục hồi cai nghiện ở Massechusett hoặc qua giới thiệu của các bệnh nhân cũ. Trước khi được chấp nhận vào chương trình, từng người được kiểm tra về thể chất và tâm thần. Bệnh nhân đều được hướng dẫn đến các cơ sở khác để cai trừ độc tố nghiện (detoxification) nội trú hoặc ngoại trú trước khi tham gia vào chương trình nghiên cứu này và trước khi tham gia họ được phát một cuốn sổ tay bệnh nhân từ 8 đến 10 trang. Họ cũng được dẫn đi tham quan khu vực nghiên cứu và Bệnh viện McLean, được có cơ hội trò chuyện với các bệnh nhân.
Vào ngày nhập viện, bệnh nhân được phỏng vấn bởi một luật sư (cũng là một thành viên trong Uỷ ban nghiên cứu về con người của bệnh viện); sau khi nhận thấy bệnh nhân đã thông báo và hiểu đầy đủ về bản chất của dự án, họ ký vào bản cam kết đồng ý. Không tiếp nhận bệnh nhận bệnh nhân từ các cơ quan thi hành án, tất cả bệnh nhân đều là tự nguyện, được tự do quyết định dời khỏi dự án vào bất cứ lúc nào. Mỗi người có thể nhận được một khoản lên đến 700$ khi tham gia vào chương trình. Trường hợp nếu họ bỏ dở thì vẫn được phép giữa khoản tiền đã nhận.
Các lập luận về điều trị bằng chất đối kháng ma tuý thường tập trung chủ yếu vào các yếu tố điều kiện gây nghiện. Wikler là người tiên phong (năm 1948), với các thực nghiệm và quan sát trên lâm sàng của mình đã gây nhiều chú ý và quan tâm trong lĩnh vực này. Hiện nay thì thuốc đã có sẵn và xem ra phù hợp với các tiêu chuẩn đối với một thuốc đối kháng được phép sử dụng trên lâm sàng, vậy chúng ta tiếp tục ứng dụng cơ sở lý luận này như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải kiểm chứng lại một số yếu tố điều kiện gây nghiện ma tuý ở người. Ở đây thì những nghiên cứu trên động vật không có giá trị (xem Wikler, 1973 để thấy một tổng kết toàn diện), những yếu tố về nhận thức tạo ra sự ngoại suy trực tiếp với các tình huống trên lâm sàng rất khó khăn này.

QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
(Trang 84)
Ths. Richard B. Resnick, và Elaine Schuyten-Resnick, MSW                                       
Khi chất đối kháng ma tuý lần đầu tiên được giới thiệu đưa vào điều trị cai nghiện, bệnh nhân được điều trị không được lựa chọn phân loại và việc đánh giá mức độ thành công hay thất bại lại chỉ được dựa vào thời gian mà họ duy trì điều trị. Tuy nhiên cho đến nay công tác đánh giá của chúng tôi đã được cải tiến nhiều, xem xét cụ thể hơn như là: thuốc có thực sự hiệu quả và nếu có thì đối tượng nào là phù hợp nhất, kỹ thuật nào là tốt nhất để nâng cao hơn nữa hiệu quả điều trị? Một điểm nổi bật trong nghiên cứu của chúng tôi về Naltrexone là tìm hiểu “Ai phù hợp nhất”. Hy vọng rằng khi nghiên cứu hoàn thành, nó sẽ góp phần khẳng định hoặc phủ nhận mô hình điều trị cai nghiện mà chúng ta đang nói đến.
Trong phần trình bày hôm nay, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn một số điểm trong phương pháp điều trị dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của chúng tôi. Là những nhà nghiên cứu, chúng ta.đều tâm nguyện hiến dâng cho sự nghiệp khoa học đầy khó khăn cùng những yêu cầu khắt khe. Tuy nhiên ở đây tôi không đề cập đến số liệu nghiên cứu cụ thể mà chỉ nêu lên một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng thuốc trên điều trị lâm sàng.
Mặc dù chúng ta đang dùng loại thuốc tiên tiến có tác dụng dượclý đến tâm thần của người bệnh song theo quan điểm của chúng tôi thì nó cũng có gây ảnh hưởng xấu không nhỏ trong điều trị của nghiên cứu này mà dự kiến sẽ dùng làm mẫu để đánh giá các liệu pháp dùng thuốc khác: ví dụ như các hoạt chất có mục đích là điều chỉnh rối loạn chức năng tâm thần hoặc quá trình phát triển bệnh, mục đích có thể là làm giảm, xoá hẳn hoặc làm trầm trọng thêm một “triệu chứng đích” (target symptom). Dễ dàng nhận thấy tác dụng của thuốc khi thuốc gây ra những thay đổi đáng kể (dù là thay đổi tích cực hay là tiêu cực) trên hệ tâm thần của đối tượng được nghiên cứu; ví như là tác dụng mà Lithium gây với bệnh hưng cảm hoặc Imiprimine với bệnh trầm cảm. Chất đối kháng ma tuý không tác dụng trực tiếp với hệ tâm thần của người bệnh; lợi ích của nó chỉ là thứ yếu (secondary), bằng cách bảo vệ bệnh nhân tránh khỏi tác dụng của ma tuý.
Do vậy mà mô hình làm mẫu ở trên không hẳn là giống với mô hình dùng đánh giá ảnh hưởng của hoạt chất đối với các hội chứng có thể nhận thấy trên lâm sàng mà ở nhiều trường hợp là rối loạn tiềm thức. Ví dụ với một số người trạng thái thoải mái, hài lòng lại bắt nguồn từ những hội chứng trầm cảm (depressive syndroms). Tất cả người nghiện đều cảm thấy hài lòng, mãn nguyện khi dùng ma tuý, bất chấp là hậu quả để lại ra sao đi nữa, chỉ là những mất mát thứ yếu (secondary losses). Tiếp tục như vậy chúng tôi quan sát và đưa ra các mức độ mà bệnh nhân bị ảnh hưởng (do dùng ma tuý để lại), chúng thường gây cản trở trong điều trị; lúc đầu chúng được xem là thứ yếu song thực tế cho thấy với người nghiện, chúng rất quan trọng, là tác nhân đưa họ đến với chúng tôi để điều trị. Chúng tôi biết chắc chắn là chất đối kháng ngăn cản tái nghiện. Tuỳ thuộc vào việc người bệnh tuân thủ điều trị theo đúng yêu cầu của thầy thuốc về liều lượng dùng cũng như thời gian dùng thuốc.
Còn một vấn đề nữa, trong trường hợp người bệnh tham gia điều trị, đó là nỗ lực của chúng tôi, dành hết tâm sức và sự khéo léo của mình để làm sao thay đổi thái độ của họ, chấm dứt sử dụng ma tuý, thấy được tác hại thực sự của ma tuý. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, một việclàm đáng được đánh giá. Do đó hiệu quả trên lâm sàng của các hoạt chất này không thể tách rời, mà nó song hành cùng với hiệu quả của bệnh viện, nơi đang sử dụng các hoạt chất đó.
 Tôi sẽ thảo luận một số kỹ thuật trên lâm sàng mà chúng tôi thấy là quan trọng nhất, mặc dù chúng ta phải thừ nhận sự thật hiển nhiên là:  đánh giá trên lâm sàng tốt chưa hẳn đã giải thích đầy đủ cơ sở, bản chất của kỹ thuật đó.
Khi sử dụng chất đối kháng ma tuý, điều then chốt là nhân viên phải giúp bệnh nhân hiểu rằng điều trị không chỉ đơn thuần là dùng thuốc. Rõ ràng để đạt được kết quả tốt, chính các nhân viên phải hiểu được, nắm được và tin tưởng công việc đang làm. Điều trị cai nghiện là công việc rất gian khó chứ không chỉ đơn giản là cấp phát thuốc. Như TS. Lee Schwarts, một cộng tác viên trong chương trình nghiên cứu của chúng tôi, thường nhắc nhở tôi là: “để chữa khỏi bệnh thì dùng thuốc thôi là chưa đủ”.
Tuy nhiên, thuốc chữa bệnh là công cụ để thực hiện trọng tâm ban đầu của liệu pháp – nó là một cách giúp người bệnh bắt đầu tin tưởng người thầy thuốc và nó tạo mối liên kết, hợp tác giữa đôi bên. Dù kỹ thuật liệu pháp nào được được đưa vào sử dụng thì chúng ta cũng không thể tập trung quá mức vào tầm quan trọng của mối quan hệ tốt và tích cực giữa giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Mối quan hệ này có thể được củng cố bằng nhiều cách, từ việc trợ giúp người bệnh trong giai đoạn sau cai cho đến các mặt tình cảm mà người nghiện thiếu thốn trong cuộc sống của họ. Khi lần đầu tiên chúng tôi triển khai chất đối kháng, chúng tôi đã không tính đến các yếu tố đó và kết quả khá nghèo nàn; người bệnh được củng cố khi họ được tiếp xúc đều đặn với nhân viên có chuyên môn và cảm thông, dù là mỗi lần gặp cũng chỉ ngắn ngủi.
Dần dần, người bệnh học được cách trông cậy vào thầy thuốc chứ không phải trông cậy vào ma tuý, giúp họ giải toả khỏi những âu lo, có được lời khuyên, giải pháp cho những vấn đề, những điều còn phân vân trong cuộc sống. Qua mối quan hệ liệu pháp này, bệnh nhân có động lực tích cực khi họ lựa chọn, quyết định các vấn đề, điều này góp phần giúp họ sớm ổn định và hoà nhập hơn.
Một yếu tố cần được xem xét trong điều trị đó là lợi ích khi mà bệnh nhân được giảng giải về thuyết điều kiện (conditioning theory) để họ có thể nhận thấy được những dấu hiệu của phản ứng có điệu kiện trong bản thân. Bệnh nhân hiểu được có thể hiện tiến triển đáng kể trong các lần phỏng vấn về sau. Ngoài ra, lợi ích nữa là cảnh báo họ về khả năng có thể xảy ra tái nghiện tại một lúc nào đó trong tương lai, dù là đã qua một thời gian dài đã được điều trị bằng chất đối kháng thành công.
Tuy nhiên, sự việc dừng sử dụng chất đối kháng rồi sau đó lại dùng ma tuý mà cho rằng việc điều trị là thất bại thì chưa được thoả đáng. Liệu bạn có thể nói lá mao địa hoàng là điều trị không hiệu quả nếu một người bệnh bị xung huyết tim dừng sử dụng nó? Qua các nghiên cứu được thực hiện, chúng tôi nhận thấy là khoảng thời gian bệnh nhân tham gia điều trị với Naltrexone tăng hơn lên ở mỗi lần điều trị về sau.
Cách thức mà chúng tôi sử dụng cũng tương tự như cách điều trị các bệnh mãn tính. Bệnh nhân phải được biết là khi nào tạm ngưng sử dụng thuốc, khi có triệu chứng tái nghiện thì họ cũng cần báo cáo để tiếp tục sử dụng chất đối kháng. Hãy hình dung tác dụng tích cực của nó đối với người bệnh và gia đình họ khi thấy không có gì phân biệt giữa điều trị cai nghiện với các loại bệnh khác. Tác động về tinh thần đối với người bệnh cũng khá nặng nề khi họ đã từng bị đối xử không tốt, bị xa lánh - mỗi lần tái nghiện lại bị coi là “đồ bỏ”- thực tế việc này đã xảy ra không ít. - “Ý tôi là nếu tôi có lỗi lầm, sai phạm, thì tôi còn có thể quay trở lại với chương trình?”.
Trọng tâm của điều trị là người bệnh cần thay đổi “lối sống” chứ không phải là “sẽ không bao giờ sử dụng ma tuý nữa”. Nếu đây là trọng tâm đúng, mà chúng tôi cũng tin tưởng là đúng, thì tiếp theo nhân viên điều trị cũng phải tin tưởng để truyền niềm tin đó tới người bệnh. Với một số người, bản cam kết phục hồi cùng chất đối kháng chỉ được thực hiện sau khi bị tái nghiện hoặc đã tái nghiện một vài lần. Một số tự cảm thấy hổ thẹn, một số khác cần có thêm thời gian để hiểu thầy thuốc có quan tâm tới họ, sẵn lòng giúp đỡ họ những lúc khó khăn.
Chúng tôi phát hiện là hầu hết những bệnh nhân phục hồi thành công đều là những người biết cách dựa vào sự giúp đỡ của thầy thuốc, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của điều trị. Khi mối quan hệ này trở nên tin cậy cùng với những nguồn vui mới thì bệnh nhân cũng ngày càng cảm thấy những hứng thú từ ma tuý cũng vơi đi.

Đưa ra đây một ví dụ cụ thể của một trường hợp để minh hoạ:.
Một bệnh nhân nam 28 tuổi đã được chúng tôi điều trị với Methadone được 4 năm, cảm thấy hoàn toàn không còn ma tuý, đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống. Thầy thuốc điều trị cũng đã có kết luận tốt song có đề nghị là điều trị thêm với Naltrexone. Ban đầu anh ta từ chối vì cho rằng không cần thiết. Hai tháng sau lần cuối cùng dùng Methadone, người bệnh này bắt đầu cảm thấy phải vật lộn với cảm giác khó chịu và thèm ma tuý ngày càng tăng. Anh ta dùng liều 400 mg Methadone tại nhà và bắt đầu có cảm giác dễ chịu ngay. Trong thời gian này anh ta gặp thầy thuốc hàng ngày, liên lạc cả vào ban đêm và ngày nghỉ cuối tuần khi cảm thấy căng thẳng và có triệu chứng nặng. Cuối cùng thì các triệu chứng vẫn càng ngày càng trầm trọng đến mức bệnh nhân cảm thấy không thể chịu đựng nổi và anh ta đã gọi điện thoại đến bệnh viện báo cáo sự việc. Trên đường tới bệnh viện có qua East Harlem là nơi trước đây thường kiếm ma tuý ở đó, anh ta đã phải quyết liệt chống lại cám dỗ. Bệnh nhân này cuối cùng đã đến bệnh viện và đề nghị cho được điều trị với Naltrexone.
Sau đó, anh ta đã tuyên bố rằng Naltrexone đã cho anh một tinh thần thoải mái, có nghị lực, bản lĩnh. Ngoài ra bệnh nhân cũng thừa nhận là duy trì mối quan hệ tốt với thầy thuốc đã giúp bệnh nhân vươn lên, hướng tới những điều tốt đẹp, không ma tuý. Trong những tháng đầu tiên điều trị cai nghiện, chính thầy thuốc là người giúp đỡ đầu tiên, sau đó là sự trợ giúp của thuốc Naltrexone. Nếu không đủ 2 sự trợ giúp này thì không thể thành công. Bệnh nhân này dùng Naltrexone chỉ 01 tháng, khi cảm thấy tốt là thôi không dùng. Cho đến hôm nay là đã được trên 2 năm, bệnh nhân vẫn duy trì tốt, không có ma tuý. Chúng tôi có nhiều bệnh nhân tương tự như vậy: Thuốc đối kháng và Thầy thuốc phải kết hợp cùng nhau giúp đỡ người nghiện.
 Việc đến điều trị cũng là một vấn đề quan trọng. Bệnh nhân dùng Methadone đến bởi họ sợ bị ốm đau, bệnh tật; bệnh nhân dùng thuốc đối kháng không có lo sợ như vậy. Việc đến với điều trị của họ xuất phát từ lòng mong muốn thực sự là duy trì một cơ thể không ma tuý, lo lắng với gia đình hay với những người thân yêu, hoặc bởi mối quan hệ tốt với thầy thuốc. Cũng có vài người đến bởi có cam kết từ đầu với thầy thuốc. Có thông điệp mạnh mẽ tới bệnh nhân là nếu họ bỏ một ngày điều trị thì sẽ bị thầy thuốc gọi ngay. Bệnh nhân đã bày tỏ ngạc nhiên về điều này bởi họ chưa từng thấy bao giờ như vậy ở những nơi họ đã từng đến điều trị.
Yêu cầu dùng thuốc hàng ngày là một cách tốt đối với bệnh nhân dùng chất đối kháng, ít nhất là trong những tháng đầu tiên. Nó không chỉ tạo quy củ trong cuộc sống của bệnh nhân cũng như tạo mối liên lạc giữa thầy thuốc và người bệnh mà nó còn nhắc nhở thầy thuốc về tiềm ẩn khả năng tái nghiện nếu họ bỏ một ngày thuốc. Nhiều bệnh nhân cảm thấy là họ có thể bỏ một ngày thuốc và dùng ma tuý chỉ “một thoáng thôi”. Về việc này chúng tôi thấy chất đối kháng có ưu điểm bởi 2 lý do: Bệnh nhân phải đưa ra một quyết định tỉnh táo khi bỏ thuốc điều trị, họ không thể phủ nhận trách nhiệm của mình khi dùng ma tuý. Rất nhiều bệnh nhân tích cực đang dùng chất đối kháng – theo nhận định của chúng tôi - lại có dấu hiệu dùng ma tuý do thụ động, do bốc đồng.
Bằng cách giúp bệnh nhân hiểu được những động cơ đó, người thầy thuốc đã làm cho bệnh nhân ý thức được hành động của họ, thay vì việc lấp liếm cho rằng việc dùng ma tuý là do một chút “yếu đuối”, không làm chủ được bản thân. Chúng tôi thường nói với bệnh nhân và gia đình họ rằng việc không chấp hành đúng chỉ định dùng thuốc cũng đồng nghĩa với việc bệnh sẽ nặng hơn. Một bệnh nhân còn đang lưỡng lự, chưa dùng thuốc thì cũng không hẳn là sẽ bỏ thuốc ngày hôm đó nếu anh ta biết rằng làm như vậy thì cũng như thể tuyên bố với gia đình và nhân viên rằng: ”Hôm nay tôi sẽ bắn vài bi heroin”. Chúng tôi thấy rằng sự tác động của gia đình rất có ảnh hưởng khi người cai nghiện còn đang lưỡng lự, anh ta sẽ được hỗ trợ để vượt qua cho đến khi có tâm lý ổn định, đủ tỉnh táo và bản lĩnh.
Kết luận lại chúng tôi mạnh mẽ nhấn mạnh rằng người thầy thuốc cần coi đối tượng nghiên cứu của mình nhưng các bệnh nhân - cần toàn tâm, toàn ý, hết lòng cứu chữa cho họ, hồi phục cho họ như với bất kỳ bệnh nhân nào khác – không phân biệt người nghiện với các người bệnh khác.

KINH NGHIỆM TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG BẰNG NALTREXONE
TRÊN 370 NGƯỜI CAI NGHIỆN
(Trang 88)
Muriel Thomas RN, Ths. Frank Kauders,
Marcel Harris, Judy Cooperstein, RN,
TS. Gordon Hough, Ths. Richard Resnick

Giới thiệu chung:
Bộ phận Nghiên cứu và Điều trị cai nghiện (Division of Drug Abuse Research and Treatment) của Trường đại học y khoa New York bắt đầu sử dụng Naltrexone vào năm 1973. Kể từ đó, 370 người nghiện đã được điều trị cai trừ độc tố gây nghiện (gọi là cai nghiện – detoxified) và tiếp theo cho dùng Naltrexone. Nơi điều trị được đặt ở East Harlem là nơi có tỷ lệ người nghiện cao. Thành phần người nghiện được điều trị ở đây gồm: 38% là người da đen, 38% nữa là người Puerto Rican, và 24% còn lại là da trắng. Chất nghiện/ hay bị lạm dụng chủ yếu là Heroin /hoặc Methadone bất hợp pháp. Bệnh nhân đến đây điều trị thuộc đủ mọi thành phần xã hội song chủ yếu là tầng lớp có địa vị kinh tế - xã hội thấp. Họ được đưa đến điều trị từ các cơ quan, tổ chức trong cộng đồng như là các nhân viên thi hành án, các cơ sở cai nghiện trong khu vực, và cả những bênh nhân được biết tới Naltrexone và nói với bạn bè và người thân.
Khi chúng tôi bắt đầu nghiên cứu Naltrexone, rất nhiều bệnh nhân đã tỏ ý nghi ngờ. Lúc đó Cyclazocine đã phổ biến trong cộng đồng. Không giống như ở các cơ sở điều trị khác, bệnh nhân ở Trường đại học Y khoa New York đã được sử dụng Cyclazocine mà không gặp mấy khó khăn và tác dụng phụ. Do vậy việc triển khai dùng Naltrexone cần phải quảng bá để cả thầy thuốc và bệnh nhân tin tưởng, sẵn sàng đón nhận Naltrexone vào điều trị.

An toàn & Tác dụng phụ:
Phát hiện trước tiên và có thể là quan trọng nhất trong điều trị bệnh nhân với Naltrexone là thuốc an toàn với rất ít tác dụng phụ. Tác dụng phụ thường thấy (dù ở trên rất ít bệnh nhân) là đau thượng vị, đặc biệt là khi uống thuốc lúc đói, và huyết áp có tăng nhưng ở mức không đáng ngại. Triệu chứng đau thượng vị có giảm tần suất khi tần suất sử dụng thuốc có thay đổi. Ở những bệnh nhân đầu tiên, đây là triệu chứng duy nhất trên bảng danh sách, nó có tăng khi Naltrexone được dùng tiếp theo sau 7 ngày không dùng ma tuý hoặc sau một thời gian dùng loại giả dược. Triệu chứng đau này thường làm bệnh nhân thờ ơ trong lần 2 sử dụng thuốc tiếp theo.
Việc tiêm Narcan (0,8 – 1,2 mg naloxone) trước khi sử dụng Naltrexone được giới thiệu áp dụng. Nếu việc tiêm này làm lắng các triệu chứng thì việc dùng Naltrexone vẫn phải đợi cho đến khi kiểm tra Narcan là âm tính. Thử nghiệm trên hầu hết bệnh nhân cho thấy Narcan cho phép liều dùng 100 mg Naltrexone không gây khó chịu. Phát hiện này cho thấy là trên nhiều bệnh nhân triệu chứng đau trên chỉ là một triệu chứng thứ yếu khi cai. Đến nay thì số lượng bệnh nhân bị đau thượng vị còn rất ít, những bệnh nhân này thường là có tiền sử đau dạ dạy, ruột từ trước. Triệu chứng đau khi sử dụng Naltrexone có thể điều chỉnh bằng việc làm giảm a-xít trong dạ dày hoặc là ăn trước khi uống thuốc.

Một số xem xét khi điều trị:
Phát hiện thứ hai của chúng tôi là Naltrexone rất nhạy cảm với rất nhiều bệnh nhân, dù là có hiệu quả nhất nhưng nó đòi hỏi thái độ tích cực của nhân viên và chương trình điều trị phải đa dạng. Việc dùng Methadone vẫn nên duy trì, đặc biệt với bệnh nhân chưa phù hợp với chất đối kháng. Số liệu về nhập viện, xuất viện của 262 bệnh nhân được điều trị trong một năm rưỡi qua cho thấy có khoảng 40 người đã quay trở lại tái nhập viện 3 lần. Tại thời điểm viết báo cáo này (tháng 5/1976), có 9 trong số 50 bệnh nhân đang được điều trị với Naltrexone đã bỏ điều trị, bị tái nghiện, và sau đó đã quay trở lại. Số liệu ở chỗ chúng tôi cho thấy là bệnh nhân sẽ duy trì điều trị lâu hơn ở những lần được tái nhập viện về sau.
Trong 18 tháng vừa qua, có 20 người đã dùng Naltrexone chỉ 01 liều, 39 người dùng Naltrexone nhiều hơn 01 lần nhưng dưới 01 tuần, 132 dùng thuốc được từ 1 tuần đến 3 tháng, 50 người từ 3 tháng đến 6 tháng và 21 người là trên 6 tháng.

Nghiên cứu có cho thấy không có mấy yếu tố tác động đến việc bệnh nhân đồng ý sử dụng thuốc, ngoài việc bệnh nhân bày tỏ muốn cai hoàn toàn ma tuý. Chúng tôi tin rằng công tác tư vấn với việc phỏng vấn nghiêm túc, trò chuyện thân mật là một khâu rất quan trọng trong điều trị với Naltrexone. Mức độ mà tư vấn viên ảnh hưởng đến người nghiện có tác động đến việc duy trì hay quay trở lại điều trị của bệnh nhân. Khi tư vấn, nhân viên giúp bệnh nhân bày tỏ, nói ra những gì họ còn e ngại. phân vân; nhấn mạnh rằng để chữa khỏi bệnh thì chỉ dùng thuốc thôi là chưa đủ. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy: điều trị là cả một quá trình với những giai đoạn khác nhau, có cả những tiến bộ sau khi vượt qua tái nghiện. Chúng tôi nói với bệnh nhân rằng hãy quay lại điều trị nếu cảm thấy có triệu chứng thèm hoặc tái nghiện. Một điểm đặc biệt của Naltrexone là thuốc cho phép sử dụng khi họ cảm thấy có dấu hiệu thèm ma tuý, không sợ bị ảnh hưởng xấu do dùng thuốc.
Có một số bệnh nhân đến với cơ sở điều trị song vẫn có những e ngại, ngại ngùng tiếp xúc với thầy thuốc. Có một bệnh nhân đến chỗ chúng tôi 5 ngày/tuần, duy trì như vậy trong nhiều năm. Anh ta đã từ chối lịch làm việc 3 ngày/tuần khi cho dùng Methadone. Khi bệnh nhân này đã được điều trị cai xong (detoxified) và chuyển sang dùng Naltrexone thì anh ta lại tiếp tục đến khu điều trị 5 ngày/tuần. Gần đây anh ta đã đồng ý lịch 3 ngày/tuần. Tuy vậy quan hệ của bệnh nhân này với các thầy thuốc vẫn rất hời hợt, duy trì đến bệnh viện 3 ngày/tuần chỉ đơn giản là để lấy thuốc Naltrexone.
Nhìn chung nhân viên của chúng tôi chấp nhận cách đến điều trị như vậy; Bệnh nhân đến điều trị, có bỏ dở, rồi lại quay trở lại điều trị. Người bệnh tìm thấy sự tin cậy ở thầy thuốc và bệnh viện chứ không chỉ đơn thuần là thuốc điều trị. Ở chỗ chúng tôi cũng không còn thấy ngạc nhiên việc người bệnh hăm hở đến song rồi lại ca thán những khó khăn khi bắt đầu điều trị. Hầu hết là cần có thời gian để quen dần với việc điều trị và những thay đổi.

Một số chỉ định đặc biệt với Naltrexone:
Chúng tôi nhận thấy rằng Naltrexone còn có hữu hiệu với một số nhóm người nghiện khác ngoài nhóm nghiện ở đường phố. Thứ nhất là nhóm bệnh nhân đã cai nghiện với Methadone. Chúng tôi đang nghiên cứu dùng Naltrexone như là một phương pháp điều trị chuyển đổi (transitional treatment) cho nhóm này. Trong một nghiên cứu mù đôi thử nghiệm so sánh nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược: lấy 25 bệnh nhân thử nghiệm nghiên cứu; toàn bộ những người này đã được điều trị với Methadone được từ một năm rưỡi đến 3 năm, đang đi làm hoặc đi học và không hề lạm dụng ma tuý từ 6 tháng trở lên trước khi bắt đầu thực hiện cai. Sau khi có thoả thuận đồng ý, bệnh nhân được phân một cách ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược. 19 bệnh nhân đầu tiên được coi là có hiệu quả theo đánh giá chủ quan của các nhân viên và được đưa vào liệu pháp với tư vấn viên. 6 bệnh nhân gần đây nhất được giao cho một nhân viên quan sát theo dõi để đánh giá, người này hoàn toàn không biết bệnh nhân nào thuộc nhóm nào trong 2 nhóm nghiên cứu (Naltrexone & giả dược). Các bệnh nhân đều được cho biết về tác dụng của thuốc là có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi cai bằng Methadone.
Toàn bộ bệnh nhân dùng thuốc Naltrexone đều cho thấy có ít các triệu chứng hơn so với nhóm bệnh nhân dùng loại giả dược. Sự khác biệt giữa 2 nhóm chưa thể hiện rõ về mặt thống kê. 6 bệnh nhân gần đây nhất cũng được so sánh về phản ứng qua phỏng vấn trên lâm sàng. Một số bệnh nhân chủ yếu tập trung về những khó khăn trong mối quan hệ với mọi người ở nhà, tại cơ quan hay trường học; ít có những phàn nàn về thể trạng cơ thể. Với những bệnh nhân còn lại thì lại ngược lại: khi phỏng vấn trên lâm sàng họ chủ yếu phàn nàn về thể trạng cơ thể hơn là các khó khăn trong các mối quan hệ với mọi người. Khi nghiên cứu dừng áp dụng mù đôi, 6 tháng sau khi đã cai xong (detoxified) hoặc có thể gọi là kết thúc điều trị, thì các bệnh nhân hay phàn nàn về các vấn đề về giao tiếp với mọi người khác thì hầu hết là thuộc nhóm dùng thuốc Naltrexone; còn nhóm hay phàn nàn về thể trạng cơ thể lại thuộc nhóm dùng giả dược.
Lấy một trường hợp nổi bật như sau: Một bệnh nhân có phàn nàn về khó khăn trong mối quan hệ với bạn gái xảy ra trong 8 tuần điều trị đầu tiên, đến tuần thứ 9 thì lại bắt đầu phàn nàn về những triệu chứng khó chịu của cơ thể như: đau mỏi khớp, cu rút dạ dày, cảm giác hay chảy nước mắt và ra mồ hôi. Nhân viên quan sát và theo dõi (observer) đã ghi lại những thay đổi này trong biểu đồ của bệnh nhân. Qua nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy rằng việc kê đơn thuốc cho bệnh nhân có thể thay đổi từ loại thuốc thật sang loại giả dược vào cùng thời điểm mà quan sát thấy có những thay đổi trên lâm sàng ở bệnh nhân có liên quan.

Sự khác biệt giữa 2 nhóm trên cho thấy là Naltrexone có thể làm mất đi các triệu chứng khi cai nghiện (loại thứ cấp), đặc biệt là trạng thái ngủ mê man, chán ăn, mệt mỏi, kém tập trung. Bệnh nhân nào cảm thấy Naltrexone có hữu hiệu thì được nhận thuốc Naltrexone, còn những người cảm thấy không hữu hiệu mấy thì nhận loại giả dược. Thử nghiệm tiếp tục được thực hiện và qua đó những phát hiện về sự khác biệt giữa 2 nhóm dùng thuốc thật và loại giả dược sẽ góp phần quan trọng vào công tác điều trị.

                                                                      


Một số Nghiên cứu về Hành vi
do Tổ chức NIDA thực hiện
The NIDA Behavioral Studies
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN

BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ (Trang 119)
BS. Abraham Wikler

Giải thích từ ngữ: Trong bài này tác giả luôn dùng một số khái niệm như:

-     conditioned abstinence: Trạng thái cai có điều kiên,

         ở đây có thể hiểu là Cai có sự trợ giúp của thuốc.

-     unconditioned abstinence: Ngược lại với trên, trạng thái cai không điều kiên,

                                                chủ yếu nhờ vào sự tự chống đỡ của cơ thể.

Cơ sở lý luận về điều trị cai nghiện bằng chất đối kháng ma tuý đã được thể hiện rõ bởi Martin và các đồng nghiệp (1966). Tóm lại, việc bệnh nhân ngoại trú tiếp tục duy trì trạng thái đã cai nghiện bằng một liều uống hàng ngày chất đối kháng ma tuý nhằm 2 mục đích: (a) loại bỏ động cơ, ham muốn tìm kiếm và sử dụng ma tuý; và (b) là dập tắt trạng thái thèm thuốc của cơ thể (kể cả lên cơn nghiện) do kiêng khem không dùng ma tuý – có thể coi tác dụng của thuốc như là một phản ứng với các tác động kích thích của môi trường xung quanh, với tác dụng đó thì khiến cho việc cai không điều kiện trước đây trở thành có điều kiện (Wikler, 1948; 1965). Không cần phải thêm gì khác, chỉ cần bệnh nhân ngoại trú duy trì dùng chất đối kháng để “hồi phục”, đồng thời trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết để có một nghề nghiệp có ích trong xã hội, hình thành những mối quan hệ mới với những người không nghiện ngập để trợ giúp lẫn nhau, cũng như khuyến khích họ từ bỏ những thói hư, tật xấu được coi là bất hợp pháp, những thứ đã bám rễ, ăn sâu vào họ trong thời gian họ nghiện ngập. Quá trình duy trì dùng đối kháng ma tuý này cũng có tác dụng trợ giúp đắc lực cho những đối tượng đã được cai bắt buộc (theo qui định của nhà tù, có hoặc không có giai đoạn quản chế) trong đó nó có cho phép người cai nghiện tiếp xúc với những yếu tố “có thể gây nghiện” trong môi trường xung quanh; bệnh nhân có thể được thử thách với cả những triệu chứng do cai có điều kiện gây ra, cách điều trị này không sợ ảnh hưởng xấu từ tác dụng dược lý của ma tuý gây ra. Kết quả là nếu bệnh nhân được thử thách đầy đủ thì các triệu chứng do cai nghiện có điều kiện gây ra sẽ được dập tắt thông qua những thử thách được lặp đi lặp lại.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc tiệt trừ các triệu chứng do cai có điều kiện gây ra và các hành vi tìm kiếm ma tuý là để giảm thiểu ở mức thấp nhất khả năng xảy ra tái  nghiện sau khi việc điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý của bệnh nhân ngoại trú kết thúc. Wikler (1974) đã đề xuất một chương trình “điều trị tích cực” thực hiện ngay khi bệnh nhân còn đang được điều trị cai nội trú trong bệnh viện, tiếp sau đó là điều trị ngoại trú bằng việc duy trì dùng chất đối kháng ma tuý. Dựa theo mô hình đã thí nghiệm trên động vật dùng để dập tắt các hành vi và phản ứng có điều kiện, một đề xuắt được đưa ra đối với nhóm bệnh nhân nội trú là: cho bệnh nhân đã cai và đã dùng chất đối kháng ma tuý được tiếp xúc với các điều kiện gây nghiện và tất nhiên cho thử thách với cả các triệu chứng do cai có điều kiên gây ra; thử cho đối tượng tiêm chích heroin vào người; hy vọng rằng, với tác dụng của chất đối kháng ma tuý thì ma tuý được tiêm chích này cũng mất tác dụng.
Các điều kiện gây nghiện ở đây có thể là dùng bộ tranh về heroin (Teasdale, 1973) hoặc cảnh bệnh nhân đã cai tự tiêm chích heroin trong điều kiện không bị cản trở. Sau khi hoàn thành giai đoạn cai tích cực nội trú với chất đối kháng ma tuý, bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị ngoại trú, hàng ngày uống thuốc đối kháng ma tuý. Giả định dưới các điều kiện khác nhau trong môi trường ngoại trú, bệnh nhân có thể dễ dẫn tới các hành vi tái nghiện thì trong điều kiện “tự nhiên” như vậy thì cuộc chiến chống lại ma tuý vẫn không hề ngưng nghỉ, vẫn được theo dõi thường xuyên, dù việc kiểm tra morphine qua nước tiểu không còn theo lịch như trước. Do vậy có đề xuất là nên duy trì tiếp tục dùng chất đối kháng ma tuý từ 10 tháng cho đến 01 năm (ngoài khoảng thời gian cai kéo dài là khoảng 30 tuần, Martin và Jasinski, 1969)  và nếu nước tiểu vẫn âm tính với morphine thì có thể cho dừng chất đối kháng ma tuý. Các triệu chứng do cai có điều kiện và hành vi tìm kiếm ma tuý được tiệt trừ và bệnh nhân được “phục hồi”, khả năng tái nghiện giảm xuống mức thấp nhất.


Thí nghiệm trên chuột cho thấy tác dụng của liều tiêm chích morphine vào tĩnh mạch có thể được loại bỏ bằng việc điều trị (đón) trước bằng Naloxone và sự xuất hiện của một tác động có điều kiện thấy trong không gian kín đã được Davis và Smith (1974) chứng minh. Có một số câu hỏi được đặt ra trong nghiên cứu này là liệu rằng việc giảm áp lực đòn bẩy (lever-pressing) đối với morphine không hẳn là do các điều kiện bất lợi mà là do cai, với mức độ như là lúc vừa được điều trị trước với Naloxone; mức áp lực đòn bẩy không thấy tăng trước khi nó giảm sút nhanh chóng. Naloxone có thể gây ra một hội chứng tiềm ẩn do cai khá nghiêm trọng, ở chuột dù chỉ tiêm một liều lượng rất nhỏ morphine là 60 mcg/kg, trong 3 ngày trước khi có điều trị trước với Naloxone. Tuy nhiên ở một số con chuột khác cũng tiêm tĩnh mạch morphine, việc cai hoàn toàn được hoàn thành bằng việc dùng dung dịch nước muối (saline) thay thế cho morphine trong phòng kín và có tác động có điều kiện; dưới các điều kiện này áp lực đòn bẩy cũng không tăng.
Tuy nhiên như đã dự báo từ trước, tiến hành cai tích cực trên người gặp một số khó khăn đặc biệt bởi con người có giác quan nhận thức, suy luận, cảm nhận được hành động và sự việc nên kể cả người thực hiện thí nghiệm cũng khó đoán trước được. Từ một số báo cáo chưa được công bố cho thấy là có 2 vấn đề chủ chốt ảnh hưởng việc cai bằng chất đối kháng trên bệnh nhân nội trú: (a) bệnh nhân từ chối việc tiêm chích heroin hay bất kỳ chất ma túy nào khác khi thấy có tác dụng với chất đối kháng, anh ta biết rằng không còn bị “lên cơn” nữa; và (b) bệnh nhân báo cáo rằng chất đối kháng ma tuý đã làm anh ta không còn thèm ma tuý nữa, hay chất đối kháng có tác dụng “bão hoà”.
Vấn đề là liệu tác dụng đối kháng trong chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng hết chưa, tác dụng “bão hoà” trên cơ quan cảm thụ (receptor) là rất quan trọng trên cả 2 mặt là thực tiễn và lý thuyết. Nếu loại giả dược tạo ra dư vị giống như Naltrexone thì thử nghiệm mù đôi trong đó có cho đối  tượng tiêm chích heroin hoặc hydromorphone có thể giải đáp được vấn đề này. Nếu đúng, thì tác dụng “gây bão hoà” của chất đối kháng ma tuý sẽ giúp xoá đi các triệu chứng Ví dụ, một người nghiện được nhâp viện và được điều trị cai các độc tố gây nghiện (detoxified), sau đó

Phụ lục - kết luận tổng kết:
Nếu được chứng minh rằng chất đối kháng ma tuý có tác dụng “làm bão hoà” thì việc xoá đi các triệu chứng xảy ra do cai có điều kiện có thể diễn ra như sau: Cho nhập viện một nhóm người nghiện đã được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), cho họ ký bản hợp đồng thoả thuận (có mức thưởng tiền); cho ở nội trú trong bệnh viện ít nhất là một tháng, bất kể có cho họ được phép tiêm chích ma tuý hay không. Chưa sử dụng bất kỳ chất đối kháng ma tuý nào. Sau đó cho phép một số đối tượng tiêm chích heroin nhưng chưa cho dùng chất đối kháng ma tuý; trong khi đó số đối tượng khác không được phép tiêm chích bất cứ thứ gì. Khi xem lớp đàn anh đang tiêm chích nhưng lại không được phép làm như vậy tất nhiên sẽ gây cho người nghiện cảm giác “thèm muốn” và các dấu hiệu/ hay triệu chứng khác (có điều kiện- conditioned abstinence), cứ lập lại hàng ngày thì sẽ dần dần quen dần và cuối cùng là biến mất. Sau đó nên cho các đối tượng này dùng liều kháng đầy đủ bằng Naltrexone và cho phép ngoại trú khi mà không còn hành vi tìm kiếm ma tuý; có thể là naltrexone được duy trì sử dụng hàng ngày và đối tượng vẫn “thèm” heroin hay các chất ma tuý khác. Lại tiếp nhận loạt bệnh nhân mới nhập viện, cho nội trú và lại lặp lại là cho phép tiêm chích nhưng không cho kháng ma tuý, trong khi đó thì nhóm đã được tiêm chích trước đó mà không dùng kháng (blockade) thì bây giờ được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), thực hiện theo trình tự, cho ký hợp đồng khác nếu thấy cần thiết. Sau khi những đối tượng này chuyển sang ngoại trú, nhóm nội trú lại được hình thành tiếp. Về việc kiểm soát, thì một số đối tượng mà được cho phép tự tiêm chích heroin mà không dùng kháng thì có thể lại được điều trị trừ độc tố, rồi chuyển sang ngoại trú với việc dùng Naltrexone mà không cần trải qua trình tự điều trị tiêu trừ các triệu chứng do không dùng ma tuý gây nên.

NHỮNG HẠN CHÉ TRONG PHƯƠNG PHÁP CAI NGHIỆN
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
BS. Roger Meyer, Ths. Mary Randall, Cn. Cecily Barrington,                              (trang 123)
BS. Steven Mirin, TS. Isaac Greenberg

Trong một nghiên cứu vào năm 1966, Martin đã đưa ra việc sử dụng Cyclazocine trong điều trị dài ngày cho người nghiện heroin. (1) Wikler đã đưa ra một chương trình về hành vi có ảnh hưởng tích cực trên bệnh nhân đang điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý, làm tiêu tan các triệu chứng do cai nhịn thuốc (đói ma tuýconditioned abstinence) và triệu chứng do vẫn dùng ma tuý. (2) Khi chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng một vài năm, thực hiện trên người bệnh vẫn hoạt động, đi lại; thì phác đồ của Wikler vẫn là phương pháp duy nhất trong điều trị bằng đối kháng ma tuý mà một mặt là hoàn toàn dựa trên cơ sở dữ liệu từ thực nghiệm trong Labô thí nghiệm, và mặt khác là dùng các đặc tính đặc biệt của chất đối kháng. Phác đồ của Wikler dựa trên khái niệm cho rằng các kích thích mà trước đó đi đôi với các triệu chứng do cai nhịn thuốc không điều kiện (unconditioned abstinence symptoms) cũng sẽ khơi gợi hiện tượng như trong hội chứng cai (abstinence syndrome) ở trên người đã từng nghiện ma tuý. Theo đó, những người này có thể bị tái nghiện do bị tác động từ các yếu tố từ môi trường xung quanh giống như ở trên. (3) Wikler đưa ra rằng với sự hiện diện của các yếu tố kích thích liên quan đó, thì người nghiện được điều trị với chất đối kháng ma tuý vẫn luôn phải có bản lĩnh trước ma tuý, cần dập tắt ngay hành vi sử dụng ma tuý. (2) Do đặc tính trung tâm của giả thiết cai nghiện dùng chất đối kháng ma tuý nên cần phải xem xét, đánh giá các số liệu gần đây, đây là việc quan trọng.và có thể tác động làm thay đổi phác đồ điều trị bằng chất đối kháng ma tuý này.

Khi định nghĩa trạng thái “tiệt trừ” (extinction), các nhà tâm lý học thực nghiệm (mà theo cá nhân tôi) có vẻ vẫn còn chưa đưa ra rõ ràng. (4) Một cái đơn giản nhất là việc tiệt trừ hành vi tìm kiếm thức ăn ở những con vật đang đói bụng, nó liên quan đến các yếu tố sau: 1) do những kích thích có sẵn trong môi trường, hình ảnh thức ăn phơi bày đã tạo ra cảm giác thèm ăn, và 2) các điều kiện có thể làm nảy sinh cảm giác thèm ăn (về hành vi/ behavior) nhưng động lực thúc đẩy (reinforcement) lại không xảy ra. Kết quả của điều kiện này là hành vi ban đầu đó (sự thèm thuồng) sẽ ngày càog lớn dần lên trước khi nó chấm dứt; ngưỡng hành vi bực tức giàm đi và tất nhiên làm cho hành vi này (sự bực tức) có khả năng tăng hơn.
Ở những con vật nghiện ở thể cho tự dùng ma tuý, hành vi tìm kiếm ma túy được dập tắt nếu cho thay dùng morphine bằng dung dịch muối. (5) nếu cho con vật nghiện dùng liều naloxone mức thấp, thì thấy hành vi tìm kiếm ma tuý của nó có tăng lên, giả sử trong trường hợp phản ứng lại với trạng thái khi cai nhịn ma tuý. (6) hành vi như vậy bị tiêu trừ khi có dùng liều chặn cao bằng Naloxone, do không thể giảm bớt triệu chứng do cai nhịn thuốc. (6) việc tiệt trừ biểu lộ phản ứng ở những con vật nghiện ma tuý có thể xảy ra. Cũng thấy rõ là hành vi có thể được tái lập lại dưới các điều kiện có mặt của các tác nhân kích thích.
Việc tiệt trừ các phản ứng tự phát ở thể có điều kiện xảy ra khi có một kích thích loại có điều kiện được lặp đi lặp lại mà lại không có tác động của loại kích thích không điều kiện. Theo đó, phản ứng tự phát sẽ không còn xảy ra đối với các kích thích có điều kiện. Do vậy, Goldberg và Schuster đã quan sát quá trình tiêu trừ nhanh chóng các phản ứng do cai nhịn có điều kiện (có quan hệ với ánh sáng đỏ - red light). (7) Ngược lại, các kích thích có quan hệ với việc làm gia tăng hành vi đến với ma tuý (v.d. một ánh sáng đỏ có mặt cùng với mỗi lần tiêm chích ma tuý) thì đòi hỏi cần có một số đặc tính bổ sung được duy trì cho đến 19 ngày sau khi cai hoàn toàn với ma tuý. (8) Giống như ánh sáng đỏ trong thực nghiệm của Goldberg và Schuster, một số kích thích cụ thể có thể đi đôi (theo mô hình điều kiện cũ) với những lúc cai không dùng ma tuý hoặc những lúc dùng thuốc đối kháng ma tuý, được thực hiện trên con vật nghiện (cai nhịn có điều kiện). Một số kích thích cụ thể khác cũng có thể có quan hệ với đặc tính gây nghiện của thuốc ma tuý, như đã được trình bày bởi Goldberg, Schuster, và Woods (8) và bởi một số người khác. Trong các thực nghiệm của Smith và David (9), các con chuột sẽ tiến tới, hay chúng bị đánh thức tỉnh bởi những âm thanh mà những âm thanh này trước đó có sự đi kèm với việc dùng ma tuý. Tóm lại, các con vật sẽ bị khơi dậy đến với ma tuý bởi những yếu tố kích thích trong môi trường xung quanh, những yếu tố mà trước đó chúng đã biết là có kèm với ma tuý.

Trong điều kiện có các yếu tố kích thích mà không liên quan đến ma tuý, thì người đã từng nghiện cũng sẽ không có xu hướng đến với ma tuý (ví dụ, người dùng heroin Việt nam quay trở lại Hoa Kỳ). Ngược lại, dưới các điều kiện kích thích có liên quan đến ma tuý – hình ảnh về việc sử dụng ma tuý trước đây, thì hoàn toàn có thể dẫn tới tái nghiện. Như Wikler đã chỉ ra rằng, sự tiệt trừ (extinction) sẽ không xảy ra ở những nơi mà trước kia không can hệ gì tới việc sử dụng ma tuý như là nhà tù và những nơi không ma tuý khác (gọi là dưới điều kiện không có ma tuý). (3) Vấn đề mấu chốt mà chúng tôi đang cố gắng xác định qua 3 năm thử nghiệm chất đối kháng ma tuý trên động vật và trên người là liệu rằng hành vi được quan sát dưới tác dụng của chất đối kháng ma tuý có phù hợp với những khái niệm về tiêu trừ trong các điều kiện như đã nói ở trên, hay nó phù hợp với các giải thích khác (ví dụ, về sự no nê bão hoà, trong điều kiện trái ngược, hoặc cả khuynh hướng phân biệt. (10, 11, 12, 13) Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng không chỉ về cách tiếp cận của chương trình điều trị với cá nhân bệnh nhân, mà nó còn quan trọng về mặt xác định độ dài tối ưu trong điều trị với chất đối kháng ma tuý và cả cách dùng. Nó cũng có thể mang cả ý nghĩa về khả năng hiệu quả của phương thuốc.
Các phương pháp:
Các phương pháp được áp dụng trong công tác của chúng tôi đã được trình bày kỹ tại các hội nghị trước đây của tổ chức và lần này sẽ lại được trình bày ở phần sau. Cơ bản thì việc sử dụng heroin dưới các điều kiện có cản trở/kháng đã được quan sát theo dõi tại khu vực nghiên cứu trong thời gian được 10 ngày. Thuốc kháng ma tuý đã được dùng (1) dưới các điều kiện không che dấu (nonblind) khi mà tất cả các đối tượng đã trải qua kháng ma tuý sau một giai đoạn là 10 ngày có dùng heroin không bị cản trở, vẫn ở trong cùng khu vực, (2) dưới các điều kiện không che dấu, các đối tượng không trải qua giai đoạn có dùng heroin không bị cản trở trước giai đoạn kháng với naltrexone, và (3) dưới các điều kiện mù đôi, các đối tượng sẽ nhận thuốc naltrexone hoặc loại giả dược naltrexone. Ở điều kiện sau, các đối tượng bị cản trở có mặt tại khu nghiên cứu cùng lúc với các đối tượng không bị cản trở, nhận heroin. Trong mô hình ở phần sau, việc kết hợp bệnh nhân trong khoa tại bất kỳ thời điểm có thể gồm nhóm không đồng nhất (một, hai, hoặc 3 bệnh nhân cho dùng naltrexone, cùng với 3, 2 hoặc 01 bệnh nhân dùng giả dược) hoặc nhóm đồng nhất (tất cả bệnh nhân đều dùng naltrexone).
Dữ liệu được ghi nhận trên 31 đối tượng là những người đã trải qua giai đoạn kháng ma tuý tại cơ sở và được phát dùng naltrexone trong giai đoạn tiếp theo sau điều trị*. Những bệnh nhân này có trung bình là 7,6 năm dùng heroin (trong phạm vi là 4 đến 20), do vậy việc điều trị có trung bình là 5,5 lần với trước đây (phạm vi 2-25).
Thủ tục ký cam kết đã từng được trình bày bao quát và sẽ được nói thêm ở phần cuối của báo cáo này.
Kháng ma tuý: chỉ trừ 2 bệnh nhân, còn lại trên tất cả bệnh nhân thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống hàng ngày 50 hoặc 70 mg chất Naltrexone. Trong các nghiên cứu mù đôi, thì sử dụng một lượng tương ứng nước xi-rô để làm giả dược. Còn trong nghiên cứu ban đầu, liên quan đến 2 bệnh nhân dưới các điều kiện kháng, thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống Naloxone 500 mg với 4 lần/ngày.
Naltrexone được phân phát cho người bệnh ở giai đoạn điều trị tiếp theo là tại các nhà thuốc trong khu vực. Trong 14 tháng tiếp theo đó, mỗi lần sử dụng naltrexone tại nhà thuốc, bệnh nhân được phát thưởng 1$. Cứ 7 ngày sử dụng naltrexone, 5$ được giải ngân cho bệnh viện mà bệnh nhân chọn đến điều trị hàng tháng.
Các bệnh nhân đều được các y tá điều dưỡng giám sát 30 phút sau khi uống thuốc kháng ma tuý để đảm bảo là thuốc đã ngấm và không bị nôn mất. Đối với bệnh nhân ngoại trú thì sẽ được giám sát bởi các dược sĩ.

Việc sử dụng heroin: Heroin được sử dụng theo đường tĩnh mạch dưới sự giám sát về y tế; luôn cho phép các đối tượng được lựa chọn là tự nguyện không dùng ma tuý dù có sẵn. Lịch dùng ma tuý cho phép bệnh nhân dùng đến 6mg vào ngày 1 và 60mg vào ngày 10 với mức tăng là 6mg mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 10. Liều cho phép 2 giờ tăng từ 0,5mg ở ngày 1 lên mức 5mg vào ngày 10; nếu chờ 4 tiếng giữa các liều thì đối tượng có thể cho gấp đôi liều 2 tiếng; nếu chờ 6 tiếng thì có thể gấp 3. Sau 6 tiếng thì không cho tăng luỹ tiến nữa. Nhóm dùng ma tuý được tính tích điểm, và điểm số có thể dùng để trao đổi với ma tuý trong những trường hợp cụ thể.
Đánh giá về tâm trạng và mức khao khát với ma tuý: đối tượng được ghi nhận lại về mức độ thèm muốn ma tuý theo các mức được tính trên thước 100mm. Trên thước này đối tượng ghi lại mức “thèm heroin” (từ cao nhất đến thấp nhất), thực hiện hàng ngày như là ghi điểm xuốt thời gian của chương trình nghiên cứu, trước và sau mỗi lần sử dụng heroin. Như đã trình bày, việc thèm ma tuý có quan hệ mật thiết với hành vi sử dụng thực sự các chất ma tuý dưới các điều kiện là bị cản trở hay không bị cản trở. Mạch, huyết áp, nhịp hô hấp và nhiệt độ được ghi lại hàng ngày (vào 8 giờ sáng), tại trước và sau khi dùng heroin. Kích thước đồng tử cũng được ghi lại trước và sau lần sử dụng đầu tiên trong ngày. Thiết bị đánh giá tâm trạng bệnh nhân – Osgood Semantic Differential Mood Self-report được sử dụng hàng ngày để đánh giá (vào 8 giờ sáng), và tại lúc trước và sau mỗi lần tiêm chích heroin.
Mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin có bị cản trở và các yếu tố nhân khẩu học và yếu tố thực nghiệm: Việc sử dụng heroin thực sự dưới các điều kiện có bị cản trở được nghiên cứu, xem như là một chức năng của các yếu tố về nhân khẩu học và thực nghiệm. Tổng số lần sử dụng, tần suất sử dụng và khối lượng heroin đã sử dụng thực sự dưới các điệu kiện có bị cản trở được sử dụng làm số liệu trong phân tích. Tuổi tác, số năm dùng heroin, tuổi bắt đầu sử dụng, số lần điều trị và số tháng ở trong tù kể từ khi bắt đầu dùng heroin đểu sử dụng làm các thông số về nhân khẩu học để xác định ảnh hưởng cuả tuổi tác, thời gian nghiện... Các điều kiện được dùng trong khu vực tiến hành nghiên cứu bao gồm: Thí nghiệm với thuốc Naltrexone theo phương pháp mù hoặc không mù (không cần che dấu), kinh nghiệm về kháng ma tuý đi kèm hoặc không đi kèm với kinh nghiệm trước đó về sử dụng heroin trong điều kiện có bị cản trở tại khu vực nghiên cứu điều trị, số đối tượng trong từng nghiên cứu, lấy mẫu đồng nhất đối chiếu với nhóm mẫu không đồng nhất.
Số liệu tiếp theo: Do mối quan hệ định đề giữa trạng thái “tiệt trừ” do cai và kết quả dài hạn trong cộng đồng sử dụng chất đối kháng nên dữ liệu cũng được đánh giá một cách tương đối với kết quả của những bệnh nhân đã trải qua kháng ma tuý trong khu nghiên cứu (cụ thể là liên hệ kết quả trong cộng đồng với tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở). Chúng tôi cũng so sánh kết quả của những bệnh nhân chỉ trải qua phần sử dụng heroin trong điều kiện không bị cản trở với những người trải qua giai đoạn kháng bằng việc dùng Naltrexone. Chúng tôi cũng so sánh kết quả ban đầu và kết quả dài hạn trong các nghiên cứu mù đôi và không mù mà trong đó có sử dụng naltrexone trong cộng đồng, có hoặc không có kèm theo khoản thưởng 1$ mỗi ngày.
Cuối cùng, dữ liệu được thảo luận có sự liên hệ với dữ liệu của các nghiên cứu trên động vật đã được thực hiện phối hợp với TS. Joseph Cochin và Gilbert Carnathan tại Khoa Dược, Đại học Boston.

Các kết quả:
Bảng 1 trình bày các điều kiện có trong thí nghiệm của nghiên cứu mù đôi và không mù. Lượng heroin và số lần sử dụng dưới các điều kiện này được so sánh. Tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở (blocked conditions) có tương quan tích cực với số năm được báo cáo là có sử dụng heroin (Spearman r = 0.45, p = < .01) và tương quan tiêu cực với độ tuổi bắt đầu sử dụng heroin (r = -0.33, p < .05) (nghĩa là tuổi bắt đầu dùng heroin càng trẻ thì càng có khả năng có tần suất cao hơn). Các yếu tố về nhân khẩu học khác (số tháng trong tù và số lần đã điều trị trước đây) không cho thấy có bất cứ mối quan hệ với tần suất sử dụng dưới các điều kiện có bị cản trở ở trong khu điều trị. Kiểm tra ban đầu với phương pháp Mann-Whitney U test để đánh giá ảnh hưởng của độ lớn của nhóm, tính đồng nhất của nhóm thử, các điều kiện có trong nghiên cứu mù đôi đối lập với những điều kiện có trong nghiên cứu thường khác với sự có mặt của chất đối kháng ma tuý. Không có yếu tố nào trong số này được dùng để phân biệt các tỷ lệ sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở. Thực ra thì các đối tượng có thâm niên nghiện lâu hơn (7-20 năm) sử dụng heroin nhiều hơn so với nhóm có thâm niên nghiện ít hơn (4-6 năm). Hình 1, 2 và 3 minh hoạ chiều hướng sử dụng heroin của 3 đối tượng có thâm niên ít hơn và các Hình 4,5 và 6 minh hoạ cho 3 đối tượng có thâm niên nghiện dài hơn.
Theo phương pháp của nghiên cứu mù đôi, một số bệnh nhân trải qua phần kháng ma tuý theo nhóm mà trong đó không có đối tượng bị cản trở, đồng thời một số đối tượng khác lại trải qua phần kháng với sự có mặt của các đối tượng vẫn đang “lên cơn nghiện”. Trong nghiên cứu này mới chỉ có 3 đối tượng trải qua kháng ma tuý trong điều kiện là trong nhóm có cả các đối tượng vẫn đang sử dụng heroin. Bảng II trình bày số liệu kết quả. Sự khác nhau giữa các nhóm chưa có ý nghĩa về mặt thống kê bởi số lượng đối tượng trong nghiên cứu không nhiều. Ngoài ra, hai trong số ba đối tượng trong nghiên cứu này có thâm niên sử dụng heroin trên 7 năm.
Quan hệ giữa việc cản trở/kháng (blockade) trong khu vực điều trị và việc sử dụng Naltrexone tại cộng đồng:
Cuối cùng, chúng tôi đã thực hiện kiểm tra mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin dưới các điều kiện cản trở/kháng trong khu nghiên cứu và động lực tự giác dùng thuốc Naltrexone tại cộng đồng, ít nhất là một ngày sau khi xuất viện. Thấy không có mối quan hệ nào giữa việc sử dụng thuốc kháng tại cộng đồng và tần suất sử dụng dưới các điều kiện kháng trong khu nghiên cứu. Cũng không có sự khác biệt về mặt thống kê trong kết quả giữa nhóm dùng giả dược trong nghiên cứu (và có “lên cơn” đói heroin) và nhóm dùng thuốc kháng ma tuý. Do vậy, sự có mặt của các cá nhân vẫn lên cơn dùng ma tuý không có ảnh hưởng mấy tới việc sử dụng naltrexone tại cộng đồng.

Qua một thời gian là 3 năm, có 83 bệnh nhân tham gia vào chương trình nghiên cứu (loại 4 giường),*. có 49 người đủ tiêu chuẩn để đưa tiếp vào giai đoạn sử dụng Naltrexone tại cộng đồng. Trong 49 người đủ tiêu chuẩn điều trị ngoại trú này thì chỉ có 40 người là đã sử dung thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Trong các nghiên cứu không mù đôi (non-double-blind studies) (Nhóm 1- Group 1), 21 đối tượng đã tham dự và có 10 đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng;**  trong các nghiên cứu mù đôi trước giai đoạn có thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 2), có 30 bệnh nhân tham gia và có 15 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone; trong khi tại các nghiên cứu mù đôi sau khi chúng tôi tiến hành việc thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 3), có 32 bệnh nhân tham gia và có 23 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng. (Bảng III). Toàn bộ 10 đối tượng trong Nhóm 1 đã sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng trong khi chỉ 5 trong số 15 và 19 người trong số 23 của các nhóm còn lại là có sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Xác định theo thang Chi-square cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa quan trọng về mặt thống kê trong việc sử dụng thực sự Naltrexone của các đối tượng trong các Nhóm 1 và 3 so sánh với Nhóm 2.
Kiểm tra theo T-test được thực hiện để so sánh việc sử dụng Naltrexone dài ngày của các bệnh nhân thuộc 3 nhóm, là những người đã sử dụng Naltrexone thực sự tại cộng đồng. Việc sử dụng Naltrexone trung bình tại các thời điểm là một tháng, ba tháng và sáu tháng của 3 nhóm được so sánh với nhau. Xu hướng là bệnh nhân trong Nhóm 1 (p = < 0.1) sử dụng Naltrexone tại cộng đồng lâu hơn bệnh nhân trong Nhóm 2 và 3. Không có sự khác biệt về việc sử dụng Naltrexone trong 3 nhóm tại thời điểm khoảng tháng thứ 6. Trong 10 bệnh nhân vẫn duy trì Naltrexone được trên 90 ngày, thì 7 người tái nghiện sau khi dừng sử dụng Naltrexone, 2 người vẫn duy trì không ma tuý, và một người vẫn tiếp tục theo dùng Naltrexone và tham gia phần tư vấn cá nhân. Cả hai bệnh nhân sau khi ngưng sử dụng Naltrexone vẫn duy trì được trạng thái không ma tuý đã thay dổi chỗ ở và có được việc làm ổn định. Trong 7 người tái nghiện sau khi ngưng sử dụng Naltrexone thì chỉ trừ có một người, thì còn lại đều không còn việc làm tại thời điểm tái nghiện. 6 bệnh nhân sử dụng Naltrexone tại cộng đồng được từ 60 đến 90 ngày thì chỉ trừ có một trường hợp còn toàn bộ bị tái nghiện. Ngoại lệ đơn lẻ vẫn duy trì có việc làm sau khi tái nghiện gồm một trường hợp và thêm một trường hợp khác thì đã sang một bang khác để trốn khỏi sự truy nã. Chúng tôi không có thông tin thêm về trường hợp này. 6 bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được từ 30 đến 60 ngày và 4 trong đó đã tái nghiện sau khi dừng không dùng Naltrexone, 2 người còn lại hiện vẫn đang theo điều trị. 18 bệnh nhân đã sử dungj Naltrexone được từ 0 đến 30 ngày (tại ngày 30/4), 3 bệnh nhân vẫn đang duy trì sử dụng Naltrexone theo chương trình điều trị. Số còn lại đều tái nghiện. Việc tái nghiện của rất nhiều người bệnh, chúng tôi không cho là một kết quả tồi tệ không thể tránh khỏi bởi cũng có khá nhiều người sau khi tái nghiện đã quay trở lại điều trị với liều duy trì Methadone, tham gia nhóm trợ giúp, và một số là dùng Naltrexone.


Quan hệ giữa Thông tin cá nhân, các điều kiện trong thí nghiệm và Kết quả:
Bệnh nhân khi đựơc nhập viện đều phải điền vào các mục về nhân khẩu học theo mẫu (của Đại học Cơ đốc Texas – TCU, Viện Nghiên cứu Hành vi, Hồ sơ trong chương trình cai nghiện), những thông tin này được dùng để phân tích. Sử dụng giải pháp của Varimax về luân phiên trực giao, tính các mục bằng cách lấy trung bình của các mục có kết quả từ 0.40 trở lên sau khi các mục đã được chuyển đổi sang T-score chuẩn. Có 7 yếu tố được lấy. Có 3 nhóm kết quả được đem so sánh là: bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn nhưng thất bại với dùng Naltrexone; bệnh nhân sử dụng Naltrexone từ 1 – 30 ngày; và bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được trên 30 ngày. Phân tích theo 2 chiều về sự khác nhau đã so sánh bệnh nhân của 3 nhóm đối với 7 yếu tố. 2 yếu tố liên quan đến kết quả với Naltrexone. Những bệnh nhân bắt đầu sử dụng ma tuý khi còn ít tuổi, cũng bị bắt giữ khi còn ít tuổi, đã tham gia một số chương trình điều trị, không được nuôi dưỡng bởi cả bố và mẹ cho đến năm 12 tuổi, có xu hướng xấu hơn (F = 4.59, p < .015). Ngoải ra, nhóm bệnh nhân có mẹ (F = 1.631, p < .210) và có bố (F = 1.776, p < .184) có trình độ văn hoá thấp lại có xu hướng tốt hơn khi sử dụng Naltrexone. Phân tích theo thang chi-square của các thông số/ mục về nhân khẩu học của cá nhân đã được điều trị đã xác nhận các mối quan hệ đó. Ngoài ra, các bệnh nhân sống cùng vợ/chồng, cha mẹ hoặc người thân cũng có xu hướng tốt hơn nhóm chỉ sống với bạn bè, sống một mình, hoặc không ổn định. (Chi-square = 13.583, p < .194). Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu mù đôi với việc sử dụng Naltrexon tại cộng đồng mà không được tiền thưởng (1$ /ngày) cũng kém hơn đáng kể so với nhóm trong nghiên cứu thường (không mù/nonblind) hoặc nhóm trong nghiên cứu mù đôi, sử dụng Naltrexone tại cộng đồng có thưởng (Chi-square = 21.592, p < .002).
Tóm lại chúng tôi có thể nói rằng việc thách thức đối với kháng ma tuý tại cộng đồng là không phổ biến. Nếu trường hợp này xảy ra thì bệnh nhân làm như vậy bởi họ cho rằng tác dụng của thuốc kháng ma tuý đã hết. Xen kẽ với đó là việc bệnh nhân báo cáo cho rằng họ gặp phải những tác nhân kích thích và dùng Naltrexone để tăng cường quyết tâm cai trừ ma tuý.

Thảo luận:
Thủ tục ký thoả thuận đồng ý:
Thoả thuận đồng ý của người nghiện heroin với chương trình nghiên cứu đôi khi có liên quan đến việc sử dụng heroin là một vấn đề cần xem xét cẩn thận. Ngoài những nghiên cứu về con người do uỷ ban xem xét, thì dự án này cũng được nghiên cứu cẩn thận bởi một nhóm người từ Ban kế hoạch phòng chống nghiện ma tuý của Thống đốc bang Massachusett và nhân viên của Bộ y tế chuyên quản khu vực. Ở mức liên bang thì các uỷ ban của Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm và Viện sức khoẻ tâm thần quốc gia xem xét các thủ tục liên quan đến đạo đức và tính nhân văn cũng như các vấn đề về lợi ích và rủi ro đối với đối tượng.
Toàn bộ bệnh nhân được nhập viện từ các cơ sở phục hồi cai nghiện ở Massechusett hoặc qua giới thiệu của các bệnh nhân cũ. Trước khi được chấp nhận vào chương trình, từng người được kiểm tra về thể chất và tâm thần. Bệnh nhân đều được hướng dẫn đến các cơ sở khác để cai trừ độc tố nghiện (detoxification) nội trú hoặc ngoại trú trước khi tham gia vào chương trình nghiên cứu này và trước khi tham gia họ được phát một cuốn sổ tay bệnh nhân từ 8 đến 10 trang. Họ cũng được dẫn đi tham quan khu vực nghiên cứu và Bệnh viện McLean, được có cơ hội trò chuyện với các bệnh nhân.
Vào ngày nhập viện, bệnh nhân được phỏng vấn bởi một luật sư (cũng là một thành viên trong Uỷ ban nghiên cứu về con người của bệnh viện); sau khi nhận thấy bệnh nhân đã thông báo và hiểu đầy đủ về bản chất của dự án, họ ký vào bản cam kết đồng ý. Không tiếp nhận bệnh nhận bệnh nhân từ các cơ quan thi hành án, tất cả bệnh nhân đều là tự nguyện, được tự do quyết định dời khỏi dự án vào bất cứ lúc nào. Mỗi người có thể nhận được một khoản lên đến 700$ khi tham gia vào chương trình. Trường hợp nếu họ bỏ dở thì vẫn được phép giữa khoản tiền đã nhận.
Các lập luận về điều trị bằng chất đối kháng ma tuý thường tập trung chủ yếu vào các yếu tố điều kiện gây nghiện. Wikler là người tiên phong (năm 1948), với các thực nghiệm và quan sát trên lâm sàng của mình đã gây nhiều chú ý và quan tâm trong lĩnh vực này. Hiện nay thì thuốc đã có sẵn và xem ra phù hợp với các tiêu chuẩn đối với một thuốc đối kháng được phép sử dụng trên lâm sàng, vậy chúng ta tiếp tục ứng dụng cơ sở lý luận này như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải kiểm chứng lại một số yếu tố điều kiện gây nghiện ma tuý ở người. Ở đây thì những nghiên cứu trên động vật không có giá trị (xem Wikler, 1973 để thấy một tổng kết toàn diện), những yếu tố về nhận thức tạo ra sự ngoại suy trực tiếp với các tình huống trên lâm sàng rất khó khăn này.

QUAN ĐIỂM VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ =
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ (Trang 84)
Ths. Richard B. Resnick, và Elaine Schuyten-Resnick, MSW                                       

Khi chất đối kháng ma tuý lần đầu tiên được giới thiệu đưa vào điều trị cai nghiện, bệnh nhân được điều trị không được lựa chọn phân loại và việc đánh giá mức độ thành công hay thất bại lại chỉ được dựa vào thời gian mà họ duy trì điều trị. Tuy nhiên cho đến nay công tác đánh giá của chúng tôi đã được cải tiến nhiều, xem xét cụ thể hơn như là: thuốc có thực sự hiệu quả và nếu có thì đối tượng nào là phù hợp nhất, kỹ thuật nào là tốt nhất để nâng cao hơn nữa hiệu quả điều trị? Một điểm nổi bật trong nghiên cứu của chúng tôi về Naltrexone là tìm hiểu “Ai phù hợp nhất”. Hy vọng rằng khi nghiên cứu hoàn thành, nó sẽ góp phần khẳng định hoặc phủ nhận mô hình điều trị cai nghiện mà chúng ta đang nói đến.
Trong phần trình bày hôm nay, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn một số điểm trong phương pháp điều trị dựa trên kinh nghiệm lâm sàng của chúng tôi. Là những nhà nghiên cứu, chúng ta.đều tâm nguyện hiến dâng cho sự nghiệp khoa học đầy khó khăn cùng những yêu cầu khắt khe. Tuy nhiên ở đây tôi không đề cập đến số liệu nghiên cứu cụ thể mà chỉ nêu lên một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng thuốc trên điều trị lâm sàng.
Mặc dù chúng ta đang dùng loại thuốc tiên tiến có tác dụng dượclý đến tâm thần của người bệnh song theo quan điểm của chúng tôi thì nó cũng có gây ảnh hưởng xấu không nhỏ trong điều trị của nghiên cứu này mà dự kiến sẽ dùng làm mẫu để đánh giá các liệu pháp dùng thuốc khác: ví dụ như các hoạt chất có mục đích là điều chỉnh rối loạn chức năng tâm thần hoặc quá trình phát triển bệnh, mục đích có thể là làm giảm, xoá hẳn hoặc làm trầm trọng thêm một “triệu chứng đích” (target symptom). Dễ dàng nhận thấy tác dụng của thuốc khi thuốc gây ra những thay đổi đáng kể (dù là thay đổi tích cực hay là tiêu cực) trên hệ tâm thần của đối tượng được nghiên cứu; ví như là tác dụng mà Lithium gây với bệnh hưng cảm hoặc Imiprimine với bệnh trầm cảm. Chất đối kháng ma tuý không tác dụng trực tiếp với hệ tâm thần của người bệnh; lợi ích của nó chỉ là thứ yếu (secondary), bằng cách bảo vệ bệnh nhân tránh khỏi tác dụng của ma tuý.
Do vậy mà mô hình làm mẫu ở trên không hẳn là giống với mô hình dùng đánh giá ảnh hưởng của hoạt chất đối với các hội chứng có thể nhận thấy trên lâm sàng mà ở nhiều trường hợp là rối loạn tiềm thức. Ví dụ với một số người trạng thái thoải mái, hài lòng lại bắt nguồn từ những hội chứng trầm cảm (depressive syndroms). Tất cả người nghiện đều cảm thấy hài lòng, mãn nguyện khi dùng ma tuý, bất chấp là hậu quả để lại ra sao đi nữa, chỉ là những mất mát thứ yếu (secondary losses). Tiếp tục như vậy chúng tôi quan sát và đưa ra các mức độ mà bệnh nhân bị ảnh hưởng (do dùng ma tuý để lại), chúng thường gây cản trở trong điều trị; lúc đầu chúng được xem là thứ yếu song thực tế cho thấy với người nghiện, chúng rất quan trọng, là tác nhân đưa họ đến với chúng tôi để điều trị. Chúng tôi biết chắc chắn là chất đối kháng ngăn cản tái nghiện. Tuỳ thuộc vào việc người bệnh tuân thủ điều trị theo đúng yêu cầu của thầy thuốc về liều lượng dùng cũng như thời gian dùng thuốc.

Còn một vấn đề nữa, trong trường hợp người bệnh tham gia điều trị, đó là nỗ lực của chúng tôi, dành hết tâm sức và sự khéo léo của mình để làm sao thay đổi thái độ của họ, chấm dứt sử dụng ma tuý, thấy được tác hại thực sự của ma tuý. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, một việclàm đáng được đánh giá. Do đó hiệu quả trên lâm sàng của các hoạt chất này không thể tách rời, mà nó song hành cùng với hiệu quả của bệnh viện, nơi đang sử dụng các hoạt chất đó.
 Tôi sẽ thảo luận một số kỹ thuật trên lâm sàng mà chúng tôi thấy là quan trọng nhất, mặc dù chúng ta phải thừ nhận sự thật hiển nhiên là:  đánh giá trên lâm sàng tốt chưa hẳn đã giải thích đầy đủ cơ sở, bản chất của kỹ thuật đó.
Khi sử dụng chất đối kháng ma tuý, điều then chốt là nhân viên phải giúp bệnh nhân hiểu rằng điều trị không chỉ đơn thuần là dùng thuốc. Rõ ràng để đạt được kết quả tốt, chính các nhân viên phải hiểu được, nắm được và tin tưởng công việc đang làm. Điều trị cai nghiện là công việc rất gian khó chứ không chỉ đơn giản là cấp phát thuốc. Như TS. Lee Schwarts, một cộng tác viên trong chương trình nghiên cứu của chúng tôi, thường nhắc nhở tôi là: “để chữa khỏi bệnh thì dùng thuốc thôi là chưa đủ”.
Tuy nhiên, thuốc chữa bệnh là công cụ để thực hiện trọng tâm ban đầu của liệu pháp – nó là một cách giúp người bệnh bắt đầu tin tưởng người thầy thuốc và nó tạo mối liên kết, hợp tác giữa đôi bên. Dù kỹ thuật liệu pháp nào được được đưa vào sử dụng thì chúng ta cũng không thể tập trung quá mức vào tầm quan trọng của mối quan hệ tốt và tích cực giữa giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Mối quan hệ này có thể được củng cố bằng nhiều cách, từ việc trợ giúp người bệnh trong giai đoạn sau cai cho đến các mặt tình cảm mà người nghiện thiếu thốn trong cuộc sống của họ. Khi lần đầu tiên chúng tôi triển khai chất đối kháng, chúng tôi đã không tính đến các yếu tố đó và kết quả khá nghèo nàn; người bệnh được củng cố khi họ được tiếp xúc đều đặn với nhân viên có chuyên môn và cảm thông, dù là mỗi lần gặp cũng chỉ ngắn ngủi.
Dần dần, người bệnh học được cách trông cậy vào thầy thuốc chứ không phải trông cậy vào ma tuý, giúp họ giải toả khỏi những âu lo, có được lời khuyên, giải pháp cho những vấn đề, những điều còn phân vân trong cuộc sống. Qua mối quan hệ liệu pháp này, bệnh nhân có động lực tích cực khi họ lựa chọn, quyết định các vấn đề, điều này góp phần giúp họ sớm ổn định và hoà nhập hơn.
Một yếu tố cần được xem xét trong điều trị đó là lợi ích khi mà bệnh nhân được giảng giải về thuyết điều kiện (conditioning theory) để họ có thể nhận thấy được những dấu hiệu của phản ứng có điệu kiện trong bản thân. Bệnh nhân hiểu được có thể hiện tiến triển đáng kể trong các lần phỏng vấn về sau. Ngoài ra, lợi ích nữa là cảnh báo họ về khả năng có thể xảy ra tái nghiện tại một lúc nào đó trong tương lai, dù là đã qua một thời gian dài đã được điều trị bằng chất đối kháng thành công.
Tuy nhiên, sự việc dừng sử dụng chất đối kháng rồi sau đó lại dùng ma tuý mà cho rằng việc điều trị là thất bại thì chưa được thoả đáng. Liệu bạn có thể nói lá mao địa hoàng là điều trị không hiệu quả nếu một người bệnh bị xung huyết tim dừng sử dụng nó? Qua các nghiên cứu được thực hiện, chúng tôi nhận thấy là khoảng thời gian bệnh nhân tham gia điều trị với Naltrexone tăng hơn lên ở mỗi lần điều trị về sau.
Cách thức mà chúng tôi sử dụng cũng tương tự như cách điều trị các bệnh mãn tính. Bệnh nhân phải được biết là khi nào tạm ngưng sử dụng thuốc, khi có triệu chứng tái nghiện thì họ cũng cần báo cáo để tiếp tục sử dụng chất đối kháng. Hãy hình dung tác dụng tích cực của nó đối với người bệnh và gia đình họ khi thấy không có gì phân biệt giữa điều trị cai nghiện với các loại bệnh khác. Tác động về tinh thần đối với người bệnh cũng khá nặng nề khi họ đã từng bị đối xử không tốt, bị xa lánh - mỗi lần tái nghiện lại bị coi là “đồ bỏ”- thực tế việc này đã xảy ra không ít. - “Ý tôi là nếu tôi có lỗi lầm, sai phạm, thì tôi còn có thể quay trở lại với chương trình?”.
Trọng tâm của điều trị là người bệnh cần thay đổi “lối sống” chứ không phải là “sẽ không bao giờ sử dụng ma tuý nữa”. Nếu đây là trọng tâm đúng, mà chúng tôi cũng tin tưởng là đúng, thì tiếp theo nhân viên điều trị cũng phải tin tưởng để truyền niềm tin đó tới người bệnh. Với một số người, bản cam kết phục hồi cùng chất đối kháng chỉ được thực hiện sau khi bị tái nghiện hoặc đã tái nghiện một vài lần. Một số tự cảm thấy hổ thẹn, một số khác cần có thêm thời gian để hiểu thầy thuốc có quan tâm tới họ, sẵn lòng giúp đỡ họ những lúc khó khăn.
Chúng tôi phát hiện là hầu hết những bệnh nhân phục hồi thành công đều là những người biết cách dựa vào sự giúp đỡ của thầy thuốc, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của điều trị. Khi mối quan hệ này trở nên tin cậy cùng với những nguồn vui mới thì bệnh nhân cũng ngày càng cảm thấy những hứng thú từ ma tuý cũng vơi đi.

Đưa ra đây một ví dụ cụ thể của một trường hợp để minh hoạ:.
Một bệnh nhân nam 28 tuổi đã được chúng tôi điều trị với Methadone được 4 năm, cảm thấy hoàn toàn không còn ma tuý, đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống. Thầy thuốc điều trị cũng đã có kết luận tốt song có đề nghị là điều trị thêm với Naltrexone. Ban đầu anh ta từ chối vì cho rằng không cần thiết. Hai tháng sau lần cuối cùng dùng Methadone, người bệnh này bắt đầu cảm thấy phải vật lộn với cảm giác khó chịu và thèm ma tuý ngày càng tăng. Anh ta dùng liều 400 mg Methadone tại nhà và bắt đầu có cảm giác dễ chịu ngay. Trong thời gian này anh ta gặp thầy thuốc hàng ngày, liên lạc cả vào ban đêm và ngày nghỉ cuối tuần khi cảm thấy căng thẳng và có triệu chứng nặng. Cuối cùng thì các triệu chứng vẫn càng ngày càng trầm trọng đến mức bệnh nhân cảm thấy không thể chịu đựng nổi và anh ta đã gọi điện thoại đến bệnh viện báo cáo sự việc. Trên đường tới bệnh viện có qua East Harlem là nơi trước đây thường kiếm ma tuý ở đó, anh ta đã phải quyết liệt chống lại cám dỗ. Bệnh nhân này cuối cùng đã đến bệnh viện và đề nghị cho được điều trị với Naltrexone.
Sau đó, anh ta đã tuyên bố rằng Naltrexone đã cho anh một tinh thần thoải mái, có nghị lực, bản lĩnh. Ngoài ra bệnh nhân cũng thừa nhận là duy trì mối quan hệ tốt với thầy thuốc đã giúp bệnh nhân vươn lên, hướng tới những điều tốt đẹp, không ma tuý. Trong những tháng đầu tiên điều trị cai nghiện, chính thầy thuốc là người giúp đỡ đầu tiên, sau đó là sự trợ giúp của thuốc Naltrexone. Nếu không đủ 2 sự trợ giúp này thì không thể thành công. Bệnh nhân này dùng Naltrexone chỉ 01 tháng, khi cảm thấy tốt là thôi không dùng. Cho đến hôm nay là đã được trên 2 năm, bệnh nhân vẫn duy trì tốt, không có ma tuý. Chúng tôi có nhiều bệnh nhân tương tự như vậy: Thuốc đối kháng và Thầy thuốc phải kết hợp cùng nhau giúp đỡ người nghiện.
 Việc đến điều trị cũng là một vấn đề quan trọng. Bệnh nhân dùng Methadone đến bởi họ sợ bị ốm đau, bệnh tật; bệnh nhân dùng thuốc đối kháng không có lo sợ như vậy. Việc đến với điều trị của họ xuất phát từ lòng mong muốn thực sự là duy trì một cơ thể không ma tuý, lo lắng với gia đình hay với những người thân yêu, hoặc bởi mối quan hệ tốt với thầy thuốc. Cũng có vài người đến bởi có cam kết từ đầu với thầy thuốc. Có thông điệp mạnh mẽ tới bệnh nhân là nếu họ bỏ một ngày điều trị thì sẽ bị thầy thuốc gọi ngay. Bệnh nhân đã bày tỏ ngạc nhiên về điều này bởi họ chưa từng thấy bao giờ như vậy ở những nơi họ đã từng đến điều trị.

Yêu cầu dùng thuốc hàng ngày là một cách tốt đối với bệnh nhân dùng chất đối kháng, ít nhất là trong những tháng đầu tiên. Nó không chỉ tạo quy củ trong cuộc sống của bệnh nhân cũng như tạo mối liên lạc giữa thầy thuốc và người bệnh mà nó còn nhắc nhở thầy thuốc về tiềm ẩn khả năng tái nghiện nếu họ bỏ một ngày thuốc. Nhiều bệnh nhân cảm thấy là họ có thể bỏ một ngày thuốc và dùng ma tuý chỉ “một thoáng thôi”. Về việc này chúng tôi thấy chất đối kháng có ưu điểm bởi 2 lý do: Bệnh nhân phải đưa ra một quyết định tỉnh táo khi bỏ thuốc điều trị, họ không thể phủ nhận trách nhiệm của mình khi dùng ma tuý. Rất nhiều bệnh nhân tích cực đang dùng chất đối kháng – theo nhận định của chúng tôi - lại có dấu hiệu dùng ma tuý do thụ động, do bốc đồng.
Bằng cách giúp bệnh nhân hiểu được những động cơ đó, người thầy thuốc đã làm cho bệnh nhân ý thức được hành động của họ, thay vì việc lấp liếm cho rằng việc dùng ma tuý là do một chút “yếu đuối”, không làm chủ được bản thân. Chúng tôi thường nói với bệnh nhân và gia đình họ rằng việc không chấp hành đúng chỉ định dùng thuốc cũng đồng nghĩa với việc bệnh sẽ nặng hơn. Một bệnh nhân còn đang lưỡng lự, chưa dùng thuốc thì cũng không hẳn là sẽ bỏ thuốc ngày hôm đó nếu anh ta biết rằng làm như vậy thì cũng như thể tuyên bố với gia đình và nhân viên rằng: ”Hôm nay tôi sẽ bắn vài bi heroin”. Chúng tôi thấy rằng sự tác động của gia đình rất có ảnh hưởng khi người cai nghiện còn đang lưỡng lự, anh ta sẽ được hỗ trợ để vượt qua cho đến khi có tâm lý ổn định, đủ tỉnh táo và bản lĩnh.
Kết luận lại chúng tôi mạnh mẽ nhấn mạnh rằng người thầy thuốc cần coi đối tượng nghiên cứu của mình nhưng các bệnh nhân - cần toàn tâm, toàn ý, hết lòng cứu chữa cho họ, hồi phục cho họ như với bất kỳ bệnh nhân nào khác – không phân biệt người nghiện với các người bệnh khác.

KINH NGHIỆM TRONG ĐIỀU TRỊ LÂM SÀNG BẰNG NALTREXONE
TRÊN 370 NGƯỜI CAI NGHIỆN (Trang 88)
Muriel Thomas RN, Ths. Frank Kauders,
Marcel Harris, Judy Cooperstein, RN,
TS. Gordon Hough, Ths. Richard Resnick

Giới thiệu chung:
Bộ phận Nghiên cứu và Điều trị cai nghiện (Division of Drug Abuse Research and Treatment) của Trường đại học y khoa New York bắt đầu sử dụng Naltrexone vào năm 1973. Kể từ đó, 370 người nghiện đã được điều trị cai trừ độc tố gây nghiện (gọi là cai nghiện – detoxified) và tiếp theo cho dùng Naltrexone. Nơi điều trị được đặt ở East Harlem là nơi có tỷ lệ người nghiện cao. Thành phần người nghiện được điều trị ở đây gồm: 38% là người da đen, 38% nữa là người Puerto Rican, và 24% còn lại là da trắng. Chất nghiện/ hay bị lạm dụng chủ yếu là Heroin /hoặc Methadone bất hợp pháp. Bệnh nhân đến đây điều trị thuộc đủ mọi thành phần xã hội song chủ yếu là tầng lớp có địa vị kinh tế - xã hội thấp. Họ được đưa đến điều trị từ các cơ quan, tổ chức trong cộng đồng như là các nhân viên thi hành án, các cơ sở cai nghiện trong khu vực, và cả những bênh nhân được biết tới Naltrexone và nói với bạn bè và người thân.
Khi chúng tôi bắt đầu nghiên cứu Naltrexone, rất nhiều bệnh nhân đã tỏ ý nghi ngờ. Lúc đó Cyclazocine đã phổ biến trong cộng đồng. Không giống như ở các cơ sở điều trị khác, bệnh nhân ở Trường đại học Y khoa New York đã được sử dụng Cyclazocine mà không gặp mấy khó khăn và tác dụng phụ. Do vậy việc triển khai dùng Naltrexone cần phải quảng bá để cả thầy thuốc và bệnh nhân tin tưởng, sẵn sàng đón nhận Naltrexone vào điều trị.

An toàn & Tác dụng phụ:
Phát hiện trước tiên và có thể là quan trọng nhất trong điều trị bệnh nhân với Naltrexone là thuốc an toàn với rất ít tác dụng phụ. Tác dụng phụ thường thấy (dù ở trên rất ít bệnh nhân) là đau thượng vị, đặc biệt là khi uống thuốc lúc đói, và huyết áp có tăng nhưng ở mức không đáng ngại. Triệu chứng đau thượng vị có giảm tần suất khi tần suất sử dụng thuốc có thay đổi. Ở những bệnh nhân đầu tiên, đây là triệu chứng duy nhất trên bảng danh sách, nó có tăng khi Naltrexone được dùng tiếp theo sau 7 ngày không dùng ma tuý hoặc sau một thời gian dùng loại giả dược. Triệu chứng đau này thường làm bệnh nhân thờ ơ trong lần 2 sử dụng thuốc tiếp theo.
Việc tiêm Narcan (0,8 – 1,2 mg naloxone) trước khi sử dụng Naltrexone được giới thiệu áp dụng. Nếu việc tiêm này làm lắng các triệu chứng thì việc dùng Naltrexone vẫn phải đợi cho đến khi kiểm tra Narcan là âm tính. Thử nghiệm trên hầu hết bệnh nhân cho thấy Narcan cho phép liều dùng 100 mg Naltrexone không gây khó chịu. Phát hiện này cho thấy là trên nhiều bệnh nhân triệu chứng đau trên chỉ là một triệu chứng thứ yếu khi cai. Đến nay thì số lượng bệnh nhân bị đau thượng vị còn rất ít, những bệnh nhân này thường là có tiền sử đau dạ dạy, ruột từ trước. Triệu chứng đau khi sử dụng Naltrexone có thể điều chỉnh bằng việc làm giảm a-xít trong dạ dày hoặc là ăn trước khi uống thuốc.

Một số xem xét khi điều trị:
Phát hiện thứ hai của chúng tôi là Naltrexone rất nhạy cảm với rất nhiều bệnh nhân, dù là có hiệu quả nhất nhưng nó đòi hỏi thái độ tích cực của nhân viên và chương trình điều trị phải đa dạng. Việc dùng Methadone vẫn nên duy trì, đặc biệt với bệnh nhân chưa phù hợp với chất đối kháng. Số liệu về nhập viện, xuất viện của 262 bệnh nhân được điều trị trong một năm rưỡi qua cho thấy có khoảng 40 người đã quay trở lại tái nhập viện 3 lần. Tại thời điểm viết báo cáo này (tháng 5/1976), có 9 trong số 50 bệnh nhân đang được điều trị với Naltrexone đã bỏ điều trị, bị tái nghiện, và sau đó đã quay trở lại. Số liệu ở chỗ chúng tôi cho thấy là bệnh nhân sẽ duy trì điều trị lâu hơn ở những lần được tái nhập viện về sau.
Trong 18 tháng vừa qua, có 20 người đã dùng Naltrexone chỉ 01 liều, 39 người dùng Naltrexone nhiều hơn 01 lần nhưng dưới 01 tuần, 132 dùng thuốc được từ 1 tuần đến 3 tháng, 50 người từ 3 tháng đến 6 tháng và 21 người là trên 6 tháng.
Nghiên cứu có cho thấy không có mấy yếu tố tác động đến việc bệnh nhân đồng ý sử dụng thuốc, ngoài việc bệnh nhân bày tỏ muốn cai hoàn toàn ma tuý. Chúng tôi tin rằng công tác tư vấn với việc phỏng vấn nghiêm túc, trò chuyện thân mật là một khâu rất quan trọng trong điều trị với Naltrexone. Mức độ mà tư vấn viên ảnh hưởng đến người nghiện có tác động đến việc duy trì hay quay trở lại điều trị của bệnh nhân. Khi tư vấn, nhân viên giúp bệnh nhân bày tỏ, nói ra những gì họ còn e ngại. phân vân; nhấn mạnh rằng để chữa khỏi bệnh thì chỉ dùng thuốc thôi là chưa đủ. Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy: điều trị là cả một quá trình với những giai đoạn khác nhau, có cả những tiến bộ sau khi vượt qua tái nghiện. Chúng tôi nói với bệnh nhân rằng hãy quay lại điều trị nếu cảm thấy có triệu chứng thèm hoặc tái nghiện. Một điểm đặc biệt của Naltrexone là thuốc cho phép sử dụng khi họ cảm thấy có dấu hiệu thèm ma tuý, không sợ bị ảnh hưởng xấu do dùng thuốc.
Có một số bệnh nhân đến với cơ sở điều trị song vẫn có những e ngại, ngại ngùng tiếp xúc với thầy thuốc. Có một bệnh nhân đến chỗ chúng tôi 5 ngày/tuần, duy trì như vậy trong nhiều năm. Anh ta đã từ chối lịch làm việc 3 ngày/tuần khi cho dùng Methadone. Khi bệnh nhân này đã được điều trị cai xong (detoxified) và chuyển sang dùng Naltrexone thì anh ta lại tiếp tục đến khu điều trị 5 ngày/tuần. Gần đây anh ta đã đồng ý lịch 3 ngày/tuần. Tuy vậy quan hệ của bệnh nhân này với các thầy thuốc vẫn rất hời hợt, duy trì đến bệnh viện 3 ngày/tuần chỉ đơn giản là để lấy thuốc Naltrexone.
Nhìn chung nhân viên của chúng tôi chấp nhận cách đến điều trị như vậy; Bệnh nhân đến điều trị, có bỏ dở, rồi lại quay trở lại điều trị. Người bệnh tìm thấy sự tin cậy ở thầy thuốc và bệnh viện chứ không chỉ đơn thuần là thuốc điều trị. Ở chỗ chúng tôi cũng không còn thấy ngạc nhiên việc người bệnh hăm hở đến song rồi lại ca thán những khó khăn khi bắt đầu điều trị. Hầu hết là cần có thời gian để quen dần với việc điều trị và những thay đổi.

Một số chỉ định đặc biệt với Naltrexone:
Chúng tôi nhận thấy rằng Naltrexone còn có hữu hiệu với một số nhóm người nghiện khác ngoài nhóm nghiện ở đường phố. Thứ nhất là nhóm bệnh nhân đã cai nghiện với Methadone. Chúng tôi đang nghiên cứu dùng Naltrexone như là một phương pháp điều trị chuyển đổi (transitional treatment) cho nhóm này. Trong một nghiên cứu mù đôi thử nghiệm so sánh nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược: lấy 25 bệnh nhân thử nghiệm nghiên cứu; toàn bộ những người này đã được điều trị với Methadone được từ một năm rưỡi đến 3 năm, đang đi làm hoặc đi học và không hề lạm dụng ma tuý từ 6 tháng trở lên trước khi bắt đầu thực hiện cai. Sau khi có thoả thuận đồng ý, bệnh nhân được phân một cách ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm dùng Naltrexone và nhóm dùng giả dược. 19 bệnh nhân đầu tiên được coi là có hiệu quả theo đánh giá chủ quan của các nhân viên và được đưa vào liệu pháp với tư vấn viên. 6 bệnh nhân gần đây nhất được giao cho một nhân viên quan sát theo dõi để đánh giá, người này hoàn toàn không biết bệnh nhân nào thuộc nhóm nào trong 2 nhóm nghiên cứu (Naltrexone & giả dược). Các bệnh nhân đều được cho biết về tác dụng của thuốc là có thể làm giảm các triệu chứng khó chịu xảy ra sau khi cai bằng Methadone.
Toàn bộ bệnh nhân dùng thuốc Naltrexone đều cho thấy có ít các triệu chứng hơn so với nhóm bệnh nhân dùng loại giả dược. Sự khác biệt giữa 2 nhóm chưa thể hiện rõ về mặt thống kê. 6 bệnh nhân gần đây nhất cũng được so sánh về phản ứng qua phỏng vấn trên lâm sàng. Một số bệnh nhân chủ yếu tập trung về những khó khăn trong mối quan hệ với mọi người ở nhà, tại cơ quan hay trường học; ít có những phàn nàn về thể trạng cơ thể. Với những bệnh nhân còn lại thì lại ngược lại: khi phỏng vấn trên lâm sàng họ chủ yếu phàn nàn về thể trạng cơ thể hơn là các khó khăn trong các mối quan hệ với mọi người. Khi nghiên cứu dừng áp dụng mù đôi, 6 tháng sau khi đã cai xong (detoxified) hoặc có thể gọi là kết thúc điều trị, thì các bệnh nhân hay phàn nàn về các vấn đề về giao tiếp với mọi người khác thì hầu hết là thuộc nhóm dùng thuốc Naltrexone; còn nhóm hay phàn nàn về thể trạng cơ thể lại thuộc nhóm dùng giả dược. Lấy một trường hợp nổi bật như sau: Một bệnh nhân có phàn nàn về khó khăn trong mối quan hệ với bạn gái xảy ra trong 8 tuần điều trị đầu tiên, đến tuần thứ 9 thì lại bắt đầu phàn nàn về những triệu chứng khó chịu của cơ thể như: đau mỏi khớp, cu rút dạ dày, cảm giác hay chảy nước mắt và ra mồ hôi. Nhân viên quan sát và theo dõi (observer) đã ghi lại những thay đổi này trong biểu đồ của bệnh nhân. Qua nghiên cứu trên chúng tôi nhận thấy rằng việc kê đơn thuốc cho bệnh nhân có thể thay đổi từ loại thuốc thật sang loại giả dược vào cùng thời điểm mà quan sát thấy có những thay đổi trên lâm sàng ở bệnh nhân có liên quan.
Sự khác biệt giữa 2 nhóm trên cho thấy là Naltrexone có thể làm mất đi các triệu chứng khi cai nghiện (loại thứ cấp), đặc biệt là trạng thái ngủ mê man, chán ăn, mệt mỏi, kém tập trung. Bệnh nhân nào cảm thấy Naltrexone có hữu hiệu thì được nhận thuốc Naltrexone, còn những người cảm thấy không hữu hiệu mấy thì nhận loại giả dược. Thử nghiệm tiếp tục được thực hiện và qua đó những phát hiện về sự khác biệt giữa 2 nhóm dùng thuốc thật và loại giả dược sẽ góp phần quan trọng vào công tác điều trị.
                                                                       

Một số Nghiên cứu về Hành vi
do Tổ chức NIDA thực hiện The NIDA Behavioral Studies
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN

BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ (Trang 119)
BS. Abraham Wikler

Giải thích từ ngữ: Trong bài này tác giả luôn dùng một số khái niệm như:

-     conditioned abstinence: Trạng thái cai có điều kiên,

         ở đây có thể hiểu là Cai có sự trợ giúp của thuốc.

-     unconditioned abstinence: Ngược lại với trên, trạng thái cai không điều kiên,

                                                chủ yếu nhờ vào sự tự chống đỡ của cơ thể.

Cơ sở lý luận về điều trị cai nghiện bằng chất đối kháng ma tuý đã được thể hiện rõ bởi Martin và các đồng nghiệp (1966). Tóm lại, việc bệnh nhân ngoại trú tiếp tục duy trì trạng thái đã cai nghiện bằng một liều uống hàng ngày chất đối kháng ma tuý nhằm 2 mục đích: (a) loại bỏ động cơ, ham muốn tìm kiếm và sử dụng ma tuý; và (b) là dập tắt trạng thái thèm thuốc của cơ thể (kể cả lên cơn nghiện) do kiêng khem không dùng ma tuý – có thể coi tác dụng của thuốc như là một phản ứng với các tác động kích thích của môi trường xung quanh, với tác dụng đó thì khiến cho việc cai không điều kiện trước đây trở thành có điều kiện (Wikler, 1948; 1965). Không cần phải thêm gì khác, chỉ cần bệnh nhân ngoại trú duy trì dùng chất đối kháng để “hồi phục”, đồng thời trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết để có một nghề nghiệp có ích trong xã hội, hình thành những mối quan hệ mới với những người không nghiện ngập để trợ giúp lẫn nhau, cũng như khuyến khích họ từ bỏ những thói hư, tật xấu được coi là bất hợp pháp, những thứ đã bám rễ, ăn sâu vào họ trong thời gian họ nghiện ngập. Quá trình duy trì dùng đối kháng ma tuý này cũng có tác dụng trợ giúp đắc lực cho những đối tượng đã được cai bắt buộc (theo qui định của nhà tù, có hoặc không có giai đoạn quản chế) trong đó nó có cho phép người cai nghiện tiếp xúc với những yếu tố “có thể gây nghiện” trong môi trường xung quanh; bệnh nhân có thể được thử thách với cả những triệu chứng do cai có điều kiện gây ra, cách điều trị này không sợ ảnh hưởng xấu từ tác dụng dược lý của ma tuý gây ra. Kết quả là nếu bệnh nhân được thử thách đầy đủ thì các triệu chứng do cai nghiện có điều kiện gây ra sẽ được dập tắt thông qua những thử thách được lặp đi lặp lại.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc tiệt trừ các triệu chứng do cai có điều kiện gây ra và các hành vi tìm kiếm ma tuý là để giảm thiểu ở mức thấp nhất khả năng xảy ra tái  nghiện sau khi việc điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý của bệnh nhân ngoại trú kết thúc. Wikler (1974) đã đề xuất một chương trình “điều trị tích cực” thực hiện ngay khi bệnh nhân còn đang được điều trị cai nội trú trong bệnh viện, tiếp sau đó là điều trị ngoại trú bằng việc duy trì dùng chất đối kháng ma tuý. Dựa theo mô hình đã thí nghiệm trên động vật dùng để dập tắt các hành vi và phản ứng có điều kiện, một đề xuắt được đưa ra đối với nhóm bệnh nhân nội trú là: cho bệnh nhân đã cai và đã dùng chất đối kháng ma tuý được tiếp xúc với các điều kiện gây nghiện và tất nhiên cho thử thách với cả các triệu chứng do cai có điều kiên gây ra; thử cho đối tượng tiêm chích heroin vào người; hy vọng rằng, với tác dụng của chất đối kháng ma tuý thì ma tuý được tiêm chích này cũng mất tác dụng.
Các điều kiện gây nghiện ở đây có thể là dùng bộ tranh về heroin (Teasdale, 1973) hoặc cảnh bệnh nhân đã cai tự tiêm chích heroin trong điều kiện không bị cản trở. Sau khi hoàn thành giai đoạn cai tích cực nội trú với chất đối kháng ma tuý, bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị ngoại trú, hàng ngày uống thuốc đối kháng ma tuý. Giả định dưới các điều kiện khác nhau trong môi trường ngoại trú, bệnh nhân có thể dễ dẫn tới các hành vi tái nghiện thì trong điều kiện “tự nhiên” như vậy thì cuộc chiến chống lại ma tuý vẫn không hề ngưng nghỉ, vẫn được theo dõi thường xuyên, dù việc kiểm tra morphine qua nước tiểu không còn theo lịch như trước. Do vậy có đề xuất là nên duy trì tiếp tục dùng chất đối kháng ma tuý từ 10 tháng cho đến 01 năm (ngoài khoảng thời gian cai kéo dài là khoảng 30 tuần, Martin và Jasinski, 1969)  và nếu nước tiểu vẫn âm tính với morphine thì có thể cho dừng chất đối kháng ma tuý. Các triệu chứng do cai có điều kiện và hành vi tìm kiếm ma tuý được tiệt trừ và bệnh nhân được “phục hồi”, khả năng tái nghiện giảm xuống mức thấp nhất.


Thí nghiệm trên chuột cho thấy tác dụng của liều tiêm chích morphine vào tĩnh mạch có thể được loại bỏ bằng việc điều trị (đón) trước bằng Naloxone và sự xuất hiện của một tác động có điều kiện thấy trong không gian kín đã được Davis và Smith (1974) chứng minh. Có một số câu hỏi được đặt ra trong nghiên cứu này là liệu rằng việc giảm áp lực đòn bẩy (lever-pressing) đối với morphine không hẳn là do các điều kiện bất lợi mà là do cai, với mức độ như là lúc vừa được điều trị trước với Naloxone; mức áp lực đòn bẩy không thấy tăng trước khi nó giảm sút nhanh chóng. Naloxone có thể gây ra một hội chứng tiềm ẩn do cai khá nghiêm trọng, ở chuột dù chỉ tiêm một liều lượng rất nhỏ morphine là 60 mcg/kg, trong 3 ngày trước khi có điều trị trước với Naloxone. Tuy nhiên ở một số con chuột khác cũng tiêm tĩnh mạch morphine, việc cai hoàn toàn được hoàn thành bằng việc dùng dung dịch nước muối (saline) thay thế cho morphine trong phòng kín và có tác động có điều kiện; dưới các điều kiện này áp lực đòn bẩy cũng không tăng.
Tuy nhiên như đã dự báo từ trước, tiến hành cai tích cực trên người gặp một số khó khăn đặc biệt bởi con người có giác quan nhận thức, suy luận, cảm nhận được hành động và sự việc nên kể cả người thực hiện thí nghiệm cũng khó đoán trước được. Từ một số báo cáo chưa được công bố cho thấy là có 2 vấn đề chủ chốt ảnh hưởng việc cai bằng chất đối kháng trên bệnh nhân nội trú: (a) bệnh nhân từ chối việc tiêm chích heroin hay bất kỳ chất ma túy nào khác khi thấy có tác dụng với chất đối kháng, anh ta biết rằng không còn bị “lên cơn” nữa; và (b) bệnh nhân báo cáo rằng chất đối kháng ma tuý đã làm anh ta không còn thèm ma tuý nữa, hay chất đối kháng có tác dụng “bão hoà”.
Vấn đề là liệu tác dụng đối kháng trong chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng hết chưa, tác dụng “bão hoà” trên cơ quan cảm thụ (receptor) là rất quan trọng trên cả 2 mặt là thực tiễn và lý thuyết. Nếu loại giả dược tạo ra dư vị giống như Naltrexone thì thử nghiệm mù đôi trong đó có cho đối  tượng tiêm chích heroin hoặc hydromorphone có thể giải đáp được vấn đề này. Nếu đúng, thì tác dụng “gây bão hoà” của chất đối kháng ma tuý sẽ giúp xoá đi các triệu chứng
Ví dụ, một người nghiện được nhâp viện và được điều trị cai các độc tố gây nghiện (detoxified), sau đó

Phụ lục - kết luận tổng kết:
Nếu được chứng minh rằng chất đối kháng ma tuý có tác dụng “làm bão hoà” thì việc xoá đi các triệu chứng xảy ra do cai có điều kiện có thể diễn ra như sau: Cho nhập viện một nhóm người nghiện đã được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), cho họ ký bản hợp đồng thoả thuận (có mức thưởng tiền); cho ở nội trú trong bệnh viện ít nhất là một tháng, bất kể có cho họ được phép tiêm chích ma tuý hay không. Chưa sử dụng bất kỳ chất đối kháng ma tuý nào. Sau đó cho phép một số đối tượng tiêm chích heroin nhưng chưa cho dùng chất đối kháng ma tuý; trong khi đó số đối tượng khác không được phép tiêm chích bất cứ thứ gì. Khi xem lớp đàn anh đang tiêm chích nhưng lại không được phép làm như vậy tất nhiên sẽ gây cho người nghiện cảm giác “thèm muốn” và các dấu hiệu/ hay triệu chứng khác (có điều kiện- conditioned abstinence), cứ lập lại hàng ngày thì sẽ dần dần quen dần và cuối cùng là biến mất.
Sau đó nên cho các đối tượng này dùng liều kháng đầy đủ bằng Naltrexone và cho phép ngoại trú khi mà không còn hành vi tìm kiếm ma tuý; có thể là naltrexone được duy trì sử dụng hàng ngày và đối tượng vẫn “thèm” heroin hay các chất ma tuý khác. Lại tiếp nhận loạt bệnh nhân mới nhập viện, cho nội trú và lại lặp lại là cho phép tiêm chích nhưng không cho kháng ma tuý, trong khi đó thì nhóm đã được tiêm chích trước đó mà không dùng kháng (blockade) thì bây giờ được cai trừ độc tố nghiện (detoxified), thực hiện theo trình tự, cho ký hợp đồng khác nếu thấy cần thiết. Sau khi những đối tượng này chuyển sang ngoại trú, nhóm nội trú lại được hình thành tiếp. Về việc kiểm soát, thì một số đối tượng mà được cho phép tự tiêm chích heroin mà không dùng kháng thì có thể lại được điều trị trừ độc tố, rồi chuyển sang ngoại trú với việc dùng Naltrexone mà không cần trải qua trình tự điều trị tiêu trừ các triệu chứng do không dùng ma tuý gây nên.


NHỮNG HẠN CHÉ TRONG PHƯƠNG PHÁP CAI NGHIỆN
BẰNG CHẤT ĐỐI KHÁNG MA TUÝ
BS. Roger Meyer, Ths. Mary Randall, Cn. Cecily Barrington,                              (trang 123)
BS. Steven Mirin, TS. Isaac Greenberg

Trong một nghiên cứu vào năm 1966, Martin đã đưa ra việc sử dụng Cyclazocine trong điều trị dài ngày cho người nghiện heroin. (1) Wikler đã đưa ra một chương trình về hành vi có ảnh hưởng tích cực trên bệnh nhân đang điều trị cai nghiện với chất đối kháng ma tuý, làm tiêu tan các triệu chứng do cai nhịn thuốc (đói ma tuýconditioned abstinence) và triệu chứng do vẫn dùng ma tuý. (2) Khi chất đối kháng ma tuý đã được sử dụng một vài năm, thực hiện trên người bệnh vẫn hoạt động, đi lại; thì phác đồ của Wikler vẫn là phương pháp duy nhất trong điều trị bằng đối kháng ma tuý mà một mặt là hoàn toàn dựa trên cơ sở dữ liệu từ thực nghiệm trong Labô thí nghiệm, và mặt khác là dùng các đặc tính đặc biệt của chất đối kháng. Phác đồ của Wikler dựa trên khái niệm cho rằng các kích thích mà trước đó đi đôi với các triệu chứng do cai nhịn thuốc không điều kiện (unconditioned abstinence symptoms) cũng sẽ khơi gợi hiện tượng như trong hội chứng cai (abstinence syndrome) ở trên người đã từng nghiện ma tuý. Theo đó, những người này có thể bị tái nghiện do bị tác động từ các yếu tố từ môi trường xung quanh giống như ở trên. (3) Wikler đưa ra rằng với sự hiện diện của các yếu tố kích thích liên quan đó, thì người nghiện được điều trị với chất đối kháng ma tuý vẫn luôn phải có bản lĩnh trước ma tuý, cần dập tắt ngay hành vi sử dụng ma tuý. (2) Do đặc tính trung tâm của giả thiết cai nghiện dùng chất đối kháng ma tuý nên cần phải xem xét, đánh giá các số liệu gần đây, đây là việc quan trọng.và có thể tác động làm thay đổi phác đồ điều trị bằng chất đối kháng ma tuý này.
Khi định nghĩa trạng thái “tiệt trừ” (extinction), các nhà tâm lý học thực nghiệm (mà theo cá nhân tôi) có vẻ vẫn còn chưa đưa ra rõ ràng. (4) Một cái đơn giản nhất là việc tiệt trừ hành vi tìm kiếm thức ăn ở những con vật đang đói bụng, nó liên quan đến các yếu tố sau: 1) do những kích thích có sẵn trong môi trường, hình ảnh thức ăn phơi bày đã tạo ra cảm giác thèm ăn, và 2) các điều kiện có thể làm nảy sinh cảm giác thèm ăn (về hành vi/ behavior) nhưng động lực thúc đẩy (reinforcement) lại không xảy ra. Kết quả của điều kiện này là hành vi ban đầu đó (sự thèm thuồng) sẽ ngày càog lớn dần lên trước khi nó chấm dứt; ngưỡng hành vi bực tức giàm đi và tất nhiên làm cho hành vi này (sự bực tức) có khả năng tăng hơn.
Ở những con vật nghiện ở thể cho tự dùng ma tuý, hành vi tìm kiếm ma túy được dập tắt nếu cho thay dùng morphine bằng dung dịch muối. (5) nếu cho con vật nghiện dùng liều naloxone mức thấp, thì thấy hành vi tìm kiếm ma tuý của nó có tăng lên, giả sử trong trường hợp phản ứng lại với trạng thái khi cai nhịn ma tuý. (6) hành vi như vậy bị tiêu trừ khi có dùng liều chặn cao bằng Naloxone, do không thể giảm bớt triệu chứng do cai nhịn thuốc. (6) việc tiệt trừ biểu lộ phản ứng ở những con vật nghiện ma tuý có thể xảy ra. Cũng thấy rõ là hành vi có thể được tái lập lại dưới các điều kiện có mặt của các tác nhân kích thích.
Việc tiệt trừ các phản ứng tự phát ở thể có điều kiện xảy ra khi có một kích thích loại có điều kiện được lặp đi lặp lại mà lại không có tác động của loại kích thích không điều kiện. Theo đó, phản ứng tự phát sẽ không còn xảy ra đối với các kích thích có điều kiện. Do vậy, Goldberg và Schuster đã quan sát quá trình tiêu trừ nhanh chóng các phản ứng do cai nhịn có điều kiện (có quan hệ với ánh sáng đỏ - red light). (7) Ngược lại, các kích thích có quan hệ với việc làm gia tăng hành vi đến với ma tuý (v.d. một ánh sáng đỏ có mặt cùng với mỗi lần tiêm chích ma tuý) thì đòi hỏi cần có một số đặc tính bổ sung được duy trì cho đến 19 ngày sau khi cai hoàn toàn với ma tuý. (8) Giống như ánh sáng đỏ trong thực nghiệm của Goldberg và Schuster, một số kích thích cụ thể có thể đi đôi (theo mô hình điều kiện cũ) với những lúc cai không dùng ma tuý hoặc những lúc dùng thuốc đối kháng ma tuý, được thực hiện trên con vật nghiện (cai nhịn có điều kiện). Một số kích thích cụ thể khác cũng có thể có quan hệ với đặc tính gây nghiện của thuốc ma tuý, như đã được trình bày bởi Goldberg, Schuster, và Woods (8) và bởi một số người khác. Trong các thực nghiệm của Smith và David (9), các con chuột sẽ tiến tới, hay chúng bị đánh thức tỉnh bởi những âm thanh mà những âm thanh này trước đó có sự đi kèm với việc dùng ma tuý. Tóm lại, các con vật sẽ bị khơi dậy đến với ma tuý bởi những yếu tố kích thích trong môi trường xung quanh, những yếu tố mà trước đó chúng đã biết là có kèm với ma tuý.

Trong điều kiện có các yếu tố kích thích mà không liên quan đến ma tuý, thì người đã từng nghiện cũng sẽ không có xu hướng đến với ma tuý (ví dụ, người dùng heroin Việt nam quay trở lại Hoa Kỳ). Ngược lại, dưới các điều kiện kích thích có liên quan đến ma tuý – hình ảnh về việc sử dụng ma tuý trước đây, thì hoàn toàn có thể dẫn tới tái nghiện. Như Wikler đã chỉ ra rằng, sự tiệt trừ (extinction) sẽ không xảy ra ở những nơi mà trước kia không can hệ gì tới việc sử dụng ma tuý như là nhà tù và những nơi không ma tuý khác (gọi là dưới điều kiện không có ma tuý). (3) Vấn đề mấu chốt mà chúng tôi đang cố gắng xác định qua 3 năm thử nghiệm chất đối kháng ma tuý trên động vật và trên người là liệu rằng hành vi được quan sát dưới tác dụng của chất đối kháng ma tuý có phù hợp với những khái niệm về tiêu trừ trong các điều kiện như đã nói ở trên, hay nó phù hợp với các giải thích khác (ví dụ, về sự no nê bão hoà, trong điều kiện trái ngược, hoặc cả khuynh hướng phân biệt. (10, 11, 12, 13) Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng không chỉ về cách tiếp cận của chương trình điều trị với cá nhân bệnh nhân, mà nó còn quan trọng về mặt xác định độ dài tối ưu trong điều trị với chất đối kháng ma tuý và cả cách dùng. Nó cũng có thể mang cả ý nghĩa về khả năng hiệu quả của phương thuốc.
Các phương pháp:
Các phương pháp được áp dụng trong công tác của chúng tôi đã được trình bày kỹ tại các hội nghị trước đây của tổ chức và lần này sẽ lại được trình bày ở phần sau. Cơ bản thì việc sử dụng heroin dưới các điều kiện có cản trở/kháng đã được quan sát theo dõi tại khu vực nghiên cứu trong thời gian được 10 ngày. Thuốc kháng ma tuý đã được dùng (1) dưới các điều kiện không che dấu (nonblind) khi mà tất cả các đối tượng đã trải qua kháng ma tuý sau một giai đoạn là 10 ngày có dùng heroin không bị cản trở, vẫn ở trong cùng khu vực, (2) dưới các điều kiện không che dấu, các đối tượng không trải qua giai đoạn có dùng heroin không bị cản trở trước giai đoạn kháng với naltrexone, và (3) dưới các điều kiện mù đôi, các đối tượng sẽ nhận thuốc naltrexone hoặc loại giả dược naltrexone. Ở điều kiện sau, các đối tượng bị cản trở có mặt tại khu nghiên cứu cùng lúc với các đối tượng không bị cản trở, nhận heroin. Trong mô hình ở phần sau, việc kết hợp bệnh nhân trong khoa tại bất kỳ thời điểm có thể gồm nhóm không đồng nhất (một, hai, hoặc 3 bệnh nhân cho dùng naltrexone, cùng với 3, 2 hoặc 01 bệnh nhân dùng giả dược) hoặc nhóm đồng nhất (tất cả bệnh nhân đều dùng naltrexone). Dữ liệu được ghi nhận trên 31 đối tượng là những người đã trải qua giai đoạn kháng ma tuý tại cơ sở và được phát dùng naltrexone trong giai đoạn tiếp theo sau điều trị*. Những bệnh nhân này có trung bình là 7,6 năm dùng heroin (trong phạm vi là 4 đến 20), do vậy việc điều trị có trung bình là 5,5 lần với trước đây (phạm vi 2-25).
Thủ tục ký cam kết đã từng được trình bày bao quát và sẽ được nói thêm ở phần cuối của báo cáo này.
Kháng ma tuý: chỉ trừ 2 bệnh nhân, còn lại trên tất cả bệnh nhân thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống hàng ngày 50 hoặc 70 mg chất Naltrexone. Trong các nghiên cứu mù đôi, thì sử dụng một lượng tương ứng nước xi-rô để làm giả dược. Còn trong nghiên cứu ban đầu, liên quan đến 2 bệnh nhân dưới các điều kiện kháng, thì việc kháng ma tuý được thực hiện bằng việc uống Naloxone 500 mg với 4 lần/ngày.
Naltrexone được phân phát cho người bệnh ở giai đoạn điều trị tiếp theo là tại các nhà thuốc trong khu vực. Trong 14 tháng tiếp theo đó, mỗi lần sử dụng naltrexone tại nhà thuốc, bệnh nhân được phát thưởng 1$. Cứ 7 ngày sử dụng naltrexone, 5$ được giải ngân cho bệnh viện mà bệnh nhân chọn đến điều trị hàng tháng.
Các bệnh nhân đều được các y tá điều dưỡng giám sát 30 phút sau khi uống thuốc kháng ma tuý để đảm bảo là thuốc đã ngấm và không bị nôn mất. Đối với bệnh nhân ngoại trú thì sẽ được giám sát bởi các dược sĩ.

Việc sử dụng heroin: Heroin được sử dụng theo đường tĩnh mạch dưới sự giám sát về y tế; luôn cho phép các đối tượng được lựa chọn là tự nguyện không dùng ma tuý dù có sẵn. Lịch dùng ma tuý cho phép bệnh nhân dùng đến 6mg vào ngày 1 và 60mg vào ngày 10 với mức tăng là 6mg mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 10. Liều cho phép 2 giờ tăng từ 0,5mg ở ngày 1 lên mức 5mg vào ngày 10; nếu chờ 4 tiếng giữa các liều thì đối tượng có thể cho gấp đôi liều 2 tiếng; nếu chờ 6 tiếng thì có thể gấp 3. Sau 6 tiếng thì không cho tăng luỹ tiến nữa. Nhóm dùng ma tuý được tính tích điểm, và điểm số có thể dùng để trao đổi với ma tuý trong những trường hợp cụ thể.
Đánh giá về tâm trạng và mức khao khát với ma tuý: đối tượng được ghi nhận lại về mức độ thèm muốn ma tuý theo các mức được tính trên thước 100mm. Trên thước này đối tượng ghi lại mức “thèm heroin” (từ cao nhất đến thấp nhất), thực hiện hàng ngày như là ghi điểm xuốt thời gian của chương trình nghiên cứu, trước và sau mỗi lần sử dụng heroin. Như đã trình bày, việc thèm ma tuý có quan hệ mật thiết với hành vi sử dụng thực sự các chất ma tuý dưới các điều kiện là bị cản trở hay không bị cản trở. Mạch, huyết áp, nhịp hô hấp và nhiệt độ được ghi lại hàng ngày (vào 8 giờ sáng), tại trước và sau khi dùng heroin. Kích thước đồng tử cũng được ghi lại trước và sau lần sử dụng đầu tiên trong ngày. Thiết bị đánh giá tâm trạng bệnh nhân – Osgood Semantic Differential Mood Self-report được sử dụng hàng ngày để đánh giá (vào 8 giờ sáng), và tại lúc trước và sau mỗi lần tiêm chích heroin.
Mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin có bị cản trở và các yếu tố nhân khẩu học và yếu tố thực nghiệm: Việc sử dụng heroin thực sự dưới các điều kiện có bị cản trở được nghiên cứu, xem như là một chức năng của các yếu tố về nhân khẩu học và thực nghiệm. Tổng số lần sử dụng, tần suất sử dụng và khối lượng heroin đã sử dụng thực sự dưới các điệu kiện có bị cản trở được sử dụng làm số liệu trong phân tích. Tuổi tác, số năm dùng heroin, tuổi bắt đầu sử dụng, số lần điều trị và số tháng ở trong tù kể từ khi bắt đầu dùng heroin đểu sử dụng làm các thông số về nhân khẩu học để xác định ảnh hưởng cuả tuổi tác, thời gian nghiện... Các điều kiện được dùng trong khu vực tiến hành nghiên cứu bao gồm: Thí nghiệm với thuốc Naltrexone theo phương pháp mù hoặc không mù (không cần che dấu), kinh nghiệm về kháng ma tuý đi kèm hoặc không đi kèm với kinh nghiệm trước đó về sử dụng heroin trong điều kiện có bị cản trở tại khu vực nghiên cứu điều trị, số đối tượng trong từng nghiên cứu, lấy mẫu đồng nhất đối chiếu với nhóm mẫu không đồng nhất.
Số liệu tiếp theo: Do mối quan hệ định đề giữa trạng thái “tiệt trừ” do cai và kết quả dài hạn trong cộng đồng sử dụng chất đối kháng nên dữ liệu cũng được đánh giá một cách tương đối với kết quả của những bệnh nhân đã trải qua kháng ma tuý trong khu nghiên cứu (cụ thể là liên hệ kết quả trong cộng đồng với tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở). Chúng tôi cũng so sánh kết quả của những bệnh nhân chỉ trải qua phần sử dụng heroin trong điều kiện không bị cản trở với những người trải qua giai đoạn kháng bằng việc dùng Naltrexone. Chúng tôi cũng so sánh kết quả ban đầu và kết quả dài hạn trong các nghiên cứu mù đôi và không mù mà trong đó có sử dụng naltrexone trong cộng đồng, có hoặc không có kèm theo khoản thưởng 1$ mỗi ngày.

Cuối cùng, dữ liệu được thảo luận có sự liên hệ với dữ liệu của các nghiên cứu trên động vật đã được thực hiện phối hợp với TS. Joseph Cochin và Gilbert Carnathan tại Khoa Dược, Đại học Boston.
Các kết quả:
Bảng 1 trình bày các điều kiện có trong thí nghiệm của nghiên cứu mù đôi và không mù. Lượng heroin và số lần sử dụng dưới các điều kiện này được so sánh. Tần suất sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở (blocked conditions) có tương quan tích cực với số năm được báo cáo là có sử dụng heroin (Spearman r = 0.45, p = < .01) và tương quan tiêu cực với độ tuổi bắt đầu sử dụng heroin (r = -0.33, p < .05) (nghĩa là tuổi bắt đầu dùng heroin càng trẻ thì càng có khả năng có tần suất cao hơn). Các yếu tố về nhân khẩu học khác (số tháng trong tù và số lần đã điều trị trước đây) không cho thấy có bất cứ mối quan hệ với tần suất sử dụng dưới các điều kiện có bị cản trở ở trong khu điều trị. Kiểm tra ban đầu với phương pháp Mann-Whitney U test để đánh giá ảnh hưởng của độ lớn của nhóm, tính đồng nhất của nhóm thử, các điều kiện có trong nghiên cứu mù đôi đối lập với những điều kiện có trong nghiên cứu thường khác với sự có mặt của chất đối kháng ma tuý. Không có yếu tố nào trong số này được dùng để phân biệt các tỷ lệ sử dụng heroin dưới các điều kiện có bị cản trở. Thực ra thì các đối tượng có thâm niên nghiện lâu hơn (7-20 năm) sử dụng heroin nhiều hơn so với nhóm có thâm niên nghiện ít hơn (4-6 năm). Hình 1, 2 và 3 minh hoạ chiều hướng sử dụng heroin của 3 đối tượng có thâm niên ít hơn và các Hình 4,5 và 6 minh hoạ cho 3 đối tượng có thâm niên nghiện dài hơn.
Theo phương pháp của nghiên cứu mù đôi, một số bệnh nhân trải qua phần kháng ma tuý theo nhóm mà trong đó không có đối tượng bị cản trở, đồng thời một số đối tượng khác lại trải qua phần kháng với sự có mặt của các đối tượng vẫn đang “lên cơn nghiện”. Trong nghiên cứu này mới chỉ có 3 đối tượng trải qua kháng ma tuý trong điều kiện là trong nhóm có cả các đối tượng vẫn đang sử dụng heroin. Bảng II trình bày số liệu kết quả. Sự khác nhau giữa các nhóm chưa có ý nghĩa về mặt thống kê bởi số lượng đối tượng trong nghiên cứu không nhiều. Ngoài ra, hai trong số ba đối tượng trong nghiên cứu này có thâm niên sử dụng heroin trên 7 năm.

Quan hệ giữa việc cản trở/kháng (blockade) trong khu vực điều trị và việc sử dụng Naltrexone tại cộng đồng:
Cuối cùng, chúng tôi đã thực hiện kiểm tra mối quan hệ giữa việc sử dụng heroin dưới các điều kiện cản trở/kháng trong khu nghiên cứu và động lực tự giác dùng thuốc Naltrexone tại cộng đồng, ít nhất là một ngày sau khi xuất viện. Thấy không có mối quan hệ nào giữa việc sử dụng thuốc kháng tại cộng đồng và tần suất sử dụng dưới các điều kiện kháng trong khu nghiên cứu. Cũng không có sự khác biệt về mặt thống kê trong kết quả giữa nhóm dùng giả dược trong nghiên cứu (và có “lên cơn” đói heroin) và nhóm dùng thuốc kháng ma tuý. Do vậy, sự có mặt của các cá nhân vẫn lên cơn dùng ma tuý không có ảnh hưởng mấy tới việc sử dụng naltrexone tại cộng đồng. Qua một thời gian là 3 năm, có 83 bệnh nhân tham gia vào chương trình nghiên cứu (loại 4 giường),*. có 49 người đủ tiêu chuẩn để đưa tiếp vào giai đoạn sử dụng Naltrexone tại cộng đồng. Trong 49 người đủ tiêu chuẩn điều trị ngoại trú này thì chỉ có 40 người là đã sử dung thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Trong các nghiên cứu không mù đôi (non-double-blind studies) (Nhóm 1- Group 1), 21 đối tượng đã tham dự và có 10 đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng;**  trong các nghiên cứu mù đôi trước giai đoạn có thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 2), có 30 bệnh nhân tham gia và có 15 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone; trong khi tại các nghiên cứu mù đôi sau khi chúng tôi tiến hành việc thưởng tiền khi dùng Naltrexone tại cộng đồng (Nhóm 3), có 32 bệnh nhân tham gia và có 23 người đủ tiêu chuẩn dùng Naltrexone tại cộng đồng. (Bảng III). Toàn bộ 10 đối tượng trong Nhóm 1 đã sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng trong khi chỉ 5 trong số 15 và 19 người trong số 23 của các nhóm còn lại là có sử dụng thực sự Naltrexone tại cộng đồng. Xác định theo thang Chi-square cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa quan trọng về mặt thống kê trong việc sử dụng thực sự Naltrexone của các đối tượng trong các Nhóm 1 và 3 so sánh với Nhóm 2.
Kiểm tra theo T-test được thực hiện để so sánh việc sử dụng Naltrexone dài ngày của các bệnh nhân thuộc 3 nhóm, là những người đã sử dụng Naltrexone thực sự tại cộng đồng. Việc sử dụng Naltrexone trung bình tại các thời điểm là một tháng, ba tháng và sáu tháng của 3 nhóm được so sánh với nhau. Xu hướng là bệnh nhân trong Nhóm 1 (p = < 0.1) sử dụng Naltrexone tại cộng đồng lâu hơn bệnh nhân trong Nhóm 2 và 3. Không có sự khác biệt về việc sử dụng Naltrexone trong 3 nhóm tại thời điểm khoảng tháng thứ 6. Trong 10 bệnh nhân vẫn duy trì Naltrexone được trên 90 ngày, thì 7 người tái nghiện sau khi dừng sử dụng Naltrexone, 2 người vẫn duy trì không ma tuý, và một người vẫn tiếp tục theo dùng Naltrexone và tham gia phần tư vấn cá nhân. Cả hai bệnh nhân sau khi ngưng sử dụng Naltrexone vẫn duy trì được trạng thái không ma tuý đã thay dổi chỗ ở và có được việc làm ổn định. Trong 7 người tái nghiện sau khi ngưng sử dụng Naltrexone thì chỉ trừ có một người, thì còn lại đều không còn việc làm tại thời điểm tái nghiện. 6 bệnh nhân sử dụng Naltrexone tại cộng đồng được từ 60 đến 90 ngày thì chỉ trừ có một trường hợp còn toàn bộ bị tái nghiện. Ngoại lệ đơn lẻ vẫn duy trì có việc làm sau khi tái nghiện gồm một trường hợp và thêm một trường hợp khác thì đã sang một bang khác để chốn khỏi sự truy nã. Chúng tôi không có thông tin thêm về trường hợp này. 6 bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được từ 30 đến 60 ngày và 4 trong đó đã tái nghiện sau khi dừng không dùng Naltrexone, 2 người còn lại hiện vẫn đang theo điều trị. 18 bệnh nhân đã sử dungj Naltrexone được từ 0 đến 30 ngày (tại ngày 30/4), 3 bệnh nhân vẫn đang duy trì sử dụng Naltrexone theo chương trình điều trị. Số còn lại đều tái nghiện. Việc tái nghiện của rất nhiều người bệnh, chúng tôi không cho là một kết quả tồi tệ không thể tránh khỏi bởi cũng có khá nhiều người sau khi tái nghiện đã quay trở lại điều trị với liều duy trì Methadone, tham gia nhóm trợ giúp, và một số là dùng Naltrexone.


Quan hệ giữa Thông tin cá nhân, các điều kiện trong thí nghiệm và Kết quả:
Bệnh nhân khi đựơc nhập viện đều phải điền vào các mục về nhân khẩu học theo mẫu (của Đại học Cơ đốc Texas – TCU, Viện Nghiên cứu Hành vi, Hồ sơ trong chương trình cai nghiện), những thông tin này được dùng để phân tích. Sử dụng giải pháp của Varimax về luân phiên trực giao, tính các mục bằng cách lấy trung bình của các mục có kết quả từ 0.40 trở lên sau khi các mục đã được chuyển đổi sang T-score chuẩn. Có 7 yếu tố được lấy. Có 3 nhóm kết quả được đem so sánh là: bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn nhưng thất bại với dùng Naltrexone; bệnh nhân sử dụng Naltrexone từ 1 – 30 ngày; và bệnh nhân đã sử dụng Naltrexone được trên 30 ngày. Phân tích theo 2 chiều về sự khác nhau đã so sánh bệnh nhân của 3 nhóm đối với 7 yếu tố. 2 yếu tố liên quan đến kết quả với Naltrexone. Những bệnh nhân bắt đầu sử dụng ma tuý khi còn ít tuổi, cũng bị bắt giữ khi còn ít tuổi, đã tham gia một số chương trình điều trị, không được nuôi dưỡng bởi cả bố và mẹ cho đến năm 12 tuổi, có xu hướng xấu hơn (F = 4.59, p < .015). Ngoải ra, nhóm bệnh nhân có mẹ (F = 1.631, p < .210) và có bố (F = 1.776, p < .184) có trình độ văn hoá thấp lại có xu hướng tốt hơn khi sử dụng Naltrexone. Phân tích theo thang chi-square của các thông số/ mục về nhân khẩu học của cá nhân đã được điều trị đã xác nhận các mối quan hệ đó. Ngoài ra, các bệnh nhân sống cùng vợ/chồng, cha mẹ hoặc người thân cũng có xu hướng tốt hơn nhóm chỉ sống với bạn bè, sống một mình, hoặc không ổn định. (Chi-square = 13.583, p < .194). Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu mù đôi với việc sử dụng Naltrexon tại cộng đồng mà không được tiền thưởng (1$ /ngày) cũng kém hơn đáng kể so với nhóm trong nghiên cứu thường (không mù/nonblind) hoặc nhóm trong nghiên cứu mù đôi, sử dụng Naltrexone tại cộng đồng có thưởng (Chi-square = 21.592, p < .002).
Tóm lại chúng tôi có thể nói rằng việc thách thức đối với kháng ma tuý tại cộng đồng là không phổ biến. Nếu trường hợp này xảy ra thì bệnh nhân làm như vậy bởi họ cho rằng tác dụng của thuốc kháng ma tuý đã hết. Xen kẽ với đó là việc bệnh nhân báo cáo cho rằng họ gặp phải những tác nhân kích thích và dùng Naltrexone để tăng cường quyết tâm cai trừ ma tuý.

Thảo luận:
Thủ tục ký thoả thuận đồng ý:
Thoả thuận đồng ý của người nghiện heroin với chương trình nghiên cứu đôi khi có liên quan đến việc sử dụng heroin là một vấn đề cần xem xét cẩn thận. Ngoài những nghiên cứu về con người do uỷ ban xem xét, thì dự án này cũng được nghiên cứu cẩn thận bởi một nhóm người từ Ban kế hoạch phòng chống nghiện ma tuý của Thống đốc bang Massachusett và nhân viên của Bộ y tế chuyên quản khu vực. Ở mức liên bang thì các uỷ ban của Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm và Viện sức khoẻ tâm thần quốc gia xem xét các thủ tục liên quan đến đạo đức và tính nhân văn cũng như các vấn đề về lợi ích và rủi ro đối với đối tượng.
Toàn bộ bệnh nhân được nhập viện từ các cơ sở phục hồi cai nghiện ở Massechusett hoặc qua giới thiệu của các bệnh nhân cũ. Trước khi được chấp nhận vào chương trình, từng người được kiểm tra về thể chất và tâm thần. Bệnh nhân đều được hướng dẫn đến các cơ sở khác để cai trừ độc tố nghiện (detoxification) nội trú hoặc ngoại trú trước khi tham gia vào chương trình nghiên cứu này và trước khi tham gia họ được phát một cuốn sổ tay bệnh nhân từ 8 đến 10 trang. Họ cũng được dẫn đi tham quan khu vực nghiên cứu và Bệnh viện McLean, được có cơ hội trò chuyện với các bệnh nhân.
Vào ngày nhập viện, bệnh nhân được phỏng vấn bởi một luật sư (cũng là một thành viên trong Uỷ ban nghiên cứu về con người của bệnh viện); sau khi nhận thấy bệnh nhân đã thông báo và hiểu đầy đủ về bản chất của dự án, họ ký vào bản cam kết đồng ý. Không tiếp nhận bệnh nhận bệnh nhân từ các cơ quan thi hành án, tất cả bệnh nhân đều là tự nguyện, được tự do quyết định dời khỏi dự án vào bất cứ lúc nào. Mỗi người có thể nhận được một khoản lên đến 700$ khi tham gia vào chương trình. Trường hợp nếu họ bỏ dở thì vẫn được phép giữa khoản tiền đã nhận.

Các lập luận về điều trị bằng chất đối kháng ma tuý thường tập trung chủ yếu vào các yếu tố điều kiện gây nghiện. Wikler là người tiên phong (năm 1948), với các thực nghiệm và quan sát trên lâm sàng của mình đã gây nhiều chú ý và quan tâm trong lĩnh vực này. Hiện nay thì thuốc đã có sẵn và xem ra phù hợp với các tiêu chuẩn đối với một thuốc đối kháng được phép sử dụng trên lâm sàng, vậy chúng ta tiếp tục ứng dụng cơ sở lý luận này như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta phải kiểm chứng lại một số yếu tố điều kiện gây nghiện ma tuý ở người. Ở đây thì những nghiên cứu trên động vật không có giá trị (xem Wikler, 1973 để thấy một tổng kết toàn diện), những yếu tố về nhận thức tạo ra sự ngoại suy trực tiếp với các tình huống trên lâm sàng rất khó khăn này.

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 1

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 1

VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS
Tài liệu dành cho Giảng Viên
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY

Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?
2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt

Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết

LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID. Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.

TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
CHƯƠNG 1 ĐỊNH HƯỚNG CHO GIẢNG VIÊN
Giới thiệu
Khóa tập huấn này được thiết kế nhằm mục đích trang bị cho các nhân viên đang và sẽ làm việc trong lĩnh vực tư vấn điều trị nghiện ma túy những kiến thức, kĩ năng tư vấn cơ bản, và các kĩ thuật cần thiết để giúp những người đang sử dụng ma túy hoặc đang phục hồi sau cai nghiện giảm các nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy, thông qua việc giảm các hành vi nguy cơ, và giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy.
Cơ sở phát triển tài liệu
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, số người sử dụng ma túy cần được can thiệp giảm nguy cơ và dự phòng tái nghiện được dự báo sẽ tăng từ 160,226 trong năm 2006 lên đến 268,712 vào năm 2012. Bên cạnh đó, tỉ lệ tái nghiện là rất cao, với 90% số người sau cai trở về từ các trung tâm cai nghiện tái sử dụng ma túy trong vòng một năm, nếu như không nhận được dịch vụ tư vấn hay hỗ trợ xã hội nào. Từ tháng 7 năm 2005, với sự hỗ trợ của USAID/PEPFAR, FHI Việt Nam đã phối hợp cùng với Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Trường đại học Adelaide, Australia tổ chức các khóa tập huấn về tư vấn điều trị nghiện ma túy cho các tư vấn viên tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu, chương trình hướng tới các tư vấn viên làm việc trong chương trình thí điểm dành cho người hồi gia tại thành phố Hồ Chí Minh, chương trình hỗ trợ người sau cai tại Hà Nội và chương trình thí điểm điều trị nghiện bằng Methadone tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh. Những tư vấn viên đã qua đào tạo này đã góp phần bổ sung nhân lực cho một lĩnh vực chưa từng được quan tâm trước đây ở Việt Nam. Một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc mở rộng chương trình tư vấn và điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng chính là thiếu hụt lực lượng cán bộ có đủ kĩ năng và sự tự tin. Nhiều nhân viên làm việc tại thực địa yêu cầu phải có những kiến thức thực tế và dễ hiểu về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Trước đây, không có bất cứ tài liệu đào tạo hay sách chuyên ngành nào bằng tiếng Việt về lĩnh vực này để hỗ trợ cho các tư vấn viên. Sau khi tổ chức thành công năm khóa tập huấn và ba khóa đào tạo giảng viên về tư vấn điều trị nghiện ma túy, FHI Việt Nam đã phối hợp với TS. Robert Ali xây dựng giáo trình đào tạo cơ bản cho giảng viên về Tư vấn điều trị nghiện ma túy, nhằm mục đích đưa ra được một bộ tài liệu giảng dạy có chất lượng cao và dễ thực hiện để hỗ trợ quá trình đào xây dựng đội ngũ nhân viên tư vấn có trình độ chuyên môn tốt. Nhu cầu về dịch vụ tư vấn trong các chương trình can thiệp điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng và trong các trung tâm đều rất lớn. Sự có mặt của chương trình thí điểm điều trị lồng ghép bằng methadone tại Việt Nam (từ tháng 4/2008) là một bước hết sức quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn chất lượng tốt cho bệnh nhân và gia đình họ. Đây cũng là một cơ hội để thay đổi quan niệm trong tư vấn, từ việc “chỉ bảo và cho lời khuyên” sang một cách tiếp cận mới, đó là tư vấn nhận thức hành vi dựa trên bằng chứng. Hiện có nhu cầu rất lớn về tư vấn điều trị nghiện ma túy và can thiệp dự phòng tái nghiện tại cả Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên các trung tâm và cơ sở điều trị tại cộng đồng cho người sử dụng ma túy, người sau cai và gia đình họ. Giáo trình này được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm đã thành công trên thế giới và được chuyển tải để phù hợp với hoàn cảnh và nền văn hóa Việt Nam. Giáo trình này cũng bao gồm các ví dụ, các nghiên cứu trường hợp và kinh nghiệm giảng dạy từ 5 khóa tập huấn đầu tiên cho các tư vấn viên tại Việt Nam. Tài liệu giảng dạy này dùng để tập huấn các tư vấn viên điều trị nghiện ma túy làm việc tại các cơ sở/dịch vụ khác nhau, bao gồm:
i. Tư vấn viên đang làm việc tại các cơ sở Điều trị duy trì bằng Methadone ngoại trú
ii. Tư vấn viên điều trị nghiện ma túy làm việc tại chương trình hồi gia hỗ trợ người sau cai và người trở về từ các trung tâm 06
iii. Tư vấn viên làm việc tại các câu lạc bộ (theo mô hình can thiệp trong nhóm người tiêm chích ma túy lồng ghép với dịch vụ tư vấn) để hỗ trợ các khách hàng đang sử dụng ma túy thông qua các biện pháp giảm nguy cơ, và người sau cai tại cộng đồng
iv. Tư vấn viên đang làm việc tại các trung tâm 06 và các cơ sở điều trị cai nghiện của nhà nước và tư nhân.
Chúng ta đều biết rằng bản thân “can thiệp tư vấn” ít khi có hiệu quả nếu như được thực hiện đơn lẻ. Các can thiệp này cần được hỗ trợ bởi: gia đình, lãnh đạo địa phương, bạn bè, giáo viên, chủ cơ sở lao động … Giáo dục viên đồng đẳng và tư vấn viên có thể hỗ trợ rất nhiều cho thanh thiếu niên khi họ cố gắng giảm bớt những nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy và/hoặc cố gắng không tái nghiện.
Giáo trình này nhằm cung cấp cho người sử dụng những hướng dẫn chi tiết về các nguyên tắc tư vấn cơ bản, các kĩ năng tư vấn chính, dự phòng tái nghiện và giám sát hỗ trợ. Tài liệu có sử dụng các ví dụ phù hợp, những nguồn tài liệu sẵn có từ internet và các biểu mẫu. Đây KHÔNG phải là sách giáo khoa về tư vấn và cũng không thể thay thế được các khóa tập huấn trực tiếp về tư vấn. Hi vọng rằng các kĩ thuật tư vấn được minh họa trong tài liệu này sẽ giúp hỗ trợ được cả những người đã sẵn sàng và/ hoặc mong muốn giải quyết những vấn đề gây ra do việc sử dụng ma túy của họ.
Ngoài những tài liệu có được từ các khóa đào tạo của TS. Robert Ali, giáo trình này có sử dụng từ những nguồn tài liệu sau:
1. Bộ tài liệu hướng dẫn cải thiện chất lượng điều trị. Cục Quản lí lạm dụng chất gây nghiện và Dịch vụ sức khỏe tâm thần (SAMSHA)/Trung tâm Điều trị lạm dụng chất gây nghiện (CSAT). http://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/bv.fcgi?rid=hstat5. part.22441
2. Howard, J. (2006). Bộ công cụ nâng cao năng lực Điều trị tại cộng đồng và Chăm sóc liên tục cho thanh thiếu niên sử dụng ma túy tại tiểu vùng sông Mekong. Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp Quốc.
3. Jarvis, T., Tebutt, J., Mattick, R và Shand, F. (2005). Các phương pháp điều trị lệ thuộc ma túy và rượu: Hướng dẫn cơ bản. Tái bản lần 2, John Wiley & Sons Ltd., Chichester, England.
4. Mason, P. (1997). Tôn trọng sự lựa chọn: Phỏng vấn tạo động lực ngắn gọn. Trung tâm Quốc gia Giáo dục và Đào tạo về nghiện (NCETA), Đại học Flinders, Adelaide, Australia.
5. McDonald, J., Roche, A.M., Durbridge, M. & Skinner, N. (2003). Giáo dục đồng đẳng: Từ bằng chứng đến thực hành. Nhập môn về rượu và các chất gây nghiện khác. Trung tâm Quốc gia Giáo dục và Đào tạo về nghiện (NCETA), Đại học Flinders, Adelaide, Australia.
6. Miller, W. & Rollnick, S. (1991). “Phỏng vấn tạo động lực” để dẫn đến thay đổi hành vi nghiện. The Guilford Press, New York, tr. 56–62.
7. Squires, D.D & Moyers, T.B. “Phỏng vấn tạo động lực”: Hướng dẫn xây dựng cho Dự án Quản lí phục hồi hành vi sức khỏe. Đại học New Mexico, Trung tâm về nghiện rượu, sử dụng và nghiện các chất gây nghiện, Albuquerque, New Mexico.
8. Marlatt, G.A., Parks, G.A. & Witkiewitz, K. (2002). Hướng dẫn thực hành lâm sàng: phát triển cho Dự án Quản lí phục hồi hành vi sức khỏe.
9. Ask, A., & Roche, A.M. (2005). Giám sát chuyên môn: Hướng dẫn thực hành về rượu và các ma túy khác. Trung tâm Quốc gia Giáo dục và Đào tạo về nghiện, Đại học Flinders, Adelaide, Australia.
10. Kesting, G. (2001). Đối phó với hành vi hung hăng và tiềm tàng bạo lực. Khóa đào tạo về tăng cường nhận thức.
11. Trung tâm Quốc gia Giáo dục và Đào tạo về nghiện (2004). Rượu và các ma túy khác: Sổ tay dành cho chuyên gia y tế. Bộ Y tế và Người cao tuổi, Australia.
Mục đích và mục tiêu đào tạo
Mục đích:
Giáo trình này nhằm mục đích cung cấp cho các tư vấn viên kiến thức về việc sử dụng ma túy và hậu quả của nó, các mô hình điều trị nghiện ma túy, các kỹ thuật và kỹ năng tư vấn điều trị nghiện ma túy, và liệu pháp dự phòng tái nghiện, để tăng cường hiệu quả trong tư vấn cho người sử dụng ma túy và người sau cai.

Mục tiêu:
Sau khi kết thúc khóa đào tạo với giáo trình này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Mô tả được vai trò và trách nhiệm của nhân viên tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Giải thích được các nguyên tắc và thực hành tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Mô tả được các loại chất gây nghiện phổ biến, các hình thái sử dụng và hậu quả của việc sử dụng các loại chất gây nghiện tại Việt Nam
‚ Nêu được kiến thức cơ bản về nghiện, phục hồi và tái nghiện
‚ Nêu được những thông tin cơ bản về các mô hình điều trị nghiện ma túy khác nhau, bao gồm:
- Các mô hình điều trị cai nghiện hoặc giảm nguy cơ
- Mô hình điều trị thay thế.
‚ Giải thích được các loại hình dịch vụ điều trị nghiện ma túy sẵn có tại Việt Nam
‚ Giải thích được các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị nghiện ma túy
‚ Mô tả được quá trình tiến hành tư vấn
‚ Nêu được các thành tố và các bước đánh giá khách hàng
‚ Xây dựng kế hoạch quản lí cá nhân và cung cấp hỗ trợ và theo dõi liên tục
‚ Có được các kĩ năng và kĩ thuật tư vấn điều trị nghiện ma túy trong các lĩnh vực sau:
- Đánh giá khách hàng
- Phỏng vấn tạo động cơ
- Xác định mục tiêu
- Giải quyết vấn đề
- Kỹ năng tư vấn
- Dự phòng tái nghiện, với trọng tâm là:
- Quản lí các tình huống nguy cơ cao
- Kĩ năng từ chối
- Đối phó với cơn thèm nhớ
- Đối phó với tái sử dụng và tái nghiện
- Quản lí căng thẳng
- Quản lí thời gian
- Giải quyết mâu thuẫn
- Giúp khách hàng quản lí sự nóng giận
‚ Làm việc được với những nhóm khách hàng đặc biệt, bao gồm:
- Làm việc với thanh thiếu niên
- Làm việc với phụ nữ
- Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ cho người sử dụng ma túy
- Xử trí đối với những khách hàng phê thuốc
- Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
‚ Tư vấn giảm nguy cơ cho khách hàng sử dụng ma túy đang ở giai đoạn tiền dự định thay đổi
‚ Hỗ trợ và giám sát chuyên môn trong tư vấn điều trị nghiện ma túy, bao gồm tự chăm sóc.

Phương pháp học tập
Phương pháp học tập sử dụng trong khóa đào tạo bao gồm:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Bài tập nhóm nhỏ và theo cặp
‚ Đóng vai
‚ Trình diễn
‚ Thực hành với khách hàng thật
‚ Hoạt động viết thu hoạch
‚ Kiểm tra cuối khóa
‚ Đánh giá khóa tập huấn.

Bài tập
Đóng vai và những bài tập thực hành là những hoạt động quan trọng trong khóa tập huấn này. Giảng viên cần chủ động tạo môi trường học tập an toàn để học viên có thể chia sẻ và học hỏi được tốt nhất, thông qua việc:
‚ Đảm bảo học viên hiểu rõ về hoạt động họ sắp thực hiện hoặc quan sát
‚ Khuyến khích học viên tham gia đóng vai
‚ Luôn có mặt để hỗ trợ học viên khi cần
‚ Sau mỗi phần đóng vai, giảng viên cho ý kiến nhận xét với ngôn từ và ngữ điệu phù hợp, không phê phán.

Cấu trúc bộ tài liệu tập huấn
Bộ tài liệu tập huấn này gồm Tài liệu dành cho giảng viên, Tài liệu dành cho học viên, một đĩa CD-ROM có chứa những bài trình bày dạng PowerPoint cho từng chương. Cấu trúc của Tài liệu dành cho giảng viên được mô tả ở trang 13.
Tài liệu dành cho học viên bao gồm phần định hướng cho học viên và mỗi bài học gồm có các nội dung sau:
‚ Mục đích và mục tiêu
‚ Bản chiếu powerpoint được in 6 bản chiếu trên một trang giấy với các khoảng trống để học viên có thể ghi chú
‚ Tài liệu phát tay, có chứa những thông tin bổ sung hoặc bài tập. Mỗi học viên sẽ được phát một quyển vở để ghi chép các nội dung quan trọng trong ngày, ví dụ:
‚ Những nội dung họ muốn tìm hiểu thêm
‚ Một khái niệm mà họ muốn suy nghĩ thêm
‚ Một kĩ thuật mà họ muốn thử nghiệm
‚ Những khó khăn có thể gặp phải khi áp dụng những phương pháp mới
‚ Cách thức áp dụng những điều mới học từ khóa tập huấn vào công tác thực tiễn.
Ngoài ra, giảng viên cũng sẽ được hướng dẫn khi nào cần yêu cầu học viên thực hiện một số bài tập viết thu hoạch.
Bộ tài liệu giảng dạy dành cho Giảng viên này đưa ra những hướng dẫn chi tiết cách thực hiện 9 chương. Cấu trúc các chương cho phép tiến hành khóa tập huấn một cách linh hoạt; các bài trong chương có thể được sắp xếp với một lịch tập huấn khá dày đặc. Chúng tôi khuyến nghị nên tổ chức thành hai khóa: cơ bản và nâng cao, mỗi khóa kéo dài từ 4 đến 5 ngày, với khoảng thời gian giữa 2 khóa ít nhất là 3 tháng để học viên có điều kiện thực hành. Trong khóa tập huấn nâng cao, giảng viên cần ôn lại những kiến thức, kĩ năng và kĩ thuật mà học viên đã học từ khóa cơ bản, và nhất là việc áp dụng những kiến thức, kĩ năng, kĩ thuật đó trong thời gian giữa 2 khóa. Nội dung của khóa nâng cao bắt đầu từ chương 7 của giáo trình này. Khóa tập huấn nâng cao này cũng bao gồm nội dung về khung giám sát hỗ trợ trong tư vấn điều trị nghiện ma túy, bao gồm chăm sóc bản thân và phòng ngừa tình trạng suy kiệt.

Những thành viên trong khóa tập huấn
Một lớp tập huấn có nhiều nhóm học viên với kinh nghiệm và trình độ khác nhau sẽ tạo ra một môi trường rất thuận lợi để thúc đẩy quá trình dạy và học lẫn nhau giữa các học viên. Lí tưởng nhất là số học viên vừa đủ để có thể chia thành ba nhóm nhỏ, mỗi nhóm có 3 thành viên. Tuy nhiên, khóa tập huấn vẫn có thể điều chỉnh cho phù hợp với sĩ số lớp ít hơn. Các thành viên nhóm nên cố định từ đầu đến cuối khóa học. Vì đây là là một khóa tập huấn về kĩ năng với rất nhiều bài tập thực hành và các hoạt động tương tác nên số học viên không nên quá 18 người. Số học viên phù hợp là 15 người.
Học viên có thể sẽ trải qua một quá trình thay đổi về nhận thức trong khóa tập huấn. Vì vậy, giảng viên cần duy trì thái độ tích cực, thấu cảm, khách quan và hiểu biết trong suốt khóa học. Bằng cách đó, giảng viên có thể đưa ra một tấm gương về cách ứng xử phù hợp với khách hàng.
Học viên sẽ được cấp chứng chỉ sau đã hoàn thành khóa tập huấn nâng cao. Để được nhận chứng chỉ, học viên cần: (1) tham dự tất cả các buổi học trong cả hai khóa tập huấn cơ bản và nâng cao; (2) tham gia và đóng góp tích cực trong lớp học; (3) thành thạo các kĩ thuật và kĩ năng làm việc với khách hàng; và (4) bài kiểm tra cuối khóa đạt yêu cầu (xem ví dụ về bài kiểm tra cuối khóa học trong Phụ lục III).
Giảng viên
Tài liệu giảng dạy này được thiết kế dành cho những người đã có kinh nghiệm tập huấn.
Giảng viên phải được đào tạo và hiểu biết về những nội dung sẽ giảng dạy. Giảng viên cần có những kiến thức và kĩ năng sau:
‚ Kiến thức thực tế về những nội dung trong giáo trình đào tạo
‚ Kinh nghiệm làm việc với các khách hàng sử dụng/đã từng sử dụng ma túy
‚ Kinh nghiệm sử dụng các kĩ thuật được giảng dạy trong khóa học
‚ Kinh nghiệm áp dụng các phương pháp học của người lớn theo phương thức lấy học viên làm trung tâm
‚ Khả năng điều hành hoạt động nhóm
‚ Hiểu biết và cảm nhận được những yếu tố văn hóa nhạy cảm đối với học viên và khách hàng nhận dịch vụ điều trị từ học viên
‚ Khả năng làm việc với học viên một cách tích cực và thấu cảm.
Cần có người trợ giảng để bổ sung kinh nghiệm, kiến thức và giúp đỡ giảng viên khi điều hành hoạt động nhóm nhỏ. Người trợ giảng có thể giúp trả lời các câu hỏi, tham gia các hoạt động, thực hành các kĩ thuật với học viên và cung cấp các tài liệu đào tạo có liên quan đến thực tế cuộc sống.
Nhóm giảng viên nên gồm những người có kinh nghiệm về tư vấn điều trị nghiện ma túy, có nền tảng lí thuyết tốt về tư vấn nói chung, có hiểu biết về dự phòng và điều trị HIV/ AIDS, và kĩ năng giảng dạy tốt. Nhất thiết phải có một giảng viên có kinh nghiệm làm tư vấn điều trị nghiện ma túy để làm mẫu các kĩ thuật và kĩ năng được hướng dẫn trong khóa tập huấn.
Giảng viên phải hiểu rõ nhu cầu của học viên và sẵn sàng thay đổi phương pháp tập huấn cho phù hợp với thực tế. Ví dụ, giảng viên phải có khả năng:
‚ Đơn giản hóa ngôn ngữ (nhất là các từ chuyên môn, thuật ngữ lâm sàng) để giúp chuyển tải các khái niệm một cách dễ hiểu hơn
‚ Dành thời gian cho học viên hiểu được các khái niệm mới
‚ Điều chỉnh các bài tập viết thu hoạch cho phù hợp với những học viên có học vấn thấp.
Ngoài ra, giảng viên cần nhạy cảm và sáng tạo trong cách giới thiệu các bài tập và khuyến khích học viên tham gia. Ví dụ, khi cần, giảng viên có thể sử dụng cách kể chuyện truyền thống trong đào tạo.
Sau khi tham gia và hoàn thành khóa tập huấn cho giảng viên, các giảng viên sẽ được hỗ trợ từng bước để tự mình tiến hành các bài giảng. Đầu tiên, họ sẽ làm việc theo cặp với những giảng viên có kinh nghiệm. Dần dần, khi đã mạnh về phương pháp tập huấn, họ có thể tiến hành khóa tập huấn một cách độc lập.

Sử dụng bộ Tài liệu giảng dạy
Mặc dù trong hướng dẫn của từng bài giảng đã có sẵn ví dụ, giảng viên vẫn nên đưa thêm các ví dụ cụ thể của chính mình. Khi cần, giảng viên nên đưa ra những ví dụ cho từng kĩ thuật cụ thể mà họ đã sử dụng với khách hàng. Nhóm giảng viên cũng cần thảo luận về những thay đổi cần thiết khi áp dụng các kĩ thuật này cho phù hợp với đặc điểm dân tộc, văn hóa và giới. Điều quan trọng là giảng viên cũng nên yêu cầu học viên cung cấp các ví dụ từ công việc của họ để đảm bảo rằng khóa tập huấn đã đáp ứng nhu cầu cụ thể của học viên.
Chương này cũng bao gồm hướng dẫn cách tiến hành một số hoạt động trước tập huấn (xem phần Chuẩn bị cho khóa tập huấn) và những công tác chuẩn bị nói chung cho từng bài giảng. Ngoài ra, nội dung mỗi bài đều có:
‚ Phần tổng quan, bao gồm mục đích, mục tiêu bài kèm thời gian cho từng hoạt động
‚ Các bản chiếu PowerPoint với nội dung trình bày chi tiết và hướng dẫn làm bài tập
‚ Tài liệu phát tay, bao gồm Tài liệu dành cho học viên.

Chuẩn bị cho mỗi bài giảng
Mỗi chương bao gồm một số bài giảng có nội dung liên quan với nhau.

Tổng quan bài giảng
Phần tổng quan của mỗi bài giảng bao gồm:
‚ Mục đích và mục tiêu bài
‚ Nội dung bài giảng
‚ Phương tiện hỗ trợ giảng dạy
‚ Thời gian tiến hành cho từng hoạt động.
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu cũng gợi ý chương trình tập huấn cho 2 khóa học, mỗi khóa kéo dài từ 4 đến 5 ngày (xem Phụ lục I). Thời lượng thực tế có thể thay đổi, phụ thuộc vào số học viên và khả năng tham gia của họ. Dựa trên nhu cầu của học viên, giảng viên có thể kéo dài hoặc rút ngắn thời gian của từng nội dung cụ thể cho phù hợp.

Hướng dẫn nội dung thuyết trình
Trong tài liệu có các bản chiếu PowerPoint với phần hướng dẫn bên dưới mỗi bản chiếu giúp giảng viên hiểu và nhấn mạnh các điểm chính trong nội dung trình bày. Giảng viên nên sử dụng ngôn từ của chính mình và bổ sung thêm các ví dụ của bản thân. Việc sử dụng các ví dụ thực tế hoặc các ví dụ từ chính học viên sẽ kích thích họ tham gia nhiệt tình hơn và giúp truyền tải nội dung tới học viên tốt hơn.
Phần hướng dẫn phía dưới mỗi bản chiếu bao gồm 3 nội dung, với tiêu đề: “Nói”, “Thông tin tham khảo”, và “Hướng dẫn giảng dạy”.
“Nói”: đây là gợi ý những lời bạn cần nói với học viên, ví dụ như mô tả kịch bản đóng vai. Những lời này được in nghiêng.
“Thông tin tham khảo”: là những thông tin đọc thêm cho giảng viên để giúp họ hiểu hơn về nội dung thuyết trình trong bản chiếu. Giảng viên không cần trình bày những thông tin đó trước lớp.
“Hướng dẫn giảng dạy”: hướng dẫn cho giảng viên và trợ giảng về cách tiến hành một bày tập hay một hoạt động liên quan đến nội dung được trình bày trong bản chiếu trước, hiện tại hoặc sau đó.
Phần lưu ý đưa ra những phương pháp tiến hành khác hoặc những nội dung cần quan tâm đặc biệt.
Chuẩn bị cho khóa tập huấn
Chuẩn bị và lên kế hoạch tốt sẽ góp phần đảm bảo thành công cho khóa tập huấn.
Từ 1 đến 2 tháng trước ngày tập huấn
‚ Xác định học viên khóa tập huấn.
‚ Đánh giá trình độ và nhu cầu của học viên để điều chỉnh khóa tập huấn cho phù hợp với nhu cầu của họ
‚ Lên chương trình tổng quát khóa tập huấn, bao gồm ngày thực hiện và thời lượng mỗi bài.
‚ Chuẩn bị địa điểm và phương tiện tập huấn.

Lưu ý về không gian khóa tập huấn
Một không gian tập huấn được chuẩn bị chu đáo và sinh động sẽ thúc đẩy khả năng học tập của người tham dự. Giảng viên cần chọn địa điểm có không gian đủ rộng tùy theo số lượng học viên sẽ tham gia - cần tính đến không gian để thực hiện các hoạt động nhóm. Chỗ ngồi có thể bố trí theo hình chữ U hoặc ngồi theo từng bàn tròn.
Giảng viên có thể dán một số tranh ảnh, áp phích màu trong phòng tập huấn. Những tấm áp phích giúp minh họa một số nội dung chính của khóa tập huấn, ví dụ, mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi (Chương 4).
Trong khóa tập huấn sẽ triển khai nhiều hoạt động đóng vai và các bài thực hành khác. Vì vậy không gian tập huấn cần phải đủ rộng để các nhóm thực hiện những hoạt động này mà không làm ảnh hưởng đến nhau.
Giảng viên có thể bật nhạc trong khi chờ học viên vào lớp để tạo không khí vui vẻ và đón chào.
Khi giải lao cần chuẩn bị trà, cà phê, đồ ăn nhẹ. Đây là cơ hội cho học viên tiếp xúc và trò chuyện với nhau trong lúc giải lao. Cung cấp thông tin hậu cần như nơi ăn trưa, trong trường hợp không tổ chức ăn trưa cho học viên.
Từ 1 đến 2 tuần trước ngày tập huấn
‚ Lên lịch tập huấn cho từng ngày và thời lượng cho từng bài
‚ Chọn một số bản nhạc để sử dụng trong những bài học
‚ Chuẩn bị sẵn Giấy chứng nhận tham dự khóa học cho học viên (học viên cần nhận được chứng chỉ vì đây là hình thức khẳng định rằng họ đã có kinh nghiệm, kĩ năng và hiểu biết để làm việc với các nhóm đích, đồng thời khuyến khích họ chia sẻ những kinh nghiệm sẵn có trong thời gian tập huấn
‚ Chuẩn bị đủ các bộ tài liệu dành cho học viên
‚ Chuẩn bị sẵn các bộ bút màu cho học viên (nếu học viên ngồi thành từng nhóm nhỏ, chuẩn bị sẵn một bộ cho mỗi bàn)
‚ Có đủ sổ tay dành cho học viên
‚ Sắp xếp trang thiết bị nghe nhìn
‚ Chuẩn bị các bài trình bày PowerPoint
‚ Đọc trước toàn bộ nội dung tài liệu tập huấn.
1 đến 2 ngày trước khóa tập huấn
‚ Kiểm tra phòng ốc, trang thiết bị tập huấn lần cuối
‚ Ghi sẵn các bài trình bày PowerPoint vào máy vi tính
‚ Sắp xếp phòng
‚ Chuẩn bị bảng tên
‚ Photo trước phiếu đánh giá của ngày tập huấn đầu tiên
‚ Photo đủ chương trình tập huấn cho mọi người
‚ Chuẩn bị đầy đủ các vật dụng tập huấn, bao gồm tài liệu dành cho học viên và các phiếu đánh giá.
‚ Xem kỹ mục “Trước mỗi bài giảng”.

Trước mỗi bài giảng
Xem kỹ danh mục những việc cần chuẩn bị dưới đây trước khi trình bày mỗi bài giảng.
Không gian tập huấn
‚ Sắp xếp ghế ngồi cho mỗi bài sao cho thuận tiện những việc cần chuẩn bị để học viên thực hiện các hoạt động nhóm nhỏ và nhóm lớn
‚ Chuẩn bị các áp phích minh họa cho khái niệm hoặc nội dung chính cần cho bài giảng ngày hôm đó, dán sẵn lên tường
‚ Treo tất cả các nội dung thảo luận viết trên giấy khổ lớn trong các bài trước để cả lớp cùng xem lại (tất cả các kết quả thảo luận viết trên giấy khổ lớn và áp phích được lưu lại để sử dụng giúp ôn lại nội dung trong phần ôn tập cuối khóa)
‚ Sử dụng âm nhạc để tạo bầu khí thoải mái khi học viên bước vào lớp.

Trang thiết bị, dụng cụ, tài liệu tập huấn
‚ Băng hoặc đĩa nhạc
‚ Máy vi tính, máy chiếu, màn hình chiếu
‚ Giấy A0, giá kẹp giấy, bút chì màu, bút viết bảng các màu
‚ Phiếu đánh giá
‚ Kẹp, đinh gắn giấy, băng keo để dán giấy A0 lên tường
‚ Bút viết cho học viên.
‚ Đồng hồ (không bắt buộc).

Các phần chuẩn bị khác
‚ Kiểm tra số lượng học viên đăng kí học, kiểm tra các bước chuẩn bị cho phòng tập huấn
‚ Xem lại danh mục các việc cần chuẩn bị cho bài sắp giảng
‚ Kiểm tra và thử chất lượng các thiết bị, tài liệu, dụng cụ giảng dạy
‚ Hãy tạo không khí thật vui!

Xây dựng nội quy
Cần xây dựng nội quy lớp học khi bắt đầu khóa tập huấn và trong một số tình huống, cần phải xem lại hàng ngày xem có cần điều chỉnh gì không. Giảng viên hướng dẫn cả lớp thảo luận để đưa ra nội quy lớp học và viết lên giấy A0. Tóm tắt lại các nội quy này và treo trên tường trong suốt khóa học. Giải thích với học viên rằng những nội quy này rất quan trọng vì nó mọi người tập trung hơn và đạt kết quả tốt nhất từ khóa tập huấn. Sau mỗi ngày, hỏi học viên xem họ có muốn bổ sung thêm nội quy nào khác không.
Gợi ý những nội quy chính:
‚ Tôn trọng tất cả các ý kiến
‚ Mọi người đều có quyền đưa ra ý kiến
‚ Có thể đặt câu hỏi bất kỳ lúc nào trong suốt khóa tập huấn
‚ Tắt điện thoại di động hoặc để ở chế độ rung
‚ Chỉ đọc thư điện tử và tin nhắn trong giờ nghỉ
‚ Bắt đầu đúng giờ và kết thúc đúng giờ
‚ Phản hồi tích cực
‚ Từng người nói một
‚ Không nói chuyện riêng trong lớp.

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 2

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 2

CHƯƠNG 2
Bài 2.1: Giới thiệu về tư vấn 15
Bài 2.2: Các khái niệm cơ bản về tư vấn điều trị nghiện ma túy 35
Bài 2.3: Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy 47
Bài 2.4: Các kĩ năng tư vấn 61
Bài 2.5: Các kĩ thuật tư vấn 103
Bài 2.6: Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy 117
Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1 Giới thiệu về tư vấn
I. Giới thiệu 1 phút
Giới thiệu với học viên rằng trong bài này họ sẽ được thảo luận những khái niệm cơ bản
về tư vấn.
II. Thuyết trình 30 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình: định nghĩa về tư vấn, mục đích của tư vấn, một số
khái niệm cơ bản về tư vấn, và sự khác nhau giữa tư vấn và giáo dục sức khỏe.
III. Kết luận 9 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có).
Mục đích: Giúp học viên hiểu rõ những khái niệm cơ bản về tư vấn trước khi tập huấn sâu về tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 40 phút
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, các học viên sẽ có thể:
‚ Nêu được định nghĩa về tư vấn
‚ Hiểu được bối cảnh tư vấn
‚ Nêu được những quan niệm sai lầm hiện nay về sử dụng ma túy và người sử dụng ma túy
‚ Phân biệt được sự khác nhau giữa tư vấn và giáo dục sức khỏe
‚ Xác định được những phẩm chất của một tư vấn viên giỏi.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu

Tổng quan
Bản chiếu 1
nói: Trong bài này chúng ta sẽ dành thời gian để tìm hiểu về khái niệm tư vấn nói chung và sau đó sẽ thảo luận chi tiết hơn về những nguyên tắc và khái niệm cơ bản của tư vấn điều trị nghiện ma túy. Hãy nhớ rằng tư vấn điều trị nghiện ma túy mới là nội dung chính cần được chú trọng trong khóa tập huấn này.

GIỚI THIỆU VỀ TƯ VẤN
Bản chiếu 2 nói: Tôi hi vọng rằng kết thúc bài học này, các bạn sẽ có khả năng:
‚ Nêu được định nghĩa về tư vấn
‚ Hiểu được bối cảnh của tư vấn
‚ Hiểu được những quan niệm sai lầm hiện nay về SDMT và người SDMT
‚ Phân biệt được tư vấn với giáo dục sức khỏe
‚ Nêu được những phẩm chất của một tư vấn viên giỏi.
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Nêu được định nghĩa về tư vấn
Hiểu được bối cảnh của tư vấn
Hiểu được những quan niệm sai lầm hiện nay về
sử dụng ma túy (SDMT) và người SDMT
Phân biệt được tư vấn với giáo dục sức khỏe
Nêu được những phẩm chất của một tư vấn viên giỏi

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu, các nội dung sẽ lần lượt được giới thiệu theo hướng dẫn dưới đây.
nói: Trước tiên, chúng ta cần hiểu được bối cảnh diễn ra buổi tư vấn.
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận về bối cảnh cuộc tư vấn bằng cách đặt các câu hỏi, ví dụ:
‚ Ai là những người tìm đến với dịch vụ tư vấn?
‚ Những người mới trở về từ trung tâm 06 cảm thấy như thế nào?
‚ Thái độ của cộng đồng đối với họ như thế nào?
‚ Họ có những mối quan tâm gì khi đến với dịch vụ tư vấn?
‚ Họ mong đợi sự giúp đỡ gì từ bạn?
Chiếu các nội dung của bản chiếu 3 trong lúc tóm tắt lại những câu trả lời của học viên. Dành thời gian tìm hiểu xem học viên nghĩ gì về lí do mà người SDMT tìm đến dịch vụ tư vấn.
nói: Theo các bạn thì tại sao một người SDMT lại tìm đến với tư vấn viên?
Câu trả lời có thể là:
‚ Do bố mẹ hoặc cán bộ tổ dân phố, công an bắt phải đến
‚ Họ đến để được điều trị bằng methadone chứ không phải để được tư vấn, nhưng tư vấn là một hợp phần của trị liệu nên họ phải tham gia
Người sử dụng ma túy:
Thường bị xã hội kì thị, phân biệt đối xử và không được cộng đồng chấp nhận
Thường bị coi như là tội phạm, là đồ bỏ đi và là mục tiêu để xã hội trút lên mọi sự giận dữ và sợ hãi.

BỐI CẢNH TƯ VẤN (1)
Bản chiếu 3 (tiếp)
‚ Họ biết là tư vấn viên có thể giúp đỡ họ
‚ Họ đến để chiều lòng ai đó (vợ/chồng, người yêu, người thân trong gia đình)
‚ Họ muốn từ bỏ ma túy hoặc giảm dần liều dùng
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian tìm hiểu xem tại sao người SDMT không tìm đến dịch vụ tư vấn.
nói: Vậy theo các bạn, tại sao người SDMT lại không tìm đến với dịch vụ tư vấn?
Câu trả lời có thể là:
‚ Nhiều người SDMT cho rằng chỉ có họ mới hiểu về những vấn đề của bản thân, nên không ai khác có thể giúp gì được
‚ Không chịu chấp nhận rằng họ đang có rắc rối liên quan đến việc SDMT
‚ Quá tự đại nên không muốn nói về những vấn đề riêng tư, những lỗi lầm hoặc điểm yếu của mình
‚ Sợ lộ bí mật về việc sử dụng ma túy của mình
‚ Họ đã thất bại nhiều lần nên nghĩ rằng không cần phải cố gắng nữa
‚ Có ấn tượng xấu về tư vấn viên trước đây vì nhân viên đó có thành kiến với họ, ra lệnh cho họ
‚ Cho rằng tư vấn viên chưa bao giờ sử dụng ma túy nên không hiểu biết gì về những người SDMT và việc SDMT.
nói: Chúng ta đã thấy, trong cuộc sống hàng ngày, người SDMT thường bị kì thị, phân biệt đối xử và không được cộng đồng chấp nhận. Họ thường bị coi là tội phạm, là đồ bỏ đi, và là mục tiêu để xã hội trút lên sự giận dữ và sợ hãi.

Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu, các nội dung sẽ lần lượt được giới thiệu sau phần thảo luận dưới đây.
nói: Là một tư vấn viên, bạn cần phải hiểu được những mối lo ngại của người SDMT.
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận về những điều mà người SDMT thường lo ngại. Chiếu nội dung bản chiếu sau khi học viên đã thảo luận và đóng góp ý kiến.
nói: Vì thế, khi khách hàng đã tìm đến với các bạn để được tư vấn, các bạn hãy giúp họ hiểu rằng tư vấn sẽ giúp họ giảm nhẹ nỗi lo âu. Bạn sẽ được học nhiều kĩ thuật và kĩ năng trong khóa tập huấn này để giúp khách hàng yên tâm hơn.
Người SDMT thường lo lắng về điều gì?
Bị phân biệt đối xử
Tương lai
Sợ người khác nói về việc họ SDMT
Thiếu tiếp cận với điều trị
Cho rằng tư vấn cũng chẳng thay đổi được gì
Thiếu chăm sóc điều trị khi ốm đau (đặc biệt là HIV/AIDS)
BỐI CẢNH TƯ VẤN (2)
Bản chiếu 5
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu, các nội dung sẽ lần lượt được giới thiệu sau phần thảo luận dưới đây.
nói: Trong những năm gần đây đã có khá nhiều chương trình giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về vấn đề SDMT, người SDMT và sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, những quan niệm sai lầm về người SDMT vẫn còn tồn tại.
Hướng dẫn giảng dạy: Thảo luận nhóm nhỏ
Chia học viên thành 2 nhóm. Các nhóm có 5 phút để thảo luận những quan niệm sai lầm về việc SDMT và người SDMT mà họ đã từng nghe. Sau khi các nhóm thảo luận xong, đề nghị một nhóm lên trình bày kết quả, sau đó yêu cầu nhóm thứ 2 bổ sung những điểm còn thiếu.
nói: Theo các bạn, tại sao tôi lại yêu cầu các bạn thảo luận về những quan niệm sai lầm đó? Thông tin tham khảo: Học viên cần nhận biết được rằng hiện đang có rất nhiều những quan điểm sai lầm phổ biến trong cộng đồng. Bài tập nhóm này nhằm cho thấy, mặc dù các nhóm khác nhau thực hiện thảo luận riêng rẽ nhưng những quan niệm sai lầm mà họ được biết vẫn giống nhau.
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu các nội dung của bản chiếu 5 nói: Trong những quan niệm này, theo các bạn đâu là hiểu lầm và đâu là sự thật? Những người sử dụng ma túy là những người “yếu kém về đạo đức”
“Nghiện là vô phương cứu chữa”
“Tất cả những người SDMT đều là những người nghiện ma túy”
“Tất cả những người SDMT đều là tội phạm”

NHỮNG HIỂU LẦM VỀ SỬ DỤNG MA TÚY
Bản chiếu 5 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Nếu thời gian cho phép, có thể giải thích thêm về những quan niệm không hoàn toàn là sai lầm (VD: “người sử dụng ma túy là tội phạm”)
Thông tin tham khảo: Nhiều người SDMT có thể phạm tội để có tiền mua ma túy. Một số người khác đã từng là tội phạm trước khi họ bắt đầu SDMT. Nhiều người thường cho rằng chỉ những người yếu đuối hay hư hỏng mới nghiện ma túy, mà không hiểu rằng nghiện thực chất là một rối loạn mạn tính tái diễn gây ra những thay đổi trên não bộ, cơ thể và tinh thần của người SDMT. Họ không hiểu được rằng chính những thay đổi này làm cho người SDMT khó từ bỏ được ma túy.

Bản chiếu 6
nói: Như vậy tư vấn là gì? Tư vấn là một hoạt động có mục đích để đưa ra những hướng dẫn về mặt chuyên môn cho khách hàng. Tư vấn sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật tâm lí khác nhau để hướng dẫn khách hàng theo một phương hướng tích cực. Có một số khái niệm mà tôi muốn trao đổi kĩ hơn với các bạn. Khái niệm đầu tiên là “can thiệp”. Tư vấn là một dạng can thiệp. Khi bạn hướng dẫn hoặc giúp khách hàng đưa ra quyết định, bạn đã can thiệp để giúp họ đạt được kết quả mong đợi. Bây giờ chúng ta sẽ nói về cụm từ “tìm hiểu vấn đề trong sự bảo mật”. Mặc dù nhiều người đến gặp tư vấn viên là để thảo luận về khó khăn của họ nhưng họ vẫn muốn đảm bảo rằng buổi gặp gỡ đó cũng như mọi thông tin khác đều được giữ bí mật. Hãy nhớ rằng công việc tư vấn thường phải giải quyết những vấn đề nhạy cảm và việc không giữ bí mật có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng.
Khái niệm cuối cùng là “nâng cao
năng lực của khách hàng để họ tự giải quyết khó khăn của bản thân”. Tư vấn hiệu quả là phải lấy khách hàng làm trung tâm và đáp ứng nhu cầu của mỗi cá nhân. Tư vấn viên và khách hàng nên cùng nhau thảo luận về mục đích và mục tiêu của buổi tư vấn. Sau cùng, khách hàng cần cảm thấy đủ tự tin để tự giải quyết những vấn đề của họ. Tư vấn viên có trách nhiệm giúp khách hàng hiểu được các phương pháp điều trị hiện có, từ đó lựa chọn phương pháp phù hợp nhất để thực hiện. Tư vấn là một quá trình trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tự tìm hiểu về những khó khăn của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực cho khách hàng để họ có thể tự giải quyết những khó khăn đó.
TƯ VẤN LÀ GÌ?
Bản chiếu 7
nói: Như vậy, tư vấn nghĩa là quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và hoàn cảnh cụ thể của từng khách hàng. Tư vấn là một quá trình tương tác, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau giữa tư vấn viên và khách hàng, nhằm giúp khách hàng xây dựng khả năng tự quyết định và tự chịu trách nhiệm. Quá trình tư vấn cần tập trung vào những mục đích cụ thể, thông qua việc đặt câu hỏi, thu thập thông tin, xem xét các lựa chọn khác nhau, và lập kế hoạch thực hiện. Khi tư vấn cần lưu tâm đến hoàn cảnh văn hóa - xã hội của từng cá nhân, và mức độ sẵn sàng thay đổi của mỗi người. Có thể tư vấn cho từng cá nhân, tư vấn cho cặp vợ chồng, tư vấn nhóm hoặc tư vấn cho cả gia đình.
Giúp khách hàng tự chịu trách nhiệm với cuộc đời họ, bằng cách:
- Phát triển khả năng ra quyết định một cách khôn ngoan và thực tế
- Hỗ trợ họ thay đổi hành vi để đạt được những kết quả mong muốn
- Cung cấp thông tin để ra quyết định chín chắn
Tư vấn có thể thực hiện với từng cá nhân, tư vấn cho cặp vợ chồng, tư vấn nhóm hoặc tư vấn gia đình

MỤC ĐÍCH CỦA TƯ VẤN
Bản chiếu 8
nói: Tư vấn hiệu quả nhất khi nó diễn ra một cách tự nguyện. Chúng ta không thể ra lệnh cho người khác thay đổi hành vi của họ. Quá trình phỏng vấn tạo động lực - sẽ đề cập đến trong phần sau của khóa học này - là một cách thức để khuyến khích sự thay đổi. Một buổi nói chuyện sẽ giúp hai bên trao đổi thông tin nhưng nó không nhằm mục đích thay đổi hành vi. Tư vấn trợ giúp nhiều hơn là một buổi nói chuyện vì nó định hướng và hướng dẫn khách hàng thay đổi hành vi.
Sự hợp tác giữa tư vấn viên và khác hàng là hết sức cần thiết để buổi tư vấn có hiệu quả. Để có sự hợp tác tốt, bạn cần có thái độ cởi mở và linh hoạt trong phương pháp. Nếu bạn can thiệp quá sâu vào hành vi và suy nghĩ của khách hàng, họ có thể phản ứng bằng cách từ chối hợp tác với bạn.
Hãy nhớ rằng, tư vấn là một quá trình tương tác mà cả hai bên cùng hợp tác để đạt được mục tiêu ngắn hạn đã được thống nhất từ trước. Hai người cần có vai trò tương đương và tin cậy lẫn nhau - không ai quan trọng hơn ai.

Chỉ bảo hoặc ra lệnh
Một buổi nói chuyện
Một buổi tra hỏi
Một buổi thú tội
Một buổi cầu nguyện

TƯ VẤN KHÔNG PHẢI LÀ
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu 9. Lần lượt chiếu các nội dung của bản chiếu 9 và 10 sau khi đã hướng dẫn học viên thảo luận nhóm nhỏ và nhóm lớn về sự khác nhau giữa Giáo dục viên sức khỏe và Tư vấn viên.
Thảo luận nhóm nhỏ:
Chia học viên thành 2 nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận trong 5 phút về sự khác nhau giữa tư vấn và giáo dục sức khỏe. Đề nghị một nhóm trình bày kết quả thảo luận (trong 2 -3 phút). Sau đó yêu cầu nhóm thứ hai bổ sung những điểm còn thiếu. Chiếu bản chiếu và thảo luận tất cả những nội dung nào mà học viên chưa đề cập đến. Đảm bảo học viên hiểu rằng bảo mật là một nguyên tắc quan trọng mà tư vấn viên luôn phải tuân theo mọi lúc, mọi nơi.

Tư vấn Giáo dục sức khỏe
Bảo mật Thường là không bảo mật
Thường là “một người với một người” hoặc với một nhóm nhỏ Nhóm nhỏ hoặc nhóm lớn
Phát sinh những tình cảm mạnh mẽ đối với cả khách hàng và tư vấn viên Tình cảm ở mức trung bình
Tư vấn viên chú ý lắng nghe và phản hồi Người GDVSK nói nhiều hơn
Tập trung, cụ thể và có mục tiêu Chung chung
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TƯ VẤN VÀ GIÁO DỤC SỨC KHỎE (1)
Bản chiếu 10 nói: Một người có thể vừa làm nhiệm vụ tư vấn, vừa là giáo dục viên sức khỏe (GDVSK). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cần biết là mình đang thực hiện nhiệm vụ nào. Những tư vấn viên trước đây từng là GDVSK thường hay bị lẫn lộn giữa hai công việc này. Nên đặt ra một số quy định với khách hàng trước khi bạn bắt đầu buổi tư vấn. Trong một buổi tư vấn bạn vẫn có thể vừa tư vấn, vừa cung cấp thông tin về giáo dục sức khỏe cho khách hàng. Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau để thấy sự khác nhau giữa tư vấn và giáo dục sức khỏe. Trong một buổi nói về an toàn tình dục, giáo dục sức khỏe là hướng dẫn sử dụng bao cao su đúng cách, còn khi bạn thảo luận về lo ngại của khách hàng rằng dương vật khó cương cứng khi đeo bao cao su thì đó lại thuộc về phạm trù tư vấn.
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ thảo luận về những điểm mà học viên chưa đề cập cụ thể.
Tư vấn Giáo dục sức khỏe
Thông tin được dùng để thay đổi thái độ và khuyến khích thay đổi hành vi Thông tin được dùng để giáo dục và nâng cao kiến thức
Tập trung vào vấn đề Tập trung vào nội dung
Dựa trên các nhu cầu của khách hàng Dựa trên các nhu cầu của y tế công cộng
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA TƯ VẤN VÀ GIÁO DỤC SỨC KHỎE (2)
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu. Các nội dung sẽ được trình chiếu sau khi đã thảo luận nhóm lớn.
nói: Dựa trên những nguyên tắc tư vấn vừa học, theo các bạn, một người tư vấn viên giỏi cần có những phẩm chất gì?
Hướng dẫn giảng dạy: Đợi cho các học viên đưa ra ý kiến và quan điểm của họ. Sau đó chiếu bản chiếu 11, nhấn mạnh những phẩm chất mà một tư vấn viên giỏi cần có. nói: Một tư vấn viên giỏi phải có trí tưởng tượng phong phú và óc sáng tạo để giúp khách hàng phát hiện được mối liên kết giữa suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ. Nhiều khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng khi tư vấn viên giúp họ sắp xếp lại những ý nghĩ lộn xộn trong đầu hướng tới mục đích cụ thể mà họ mong muốn đạt được. Một tư vấn viên cũng cần phải linh hoạt và đưa ra những hướng dẫn thực tế để giúp khách hàng dần dần đạt được mục tiêu mong đợi.
Một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau sẽ khuyến khích hai bên trao đổi và thống nhất với nhau về cách làm thế nào là tốt nhất. Điều đó có nghĩa là bạn không được áp đặt quan điểm hoặc mối quan tâm của mình lên khách hàng, mà bạn cần phải hiểu quan điểm và mối lo ngại của họ.

Có óc sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú
Thực tế
Tôn trọng khách hàng
Chú trọng vào hành động
Không áp đặt quan điểm hoặc mối quan tâm của
mình lên khách hàng.

NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA MỘT TƯ VẤN VIÊN GIỎI
Bản chiếu 12
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu. Lần lượt chiếu từng nội dung trong lúc thảo luận.
nói: Có những điều bạn cần tránh khi tư vấn điều trị nghiện ma túy:
‚ Lên mặt đạo đức. Hãy nhớ rằng mục đích công việc của bạn là giúp khách hàng giải quyết các vấn đề của họ chứ không phải thuyết giảng về đạo đức. Không bao giờ được lên mặt dạy đời về cuộc sống và hành vi của họ.
‚ Ra lệnh. Bạn là tư vấn viên chứ không phải là cấp trên hoặc ông chủ của họ. Bạn không có quyền ra lệnh cho họ làm điều này điều kia.
‚ Đe dọa. Tránh tỏ thái độ hoặc có những lời nói khiến khách hàng cảm thấy họ đang bị đe dọa. Bạn cần đảm bảo một môi trường hỗ trợ để khách hàng cảm thấy yên tâm khi chia sẻ những vấn đề của mình.
‚ Tranh cãi. Khách hàng có thể không nghe những lời khuyên của bạn và họ có thể có lời lẽ xúc phạm tới bạn. Hãy bình tĩnh và giúp họ hiểu rằng họ có quyền được tự quyết định và bạn tôn trọng những quyết định đó.
‚ Phản đối. Nhiệm vụ của bạn không phải là đánh giá đúng hay sai. Những nhận định kiểu đó có thể dẫn tới bất đồng với khách hàng và ảnh hưởng xấu đến quá trình tư vấn.
‚ Suy diễn thái quá. Nhiệm vụ của tư vấn viên là hiểu khách hàng của mình và kết nối suy nghĩ và mục đích của họ tới một kế hoạch thống nhất. Tuy nhiên, bạn không nên suy diễn thái quá về những điều họ nói với bạn. Suy diễn thái quá có thể dẫn đến những hiểu lầm hoặc thiếu tập trung vào những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến thay đổi hành vi.
‚ Đồng cảm. Chúng ta sẽ thảo luận về khái niệm đồng cảm và thấu cảm sau. Một tư vấn viên chuyên nghiệp luôn biết cách tránh đồng cảm với khách hàng. Không bao Lên mặt đạo đức
Ra lệnh
Đe dọa
Tranh cãi
Phản đối
Suy diễn thái quá
Đồng cảm
Phán xét

NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH
Bản chiếu 12 (tiếp)
giờ được đứng hẳn về phía khách hàng hoặc để cho mình quá xúc động khi đang tiến hành một buổi tư vấn.
‚ Phán xét. Nhiệm vụ của bạn là giúp khách hàng xác định xem điều gì khiến họ có nguy cơ. Phán xét khách hàng sẽ làm họ mất lòng tin và phủ nhận những vấn đề gặp phải. Bạn nên lắng nghe và không được phán xét, chỉ trích hoặc khiển trách khách hàng, và cố gắng tìm hiểu rõ hơn quan điểm của họ.

Bản chiếu 13
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những thông điệp chính của bài.
Thông tin tham khảo:
‚ Tư vấn giúp cho mỗi cá nhân khách hàng tự chịu trách nhiệm với cuộc đời họ bằng cách:
- Giúp họ phát triển khả năng đưa ra những quyết định sáng suốt và thực tế
- Thay đổi hành vi của họ để đạt được những kết quả mong muốn
- Cung cấp thông tin hữu ích để ra quyết định.
‚ Tư vấn có thể thực hiện cho từng cá nhân, cặp vợ chồng hoặc cả gia đình
‚ Tư vấn viên cần có óc sáng tạo và có trí tưởng tượng tốt, có phương pháp thực tế, có khả năng thể thiện sự tôn trọng khách hàng, chú trọng vào hành động, và không áp đặt ý kiến chủ quan lên khách hàng.
‚ Tư vấn khác với giáo dục sức khỏe.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Tư vấn giúp khách hàng tự chịu trách nhiệm với cuộc đời họ
Dịch vụ tư vấn có thể dành cho cá nhân, cặp vợ chồng hoặc cả gia đình
Một tư vấn viên giỏi cần có tính sáng tạo, có trí tưởng tượng phong phú, có phương pháp thực tế, thể hiện sự tôn trọng khách hàng, chú trọng vào hành động và không áp đặt quan điểm một cách chủ quan.
Tư vấn có bản chất khác hẳn so với giáo dục sức khỏe
2.2 CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận những khái niệm cơ bản của tư vấn điều trị
nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 25 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày: những khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện
ma túy, bối cảnh tư vấn, những vấn đề xoay quanh sự phân biệt và hiểu lầm đối với người
SDMT, và vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy.
III. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có).
Mục đích:
Đảm bảo rằng học viên hiểu rõ những khái niệm cơ bản về tư vấn điều trị nghiện ma túy, bao gồm định nghĩa về tư vấn điều trị nghiện ma túy, vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy, những nguyên tắc giao tiếp hiệu quả, và sự khác nhau giữa thấu cảm và đồng cảm.
Thời gian: 30 phút
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, học viên sẽ có thể:
‚ Nêu được định nghĩa về tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Giải thích được vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Liệt kê được 4 nguyên tắc giao tiếp hiệu quả
‚ Giải thích được sự khác nhau giữa thấu cảm và đồng cảm.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu

Bản chiếu 1
nói: Là một tư vấn viên, bạn có một vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ khách hàng tự chịu trách nhiệm với bản thân, bằng cách giúp họ xác lập mục đích và ra những quyết định chín chắn. Để thực hiện tốt vai trò này, bạn cần hiểu về những khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Nêu được định nghĩa về tư vấn điều trị nghiện ma túy
Giải thích được vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy
- Khuyến khích và tạo động lực cho khách hàng nhằm giảm những nguy hại liên quan đến việc SDMT của họ
- Hỗ trợ khách hàng tìm kiếm dịch vụ chăm sóc hỗ trợ
Liệt kê được 4 nguyên tắc giao tiếp hiệu quả
Phân biệt giữa thấu cảm và đồng cảm
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Kết thúc bài này, bạn sẽ có thể:

Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu. Hướng dẫn học viên thảo luận trước, rồi sau đó mới chiếu các nội dung cụ thể.
nói: Trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu về tư vấn nói chung, bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về tư vấn điều trị nghiện ma túy. Cần nhớ rằng không phải bất cứ ai sử dụng ma túy cũng đều nghiện ma túy. Các bạn có thể cho biết lí do người SDMT tìm đến với tư vấn viên?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời. Khẳng định với học viên rằng không có câu trả lời nào là đúng hay sai cả. Giúp học viên hiểu được nguyên tắc của tư vấn điều trị nghiện ma túy, đó là: khuyến khích, động viên khách hàng để họ giảm bớt những nguy cơ liên quan đến việc SDMT, và hỗ trợ khách hàng tiếp cận dịch vụ chăm sóc và điều trị. Nếu không có ai trả lời, hãy tiếp tục như sau:
nói: Với nhiều người, rất khó để có thể thoát khỏi tình trạng nghiện ma túy. Tư vấn điều trị nghiện ma túy giúp đưa ra các chiến lược để hỗ trợ khách hàng giảm bớt những nguy cơ do SDMT gây ra, và nếu có thể, không sử dụng ma túy nữa. Tư vấn vừa giúp giảm sử dụng ma túy, vừa hạn chế những tác hại do SDMT gây ra. Tư vấn điều trị nghiện ma túy giúp khách hàng nhận thấy mối liên hệ giữa những vấn đề họ có thể gặp phải với việc SDMT, từ đó xác định các giải pháp cụ thể. Nhiều kĩ năng và kĩ thuật đề cập tới trong khoá tập huấn này được hình thành dựa trên mô hình lí thuyết về nhận thức hành vi và đã cho thấy có hiệu quả trong việc hỗ trợ người SDMT dừng sử dụng ma túy.
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu nội dung của bản chiếu 3.
nói: Vậy tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?
Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?
Tư vấn điều trị nghiện ma túy là một can thiệp tạo cho khách hàng cơ hội tìm hiểu về việc sử dụng ma túy của bản thân và các hậu quả của việc sử dụng ma túy một cách bảo mật, và thảo luận về những liệu pháp điều trị phù hợp nhất với hoàn cảnh và điều kiện của họ.
Tại sao lại cần có tư vấn điều trị nghiện ma túy?
– Khuyến khích, tạo động lực cho khách hàng nhằm giảm
những nguy hại liên quan đến việc sử dụng ma túy của họ
– Hỗ trợ khách hàng tìm kiếm dịch vụ chăm sóc hỗ trợ
– Những người SDMT muốn cai nghiện thường có lợi hơn
nếu họ vừa được tư vấn, vừa được điều trị cai nghiện.
TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tư vấn là một hoạt động có mục đích để đưa ra những hướng dẫn về mặt chuyên môn cho khách hàng. Tư vấn có sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật tâm lí khác nhau nhằm hướng dẫn khách hàng theo một đường hướng tích cực. Có một số khái niệm trong tư vấn điều trị nghiện ma túy mà tôi muốn thảo luận chi tiết với các bạn.
Khái niệm đầu tiên là
“can thiệp”. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là một can thiệp. Khi bạn hướng dẫn hoặc giúp khách hàng đưa ra quyết định, bạn đã can thiệp để giúp họ đạt được kết quả mong đợi.
Tôi muốn thảo luận về cụm từ
“tìm hiểu về việc sử dụng ma túy của khách hàng một cách bảo mật”. Điều này là hết sức quan trọng vì việc SDMT là bất hợp pháp và không ai muốn để lộ ra rằng mình SDMT. Mặc dù khách hàng đến gặp tư vấn viên là để thảo luận về khó khăn của họ, hầu hết trong số họ vẫn muốn đảm bảo rằng mọi thông tin đều được giữ bí mật. Hãy nhớ rằng SDMT là một vấn đề nhạy cảm và việc không giữ bí mật có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Cuối cùng là khái niệm
“thảo luận về các lựa chọn điều trị phù hợp nhất với hoàn cảnh và điều kiện của khách hàng”. Đây chính là mục đích và các mục tiêu mong đợi của buổi tư vấn. Tư vấn hiệu quả phải lấy khách hàng làm trung tâm và dựa trên nhu cầu của mỗi cá nhân. Tư vấn viên và khách hàng nên cùng nhau thảo luận về mục đích và mục tiêu của buổi tư vấn. Sau cùng, khách hàng cần cảm thấy đủ tự tin để tự giải quyết những vấn đề của bản thân. Tư vấn viên có trách nhiệm giúp khách hàng hiểu được các phương pháp điều trị hiện có, từ đó lựa chọn phương pháp phù hợp nhất để thực hiện.

Bản chiếu 3 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu, sau đó lần lượt chiếu các nội dung khi đề cập đến.
nói: Tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng, vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy là hỗ trợ khách hàng giảm nguy cơ và ngừng SDMT.
Vai trò cụ thể của tư vấn điều trị nghiện ma túy là:

‚ Giúp khách hàng giảm nguy cơ hoặc ngừng SDMT
‚ Giúp khách hàng xác định mục tiêu và lập kế hoạch thực hiện
‚ Phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề và kĩ năng từ chối
‚ Xác định các tình huống nguy cơ
‚ Xác định các biện pháp đối phó với nguy cơ.
Tư vấn điều trị nghiện ma túy cung cấp hướng dẫn và gợi ý giúp khách hàng nhận ra mục tiêu cuối cùng từ việc phát triển các kĩ năng và kĩ thuật cụ thể cho họ. Việc giúp khách hàng thành thục các kĩ năng này được thực hiện thông qua hình thức giao tiếp thân mật. Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về cách giao tiếp góp phần làm nên thành công.

Bản chiếu 4
Các buổi tư vấn giúp khách hàng:
Giảm nguy cơ hoặc dừng việc SDMT
Xác định mục tiêu và lập kế hoạch thực hiện
Phát triển kĩ năng từ chối và giải quyết vấn đề
Xác định những tình huống nguy cơ
Xác định các biện pháp đối phó với nguy cơ

VAI TRÒ CỦA TƯ VẤN
Bản chiếu 5
nói: Giao tiếp hiệu quả là yếu tố thiết yếu trong tư vấn điều trị nghiện ma túy. Quá trình trao đổi thông tin sẽ hiệu quả hơn nhiều nếu chúng ta tuân theo các nguyên tắc trong giao tiếp. Những nguyên tắc giao tiếp này, bao gồm việc trao đổi thông tin rõ ràng và không phán xét, sẽ giúp xây dựng mối quan hệ và lòng tin giữa tư vấn viên và khách hàng.
Trong bài trước, chúng ta đã thảo luận về việc tham gia tư vấn một cách tự nguyện, tôn trọng khách hàng và xây dựng lòng tin. Giao tiếp hiệu quả cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá đúng khách hàng và giúp họ xử trí các vấn đề liên quan đến ma túy.

Giao tiếp hiệu quả:
- Rõ ràng và không phán xét
- Giúp xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
- Tạo dựng lòng tin
Giao tiếp hiệu quả là chìa khóa để:
- Tiến hành đánh giá đúng khách hàng
- Hỗ trợ khách hàng đối phó với các vấn đề có liên quan tới ma túy

HIỆU QUẢ CỦA GIAO TIẾP
nói: Giao tiếp hiệu quả bao gồm:
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và cảm giác tin cậy. VD: tư thế, nét mặt và các cử chỉ của bạn đều có ý nghĩa nhất định, và người khác có thể suy diễn ra thái độ của bạn dựa trên những ngôn ngữ không lời đó. Khi bạn giữ khoảng cách khá xa đối với khách hàng có thể làm họ cảm thấy yên tâm, nhưng cũng có thể khiến họ cảm thấy rằng bạn không muốn giao tiếp thân mật với họ.
Nếu bạn sử dụng các ngôn từ của khách hàng, họ sẽ thấy thoải mái hơn vì cảm thấy bạn hiểu về cuộc sống của họ.

Chú ý tới những mối quan ngại trước mắt của khách hàng. Khách hàng có thể bộc lộ nhiều nhu cầu khác nhau và mong đợi sự giúp đỡ từ phía bạn. Điều quan trọng là bạn phải chú ý lắng nghe và thể hiện để họ cảm nhận rõ ràng là bạn đang lắng nghe họ nói. Cần cố gắng nhận ra được đâu là nhu cầu cấp thiết của khách hàng và giải quyết những nhu cầu đó trước tiên. Bạn cần phải thành thực và nói rằng bạn cần nhiều thời gian hơn nữa để tìm hiểu và cùng trao đổi tìm ra cách giải quyết những nhu cầu khác.
Thể hiện sự quan tâm của mình đối với những vấn đề liên quan tới việc SDMT của khách hàng nhưng không được có định kiến.
Sử dụng ngôn từ thích hợp để vượt qua những rào cản trong giao tiếp.
Bạn có thể giao tiếp với khách hàng qua lời nói hoặc ngôn ngữ không lời (vì thế hãy chú ý tới điệu bộ và cử chỉ của mình). Phong thái trong giao tiếp cũng rất quan trọng. Ánh mắt nhìn chăm chú và thân thiện sẽ cho thấy bạn đang rất quan tâm tới những gì khách hàng nói.
Bản chiếu 6
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và cảm giác tin cậy
Chú ý tới những lo ngại trước mắt của khách hàng
Thể hiện sự lo lắng về những vấn đề liên quan tới
việc SDMT của khách hàng mà không phán xét họ
Sử dụng ngôn từ thích hợp để vượt qua các rào cản trong giao tiếp

CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG GIAO TIẾP
Bản chiếu 7
nói: Các bạn có biết đồng cảm và thấu cảm khác nhau như thế nào không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên thảo luận sự khác biệt.
nói: Vậy theo các bạn, khi tư vấn điều trị nghiện ma túy, chúng ta nên đồng cảm hay thấu cảm với khách hàng?
Hướng dẫn giảng dạy: Đảm bảo tất cả học viên đều hiểu rằng một tư vấn viên chuyên nghiệp phải hiểu rõ sự khác biệt giữa thấu cảm và đồng cảm.
nói: Một tư vấn viên sẽ thể hiện tốt sự thấu cảm của mình đối với khách hàng bằng cách lắng nghe và thấu hiểu những gì họ nói, không phải lúc nào cũng đồng ý với khách hàng nhưng cũng không được phán xét họ. Tu vấn viên đưa ra những nhận xét phản hồi và giúp khách hàng tự tìm ra các giải pháp cho mình. Một tư vấn viên giỏi không nên quá đồng cảm với khách hàng, không nên đứng về phía khách hàng hoặc quá xúc động, vì như thế sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu quả tư vấn và dễ làm cho tư vấn viên cảm thấy kiệt sức. Thấu cảm có nghĩa là bạn hiểu được hoàn cảnh, tình huống và những gì đã xảy ra với khách hàng. Thấu cảm không phải là cùng cảm nhận những cảm xúc của họ. Khi thấu cảm với khách hàng, bạn thể hiện sự khách quan và cảm thông nhưng không được quá xúc động. Trong khi đó, đồng cảm có nghĩa là bạn đồng tình với họ, cảm nhận được những cảm xúc của họ, và đứng hoàn toàn về phía họ. Lúc này bạn không còn là một người tư vấn nữa. Khách hàng nói với bạn thì cũng chỉ như soi gương và tâm sự với chính họ mà thôi. Khi ta thấu cảm với người khác, ta hiểu được những gì họ đã trải qua, hiểu được nỗi đau và khổ tâm của họ. Nhưng khi trở nên đồng cảm thì ta đau nỗi đau của họ và vì thế, ta đánh mất khả năng tư vấn cho họ một cách hiệu quả.
Thấu cảm
- Lắng nghe và hiểu rõ những gì khách hàng đã trải qua, theo quan điểm của họ
- Không phải lúc nào cũng đứng về phía khách hàng
- Tóm tắt và phản hồi
- Giúp khách hàng tự tìm ra các giải pháp
- Nỗi đau khổ của khách hàng không phải là gánh nặng của bạn
Đồng cảm
- Luôn đứng về phía khách hàng
- Có cùng cảm xúc với khách hàng
- Cùng cảm nhận nỗi đau với khách hàng

THẤU CẢM VÀ ĐỒNG CẢM
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những nội dung chính trong bài
Thông tin tham khảo:
‚ Tư vấn điều trị nghiện ma túy là một can thiệp giúp khách hàng có cơ hội tìm hiểu việc sử dụng ma túy của bản thân trong sự bảo mật và thảo luận về những phương pháp điều trị nghiện ma túy hiện có để tìm ra cách phù hợp nhất đối với hoàn cảnh và điều kiện của mình.
‚ Tư vấn điều trị nghiện ma túy khuyến khích và động viên khách hàng giảm các nguy cơ liên quan đến việc SDMT và hỗ trợ họ tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và điều trị.
‚ Giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong tư vấn nói chung và tư vấn điều trị nghiện ma túy nói riêng.
‚ Tư vấn viên cần thể hiện sự thấu cảm chứ không phải là sự đồng cảm.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Bản chiếu 8
Tư vấn điều trị nghiện ma túy là
- Một can thiệp, được bảo mật, cung cấp nhiều sự lựa chọn
Vai trò của tư vấn điều trị nghiện ma túy
- Khuyến khích, động viên, giảm nguy cơ liên quan tới sử dụng ma túy
- Hỗ trợ khách hàng tìm tới các dịch vụ hỗ trợ và chăm
sóc
Giao tiếp hiệu quả
- Xây dựng mối quan hệ, đáp ứng nhu cầu trước mắt,
- Quan tâm mà không định kiến
- Ngôn ngữ thích hợp
Thấu cảm hiệu quả, đồng cảm không hiệu quả trong tư vấn

2.3 NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tổng quan
I. Giới thiệu 1 phút
Giới thiệu với học viên rằng bài học này sẽ dành để thảo luận về những nguyên tắc cơ bản
trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 20 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về các nguyên tắc cơ bản của tư vấn điều trị nghiện
ma túy.
III. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)
Mục đích: Giúp học viên hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy và bối cảnh của tư vấn.
Thời gian: 25 phút
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu rõ các khái niệm về tự nguyện, bảo mật, tin cậy, không phán xét, tôn trọng, an toàn và gắn kết dịch vụ tư vấn điều trị nghiện ma túy với các dịch vụ khác.
‚ Giải thích được ý nghĩa của từng nguyên tắc
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Bản chiếu 1 nói: Trước khi chúng ta thảo luận và thực hành các kĩ năng và kĩ thuật tư vấn, tôi muốn giới thiệu và giúp các bạn hiểu rõ những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Kết thúc bài này, bạn sẽ có thể:
Liệt kê và hiểu được 7 nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
Giải thích được ý nghĩa của từng nguyên tắc

MỤC TIÊU BÀI HỌC
Bản chiếu 3
nói: Giống như các dịch vụ HIV/AIDS khác, sự thành công của dịch vụ tư vấn điều trị nghiện ma túy tại cộng đồng phụ thuộc rất nhiều vào số lượng khách hàng đến và sử dụng dịch vụ. Hãy luôn nhớ rằng có những nguyên tắc nhất định mà các tư vấn viên bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo dịch vụ có chất lượng tốt, đó là:
‚ Tự nguyện
‚ Bảo mật
‚ Tin cậy
‚ Không phán xét
‚ Tôn trọng
‚ An toàn
‚ Gắn kết với các dịch vụ khác
Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận chi tiết về những nguyên tắc này.

Tự nguyện
Bảo mật
Tin cậy
Không phán xét
Tôn trọng
An toàn
Gắn kết với các dịch vụ khác

NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Bản chiếu 4
nói: Các bạn hiểu thế nào là "tự nguyện"?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên phát biểu ý kiến và tóm tắt lại.
nói: Tự nguyện nghĩa là một người sẵn lòng thực hiện một công việc nào đó. Tư vấn viên chỉ giúp khách hàng tìm ra một giải pháp phù hợp trong quá trình thảo luận với họ chứ không có quyền bắt buộc họ phải làm bất cứ một điều gì. Tự nguyện là một nguyên tắc hết sức quan trọng của tư vấn. Ví dụ, một khách hàng nam đến để tâm sự với tư vấn viên. Tư vấn viên giải thích về mục đích của buổi tư vấn và đưa ra các câu hỏi để đánh giá mức độ sử dụng ma túy của khách hàng, sau đó thảo luận về các giải pháp điều trị nghiện để khách hàng lựa chọn. Giả sử là khách hàng này không muốn thực hiện bất cứ kế hoạch nào cả. Trong tình huống này, tư vấn viên nên tôn trọng quyết định của khách hàng. Tư vấn viên có thể khuyến khích nhưng không thể ép buộc họ đăng kí tham gia vào chương trình điều trị.
Theo các bạn thì tại sao tư vấn cần phải tự nguyện?

Hỗ trợ khách hàng trong việc đưa ra quyết định
- Khách hàng tự đưa ra quyết định của họ
- Khách hàng phải cảm thấy thoải mái, không bị ép
buộc
- Nếu vi phạm những nguyên tắc trên sẽ phá vỡ sự
tin tưởng của khách hàng đối với tư vấn viên

TỰ NGUYỆN
Bản chiếu 4 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên đưa ra câu trả lời. Đảm bảo rằng các ý kiến có đề cập tới
‚ Khách hàng sẽ cởi mở và cảm thấy thoải mái hơn
‚ Dịch vụ tư vấn trở nên thân thiện hơn đối với khách hàng
‚ Xây dựng và duy trì lòng tin
‚ Tiếng tăm tốt đẹp về dịch vụ sẽ được lan truyền rộng rãi trong nhóm đích
‚ Đôi khi khách hàng không sẵn lòng thay đổi hành vi ngay lập tức. Tuy nhiên, nếu họ có ấn tượng tốt về buổi tư vấn đầu tiên này thì nhiều khả năng là họ sẽ quay trở lại lần sau.

Bản chiếu 5
nói: Bảo mật cũng là một nguyên tắc rất quan trọng trong tư vấn. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa tư vấn viên và khách hàng. Các bạn có thể đưa ra một số ví dụ, hoặc kinh nghiệm của chính bản thân các bạn hoặc của người khác về vấn đề bảo mật được không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành một vài phút cho học viên thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm. Sau đó chiếu bản chiếu 5.
nói: Bảo mật là một yếu tố quan trọng khi làm việc với khách hàng là những người SDMT. Bạn phải luôn đảm bảo nguyên tắc bảo mật. Tư vấn viên phải luôn nhớ rằng các thông tin cá nhân của khách hàng phải được giữ bí mật tuyệt đối và không thể đưa ra trao đổi với người khác ngoài quan hệ chuyên môn. Bảo mật nghĩa là không tham khảo hoặc trao đổi về khách hàng với người khác trừ khi là với đồng nghiệp vì lí do chuyên môn, và chỉ được làm thế khi có sự đồng ý của khách hàng.
Tuy nhiên cần phá vỡ nguyên tắc bảo mật nếu tư vấn viên nhận thấy khách hàng tự làm hại bản thân hoặc gây hại cho người khác, bao gồm tình huống khách hàng nói với tư vấn viên về ý định tự tử. Trong tình huống đó, tư vấn viên cần thông báo cho cán bộ quản lý về nguy cơ và thảo luận tìm ra các hành động cần thực hiện.

Bảo mật cho khách hàng là điều bắt buộc
- Phải giữ bí mật những thông tin cá nhân của khách hàng
- Bảo mật nghĩa là không được tham khảo thông tin hoặc trao đổi về cá nhân khách hàng với người khác, trừ khi vì mục đích chuyên môn hoặc được sự đồng ý của khách hàng.
- Nếu vi phạm nguyên tắc này thì khách hàng sẽ mất lòng tin đối với tư vấn viên
BẢO MẬT
Bản chiếu 6
nói: Các bạn có nghĩ rằng là một tư vấn viên đáng tin cậy là một điều quan trọng không? Làm thế nào để biết được một người nào đó có đáng tin cậy hay không?"
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận và viết lên giấy khổ lớn tất cả các ý kiến của họ.
nói: Một tư vấn viên đáng tin cậy là một người mà khách hàng có thể cảm nhận được sự chân thành khi tiếp xúc. Người tư vấn viên tin cậy luôn đúng giờ, có kỉ luật và quan tâm tới khách hàng. Khách hàng cần phải cảm thấy là họ đang được lắng nghe và quan tâm. Bên cạnh đó, việc cung cấp những thông tin chính xác, giải thích rõ ràng và chuyển gửi khách hàng tới các dịch vụ phù hợp hơn sẽ làm tăng thêm sự tin cậy của khách hàng đối với tư vấn viên.
Người tư vấn viên đáng tin cậy cũng luôn giữ bí mật các thông tin cá nhân của khách hàng.

Thể hiện sự thấu cảm một cách chân thành
Làm cho khách hàng cảm thấy họ đang được
lắng nghe và quan tâm
Cung cấp thông tin chính xác và giải thích rõ ràng
Chứng tỏ được tính bảo mật thông tin
TIN CẬY
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu. Những nội dung cụ thể sẽ được chiếu sau phần thảo luận. Kể một câu chuyện hay đưa ra một ví dụ về sự phán xét người khác và những hậu quả của nó.
Thông tin tham khảo: Chúng ta hãy ví dụ một tình huống, khách hàng tâm sự với tư vấn viên rằng: "Tôi rất lo rằng tôi có thể quay trở lại dùng heroin mất. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến chuyện quay lại với đám bạn cũ vẫn thường hay sử dụng ma túy với tôi trước đây. Tôi không thể ngăn nổi cảm giác thèm muốn dùng lại ma túy”. Ngay lập tức tư vấn viên ngắt lời anh ta và nói: “Anh làm sao thế? Anh không quan tâm đến những gì người khác mong muốn ở anh à?”
Hỏi học viên xem cách nói chuyện như vậy có thể mang đến những hậu quả gì. Sau khi học viên thảo luận xong, hãy rút ra những thông điệp chính sau, đồng thời chiếu nội dung của bản chiếu 7:
‚ Luôn luôn ở vị thế trung lập, không đánh giá và cũng không được phản ứng đối với những vấn đề của khách hàng. Điều này giúp bạn kiểm soát được tình thế và luôn có một thái độ cởi mở.
‚ Tư vấn viên chỉ có thể tư vấn tốt khi họ cũng học hỏi từ những kinh nghiệm của khách hàng. Sử dụng chính thông tin của khách hàng để dẫn dắt nội dung của buổi tư vấn.
‚ Hiểu rõ những chuẩn mực và quan điểm của khách hàng là rất quan trọng. Điều đó giúp bạn liên kết niềm tin của họ với những giải pháp khác nhau để họ có thể chọn lựa.
Luôn luôn ở vị thế trung lập, không được phản ứng đối với những vấn đề của khách hàng
Chỉ tư vấn sau khi đã hiểu về những kinh nghiệm của khách hàng
Hiểu rõ và duy trì hiểu biết về những chuẩn mực và quan điểm cảm nhận của khách hàng

KHÔNG PHÁN XÉT
Bản chiếu 8
nói: Không một nguyên tắc nào trong tư vấn được sử dụng riêng biệt. Nguyên tắc này bổ sung, hỗ trợ cho nguyên tắc kia. Chúng ta đã thảo luận về nhu cầu cung cấp dịch vụ có tính tự nguyện, bảo mật, không phán xét. Dịch vụ còn cần phải tuân thủ ba nguyên tắc nữa là tôn trọng và an toàn và kết nối với dịch vụ.
Tôn trọng nghĩa là bạn phải đối xử công bằng với tất cả các khách hàng bất kể tuổi tác, giới tính, hình thức, địa vị xã hội và khả năng tài chính của họ. Hãy tôn trọng họ theo cách mà bạn muốn người khác cũng tôn trọng chính bạn.
Tôn trọng lẫn nhau sẽ mang lại hiệu quả trong giao tiếp và quan hệ tương tác giữa khách hàng và tư vấn viên. Khi hai bên tôn trọng lẫn nhau, khách hàng sẽ trở nên hợp tác, cởi mở và thoải mái hơn khi tâm sự về những “vấn đề thực sự” của họ với bạn, giúp bạn và khách hàng cùng xác định được giải pháp phù hợp.

Đối xử công bằng với tất cả các khách hàng
Tôn trọng khách hàng theo cách mà bạn muốn
mọi người tôn trọng bạn
Tôn trọng lẫn nhau giúp tăng hiệu quả giao tiếp
và mối quan hệ tương tác giữa khách hàng và tư vấn viên

TÔN TRỌNG
Bản chiếu 9
nói: Khi chúng ta nói đến sự an toàn là nói đến an toàn cho những ai? Và cần phải làm gì để đảm bảo sự an toàn đó?”
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận về câu hỏi trên, đảm bảo ý kiến của học viên bao gồm những nội dung sau.
Thông tin tham khảo: Khi học viên trả lời, cần đảm bảo rằng các câu trả lời bao hàm các điểm trên bản chiếu, bao gồm an toàn cho:
‚ khách hàng và thông tin của họ
‚ tài sản của phòng tư vấn và
‚ môi trường xung quanh
An toàn là rất quan trọng cho cả tư vấn viên và khách hàng
Cần đảm bảo sự an toàn cho khách hàng, thông tin của khách hàng, tài sản, của phòng tư vấn và môi trường tư vấn

AN TOÀN
Bản chiếu 10
nói: Tư vấn điều trị nghiện ma túy giúp mang lại sự ổn định cho nhiều khách hàng để nhờ đó họ có thể ứng phó với nhiều vấn đề liên quan khác nhau, có thể ngoài khả năng và chuyên môn của cơ sở cung cấp dịch vụ tư vấn. Cụ thể, những vấn đề như nơi ở, việc làm, những vấn đề liên quan đến sức khỏe như HIV và những vấn đề pháp lí có thể được giải quyết hiệu quả hơn nếu khách hàng đang tham gia dịch vụ tư vấn điều trị nghiện. Kết nối giữa dịch vụ tư vấn với các dịch vụ hỗ trợ khác là một yếu tố quan trọng của dịch vụ tư vấn điều trị nghiện ma túy hiệu quả.
Tư vấn có hiệu quả không chỉ giới hạn trong phạm vi giải quyết các nhu cầu có liên quan đến việc sử dụng ma túy
Gắn kết với các dịch vụ khác cũng đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt là các dịch vụ liên quan tới HIV/AIDS

GẮN KẾT VỚI CÁC DỊCH VỤ KHÁC
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài
Thông tin tham khảo:
‚ Hiểu rõ và tuân thủ tuyệt đối bảy nguyên tắc đóng vai trò rất quan trọng giúp tư vấn viên thực hiện tốt tư vấn điều trị nghiện ma túy.
‚ Bảy nguyên tắc nối kết qua lại và hỗ trợ lẫn nhau nhằm bảo đảm tư vấn thành công.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo. Hiểu biết đầy đủ và tuân thủ 7 nguyên tắc này sẽ giúp cho mối quan hệ giữa khách hàng và tư vấn viên khăng khít hơn
7 nguyên tắc cơ bản trong tư vấn có sự liên hệ với nhau, gắn kết, bổ trợ lẫn nhau, để đảm bảo tư vấn được thành công

2.4 Các Kỹ năng Tư vấn
Tổng quan
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng, trong bài này, bạn sẽ thảo luận về các kĩ năng tư vấn quan trọng mà tư vấn
viên cần có để tư vấn hiệu quả.
II. Thuyết trình 110 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày các kĩ năng tư vấn, bao gồm kĩ năng tư vấn nói chung
và kĩ năng tư vấn điều trị nghiện ma túy.
III. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có).
Mục đích: Hướng dẫn học viên các kĩ năng tư vấn cần thiết để thực hành tư vấn điều trị nghiện ma túy và giúp họ phân biệt được sự khác nhau giữa kĩ năng tư vấn và kĩ thuật tư vấn.
Thời gian: 125 phút (10 phút giải lao giữa bài)
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, học viên sẽ có thể:
‚ Có được những kĩ năng tư vấn cần thiết để tư vấn hiệu quả
‚ Hiểu sự khác nhau giữa kĩ năng tư vấn và những kĩ thuật tư vấn cơ bản, ví dụ như: đặt mục tiêu, giải quyết vấn đề, quản lí thời gian, giải quyết xung đột, quản lí căng thẳng, và vai trò của giáo dục
‚ Thực hành một số kĩ năng tư vấn.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu

Bản chiếu 1
nói: Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau trao đổi cụ thể về các kĩ năng tư vấn. Bài tiếp theo sẽ thảo luận về kĩ thuật tư vấn. Bài học này cũng sẽ giúp phân biệt giữa kĩ năng và kĩ thuật tư vấn. Bài này rất dài nên chúng ta sẽ có 10 phút nghỉ giải lao giữa bài.
CÁC KĨ NĂNG TƯ VẤN
64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 2
Có được những kĩ năng tư vấn cần thiết để tư vấn hiệu quả
Hiểu sự khác nhau giữa kĩ năng tư vấn và những kĩ thuật tư vấn, bao gồm đặt mục tiêu, giải quyết vấn đề, quản lí thời gian, giải quyết xung đột, quản lí căng thẳng, và vai trò của giáo dục
Thực hành một số kĩ năng tư vấn.
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Kết thúc bài này, học viên sẽ có thể:
Bản chiếu 3 nói: Để giúp các bạn hiểu được sự khác nhau giữa kĩ năng và kĩ thuật, trước tiên, chúng ta hãy nói về “kĩ thuật”.
Kĩ thuật là cách thức thực hiện một công việc mà cách làm đó không dễ dàng nhận biết ngay được. Một ví dụ về kĩ thuật là cách bạn làm món cơm rang. Mặc dù nhiều người có thể rang cơm nhưng không phải ai cũng có thể chỉ ra rõ ràng từng bước cần thực hiện để có món cơm rang ngon.
Nhiều kĩ thuật chúng ta sẽ học trong khóa tập huấn này có liên quan đến dự phòng tái nghiện, bao gồm: đối phó với cơn thèm nhớ ma túy, kĩ năng từ chối, đối phó với các trạng thái cảm xúc, quản lí sự căng thẳng … Chúng ta sẽ thảo luận và học từng bước cần thiết để thực hiện các kĩ thuật này.

Kĩ thuật là cách thức thực hiện có hiệu quả một công việc theo cách mà không dễ dàng nhìn thấy ngay được.
KĨ THUẬT
Bản chiếu 4 nói: Để thuần thục một kĩ thuật, ta phải cần có những kĩ năng cần thiết để thực hiện những hành động cụ thể. Ví dụ, để làm món cơm rang, cần có kĩ năng nấu cơm, kĩ năng thái rau và cho rau vào cơm. Nếu không có những kĩ năng này, bạn không thể có món cơm rang ngon được cho dù bạn có thể làm đúng trình tự các bước. Có những kĩ năng cụ thể sẽ giúp bạn thực hiện tốt một công việc đòi hỏi kĩ thuật cao.
Với ví dụ này, chúng ta có thể thấy kĩ thuật giống như là công thức nấu ăn và kĩ năng là khả năng nấu được món ăn ngon với công thức đó (ở đây món ăn có thể là bất cứ công việc gì, như giải quyết vấn đề, quản lí thời gian, đối phó với cơn thèm nhớ ma túy …). Mặc dù có cùng một công thức nấu ăn như nhau nhưng một số đầu bếp (tư vấn viên) sẽ nấu ngon hơn người khác vì kĩ năng của họ tốt hơn (đảo thức ăn như thế nào khi nấu, khi nào thì bắt đầu đảo, bao nhiêu lửa là vừa đủ…). Việc một người sử dụng kĩ năng thành thạo đến đâu sẽ phụ thuộc vào việc người đó được thực hành kĩ năng đó nhiều hay ít.
Tư vấn viên điều trị nghiện ma túy sử dụng rất nhiều kĩ năng khác nhau mà chúng ta sẽ thảo luận trong bài này. Trong bài trước, chúng ta đã biết rằng tư vấn điều trị nghiện ma túy là một can thiệp có chủ đích nhằm hướng dẫn khách hàng các biện pháp dự phòng tái nghiện.
Những kĩ thuật này sẽ là chủ đề trong các bài học tiếp theo của khóa học.

Kĩ năng là khả năng, thường là do học được và thành thục thông qua đào tạo, luyện tập, để thực hiện một hành động đạt hiệu quả mong muốn
KĨ NĂNG
Bản chiếu 5 nói: Bài giảng này sẽ được chia làm 2 phần. Có rất nhiều kĩ năng tư vấn khác nhau và các bạn cần thực hành từng kĩ năng một để có thể áp dụng thành thạo. Chỉ có bằng cách thực hành cẩn thận và thường xuyên, bạn mới có thể sử dụng thuần thục các kĩ năng này trong quá trình tư vấn. Mỗi một kĩ năng có một mục đích khác nhau, có vai trò hỗ trợ cho cả tư vấn viên và khách hàng. Chúng ta sẽ lần lượt thảo luận chi tiết về từng kĩ năng.
Thông tin tham khảo: Những tư vấn viên mới học các kĩ năng này thường nhầm lẫn một số kĩ năng với nhau vì chúng gần giống nhau. Vì vậy, việc thực hành từng kĩ năng hoặc qua quan sát trực tiếp thực hành mẫu, hoặc qua đóng vai là rất quan trọng. Kinh nghiệm cho thấy tư vấn viên mới thường nhầm lẫn giữa các kĩ năng diễn đạt, tóm tắt và diễn giải. Họ cũng có thể nhầm lẫn giữa kĩ năng lựa theo sự phản kháng và đối kháng. Ngoài ra, kĩ năng khơi gợi và kĩ năng đặt câu hỏi mở cũng cần được đem ra so sánh và chỉ rõ sự khác biệt.
Hướng dẫn giảng dạy: Cần có thời gian nghỉ giải lao giữa phần 1 và phần 2 để học viên có thể nghỉ ngơi và có tiếp năng lượng và nhiệt tình cho việc học tập.
PHẦN 1
Chú ý
Câu hỏi mở
Diễn đạt
Tóm tắt
Phản hồi cảm xúc
Khơi gợi
Im lặng
PHẦN 2
Tự tin vào khả năng
của bản thân
Khen ngợi
Chỉnh khung
Lựa theo sự phản kháng
Diễn giải
Đối kháng
NỘI DUNG TRÌNH BÀY
Bản chiếu 6 nói: Nhóm kĩ năng tư vấn thứ nhất mà tôi sẽ cùng thảo luận với các bạn bao gồm:
‚ Chú ý
‚ Câu hỏi mở
‚ Diễn đạt
‚ Tóm tắt
‚ Lắng nghe có phản hồi (phản hồi cảm xúc)
‚ Khơi gợi
‚ Im lặng
Chúng ta sẽ cùng thảo luận chi tiết về từng kĩ năng nêu trên.

Chú ý
Câu hỏi mở
Diễn đạt
Tóm tắt
Phản hồi cảm xúc
Khơi gợi
Im lặng
CÁC KĨ NĂNG TƯ VẤN (1)
Bản chiếu 7 nói: Khi chú ý, bạn thể hiện rằng bạn lắng nghe những lời nói và cũng chú ý đến những ngôn ngữ không lời của khách hàng. Bạn có thể đáp lại bằng những từ như “ừ”, “vâng”, hoặc bằng cách nhắc lại những từ chính mà khách hàng vừa nói. Điều đó giúp cho khách hàng cảm thấy thư giãn thoải mái và có thể diễn tả suy nghĩ của mình một cách tự nhiên. Khi bạn gật đầu có nghĩa là bạn đang nói: Vâng, tôi hiểu và tôi đang lắng nghe anh đây. Tuy nhiên, bạn cũng cần phải chú ý quan sát khách hàng để nắm bắt những ngôn ngữ không lời. Dựa vào đó bạn có thể đánh giá được những lời họ nói ra từ miệng có đúng là những gì họ đang nghĩ trong đầu và cảm nhận trong lòng hay không. Bạn cần ghi nhớ rằng trong tư vấn, phần lớn thời gian công việc tư vấn là phải lắng nghe. Bạn lắng nghe và quan sát là chính chứ bạn không phải nói là chính. Bạn nên thử thực hành kĩ năng này với gia đình và bạn bè: đầu tiên thử tỏ vẻ không quan tâm đến những điều họ nói, sau đó hãy tỏ ra thực sự quan tâm. Quan sát xem thái độ phản ứng của họ như thế nào. Sự khác nhau tùy thuộc vào việc bạn chú ý vào câu chuyện đến đâu. Thông thường, mọi người phản ứng rất nhiều với những ngôn ngữ không lời.
Lắng nghe nội dung được diễn đạt bằng lời nói
Quan sát các dấu hiệu không lời
Phản hồi lại (VD: "um-hm", "vâng" hoặc nhắc lại những từ chính
90% thời gian dành cho việc là lắng nghe và thời gian nói chỉ chiếm 10%
CHÚ Ý
Bản chiếu 8 nói: Bằng cách thể hiện rằng bạn đang thực sự chú ý lắng nghe, bạn sẽ giúp khách hàng cảm thấy thư giãn và thoải mái, khuyến khích họ bày tỏ suy nghĩ một cách cởi mở hơn, và họ sẽ tin tưởng vào bạn hơn.
Chú ý cũng giúp cho tư vấn viên thu được thông tin chính xác về khách hàng thông qua quan sát và nhận biết các dấu hiệu thể chất, ví dụ như khách hàng có triệu chứng cắt cơn hay có đau đớn gì không. Ngôn ngữ cơ thể cũng một phần giúp cho tư vấn viên nhận định xem khách hàng đó đang ở giai đoạn thay đổi hành vi nào (giải thích trong bài sau). Ví dụ, khách hàng có thể biểu lộ rằng họ thực sự quan tâm đến những điều bạn đang nói, hoặc ngược lại, họ tỏ ra hoàn toàn thờ ơ.

Hướng dẫn giảng dạy: Tiến hành hoạt động đóng vai để thể hiện kĩ năng chú ý. Đề nghị một học viên xung phong tham gia. Trao đổi riêng với học viên này về kịch bản và cách thể hiện khi đóng vai. Học viên sẽ đóng vai một khách hàng tìm đến tâm sự với tư vấn viên, và bạn (giảng viên) sẽ đóng vai tư vấn viên, thể hiện kĩ năng chú ý. Giải thích với cả lớp rằng trong tình huống đóng vai này, khách hàng tìm đến với tư vấn viên lần đầu tiên. Tiến hành vở diễn với thời lượng đủ dài sao cho bạn có thể làm mẫu kĩ năng chú ý một cách kĩ lưỡng.
Hỏi cả lớp xem họ có câu hỏi gì không.
Cũng có thể yêu cầu 2 học viên tình nguyện lên đóng vai: một người đóng vai khách hàng, người kia đóng vai nhân viên tư vấn. Sau đó đề nghị cả lớp cho nhận xét về vở diễn: tư vấn viên đã thể hiện kĩ năng chú ý như thế nào? Những hành động nào không phù hợp khi tư vấn? Giảng viên tóm tắt lại và khẳng định những ý đúng.
Giúp khách hàng
Cảm thấy thư giãn và thoải mái
Dễ dàng bày tỏ quan điểm và cảm nhận của họ
Tin tưởng vào tư vấn viên
Giúp tư vấn viên
Thu được những thông tin chính xác về khách hàng
Nhận biết những vấn đề về thể chất
CHÚ Ý
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu, đặt các câu hỏi dưới đây và dành thời gian để học viên trả lời. Sử dụng nội dung trong phần Thông tin tham khảo để cung cấp thêm thông tin cho học viên nếu cần.
nói: Các bạn hãy cho ví dụ về câu hỏi mở? Thông tin tham khảo: Câu hỏi mở là câu hỏi cho phép khách hàng có thể trả lời theo nhiều cách khác nhau và cung cấp thông tin chi tiết. Câu hỏi mở là câu hỏi mà người hỏi không thể dự đoán trước người được hỏi sẽ trả lời như thế nào, cũng như không thể biết được những chiều hướng khác nhau trong câu trả lời.
nói: Vậy ngược với câu hỏi mở là gì?
Thông tin tham khảo: Câu hỏi đóng là câu hỏi có các câu trả lời theo phạm vi lựa chọn. Người được hỏi sẽ trả lời theo những lựa chọn cụ thể. Ví dụ, câu hỏi “Có - Không” là một câu hỏi đóng, chỉ cho phép người được hỏi 2 lựa chọn "có" và "không" để trả lời. Ngoài ra, có rất nhiều ví dụ về những câu hỏi đưa ra lựa chọn, ví dụ: màu sắc, tuổi, tốc độ, số lượng ...
nói: Tất cả các bạn đã rõ về sự khác nhau giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở chưa? Trong khi nói chuyện, chúng ta thường hay có xu hướng dùng câu hỏi đóng hơn là câu hỏi mở. Theo các bạn thì tại sao?
Hướng dẫn giảng dạy: Nếu không có ai trả lời, bạn có thể gợi ý cho học viên rằng hỏi câu hỏi đóng thì khách hàng sẽ trả lời nhanh và dễ dàng hơn, đồng thời tư vấn viên cũng dễ hỏi hơn.
nói: Câu hỏi mở có những lợi ích gì?
Tạo cơ hội để khách hàng có thể trả lời theo nhiều cách khác nhau
Giúp khách hàng

Kéo dài cuộc trò chuyện và tìm hiểu vấn đề sâu hơn.
Giúp tư vấn viên
Lấy thêm thông tin
Tìm hiểu xem khách hàng nghĩ gì
CÂU HỎI MỞ
Bản chiếu 9 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên trả lời. Sau đó lần lượt chiếu các nội dung của bản chiếu, nhấn mạnh những điểm học viên chưa đề cập tới. Yêu cầu một học viên tham gia đóng vai để đặt các câu hỏi mở. So sánh những câu hỏi này với câu hỏi đóng.
Bản chiếu 10
nói: Diễn đạt là một kĩ năng rất hữu ích giúp cho khách hàng biết được rằng bạn đã nghe hết những gì họ vừa nói. Diễn đạt cũng giúp bạn tóm tắt lại những thông tin phức tạp theo cách mà cả tư vấn viên và khách hàng cùng có thể sử dụng để cân nhắc xem nên làm gì tiếp sau đó.
Diễn đạt giúp khách hàng suy nghĩ thấu đáo hơn về một vấn đề mà bạn nhận định là rất quan trọng, vì bạn đã “tua lại” những lời họ nói. Khách hàng có thời gian để nghĩ về những gì họ vừa nói ra. Việc nhắc lại những thông điệp quan trọng sẽ mang lại tác động lớn hơn so với khi khách hàng tự nói, vì nó nhấn mạnh những vấn đề họ cần giải quyết. Để thể hiện câu diễn đạt, bạn có thể bắt đầu bằng: “Bạn đã nói là...”.

Thông tin tham khảo: Để phân biệt được giữa diễn đạt và tóm tắt, bạn có thể đặt mình trong tình huống bạn đi xem phim với một người bạn. Trong khi xem phim, người bạn ấy không nghe rõ một câu mà diễn viên nói và quay sang hỏi bạn “Người diễn viên đó vừa nói gì?” Sau đó bạn trả lời người bạn đó rằng người diễn viên ấy nói... Bạn sẽ không nhắc nguyên văn từng lời mà nhắc lại lời nói của diễn viên bằng những từ ngữ khác nhưng vẫn giữ nghĩa của câu càng chính xác càng tốt. Đó là diễn đạt.
Kĩ năng này khác với kĩ năng tóm tắt ở chỗ, như trong tình huống này, khi bạn xem phim xong rồi về nhà, người bạn cùng phòng của bạn hỏi: "Bộ phim như thế nào?" Bạn kể các chi tiết và hoạt động chính của bộ phim với người bạn đó theo trình tự. Đó là tóm tắt - nghĩa là không nhắc lại chính xác tất cả các đoạn hội thoại trong phim.
Tư vấn viên tóm tắt lại lời nói của khách hàng theo ý hiểu của mình
Giúp khách hàng

Nhận thấy rằng tư vấn viên hiểu những gì họ vừa nói
Được định hướng
Giúp tư vấn viên
Tóm tắt lại những thông tin dài và phức tạp
Nhấn mạnh những nội dung quan trọng
DIỄN ĐẠT
Bản chiếu 11
nói: Việc tóm tắt lại giúp tư vấn viên duy trì được định hướng của buổi tư vấn. Tóm tắt giúp sắp xếp lại những vấn đề được thảo luận trong buổi tư vấn. Nhiều khi khách hàng cung cấp thông tin về nhiều chủ đề và nhiều quan điểm khác nhau nhưng lại không theo một trật tự nào cả. Khi đó bạn có thể giúp họ hệ thống hóa lại thông tin bằng cách tóm tắt lại những gì họ vừa nói. Sau đó, bạn có thể kết nối thông tin đã được tóm tắt với một câu hỏi mở tiếp theo để kéo họ quay trở lại vấn đề mà bạn muốn thảo luận. Tóm tắt cũng giúp cho tư vấn viên kết thúc buổi tư vấn một cách tự nhiên hoặc giúp tập trung vào một vấn đề khi vẫn ghi nhận sự tồn tại của những vấn đề khác.
Tóm tắt có giúp ích gì cho khách hàng không?
Chắc chắn là có! Tóm tắt tạo cơ hội cho khách hàng hiểu rõ ý nghĩa của những thông tin họ đang nói tới và nhận biết được sự chuyển biến và tiến triển trong nội dung thảo luận giữa họ và tư vấn viên.
Thỉnh thoảng tóm tắt lại thông tin sẽ giúp kết nối giữa những nội dung vừa được trao đổi, thể hiện cho khách hàng thấy là bạn đang lắng nghe, và giúp chỉ ra những điểm chưa rõ ràng.
Tóm tắt giúp làm rõ mục đích và ý nghĩa của buổi thảo luận. Bạn cũng có thể qua đó gợi thêm được thông tin và tạo cơ hội để khách hàng lắng nghe được những suy nghĩ của bản thân. Tóm tắt có thể làm rõ những vấn đề còn mơ hồ bằng cách nối kết những điểm có lợi và những điểm có hại của việc sử dụng ma túy trong cùng một câu nói. Ví dụ, bạn có thể nói: “Một mặt thì ..., mặt khác ...”.
Tóm tắt cuối buổi tư vấn sẽ giúp tổng hợp một cách rõ ràng và súc tích tất cả những gì đã diễn ra trong buổi tư vấn.

Giúp đưa ra cái nhìn tổng quan về những gì đã được thảo luận
Giúp khách hàng:

Sắp xếp lại suy nghĩ của họ theo trật tự
Làm rõ nghĩa
Nhận biết rằng tư vấn viên hiểu những điều họ đang nói
Có cảm nhận về sự chuyển biến và tiến triển của buổi tư vấn
Giúp tư vấn viên:
Duy trì buổi tư vấn theo định hướng ban đầu bằng cách đưa ra nội dung trọng tâm
Làm rõ sự tiếp thu của tư vấn viên về nội dung cuộc nói chuyện
Kết thúc buổi tư vấn một cách hợp lý
Tập trung vào một vấn đề trong khi vẫn ghi nhận sự tồn tại của những vấn đề khác
TÓM TẮT
Luôn tự hỏi:
‚ Kết quả chính đạt được trong buổi tư vấn này là gì?
‚ Khách hàng dự định thực hiện điều gì trong tương lai?
‚ Hai bên đã nhất trí những vấn đề gì?
Tóm tắt cuối buổi tư vấn sẽ giúp khách hàng ra về mang theo suy nghĩ, “Bây giờ thì mình đã rõ mình nghĩ về điều gì và mình sẽ làm gì rồi.”

Bản chiếu 11 (tiếp)
Bản chiếu 12
nói: Khi thấu cảm, bạn chia sẻ sự hiểu biết của mình về quan điểm của khách hàng. Việc lắng nghe có phản hồi có thể hỗ trợ quá trình này. Lắng nghe những lời nói của khách hàng, đồng thời xác định được cảm xúc của họ, nhưng nhớ là phải tránh để mình quá xúc động. Lắng nghe có phản hồi giúp bạn nối kết giữa cảm xúc của khách hàng với suy nghĩ và hành vi của họ. Ví dụ, bạn có thể nói: “Bạn cảm thấy … (nói về một cảm giác) bởi vì … (nói về trải nghiệm hoặc hành vi).” Bạn cũng có thể chỉ ra những cảm xúc mà nó còn ẩn chứa bên trong khách hàng.
Không nên sử dụng kĩ năng này quá nhiều vì có thể khiến bạn trở nên hơi nông cạn và không chân thành. Tuy nhiên nó thực sự cho thấy rằng bạn đang lắng nghe và hiểu rõ những gì khách hàng đang suy nghĩ và cảm nhận.
Đôi khi, khách hàng có thể nói những điều rất phức tạp và khó hiểu. Trong những trường hợp này, kĩ năng lắng nghe có phản hồi là hết sức hữu ích. Bạn có thể nói những câu như là “Tôi vừa nghe anh/chị nói là …, có đúng thế không ạ?’, hoặc: “Tôi xin được tóm tắt lại những gì mà anh/chị vừa nói để đảm bảo là tôi đã hiểu đúng vấn đề nhé...”
Cách lắng nghe có phản hồi này hữu ích bởi bạn chưa hoàn toàn tự tin rằng bạn đã hiểu hết những gì bạn vừa nghe và bạn muốn kiểm tra lại thông tin cho chính xác. Nó cũng cho khách hàng thấy là bạn đang lắng nghe một cách tích cực, bạn suy nghĩ về những gì họ nói, chứ không chỉ thụ động ngồi nghe mà thôi. Thông thường, khách hàng sẽ trao đổi nhiệt tình hơn khi họ nhận thấy rằng bạn đang lắng nghe họ.

Thông tin tham khảo: Lắng nghe có phản hồi là bao gồm kết nối các cảm xúc với suy nghĩ và hành vi. Kĩ năng này khác kĩ năng chú ý ở chỗ bạn chủ tâm thể hiện với khách hàng bằng các biện pháp không lời và có lời rằng bạn đang lắng nghe rất kĩ những gì họ đang nói với bạn.
Có thể giúp nối kết tình cảm với suy nghĩ và hành vi
Giúp tư vấn viên:
Kiểm tra xem mình có hiểu chính xác những gì mà khách hàng đang trải qua hay không
Đề cập đến vấn đề nhưng không thúc giục khách hàng
LẮNG NGHE CÓ PHẢN HỒI (PHẢN HỒI CẢM XÚC)
Bản chiếu 13
nói: Phản hồi về những cảm xúc giúp khách hàng nhận ra rằng tư vấn viên lắng nghe và hiểu được những trải nghiệm của họ, đồng thời họ cũng biết được rằng cảm xúc và hành vi có liên quan chặt chẽ với nhau.
Bằng cách sử dụng kĩ năng lắng nghe có phản hồi, bạn không ép buộc khách hàng phải đạt được một kết quả nào đó. Việc phản hồi thường bổ sung thông tin về việc họ thực sự cảm thấy thế nào về tình huống đang nói tới. Đặc biệt là trong lĩnh vực tái nghiện, người sử dụng ma túy thường không nhận ra rằng suy nghĩ và cảm xúc thường có liên quan đến hành vi. Những yếu tố này có vẻ như không liên quan đến nhau. Thực chất, suy nghĩ và cảm xúc có liên quan rất chặt chẽ với hành vi.

Giúp khách hàng:
Nhận thấy rằng tư vấn viên hiểu được cảm xúc và trải nghiệm của họ
Thảo luận cụ thể về những cảm giác mới được đề cập đến một cách mơ hồ
Hiểu rằng cảm xúc, suy nghĩ và hành vi có liên quan chặt chẽ với nhau
LẮNG NGHE CÓ PHẢN HỒI (PHẢN HỒI CẢM XÚC)
Bản chiếu 14
nói: Giống như tóm tắt, phản hồi giúp tư vấn viên kiểm tra xem họ có thực sự hiểu đúng về những điều khách hàng đang trải qua hay không, và xác định được các vấn đề mà không gây sức ép với khách hàng. Đây là một cách kiểm tra lại xem liệu bạn có thực sự hiểu về những diễn biến cuộc sống của khách hàng hay không.
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người: một người sẽ đóng vai khách hàng, một người vào vai tư vấn viên và người thứ ba sẽ quan sát. Người đóng vai tư vấn viên cần thực hành kĩ năng lắng nghe có phản hồi. Đảm bảo dành đủ thời gian để tư vấn viên thể hiện khả năng lắng nghe có phản hồi của mình, sau đó người quan sát sẽ nhận xét.
Dành thời gian cho các nhóm đổi vai cho nhau để ai cũng có cơ hội được thực hành vai tư vấn viên.
Các mẫu câu bạn có thể phản hồi:
Bởi vì (ĐIỀU NÀY) mà bạn đang cảm thấy rất chán nản
Vì bạn thường hay tái nghiện nên bạn nghĩ rằng bạn không có ý chí
Thái độ của cha mẹ bạn giúp bạn cảm thấy lạc quan hơn
Bạn vừa nói rằng những người thân của bạn không tin tưởng vào bạn nên bạn cảm thấy buồn phải không?
Nếu tôi hiểu đúng thì bạn vừa nói rằng bạn tái nghiện vì những cố gắng trước đây của bạn cũng chẳng làm thay đổi được cách nhìn của mọi người đối với bạn. Và điều này khiến bạn cảm thấy (CẢM XÚC)
LẮNG NGHE CÓ PHẢN HỒI (PHẢN HỒI CẢM XÚC)
Bản chiếu 15
nói: Khơi gợi là gì? Các bạn có thể cho một vài ví dụ về khơi gợi được không?
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận nhóm lớn về kĩ năng khơi gợi. Gợi ý để học viên đưa ra các ví dụ. Sau khi thảo luận xong, hãy hỏi học viên xem họ có nhận ra những câu khơi gợi bạn vừa sử dụng để dẫn dắt buổi thảo luận không.
nói: Hãy xem xét ví dụ sau: một khách hàng nói với bạn rằng họ thường có cảm giác thèm nhớ ma túy khi họ đi đến một nơi nhất định. Bạn có thể nói, “Hãy nói cụ thể thêm về nơi đó đi. Bao lâu thì bạn đến đó một lần? Tại nơi đó có điều gì đặc biệt khiến cho bạn có cảm giác thèm nhớ? Khi đến đó thì bạn đi với ai?”. Khách hàng sẽ cung cấp thêm thông tin về những vấn đề bạn cho là quan trọng nhưng bạn lại cảm thấy là chưa đầy đủ. Khơi gợi là một cách để tiến tới vấn đề cốt lõi, để từ đó xây dựng các chiến lược dự phòng tái sử dụng ma túy. Đó là một cách để đi sâu vào trọng tâm của vấn đề và cho thấy đó là vấn đề quan trọng vì nó được tìm hiểu rất kĩ lưỡng. Như vậy, khơi gợi là cách tìm hiểu thêm thông tin và làm rõ về một vấn đề mà bạn cho là quan trọng.
Bạn nghĩ rằng kĩ năng khơi gợi có những lợi điểm gì?

Hướng dẫn giảng dạy: Dẫn dắt một cuộc thảo luận nhóm lớn về khơi gợi. Sau khi học viên thảo luận, tiếp tục như sau:
nói: Kĩ năng khơi gợi nên được áp dụng đối với những vấn đề mà bạn cảm thấy đặc biệt quan trọng. Tư vấn viên có thể tác động nhiều đến định hướng của buổi tư vấn thông qua sử dụng kĩ năng khơi gợi để hướng cuộc thảo luận. Bất cứ khi nào đặt một câu hỏi, hãy hỏi về điều bạn muốn biết chứ không phải là điều khách hàng muốn nói với bạn. Khi đó, các câu hỏi của bạn sẽ “dẫn dắt” hay định hướng cho khách hàng. Bằng cách khơi gợi, bạn cũng giúp khách hàng tập trung
Hỏi thêm thông tin:
Làm rõ về một điểm bạn cảm thấy quan trọng
Giúp tư vấn viên:
Tập trung vào những nội dung mà tư vấn viên thấy cần phải chú ý tới
Hiểu rõ hơn những gì khách hàng đang miêu tả
Giúp khách hàng:
Tập trung chú ý vào một cảm xúc hoặc một vấn đề cụ thể
Nhận thức được và hiểu rõ tình huống hoặc những cảm xúc của bản thân
KHƠI GỢI
chú ý hơn. Đôi khi, bạn sẽ thấy cần phải tìm hiểu thông tin ở một hướng khác. Nhìn chung, khơi gợi là một cách can thiệp vào câu chuyện, giúp tư vấn viên tăng kiểm soát tiến trình và nội dung buổi tư vấn. Vì thế, kĩ năng này cũng nên sử dụng hạn chế và thận trọng, đặc biệt là ở lúc mới bắt đầu buổi tư vấn.
Kĩ năng khơi gợi bao gồm:

‚ Đặt câu hỏi: có nhiều loại câu hỏi khác nhau (như chúng ta đã thảo luận ở phần trước). Cả hai loại câu hỏi đóng và mở đều có thể giúp chúng ta khám phá được nhiều thông tin hơn nhưng cũng có thể làm cản trở việc đó.
‚ Đưa ra nhận định: là một hình thức khơi gợi ở mức độ nhẹ nhàng hơn. Ví dụ, thay vì hỏi khách hàng “Cô ấy đã làm gì khiến cho bạn phải phiền lòng?”, bạn có thể nói “Tôi không rõ là cô ấy đã làm gì khiến cho bạn phải phiền lòng.” Câu nhận định có ít tính áp đặt và ít gây sức ép hơn so với câu hỏi.
‚ Khơi gợi bằng cách nói, ‘Hãy kể cho tôi nghe thêm về điều đó đi!”
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người: một người sẽ đóng vai khách hàng, một người vào vai tư vấn viên và người thứ ba sẽ quan sát. Người đóng vai tư vấn viên sẽ thực hành kĩ năng khơi gợi. Cần đảm bảo rằng bạn dành đủ thời gian để học viên thể hiện thể hiện khả năng gợi mở của mình và người quan sát góp ý. Dành đủ thời gian cho học viên đổi vai cho nhau để ai cũng có cơ hội được thực hành kĩ năng.
Bản chiếu 15 (tiếp)
nói: Đây là một trong những kĩ năng thú vị nhất được dùng trong tư vấn và là một kĩ năng có thể nói là thách thức nhất đối với hầu hết các tư vấn viên. Nếu ở giữa chừng của một cuộc hội thoại mà cả hai bên đều im lặng thì sau bao lâu một trong hai người cảm thấy cần phải nói gì đó để chấm dứt sự im lặng?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời. Sau khi họ trả lời, tiếp tục như sau
nói: Trong cuộc nói chuyện thông thường, hầu hết mọi người chỉ chịu được sự im lặng tối đa là 30 giây rồi sẽ phải nói một điều gì đó để phá tan bầu không khí im lặng. Tuy nhiên, tôi lưu ý các bạn rằng tư vấn không phải là một cuộc nói chuyện. Tư vấn là có mục đích. Sẽ có những thời điểm trong một buổi tư vấn, khách hàng nói một điều vô cùng quan trọng và cũng hết sức khó khăn, và bạn có thể thấy là họ do dự không biết làm gì tiếp theo. Do đó họ có thể không nói gì nữa. Trong một buổi nói chuyện thông thường thì sau đó 30 giây, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy có một áp lực cần phải nói một điều gì đó, bất cứ điều gì, để có thể phá vỡ sự im lặng, bởi áp lực do sự im lặng tạo ra là quá sức chịu đựng. Tuy nhiên, trong khi bạn đang nghĩ xem nên nói gì thì đó cũng là lúc khách hàng đang suy nghĩ về những điều họ vừa nói. Họ bắt đầu lắng chìm trong suy tư và sự im lặng sẽ làm cho tác động của những lời nói trở nên thực sự mạnh mẽ.
Khi kết hợp với kĩ năng chú ý, kĩ năng giữ im lặng có thể khích lệ khách hàng tiếp tục chia sẻ. Sự im lặng có thể giúp họ dễ dàng chuyển sang bước tiếp theo. Vì thế, khách hàng chính là người chủ động phá vỡ sự im lặng và tiếp tục buổi nói chuyện. Khách hàng, chứ không phải bạn, mới chính là người cần phải nghĩ về việc tiếp nối câu chuyện. Nhờ có sự im lặng, họ sẽ hiểu rõ hơn về những gì vừa mới nói ra, vì thông thường chúng ta không để ý lắm đến lời nói nếu không có thời gian suy nghĩ về chúng.

Bản chiếu 16
Im lặng có thể có tác động rất mạnh mẽ.
Có những thời điểm khi mọi thứ thực sự “lắng lại”
và cảm xúc rất mạnh mẽ và cô đọng
Khi kết hợp với kĩ năng chú ý, sẽ góp phần động viên khách hàng tiếp tục chia sẻ
Im lặng cho phép khách hàng trải nghiệm được sức mạnh của những lời nói do chính họ nói ra
IM LẶNG
Im lặng là một kĩ năng để bạn sử dụng cho những giây phút quan trọng, sâu lắng, khi khách hàng đang nghiền ngẫm hoặc khi họ nói một điều rất xúc động. Ngoài ra, sự im lặng cũng ngăn không cho họ chuyển tiếp sang một vấn đề khác dễ nói hơn để lảng tránh chủ đề khó nói hiện tại.
Giữ im lặng không phải là một kĩ năng bạn có thể sử dụng cho những vấn đề ít quan trọng. Nếu bạn cứ luôn im lặng khi nói đến những chuyện nhỏ nhặt thì khách hàng sẽ không hiểu bạn đang dự tính điều gì. Họ có thể nghĩ rằng bạn không tiếp tục lắng nghe họ nữa hoặc buổi tư vấn như vậy là đã kết thúc vì không biết sẽ làm gì tiếp theo.

Bản chiếu 16 (tiếp)
Bản chiếu 17
NGHỈ GIẢI LAO – 10 PHÚT
Hướng dẫn giảng dạy: Cho học viên nghỉ giải lao 10 phút: đứng dậy và đi lại cho thoải mái.
nói: Chúng ta vừa hoàn thành phần đầu của bài học về kĩ năng tư vấn. Bây giờ mời các bạn nghỉ giải lao trong vài phút. Trong thời gian đó, chúng ta có thể thư giãn và suy nghĩ về những gì vừa học.
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Nên có hoạt động khởi động nhỏ trước khi tiếp tục phần 2 bài học để học viên cảm thấy tỉnh táo, sẵn sàng học tập. Hỏi học viên xem họ có câu hỏi gì không trước khi bắt đầu nội dung mới.
nói: Những kĩ năng khác giúp cho bạn trở thành một tư vấn viên giỏi gồm có:
‚ Tự tin vào năng lực bản thân
‚ Khen ngợi
‚ Chỉnh khung
‚ Lựa theo sự phản kháng
‚ Diễn giải
‚ Đối kháng
Tự tin vào năng lực bản thân
Khen ngợi
Chỉnh khung
Lựa theo sự phản kháng
Diễn giải
Đối kháng
CÁC KĨ NĂNG TƯ VẤN (2)
Bản chiếu 19
nói: Gây dựng sự tự tin của khách hàng vào năng lực bản thân họ là một việc vô cùng quan trọng. Khi khách hàng tự tin vào khả năng bản thân thì họ sẽ có sự tự tin để thực hiện thành công một công việc nào đó. Mọi người sẽ dễ dàng bắt tay vào việc hơn nếu họ tin rằng họ làm được. Người ta cũng hay né tránh những công việc mà cho rằng mình không có khả năng đảm đương. Những người sử dụng ma túy thường thiếu tự tin. Vì thế, nếu bạn thể hiện là bạn tin tưởng rằng họ có khả năng thực hiện một số công việc hoặc sẽ đạt được mục tiêu thì họ sẽ có thêm sự tự tin, có thêm năng lượng và nhiệt huyết để thực hiện.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng, khi khuyến khích khách hàng tin vào bản thân, bạn cần phải thực tế. Những người quá tự tin vào khả năng của bản thân mà trên thực tế năng lực của họ chưa đủ để thực hiện công việc có thể dẫn tới những hậu quả nguy hại hoặc làm họ thất vọng. Tạo dựng sự tự tin có thể bao gồm cung cấp hỗ trợ và khích lệ khách hàng thực hiện thành công các yêu cầu. Góp ý một cách tích cực về những gì họ đã đạt được cũng giúp họ tự tin hơn và tăng khả năng họ sẽ cố gắng thực hiện các mục tiêu tham vọng hơn.

Hướng dẫn giảng dạy: Mời hai học viên lên làm mẫu kĩ năng này. Cung cấp kịch bản cho họ. Một trong những kịch bản có thể sử dụng là: một khách hàng đến nói chuyện với tư vấn viên về cách anh ta đã làm để đối phó với cơn thèm nhớ. Người đóng vai khách hàng phải thể hiện là anh ta không rõ là liệu mình làm được như thế chỉ là do gặp may hay là đã thực sự kiểm soát được cơn thèm nhớ của bản thân. Tư vấn viên khen ngợi khách hàng đã thành công trong việc chế ngự cơn thèm nhớ và thừa nhận rằng hẳn đó là một việc vô cùng khó khăn. Bằng cách đó, tư vấn viên đã củng cố sự tự tin của khách hàng để duy trì cam kết không sử dụng ma túy.
Niềm tin vào khả năng của bản thân khách hàng trong thực hiện công việc hoặc hoàn thành mục tiêu của họ
Đối với khách hàng:

Cho họ sự tự tin rằng họ có thể thành công
Tiếp thêm năng lượng và nhiệt huyết
Đối với tư vấn viên:
Cần phải thực tế
TỰ TIN VÀO NĂNG LỰC BẢN THÂN
Bản chiếu 20
nói: Đưa ra những lời nhận xét tích cực và hỗ trợ đối với những nỗ lực thay đổi hành vi của khách hàng bằng cách khen ngợi, động viên và thấu hiểu họ, sẽ truyền thêm động lực để họ tiếp tục duy trì hành vi sức khỏe. Ví dụ, bạn cần ghi nhận sự can đảm của họ khi họ đến với dịch vụ tư vấn và khen ngợi vì họ đã làm được điều này. Nhấn mạnh những điểm mạnh của khách hàng trong việc đối phó với những cám dỗ của ma túy hoặc duy trì không sử dụng. Nhắc họ nghĩ đến những điều họ đã làm tốt mà có thể họ không chú ý.
Thể hiện sự quan tâm tích cực và hỗ trợ những nỗ lực của khách hàng trong quá trình thay đổi hành vi
Đối với khách hàng:

Tạo thêm cơ hội để họ tự tin hơn
Nhiều động lực
KHEN NGỢI
Bản chiếu 21
nói: Chỉnh khung là cách nhìn nhận về các thông tin khách hàng cung cấp theo một quan điểm khác so với họ. Điều này có thể giúp khách hàng nhìn nhận thấu đáo hơn về những hành vi của họ theo một quan điểm mà từ trước tới giờ họ chưa hề nghĩ tới. Chỉnh khung nghĩa là bạn vẫn ghi nhận những gì mà khách hàng nói tới nhưng cũng đưa ra một cách diễn giải khác sao cho có thể hỗ trợ khách hàng thay đổi hành vi. Nó giúp kết nối giữa hành vi của khách hàng với những hậu quả mà họ không nghĩ tới. Ví dụ, khi một người rất tự hào nói rằng anh ta có thể uống rất nhiều rượu mà không hề bị say thì bạn có thể sử dụng kĩ năng chỉnh khung để đáp lại rằng: "Nghe anh nói thì có vẻ như là anh có thể uống được rất nhiều rượu, nhưng mà tôi băn khoăn không biết anh có biết rằng uống một lượng rượu nhiều như vậy sẽ rất có hại cho sức khỏe không, dù bây giờ anh có thể chưa thấy thấy được những hậu quả đó?”
Thông tin tham khảo: Bạn có thể chia sẻ một ví dụ khác với học viên. Khách hàng có thể thấy hữu ích khi biết được khả năng dung nạp rượu cũng giống như sự nhạy cảm khi bị đau. Ví dụ, nếu bạn cho tay vào trong bếp lò đang nóng thì nhiệt độ cao sẽ khiến bạn đau và rụt tay ra khỏi lò để tránh bị bỏng. Cảm nhận được sự đau đớn về thể chất bảo vệ bạn để không bị bỏng tay. Tương tự như vậy, nếu khả năng dung nạp rượu của bạn thấp thì hãy coi đó là chuyện mừng vì bạn được cảnh báo trước khi uống quá nhiều. Cơ thể bạn đã ra dấu hiệu cho biết bạn uống đủ rồi đấy, giúp bảo vệ cơ thể khỏi những hậu quả nguy hại do uống quá nhiều rượu, ví dụ như các bệnh về gan. Khi sự dung nạp của cơ thể bạn với rượu tăng lên, bạn sẽ mất đi sự bảo vệ kịp thời đó. Thật nực cười là đa số các chàng trai trẻ lại thường hay khoa trương rằng họ có thể uống rất nhiều rượu mà không hề say, mà không hiểu rằng đấy là chính là nguy cơ gây tổn hại đến sức khỏe của họ về lâu dài.
Đưa ra một cách hiểu khác hoặc diễn giải thông tin
Giúp khách hàng:

Hiểu rõ hơn về hành vi của mình
Nối kết những hậu quả mà từ trước đến nay họ chưa từng nghĩ tới
Giúp tư vấn viên:
Hỗ trợ để thay đổi hành vi, tư vấn viên giúp khách hàng đạt được sự thay đổi
CHỈNH KHUNG
Bản chiếu 22
nói: Đôi khi bạn muốn bạn mình làm một điều gì đó nhưng bạn cũng nhận thấy rằng họ có vẻ miễn cưỡng, không muốn làm theo đề nghị của bạn. Chúng ta gọi sự miễn cưỡng đó là phản kháng. Họ phản kháng lại những đề nghị của bạn. Đôi khi bạn càng động viên khuyến khích thì bạn thấy họ lại càng phản kháng mạnh hơn. Trong tư vấn, sự phản kháng xảy ra khi khách hàng tranh cãi, ngắt lời, hoặc phủ nhận những gợi ý bạn đưa ra. Điều quan trọng khi đó là bạn không nên tranh cãi với khách hàng vì như vậy chỉ làm họ phản ứng mạnh hơn thôi. Lựa theo sự phản kháng nghĩa là không trực tiếp đối đầu với khách hàng.
Thay vì tranh cãi với họ, bạn nên lựa theo sự phản kháng của họ để xử trí. Bạn nên tận dụng sức mạnh mà họ đang dùng để từ chối và biến nó thành sức mạnh để thưc hiện công việc. Có ba cách để lựa theo sự phản kháng, đó là: phản hồi đơn giản, phản hồi theo hướng phóng đại, và phản hồi hai chiều.
Khi sử dụng cách
phản hồi đơn giản, bạn có thể nói, “Anh có vẻ không nhận thấy rằng việc sử dụng ma túy của anh có thể sẽ gây ra nhiều rắc rối, nhất là khi bạn bè anh thậm chí còn dùng nhiều hơn mà dường như là họ không gặp phải bất kỳ một rắc rối nào cả”. Cách nói như vậy có thể sẽ khiến họ quay sang tranh luận về quan điểm này.
Phản hồi theo hướng phóng đại nhằm tìm cách kích thích một khía cạnh mà khách hàng còn mơ hồ, bằng cách phóng đại (nhưng không mỉa mai) những điều họ nói. Ví dụ, bạn có thể nói, “Vậy nếu bạn bè của anh không gặp phải rắc rối gì, tôi đoán là anh cảm thấy điều đó có nghĩa là anh cũng không cần phải lo lắng gì cả”. Rõ ràng là bạn phải hết sức thận trọng khi dùng chiến lược này.
Phản hồi hai chiều là cách nhận biết những điểm mâu thuẫn mà khách hàng đã nói. Để làm được điều này, bạn cần sử dụng thông tin khách hàng đã cung cấp trước đó, không nhất thiết là thông tin từ buổi tư vấn hiện tại. Bạn có thể nói rằng, “Tôi nhận thấy là anh Phản hồi đơn giản
Phản hồi theo hướng phóng đại
Phản hồi hai chiều
LỰA THEO SỰ PHẢN KHÁNG
Bản chiếu 22 (tiếp)
đang bối rối về vấn đề này. Một mặt, anh nói rằng bạn bè anh dùng ma túy nhiều hơn anh mà họ lại không hề gặp rắc rối gì, nhưng mặt khác anh lại lo lắng về việc sử dụng ma túy của mình”.
Chúng ta hãy lấy một ví dụ khác. Một số người SDMT tin rằng cai nghiện có thể gây tổn hại tới các bộ phận nội tạng trong cơ thể họ, khiến họ có thể chết. Họ tin tưởng như vậy vì họ đã chứng kiến nhiều bạn bè chết trong hoặc sau khi cai nghiện. Vì thế, họ nghĩ rằng cần phải tiếp tục dùng ma túy để có thể sống sót, mặc dù biết rằng việc sử dụng ma túy gây cho họ quá nhiều rắc rối. Khi khách hàng quá tin vào sự hiểu lầm này, tư vấn viên không nên chỉ trích họ, vì nếu bạn làm như vậy, họ sẽ phản kháng mạnh hơn và không muốn tiếp tục buổi tư vấn nữa.
Trong tình huống này, bạn có thể nói với khách hàng như sau:

Phản hồi đơn giản: "Tôi rất hiểu tại sao anh lại có suy nghĩ như vậy, vì nhiều người SDMT khác cũng tin là như thế”.
Phản hồi phóng đại: "Tôi đoán là anh cảm thấy nếu vẫn tiếp tục sử dụng ma túy thì anh sẽ chẳng phải lo lắng gì cả, đúng thế không?"
Phản hồi hai chiều: "Từ những điều anh vừa nói, tôi hiểu rằng anh rất sợ phải cai nghiện và không biết phải làm thế nào. Một mặt, nhiều người SDMT tin rằng họ sẽ chết nếu cai nghiện. Nhưng mặt khác, anh cũng nói rằng anh gặp khá nhiều rắc rối do sử dụng ma túy và anh cũng biết nhiều người đã cai nghiện thành công, đúng không?"
Những kĩ năng khác có thể dùng trong tình huống này là chỉnh khung và chuyển chủ đề.
Chúng ta sẽ có cơ hội để thực hành các kĩ năng này trong phần sau.

Bản chiếu 23
nói: Diễn giải giúp khách hàng nhận ra ý nghĩa của những hành động của mình, từ góc nhìn của tư vấn viên. Nó cũng giúp cho người tư vấn chỉ ra mối liên kết giữa suy nghĩ, tình cảm và hành vi của khách hàng với các hậu quả có thể xảy ra. Nó giúp cho khách hàng nhận thấy có nhiều cách khác nhau để cùng nhìn nhận một vấn đề, một tình huống, hay một giải pháp. Kĩ năng diễn giải sẽ hiệu quả hơn nếu bạn đưa ra lời diễn giải theo hình thức gợi ý thay vì một câu khẳng định, sự kiện hoặc niềm tin. Bạn có thể bắt đầu câu diễn giải bằng cách, “Nghe những gì anh nói thì hình như là ...”. Cách này sẽ khiến cho khách hàng cảm thấy thoải mái hơn vì thấy tư vấn viên không phán xét mình.
Điều quan trọng là: Bắt đầu câu diễn giải của bạn một cách không đối kháng giúp khách hàng không cảm thấy bị phán xét.
Ví dụ:
“Theo tôi thấy thì ...”,
“Tôi băn khoăn không biết...”
DIỄN GIẢI
Gồm 3 thành phần sau:
Xác định và nhắc lại những thông điệp cơ bản
Bổ sung thêm ý kiến của tư vấn viên để đưa ra một cách hiểu mới
Kiểm tra lại những quan điểm này với khách hàng
DIỄN GIẢI
Bản chiếu 24
nói: Diễn giải là một kĩ năng rất quan trọng và bao gồm 3 thành phần: 1) xác định và nhắc lại những thông tin cơ bản; 2) bổ sung thêm ý kiến của tư vấn viên để giúp khách hàng có cách hiểu mới; và 3) kiểm tra lại những ý kiến này với khách hàng. Là người tư vấn, bạn có thể diễn giải thông tin, xác định cảm xúc phù hợp và phản hồi lại với khách hàng. Như vậy, bạn đã giúp khách hàng có cơ hội hiểu được hàm ý của những điều họ nói.
Kĩ năng diễn giải cũng được dùng để tìm hiểu về cảm xúc mà khách hàng trải qua, trong trường hợp họ cảm thấy bối rối. Đôi khi, khách hàng bị nhầm lẫn giữa các cảm xúc. Khách hàng thường lẫn lộn 2 trạng thái cảm xúc là tức giận và buồn bã. Họ nói rằng họ đang buồn trong khi thực tế là họ đang giận dữ. Người tư vấn cũng có thể nhầm lẫn khi gán hoàn cảnh này với trạng thái cảm xúc kia, trong khi thực tế khách hàng không hề cảm nhận như thế. Đó là lí do tại sao bạn cần diễn giải cẩn thận những gì khách hàng nói, khi bạn nhận thấy cảm xúc thực sự của họ không giống những gì họ miêu tả.
Đôi khi, khách hàng không nhận ra sự liên hệ giữa những hành vi của họ và những hậu quả của những hành vi đó. Cách diễn giải giúp khách hàng nhận thức được những hậu quả đó một cách rõ ràng hơn. Cách làm này cũng sử dụng nguyên tắc “bảng ra quyết định” (thảo luận sau) để thảo luận với khách hàng về những hậu quả trước mắt và lâu dài của hành vi. Ví dụ bạn có thể nói, "Từ những điều anh vừa nói, tôi hiểu rằng anh cũng nhận thấy rằng hút thuốc khiến cho anh bị ho. Thực tế, phổi của anh cũng có thể đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Anh đã bao giờ suy nghĩ về hậu quả này chưa?"

Bản chiếu 25
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu, đặt câu hỏi dưới đây và dành thời gian để học viên trả lời rồi mới chiếu nội dung bản chiếu. Đề cập đến tất cả những điểm học viên chưa nhắc đến.
nói: Theo các bạn thì việc diễn giải mang lại những lợi ích gì cho tư vấn viên và cho khách hàng?
Giúp tư vấn viên:
Chia sẻ một khía cạnh nhìn nhận mới để khách hàng cân nhắc
Gợi ý những chiến lược mới để giải quyết vấn đề
Giúp khách hàng:
Nhận ra rằng có nhiều cách để người ta nhìn nhận về các tình huống, vấn đề và giải pháp
Linh hoạt hơn và khám phá ra nhiều quan điểm mới
Hiểu vấn đề một cách rõ ràng hơn
DIỄN GIẢI
nói: Đôi khi bạn cần phải đặt thẳng vấn đề với khách hàng. Đối kháng thường là chỉ ra cho khách hàng thấy sự khác biệt giữa những điều họ tin (hoặc nghĩ) và những việc họ làm. Nó giống như là bạn cầm một chiếc gương cho họ soi và nói: “Tôi hiểu là bạn tin vào điều này nhưng tôi lại thấy rằng bạn đang làm điều khác. Như vậy có vẻ không được thống nhất. Bạn có thể giải thích về điều đó không?”
Bản chiếu 26
Sử dụng khi cần chỉ ra cho khách hàng thấy sự khác biệt giữa những điều họ tin (hoặc nghĩ) và những việc họ làm.
ĐỐI KHÁNG
Bản chiếu 27
nói: Đối kháng là một kĩ năng không nên sử dụng thường xuyên trong buổi tư vấn. Bạn nên lựa chọn thật cẩn thận cách đối kháng vì nó có thể khiến cho khách hàng phản kháng mạnh mẽ hơn đối với việc thay đổi hành vi và sẽ khiến cho việc xây dựng mối quan hệ và niềm tin với khách hàng trở nên khó khăn. Thực tế, bạn không đối kháng với khách hàng mà làm cho họ tự thách thức bản thân.
Khi chúng ta thảo luận về phỏng vấn tạo động lực các bạn sẽ hiểu tại sao cần thận trọng khi sử dụng kĩ năng đối kháng.
Đối kháng có thể là cần thiết khi bạn nghe thấy khách hàng nói về những điều mà bạn biết rằng rất nguy hiểm hoặc vô nghĩa, và có thể gây nguy hại cho họ. Trong trường hợp này, bạn có thể bày tỏ sự lo ngại hoặc cung cấp thông tin về những tác hại của những điều họ vừa nói đến. Điều này rất quan trọng bởi vì có thể khách hàng chưa được nghe sự thật từ những người khác.

Giúp tư vấn viên:
Lấy bản thân mình làm tấm gương cho khách hàng, thông qua giao tiếp cởi mở, chân thực và thẳng thắn
Giúp khách hàng:
Phá vỡ hàng rào phòng thủ mà họ đã vô tình hoặc cố ý dựng lên
Nhìn nhận được sự khác nhau giữa những gì họ nghĩ và điều họ làm
ĐỐI KHÁNG
Bản chiếu 28
nói: Điều quan trọng là bạn phải nhận thức được rằng có nhiều cách giao tiếp gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả tư vấn. Một số cách đã được đề cập trong phần các kĩ năng tư vấn. Đa số những cách tiếp cận đề cập trong bản chiếu này sẽ khiến cho khách hàng phản kháng, không chịu thay đổi, và có thể khiến họ không tiếp tục đến với dịch vụ tư vấn nữa vì cảm thấy không ai hiểu mình cả.
Ra lệnh hoặc yêu cầu làm
Đe dọa hoặc cảnh cáo
Tranh cãi hoặc thuyết phục
Lên mặt đạo đức
Chỉ trích hoặc quy chụp
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN TRÁNH (1)
Bản chiếu 29
nói: Cần tránh cư xử không chân thành. Khách hàng có thể nhận biết bạn có chân thành hay không thông qua lời nói hoặc hành động của bạn. Tư vấn đòi hỏi bạn phải thể hiện sự cam kết chân thành. Khách hàng cũng sẽ cảm thấy chán nếu bạn nhắc đi nhắc lại mãi một thông tin theo đúng một cách. Tuy nhiên, bạn vẫn cần nhắc lại thông tin trong các buổi tư vấn tiếp theo vì khách hàng có thể quên hoặc hiểu sai.
Không dùng những lời nói sáo rỗng vì chúng khiến bạn có vẻ không chân thành. Tương tự, dùng những thuật ngữ chuyên môn sẽ gây khó hiểu cho khách hàng và khiến họ cảm thấy xa cách, thấp kém.
Cuối cùng, bạn không nên thỏa hiệp với khách hàng theo cách phản tác dụng đối với việc duy trì mục tiêu đã đề ra. Thoả hiệp nghĩa là bạn không phản ứng khi khách hàng nói ra những điều mà bạn biết là không đúng và tiềm ẩn mối nguy hại. Tư vấn viên lâm sàng cũng có nguy cơ thoả hiệp với khách hàng trong khi điều trị, dẫn tới hình thành mối quan hệ không lành mạnh. Vì thế, cần phải duy trì mối quan hệ chuyên nghiệp, độc lập với khách hàng.
Chúng ta đã thảo luận về các kĩ năng tư vấn và bây giờ là cơ hội để chúng ta thực hành sắm vai.

Hướng dẫn giảng dạy: Đề nghị một học viên lên thực hành đóng vai. Giảng viên sẽ đóng vai khách hàng, tưởng tượng ra một tình huống sao cho học viên có thể vận dụng nhiều kĩ năng tư vấn khác nhau. Sau khi kết thúc, hỏi cả lớp xem học viên đó đã sử dụng những kĩ năng nào trong phần đóng vai.
MỘT SỐ ĐIỂM CẦN TRÁNH (2)
Không chân thành
Lặp đi lặp lại
Sáo rỗng
Sử dụng từ chuyên môn
Thoả hiệp
Bản chiếu 30
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài học.
Thông tin tham khảo:
‚ Kĩ năng tư vấn là những công cụ cơ bản sử dụng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Các kĩ năng tư vấn này được sử dụng cùng với các kĩ thuật dự phòng tái nghiện để xây dựng nền móng cho tư vấn điều trị nghiện ma túy hiệu quả.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Kĩ năng tư vấn là những công cụ cơ bản sử dụng tư vấn điều trị nghiện ma túy
Những kĩ năng này được sử dụng cùng với các kĩ thuật tư vấn dự phòng tái nghiện để xây dựng nền móng cho tư vấn điều trị nghiện ma túy hiệu quả
KẾT LUẬN
Tài liệu phát tay 2.4
Các kĩ năng tư vấn
Lắng nghe có phản hồi
Thấu cảm nghĩa là thể hiện sự hiểu biết của bạn về quan điểm của khách hàng. Lắng nghe có phản hồi có thể hỗ trợ quá trình này. Bạn lắng nghe lời nói của khách hàng nhưng đồng thời cũng xác định cảm xúc của họ để giúp nối kết giữa những cảm nhận đó với những trải nghiệm của họ. Ví dụ, bạn có thể nói với khách hàng, “Anh cảm thấy (CẢM XÚC) bởi vì (KINH NGHIỆM hoặc HÀNH VI)”.
Không nên sử dụng kĩ năng này quá nhiều vì có thể khiến bạn có vẻ hời hợt. Tuy nhiên, việc lắng nghe có phản hồi thể hiện rằng bạn thật sự đang lắng nghe khách hàng và bạn hiểu những điều họ đang nghĩ và cảm nhận. Bạn cũng có thể đề cập với khách hàng về những cảm xúc tiềm ẩn trong lòng họ. Qua đó khách hàng có thể thấy được rằng cảm xúc và hành vi của họ có mối liên hệ với nhau.
Lựa theo sự phản kháng
Sự phản kháng xảy ra khi khách hàng tranh luận, ngắt lời hoặc phủ nhận những điều bạn nói. Điều quan trọng trong trường hợp này là bạn không nên tiếp tục tranh luận với họ vì điều đó càng làm cho họ phản đối mạnh hơn. Lựa theo sự phản kháng nghĩa là không đối đầu trực tiếp với quan điểm của khách hàng.
Có nhiều cách để xử trí trong tình huống này. Cách thứ nhất là phản hồi đơn giản. Ví dụ, bạn có thể nói: “Có vẻ anh cho rằng mình sẽ không gặp vấn đề gì với việc sử dụng ma túy, vì nhiều bạn sử dụng ma túy của anh cũng không có bất cứ rắc rối gì”. Khi bạn phản hồi như vậy sẽ có thể khiến cho khách hàng phản ứng lại với quan điểm đó. Cách thứ hai là phản hồi hai chiều. Với cách này, bạn thừa nhận những gì khách hàng nói, nhưng đồng thời cũng đề cập đến mặt kia của vấn đề. Ví dụ: “Tôi có thể thấy là điều này đang khiến anh bối rối, đúng không? Một mặt thì anh lo lắng về chuyện sử dụng ma túy, nhưng mặt khác, anh lại đang dùng nhiều hơn là bạn bè mình.”
Ví dụ: Một số khách hàng tin rằng việc cai nghiện ma túy có thể gây hại đến các cơ quan trong cơ thể và có thể khiến cho họ tử vong. Họ tin như vậy vì họ đã chứng kiến một vài người bạn chết trong lúc hoặc sau khi cai nghiện. Vì thế, họ cho rằng cần phải tiếp tục sử dụng ma túy để sống sót, mặc dù biết rằng việc sử dụng ma túy cũng gây ra rất nhiều hậu quả có hại. Khi gặp phải khách hàng có một niềm tin mãnh liệt như vậy, tư vấn viên không nên nói thẳng với khách hàng rằng điều đó là sai, vì có thể khiến họ phản ứng lại và/ hoặc không muốn tiếp tục buổi tư vấn nữa.
Trong trường hợp này, bạn có thể nói như sau:
Phản hồi đơn giản: “Tôi hiểu tại sao anh lại nghĩ như vậy bởi vì nhiều người sử dụng ma túy khác cũng nghĩ thế”.
Phản hồi hai chiều: “Theo như những gì anh nói, tôi hiểu là anh rất sợ phải cai nghiện vì nhiều người sử dụng ma túy cho rằng việc cai nghiện ma túy có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, tôi chắc anh cũng biết rằng rất nhiều người đã cai nghiện thành công chứ?”
Câu hỏi mở
Câu hỏi mở giúp khách hàng trả lời một cách tự nhiên và cởi mở, và tư vấn viên có thể khai thác thêm thông tin về suy nghĩ, quan điểm và cảm xúc của họ về một chủ đề nào đó. Với câu hỏi mở, khách hàng không thể trả lời trong một khuôn khổ lựa chọn nhất định hay đơn giản là Có hay Không.
Chỉnh khung
Với kĩ năng này, người tư vấn vẫn thừa nhận những gì khách hàng nói, nhưng đồng thời đưa ra một cách diễn giải mới, một ý nghĩa mới, nhằm hỗ trợ thay đổi hành vi. Khách hàng sẽ thấy những hành vi của họ có liên quan đến những hậu quả mà họ chưa hề nghĩ tới. Ví dụ, khi một người có thể khoe khoang rằng họ có thể uống rất nhiều rượu bia mà không say, bạn có thể sử dụng kĩ năng này để nói rằng: “Nghe nói là anh có thể uống được rất nhiều rượu, nhưng tôi băn khoăn không biết là anh có biết rằng uống một lượng rượu lớn như vậy là rất nguy hại đến sức khỏe chưa, mặc dù có thể là bây giờ anh chưa nhận thấy những hậu quả đó?"
Một cách khác là bạn hãy liên hệ với việc cảm nhận về đau đớn sẽ giúp bảo vệ cơ thể chúng ta khỏi những hậu quả nguy hại. Ví dụ, khi cho tay vào trong lò nướng, bạn sẽ cảm thấy đau đớn vì nóng. Cảm nhận được đau đớn sẽ mách bảo rằng bạn cần phải rụt tay lại. Tương tự, khi bạn dễ say rượu, tức là độ dung nạp của bạn với rượu thấp, thì lợi ích của điều đó là cơ thể bạn sẽ cảnh báo cho bạn biết khi nào phải dừng lại trước khi gây nguy hại cho bản thân. Những người hay khoe khoang về khả năng uống rượu của mình lại không nhận thức được rằng họ đã mất đi bản năng tự bảo vệ đó.
Tóm tắt
Kĩ năng này thể hiện rằng bạn đang rất chú ý lắng nghe và nhấn mạnh những điểm mấu chốt trong thảo luận. Tóm tắt giúp làm rõ mục đích và ý nghĩa của buổi tư vấn. Bạn cũng có thể khơi gợi để có thể có thêm thông tin và tạo cơ hội cho khách hàng có thể lắng nghe được những suy nghĩ của chính họ.
Tóm tắt có thể làm rõ những điều khách hàng còn mơ hồ bằng cách nối kết những yếu tố tiêu cực và những yếu tố tích cực của việc sử dụng ma túy trong cùng một câu nói. Ví dụ, bạn có thể nói: “Một mặt thì ..., mặt khác thì ...”
Kĩ năng tóm tắt cũng dùng để kết thúc một buổi tư vấn một cách tự nhiên.
Tài liệu phát tay 2.4 (tiếp)
Diễn đạt
Tư vấn viên tóm tắt những lời nói của khách hàng vừa nói để khách hàng có thể thấy rằng bạn thực sự hiểu đúng những suy nghĩ của họ. Khi diễn đạt lại, bạn nhấn mạnh những điểm quan trọng và định hướng cho khách hàng về nội dung thảo luận tiếp theo. Ví dụ, bạn có thể nói: “Theo những điều anh nói thì tôi hiểu là..., anh có thể rõ hơn về điều đó không?”
Chú ý
Kĩ năng này thể hiện rằng bạn đang lắng nghe từng lời nói của cuộc trao đổi giữa bạn và khách hàng và đồng thời cũng để tâm đến những cử chỉ không lời. Bạn có thể giao tiếp với khách hàng bằng cách nói những từ như “vâng”, hoặc lặp lại những từ chính trong lời khách hàng nói. Khi bạn chú ý, bạn sẽ giúp khách hàng cảm thấy thư giãn và thoải mái, và có thể thổ lộ những suy nghĩ của họ một cách tự nhiên hơn.
Khơi gợi
Với kĩ năng khơi gợi bạn hướng sự chú ý vào những cảm xúc hoặc hành vi cụ thể. Kĩ năng này nên được sử dụng đối với những nội dung mà bạn cảm thấy đặc biệt quan trọng. Một ví dụ của kĩ năng khơi gợi là: “Anh/chị hãy nói thêm về điều đó”.
Im lặng
Bạn sẽ cần phải giữ im lặng trong những thời điểm bạn muốn sự việc lắng lại. Im lặng nhằm ngăn khách hàng chuyển sang một chủ đề khác dễ nói hơn và lảng tránh vấn đề quan trọng nhưng khó nói hiện tại.
Diễn giải
Kĩ năng diễn giải giúp cho khách hàng nhận thấy được ý nghĩa những hành động của họ từ góc nhìn của người tư vấn. Việc diễn giải có thể nối kết một cách khéo léo giữa suy nghĩ, cảm giác và hành động của khách hàng với những hậu quả.
Việc diễn giải giúp cho khách hàng nhận ra rằng có thể có nhiều cách để nhìn nhận một sự việc, vấn đề hay giải pháp. Khi sử dụng kĩ năng diễn giải, nên đưa ý kiến dưới hình thức gợi ý để khách hàng suy nghĩ, thay vì một câu khẳng định. Bạn có thể bắt đầu câu diễn giải của mình bằng cách: “Nghe những điều anh nói thì có lẽ là ...”
Đôi khi, khách hàng không thấy được sự liên quan giữa hành vi và hậu quả của các hành vi đó. Với kĩ năng diễn giải, bạn giúp làm rõ hơn những hậu quả này. Kĩ năng này cũng sử dụng những nguyên tắc tương tự như “bảng ra quyết định” (sẽ đề cập đến trong những bài sau) khi đề cập đến những hậu quả ngắn hạn và dài hạn của một hành vi nào đó.
Tài liệu phát tay 2.4 (tiếp)
Ví dụ, bạn có thể nói: “Từ những gì anh vừa nói, tôi thấy rằng anh đã nhận thấy hút thuốc lá là nguyên nhân khiến cho anh bị ho và điều này có thể gây ra tác hại cho sức khỏe của anh. Thực tế, những tác hại đó có thể bao gồm cả những bệnh nặng về phổi nữa. Anh đã bao giờ nghĩ đến những hậu quả đó chưa?”
2.5 Các kĩ thuật tư vấn
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về kĩ thuật tư vấn và các kĩ thuật có liên quan
đến các kĩ năng tư vấn như thế nào.
II. Thuyết trình 25 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày về các kĩ thuật tư vấn và những lời khuyên giúp cho
buổi tư vấn đạt được kết quả tốt.
III. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có).
Mục đích: Giúp học viên hiểu được các kĩ thuật tư vấn khác nhau để thực hiện tư vấn thành công.
Thời gian: 30 phút
Mục tiêu:
Sau bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Nhận biết những kĩ thuật tư vấn hiện có và có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ tái nghiện
‚ Thảo luận về cách áp dụng và hoàn cảnh áp dụng những kĩ thuật đó trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương II – Bài 2.5 105
Bản chiếu 1
nói: Đôi khi, một tư vấn viên có thể hiểu rất rõ các kĩ thuật và kĩ năng tư vấn trong tư vấn điều trị nghiện ma túy, nhưng điều đó không có nghĩa người đó là một tư vấn viên giỏi. Để trở thành một tư vấn viên giỏi bạn cần phải thực hành rất nhiều. Thực hành, thực hành, và càng thực hành nhiều, bạn càng càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm, khám phá các cơ hội để rèn luyện kĩ năng và kĩ thuật tư vấn. Trong bài này, chúng ta sẽ thảo luận cụ thể hơn về các kĩ thuật tư vấn.
CÁC KĨ THUẬT TƯ VẤN
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 2
Nhận biết được các kĩ thuật tư vấn có thể giúp giảm thiểu nguy cơ tái nghiện
Thảo luận về cách áp dụng và hoàn cảnh áp dụng
những kĩ thuật đó trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Kết thúc bài này, học viên có thể:
Bản chiếu 3
nói: Là một tư vấn viên, bạn cần áp dụng một hoặc tất cả các kĩ thuật sau đây, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng khách hàng:
‚ Giải quyết vấn đề
‚ Đặt mục tiêu
‚ Quản lí thời gian
‚ Quản lí sự căng thẳng
‚ Đối phó với các trạng thái cảm xúc
- Nóng giận

‚ Giải quyết mâu thuẫn
‚ Dự phòng tái nghiện
- Đối phó với cơn thèm nhớ ma túy
- Kĩ năng từ chối
Hãy nghĩ về danh sách các kĩ thuật này như là một thực đơn để chúng ta chọn ra kĩ thuật tư vấn phù hợp với mỗi khách hàng. Điều quan trọng là tư vấn viên cần phải hiểu rằng không phải với khách hàng nào cũng cần áp dụng tất cả các kĩ thuật tư vấn nêu trên. Chúng ta sẽ cùng trao đổi chi tiết về từng kĩ thuật này sau. Mục đích của bài học hôm nay là giới thiệu cho các bạn về những kĩ thuật tư vấn khác nhau và thảo luận về những tình huống thích hợp để sử dụng những kĩ thuật này. Những kĩ thuật này còn hữu ích và áp dụng được cho chính bạn.

Giải quyết vấn đề
Đặt mục tiêu
Quản lí thời gian
Quản lí sự căng thẳng
Đối phó với các trạng thái cảm xúc:
- Nóng giận
Giải quyết mâu thuẫn
Dự phòng tái nghiện:
- Đối phó với cơn thèm nhớ ma túy
- Kĩ năng từ chối
CÁC KĨ THUẬT TƯ VẤN
Bản chiếu 4 nói: Ai trong số các bạn ngồi đây có kinh nghiệm về giải quyết vấn đề hoặc đặt mục tiêu? Các bạn đã từng sử dụng hai kĩ thuật này bao giờ chưa?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên chia sẻ kinh nghiệm, sau đó tiếp tục giải thích các khái niệm như dưới đây.
nói: Để khách hàng có thể đạt được mục tiêu đề ra trong buổi tư vấn, họ cần phải thay đổi rất nhiều thói quen và cách sống, và tìm được cách giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Một số khách hàng có quá nhiều rắc rối đến nỗi một vấn đề dù rất nhỏ cũng trở nên rất khó giải quyết. Đối với nhiều khách hàng, việc sử dụng ma túy đã dẫn đến hậu quả là họ lảng tránh vấn đề hoặc đưa ra những quyết định vội vã, hấp tấp. Cách giải quyết vấn đề kém cỏi như vậy thường dẫn tới những hậu quả tiêu cực: làm cho vấn đề càng trở nên trầm trọng hơn hoặc làm nảy sinh những vấn đề mới, kể cả nguy cơ tái sử dụng ma túy. Khi tư vấn cho khách hàng, có thể bạn cần phải hướng dẫn cho khách hàng cách giải quyết những vấn đề quan trọng mà bạn đã cùng họ xác định được.
Việc sử dụng kĩ thuật đặt mục tiêu một cách hệ thống có thể làm tăng cơ hội cho khách hàng xác định được và đạt được mục tiêu. Bằng cách đều đặn tiến hành đặt mục tiêu, khách hàng có thể quyết định họ muốn đạt được điều gì, sau đó dần dần từng bước một, thực hiện những việc cần thiết để đạt được mục tiêu đó. Quá trình xác lập mục tiêu giúp họ tự quyết định cuộc đời mình sẽ đi theo hướng nào. Bằng cách đặt ra mục tiêu rõ ràng, họ có thể đo lường được kết quả và tự hào về những thành quả đạt được. Qua đó, họ cũng thêm tự tin và nhận thấy mình có khả năng thực hiện được những mục tiêu đề ra.
Để có thể thực hiện kĩ thuật giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu, tư vấn viên và khách hàng cần phải thảo luận một cách cởi mở để khách hàng chuẩn bị đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng mà họ đang gặp phải. Bạn có thể cùng khách hàng xác định mục tiêu ngay từ đầu buổi tư vấn hoặc trong khi thảo luận về kế hoạch hành động với khách hàng.

Năng lực giải quyết vấn đề là đặc điểm của lối sống lành mạnh
Nhiều người SDMT có kĩ năng giải quyết vấn đề còn hạn chế
Kĩ năng giải quyết vấn đề tác động đến nguy cơ tái nghiện
Mục tiêu ngắn hạn cần dựa trên những vấn đề cụ thể:
- Dễ thực hiện hơn
- Giúp một người trải nghiệm sự thành công và vượt qua được cảm giác vô dụng đã gặp phải
- Tăng mức độ tự tin
Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể, và phù hợp với giai đoạn thay đổi hành vi của mỗi khách hàng
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ ĐẶT MỤC TIÊU
Để buổi tư vấn có hiệu quả, bạn cần phải hết sức cụ thể. Nếu bạn nói một cách mơ hồ, chung chung, khách hàng có thể ra về mà vẫn không rõ là họ cần phải làm gì. Trong bài này, bạn cũng sẽ thấy rằng khách hàng sẽ phải cố gắng tìm ra nhiều giải pháp khác nhau bởi vì không bao giờ có một giải pháp hoàn hảo duy nhất cho tất cả mọi người. Bạn cần phải để khách hàng tự lựa chọn giải pháp thích hợp nhất đối với họ.
Bản chiếu 4 (tiếp)
Bản chiếu 5
nói: Quản lí thời gian là một kĩ thuật rất quan trọng trong dự phòng tái nghiện. Có rất nhiều yếu tố cám dỗ trong cuộc sống của khách hàng khiến họ có nguy cơ tái nghiện. Họ sẽ cần phải học cách quản lí thời gian của họ để tránh những tình huống nguy cơ đó.
Tư vấn viên có thể thảo luận về cách lập thời gian biểu hàng ngày. Thời gian biểu giúp đưa hoạt động của một ngày vào trong khuôn khổ và biết cần ưu tiên làm việc nào trước, việc nào sau. Thời gian biểu trong ngày cần phải đủ bận rộn sao cho khách hàng không cảm thấy buồn chán hoặc bắt đầu nghĩ vẩn vơ về ma túy. Sự buồn chán cũng là cảm xúc nguy cơ cao dễ dẫn tới tái sử dụng. Tuy nhiên, thời gian biểu cũng không nên quá dày đặc để khách hàng có thể linh hoạt về thời gian. Cần nhớ rằng khách hàng cũng cần có thời gian thư giãn và chơi đùa. Gia đình cũng có thể sẽ hỗ trợ khách hàng hơn khi nhận thấy người thân mình đang dần ổn định các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, không có ma túy.

Việc lập một thời gian biểu có thể giúp:
- Tránh được việc phân bổ thời gian không thích hợp dẫn đến có những hành vi không lành mạnh
- Lên kế hoạch khung cho một ngày và lên thứ tự ưu tiên cho các hoạt động
- Vượt qua được sự buồn chán
- Dành được sự hỗ trợ của gia đình và họ hàng
QUẢN LÍ THỜI GIAN
Bản chiếu 6
nói: Cũng như những người khác, người SDMT cũng có thể bị căng thẳng. Căng thẳng quá mức có thể là một nguyên nhân dẫn tới tái sử dụng ma túy và không còn động lực áp dụng các kĩ thuật khác mà bạn đã dạy cho họ nữa. Căng thẳng cũng làm phát sinh những vấn đề về thể chất và tâm lí. Là tư vấn viên, bạn hãy xác định và thảo luận với họ về những nguyên nhân khiến họ cảm thấy căng thẳng. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết sau về kĩ thuật quản lí sự căng thẳng, nhưng một cách hiệu quả là bạn có thể kể câu chuyện về những người đã trải qua những vấn đề tương tự và họ đã làm thế nào để giải quyết thành công. Hướng dẫn họ cách tránh hoặc quản lí sự căng thẳng bằng cách:
‚ Nghĩ đến những điều tốt đẹp trong quá khứ, hiện tại và tương lai
‚ Chia sẻ với người khác về những sự băn khoăn, lo lắng và học hỏi kinh nghiệm của người khác
‚ Tìm lời khuyên từ những người bạn đáng tin cậy, người thân trong gia đình, các tư vấn viên ...
Quá nhiều căng thẳng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến công việc:
- Mất dần động lực làm việc
- Hiệu quả công việc giảm sút
- Xuất hiện các vấn đề về thể chất, tâm lý và hành vi
Học về kỹ thuật quản lí sự căng thẳng có thể giúp giảm nguy cơ tái nghiện
QUẢN LÍ SỰ CĂNG THẲNG
Bản chiếu 7
nói: Nóng giận, lo lắng và trầm cảm là những cảm xúc rất phổ biến ở người SDMT. Những cảm xúc này có thể là yếu tố thúc đẩy người ta tái sử dụng ma túy. Sự nóng giận cũng thường dễ bị tưởng lầm là hung hăng. Chúng ta sẽ thảo luận về cách khách hàng có thể đối phó với sự nóng giận và tránh trạng thái hung hăng như thế nào.
Giận dữ, lo lắng, trầm cảm:
- Là những cảm xúc phổ biến ở những người có vấn đề liên quan đến SDMT
- Có thể gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ tình cảm
- Có thể dẫn tới tái nghiện
ĐỐI PHÓ VỚI CÁC TRẠNG THÁI CẢM XÚC
Bản chiếu 8
nói: Trong mối quan hệ giữa người với người, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nếu không biết cách giải quyết mâu thuẫn theo hướng tích cực thì có thể ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ và sức khỏe. Đối với người SDMT, mâu thuẫn có thể dẫn tới bạo lực, giận dữ, chán chường. Tất cả những điều này đều có thể dẫn tới tái sử dụng ma túy. Giải quyết mâu thuẫn là một kĩ thuật giúp xây dựng các chiến lược giúp khách hàng kiểm soát vấn đề này, sẽ được đề cập chi tiết trong bài 7.3.
Trong mối quan hệ giữa người với người, mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi:
- Không biết cách giải quyết mâu thuẫn theo hướng tích cực có thể gây nên những vấn đề nghiêm trọng đối với các mối quan hệ và sức khỏe
- Đối với người SDMT, mâu thuẫn có thể dẫn tới tái nghiện
GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
Bản chiếu 9
nói: Khách hàng có thể tái sử dụng do những suy nghĩ và cảm giác nội tâm hoặc do những yếu tố khách quan bên ngoài như mâu thuẫn với người khác hoặc bạn bè rủ rê lôi kéo. Mặc dù tái sử dụng ma túy là một hiện tượng rất phổ biến, các can thiệp hiệu quả có thể giúp khách hàng lấy lại sự kiểm soát và ngăn ngừa tiếp tục sử dụng ma túy. Tư vấn viên có thể cùng khách hàng xác định những tình huống có nguy cơ cao và xây dựng kế hoạch đối phó.
Bạn cần hướng dẫn khách hàng cách đối phó với cơn thèm nhớ ma túy và kĩ năng từ chối khi bị rủ rê sử dụng ma túy. Chúng ta sẽ học các kĩ thuật này trong bài dự phòng tái nghiện. Cơn thèm nhớ ma túy xảy đến là lẽ tự nhiên nhưng khách hàng thường không hiểu điều đó. Họ nghĩ rằng họ là người duy nhất có cảm giác thèm nhớ và tưởng là có điều gì bất ổn đang xảy ra đối với mình. Họ cũng có thể tin rằng khi họ cảm thấy thèm nhớ ma túy thì không có cách nào có thể cưỡng lại được.
Cách tốt nhất là hoàn toàn tránh xa những tình huống nguy cơ, như tránh tiếp xúc với những người bạn đang dùng ma túy hoặc người buôn bán ma túy, mặc dù cách này không được thực tế cho lắm. Đối với hầu hết khách hàng thì đây không phải là giải pháp lâu dài. Hướng dẫn cho họ kĩ năng từ chối ma túy có vai trò rất quan trọng trong việc giúp khách hàng ngừng sử dụng ma túy trong một thời gian dài và tiếp tục duy trì tình trạng này. Tư vấn viên và khách hàng có thể thực hành các cách từ chối sử dụng heroin hoặc từ chối không lui tới những nơi có bán heroin. Khả năng nói "không" một cách hiệu quả trong những tình huống này sẽ giúp cho khách hàng có được khả năng kiểm soát khi phải đối mặt với những tình huống cám dỗ.

Khách hàng có thể tái nghiện do nhiều yếu tố cá nhân và yếu tố khách quan khác nhau
Tái nghiện là hiện tượng rất phổ biến và khách hàng cần phải biết cách đối phó để không tiếp tục sử dụng ma túy
Các kĩ thuật/can thiệp chính:
- Xác định các tình huống có nguy cơ cao và xây dựng các kế hoạch đối phó với những tình huống này
- Học cách đối phó với cơn thèm nhớ ma túy và xây dựng các kĩ năng từ chối khi có người rủ rê dùng ma túy
DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Bản chiếu 10
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính trong bài
Thông tin tham khảo:
‚ Hãy coi các kĩ thuật tư vấn giống như một thực đơn của những lựa chọn khác nhau
‚ Việc sử dụng kĩ thuật tư vấn nào hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân của mỗi khách hàng
‚ Tư vấn viên cần phải nhận thức được rằng không phải khách hàng nào cũng cần áp dụng tất cả các kĩ thuật tư vấn
‚ Đồng thời cần ý thức được rằng nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi theo thời gian.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Hãy coi các kĩ thuật tư vấn như một thực đơn để chúng ta có thể lựa chọn và sử dụng phối hợp theo nhiều cách khác nhau
Việc sử dụng kĩ thuật nào hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu cá nhân của từng khách hàng
Không phải khách hàng nào cũng cần đến tất cả các kĩ thuật này
Nhu cầu của khách hàng có thể thay đổi theo thời gian
TÓM TẮT

2.6 QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng bạn sẽ thảo luận cùng học viên về quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 90 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày về quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Giải lao 10 phút
III. Đóng vai 45 phút
Thực hiện đóng vai như trong hướng dẫn giảng dạy
IV. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có).
Mục đích: Giúp học viên hiểu được những bước cơ bản trong quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 150 phút
Mục tiêu:
Sau bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Liệt kê được các bước trong quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Giải thích được sự liên quan giữa các bước trong quy trình
‚ Thực hành đóng vai một buổi tư vấn theo quy trình đã được hướng dẫn
‚ Áp dụng các kĩ thuật đặt mục tiêu và giải quyết vấn đề trong khi đóng vai.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
‚ Tài liệu phát tay 2.6-1 (vai trò của tư vấn viên) vàa 2.6-2 (ví dụ trường hợp)
Bản chiếu 1
nói: Trong bài này chúng ta sẽ thảo luận về quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy.
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 2
Kết thúc bài này, học viên có thể:
Liệt kê các bước trong quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Giải thích mối liên quan giữa các bước
Thực hành đóng vai buổi tư vấn theo quy trình đã được hướng dẫn
Áp dụng các kĩ thuật đặt mục tiêu và giải quyết vấn đề trong hoạt động đóng vai
MỤC TIÊU BÀI HỌC nói: Xây dựng được một liên minh với khách hàng là một việc rất quan trọng để đảm bảo thành công của bất cứ chương trình tư vấn nào. Trong tư vấn điều trị nghiện ma túy đó là liên minh trị liệu. Tư vấn viên cần phải tạo ra một bầu không khí thoải mái để khách hàng hợp tác. Có 3 cách chính để xây dựng mối quan hệ hợp tác này.
Thứ nhất, tư vấn viên cần phải có hiểu biết sâu rộng về nghiện ma túy và hậu quả của SDMT. Thứ hai, cho dù có giỏi đến đâu chăng nữa thì tư vấn viên cũng cần phải thừa nhận rằng khách hàng mới là chuyên gia khi nói về cuộc sống của chính bản thân họ. Tư vấn viên cần phải lắng nghe khách hàng một cách chi tiết và chính xác, và tránh đưa ra những ý kiến đánh giá chủ quan. Đây có thể là một khó khăn đối với nhiều nhân viên tư vấn. Nhiều người có thói quen đưa ra lời khuyên như bố mẹ khuyên bảo con cái. Tuy nhiên, khi bạn là tư vấn viên, cần nhớ rằng bạn đang nói chuyện với một người hoàn toàn trưởng thành, và con người trưởng thành đó có đủ khả năng nhận thức được hậu quả của những hành vi của họ. Thứ ba, tư vấn viên cần phải thể hiện rằng mình sẽ luôn là người đồng hành với khách hàng trong quá trình đầy khó khăn này, luôn sẵn sàng giúp đỡ họ để đạt được mục tiêu.

Thông tin tham khảo: Xây dựng lòng tin là một điều hết sức khó khăn vì rất nhiều người SDMT đã đánh mất niềm tin vào người khác. Họ sẽ cần nhiều thời gian hơn để có thể cảm thấy tin tưởng rằng bạn là người họ có thể tin cậy và cùng nhau làm việc. Mỗi một phương pháp trong 3 phương pháp này sẽ góp phần xây dựng mối quan hệ trị liệu và tạo dựng tinh thần hợp tác giữa tư vấn viên và khách hàng. Có rất nhiều giả định được xây dựng dựa trên mô hình này. Chỉ đơn giản nói một câu: “Vâng, tôi biết tôi cần phải thực hiện bước nào rồi” không đủ. Bạn cần phải cố gắng rất nhiều để hiểu được khách hàng và hoàn cảnh của họ rồi mới biết khi nào có thể bắt đầu vàa bắt đầu như thế nào.
Nói chung, những can thiệp hiệu quả nhất trong việc xây dựng một mối quan hệ gắn bó giữa người tư vấn và khách hàng là những can thiệp chú trọng vào kĩ năng lắng nghe tích cực của tư vấn viên và tinh thần hợp tác. Ví dụ, khi khách hàng nói với tư vấn viên là họ
Bản chiếu 3
Tư vấn viên cần phải:
Có kiến thức sâu về nghiện và các hình thái SDMT trong nhóm khách hàng
Thừa nhận rằng khách hàng là chuyên gia thực sự khi thảo luận về cuộc sống của họ
Làm cho khách hàng cảm nhận được rằng họ có một đồng minh
XÂY DỰNG TINH THẦN HỢP TÁC
Bản chiếu 3 (tiếp)
dùng lại ma túy, tư vấn viên có thể nói: “Chúng ta hãy cùng xem lại xem điều gì đã xảy ra và cùng nhau xây dựng một kế hoạch để giúp bạn sẽ không dùng lại ma túy nữa.” Cách nói như vậy nêu bật được nỗ lực của cả đôi bên trong mối quan hệ.
Nếu trong thời gian đầu, mối quan hệ giữa tư vấn viên và khách hàng không gắn bó thì tư vấn viên có thể sử dụng chiến lược đơn giản sau để cải thiện tình hình: hỏi khách hàng xem điều gì khiến họ nghĩ hoặc cảm thấy mối quan hệ giữa họ và tư vấn viên chưa được thoải mái, hoặc theo họ những nguyên nhân nào gây khó khăn cho mối quan hệ. Thông thường, khách hàng biết rất rõ làm thế nào để cải thiện tình hình, nhưng họ thường cảm thấy không thoải mái nói ra nếu tư vấn viên không chủ động hỏi. Để cải thiện mối quan hệ, tư vấn viên phải sẵn sàng chấp nhận ý kiến phản hồi của khách hàng và có thể phải thay đổi phương pháp. Tuy nhiên, tư vấn viên không nên cảm thấy áp lực phải đáp ứng yêu cầu thay đổi của khách hàng nếu điều đó ảnh hưởng tới phương pháp điều trị của mình. Thay vì thế, tư vấn viên có thể điều chỉnh ứng xử giao tiếp để cải thiện mối quan hệ.
nói: Một buổi tư vấn điều trị nghiện ma túy cho cá nhân và nhóm là một quá trình năng động và diễn tiến theo vòng tròn. Quá trình này gồm bảy bước. Bước đầu tiên là gặp gỡ làm quen và giới thiệu với khách hàng. Trong những giây phút ban đầu khách hàng thường cảm thấy hồi hộp và lo lắng vì họ chưa biết bạn là ai, và liệu bạn có đáng tin cậy hay không. Kể cả khi bạn đã cố gắng hết sức thì việc tạo dựng lòng tin ở khách hàng cũng đòi hỏi phải có thời gian. Tuy nhiên, điều quan trọng trước khi bắt đầu quá trình tư vấn là khách hàng nhận thấy bạn đã đối xử với họ với sự tôn trọng.
Quá trình tư vấn là một vòng tròn lặp đi lặp lại. Quá trình này bắt đầu bằng bước Đánh giá các nhu cầu sinh học và tâm lí xã hội của khách hàng. Bạn muốn mình có thể hiểu được về những vấn đề đa chiều của việc sử dụng ma túy vì những vấn đề này liên quan đến khách hàng. Bạn sẽ thường đánh giá khách hàng về khía cạnh sức khỏe, học vấn, việc làm, sử dụng rượu và ma túy, những vấn đề liên quan đến gia đình/xã hội, luật pháp và tình cảm. Việc đánh giá này là nền tảng cho hàng loạt các bước tiếp theo và các buổi tư vấn trong tương lai với khách hàng. Trong bài này chúng ta sẽ lần lượt thảo luận về từng vấn đề liên quan đến bản chất toàn diện và nối tiếp nhau theo vòng tròn của mỗi bước trong quy trình tư vấn. Quá trình tư vấn không phải bao gồm các bước nối tiếp nhau theo đường thẳng với điểm kết thúc cuối cùng. Như các bạn đã thấy trong bản chiếu, đây là một vòng tròn, bắt đầu với việc đánh giá khách hàng, tiến đến giải quyết vấn đề, sau đó là đề ra mục tiêu, rồi xây dựng kế hoạch thực hiện, sau đó bạn sẽ cần phải chỉnh sửa lại kế hoạch, tóm tắt các hoạt động và rồi lại bắt đầu bằng với hoạt động đánh giá mới. Quá trình này được thực hiện liên tục trong thời gian dài, nhưng không nhất thiết là buổi tư vấn nào cũng cần làm tất cả các bước. Vì thế, đây là một quá trình diễn ra liên tục và trong quá trình đó, một số vấn đề sẽ được giải quyết và những vấn đề mới lại nảy sinh.

Bản chiếu 4
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
GIỚI THIỆU
BAN ĐẦU
TÓM TẮT ĐÁNH GIÁ
KHÁCH HÀNG
ĐIỀU CHỈNH
KẾ HOẠCH
GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ
LẬP KẾ HOẠCH
HÀNH ĐỘNG ĐẶT MỤC TIÊU
Bản chiếu 4 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành 4 nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm thảo luận về các bước tiến hành trong mỗi giai đoạn trên bản chiếu 4: a) Giới thiệu ban đầu; b) Đánh giá khách hàng; c) Giải quyết vấn đề, đặt mục tiêu và lập kế hoạch hành động; d) Điều chỉnh kế hoạch và e) tóm tắt. Các nhóm thảo luận trong 10 phút. Sau đó, cử người trình bày kết quả thảo luận theo trình tự. Đề nghị các nhóm khác cho ý kiến nhận xét và bổ sung. Khi bạn thảo luận về nội dung (a), chiếu bản chiếu 5. Tương tự, chiếu các bản chiếu tương ứng khi thảo luận đến nội cung của các nhóm (b), (c), và (d). Lựa chọn các thông tin tiếp theo để trình bày nếu như chưa được học viên đề cập tới.
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin trên bản chiếu để bổ sung những điểm học viên chưa đề cập đến trong phần thảo luận của họ.
nói: Cần cân nhắc tất cả những yếu tố góp phần tư vấn hiệu quả, buổi tư vấn đầu tiên với khách hàng phải bao gồm:
‚ Tự giới thiệu: Giới thiệu tên cũng như vị trí của bạn trong cơ sở tổ chức.
‚ Giới thiệu về dịch vụ: Nói cho khách hàng biết về những dịch vụ được cung cấp tại cơ sở của bạn và những dịch vụ mà bản thân bạn có thể hỗ trợ cho họ. Nếu tổ chức của bạn có nối kết dịch vụ với các tổ chức khác thì bạn cũng nên giải thích cho khách hàng biết về các dịch vụ liên kết đó.
‚ Giải thích về tính bảo mật: Nhiều khách hàng thường lo ngại không biết có nên nói với bạn về việc sử dụng ma túy của họ hay không. Điều quan trọng là họ cần biết rằng dịch vụ bạn cung cấp cho họ hoàn toàn bảo mật. Nội dung về tính bảo mật sẽ được đề cập chi tiết hơn trong một bài học khác.
‚ Quản lí thời gian của buổi tư vấn: Nói rõ với khách hàng rằng mỗi buổi tư vấn sẽ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và việc bắt đầu và kết thúc đúng giờ là rất quan trọng để đảm bảo thời gian cho khách hàng kế tiếp.
‚ Giải thích lí do cần phải thu thập thông tin về khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc giải thích mục đích của buổi tư vấn (cho khách hàng cũ). Hãy giải thích với khách hàng rằng bạn sẽ hỏi họ khá nhiều thông tin, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về những vấn đề họ đang gặp phải và cùng họ tìm ra giải pháp phù hợp.
Bản chiếu 5
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
GIỚI THIỆU
Định huớng buổi tư vấn

Tự giới thiệu
Giới thiệu về các dịch vụ
Giải thích về tính bảo mật
Quản lí thời gian buổi tư vấn
Giải thích lí do tại sao cần phải thu thập thông tin liên quan đến khách hàng (cho KH mới); hoặc giải thích mục đích của buổi tư vấn (cho KH cũ)
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu. Sau khi học viên đưa ra ý kiến, lần lượt trình bày nội dung bản chiếu.
nói: Việc đánh giá ban đầu của quá trình tư vấn và điều trị đòi hỏi phải đánh giá tương đối chi tiết về điều kiện và các khó khăn cụ thể của khách hàng, cũng như nhu cầu hoặc các vấn đề sức khỏe, tâm lí và xã hội. Đây được gọi là đánh giá tâm sinh lí - xã hội khách hàng, hay còn gọi tắt là đánh giá tâm lí xã hội. Tư vấn viên sẽ chịu trách nhiệm hoàn thành phần đánh giá tâm lí - xã hội kết hợp với tiền sử sử dụng ma túy của khách hàng trong một hoặc hai buổi tư vấn đầu tiên.
Thông tin tham khảo: Việc đánh giá chủ yếu tập trung vào việc sử dụng ma túy và các vấn đề liên quan trong vòng 30 ngày gần nhất. Phần đánh giá này cần được hoàn thành trước khi khách hàng tham gia điều trị, nhằm có thông tin cơ bản ban đầu và xác định những lĩnh vực khách hàng có nhu cầu được hỗ trợ. Sự thay đổi của khách hàng sẽ được đo lường tại những mốc thời gian nhất định trong những buổi tư vấn tiếp theo. Phần đánh giá cần tập trung vào những nội dung sau: việc sử dụng ma túy, sử dụng rượu, các vấn đề về sức khỏe, tâm lí, tài chính, luật pháp, gia đình/ xã hội và việc làm/ hỗ trợ. Phần đánh giá ban đầu thường kéo dài khoảng 45 phút và mỗi lần đánh giá tiếp theo kéo dài khoảng 25 - 30 phút. Những thông tin về nhân khẩu học và tâm lí xã hội (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, những người đang sống cùng, mạng lưới hỗ trợ xã hội, thu nhập) cũng rất quan trọng vì giúp tư vấn viên hiểu được những vấn đề khách hàng đang gặp phải và những nguồn lực hiện có thể giúp giải quyết những vấn đề đó. Khi hoàn thành xong phần đánh giá, khách hàng và tư vấn viên nên cùng xác định những chủ đề họ muốn thảo luận và lập thứ tự ưu tiên để giải quyết, vì không thể giải quyết được tất cả mọi việc ngay trong buổi tư vấn đầu tiên. Thứ tự ưu tiên này có thể sẽ thay đổi theo thời gian. Vì vậy, cần hướng dẫn khách hàng lập một danh sách các vấn đề hiện có và cùng
Bản chiếu 6
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG
Tìm hiểu động cơ tại sao KH đến với dịch vụ
Tìm hiểu thông tin nhân khẩu học (KH mới) Đánh giá tiền sử sử dụng ma túy bao gồm tiền sử điều trị (KH mới)
Đánh giá (hoặc đánh giá lại) những vấn đề của KH (sức khỏe, xã hội, luật pháp, tài chính, gia đình, việc làm …)
Xác định ưu tiên, chủ đề chính của buổi tư vấn
Xác định nguồn hỗ trợ để giải quyết vấn đề với họ rà soát lại danh sách này khi bắt đầu mỗi buổi tư vấn để xem liệu vấn đề có còn tồn tại nữa không hoặc mức độ lo lắng của khách hàng về vấn đề đó như thế nào.
Khi bắt đầu tham gia điều trị, khách hàng thường mơ hồ về mức độ từ bỏ ma túy mà họ muốn có. Tư vấn giúp họ quyết định tham gia điều trị và đặt ra một mục tiêu thực tế, ví dụ như giảm nguy cơ do SDMT, hoặc học cách từ bỏ ma túy. Tư vấn viên có thể giúp khách hàng nhận thức và hiểu được những tác hại của nghiện và thúc đẩy động lực để khách hàng tiến tới giai đoạn hồi phục. Trong mô hình điều trị tiến triển này, sự mơ hồ của khách hàng có thể được đưa ra và thảo luận cụ thể trong 2 tuần điều trị đầu tiên, mặc dù động cơ và sự cam kết cai nghiện là những yếu tố cần phải thảo luận nhắc lại nhiều lần trong suốt quá trình điều trị. Chúng ta sẽ thảo luận lí thuyết về Các giai đoạn thay đổi hành vi và phương pháp Phỏng vấn tạo động lực để hỗ trợ giải quyết sự mơ hồ của khách hàng trong những bài học sau.
Bạn nên dành hai buổi tư vấn đầu tiên cho việc giới thiệu chương trình điều trị cho khách hàng, thu thập thông tin liên quan đến tiền sử sử dụng ma túy, và cùng khách hàng lập kế hoạch điều trị. Ngoài mục đích định hình kế hoạch tư vấn và điều trị, hai buổi tư vấn đầu tiên còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy khách hàng có được động lực để xác định mục tiêu.
Sự mơ hồ và phủ nhận là những biểu hiện khá phổ biến trong trong thời kì đầu của chương trình điều trị. Vì hai yếu tố này là những rào cản chính đổi với việc cai nghiện, tư vấn viên cần thảo luận với khách hàng về điều này trong 2 buổi tư vấn đầu và trong suốt quá trình điều trị khi cần thiết.
Bản chiếu 6 (tiếp)
ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG TRONG QUÁ TRÌNH TƯ VẤN:
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY

Tìm hiểu xem những gì đã xảy ra với khách hàng kể từ buổi tư vấn trước
Tìm hiểu xem khách hàng có gặp vấn đề khẩn cấp nào cần chú ý không. Nếu có, giải quyết ngay.
Tìm hiểu xem khách hàng có dùng lại ma túy kể từ lần tư vấn trước không
Nếu khách hàng tái sử dụng:
- Phân tích nguyên nhân tái sử dụng và xây dựng các chiến lược đối phó để không tái nghiện nữa
- Thảo luận xem tại sao giữ cho không dùng lại ma túy lại quan trọng, nhất là khi khách hàng đang cố gắng cai nghiện
nói: Đánh giá khách hàng không chỉ được thực hiện một lần. Khi bắt đầu mỗi buổi tư vấn, tư vấn viên nên hỏi khách hàng về những gì đã xảy ra với khách hàng kể từ buổi tư vấn trước và liệu trong thời gian đó khách hàng có sử dụng lại ma túy không. Nếu có, khách hàng và tư vấn viên cần cùng nhau phân tích về lần sử dụng ma túy đó, tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân, và cùng thảo luận các biện pháp để không sử dụng lần sau. Quá trình này đôi khi kéo dài hết cả buổi tư vấn.
Nếu khách hàng có một vấn đề khẩn cấp liên quan đến việc nghiện ma túy như bất hòa trong gia đình hoặc khó khăn về tài chính do sử dụng ma túy, tư vấn viên nên đề cập đến những vấn đề này trong buổi tư vấn. Nên tập trung vào mối liên quan giữa những vấn đề này và việc nghiện ma túy của khách hàng. Mục tiêu của tư vấn viên là giúp khách hàng xây dựng các chiến lược đối phó với những vấn đề này mà không sử dụng lại ma túy. Ví dụ, trong tình huống khách hàng bị mất việc làm hoặc có mâu thuẫn nghiêm trọng với gia đình và bạn bè thì tư vấn viên cần thừa nhận và lưu tâm đến vấn đề đó trong buổi tư vấn. Tuy nhiên, mục đích chính của buổi tư vấn vẫn là khuyến khích khách hàng cai nghiện chứ không phải là tìm ra giải pháp cho các vấn đề riêng tư của họ.

Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu, sau đó lần lượt chiếu các nội dung trong khi đề cập đến.
nói: Nếu không có vấn đề nghiêm trọng nào thì bạn có thể thảo luận với khách hàng theo các bước giải quyết vấn đề sau:
‚ Xác định những thách thức/vấn đề: Tư vấn viên nên dành thời gian để khách hàng suy nghĩ thấu đáo về những vấn đề đó. Không nên tiến hành giải quyết ngay.
‚ Cụ thể hóa vấn đề: Vấn đề càng được cụ thể thì việc động não tìm ra giải pháp và đi đến một cơ chế giải quyết vấn đề càng dễ dàng hơn.
‚ Động não để tìm giải pháp: Khi động não, càng đưa ra được nhiều giải pháp càng tốt và ghi chép lại tất cả các giải pháp đó. Không nên phủ nhận bất kì ý kiến nào hoặc chỉ cố nghĩ ra cách giải quyết tốt nhất. Hãy suy nghĩ đến tất cả các khả năng. Thậm chí những ý kiến có vẻ không thực tiễn hoặc không thể thực hiện được vẫn có thể chứa một vài ý tưởng hữu ích.
‚ Lựa chọn giải pháp thích hợp: Rút gọn danh sách các giải pháp và suy nghĩ về những điểm có lợi và bất lợi của mỗi giải pháp. Giải pháp đó có thể thực hiện được và có thực tế hay không?
‚ Xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề: Xây dựng kế hoạch hành động - điều này có thể phải thực hiện dưới hình thức đóng vai.
Bản chiếu 8
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Xác định những thử thách/vấn đề
Cụ thể hoá vấn đề
Cùng động não tìm ra giải pháp
Quyết định giải pháp thích hợp
Xây dựng kế hoạch thực hiện
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu. Chiếu nội dung sau khi học viên đã thảo luận xong.
nói: Khi tư vấn viên và khách hàng đã rõ về các vấn đề cần giải quyết và các giải pháp thích hợp, họ có thể chuyển sang bước đặt mục tiêu.
Mục tiêu ngắn hạn cần phải SMART (cụ thể, có thể đo lường được, có thể đạt được (với sự nhất trí của cả khách hàng và tư vấn viên), có tính thực tiễn và có khung thời gian). Bạn có thể phân loại khách hàng dựa theo mức độ sẵn sàng thay đổi của họ. Chúng ta sẽ thảo luận về các giai đoạn thay đổi hành vi trong những bài sau, nhưng bạn cần lưu ý rằng chỉ khi mục tiêu phù hợp với giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng thì nó mới hữu ích. Mục tiêu ngắn hạn có thể xác định dễ dàng nhất khi khách hàng đang ở giai đoạn hành động. Những mục tiêu tập trung vào hành động đòi hỏi khách hàng phải đang ở trong giai đoạn hành động mới phù hợp. Nếu khách hàng vẫn còn ở giai đoạn dự định thì mục tiêu của họ có thể không hướng tới hành động.

Bản chiếu 9
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
ĐẶT MỤC TIÊU
Khách hàng xây dựng các mục tiêu ngắn hạn
XÂY DỰNG
KẾ HOẠCH
HÀNH ĐỘNG

Xác định sức mạnh của các nguồn lực hỗ trợ
Lồng ghép các dịch vụ hỗ trợ vào kế hoạch thực hiện
Xác định các bước can thiệp cụ thể nhằm thay đổi hành vi hoặc duy trì hành vi đã thay đổi
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu. Chiếu nội dung sau khi học viên đã đưa ra ý kiến thảo luận.
nói: Kết thúc buổi tư vấn thứ hai, tư vấn viên cần hoàn thành nội dung đánh giá chi tiết về tâm sinh lí - xã hội (nếu chưa xong) và cùng với khách hàng lập kế hoạch điều trị/hành động.
Kế hoạch hành động cần phải xác định được những vấn đề cần giải quyết trong quá trình điều trị và những mục tiêu mong muốn của khách hàng. Đảm bảo rằng vấn đề trọng tâm luôn là những nguy cơ do sử dụng ma túy và việc nghiện ma túy; những vấn đề khác cũng cần liên quan đến việc nghiện ma túy. Kế hoạch điều trị ban đầu mang tính cơ bản, với mục đích nhằm làm rõ những mục tiêu chung đã thống nhất giữa tư vấn viên và khách hàng, với sự cam kết của khách hàng trong việc tiến tới phục hồi.
Tư vấn viên nên hỏi khách hàng xem họ có biết về các nhóm hỗ trợ xã hội không, và liệu họ đã tham gia các buổi điều trị của các nhóm này bao giờ chưa, hay trước đây có tham gia nhưng giờ không tiếp tục nữa, hay chưa bao giờ nghe nói đến các nhóm này. Nếu khách hàng không biết gì về các nhóm hỗ trợ thì tư vấn viên nên giới thiệu ngắn gọn về phương pháp tư vấn theo nhóm và cung cấp danh sách các buổi họp nhóm tại địa phương. Mọi khách hàng cần được khuyến khích tham gia các buổi họp nhóm càng đầy đủ càng tốt như một phần của kế hoạch điều trị phục hồi. Nếu họ đồng ý, tư vấn viên nên ghi chép việc họ tham gia sinh hoạt các nhóm hỗ trợ xã hội vào trong kế hoạch điều trị.
Sau khi bạn và khách hàng đã chọn được một hoặc hai mục tiêu thực tế và có thể thực hiện được, bạn sẽ cần phải viết cụ thể, rõ ràng những mục tiêu này. Khi viết mục tiêu cần phải chính xác - đề cập cụ thể ngày tháng, thời gian và số lượng để có thể đánh giá đo lường được kết quả thực hiện. Chia mục tiêu thành các bước nhỏ và các bước này cũng cần phải được mô tả chính xác. Những bước này là những gì có thể đạt được trong một thời gian ngắn - trong khoảng vài ngày hoặc một vài tuần.

Bản chiếu 10
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu. Chiếu nội dung sau khi học viên đã đưa ra ý kiến thảo luận.
nói: Sau khi lập xong kế hoạch điều trị/ tư vấn, khách hàng có thể vẫn cần xem xét và chỉnh sửa lại kế hoạch ban đầu nếu cần thiết. Cách tốt nhất để thực hiện việc này là tóm tắt cho khách hàng về những mục tiêu và chiến lược đã thống nhất và xem xét lại trong các buổi tư vấn tiếp theo. Cách làm này giúp tập trung sự chú ý vào những điểm mạnh và những nguồn lực hiện có của khách hàng để giúp họ duy trì việc thay đổi hành vi. Nó cũng giúp khách hàng duy trì cam kết hành động.
Nội dung thảo luận chính trong các buổi tư vấn tiếp theo là những vấn đề liên quan đến nghiện ma túy. Thường thì những vấn đề đã thảo luận ở buổi trước sẽ được nhắc lại, nhưng với sự hiểu biết và thống nhất cao hơn. Khách hàng mới cai nghiện ma túy có thể gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt và ghi nhớ những thông tin mới. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu tư vấn viên cần phải nhắc đi nhắc lại về những chủ đề đó nhiều lần.
Mục đích của việc điều chỉnh kế hoạch là:

‚ Nhắc nhở khách hàng về sự cam kết của họ đối với quá trình điều trị
‚ Hỗ trợ và phản hồi
‚ Giúp khách hàng xây dựng chương trình điều trị riêng cho bản thân
‚ Sẵn sàng trợ giúp nếu có xảy ra tái sử dụng hay một vấn đề nghiêm trọng tương tự.
Bản chiếu 11
ĐIỀU CHỈNH
KẾ HOẠCH

Cùng với khách hàng rà soát lại kế hoạch
Lường trước được những khó khăn khi thực hiện kế hoạch
Xây dựng các kế hoạch đối phó khi những khó khăn đó xảy ra
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện ma túy)
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu. Chiếu nội dung sau khi học viên đã đưa ra ý kiến thảo luận.
nói: Phần cuối cùng trong quá trình tư vấn là tóm tắt các hoạt động và tiến trình thực hiện. Việc này có thể thực hiện vào cuối mỗi buổi tư vấn. Tóm tắt là cách hiệu quả để kết thúc buổi tư vấn. Bạn nhắc lại với khách hàng những nội dung đã thảo luận và được nhất trí, và cách tiến hành tiếp theo. Đó cũng là cách để xác định sự tự tin và cam kết của khách hàng.
Theo các bạn, tự tin và cam kết có giống nhau không?

Hướng dẫn giảng dạy: Lắng nghe ý kiến trả lời của học viên rồi tiếp tục như sau. nói: Tự tin có nghĩa là tin rằng mình có đủ khả năng thực hiện một công việc nào đó. Cam kết là mức độ sẵn sàng thực hiện công việc đó.
Vậy nên cuối mỗi buổi tư vấn cần thực hiện những việc sau:

‚ Tóm tắt chủ đề và kết quả của buổi tư vấn
‚ Xác định mức độ tự tin của khách hàng trong việc thực hiện kế hoạch
‚ Xác định mức độ cam kết của khách hàng trong việc thực hiện kế hoạch
‚ Định thời gian cho buổi tư vấn tiếp theo
‚ Ghi chép những thông tin của buổi tư vấn vào sổ theo dõi tư vấn khách hàng (xem Mẫu đánh giá khách hàng, tài liệu phát tay 5.1-2 ở chương 5).
Bản chiếu 12
QUY TRÌNH TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
(Áp dụng đối với người đang nghiện hoặc đang cai nghiện CGN)
TÓM TẮT
Tóm tắt các chủ đề và kết quả của buổi tư vấn
Xác định mức độ tự tin của khách hàng trong việc thực hiện kế hoạch như đã thống nhất
Xác định mức độ cam kết của khách hàng đối với việc thực hiện kế hoạch Hẹn thời gian cho buổi tư vấn tiếp theo
Ghi chép lại những nội dung đã thảo luận vào hồ sơ tư vấn khách hàng
Bản chiếu 12 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem tại sao lại cần phải ghi chép lại thông tin vào sổ theo dõi tư vấn khách hàng. Dẫn dắt thảo luận và bổ sung thêm những thông tin còn thiếu, dựa theo hướng dẫn dưới đây.
Thông tin tham khảo:
Có 3 lí do chính:
1. Vào cuối ngày, sổ theo dõi sẽ giúp bạn biết được những gì đã được thực hiện tốt trong các buổi tư vấn, những gì cần cải thiện hoặc giải quyết trong những buổi tiếp theo (ví dụ như một số vấn đề bạn đã bỏ sót)
2. Trước khi gặp lại khách hàng, bạn sẽ cần nhớ lại những gì đã diễn ra ở buổi trước, để bạn không khỏi mất thời gian hỏi lại những điều đã biết. Hơn nữa, nếu bạn xem xét lại sổ theo dõi trước mỗi buổi tư vấn, bạn sẽ sẵn sàng cho buổi tư vấn hơn.
3. Người SDMT thường cảm thấy họ chẳng đạt được tiến bộ nào, hoặc rất ít. Với cuốn sổ theo dõi có ghi chép mục tiêu và những gì khách hàng đã đạt được, bạn có thể chỉ cho khách hàng xem họ đã tiến bộ như thế nào trong suốt quá trình tư vấn và điều trị. Điều đó sẽ giúp họ có thêm nghị lực để tiếp tục.
Tóm tắt (hay còn gọi là đánh giá tiến độ) là một cơ hội để giới thiệu lại về những nội dung và chủ đề vẫn cần phải giải quyết. Đây cũng là thời điểm mà bạn và khách hàng cần thiết lập mục tiêu và kế hoạch hành động mới cho một tiến trình điều trị mới. Đây cũng có thể là thời điểm bắt đầu một chu kì tư vấn mới, như đã chỉ rõ trên sơ đồ quy trình tư vấn.
nói: Đến đây chúng ta kết thúc phần quy trình tư vấn và các vấn đề và lĩnh vực mà các bạn sẽ đối mặt. Vì chúng ta vẫn còn một số nội dung cần thảo luận và một hoạt động đóng vai nên chúng ta sẽ nghỉ khoảng 10 phút trước khi tiếp tục bài học.
Hướng dẫn giảng dạy: Dành 10 phút để học viên đứng dậy, đi lại, thư giãn hoặc đi vệ sinh trước khi tiếp tục bài giảng
nói: Tôi muốn có một vài lời khuyên giúp các bạn thực hiện buổi tư vấn một cách hiệu quả trước khi đóng vai:
‚ Luôn sử dụng thời gian buổi tư vấn một cách khôn ngoan. Tập trung vào những vấn đề chính, tuy nhiên, không nên thúc đẩy tiến trình nhanh hơn mức khách hàng mong muốn.
‚ Thường xuyên nhắc lại cho khách hàng về mục đích của buổi tư vấn, nếu cần thiết. Đôi lúc bạn cần làm điều đó vì khách hàng có thể bị phân tán tư tưởng và đi chệch khỏi mục tiêu ban đầu. Bạn thường phải nhắc lại mục đích của buổi tư vấn với khách hàng.
‚ Tập trung vào vấn đề nghiêm trọng nhất và cấp thiết nhất của khách hàng. Khách hàng có thể gặp nhiều vấn đề về sức khoẻ, xã hội, luật pháp, tài chính, gia đình và việc làm cùng lúc, nhưng bạn luôn cần phải tập trung vào những vấn đề nghiêm trọng nhất với họ.
‚ Tôn trọng sự lựa chọn và quyết định của khách hàng. Tuy nhiên, không nên đồng ý với những quyết định không an toàn hoặc bất hợp pháp.
‚ Ghi chép lại nội dung tư vấn để theo dõi trong những buổi tiếp theo.
‚ Tóm tắt những điểm chính đã được thảo luận, kể cả những tiến triển đã đạt được trong buổi tư vấn hiện tại và những buổi trước đó.
‚ Hẹn thời gian cho buổi tư vấn tiếp theo trước khi khách hàng ra về.
Bản chiếu 13
Sử dụng thời gian một cách khôn ngoan
Nếu cần thiết, thường xuyên nhắc lại cho KH về mục đích của buổi tư vấn
Tập trung vào vấn đề quan trọng nhất và cấp thiết nhất
Tôn trọng sự lựa chọn và quyết định của KH
Ghi chép lại nội dung tư vấn để tiếp tục theo dõi trong những buổi tiếp theo
Tóm tắt những ý chính đã được thảo luận, kể cả những tiến triển đã đạt được trong buổi tư vấn hiện tại và những buổi trước đó
Hẹn thời gian cho buổi tư vấn tiếp theo trước khi KH ra về
LỜI KHUYÊN CHO TƯ VẤN VIÊN
Tuân thủ trình tự của mỗi buổi tư vấn
Tập trung vào vấn đề quan trọng nhất của khách hàng
Liên kết các chủ đề và chuyển chủ đề một cách hợp lý
Thường xuyên định hướng và sử dụng kĩ năng tóm tắt khi cần
QUẢN LÍ THỜI GIAN
BUỔI TƯ VẤN NHƯ THẾ NÀO? (1)

nói: Tư vấn viên cần áp dụng phương pháp lắng nghe tích cực. Như đã thảo luận trong bài trước, tư vấn viên cần rút ra những kết luận hợp lí dựa trên thông tin khách hàng cung cấp về việc SDMT và những vấn đề có liên quan. Có thể bản thân khách hàng không nhận thấy mối liên hệ đó. Sau khi đã tìm hiểu xong một vấn đề và rút ra được kết luận hợp lí, tư vấn viên nên chuyển sang một chủ đề khác.
Nội dung thảo luận luôn phải tập trung xung quanh những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy. Khi tóm tắt, cần rút ra những điểm quan trọng và diễn giải theo cách dễ hiểu với khách hàng.
Sau đây tôi muốn nói thêm về vai trò của người tư vấn.

Hướng dẫn giảng dạy: Tham khảo tài liệu phát tay 2.6-1 để biết thêm thông tin về vai trò của tư vấn viên
nói: Vai trò của người tư vấn là gì? Vai trò chính của tư vấn viên là khích lệ và củng cố động lực thay đổi của khách hàng, bao gồm cả việc là một người bạn đồng hành với khách hàng trong quá trình phục hồi.
Ai là người nói nhiều hơn?
90% những gì nói ra trong buổi tư vấn nên thuộc về khách hàng, trừ thời gian tiến hành đánh giá, vì khi đó tư vấn viên giữ vai trò giải thích chủ đạo.
Tư vấn viên nên giữ vai trò chỉ đạo ở mức độ nào?
Bản chiếu 14
Buổi tư vấn cần lấy khách hàng làm trung tâm nhưng cũng cần phải có định hướng. Sau khi đánh giá những vấn đề và nhu cầu của khách hàng, tư vấn viên cần phải đề ra một mục tiêu cụ thể hoặc nhiều mục tiêu có tính hệ thống. Nếu thực hiện được điều này một cách khéo léo, khách hàng sẽ không cảm thấy là họ bị chỉ đạo, ép buộc, hoặc dạy bảo. Hướng dẫn của tư vấn viên đối với khách hàng chủ yếu nên làm theo phương pháp đặt các câu hỏi mở hoặc phản hồi có chọn lọc đối với khách hàng, chứ không nên áp dụng các chiến lược đối đầu và đưa ra lời khuyên. Hãy tưởng tượng là tư vấn viên và khách hàng đang cùng chơi trò ghép hình. Thay vì tư vấn viên tự xếp hình trong khi khách hàng ngồi xem, tư vấn viên sẽ là người giúp khách hàng dựng khung, đặt từng miếng ghép lên trên bàn để tự tay khách hàng xếp vào đúng vị trí trong khung hình.
Trong giai đoạn đầu của quá trình tư vấn, rất cần xây dựng được mối quan hệ liên minh với khách hàng. Phương pháp trị liệu lấy khách hàng làm trung tâm cung cấp một nền tảng vững chắc, với trọng tâm là sử dụng các câu hỏi mở và lắng nghe có phản hồi. Những chiến lược hỗ trợ và tạo dựng động cơ được sử dụng liên tục và chỉ chấm dứt khi nào khách hàng không còn thái độ phản kháng và có những biểu hiện sẵn sàng thay đổi.

Bản chiếu 14 (tiếp)
nói: Như vậy giờ đây các bạn đã hiểu khá rõ về quy trình tư vấn. Chúng ta sẽ tiếp tục thảo luận xem làm thế nào để có thể luôn giữ cho buổi tư vấn tiến triển theo định hướng. Trên bản chiếu này, các bạn sẽ thấy việc kết hợp các kĩ năng và kĩ thuật tư vấn sẽ giúp cho buổi tư vấn luôn tập trung vào trọng tâm và có định hướng. Dù cho bạn đang ở bước nào – giải quyết vấn đề, xác lập mục tiêu, dự phòng tái nghiện, hay là đối phó với cơn thèm nhớ – bạn luôn cần đến sự kết hợp này để đảm bảo buổi tư vấn thành công.
Vậy làm cách nào tư vấn viên có thể làm việc cùng với khách hàng mà vẫn luôn đảm bảo mọi việc đúng thời gian và kế hoạch?
Bạn có thể làm được nếu biết cách kết hợp những kĩ năng sau đây:

‚ Sử dụng câu hỏi mở và câu hỏi đóng
‚ Khơi gợi
‚ Khen ngợi
‚ Tóm tắt
‚ Phản hồi cảm xúc
‚ Thấu cảm, và các kĩ năng khác
... với những kĩ thuật tư vấn khác nhau mà bạn vừa được biết.
Sự kết hợp hoàn hảo giữa những kĩ năng và kĩ thuật này sẽ dẫn tới:

‚ Khách hàng cảm thấy họ đang được lắng nghe
‚ Khách hàng cảm thấy họ cũng là một phần của cuộc nói chuyện chứ không phải chỉ nghe người khác nói
‚ Mối liên hệ giữa suy nghĩ, hành động và hành vi trở nên rõ rệt hơn.
Bản chiếu 15
Lồng ghép
Các kĩ năng tư vấn
- Đặt câu hỏi mở
- Khơi gợi
- Khen ngợi
- Diễn giải
- Tóm tắt vv…
Với
Các kĩ thuật tư vấn
- Giải quyết vấn đề
- Đặt ra mục tiêu
- Dự phòng tái nghiện ...
QUẢN LÍ THỜI GIAN BUỔI TƯ VẤN NHƯ THẾ NÀO? (2)
Bản chiếu 15 (tiếp)
Sử dụng những kĩ thuật và kĩ năng này trong một buổi tư vấn kéo dài 45 phút sẽ bảo đảm khách hàng cảm thấy được chào đón thân thiện, được thấu hiểu, được hỗ trợ, và quan trọng nhất là buổi tư vấn sẽ bắt đầu và kết thúc đúng giờ. Bằng cách sử dụng những kĩ thuật và kĩ năng này, bạn đang định hướng cho nội dung tư vấn và đồng thời cũng quản lí thời gian buổi tư vấn một cách hiệu quả.
Mỗi buổi tư vấn sẽ có phần mở đầu, phần giữa và kết thúc. Ở giai đoạn mở đầu, bạn có thể cần phải nói nhiều hơn khách hàng một chút, để giới thiệu về dịch vụ và mục tiêu buổi tư vấn. Sau đó, bạn cần nhanh chóng chuyển sang phần giải quyết vấn đề, xác lập mục tiêu, và lập thứ tự ưu tiên. Ở giai đoạn này, khách hàng mới là chủ thể chính của cuộc nói chuyện. Sau đó, bạn sẽ tóm tắt lại kết quả buổi tư vấn – khi đó bạn lại là người nói chính. Hãy tưởng tượng buổi tư vấn của bạn cũng giống như một chiếc bánh kẹp, ở đó phần mở đầu và kết thúc của bạn là hai vỏ bánh, còn phần thịt kẹp ở giữa là phần đóng góp của khách hàng.

140 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
nói: Trước khi bắt đầu thực hành, chúng ta hãy cùng ôn lại những gì vừa học. Quy trình tư vấn bao gồm một số bước riêng biệt, sắp xếp theo trình tự một vòng tròn. Sau khi giới thiệu ban đầu và định hướng cho khách hàng về cơ sở dịch vụ, tư vấn viên sẽ thực hiện đánh giá để xác định các vấn đề có thể giải quyết được. Sau khi hoàn thành bước giải quyết vấn đề, tư vấn viên sẽ phải cùng khách hàng xác định mục tiêu và sắp xếp thứ tự ưu tiên để thực hiện. Việc tóm tắt buổi tư vấn sẽ cho cơ hội để chỉnh sửa hơn nữa hoặc thay đổi kế hoạch để đáp ứng những vấn đề không lường trước. Quá trình này có thể lại được tiếp tục ở buổi tư vấn lần sau bằng cách đánh giá và lượng giá lại.
Điều quan trọng là tư vấn viên phải xây dựng và duy trì được mối quan hệ gắn bó trong điều trị giữa tư vấn viên và khách hàng. Tư vấn viên là người hướng dẫn cho khách hàng về những vấn đề khó khăn và mối lo ngại có liên quan tới việc sử dụng ma túy và các nguy cơ do SDMT. Để đảm bảo quá trình tư vấn luôn tiến triển theo kế hoạch, tư vấn viên cần thường xuyên tóm tắt, rà soát lại tiến trình và đặt ra những mục tiêu mới với khách hàng.

Bản chiếu 16
Tư vấn điều trị nghiện ma túy là một quá trình gồm nhiều bước nối tiếp nhau theo vòng tròn Mối quan hệ trị liệu là rất quan trọng để tư vấn được thành công
Tư vấn viên cần phải hướng dẫn khách hàng đi qua các bước của quá trình tư vấn
Luôn giữ cho quá trình tư vấn chuyển biến tích cực bằng cách tóm tắt, điểm lại tiến trình và đặt ra các mục tiêu mới
TÓM TẮT
Chương II – Bài 2.6 141
Thỉnh thoảng, Nam thích đến một quán bia ở gần nhà sau giờ làm việc. Anh nói rằng việc uống bia không bao giờ khiến anh gặp phải vấn đề gì mà vấn đề là ở việc dùng heroin. Anh thích giao lưu với những người cũng đến quán bia, thường chỉ uống vài lon bia sau đó về nhà với vợ. Tuy nhiên, sau khi gặng hỏi Nam thì TVV phát hiện rằng Nam có được heroin là từ một người cũng hay đến quán bia này. Việc đó thường xảy ra trong các kỳ nghỉ cuối tuần, sau khi anh đã uống nhiều hơn so với những ngày khác trong tuần, rồi gặp với người môi giới, rồi họ cùng nhau đi mua heroin. Nam là một người sử dụng nhiều ma túy và thường tiêu tốn khoảng 200.000đ, một thói quen mà anh ta không thể có đủ tiền để chi trả.
Thời gian sắm vai: 30 phút
Phản hồi: 15 phút
Các bước của một buổi tư vấn
– Đặc biệt đối với “giải quyết vấn đề” và “đề ra mục tiêu”
Những điều thực hiện tốt
Những điều cần làm tốt hơn
ĐÓNG VAI
nói: Bây giờ chúng ta sẽ thực hành các bước, các kĩ năng và kĩ thuật tư vấn, và một số thủ thuật tư vấn khác thông qua bài tập đóng vai.
Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu hai người xung phong, một người vào vai tư vấn viên, một người vào vai khách hàng trong một buổi tư vấn. Học viên khác và giảng viên quan sát.
Thời gian đóng vai: 30 phút
Thời gian phản hồi: 15 phút
Phát tài liệu phát tay 2.6.2 cho học viên.
Bản chiếu 17
142 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
nói: Trong bài này, chúng ta đã tập trung thảo luận những nội dung sau:
‚ Quy trình chuẩn tư vấn điều trị nghiện ma túy
‚ Mối liên quan giữa các bước trong quy trình
‚ Thực hành một buổi tư vấn theo quy trình thông qua hoạt động đóng vai
‚ Áp dụng kĩ thuật giải quyết vấn đề và xác lập mục tiêu trong hoạt động đóng vai.
Như vậy là chúng ta đã kết thúc bài học về quy trình tư vấn. Tôi hi vọng là các bạn sẽ thực hành những kĩ năng học được ngày hôm nay vào công việc tư vấn hàng ngày.
Chúng ta hãy tự thưởng cho mình một tràng pháo tay. Xin cảm ơn các bạn!

Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Trong bài học này chúng ta tập trung vào những nội dung sau:
Các bước của quy trình tư vấn tư vấn
Mối liên quan giữa các bước trong quy trình tư vấn
Thực hành một buổi tư vấn theo các bước trên thông qua hoạt động đóng vai
Áp dụng các kỹ thuật đặt mục tiêu và giải quyết vấn đề trong phần đóng vai
TÓM TẮT
Chương II – Bài 2.6 143
Tài liệu phát tay 2.6-1
Vai trò của tư vấn viên
Vai trò của tư vấn viên trong tư vấn điều trị nghiện ma túy là hỗ trợ, giáo dục và trợ giúp không phán xét để hỗ trợ khách hàng thay đổi. Tư vấn viên cần phải xây dựng được mối quan hệ tốt với khách hàng. Khách hàng đang trong quá trình hồi phục xứng đáng được thấu hiểu và biết rằng họ có một đồng minh bên cạnh. Tư vấn viên cần thể hiện rằng họ hiểu được những khó khăn mà khách hàng đang phải đương đầu và hiểu được nhu cầu của khách hàng cần được hỗ trợ trong suốt quá trình điều trị này.
Hãy hình dung mối quan hệ của bạn và khách hàng cũng giống như một người bộ hành và một người dẫn đường. Người dẫn đường giúp chỉ ra con đường cần đi, nhờ đó người bộ hành có thể tự mình trèo lên đỉnh núi. Tư vấn viên hướng dẫn cho khách hàng trong suốt thời kỳ đầu của quá trình hồi phục, nhưng khách hàng mới chính là người làm chủ quá trình này. Khách hàng là người duy nhất chịu trách nhiệm về quá trình phục hồi của họ. Tư vấn viên cần phải nhấn mạnh điểm này nhằm định hướng cho khách hàng ý thức được trách nhiệm của bản thân. Tư vấn viên cần hài hòa giữa việc chỉ đạo dẫn dắt cho khách hàng với việc tạo điều kiện cho khách hàng tự định hướng cho bản thân. Sự cân bằng này sẽ thực hiện được nếu cấu trúc buổi tư vấn bao gồm phần nhận xét về tiến độ hồi phục của khách hàng và phân tích đánh giá những tình huống khách hàng tái sử dụng hoặc gần như tái sử dụng. Tư vấn viên xác định chủ đề thảo luận thích hợp cho mỗi buổi tư vấn dựa trên nhu cầu của khách hàng, rồi giới thiệu chủ đề đó. Đôi khi, tư vấn viên có thể gây áp lực trực tiếp để khách hàng thay đổi một hành vi nào đó.
Tuy nhiên, khách hàng cần được khích lệ để tự định hướng cho bản thân. Ví dụ, khi thảo luận về chủ đề “những áp lực xã hội dẫn tới sử dụng ma túy”, khách hàng có thể tự khám phá xem làm thế nào để kiểm soát vấn đề này một cách tốt nhất, và tư vấn viên sẽ có ý kiến đóng góp với hướng đi của khách hàng. Nếu khách hàng có vẻ như không thể thay đổi được một khía cạnh nào đó của hành vi nghiện – ví dụ như họ vẫn đi đến những nơi có nguy cơ – tư vấn viên nên chấp nhận hiện trạng đó của khách hàng và tìm cách hỗ trợ họ tìm hiểu về những quan niệm hay tình huống đó sao cho khách hàng có thể làm khác đi, nghĩa là, làm tốt hơn trong những lần sau. Sự cân bằng, hài hòa này cần được đảm bảo, sao cho thể hiện được sự tôn trọng đối với khách hàng và chấp nhận tình trạng hiện tại của họ, nhưng vẫn liên tục gây sức ép để hướng họ tới mục tiêu đa đề ra.
Tư vấn viên không nên phán xét khắt khe về hành vi nghiện của khách hàng. Rõ ràng là, nếu khách hàng không rơi vào hoàn cảnh nghiện thì họ cũng đâu có cần đến dịch vụ tư vấn. Vì thế, trách mắng khách hàng do họ có những triệu chứng nghiện sẽ không mang lại lợi ích gì cả. Đồng thời, bản thân khách hàng cũng thường cảm thấy xấu hổ về hành vi sử dụng ma túy của mình. Để có thể giúp giải tỏa những cảm giác xấu hổ và tội lỗi, tư vấn viên nên khuyến khích khách hàng nói thật về hiện trạng sử dụng ma túy và các hành vi nghiện khác của họ và cần chấp nhận thực tế những điều họ nói ra.
Tư vấn viên cần phải tôn trọng khách hàng. Tư vấn viên cũng cần có phong cách chuyên nghiệp, bao gồm cả việc luôn đúng hẹn và không bao giờ được nói chuyện với khách hàng với một thái độ kẻ cả và coi thường. Hơn nữa, tư vấn viên cũng cần phải tránh nói quá nhiều về bản thân. Lí do là nếu tư vấn viên thổ lộ về bản thân ở mức độ vừa phải thì có thể giúp cho khách hàng cảm thấy thoải mái và cởi mở hơn, nhưng nói quá nhiều về bản thân thì tư vấn viên sẽ làm khách hàng mất tập trung khỏi mục tiêu. Nguyên tắc vàng khi chia sẻ câu chuyện bản thân là trước tiên cần làm rõ mục đích của can thiệp, sau đó phân tích xem tại sao lại cần tiết lộ thông tin về bản thân vào thời điểm đó. Nếu vẫn còn chút nghi ngại sau khi đã phân tích rồi thì tốt hơn hết là nên dừng việc chia sẻ thông tin đó lại.
Cuối cùng, tư vấn viên cần phải kiềm chế, không nhận xét dựa trên những vấn đề của bản thân. Ví dụ, một tư vấn viên đang có vấn đề với chồng mình và đang chuẩn bị li dị. Đến khi tư vấn viên này lại có một khách hàng có chồng nghiện ma túy nhưng lại không muốn chấm dứt quan hệ với người chồng đó. Trong trường hợp này, tư vấn viên cần phải linh hoạt và đáp ứng một cách khéo léo đối với cách nhìn nhận vấn đề của khách hàng. Tư vấn viên không nên áp dụng một cách cứng nhắc rằng cắt đứt mối quan hệ với tất cả những người nghiện là cách duy nhất để có thể cai nghiện. Nhìn chung, việc áp đặt nhu cầu và kinh nghiệm của bản thân tư vấn viên vào hoàn cảnh của khách hàng có thể khiến cho tình hình trở nên xấu đi và/hoặc phản tác dụng.
Tóm lại, trong buổi tiếp xúc đầu tiên với khách hàng cần phải thực hiện những việc sau:
‚ Tự giới thiệu: Giới thiệu tên cũng như vị trí của bạn trong cơ sở tổ chức.
‚ Giới thiệu về dịch vụ: Nói cho khách hàng biết về những dịch vụ được cung cấp tại cơ sở của bạn và những dịch vụ mà bản thân bạn có thể hỗ trợ cho họ. Nếu tổ chức của bạn có nối kết dịch vụ với các tổ chức khác thì bạn cũng nên giải thích cho khách hàng biết về các dịch vụ liên kết đó.
‚ Giải thích về tính bảo mật: Nhiều khách hàng thường lo ngại không biết có nên nói với bạn về việc sử dụng ma túy của họ hay không. Điều quan trọng là họ cần biết rằng dịch vụ bạn cung cấp cho họ hoàn toàn bảo mật. Nội dung về tính bảo mật sẽ được đề cập chi tiết hơn trong một bài học khác.
‚ Quản lí thời gian của buổi tư vấn: Nói rõ với khách hàng rằng mỗi buổi tư vấn sẽ được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và việc bắt đầu và kết thúc đúng giờ là rất quan trọng để đảm bảo thời gian cho khách hàng kế tiếp.
‚ Giải thích lí do cần phải thu thập thông tin về khách hàng (đối với khách hàng mới) hoặc giải thích mục đích của buổi tư vấn (cho khách hàng cũ). Hãy giải thích với khách hàng rằng bạn sẽ hỏi họ khá nhiều thông tin, nhằm mục đích hiểu rõ hơn về những vấn đề họ đang gặp phải và cùng họ tìm ra giải pháp phù hợp.
Chương II – Bài 2.6 145
Tình huống đóng vai (ví dụ):
Thỉnh thoảng, Nam thích đến một quán bia ở gần nhà sau giờ làm việc. Anh nói rằng việc uống bia không gây ra bất cứ vấn đề gì, mà anh chỉ gặp rắc rối với việc dùng heroin thôi. Anh thích giao lưu với những người cũng đến quán bia, thường chỉ uống vài lon bia sau đó về nhà với vợ. Tuy nhiên, sau khi gặng hỏi Nam thì tư vấn viên phát hiện rằng Nam có được heroin là từ một người cũng hay đến quán bia này. Việc đó thường xảy ra vào cuối tuần, sau khi uống nhiều hơn ngày thường, Nam mới gặp người môi giới và cùng nhau đi mua heroin. Nam dùng ma túy khá nhiều và thường tiêu tốn khoảng 200.000đ, một thói quen mà anh ta không thể có đủ tiền để chi trả.
Thông tin tham khảo: Đây là một ví dụ về sự phủ nhận. Tư vấn viên muốn giúp Nam nhận thấy sự liên quan giữa việc sử dụng rượu và heroin. Một phương pháp là đối kháng với khách hàng một cách nhẹ nhàng. Tư vấn viên có thể nói: “Vậy là theo như lời anh nói thì có vẻ như anh chỉ đi mua heroin sau khi đã uống vài cốc bia ngoài quán, đúng không? Như vậy, mặc dù không có nghĩa là rượu bia làm cho anh tìm đến heroin, nhưng anh có nhận thấy rằng lần nào anh dùng heroin thì trước đó anh cũng uống bia rượu không?” Thật ngạc nhiên, khách hàng thường không bao giờ nhận thấy mối liên hệ này.
Tư vấn viên có thể cố gắng thuyết phục Nam về tính nghiêm trọng của vấn đề này bằng cách nói về mức độ khó khăn về tài chính mà Nam đang gặp phải do sử dụng heroin. Mục đích của tư vấn viên là khiến Nam thay đổi được những hành vi này hoặc giảm bớt nguy cơ càng nhiều càng tốt. Sự thay đổi tối ưu là Nam có thể đồng ý sẽ không tiếp tục đến quán bar và không uống rượu nữa, đồng thời cũng sẽ không dùng heroin nữa. Nếu Nam không thể từ bỏ được địa điểm giao du giải trí này thì có thể thực hiện một thỏa hiệp khác là Nam sẽ uống soda thay cho bia, không bao giờ mang nhiều hơn 50.000đ trong ví, và không đến quán bar trong những ngày cuối tuần. Nếu có thể đi đến được thỏa hiệp này, mặc dù đây chưa phải là kết quả mong muốn nhất, tư vấn viên phải luôn theo dõi tiến bộ của Nam và ép buộc anh ta phải tránh xa quán bar và ít nhất là giảm mọi nguy cơ có liên quan đến việc sử dụng heroin. Lí tưởng nhất là giúp Nam cai nghiện tất cả các loại chất gây nghiện nếu thỏa hiệp này không có hiệu quả.
Tài liệu phát tay 2.6-2
146 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
Giải thích từ ngữ 147 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
148 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
Giải thích từ ngữ 149 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
150 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
Giải thích từ ngữ 151 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
152 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
Giải thích từ ngữ 153 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 3

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 3

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3 Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
1 CHƯƠNG 3
Bài 3.1: Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả 3
Bài 3.2: Các vấn đề liên quan đến rượu, bia 57
Bài 3.3: Kiến thức cơ bản về nghiện 75
Bài 3.4: Các nguyên tắc cơ bản điều trị nghiện ma túy 101
Bài 3.5: Các yếu tố điều trị thành công 121
Bài 3.6: Điều trị nghiện heroin 133
Ma túy, nghiện Ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện Ma túy

3.1 Chất gây nghiện hướng thần, Sử dụng và hậu quả
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và
hậu quả của việc sử dụng các chất này nói chung và cụ thể tại Việt Nam.
II. Thuyết trình 50 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về các loại chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và
những hậu quả của việc sử dụng các chất này.
Giải lao (giữa bài trình bày) 10 phút
III. Thảo luận 60 phút
Dẫn dắt một buổi thảo luận kéo dài 30 phút và dành 30 phút để trình bày kết quả theo
hướng dẫn giảng dạy
IV. Kết luận 8 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 3.1: Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
Mục đích: Cung cấp cho học viên kiến thức cơ bản về một số chất gây nghiện hướng thần, việc sử dụng và tác hại của các loại chất gây nghiện này nói chung và nói riêng tại Việt Nam.
Thời gian: 130 phút
Mục tiêu: Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Định nghĩa chất gây nghiện, kể tên các loại chất gây nghiện phổ biến, mô tả cách dùng và hậu quả của việc sử dụng các chất gây nghiện đó
‚ Kể tên các loại chất gây nghiện hay dùng và hình thái sử dụng phổ biến tại Việt Nam
Phương pháp:
‚ Phát tài liệu phát tay trước bài học và yêu cầu học viên đọc và chuẩn bị câu hỏi
‚ Thuyết trình và thảo luận nhóm
‚ Bài tập nhóm nhỏ
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.1 5
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Bản chiếu 1
CHẤT GÂY NGHIỆN HƯỚNG THẦN, SỬ DỤNG VÀ HẬU QUẢ
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về các chất gây nghiện, cách sử dụng và hậu quả của việc sử dụng các chất gây nghiện
Chương iii – Bài 3.1 7
Bản chiếu 2
Nói: Sau khi kết thúc bài giảng này, tôi hi vọng là các bạn sẽ hiểu rõ hơn về các loại chất gây nghiện đang được sử dụng tại Việt Nam, bao gồm những loại chất gây nghiện phổ biến, chúng được sử dụng như thế nào, và tác động của từng loại chất gây nghiện. Bốn loại chất gây nghiện chính mà tôi sẽ đề cập đến trong bài giảng là 4 loại chất gây nghiện đang được sử dụng phổ biến tại Việt Nam: heroin, amphetamine, ecstasy và cần sa.
Đối với mỗi loại chất gây nghiện, tôi sẽ nói loại đó là gì, nó được sử dụng như thế nào, tác dụng của nó ra sao, bao gồm cả tác dụng/ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn.

Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
Định nghĩa chất gây nghiện, kể tên các loại chất gây nghiện phổ biến, cách dùng và hậu quả của việc sử dụng các chất gây nghiện đó
Kể tên các loại chất gây nghiện phổ biến và hình thái sử dụng phổ biến tại Việt Nam
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Bản chiếu 3
Những CGN nào được sử dụng phổ biến?
Với mỗi loại CGN, hãy cho biết
- Ai là người sử dụng?
- Được sử dụng như thế nào?
- Các hình thái sử dụng phổ biến?
- Có những nguy cơ nào liên quan đến sử dụng loại CGN đó?
THẢO LUẬN: CÁC LOẠI CHẤT GÂY NGHIỆN Ở VIỆT NAM/ ĐỊA PHƯƠNG BẠN
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành 3 nhóm và đề nghị họ dành 15 phút thảo luận trong nhóm về những câu hỏi trên bản chiếu. Sau đó quay trở lại nhóm lớn và mời một nhóm lên trình bày kết quả thảo luận. Hai nhóm còn lại sẽ bổ sung thêm những điểm còn thiếu.
Giảng viên có thể đặt thêm một số câu hỏi trước khi họ bắt đầu động não như:
‚ Tên loại chất gây nghiện đó ở địa phương?
‚ Đường dùng phổ biến của loại chất gây nghiện đó (tiêm, hít, pha trộn với các loại chất gây nghiện khác…)?
‚ Sự phổ biến của 4 loại chất gây nghiện trong những nhóm người có nguy cơ khác nhau (thanh thiếu niên, sinh viên, phụ nữ mại dâm, công nhân viên chức thành phố,…)?
‚ Mức độ phổ biến của loại chất gây nghiện này theo thời gian (tăng, giảm, ổn định…)
Chương iii – Bài 3.1 9
Bản chiếu 4
Chất gây nghiện hướng thần là bất cứ chất hóa học nào mà khi đưa vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi chức năng thực thể tâm lí của người đó.
CHẤT GÂY NGHIỆN
HƯỚNG THẦN LÀ GÌ?

Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu tiêu đề bản chiếu trước, đặt câu hỏi dưới đây và dẫn dắt học viên thảo luận trước khi chiếu định nghĩa về chất gây nghiện hướng thần.
Nói: Mặc dù bài giảng này tập trung vào tình hình sử dụng chất gây nghiện tại Việt Nam nhưng tôi vẫn muốn các bạn hiểu những quan niệm thông thường về các chất gây nghiện mà chúng ta sắp nói tới.
Các bạn định nghĩa thế nào về "chất gây nghiện"?

Hướng dẫn giảng dạy: Chờ học viên đưa ra câu trả lời.
Nói: Chất gây nghiện hướng thần là bất cứ chất hóa học nào mà khi đưa vào cơ thể con người sẽ làm thay đổi chức năng thực thể VÀ tâm lý của người đó.
Trong số các bạn có ai sử dụng chất gây nghiện hay không?

Hướng dẫn giảng dạy: Chờ học viên trả lời câu hỏi. Nếu không có ai trả lời hoặc tất cả đều nói “không” thì hỏi tiếp các câu sau:
Nói: Có ai trong các bạn uống cà phê không? Có ai hút thuốc lá hoặc uống rượu không? Các bạn thấy không? Có rất nhiều chất chúng ta vẫn thường dùng mà lại chưa bao giờ nghĩ rằng đó cũng chính là chất gây nghiện hướng thần.
Bản chiếu 5
Nói: Theo các bạn thì tại sao người ta lại sử dụng CGN?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành một chút thời gian cho học viên phát biểu ý kiến. Sau khi học viên phát biểu xong, tiếp tục:
Nói: Mặc dù có rất nhiều lí do khiến một người bắt đầu sử dụng và tiếp tục sử dụng các chất gây nghiện hợp pháp hay bất hợp pháp, động cơ chính thường rơi vào trong số 3 yếu tố chính. Những động cơ này không có tính loại trừ lẫn nhau, bao gồm: sử dụng để vui vẻ, để quên và để cải thiện chức năng. Trong tiếng Anh được thể hiện theo 3 chữ F: Fun, Forget và Functional. Người ta có thể sử dụng CGN vì bất cứ lí do nào trong số 3 lí do này, hoặc đồng thời cả 3, và họ có thể không ý thức được rằng đó chính là động cơ dẫn họ đến việc sử dụng CGN.
Các bạn có thể cho tôi ví dụ về những lí do sử dụng CGN thuộc từng nhóm này không?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời. Một số học viên có thể khó đưa ra câu trả lời về lý do để cải thiện chức năng. Bạn có thể gợi ý việc uống viên thuốc có caffeine hoặc amphetamine để giữ tỉnh táo, uống aspirin hoặc thậm chí heroin để giảm đau.
Vui
Quên
Thực hiện chức năng
ĐỘNG CƠ SỬ DỤNG CGN
Chương iii – Bài 3.1 11
Bản chiếu 6
Nói: Chất gây nghiện hướng thần làm thay đổi các yếu tố sau:
Tâm trạng.
Khi CGN vào cơ thể, nó làm thay đổi trạng thái tâm lí tình cảm của người sử dụng.
Ví dụ, họ cảm thấy hạnh phúc mãn nguyện về bản thân hơn. Họ có thể cảm thấy là mình đã trở thành một con người khác.

Nhận thức (hay suy nghĩ). Người sử dụng chất gây nghiện có thể nhận thức về xung quanh khác đi. Yếu tố này liên quan đến cách chúng ta phân tích thông tin và áp dụng kiến thức. Nó ảnh hưởng đến trí nhớ, kĩ năng tổ chức và lập kế hoạch, khả năng tư duy trừu tượng và khả năng ra quyết định. Tất cả những yếu tố này đều ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ. Ví dụ, khi không phê (không bị ảnh hưởng bởi chất gây nghiện) thì họ có thể hiểu rất khác về việc chấp nhận nguy cơ, hiểu được dùng chung bơm kim tiêm là rất nguy hiểm và khiến họ có nguy cơ. Tuy nhiên, khi phê họ có thể nhìn nhận sự việc khác đi và nhận thấy rằng việc dùng chung bơm kim tiêm hoặc không phải là một hành vi nguy cơ đó hoặc là một nguy cơ chấp nhận được. Nhớ rằng, người sử dụng chất gây nghiện thường sử dụng nhiều loại chất gây nghiện. Nếu họ say rượu và sử dụng heroin thì việc dùng chung bơm kim tiêm có thể chẳng có nguy cơ nhiều lắm đối với họ. Bạn cũng cần nhớ rằng, người sử dụng heroin thường không chờ đến tận khi bắt đầu vã mới dùng tiếp mà họ có thể dùng liều tiếp theo ngay cả khi họ đang phê.
Hành vi.
Cách thể hiện hành động của người sử dụng khi họ đang chịu tác động bởi CGN có những sự khác biệt dễ nhận thấy. Hình thức biểu hiện bề ngoài của họ có thể thay đổi, ví dụ như đi đứng không vững, hoặc nói líu lưỡi v.v… Ngoài ra còn có những khác biệt khác về hành vi như bạo lực, một đặc điểm trước đây họ không hề có.

CGN hướng thần làm thay đổi:
Tâm trạng
Nhận thức (suy nghĩ)
Hành vi
CHẤT GÂY NGHIỆN HƯỚNG THẦN
12 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và yêu cầu học viên liệt kê tất cả các chất gây nghiện hướng thần mà họ biết. Vẽ một bảng gồm ba cột trên giấy khổ lớn nhưng không ghi tiêu đề cột. Viết tên từng loại chất gây nghiện mà học viên liệt kê vào từng cột giống như trên bản chiếu. Sau đó trình bày nội dung trên bản chiếu theo hướng dẫn dưới đây.
Nói: Có nhiều cách phân loại chất gây nghiện. Các cách phân loại này chủ yếu là áp đặt, tùy hứng, nhưng những cách phân loại như vậy cũng có vai trò hữu ích mà dựa vào đó chúng ta có thể xác định được mức độ tác dụng của chất gây nghiện đó, những tác hại có thể gây ra và những đặc điểm hội chứng cai. Cách phân loại trên bản chiếu này dựa trên tác động của các chất gây nghiện đối với não bộ.
Việc phân loại này chỉ có mục đích là hướng dẫn chung, vì sự đa dạng về tác dụng và mức độ có thể xảy ra đối với những chất gây nghiện trong cùng một loại. Ví dụ, mặc dù ecstasy có tác dụng kích thích giống như amphetamine, nhưng tác dụng kích thích của nó không mạnh như của amphetamine. Khi dùng ở liều cao, nó có thể gây ảo giác ở một số người.
Các chất dạng thuốc phiện được xếp vào nhóm an thần vì đó là tác động chính của nó lên não bộ. Cần sa được xếp vào cả nhóm an thần đối với hệ thần kinh trung ương vì tác dụng chính của nó là ức chế hệ thần kinh trung ương. Nó cũng được xếp vào, nhóm gây ảo giác vì cần sa khi dùng ở liều cao có thể gây ảo giác.

Nguồn: Victoria Police 2002, Custodial Drug Guide: Medical Management of People in Custody with Alcohol and Drug Problems, Custodial Medicine Unit, Victoria Police, Mornington, Victoria.

An thần Kích thích Ảo giác
Rượu Các chất dạng thuốc ngủ nhóm Amphetamine LSD, Nấm thần, hạt một loại rau họ rau muống
Benzodiazepines Nicotine Mescaline, MDMA (Ecstasy)
Các chất dạng thuốc phiện Cocaine Phencyclidine, Ketamine
Dung môi Caeine Cần sa (liều cao)
Thuốc ngủ nhóm Barbituric Khat Khác (VD: N2O, amyl hoặc butyl nitrite)
Cần sa
PHÂN LOẠI CHẤT GÂY NGHIỆN HƯỚNG THẦN
Chương iii – Bài 3.1 13
Bản chiếu 8
Nói: Mô hình này thể hiện một hệ thống tổng thể về trải nghiệm sử dụng chất gây nghiện. Mô hình này kết hợp mô hình tương tác của Zinberg về tác hại của chất gây nghiện với những nguyên tắc của Thuyết Học hỏi xã hội. Mô hình tương tác này cho thấy rằng sự tương tác giữa chất gây nghiện, môi trường và cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự trải nghiệm về sử dụng chất gây nghiện. Không thể chỉ xem xét từng yếu tố một cách riêng biệt.
Trong mỗi khía cạnh (chất gây nghiện, môi trường, cá nhân), tầm quan trọng của mỗi một yếu tố (như cảm xúc, áp lực đồng đẳng, đường dùng) đối với trải nghiệm của người sử dụng sẽ khác nhau giữa người này và người kia, và giữa bối cảnh này và bối cảnh khác.
Một số yếu tố có thể trùng lặp trong các nhóm khác (ví dụ: sự sẵn có thuốc có thể là yếu tố môi trường hoặc là yếu tố chất gây nghiện hoặc cả hai). Vấn đề quan trọng nhất là mỗi cấu thành và sự tương tác giữa các yếu tố cần được xem xét khi đánh giá trải nghiệm sử dụng chất gây nghiện.

CGN
Cá nhân Môi trường

Đường dùng, tác dụng, độ tinh khiết, hiệu quả, chất lượng Phản ứng thực thể/cảm xúc, tâm trạng, tình trạng sức khỏe, tuổi, độ dung nạp, niềm tin, kiến thức, trí nhớ, sự mong đợi, trải nghiệm trước đây Địa điểm, thời gian, con người, cách sử dụng, việc làm, bối cảnh XH, nguồn cung, bạn sử dụng, tính hợp pháp, quảng cáo, sự sẵn có, văn hóa Dạng, giá cả, sự sẵn có, tương tác với các CGN khác
MÔ HÌNH TƯƠNG TÁC VỀ TRẢI NGHIỆM SỬ DỤNG CGN
Trải nghiệm sử dụng CGN
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Bản chiếu này thể hiện tỉ lệ một cách tương đối số người sử dụng các chất gây nghiện hướng thần theo các hình thức sử dụng.
Đa số người sử dụng chất gây nghiện là những người chỉ dùng với mục đích dùng thử. Họ sử dụng chất gây nghiện không thường xuyên, chỉ dùng nếu có dịp hoặc nếu có sẵn chất gây nghiện. Nhiều người trong số họ sẽ tự dừng lại, không tiếp tục sử dụng nữa và sẽ không tiếp tục chuyển sang hình thức sử dụng nhiều hơn.
Khi người sử dụng chuyển sang hình thức dùng nhiều và thường xuyên hơn thì việc sử dụng chất gây nghiện được coi là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của họ và khả năng dung nạp bắt đầu xuất hiện cùng với những hậu quả của việc sử dụng nhiều. Từ đó nghiện là một điều tất yếu sẽ xảy ra. Tỉ lệ người sử dụng chất gây nghiện cuối cùng sẽ trở thành nghiện được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau. Nhớ là không phải bất cứ ai sử dụng chất gây nghiện một lần đều bị nghiện.

CÁC HÌNH THÁI SỬ DỤNG CGN
Nghiện
Dùng nhiều
Dùng có mục đích
D ù n g t h ử
Chương iii – Bài 3.1 15
Bản chiếu 10
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và thực hiện thảo luận nhóm. Chiếu sơ đồ mô hình sau khi học viên đã trả lời các câu hỏi dưới đây.
Chia lớp thành 3 nhóm nhỏ. Yêu cầu mỗi nhóm liệt kê các nguy cơ và các vấn đề khó khăn liên quan đến việc sử dụng chất gây nghiện. Dành một vài phút để họ động não rồi yêu cầu họ trở lại nhóm lớn. Yêu cầu mỗi nhóm cử một người trình bày kết quả thảo luận.
Thông tin tham khảo: Thorley đã mô tả về những vấn đề liên quan đến việc sử dụng chất gây nghiện theo 3 phạm trù: Phê, Sử dụng thường xuyên và Nghiện.
Sơ đồ này cho thấy những phạm trù này không có tính loại trừ lẫn nhau và một người sử dụng có thể gặp phải các vấn đề thuộc 1 phạm trù, cả 2 hoặc cả 3 phạm trù khác nhau.
Những vấn đề được liệt kê trong mỗi phạm trù trên bản chiếu chỉ là một số ví dụ, trên thực tế danh sách tác hại của chất gây nghiện còn rất dài.
Phê/Say
Một lần phê có thể gây ra một loạt các vấn đề khác nhau:
‚ Tai nạn có thể xảy ra khi bị say (rượu)
‚ Sau khi say thường bị đau đầu/mệt mỏi hay uể oải
‚ Quá liều heroin là hậu quả của phê
‚ Nhận thức về nguy cơ sẽ thay đổi khi say và người ta có thể sử dụng chung dụng cụ tiêm chích
NHỮNG VẤN ĐỀ DO SỬ DỤNG CGN
Mô hình tác hại của Thorley
Say/Phê
Tai nạn; Đau đầu/mệt mỏi;
Lây nhiễm; Quá liều
Lệ thuộc
Cắt cơn
Thèm nhớ
Ám ảnh
Mâu thuẫn
SD nhiều thường xuyên
Bệnh nội tạng
Tài chính
Quan hệ
Trí nhớ
16 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10 (tiếp)
Sử dụng thường xuyên
Sử dụng liều cao thường xuyên có thể gây ra nhiều vấn đề khác nhau:
‚ Uống rượu nhiều lâu dài có thể hại đến gan
‚ Dùng nhiều thì tốn nhiều tiền
‚ Dùng nhiều thường xuyên có thể gây thay đổi tính cách (trầm cảm, tính khí thất thường) và ảnh hưởng đến các mối quan hệ
‚ Dùng heroin liều cao thường xuyên hay dẫn đến sốc quá liều không tử vong, làm tổn thương não và gây trí nhớ kém hoặc mất trí nhớ
Nghiện
Những đặc điểm của nghiện sẽ được nói đến trong bài học tiếp theo
‚ Nghiện về thể chất sẽ gây ra hội chứng cai
‚ Nghiện về tâm lí sẽ gây ra cơn thèm nhớ và dùng bất chấp tác hại
Chương iii – Bài 3.1 17
Bản chiếu 11
Nói: Bạn đã nhìn thấy heroin bao giờ chưa?
Đây là hình ảnh của heroin. Và nó sẽ là chất gây nghiện bất hợp pháp đầu tiên mà chúng ta thảo luận.
Bạn biết những gì về heroin?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành một vài phút để học viên trả lời câu hỏi, sau đó chuyển sang bản chiếu tiếp theo.
Heroin
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Heroin là chất gây nghiện bán tổng hợp từ chiết xuất của cây thuốc phiện. Nó được xếp vào nhóm các dẫn chất gây nghiện dạng thuốc phiện. Dẫn chất gây nghiện dạng thuốc phiện có nguồn gốc từ nhựa của cây thuốc phiện đang có hoa. Chất nhựa này chứa morphine và codeine, cả 2 chất đều có tác dụng giảm đau và được sử dụng để sản xuất nhiều loại thuốc có kê đơn.
Heroin nguyên chất có dạng bột trắng, vị đắng. Dạng kém tinh khiết hơn được gọi là “cơm đen”, một chất có màu nâu hoặc đen đen. Tên hóa học của nó là diacetylmorphine.

Nằm trong nhóm dẫn chất gây nghiện dạng thuốc phiện Tên hóa học: diacetylmorphine Được chiết xuất từ nhựa của cây hoa thuốc phiện Heroin nguyên chất là bột màu trắng, có vị đắng Dạng kém nguyên chất hơn còn gọi là “cơm đen”, là chất màu nâu, đen
HEROIN LÀ GÌ?
Chương iii – Bài 3.1 19
Bản chiếu 13
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin tham khảo dưới đây để trình bày bản chiếu.
Thông tin tham khảo: Heroin thuộc nhóm các chất dạng thuốc phiện (CDTP), một số chất này là hoàn toàn tự nhiên như thuốc phiện, một số khác được tổng hợp từ các CDTP tự nhiên như heroin, và có chất được tổng hợp hoàn toàn như là methadone.
Chất đồng vận tự nhiên: trong số 20 chất alkaloid có nguồn gốc tự nhiên, chỉ có morphine và codeine là có tác dụng giảm đau.
Chất đồng vận bán tổng hợp: như heroin, là một chất có nguồn gốc từ morphine.
Chất đồng vận tổng hợp hoàn toàn: như methadone và dextropropoxyphene, có cùng cấu trúc khiến các chất này có thể tương tác với các thụ thể CDTP trên não. Những chất nhân tạo hoàn toàn này đã được tổng hợp mà không cần phải sử dụng một CDTP có nguồn gốc tự nhiên nào.
Những chất dạng thuốc phiện được sử dụng phổ biến là:
‚ Heroin
‚ Morphine/thuốc điều trị giống như morphine
‚ Codeine phosphate và các loại thuốc có công thức chứa codeine như thuốc ho
‚ Methadone
‚ Các loại thuốc có công thức sản xuất giống oxycodone
‚ Thuốc có thành phần dextropropoxyphene
PHÂN LOẠI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Thuốc phiện
morphine
codeine
heroin
buprenorphine
hydromorphone
oxycodone methadone
meperidine
hydrocodone
fentanyl
pentazocine
Naloxone pethidine
Chất đồng vận tự nhiên
Chất đối kháng
Chất đồng vận bán tổng hợp
Chất đồng vận tổng hợp
20 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14
Nói: Các CDTP tác động lên 3 loại thụ thể các CDTP chính (μ, κ và σ). Thụ thể μ có liên quan đến nghiện CDTP. Các thụ thể CDTP tồn tại trên não, tủy sống và thần kinh ngoại biên (kể cả các đường dẫn truyền không phải thần kinh trong đường tiêu hóa), ức chế phản xạ ho và thở, giảm nhu động đường tiêu hóa (gây nên cảm giác buồn nôn và nôn), đồng tử co nhỏ, bí tiểu (do tăng trương lực cơ cổ bàng quang).
Các thụ thể CDTP có tính ức chế. Chúng ức chế sự giải phóng của các chất dẫn truyền thần kinh khác như serotonine, GABA, và glutamate. Chúng cũng tạo điều kiện cho việc tăng giải phóng dopamine, chất có tác động đến khả năng lệ thuộc vào CDTP của con người.
Tác dụng truyền qua hệ viền trên não bộ gây ra thay đổi về cảm xúc, ví dụ như cảm giác phê.

3 loại thụ thể CDTP chính (μ, κ, và σ)
Thụ thể CDTP tồn tại trong hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên và đường tiêu hóa
Thụ thể CDTP có tính ức chế
- Ức chế giải phóng một số chất dẫn truyền thần kinh
(VD: serotonine, GABA, glutamate, acetylcholine)
- Kích thích giải phóng dopamine (được coi là gây ảnh hưởng tới khả năng lệ thuộc CDTP)
Ảnh hưởng đến hệ viền gây ra thay đổi trạng thái cảm xúc
DƯỢC LÝ HỌC CỦA CDTP
Chương iii – Bài 3.1 21
Bản chiếu 15
Nói: Các cấu trúc hóa học khác nhau của loại CDTP tạo nên sự khác biệt quan trọng trong việc hấp thụ và chuyển hóa. Morphine được gan chuyển hóa rất nhanh sau khi uống nên chỉ một lượng thuốc nhỏ có thể đến được toàn bộ cơ thể và não. Heroin (diacetylmorphine) trước tiên được chuyển hóa sang monoacetylmorphine (MAM), sau đó sang morphine. Vì heroin và MAM thấm vào mỡ dễ dàng hơn so với morphine nên các chất này có thể vượt qua hàng rào máu não của người lớn nhanh chóng hơn so với morphine, chính vì vậy tạo nên cảm giác phê mạnh hơn.
Codeine cũng được chuyển hóa thành morphine trong gan. Đối với 8-10% người da trắng và 2% người Đông Nam Châu Á, những người không có loại enzym cần thiết, thì codeine không có tác dụng giảm đau.

Morphine được tạo ra trong quá trình chuyển hóa heroin
heroin ➠ monoacetylmorphine (MAM) ➠ morphine
Heroin và MAM xâm nhập vào não dễ dàng, vì vậy có tác động rất nhanh
Heroin được đào thải qua nước tiểu dưới dạng morphine tự do và kết hợp
Các chất chuyển hóa của heroin xuất hiện trong nước tiểu trong vòng khoảng 48 giờ sau khi sử dụng
DƯỢC LÝ HỌC CỦA HEROIN
22 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16
Nói: Heroin được sử dụng bằng nhiều cách. Heroin có thể được:
‚ Tiêm vào tĩnh mạch (còn được gọi là “tiêm chích”)
‚ Hút bằng tẩu có nước hoặc tẩu thông thường
‚ Hít dưới dạng bột qua mũi
‚ Sử dụng riêng hoặc pha trộn với chất gây nghiện khác
Heroin được sử dụng bằng nhiều cách:
- Tiêm vào tĩnh mạch
- Hút
- Hít dạng bột qua đường mũi
- Sử dụng riêng heroin hoặc pha trộn với các loại CGN khác
HEROIN ĐƯỢC SỬ DỤNG NHƯ THẾ NÀO?
Chương iii – Bài 3.1 23
Bản chiếu 17
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và đặt các câu hỏi dưới đây. Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi rồi sau đó chiếu từng dòng và thảo luận.
Nói: Những tác dụng tức thì khi sử dụng heroin là gì?
Khi tiêm heroin vào cơ thể, hút hoặc hít, người sử dụng sẽ trải qua cảm giác phê, hay còn gọi là “bốc”. Vào thời điểm này, người sử dụng thường cảm thấy da ấm, khô miệng, và nặng chân tay. Họ cũng có thể buồn nôn, nôn và ngứa.
Khoảng thời gian đạt được độ phê khác nhau tùy thuộc vào đường dùng heroin. Nếu tiêm qua tĩnh mạnh, cảm giác phê đạt được trong vòng 30 giây. Nếu hít hoặc hút, cảm giác phê đạt được sau khoảng 10 phút.
Tác dụng cũng đa dạng, tùy thuộc vào từng người.
Sau khi “bốc”, người sử dụng thường cảm thấy buồn ngủ trong vài giờ. Tâm thần thường u ám, nhịp tim chậm, nhịp thở chậm. Khi tác dụng của thuốc hết, cảm giác phê cũng mất đi.

Cảm giác sung sướng: Heroin có thể gây ra cảm giác phê, bốc và cảm giác khỏe khoắn
Giảm đau: Heroin làm giảm đau về thể chất
Giảm cảm giác đói và ham muốn tình dục
Buồn ngủ: Khi sử dụng heroin liều cao, người sử dụng có thể cảm thấy ấm lên, nặng nề và buồn ngủ Có thể buồn nôn và nôn, nhất là ở những người mới sử dụng
HEROIN : TÁC DỤNG TỨC THỜI (1)
24 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Nói: Các tác dụng tức thời của heroin còn bao gồm: giảm nhịp thở, nhịp tim, giảm huyết áp, đồng tử co nhỏ, da ngứa, nhạy cảm, khô miệng, khô da, khô mắt.
Đồng tử co nhỏ do tăng trương lực cơ đồng tử.
Bí tiểu do tăng trương lực cơ cổ bàng quang, giữ nước tiểu

Nguồn: Young, R., Saunders, J., Hulse, G., McLean, S., Martin, J. & Robinson, G. 2002, ‘Opioids’, in Hulse, G., White, J. & Cape, G. (eds.) 2002, Management of Alcohol and Drug Problems, Oxford University Press, South Melbourne, pp. 79–99.
Nhịp thở và mạch chậm hơn
Giảm huyết áp
Đồng tử co nhỏ
Da nóng đỏ ngứa, khô miệng, khô da và mắt
HEROIN : TÁC DỤNG TỨC THỜI (2)
Chương iii – Bài 3.1 25
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và đặt các câu hỏi dưới đây. Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi rồi sau đó chiếu từng dòng và thảo luận.
Nói: Hậu quả của việc sử dụng heroin là gì?
Thông tin tham khảo: Tiếp tục sử dụng sẽ dẫn đến sự dung nạp, do đó người sử dụng phải tăng liều để đạt được độ phê ban đầu, và vì vậy, họ có thể có nguy cơ sử dụng quá liều.
Khả năng dung nạp với CDTP tăng lên nhanh chóng, khởi đầu với liều đầu tiên và liên quan tới:
‚ Giảm – Điều hòa – giảm số lượng thụ thể
‚ Giảm độ nhạy – giảm đáp ứng đối với phản ứng của thụ thể.
Liều cao hơn, sự yên dịu có thể quá ngưỡng và quá liều có thể dẫn đến:
‚ Bất tỉnh, ngất và tử vong do suy hô hấp
Khi không sử dụng heroin, người nghiện thường có biểu hiện của hội chứng cai như bồn chồn, đau xương, đau cơ, mất ngủ, tiêu chảy, nôn, lạnh và nổi da gà.
Heroin có tính gây nghiện rất cao, đến mức có thể làm thay đổi chức năng não bộ. Sử dụng heroin có thể gây ra những rối loạn về sức khỏe, khó khăn về tài chính, xã hội, việc làm, gia đình và pháp luật.
Sử dụng heroin cũng dễ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV do dùng chung các dụng cụ tiêm chích và do suy giảm chức năng đánh giá dẫn đến tăng khả năng có hành vi nguy cơ cao.
Bản chiếu 19
Liều cao hơn – tiếp tục sử dụng dẫn đến tăng dung nạp, do đó phải tăng liều để đạt được cùng một độ phê
Quá liều
- Bất tỉnh hoặc tử vong (do thở quá chậm hoặc ngừng thở)
- Phù phổi
Nghiện
- Triệu chứng cai: bồn chồn, đau cơ, xương, mất ngủ, ỉa
chảy, nôn, nổi da gà, khả năng tự chăm sóc bản thân kém
- Phạm tội
Lây truyền HIV: do dùng chung dụng cụ tiêm chích
HEROIN : HẬU QUẢ LÂU DÀI (1)
26 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 20
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để thảo luận về những hậu quả dài hạn của sử dụng heroin
Thông tin tham khảo: Có rất ít bằng chứng về tác động có hại trực tiếp lâu dài đối với hệ thần kinh trung ương do việc sử dụng CDTP. Tuy nhiên, việc sử dụng các CDTP trong thời gian dài có thể gây những biến chứng sau đây:
Táo bón
Đặc điểm là cảm thấy chướng bụng và khó chịu ở bụng dưới nhưng không rõ ràng.
Kiểm tra thực thể có thể không phát hiện được gì mặc dù bụng của bệnh nhân có thể bị chướng (không do tắc ruột).
Trầm cảm
Thay đổi hành vi sử dụng ma túy đòi hỏi phải có sự thay đổi về mặt xã hội. Việc bệnh nhân bị trầm cảm hoặc buồn rầu khi phải đối mặt với những thay đổi là chuyện khá phổ biến và cần phải mất một thời gian mới có thể thích nghi với một lối sống khác.
Tổn thương não
Khi bị sốc thuốc quá liều liên tục nhưng không tử vong gây nên nguy cơ suy giảm chức năng thần kinh. Kĩ năng tổ chức, kĩ năng lập kế hoạch và trí nhớ cũng sẽ bị ảnh hưởng không tốt.
Có khả năng:
Táo bón
Giảm nhận thức do thiếu oxy não từ những lần quá liều
Rối loạn hệ sinh sản và nội tiết
Rất buồn (trầm cảm, vô cảm)
HEROIN : HẬU QUẢ LÂU DÀI (2)
Chương iii – Bài 3.1 27
Bản chiếu 20 (tiếp)
Hệ nội tiết
Sử dụng heroin ảnh hưởng đến hệ nội tiết, gây thay đổi hoóc môn sinh dục ở nữ, do đó làm thay đổi chu kỳ kinh nguyệt, làm giảm ham muốn tình dục. Nó có thể làm giảm lượng testosterone ở nam và cũng làm giảm ham muốn tình dục ở nam.
Nguồn: Kahan, M. & Marsh, D. 2000, ‘Intoxication, Overdose and Withdrawal’ in Brand, B. (ed.), Management of Alcohol,Tobacco and Other Drug Problems, Centre for Addiction and Mental Health, Toronto. Victoria Police 2002, Custodial Drug Guide: Medical Management of People in Custody with Alcohol and Drug Problems, Custodial Medicine Unit, Victoria Police, Mornington, Victoria.
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 21
Các chất kích thích dạng Amphetamine
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ cùng thảo luận về các chất kích thích dạng Amphetamine
Chương iii – Bài 3.1 29
Bản chiếu 22
Nói: Chất kích thích dạng amphetamine là một họ các chất gây nghiện có cấu trúc phân tử ở trung tâm giống nhau. Các chất này khác nhau ở cấu trúc và vị trí của các nhánh bên gắn với phân tử trung tâm. Các nhánh bên này có rất nhiều tác động khác nhau phụ thuộc vào vị trí gắn kết và cấu trúc của chất gây nghiện. Hôm nay chúng ta sẽ thảo luận về hai loại chất: methamphetamine và MDMA (ecstasy).
Gồm nhiều loại chất hướng thần khác nhau
Tác dụng tùy thuộc vào
- vị trí và cấu trúc của CGN
Tác dụng
- Kích thích (ví dụ: Methamphetamine)
- Phê (hỗn hợp ví dụ: MDMA)
- Ảo giác (ví dụ: DOM – 2,5
Dimethoxy-4-methyl-amphetamine)
- Gây kém ngon miệng (ví dụ: fenuramine)
CÁC CHẤT KÍCH THÍCH DẠNG AMPHETAMINE
30 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Bạn biết gì về methamphetamine?
Nguồn: National Institute on Drug Abuse, National Institutes of Health. NIDA Research Report – Methamphetamine Abuse and Addiction. Nguồn ảnh: United States Drug Enforcement Agency. Drug Trafcking in the United States. Available at: http://www.dea.gov. Accessed July 13, 2004.
Bản chiếu 23
Methamphetamine
Chương iii – Bài 3.1 31
Bản chiếu 24
Nói: Có nhiều dạng methamphetamine khác nhau. Dạng muối chủ yếu ở dưới dạng bột, có thể hòa tan dễ dàng và thường được dùng để tiêm chích hoặc hít. Dạng tinh thể đá hoặc viên nén cũng tương tự như vậy nhưng có độ tinh khiết cao hơn. Dạng ba-zơ tự do có thể được bán dưới dạng dung dịch có màu vàng nâu.
Dạng muối hydrochloride: Có thể được bán dưới dạng bột
- Bột tinh thể có vị đắng, dễ hòa tan trong nước, rượu và có thể tiêm được
Dạng tinh thể (đá): điều chế bằng cách axít hóa methamphetamine dạng ba-zơ
- Sử dụng dưới dạng hút như “đá”, “pha lê”
METHAMPHETAMINE
32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 25
Nói: Methamphetamine có nhiều dạng khác nhau và có thể được sử dụng theo nhiều cách: hút, hít, uống, hoặc tiêm.
“Đá” là dạng methamphetamine có thể dùng để hút. Đá thường lớn, thường là tinh thể trong suốt có độ tinh khiết cao, hút bằng tẩu thủy tinh. Khói hút không có mùi, để lại cặn sau khi hút và cặn này có thể sử dụng để hút lại. Cảm giác tạo ra khi hút có thể kéo dài trong vòng 12 giờ hoặc lâu hơn.

Hút, hít, uống, tiêm “Đá”
- Dạng methamphetamine có thể hút
- Hút trong tẩu nước hoặc tẩu thủy tinh
- Có tác dụng trong vòng 12 tiếng hoặc lâu hơn
METHAMPHETAMIN ĐƯỢC SỬ DỤNG NHƯ THẾ NÀO?
Chương iii – Bài 3.1 33
Bản chiếu 26
Nói: Methamphetamine làm tăng lượng dopamine trong não. Nó vừa làm tăng giải phóng dopamine từ tế bào thần kinh lại vừa chẹn kênh hấp thụ dopamine ngược trở lại tế bào thần kinh. Nó đồng thời cũng ức chế men phân hủy dopamine khi chất này tồn tại ở bên ngoài tế bào thần kinh trong khoảng thời gian dài.
Ngoài tác động làm tăng dopamine, methamphetamine còn làm tăng serotonine và noradrenaline. Tác dụng của dopamine và serotonine là làm tăng cảm giác sung sướng mà người sử dụng mong muốn. Những tác dụng không mong muốn (do tăng noradrenalin) thường gây ra hậu quả cho người sử dụng.

Làm tăng giải phóng dopamine hàng loạt
Tăng giải phóng dopamine, serotonine và norepinephrine
Chặn kênh hấp thụ lại dopamine vào tế bào và ức chế men phân hủy dopamine
DƯỢC LÝ HỌC METHAMPHETAMINE
34 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 27
Nói: Người sử dụng thích tác động của thuốc lên hệ thần kinh trung ương và không thích tác động của thuốc lên hệ thần kinh ngoại biên như tăng giải phóng adrenaline, chất làm tăng nhịp tim.
Tác động tức thời của methamphetamine là gì?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành một vài phút để học viên trả lời và tiếp tục như sau
Nói: Ngay sau khi hút hoặc sau khi tiêm ven, người sử dụng cảm thấy bốc hoặc “xung”, kéo dài chỉ khoảng một vài phút và được mô tả là một sự sung sướng tột cùng. Hít hoặc uống cũng tạo ra cảm giác phê nhưng không bốc. Người sử dụng sẽ cảm thấy phê sau khi hút 3 – 5 phút, sau khi uống 15 – 20 phút.
Mong muốn
Cảm thấy khỏe khoắn hoặc phê
Có thêm năng lượng
Tỉnh ngủ
Lanh lợi
Không đói
Thông thái hơn
Tăng khả năng
Tăng ham muốn tình dục
Tăng khả năng ngoại giao
Tâm trạng tốt hơn
TÁC DỤNG KÍCH THÍCH TỨC THỜI
Chương iii – Bài 3.1 35
Bản chiếu 28
Nói: Tác động về thể chất khi sử dụng methamphetamines cũng tương tự như khi sử dụng các chất kích thích khác. Khi uống, hít, hoặc hút, người sử dụng thường cảm thấy lâng lâng, sung sướng, tỉnh táo hơn và tràn đầy sinh lực. Nhịp tim và huyết áp tăng, giảm cảm giác đói và mệt. Có thể có trống ngực. Miệng thường bị khô và khó nuốt, khiến cho việc ăn uống trở nên khó khăn. Việc tiểu tiện cũng khó khăn. Đồng tử của người sử dụng giãn to, và phản xạ nhanh hơn, nói cũng nhanh. Người sử dụng methamphetamine có thể có cảm giác mình là nhà vô địch khiến cho họ thường làm những việc ngoài khả năng thực tế của họ.
Thể chất
Tăng nhịp tim
Giãn đồng tử
Tăng thân nhiệt
Tăng hô hấp
< Tăng huyết áp
TÁC DỤNG KÍCH THÍCH NGẮN HẠN
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 29
Đột quỵ, lên cơn co giật, đau đầu
Khó chịu, đứng ngồi không yên
Trầm cảm, lo lắng, khó chịu, tức giận
Giảm trí nhớ, lẫn lộn, giảm khả năng tập trung
Mất ngủ
Hoảng loạn, ảo giác âm thanh, phản ứng hoảng loạn
Có ý định tự tử
Khô miệng, môi khô rát
Răng yếu (do nghiến răng nhiều khi phê)
Khó nuốt
Đau ngực, ho, suy yếu hô hấp
Có vấn đề về nhịp tim và nhồi máu cơ tim
Biến chứng tiêu hóa (đau bụng và buồn nôn)
Mất sự ham muốn tình dục
Suy dinh dưỡng, sút cân, biếng ăn
Yếu, mệt mỏi
Run
Toát mồ hôi
Da nhờn
TÁC ĐỘNG DÀI HẠN CỦA CHẤT KÍCH THÍCH
Nói: Trên bản chiếu này là những thông tin tham khảo về các tác động dài hạn của chất kích thích đối với cơ thể.
Chương iii – Bài 3.1 37
Bản chiếu 30
Nói: Sử dụng methamphetamine lâu dài có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng về thể chất, tâm lí và sức khỏe, trong đó có thể bao gồm nghiện và rối loạn tâm tính. Những rối loạn về tâm tính đó có thể dẫn đến trầm cảm hoặc bạo lực.
Có hại
Hậu quả về tâm lí
- Khó ngủ, lo lắng, cơn hoảng loạn
- Tính khí thất thường
- Trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác
Hậu quả có hại về hành vi
- Hành vi bạo lực và gây gổ
Nghiện
Chứng rối loạn tâm thần do methamphetamine gây ra
TÁC ĐỘNG DÀI HẠN CỦA CHẤT KÍCH THÍCH
38 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 31
Nói: Nguy cơ loạn thần rất cao ở những người sử dụng liều cao, kéo dài. Khả năng mắc chứng bệnh này ở người sử dụng methamphetamine cao hơn 11 lần so với những người không sử dụng methamphetamine. Một phần ba số người lệ thuộc có những triệu chứng này. Ảo giác là rất phổ biến. Những triệu chứng này thường chấm dứt sau vài tuần kể từ khi ngừng sử dụng methamphetamine nhưng vẫn tồn tại ở khoảng 10% số người sử dụng.
Chủ yếu hay mắc bệnh này sau khi dùng liều cao, kéo dài 1/3 số người lệ thuộc có những triệu chứng rối loạn tâm thần Liên quan đến các đường sử dụng có tác dụng nhanh và thiếu ngủ
Đặc điểm
- Ảo tưởng bị ngược đãi
- Ảo giác (nghe, nhìn, hoặc ngửi mùi không thật)
- Thường khỏi sau vài tuần nhưng đối với một số người bệnh tồn tại dai dẳng
CHỨNG RỐI LOẠN TÂM THẦN DO METHAMPHETAMINE GÂY RA
Chương iii – Bài 3.1 39
Bản chiếu 32
Nói: Tên thường gọi của MDMA là thuốc lắc. Bạn biết những gì về MDMA?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành một vài phút để học viên trả lời trước khi chuyển sang các bản chiếu tiếp theo
Nguồn: National Institute on Drug Abuse, National Institutes of Health. NIDA Research Report - MDMA Abuse (Ecstasy).
MDMA (Ecstasy)
40 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 33
Nói: MDMA là loại chất gây nghiện vừa gây kích thích và gây ảo giác. Giống như methamphetamine, nó là chất dạng amphetamine. MDMA được bán dưới dạng viên nén hoặc viên nang (con nhộng)
Nó là hóa chất tổng hợp và có thể được chiết xuất từ dầu cây Sassafras. Tên hóa học của nó là 3,4-methylenedioxy-N-methamphetamine.
Thông thường thuốc methamphetamine được bán giả như là thuốc lắc.

Chất kích thích và chất gây ảo giác
Dạng viên nén hoặc dạng viên con nhộng
Tên hóa học: methylenedioxymethamphetamine
Tên trên thị trường: “ecstasy” , “XTC”, “E”, “Bay”, “Cắn”, “Bướm đêm”, “Tình yêu”…
Hợp chất hóa học tương tự thường được bán giả làm MDMA
Tác dụng kích thích của MDMA (“tác dụng tình yêu”) khiến nó được yêu thích trong các vũ trường
MDMA là gì?
Chương iii – Bài 3.1 41
Nói: Thuốc lắc chủ yếu tác động lên não bộ thông qua làm tăng nồng độ serotonine bên ngoài tế bào thần kinh (khoảng gian bào). Nó đồng thời cũng làm tăng một lượng lớn dopamine bên ngoài tế bào. Những thay đổi lượng serotonin và dopamine này làm gia tăng hoạt động của tế bào não.
Serotonin là chất dẫn truyền thần kinh chính của não bộ chịu trách nhiệm dẫn truyền các phản ứng về tâm trạng, hoạt động tình dục và ngủ. Những tác động này là những tác động mong muốn của người sử dụng. Hơn nữa, serotonin còn giữ vai trò quan trọng là kiểm soát trí nhớ và nhiệt độ cơ thể. Sử dụng thuốc lắc lâu dài sẽ làm suy giảm chức năng nhớ, còn tác động ngắn hạn của thuốc lắc ở những người nhạy cảm là gây ra cảm giác nóng bức.

Bản chiếu 34
MDMA đầu tiên sẽ làm tăng nồng độ serotonin tại khoảng gian bào TB não
- Cũng làm tăng nồng độ dopamine một cách nhanh chóng
Serotonin (5-hydroxytryptamine):
- Điều hòa tâm trạng, hoạt động tình dục, ngủ
- Rất quan trọng với trí nhớ và điều hòa thân nhiệt
CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 35
Nói: Liều dùng thông thường của MDMA là từ 50mg đến 150 mg; 100mg được coi là liều trung bình cho một lần dùng duy nhất.
Thường được nén dưới dạng viên nén hoặc viên con nhộng. Cách dùng chủ yếu là uống và có tác dụng kéo dài trong vòng 3-6 giờ. Cách dùng ít phổ biến hơn là tiêm hoặc hút, nhưng cũng có một số người sử dụng theo cách này. MDMA dưới dạng bột có thể dùng để hít nhưng ít phổ biến hơn.
MDMA có hàm lượng không ổn định. Có một số loại hóa chất có cấu tạo hóa học tương tự như MDMA được bán giả như là MDMA trên thị trường, trong đó có cả methamphetamine.

Nuốt là cách dùng phổ biến nhất
Tiêm hoặc hút ít được sử dụng hơn
Cũng gặp hít dạng bột
Thường dùng liều thứ 2 khi tác dụng của liều đầu tiên bắt đầu giảm
MDMA ĐƯỢC SỬ DỤNG NHƯ THẾ NÀO?
Chương iii – Bài 3.1 43
Bản chiếu 36
Nói: Liều nhẹ và trung bình của MDMA sẽ tạo ra cảm giác phê, và cảm thấy gần gũi, thân mật, cảm thông với người khác. MDMA cũng làm tăng cường cảm giác khoan khoái và tự tin, và tăng sinh lực. Cảm giác “tác dụng tình yêu” liên quan chặt chẽ với sử dụng MDMA. Cảm giác kích thích của nó đã tạo ra đặc tính thích hợp với các hộp đêm và vòng quay “mê dại”.
Trong nhiều giờ sau khi sử dụng, MDMA làm giảm đáng kể khả năng tinh thần. Những sự thay đổi này đặc biệt ảnh hưởng đến trí nhớ và có thể kéo dài tới 1 tuần, và cũng có thể lâu hơn với người sử dụng thường xuyên. Thực tế là MDMA làm giảm quá trình xử lí thông tin, cho thấy nguy cơ tiềm tàng khi thực hiện các thao tác phức tạp, như lái xe, trong khi đang bị ảnh hưởng bởi tác dụng của thuốc.
Trong thời gian 1 tuần sau khi sử dụng với liều trung bình, nhiều người sử dụng MDMA nói rằng có cảm giác biến đổi cảm xúc, bao gồm lo lắng, bồn chồn, dễ kích thích, và buồn bực. Ở một số người, những thay đổi này có thể trầm trọng và dẫn đến trầm cảm thực thể. Nói chung, cảm giác lo lắng, bồn chồn và gây gổ, cũng như bị rối loạn giấc ngủ, không ngon miệng và làm giảm sự quan tâm đến khoái cảm tình dục có thể xảy ra ở những người sử dụng MDMA thường xuyên. Một số các tác dụng khó chịu này có thể không do MDMA gây ra trực tiếp, nhưng nó liên quan đến các CGN khác thường sử dụng kết hợp với MDMA, như là cần sa, hoặc các chất khác kết hợp trong viên nén MDMA.

Tăng cảm giác thân mật, gần gũi
Phê
Tăng sinh lực
Hứng tình
Đồng tử giãn
Nhịp tim nhanh
Nghiến răng
Khô miệng
Run rẩy
Tim đập thình thình
Vã mồ hôi
Tê bì, ngứa ngáy
TÁC DỤNG TỨC THỜI CỦA MDMA (1)
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 37
Nói: Những hậu quả ngắn hạn này rất hiếm gặp
Hậu quả về sức khỏe
Tăng nhiệt độ cơ thể
Co giật
Bệnh tim mạch
Đột quỵ
Tổn thương gan
TÁC DỤNG TỨC THỜI CỦA MDMA (2)
Chương iii – Bài 3.1 45
Bản chiếu 38
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và đặt câu hỏi dưới đây. Sau khi học viên trả lời, chiếu nội dung bản chiếu và thảo luận về các ý trên bản chiếu dựa theo thông tin dưới đây.
Nói: Hậu quả của việc sử dụng MDMA là gì?
Đối với một số người, MDMA có thể gây nghiện. Hầu hết 60% người sử dụng MDMA nói rằng họ có triệu chứng cắt cơn. Các triệu chứng gồm có cảm giác mệt mỏi, kém ăn, cảm giác chán nản và khó tập trung.
Đối với những phụ nữ mang thai sử dụng MDMA, những tác dụng có hại do MDMA gây ra đối với thai nhi rất đáng lo ngại.
Việc sử dụng MDMA có liên quan đến các hành vi tình dục nguy cơ cao có thể dẫn đến lây nhiễm HIV và bệnh lây truyền qua đường tình dục. Một số người nói họ sử dụng hỗn hợp nhiều loại chất gây nghiện hợp pháp và bất hợp pháp trong đó có MDMA.
Tổn thương tế bào não có liên quan đến các bằng chứng về suy giảm trí nhớ ngắn hạn và dài hạn và giảm khả năng học tập. Chưa rõ là những tổn thương này có gây ra những hậu quả dài hạn hay không.

Hậu quả lâu dài về tâm lí:
- Suy giảm nhân cách
- Mất ngủ
- Trầm cảm
Nghiện
Lây truyền HIV – không kiềm chế được hoạt động tình dục và mất kiểm soát khả năng ra quyết định
Có khả năng ảnh hưởng đến sự phát triển của bào thai do MDMA
Tổn thương tế bào não
- Liệu các tổn thương này tồn tại lâu dài hay không chưa được chứng minh
HẬU QUẢ LÂU DÀI CỦA MDMA
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 39
CẦN SA
Tarijuana Hashish
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận về cần sa.
Chương iii – Bài 3.1 47
Bản chiếu 40
Nói: Hoạt chất THC chỉ là một trong số 60 cannabinoids có trong cây cần sa (Cannabis sativa), nhưng đó là chất có tác dụng hướng thần trong loại thảo dược này.
Hoạt chất chính là THC (delta-9-tetrahydrocannabinol) - Hấp thụ và chuyển hóa nhanh khi hút, chậm hơn nếu nuốt
Gắn kết với các thụ thể cannabinoid cụ thể trên não (phân tử não nội sinh – anandamide).
CẦN SA: HOẠT TÍNH
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 41
Nói: Có một số cách để hút cần sa theo kinh nghiệm quốc tế. Tôi xin được nhắc đến vài cách hút như sau:
Điếu thuốc - điếu thuốc có cần sa hoặc cuộn lẫn cần sa với thuốc lá.
Tẩu - một ống có một khoang “hình nón”/bầu chứa ở đầu dưới. Có rất nhiều loại tẩu khác nhau.
Ống điếu (tẩu nước) - một “ống nhỏ loe” gắn với một ống có chứa nước và một ống để ngậm môi vào.
Thế còn các cách sử dụng cần sa ở Việt Nam thì như thế nào?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi và ghi chú lại cho các khóa tập huấn tiếp theo
Nguồn: Todd, F., McLean, S., Krum, H., Martin, J., & Copeland, J. 2002, ‘Cannabis’, in Hulse, G., White, J. & Cape, G. (eds.) 2002, Management of Alcohol and Drug Problems, ch. 9, Oxford University Press, South Melbourne, pp. 141–157. Victoria Police. 2002, Custodial Drug Guide: Medical Management of People in Custody with Alcohol and Drug Problems, Custodial Medicine Unit, Victoria Police, Mornington, Victoria.
Có các dạng sau đây:
Hoa/lá/nụ khô
- 1% – 15% THC (tùy vào gen và yếu tố môi trường)
Nhựa khô chiết xuất, đôi khi trộn với hoa khô và ép thành khối nhỏ
- Khoảng 10% – 20% THC
Dầu chiết xuất sử dụng chất hòa tan hữu cơ
- 15% – 30% THC
Đường sử dụng có thể ảnh hưởng đến liều:
hút (điếu thuốc, tẩu, ống điếu,)
- 50% được hấp thụ, cao điểm 10 – 30 phút, kéo dài 2– 4 giờ nuốt (bánh, bích-qui)
- 3% – 6% được hấp thụ, cao điểm 2 – 3 giờ, kéo dài đến 8 giờ
CẦN SA: DẠNG VÀ ĐƯỜNG SỬ DỤNG
Chương iii – Bài 3.1 49
Bản chiếu 42
Nói: Danh sách này mô tả một số tác dụng có thể xảy ra do sử dụng cần sa. Tuy nhiên, mức độ tác động nặng nhẹ còn tùy thuộc và cơ địa của người sử dụng, những trải nghiệm trước đây, kinh nghiệm bản thân và mong đợi khi sử dụng, và một loạt các yếu tố môi trường và các yếu tố khác.
Hiểu được tác động, tác dụng và tác hại đối với người sử dụng các chất gây nghiện hướng thần, chứ không phải chỉ tập trung vào chính loại CGN đó, là yêu cầu quan trọng trong việc gây dựng được sự tin cậy về chuyên môn và xây dựng một mối quan hệ với bệnh nhân.
Cần nhớ rằng tác dụng có hại (dựa trên ý nghĩa về lâm sàng theo quan điểm của tư vấn viên), có thể lại không thực sự được người sử dụng coi là nguy hại.

Phê, thay đổi khả năng tập trung, thư giãn, cảm giác bình yên hoặc khỏe mạnh, mất phản xạ, nhầm lẫn
Thèm ăn, khát
Tăng khả năng thị giác, thính giác và khứu giác, mất khả năng hiểu đúng về những việc đang diễn ra xung quanh
Mất cảm giác đau
Giảm áp suất trong mắt
Các vấn đề liên quan đến ngộ độc
Quá liều cần sa không gây tử vong
CẦN SA: TÁC DỤNG NGẮN HẠN
50 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 43
Nói: Dưới đây là một vài tác động ngắn hạn khi dùng cần sa liều cao
Ảo giác giả là những hình thức ảo giác tự bản thân có thể xác định được ảo giác đó là không thật. Ảo giác thật là những hình thức ảo giác tự bản thân không nhận ra rằng đó là ảo giác Tác động đến hệ thống tim mạch và hô hấp gồm có tăng nhịp tim và huyết áp tụt khi đứng dậy quá nhanh.
Tình trạng rối loạn tâm thần trong một thời gian ngắn có thể xảy ra do dùng liều cao. Tình trạng này sẽ chấm dứt trong vòng 1 tuần kể từ khi ngừng sử dụng. Đôi khi khó có thể phân biệt được với những nguyên nhân rối loạn tâm thần khác ở những người dễ mắc bệnh tâm thần.

Nguồn: Todd, F., McLean, S., Krum, H., Martin, J., & Copeland, J. 2002, ‘Cannabis’, in Hulse, G., White, J. & Cape, G. (eds.) 2002, Management of Alcohol and Drug Problems, ch. 9, Oxford University Press, South Melbourne, pp. 141–157. Victoria Police. 2002, Custodial Drug Guide: Medical Management of People in Custody with Alcohol and Drug Problems, Custodial Medicine Unit, Victoria Police, Mornington, Victoria.
Cần sa cũng ảnh hưởng đến:
Trí nhớ ngắn hạn
Khả năng học và nhớ thông tin mới
Thực hiện công việc
Cân bằng, ổn định, tâm thần sáng suốt
Hệ tim mạch và hô hấp
Liều cao, ngắn hạn có thể xảy ra:
Ảo giác
Ảo tưởng, cảm giác mất nhân cách
Hoang tưởng, lo âu, hoảng loạn
Loạn thần
TÁC DỤNG NGẮN HẠN Ở LIỀU CAO
Chương iii – Bài 3.1 51
Bản chiếu 44
Nói: Cần sa có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm một số vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần (ví dụ như bệnh tâm thần phân liệt) ở những người vốn dễ mắc bệnh, nhưng sự liên quan này chưa được chứng minh một cách chắc chắn. Trong nhiều trường hợp, những vấn đề về sức khỏe tâm thần mắc phải trong thời gian sử dụng các chất gây nghiện hướng thần có thể sẽ khỏi và không tái phát khi người đó không tiếp tục sử dụng chất gây nghiện đó nữa. Ở những bệnh nhân gặp phải những tác động có hại về thể chất và tâm thần do việc sử dụng CGN hướng thần gây ra cần phải được khuyên bảo để họ từ bỏ CGN đó.
Những người nghiện nặng có thể bị rơi vào trạng thái hôn mê, lãnh cảm, chậm chạm về suy nghĩ, suy giảm trí nhớ, và khả năng lập kế hoạch kém – đôi khi người ta hay nhắc đến dưới cái tên là “hội chứng mất động cơ chí hướng - amotivational syndrome.” Tuy nhiên, tình trạng này chưa được chứng minh đầy đủ về mặt lâm sàng và một số nhà nghiên cứu vẫn tranh cãi rằng tác động đó đơn thuần chỉ là hậu quả của tình trạng phê thường xuyên liên tục.

Nguồn: Swift, W., Hall, W. & Teesson, M. 2001, ‘Cannabis Use and Dependence Among Australian Adults: Results from the National Survey of Mental Health and Wellbeing’, Addiction, 96, 737–748.
Những người dùng cần sa hàng ngày dễ có khả năng:
- Thử nhiều loại chất gây nghiện bất hợp pháp khác
- Uống rượu thường xuyên
Tỉ lệ cao những người có bệnh tâm thần thường cho biết có sử dụng cần sa thường xuyên
CẦN SA : NGHIỆN NẶNG
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 45
Nói: Có một số hậu quả dài hạn do sử dụng cần sa thường xuyên và dùng nhiều
Tác hại đối với hệ hô hấp bao gồm:
‚ Viêm phế quản, hen, viêm họng, viêm mạn tính (do kích thích hen)
Thông tin tham khảo: Cần sa chứa nhiều hắc ín hơn thuốc lá. Khói thuốc cần sa có khả năng gây ung thư cao hơn khói thuốc lá. Nhiều người sử dụng cần sa cũng đồng thời nghiện thuốc lá. Tác hại nhiều hay ít là do đường sử dụng, ví dụ như hút có thể gây viêm phế quản phổi, và cũng có thể dẫn đến ung thư.
Tác hại đối với hệ tim mạch bao gồm:
‚ Tăng nhịp tim nhưng giảm khả năng co bóp của tim
Thông tin tham khảo: Người bị bệnh tim mạch có thể rơi vào tình trạng giảm sức chịu đựng thể lực trong tập thể dục.
Những hậu quả suy giảm nhận thức có thể bao gồm:
‚ Trầm cảm, lo lắng, tính khí thất thường
‚ Gây phát bệnh tâm thần phân liệt ở nhóm người có nguy cơ cao
Thông tin tham khảo: Tác động có thể khó thấy, nhưng gồm có tác động tới trí nhớ, khả năng tập trung, tổ chức và tổng hợp những thông tin phức tạp. Mặc dù bằng chứng hiện có cho thấy những tác động này không ảnh hưởng đến khả năng suy giảm nhận thức ở cấp độ nghiêm trọng, khả năng hồi phục vẫn còn chưa rõ.
Hệ thần kinh trung ương
Hệ hô hấp
Suy giảm nhận thức
Hệ tim mạch
Hệ miễn dịch
Hệ nội tiết và sinh sản
Hậu quả đối với xã hội
Các vấn đề sức khoẻ tâm thần
Suy giảm nhận thức
Lệ thuộc
TÁC ĐỘNG DÀI HẠN
Chương iii – Bài 3.1 53
Bản chiếu 46
Nói: Nghiện cần sa được đặc trưng bởi hàng loạt những triệu chứng về nhận thức, thể chất và hành vi như khả năng kiềm chế việc sử dụng kém, mặc dù hiểu rõ về những bằng chứng của tác hại nhưng vẫn sử dụng, hội chứng cai (lo lắng, trầm cảm, tính khí thất thường, khó ngủ, khả năng nhớ kém, cơ thể cảm thấy khó chịu nhưng không rõ ở đâu) và khả năng dung nạp cao (Palmer 2001).
Hiện nay đang có một mối lo rằng nghiện cần sa có thể phát triển nhanh trong giới trẻ và sẽ trở nên trầm trọng hơn người ta vẫn tưởng.
Đối với một số người, uớc tính mỗi ngày hút 2 điếu, liên tiếp trong vòng 3 tuần cũng đủ để khiến người sử dụng xuất hiện các triệu chứng cai khi họ không tiếp tục sử dụng nữa mặc dù đối với một số người khác thì họ có thể sử dụng hàng ngày trong vòng vài năm nhưng không gây ra triệu chứng cai.

Nguồn: Palmer, B. 2001, Alcohol and Drug Withdrawal: A Practical Approach. A Manual for Doctors to Assist in the Treatment of Patients Withdrawing from Alcohol and Other Drugs, Next Step Specialist Drug and Alcohol Services, Mt Lawley, Perth, Western Australia, www.nextstep.health.wa.gov.au. Todd, F., McLean, S., Krum, H., Martin, J., & Copeland, J. 2002, ‘Cannabis’, in Hulse, G., White, J. & Cape, G. (eds.) 2002, Management of Alcohol and Drug Problems, ch. 9, Oxford University Press, South Melbourne, pp. 141–157.
“Nghiện cần sa” ít được biết đến hơn là đối với các chất gây nghiện khác (nghĩa là các chất dạng thuốc phiện, rượu)
Khó dự đoán sự tiến triển và mức độ kéo dài của hội chứng cai
LỆ THUỘC CẦN SA
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 47
Các chất gây nghiện hướng thần làm thay đổi chức năng tâm lí và thực thể
Có một số loại chất gây nghiện nhóm an thần, kích thích và gây ảo giác đang được sử dụng tại Việt Nam
Trải nghiệm của một người về sử dụng chất gây nghiện là sự tương tác giữa các yếu tố: chất gây nghiện, cá nhân và môi trường
TÓM TẮT (1)
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng bản chiếu để tóm tắt lại những nội dung đã được thảo luận và bổ sung những điểm được đề cập thêm trong quá trình thảo luận.
Chương iii – Bài 3.1 55
Bản chiếu 48
Tất cả các chất gây nghiện đều có những hậu quả ngắn hạn và dài hạn phụ thuộc vào tính chất dược lí, tâm lí cá nhân và hoàn cảnh xã hội
TÓM TẮT (2)
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
3.2 NhữNg vấN đề liêN quaN tới rượu bia
Bài 58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I.Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ cùng thảo luận với học viên về nghiện rượu, các vấn
đề liên quan đến sử dụng rượu và say rượu.
II. Thuyết trình 35 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về rượu bia, và những tác hại liên quan đến rượu
bia.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại những nội dung chính của bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)

Bài 3.2: Những vấn đề liên quan đến rượu bia
Mục đích: Giúp học viên có được kiến thức cơ bản về vấn đề sử dụng rượu bia và những hậu quả nói chung và cụ thể đối với Việt Nam.
Thời gian: 45 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Mô tả được tình hình sử dụng rượu bia tại Việt Nam
‚ Giải thích khái niệm ly tiêu chuẩn và mối liên quan đến nồng độ cồn trong máu
‚ Mô tả về các tác động của rượu bia
‚ Kể 6 yếu tố nguy cơ chính liên quan đến hành vi uống rượu bia có nguy cơ
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.2 59
Bản chiếu 1
Nói: Chúng ta đã thảo luận về các loại chất gây nghiện, sử dụng và tác động của chúng, bao gồm heroin. Bây giờ chúng ta sẽ tập trung vào rượu bia.
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN TỚI RƯỢU BIA
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
Mô tả được tình hình sử dụng rượu bia tại Việt Nam
Giải thích khái niệm ly tiêu chuẩn và mối liên quan đến nồng độ cồn trong máu
Mô tả về các tác động của rượu bia
Kể 6 yếu tố nguy cơ chính liên quan đến hành vi uống rượu bia có nguy cơ
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương iii – Bài 3.2 61
Bản chiếu 3
Nói: Uống rượu bia gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng kể cả ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Rượu bia nằm trong danh sách 12 yếu tố nguy cơ gây bệnh hàng đầu nhưng có thể phòng tránh và vấn đề đang có xu hướng trầm trọng hơn. Đó có nghĩa là cộng đồng có thể thay đổi tỷ lệ chết hoặc mắc bệnh cho cộng đồng nếu cộng đồng có thể giảm tiêu thụ rượu bia.
Các nước đang phát triển Các nước đang phát triển
Các nước phát triển có tỷ lệ chết cao có tỷ lệ chết thấp

1 Thiếu cân Rượu bia Thuốc lá
2 QHTD không an toàn Huyết áp cao Huyết áp cao
3 Nước nhiễm bẩn Thuốc lá Rượu bia
4 Hút thuốc trong nhà Thiếu cân Cholesterol
5 Thiếu kẽm Béo phì Béo phì
6 Thiếu sắt Cholesterol Ăn ít hoa quả và rau xanh
7 Thiếu Vitamin A Ăn ít hoa quả và rau xanh Ít vận động
8 Huyết áp cao Hút thuốc -nguyên liệu rắn Chất gây nghiện bất hợp pháp
9 Thuốc lá Thiếu sắt QHTD không an toàn
10 Cholesterol Nước nhiễm bẩn Thiếu sắt
11 Rượu bia QHTD không an toàn Nhiễm độc chì
12 Ăn ít hoa quả và rau xanh Nhiễm độc chì Lạm dụng tình dục trẻ em
12 YÊU TỐ NGUY CƠ CAO GÂY BỆNH TẬT CÓ THỂ PHÒNG TRÁNH
62 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Thảo luận các điểm trên bản chiếu và lưu ý những điểm khác biệt giữa khu vực thành thị với nông thôn/miền núi.
Nói: Việt Nam không nằm ngoài danh sách các quốc gia bị ảnh hưởng bởi các vấn đề liên quan đến rượu bia và chúng ta sẽ thảo luận cách phòng tránh các vấn đề này trong bài học về rượu bia ngày hôm nay. Có thể thấy tỉ lệ lạm dụng rượu cao hơn tỉ lệ nghiện rượu ở từng vùng. Cũng có thể nhận thấy tỷ lệ nghiện rượu ở thành thị cao hơn ở nông thôn và miền núi. Điều này là do cộng đồng ở thành thị có tỉ lệ uống rượu/bia cao hơn.
Các vấn đề xã hội liên quan đến tiêu thụ quá nhiều rượu là rất phổ biến. Những vấn đề này liên quan đặc thù đến tình trạng say xỉn hoặc uống thường xuyên. Một mối lo ngại đặc biệt là tỉ lệ tai nạn giao thông do uống rượu rất cao.

Sự lệ thuộc vào rượu bia và những rối loạn do lệ thuộc vào rượu bia
Tỉ lệ lạm dụng/nghiện rượu bia:
- Thành phố (từ 5 - 10,4% DS)/1,16 – 3,61%
- Miền núi (từ 7 - 9,7%)/2,34%
- Nông thôn: (từ 0,57 đến 1,2%)/0,14-0,42%
Những vấn đề về xã hội
- Bạo lực: 10 - 80% người uống rượu bia có hành vi bạo lực, ẩu đả sau khi sử dụng
- Khoảng 8,4-18% có gia đình đỗ vỡ
- 31,8% người nghiện rượu bia bị mất việc làm
- 50% số vụ tai nạn giao thông do rượu bia gây ra
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG RƯỢU BIA TẠI VIỆT NAM
Chương iii – Bài 3.2 63
Bản chiếu 5
Nói: “Hãy nhìn vào những chiếc ly này và nói cho tôi biết các bạn nhận thấy những gì?”
Hướng dẫn giảng dạy: Chờ một vài phút để học viên trả lời câu hỏi rồi tiếp tục.
Nói: Đây là những chiếc ly khác nhau chứa các loại đồ uống có cồn khác nhau. Dung lượng của mỗi loại mỗi khác: rượu khai vị 100ml; rượu vang100ml; bia chai 285ml; vang mạnh 60ml; và rượu mạnh 30ml.
Mỗi ly như trên là một ly tiêu chuẩn. Mặc dù nồng độ rượu bia trong mỗi loại đồ uống nói trên khác nhau nhưng tất cả các ly đều chứa khoảng 10 gram cồn nguyên chất bởi vì thể tích của các ly này đã được điều chỉnh để cùng chứa một lượng cồn như nhau. (Lưu ý rằng lượng rượu vang trong ly chỉ là 100ml và nó ít hơn rất nhiều so với lượng rượu mà người ta có thể rót vào ly. Đối với ly rượu mạnh, ví dụ như whisky, thì chỉ có 30 ml mà thôi). Một ly tiêu chuẩn làm tăng nồng độ cồn trong máu (BAC) lên khoảng 0.02g% đối với nam giới và 0.03g% đối với phụ nữ.
DUNG LƯỢNG TIÊU CHUẨN CỦA CÁC LOẠI ĐỒ UỐNG CÓ CỒN
64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để trình bày bản chiếu.
Thông tin tham khảo: Phân tử cồn rất nhỏ và có độ hòa tan trong nước rất cao. Tỉ lệ hấp thu phụ thuộc vào thời gian tồn tại ở dạ dày – tỉ lệ hấp thu rượu bia ở dạ dày thì chậm và ở ruột non thì nhanh hơn. Thức ăn trong dạ dày làm chậm quá trình tiêu hóa tại dạ dày và vì vậy sẽ làm chậm quá trình hấp thụ rượu bia và làm cho nồng độ đỉnh của cồn trong máu ở mức thấp hơn.
Quá trình dược động học của rượu bia như sau:
‚ Hấp thu nhanh vào máu qua dạ dày (20%) và qua ruột non (80%)
‚ Chuyển hóa qua gan (95–99%): Rượu – acetaldehyde – acetic acid – H2O & CO2 Đường chuyển hóa rượu bia chính là qua một loại enzym có tên là ADH (Alcohol Dehydrogenase). Do có một sự biến đổi về gen di truyền ảnh hưởng đến loại men này khiến cho ở một số người việc chuyển hóa rượu bia bị chậm hơn so với người bình thường. Sự biến đổi gen này rất phổ biến ở người châu Á (50% người uống rượu bia). Nhược điểm này gây ra một sự tích lũy acetaldehyde khiến cho mặt đỏ, tim đập nhanh hơn và nhiệt độ cơ thể tăng (da tỏa nhiệt). Các triệu chứng gồm có buồn nôn, đau đầu và chóng mặt.
‚ Ngấm vào trực tiếp vào dịch thể (không qua mỡ)
1 ly rượu bia tiêu chuẩn làm tăng nồng độ cồn trong máu lên khoảng 0,02g% đối với nam giới và 0,03g% đối với phụ nữ. Mất khoảng 1 GIỜ để đào thải 1 LY TIÊU CHUẨN ra khỏi cơ thể (tỷ lệ trung bình 7,5 gram/giờ, dao động trong khoảng 4 – 12 gram).
Hấp thụ nhanh chóng vào trong máu qua dạ dày (20%) và ruột non (80%)
Chuyển hoá qua gan (95–99%)
Rượu ➟acetaldehyde ➟ acetic acid ➟ H2O và CO2
Ngấm vào dịch thể (không ngấm vào mỡ)
1 ly tiêu chuẩn làm tăng nồng độ cồn trong máu khoảng 0,02g% đối với nam giới và 0,03g% đối với phụ nữ
RƯỢU BIA
5 phút sau tác động lên não 2% bài tiết qua mồ hôi, hơi thở và nước tiểu thành phần không đổi
Chương iii – Bài 3.2 65
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin tham khảo dưới đây để trình bày bản chiếu.
Thông tin tham khảo: Bảng trên mô tả mức độ nguy cơ xảy ra các tác hại trước mắt và lâu dài do uống rượu bia.
Bảng phía trái cho thấy nguy cơ tác hại trước mắt do uống rượu bia. Ở cả nam và nữ, uống từ 4 ly trở xuống trong một dịp đặc biệt nào đó thường không có nguy cơ đáng kể. Tuy nhiên, khi uống quá mức này thì nguy cơ tổn thương không còn là thấp nữa.
Bảng bên phải cho thấy nguy cơ tác hại lâu dài do uống rượu bia thường xuyên - đó chính là tác động tổng hợp của việc uống rượu bia trong suốt thời gian dài. Những con số này được tính toán dựa trên nguy cơ mắc các bệnh mạn tính hoặc tai nạn/ thương vong có liên quan đến bia rượu trong suốt một đời người. Nguy cơ này được coi là thấp nếu một người chỉ uống không quá 2 ly/ ngày. Nếu uống quá 2 ly/ ngày thì sẽ có nguy cơ cao.
Mức độ nguy cơ có thể chấp nhận được liệt kê ở đây là dựa trên nguy cơ tử vong do bệnh tật và tai nạn liên quan đến bia rượu. Khả năng xảy ra là 1% (tức là 1 ca tử vong trong số 100 người). Nói cách khác, 1 trong số 100 trường hợp tử vong được cho là do uống bia rượu quá 2 ly/ ngày trong thời gian dài.
Những yếu tố khác cũng làm tăng nguy cơ tác hại do bia rượu, trong đó bao gồm các tình huống mà việc uống rượu có thể gây nguy hiểm đến tính mạng người uống (VD: lái xe hoặc vận hành máy móc).
Đối với cả phụ nữ và nam giới khỏe mạnh, uống nhiều hơn 4 ly tiêu chuẩn trong một dịp nào đó sẽ làm tăng đáng kể nguy cơ tai nạn/ thương vong do bia rượu. Trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi tuyệt đối không nên uống bia rượu. Phụ nữ mang thai uống bia rượu cũng làm tăng nguy cơ dị tật ở thai nhi.
MỨC ĐỘ UỐNG RƯỢU BIA NGUY CƠ CAO VÀ THẤP ĐỐI VỚI TÁC HẠI TRƯỚC MẮT VÀ LÂU DÀI

Nguy cơ tác hại ngắn hạn
N/cơ thấp (Ly tiêu chuẩn)
NAM GIỚI Vào một dịp đặc biệt (KHÔNG phải mọi ngày) Tới 6 ly
NỮ GIỚI Vào một dịp đặc biệt (KHÔNG phải mọi ngày) Tới 4 ly
 
Nguy cơ tác hại dài hạn
N/cơ thấp (Ly tiêu chuẩn)
NAM GIỚI Uống hàng ngày Tới 4 ly
NỮ GIỚI Uống hàng ngày Tới 2 ly
66 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Ngoài việc phụ nữ có thể chất dễ bị tổn thương hơn nam giới, còn có những khác biệt khác về giới liên quan đến hành động có nguy cơ. Nam giới thường dễ tham gia những hành vi nguy cơ hơn phụ nữ, nhất là sau khi làm vài ly bia rượu. Điều này được phản ánh qua những con số thống kê về tai nạn liên quan đến rượu bia. Tuy nhiên, nếu uống ở mức độ tương đối thấp thì không có sự khác biệt nào về hành vi nguy cơ giữa 2 giới.
Chương iii – Bài 3.2 67
Bản chiếu 8
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên tham gia một bài tập thảo luận nhóm lớn. Vẽ ra ba cột trên giấy khổ lớn và viết lên các cột chữ: Thấp, Trung bình và Nặng. Hỏi những câu hỏi dưới đây và điền các câu trả lời của học viên vào từng cột theo mức độ phù hợp.
Nói: Bây giờ tôi muốn các bạn cho tôi biết mức độ say rượu ở các nồng độ rượu trong máu khác nhau. Nói cách khác, bạn hãy mô tả một người sẽ trông như thế nào hoặc có cảm giác như thế nào ở nồng độ cồn trong máu khác nhau.
Hãy cho tôi vài ví dụ về mức độ say rượu ở những nồng độ cồn trong máu khác nhau? Với người có mức độ cồn trong máu 0.05g% thì sẽ có biểu hiện như thế nào? Với mức 0.1g%? Với mức 0.3g%?

Mô tả mức độ say đối với các mức nồng độ cồn trong máu khác nhau
BÀI TẬP
68 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Lưu ý rằng những con số ở bảng trên không phải là những con số chính xác tuyệt đối và tác động thực tế của nồng độ cồn trong máu khác nhau ở mỗi cá nhân. Nhớ rằng trải nghiệm của việc sử dụng một chất gây nghiện phụ thuộc vào sự tương tác giữa chất gây nghiện được sử dụng, cá nhân và môi trường. Tác động của rượu bia không chỉ phụ thuộc ở lượng rượu bia chúng ta uống mà còn phụ thuộc vào các yếu tố cá nhân như độ dung nạp của bạn với rượu và yếu tố môi trường như địa điểm bạn uống rượu bia, v.v... Vậy nên nếu bạn không quen uống rượu bia thì chỉ cần nồng độ rượu bia trong máu rất thấp thôi cũng khiến cho bạn cảm thấy rất say.
.01-.02g% Đầu óc tỉnh táo
.02-.05 Hơi đau nhức phía sau đầu, hơi chóng mặt, nói nhiều, phê, tự tin, chân tay vụng về, nói năng suồng sã
.06-0.1 ò khả năng kiềm chế, nói nhiều,phối hợp chân tay, nói líu lưỡi và mạch đập, bước đi loạng choạng, hát to!
0.2-0.3 Đánh giá thiếu chuẩn xác, buồn nôn, nôn
0.3-0.4 Trống rỗng, mất trí nhớ, tình cảm dao động
0.4+ Ngơ ngơ, phản xạ thở bị đe dọa, hôn mê sâu, tử vong
TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG SAY RƯỢU BIA
Chương iii – Bài 3.2 69
Bản chiếu 10
Nói: Có một số yếu tố có thể dự đoán một người sẽ uống rượu bia nhiều và nghiện rượu bia. Những yếu tố này bao gồm các yếu tố về môi trường cũng như về gen di truyền. Có bằng chứng cho thấy yếu tố di truyền có thể dẫn đến nghiện rượu. Khả năng một người nghiện rượu bia tăng gấp 8 lần nếu người ấy có người thân cũng là người nghiện rượu. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là nghiện rượu là không thể tránh được đối với họ.
Trong gia đình có người nghiện rượu bia nặng
Đáp ứng kém với những khó khăn trong cuộc sống
Trầm cảm, ly hôn hoặc ly thân
Có bạn tình là người uống nhiều rượu bia
Làm việc trong môi trường đa số là nam giới
Có những vấn đề về hành vi ở thời thơ ấu liên quan đến khả năng kiểm soát cơn bốc đồng.
NHỮNG YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG NGUY CƠ NGHIỆN RƯỢU
70 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Binge drinking nghĩa là uống rượu bia nhiều cùng một lúc cho đến khi say xỉn. Đối với nam giới say xỉn có thể do uống nhiều hơn 6 ly tiêu chuẩn trong một lần. Có một số nguy cơ liên quan đến hình thức uống rượu bia này. Bản chiếu này cho thấy một số vấn đề mà say xỉn gây ra. Ngoài những vấn đề này, các bạn thấy còn có vấn đề nào khác có thể xảy ra?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành cho học viên vài phút để họ trả lời.
Say xỉn có thể dẫn tới:
Tăng khả năng thực hiện hành vi nguy cơ
Khả năng nhận định/ ra quyết định kém
Mạo hiểm tiêu cực/ tai nạn
Tăng khả năng thực hiện hành vi tình dục không an toàn
Tăng hành vi bạo lực
Nguy cơ tự tử
SAY XỈN
Chương iii – Bài 3.2 71
Bản chiếu 12
Nói: Thanh thiếu niên (từ 18 trở xuống) và thanh niên trưởng thành (19–25 tuổi) là những người rất dễ gặp phải nhiều nguy cơ liên quan đến rượu bia. Cách uống và mức độ uống rượu bia của người trẻ tuổi thường đặt họ vào những nguy cơ bị tổn hại rất lớn so với cộng đồng nói chung.
Những nguyên nhân khiến cho thanh thiếu niên có nguy cơ cao hơn bao gồm:

‚ Cơ thể thể nhỏ bé hơn
‚ Khả năng kiểm soát quan hệ xã hội thấp
‚ Bạn bè cho rằng hành vi say rượu bia là chuyện bình thường
‚ Nguy cơ say (quá liều) vì khả năng dung nạp thấp
Có nhiều tác hại có thể xảy ra do uống nhiều rượu bia. Thông thường, những tác hại này là hậu quả trực tiếp của tình trạng say rượu bia. Ngoài ra, các tác hại khác là hậu quả của việc uống rượu bia thường xuyên hoặc nghiện rượu.
Cảm giác trống rỗng xảy ra khi người ta bị say khiến họ không thể nhớ nổi là họ đã làm gì hoặc nói gì khi họ đang uống rượu.

Tác hại liên quan đến rượu bia tăng do:
Cơ thể nhỏ bé
Khả năng kiểm soát quan hệ xã hội thấp
Bạn bè cho rằng say rượu bia là chuyện bình thường
Nguy cơ quá liều vì khả năng dung nạp thấp (thể chất, hành vi).
Mức độ nguy cơ và tác hại có thể:
Ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về:
- Sinh lí
- Xã hội
- Cảm xúc
Tăng nguy cơ:
- Tự tử
- Hành vi tình dục nguy cơ/ tình dục bị ép buộc
Gây nên cảm giác “trống rỗng”
Khiến học yếu, kém
Góp phần gây nên vấn đề về sức khỏe tâm thần
Gây nên các vấn đề về hành vi
THANH THIẾU NIÊN VÀ RƯỢU BIA
Bản chiếu 13 Nói: Phụ nữ dễ bị ảnh hưởng bởi tác dụng của rượu bia hơn là do:
‚ Cơ thể nhỏ bé hơn
‚ Lượng máu trong cơ thể ít hơn
‚ Tỷ lệ nước/chất béo thấp hơn
‚ Hoạt động của enzym ADH trong dạ dày kém hơn (nên làm giảm việc chuyển hóa rượu)
Gây nên:
‚ Gia tăng các tác hại do say rượu bia, ví dụ như bị làm nhục, chấn thương, hành vi tình dục không mong muốn
‚ Các tổn thương tại các cơ quan nội tạng tiến triển sớm và nhanh hơn Do nồng độ cồn trong máu cao hơn sau khi uống cùng một lượng rượu so với nam giới nên khả năng tổn thương các cơ quan nội tạng ở phụ nữ cũng cao hơn. Lượng ADH trong dạ dày ở phụ nữ chỉ bằng 50% so với nam giới khiến cho khả năng chuyển hóa rượu bia trong dạ dày của phụ nữ thấp hơn trước khi rượu bia được hấp thu.
Vì vậy, nguy cơ liên quan đến uống rượu bia ở phụ nữ cao hơn ở nam giới là do nồng độ cồn trong máu ở phụ nữ cao hơn so với nam giới khi uống cùng một lượng. Việc uống rượu bia khi mang thai có thể gây hại cho thai nhi.

Phụ nữ dễ bị ảnh hưởng bởi các tác dụng của rượu bia hơn do:
- Cơ thể nhỏ bé hơn
- Lượng máu trong cơ thể ít hơn
- Tỷ lệ nước/chất béo (mỡ) trong cơ thể thấp hơn
- Hoạt động của enzym ADH trong dạ dày kém hơn
(nên khả năng chuyển hóa rượu bia kém hơn)
Vì vậy:
- Gia tăng các tác hại do say rượu bia như là bị thương, bị làm nhục
- Các tổn thương tại các cơ quan nội tạng tiến triển sớm và nhanh hơn
PHỤ NỮ VÀ RƯỢU BIA
Chương iii – Bài 3.2 73
Bản chiếu 14
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin trên bản chiếu để tóm tắt những nội dung đã được thảo luận trong bài này.
Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Rượu bia là một loại chất gây nghiện hợp pháp nhưng vẫn có thể gây độc hại 1 ly tiêu chuẩn chứa 10 gam cồn nguyên chất, làm tăng nồng độ cồn trong máu lên khoảng từ 0,02-0,03g%, cần 1 giờ để chuyển hóa hết qua gan
Phụ nữ và thanh niên là những người rất dễ bị ảnh hưởng bởi tác động của rượu bia
Có một số yếu tố nguy cơ có thể tiên lượng một người có dễ bị nghiện rượu hay không
TÓM TẮT

3.3 Kiến thức cơ bản về nghiện
Bài 76 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận với học viên về chuỗi hành vi sử dụng chất
gây nghiện, vì sao người ta lại sử dụng chất gây nghiện, định nghĩa nghiện và những triệu
chứng cai chất dạng thuốc phiện
II. Thuyết trình 40 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày những kiến thức cơ bản về nghiện.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại các điểm chính của bài giảng và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 3.3: Kiến thức cơ bản về nghiện
Mục đích:
Cung cấp cho học viên những kiến thức cơ bản về nghiện ma túy.
Thời gian: 50 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Mô tả các hình thái sử dụng chất gây nghiện hướng thần và tránh được những hiểu biết sai lầm về người sử dụng chất gây nghiện
‚ Hiểu được cơ sở sinh học của nghiện
‚ Hiểu sự khác nhau giữa nghiện về thể chất và nghiện về tâm lí
‚ Mô tả được các triệu chứng cai heroin
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Bài tập theo nhóm
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.3 77
Bản chiếu 1
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận những kiến thức cơ bản về nghiện
KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NGHIỆN
78 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Mô tả các hình thái sử dụng CGN hướng thần và tránh được những hiểu biết sai lầm về người sử dụng CGN
Hiểu được các nguyên nhân của nghiện
Hiểu được sự thay đổi diễn ra trong bộ não người nghiện
Phân biệt được nghiện về mặt thể chất và nghiện về mặt tâm lí
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương iii – Bài 3.3 79
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm 4-5 học viên. Yêu cầu mỗi nhóm cử một người lên trình bày kết quả thảo luận. Các nhóm sẽ có 5 phút để thảo luận về những ý kiến được liệt kê trên bản chiếu. Yêu cầu học viên thảo luận xem những cách nghĩ trên về người sử dụng ma túy là sự thật hay nhận thức sai lầm. Yêu cầu nhóm giải thích về quyết định của họ. Sau khi các nhóm đã trình bày, cung cấp cho học viên một số sự thật về sử dụng ma túy như dưới đây.
Nói: Tôi muốn cung cấp một số sự thật để các bạn xem xét
‚ Hầu hết người sử dụng ma túy là người dùng thử và họ có hình thức trông giống bất cứ ai trong chúng ta
‚ Không phải ai sử dụng ma túy cũng nghiện và điều này sẽ được trao đổi kĩ hơn trong bài học
‚ Tư vấn điều trị nghiện ma túy có hiệu quả! Ngoài ra nhiều người sử dụng ma túy cũng tự bỏ được
‚ Thuốc lá có đặc tính gây nghiện cao hơn heroin
‚ Nghiện phát triển dần dần và thường người ta không nghĩ đến chuyện đó cho đến khi đã quá muộn. Mặc dù nhiều người dùng thử đã dừng sử dụng trước khi phát sinh các vấn đề nhưng không phải ai cũng may mắn như vậy.
“Có thể nhận biết người SDMT dễ dàng”
“Sử dụng ma túy một lần là bạn sẽ bị nghiện ngay”
“Những người nghiện ma tuý là vô phương cứu chữa và không bao giờ có thể giúp họ cai nghiện được”
“Heroin là loại chất gây nghiện mạnh nhất”
“Cứ sử dụng, đến khi nào gặp vấn đề khó khăn liên quan đến sử dụng ma túy thì có thể thôi không dùng nữa”
NHỮNG CÁCH SUY NGHĨ THƯỜNG GẶP VỀ SỬ DỤNG MA TÚY
80 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Bạn đã thấy bản chiếu này rồi. Hãy nhớ lại rằng chất gây nghiện hướng thần làm thay đổi:
Tâm trạng: Khi chất gây nghiện hướng thần vào cơ thể, nó làm thay đổi tâm trạng của người sử dụng. Ví dụ, người sử dụng có thể trở nên tự tin về bản thân. Họ có thể cảm thấy mình hạnh phúc hơn, nhiệt tình hơn, hưng phấn tình dục hoặc bình tĩnh hơn, tùy thuộc vào loại chất gây nghiện mà họ sử dụng.
Nhận thức (suy nghĩ): Người sử dụng có thể cảm nhận mọi thứ khác đi khi họ sử dụng ma túy.
Họ có thể hoàn toàn hiểu được rằng dùng chung bơm kim tiêm sẽ có nguy cơ lây nhiễm bệnh, nhưng nhận thức này có thể biến mất do ảnh hưởng của ma túy.

Hành vi: Cách con người hành động khi đang chịu tác động của ma túy rất khác biệt và dễ nhận thấy. Anh ta có thể dễ chấp nhận rủi ro, hòa đồng hơn hoặc khép kín hơn.
Các CGN hướng thần làm thay đổi:
- Tâm trạng
- Nhận thức (suy nghĩ)
- Hành vi
CÁC CGN HƯỚNG THẦN
Chương iii – Bài 3.3 81
Bản chiếu 5
Nói: Bản chiếu này thể hiện tỉ lệ người sử dụng ma túy ở các mức độ khác nhau. Đa số người sử dụng ma túy là những người chỉ dùng ma túy với mục đích dùng thử. Họ sử dụng ma túy không thường xuyên nếu có dịp hoặc nếu có sẵn ma túy. Nhiều người trong số họ sẽ tự dừng lại không tiếp tục sử dụng nữa và sẽ không chuyển sang hình thức dùng nhiều. Một số người sử dụng ma túy để giúp học đạt được mục đích như để tỉnh táo hoặc để giảm đau. Họ được gọi là người sử dụng có chủ đích.
Khi người sử dụng chuyển sang hình thức dùng nhiều và thường xuyên hơn thì việc sử dụng ma túy được coi là một phần quan trọng hơn trong cuộc sống của họ, khả năng dung nạp bắt đầu xuất hiện cùng với những hậu quả của việc sử dụng nhiều như đổ vỡ các mối quan hệ, khó khăn về tài chính và việc làm.
Tỉ lệ người sử dụng ma túy cuối cùng sẽ trở thành nghiện được quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau. Điều quan trọng là không phải bất cứ ai sử dụng ma túy đều bị nghiện.

CÁC HÌNH THÁI SỬ DỤNG CGN HƯỚNG THẦN
Nghiện
Dùng nhiều
Dùng có mục đích
Dùng thử
82 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Nguy cơ nghiện rất khác nhau đối với các loại CGN khác nhau. Bạn có thể thấy trong biểu đồ trên, các gai nhú có chiều cao khác nhau. Gai nhú càng dài thể hiện tỉ lệ số người trở nên lệ thuộc trong số những người đã từng thử CGN đó càng cao. Thuốc lá có tỷ lệ cao nhất 1:3 (cứ 3 người đã từng hút thuốc lá thì sẽ có 1 người nghiện), trong khi đối với heroin thì tỷ lệ là 1:4 đến 1:5. Nói cách khác là chỉ khoảng 20-25% số người đã từng sử dụng heroin sẽ nghiện heroin.
Tỉ lệ này còn phụ thuộc vào văn hóa của từng vùng, miền. Biểu đồ của Anthony dựa trên số liệu của Mỹ. Tỉ lệ này sẽ khác nhau giữa các nền văn hóa và các môi trường khác nhau. Đường dùng và dạng CGN sử dụng cũng ảnh hưởng đến nguy cơ lệ thuộc. Những đường dùng có tác dụng nhanh như tiêm hoặc hít khói (hút) có nguy cơ dẫn đến lệ thuộc cao hơn những đường dùng có tác dụng chậm như uống. Dạng bào chế của CGN cũng có ảnh hưởng, dạng “đá” của cocain có khả năng có nguy cơ cao hơn dạng muối hydrochloride. Yếu tố môi trường, yếu tố liên quan đến CGN và yếu tố cá nhân ,đều có ảnh hưởng đến nguy cơ này. Vì trải nghiệm sử dụng ma túy sẽ bị ảnh hưởng bởi sự tương tác giữa các yếu tố CGN, cá nhân và môi trường nên nguy cơ nghiện cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tương tác giữa các yếu tố này.

Thuốc lá, 1 trong 3
Heroin, 1 trong 4-5
Crack + HCl, 1 trong 5
Cocaine HCl, 1 trong 6
Rượu, 1 trong 7-8
Chất kích thích khác ngoài Cần sa, cocaine, 1 trong 9
1 trong 9-11
Thuốc an thần,
Thuốc ngủ khác,1 trong 11
Thuốc gây mê,1 trong 11
Thuốc tâm thần, 1 trong 20
CGN hít, 1 trong 20
Ước tính tỉ lệ người sử dụng trở thành lệ thuộc
(Adapted from Anthony et al., 1994; Chen & Anthony, 2004)
Chương iii – Bài 3.3 83
Bản chiếu 7
Nói: Sử dụng ma túy là một hành vi tự nguyện và có thể phòng tránh được. Những động cơ chính khiến cho người ta sử dụng ma túy là để vui, để quên và để thực hiện chức năng (sử dụng có mục đích). Giai đoạn đầu, người sử dụng ma túy có thể kiểm soát được việc sử dụng ma túy của họ. Thời điểm đó là cơ hội tốt cho các chương trình dự phòng ban đầu và các can thiệp sớm để ngăn ngừa sự gia tăng của sử dụng ma túy, đặc biệt là trong thanh thiếu niên. Có nhiều yếu tố tác động đến con người khi họ dự định sử dụng ma túy. Trong khi những yếu tố cá nhân là rất quan trọng thì điều kiện xã hội cũng tác động trực tiếp đến khả năng sử dụng ma túy của mọi người.
Những người có khả năng bị ảnh hưởng tiêu cực nhất do việc sử dụng ma túy thường là những người bị cô lập trong cộng đồng và thường phải chịu sự kỳ thị hoặc bị loại khỏi cộng đồng. Vì vậy, tư vấn viên cần phải thận trọng và cần hiểu rõ khách hàng của họ đến từ đâu và họ đã trải qua những gì trong cuộc sống.

Sử dụng ma túy là một hành vi tự nguyện,
MỘT NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VẤN ĐỀ NGHIỆN
84 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8
Nói: NHƯNG nghiện ma túy không chỉ là sử dụng ma túy nhiều, nó còn trầm trọng hơn thế. Đó là việc bắt buộc phải sử dụng ma túy bất chấp tác hại và hậu quả của nó; đó là sự thay đổi cả về thể chất và tâm lí của não bộ. Ma túy sẽ kiểm soát cuộc đời của người nghiện. Tất cả người sử dụng ma túy đều tin rằng khi họ bắt đầu nhận thấy các tác hại của việc sử dụng ma túy, họ sẽ dừng sử dụng và không bao giờ chuyển thành nghiện. Điều họ không nhận ra là các thay đổi trong não diễn ra từ từ và những thay đổi này rất khó để hồi phục.
nhưng... Nghiện ma túy không chỉ là “sử dụng ma túy nhiều”.
Chương iii – Bài 3.3 85
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để thảo luận về việc người ta hiểu biết rất ít về nghiện như thế nào.
Thông tin tham khảo: Hiện nay đã có đủ bằng chứng để khẳng định rằng nghiện không phải là một sự yếu kém hay tha hóa về đạo đức mà là một bệnh của não. Nghiện một chất nào đó là sự tương tác giữa những yếu tố về sinh học thần kinh, tâm lí và xã hội. Thật không may là khái niệm này còn ít được biết. Nhiều nhà hoạch định chính sách và thậm chí nhiều cán bộ y tế không biết rằng nghiện là một bệnh của não. Một vai trò quan trọng của tư vấn viên là truyền bá thông điệp này ra cộng đồng, tới các nhà chức trách để thay đổi thái độ và cách tiếp cận của họ với nghiện ma túy. Coi người nghiện ma túy như những bệnh nhân đang có bệnh và họ cần được chữa trị. Nếu không được chữa trị, họ sẽ không kiểm soát được hành vi sử dụng ma túy của mình.
Các chất gây nghiện hướng thần ảnh hưởng lên nhận thức, tình cảm và động cơ của người sử dụng. Có các bằng chứng từ các nghiên cứu về hình ảnh của não bộ như là hình ảnh chụp cộng hưởng từ cũng như hình ảnh chụp nhấp nháy phóng xạ (PET) (phương pháp sử dụng các chất đồng vị phóng xạ để đưa ra hình ảnh ba chiều hoặc hình ảnh phản ánh hoạt động chức năng của các tế bào não) đang chịu tác dụng trực tiếp của ma túy. Ở cấp độ tế bào, ma túy tác động lên các chất dẫn truyền thần kinh, nhờ nó mà thông tin được trao đổi giữa các tế bào não.
“Nghiện là một bệnh tái diễn, mạn tính của não, là một khái niệm hoàn toàn mới với đại chúng, với nhiều nhà hoạch định chính sách, và đáng buồn là cả với nhiều cán bộ y tế”
Leshner 1997
86 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10
Nói: Nghiện là một rối loạn mạn tính, tái diễn được biểu hiện bằng hành vi bắt buộc phải tìm kiếm và sử dụng ma túy bất chấp hậu quả có hại. Nghiện bao gồm cả phạm trù thể chất và tâm lí. Là cán bộ điều trị cho người nghiện ma túy, phải lưu ý rằng cả 2 phạm trù này đều cần được điều trị hiệu quả.
Nghiện là một rối loạn mạn tính, tái diễn, được biểu hiện bằng hành vi bắt buộc phải tìm kiếm và sử dụng ma túy bất chấp những hậu quả bất lợi của việc sử dụng
NGHIỆN LÀ GÌ?
Chương iii – Bài 3.3 87
Bản chiếu 11
Nói: Một số người cho rằng nghiện ma túy chỉ liên quan đến thể chất. Thực chất, nghiện ma túy BAO GỒM CẢ nghiện về thể chất và tâm lí.
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để giải thích nghiện được phân loại như thế nào. Lưu ý là các tiêu chuẩn chẩn đoán nằm ở cả bản chiếu tiếp theo.
Thông tin tham khảo: Việc chẩn đoán một người nào đó có nghiện một chất ma túy hay không chỉ có thể được khẳng định nếu ít nhất 3 trong số những điều kiện sau đây cùng xảy ra vào một thời điểm nào đó trong một năm qua:
‚ Một trạng thái cắt cơn sinh lí khi không tiếp tục sử dụng hoặc giảm liều sử dụng, biểu hiện bằng hội chứng cai đặc trưng cho loại ma túy hoặc phải sử dụng một chất tương tự (gần giống) như loại ma túy đó để làm giảm nhẹ hoặc để không phải chịu đựng những triệu chứng cai
‚ Bằng chứng về khả năng dung nạp: người sử dụng cần phải sử dụng chất gây nghiện với liều tăng dần nhằm đạt được tác dụng tương tự như những lần sử dụng ở liều thấp hơn trước đây (ví dụ rất rõ ở những người nghiện rượu hay nghiện các dẫn chất thuốc phiện, những người hàng ngày uống/sử dụng một liều lượng đủ để có thể giết chết những người bình thường khác không có khả năng dung nạp)
‚ Sự thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng chất gây nghiện
‚ Khó khăn trong việc kiểm soát hành vi sử dụng chất gây nghiện liên quan đến việc bắt đầu, từ bỏ và liều lượng sử dụng
‚ Sao nhãng các thú vui, sở thích, công việc trước đây do việc sử dụng chất gây nghiện hướng thần, ngày càng cần nhiều thời gian hơn cho việc tìm kiếm, sử dụng chất gây nghiện và phục hồi sau khi sử dụng
Có ít nhất 3 trong số các yếu tố sau trong vòng 12 tháng qua (ICD -10*)
Sự dung nạp
Hội chứng cai
– Sử dụng CGN để tránh hoặc chống lại triệu chứng cai
Sự thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng
Khó khăn trong việc kiểm soát hành vi sử dụng CGN
liên quan đến việc bắt đầu, cai, hoặc mức độ sử dụng
* ICD-10: Phân loại quốc tế về bệnh tật
NGHIỆN LÀ GÌ? (2)
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11 (tiếp)
‚ Tiếp tục sử dụng chất gây nghiện đó mặc dù biết rõ bằng chứng về hậu quả có hại như những tác hại tới gan do việc uống rượu bia quá nhiều, trạng thái trầm cảm là hậu quả của giai đoạn sử dụng mức độ nặng, suy giảm khả năng nhận thức do sử dụng chất gây nghiện (cần phải nỗ lực thực hiện các biện pháp can thiệp sao cho người sử dụng thực sự hiểu được bản chất và mức độ nghiêm trọng của các tác hại đó).
2 tiêu chuẩn đầu tiên liên quan đến nghiện về thể chất trong khi các tiêu chuẩn còn lại liên quan nghiện về mặt tâm lí. Chỉ cần có 3 tiêu chuẩn xuất hiện trong 12 tháng gần nhất là đủ để xác định một người có nghiện hay không. Không cần thiết phải có 1 tiêu chuẩn lệ thuộc về thể chất.
ICD-10 cũng mô tả mức độ sử dụng có hại là hình thức sử dụng chất gây nghiện hướng thần gây tác hại đến sức khỏe. Tác hại có thể liên quan đến sức khỏe về thể chất (như trường hợp viêm gan do tự sử dụng chất gây nghiện qua đường tiêm chích) hoặc liên quan đến sức khỏe tâm thần (ví dụ: những đợt rối loạn trầm cảm thứ phát do uống nhiều rượu). Các yêu cầu chẩn đoán là phải có tác hại thật sự về tâm thần và thể chất của người sử dụng chất gây nghiện.
Chương iii – Bài 3.3 89
Bản chiếu 12
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu. Sử dụng thông tin tham khảo dưới đây để bổ sung.
Thông tin tham khảo: Thông thường các bác sĩ và nhân viên y tế thường quan tâm quá mức về tầm quan trọng của tình trạng nghiện về thể chất trong đánh giá nghiện chất dạng thuốc phiện. Tuy nhiên, trong các chương trình điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện, việc đánh giá liều thuốc thay thế CDTP thường dựa trên bằng chứng của hội chứng cai CDTP cũng như ước tính mức độ dung nạp. Lưu ý rằng độ dung nạp được định nghĩa là sự tăng liều chất gây nghiện hướng thần cần thiết để đạt được hiệu quả bằng với hiệu quả của việc sử dụng liều thấp hơn trước kia. Ví dụ, nếu một bệnh nhân xuất hiện hội chứng cai, họ cần một liều cao hơn trước kia để cắt các dấu hiệu của hội chứng cai. Vì vậy, hội chứng cai CDTP và độ dung nạp có liên quan đến nhau.
Sao nhãng các thú vui, sở thích, công việc trước đây vì việc sử dụng CGN hướng thần – ngày càng cần nhiều thời gian hơn cho việc tìm kiếm và sử dụng CGN đó hoặc phục hồi sau tác dụng của nó
Tiếp tục sử dụng CGN đó mặc dù biết rõ bằng chứng về hậu quả có hại của việc sử dụng
NGHIỆN LÀ GÌ? (3)
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13
Hướng dẫn giảng dạy: Trước khi chiếu bản chiếu trên và bản chiếu tiếp theo, cần hỏi học viên xem họ có thể phân biệt được “dấu hiệu” và “triệu chứng” không. Sau khi họ trả lời, yêu cầu họ cho ví dụ về dấu hiệu và sau đó là triệu chứng của hội chứng cai CDTP. Bạn có thể chiếu bản chiếu tiếp theo để bổ sung thêm thông tin cho các ý kiến của học viên.
Thông tin tham khảo: Dấu hiệu – Những gì bạn nhìn thấy
‚ Những người cắt cơn heroin thường phải trải qua hội chứng cai từ mức độ vừa phải đến mức độ nặng, nhưng không nguy hại đến tính mạng
‚ Các dấu hiệu và triệu chứng cai heroin có thể bị chẩn đoán nhầm với “cảm cúm”
‚ Cai heroin hiếm khi dẫn đến tử vong trừ khi người đang cai bị mất nước hoặc có các bệnh tật nghiêm trọng khác
‚ Hội chứng cai bắt đầu và kéo dài với thời gian khác nhau tùy thuộc vào loại ma túy đã sử dụng
‚ Hội chứng cai heroin có thể bắt đầu từ 6 – 24 giờ sau lần sử dụng cuối cùng và có thể kéo dài từ 5-7 ngày
‚ Triệu chứng cai methadone có thể bắt đầu 2-3 ngày sau lần dùng cuối cùng và kéo dài đến 3 tuần
‚ Có thể xuất hiện giai đoạn hội chứng cai kéo dài tiếp sau giai đoạn cấp, thường liên quan đến trầm cảm. Giai đoạn này có thể kéo dài nhiều tháng và liên quan đến nguy cơ tái nghiện cao.
Dấu hiệu
Ngáp
Chảy nước mắt
Đồng tử giãn rộng
Ra mồ hôi
Chảy nước mũi, hắt xì hơi
Run rẩy
Nổi da gà
Tiêu chảy và nôn
CAI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Chương iii – Bài 3.3 91
Bản chiếu 14
Thông tin tham khảo: Triệu chứng – Những gì khách hàng cảm thấy
Hướng dẫn giảng dạy: Thảo luận những triệu chứng mà học viên chưa đề cập. Sau đó tiếp tục bài giảng bằng những câu nói gợi ý dưới đây.
Nói: Chúng ta đã trao đổi về những hiểu lầm và thực tế về nghiện heroin, đã biết rằng không phải bất cứ ai sử dụng heroin đều chuyển thành nghiện, và đã mô tả được hội chứng cai heroin. Chúng ta cũng đã trao đổi một số chi tiết về yếu tố thể chất của nghiện. Chúng ta cũng thảo luận ngắn về một thực tế là nguy cơ nghiện liên quan đến sự tương tác giữa chất gây nghiện, môi trường nơi sử dụng chất gây nghiện và yếu tố cá nhân người sử dụng. Sau đây, chúng ta sẽ trao đổi kĩ hơn về các yếu tố sinh học cá nhân.
Triệu chứng
Chán ăn, buồn nôn
Đau bụng hoặc bị co rút cơ
Cơn nóng và lạnh
Đau hoặc rung giật cơ , đau khớp
Ngủ kém
Thèm nhớ CDTP
Bồn chồn/ lo lắng
CAI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
92 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Nghiện bao gồm sự tương tác của nhiều yếu tố cùng tác động tới khả năng và nguy cơ nghiện, bao gồm:
‚ Yếu tố sinh học/gen
‚ Yếu tố môi trường
‚ Loại ma túy sử dụng
‚ Cơ chế hóa học của não bộ
Tất cả những yếu tố này đều có ảnh hưởng và liên quan trực tiếp đến nghiện.
Sự tương tác của các yếu tố này có ảnh hưởng tới não bộ dẫn đến tăng nguy cơ nghiện.

Bản chiếu 15
Sinh học/Gen Môi trường
Nghiện
NGHIỆN LIÊN QUAN ĐẾN NHIỀU YẾU TỐ
Cơ chế hoạt động của não
MA TÚY
Chương iii – Bài 3.3 93
Bản chiếu 16
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để trình bày bản chiếu
Thông tin tham khảo: Có 4 yếu tố xác định sự khác biệt giữa não người nghiện và não người không nghiện. Chúng ta sẽ thảo luận tóm tắt lần lượt từng yếu tố.
Như chúng ta đã trao đổi trước đây, ma túy tác động trực tiếp đến tế bào thần kinh bằng cách biến đổi số lượng và độ nhạy cảm của các thụ thể có vai trò kích hoạt hoạt động của tế bào thần kinh. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về vấn đề này sau.
Ngoài tác động của ma túy lên thụ thể, ma túy cũng làm thay đổi hoạt động chuyển hóa của não. Nhiều vùng của não có giảm hoạt động chuyển hóa sau khi sử dụng ma túy. Tình trạng giảm khả năng sử dụng glucose (năng lượng) kéo dài ở tế bào thần kinh sẽ dẫn đến giảm trầm trọng nhiều chức năng của não.
Đáp ứng của cá nhân với kích thích của môi trường cùng với quá trình tổng hợp protein từ gen cũng bị ảnh hưởng. Ma túy có thể ảnh hưởng đến các gen quy định các protein sẽ được tổng hợp trong nhân của tế bào não theo cách sẽ gây nên sự thèm nhớ đối với sử dụng ma túy.
Yếu tố kiểu gen của nghiện là chủ đề của những nghiên cứu sâu. Trong gia đình có một thành viên nghiện một chất nào đó thì nguy cơ nghiện chất đó của các thành viên khác trong gia đình này cao gấp 8 lần so với người sống trong gia đình không có ai nghiện.
Chức năng và sự sẵn có của các thụ thể
Hoạt động chuyển hoá
Đáp ứng với kính thích môi trường
Quá trình tổng hợp protein từ gen
Não người nghiện rất khác biệt về mặt sinh học với não người không nghiện, theo 4 đặc điểm chính:
94 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 17
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để trình bày bản chiếu
Thông tin tham khảo: Đường dẫn truyền khoái cảm
Để hiểu được tác động của chất gây nghiện lên não chúng ta cần hiểu về đường dẫn truyền khoái cảm (hệ viền). Mặc dù nhiều hệ thống hóa chất và truyền tin khác trong não cũng chịu tác động của chất gây nghiện, đường dẫn truyền khoái cảm đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Đường dẫn truyền khoái cảm liên quan đến nhiều vùng khác nhau của não, một số vùng trong số đó được nêu ra trên bản chiếu này. Đây là sơ đồ mặt cắt dọc chính giữa của não bộ. Phần quan trọng của đường dẫn truyền khoái cảm cùng với những cấu trúc chủ yếu của nó được biểu thị bằng màu tím: vùng nhân bụng (VTA), vùng nhân cạp và vùng vỏ não trước trán. Vùng nhân bụng VTA được nối với vùng nhân cạp và và vùng vỏ não trước trán thông qua đường dẫn truyền này và thông tin được dẫn truyền đến các cấu trúc này thông qua các tế bào thần kinh còn gọi là neuron. Các neuron của vùng nhân bụng VTA chứa chất dẫn truyền thần kinh là dopamine, chất này sẽ được giải phóng ra tại vùng nhân cạp và vùng vỏ não trước trán. Đường dẫn truyền này được kích hoạt bởi các tác nhân kích thích khoái cảm như chất gây nghiện hướng thần.
‚ Vùng nhân bụng và vùng nhân cạp đều ở não giữa và là những vùng phụ trách về động cơ, học hành và củng cố tinh thần.
‚ Những vùng này được kích thích bởi chất gây nghiện và dopamine sẽ truyền thông tin từ nhân bụng tới nhân cạp và lên vỏ não trước trán.
‚ Vùng vỏ não trước trán tác động tới suy nghĩ trừu tượng, lập kế hoạch và trí nhớ. Những hành động này ảnh hưởng đến sự thèm muốn sử dụng ma túy.
ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN DOPAMINE
Chương iii – Bài 3.3 95
Bản chiếu 17 (tiếp)
Quá trình liên kết các sự việc được điều khiển bởi não trước và thân não. Khi bạn đạt được khoái cảm từ một điều gì đó, phản ứng của bạn là thích điều đó. Hơn thế, nếu bạn dự đoán được một khoái cảm sẽ xảy ra và viễn cảnh đó kích thích bạn thực hiện một hành vi nào đó thì chính là não của bạn đã quyết định rằng bạn cần điều đó. Nguyên nhân của việc cảm thấy cần hoặc muốn một điều gì đó là do tác động của dopamine ở não giữa. Chúng ta có những nhu cầu sinh học cơ bản như thức ăn, nước uống, tình dục, nhằm mục đích tồn tại. Chất gây nghiện kích hoạt cùng một đường dẫn truyền làm não chúng ta bị lừa và trở nên tin rằng chất gây nghiện cũng cần thiết cho sự sống còn của chúng ta .
Thức ăn và nước uống là cần thiết cho sự sống. Khi chúng ta vừa ăn trưa xong, chúng ta không thấy ảnh hưởng mạnh của thức ăn và nước uống. Nhưng hãy tưởng tượng là tôi sẽ yêu cầu các bạn ở lại lớp đến 8 giờ tối và tôi không cho phép các bạn được ăn hay uống gì. Khi đó, suy nghĩ của các bạn về tầm quan trọng của thức ăn và nước uống sẽ khác rất nhiều so với khi vừa ăn trưa xong. Và thử tưởng tượng rằng tôi sẽ giữ các bạn ở đây 2 ngày nữa mà không được ăn hay uống, lúc đó một chai nước sẽ có tầm quan trọng lớn như thế nào. Do vậy, vai trò của đường dẫn truyền này là nhắc các bạn về những nhu cầu quan trọng và những điều bạn cần chuẩn bị trước để đạt được những nhu cầu đó.
Chất gây nghiện tác động lên đường dẫn truyền này theo cách sẽ làm cho não của bạn tin rằng chúng quan trọng và cần thiết cho sự sống. Hãy tưởng tượng một người nghiện không được sử dụng chất gây nghiện trong 2 ngày, cơn đói thuốc của anh ta cũng sẽ mãnh liệt tương tự cảm giác đói các bạn có nếu không được ăn trong 2 ngày. Tuy nhiên, mặc dù sự tăng lượng dopamine là rất quan trọng để củng cố tác động của chất gây nghiện nhưng chỉ có tăng dopamine thôi chưa đủ để giải thích cơ chế nghiện.
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để trình bày bản chiếu
Thông tin tham khảo: Chất gây nghiện tác động lên não một cách rất mạnh mẽ khiến cho não phải tìm cách để thích ứng. Một cách đáp ứng của não là giảm số lượng thụ thể dopamine trên các tế bào thần kinh. Các nghiên cứu cho thấy số lượng thụ thể dopamine giảm đáng kể ở những người nghiện các chất khác nhau. Hơn nữa, sự suy giảm này vẫn tồn tại sau khi dừng sử dụng chất gây nghiện từ 4 đến 6 tháng.
Vậy, khi bạn nghiện, các tế bào thần kinh của bạn sẽ không hoạt động bình thường nữa. Các bạn có thể quan sát thấy trên bản chiếu này lượng dopamine khác nhau. Hình ảnh bộ não cột bên trái là của những người không nghiện ma túy/rượu và bộ não ở cột bên phải là của người nghiện. Các bạn có thể thấy lượng dopamine (màu đỏ) thấp hơn nhiều ở bộ não người nghiện so với những người không nghiện.
Sự giảm số lượng thụ thể dopamine ảnh hưởng như thế nào đến tác động của chất gây nghiện lên dopamine? Chất gây nghiện làm tăng giải phóng dopamine cả về số lượng và chất lượng, khác với các yếu tố kích thích tự nhiên. Chất gây nghiện làm lượng dopamine tăng gấp từ 5-10 lần so với các yếu tố kích thích tự nhiên. Hơn nữa, một vài loại chất gây nghiện chặn các kênh vận chuyển giúp tái hấp thu dopamine nhanh chóng vào tế bào thần kinh. Hậu quả là dopamine tồn tại ở các synapse thần kinh lâu hơn. Như vậy, mặc dù thực tế số lượng thụ thể giảm ở những người sử dụng chất gây nghiện, khả năng chịu tác động bởi chất gây nghiện của tế bào thần kinh vẫn rất cao không chỉ do nồng độ dopamine cao mà còn vì thời gian dopamine tồn tại ở synapse dài hơn. Người sử dụng chất gây nghiện nhận ra rằng các tác nhân tự nhiên không còn khả năng tạo ra các khoái cảm rõ ràng ngoài chất gây nghiện - điều này sẽ điều khiển và kích thích các hành vi tiếp theo.
SỐ LƯỢNG THỤ THỂ DOPAMINE D2 THẤP HƠN Ở NGƯỜI NGHIỆN
Viên đá & Cocaine Rượu Heroin
Đối chứng Người không dùng ma tuý Người lạm dụng ma tuý Nghiện
Reward Circuits Reward Circuits
Chương iii – Bài 3.3 97
Bản chiếu 18 (tiếp)
Một khi bạn đã tiếp xúc với một yếu tố kích thích nào đó, động cơ khiến bạn tiếp xúc lại với yếu tố đó có thể cao hoặc thấp, tùy thuộc vào việc bạn phản ứng như thế nào với nó. Bạn thậm chí còn có thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra nếu bạn tiếp xúc lại với yếu tố đó. Bạn cảm thấy sung sướng lần thứ nhất và bạn có thể đoán rằng bạn sẽ cảm thấy sung sướng lần thứ hai. Vì thế, bạn mong muốn được tiếp xúc thêm lần nữa để có lại cảm giác sung sướng. Chất gây nghiện làm suy giảm khả năng quyết định trước những mong muốn đó, vì vậy, bạn càng ngày càng thiên về sử dụng nhiều. Người nghiện thường có quyết định không hợp lý một phần là do nguyên nhân này. Họ trở nên khao khát có được và được sử dụng chất gây nghiện hơn.
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 19
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để trình bày bản chiếu
Thông tin tham khảo: Hầu như không có ai trở thành nghiện sau khi sử dụng lần đầu tiên. Sử dụng, sử dụng sai mục đích và nghiện có thể hiểu là các điểm mốc dọc theo một quá trình liên tục. Khi sử dụng chất gây nghiện mà nó làm thay đổi suy nghĩ về tác hại thể chất và tâm lí thì được gọi là lạm dụng chất gây nghiện, nhưng điểm mốc chuyển từ lạm dụng sang nghiện thì thường không rõ ràng lắm. Mỗi người lạm dụng chất gây nghiện có thể đạt tới điểm mốc nghiện ở những thời điểm khác nhau.
Người ta bắt đầu và tiếp tục sử dụng chất gây nghiện vì lí do giải trí và dùng thử, tự điều trị, do quan hệ xã hội và áp lực bạn bè hoặc để cải thiện chức năng nào đó. Nghiện là một bệnh của não bộ nên khiến cho người sử dụng chất gây nghiện rất khó từ bỏ. Những người đã nghiện khó mà kiểm soát được việc sử dụng của họ, ưu tiên cho việc sử dụng chất gây nghiện trên tất cả các hoạt động khác, xuất hiện triệu chứng cai khi họ dừng sử dụng, có cảm giác thèm nhớ mạnh mẽ, tiếp tục sử dụng thậm chí khi gặp rất nhiều vấn đề, và sử dụng ma túy để trở về trạng thái bình thường. Điểm quan trọng cần phải hiểu là khi một người đã bị nghiện thì sẽ cần thời gian để hồi phục và nghiện là một rối loạn mạn tính và tái diễn. Một điểm quan trọng nữa cần lưu ý là nghiện không chỉ là một bệnh của não mà nó còn chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội mà bệnh đó phát triển và biểu lộ. Nếu chúng ta nhìn nhận nghiện là một bệnh về tâm lí với các thành tố sinh học, hành vi và xã hội thì chiến lược điều trị phải bao gồm cả các thành tố sinh học, hành vi và xã hội. Không chỉ phải điều trị bệnh não mà còn phải lưu ý các yếu tố hành vi và xã hội.
Việc sử dụng CGN có thể coi như là một quá trình liên tục từ thời điểm không sử dụng cho đến lúc nghiện
Mọi người bắt đầu và tiếp tục sử dụng CGN vì những lí do khác nhau:
– Để vui
– Để quên
– Cải thiện chức năng
Lệ thuộc (nghiện) là một bệnh của não làm cho những người nghiện khó từ bỏ CGN
TÓM TẮT
Chương iii – Bài 3.3 99
Bản chiếu 19 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.

3.4 CáC nguyên tắC Cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
Bài 102 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ cùng học viên thảo luận về các nguyên tắc cơ bản
trong điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 20 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày cho học viên những nguyên tắc cơ bản và thực hành
điều trị nghiện ma túy.
III. Kết luận 8 phút
Nhắc lại những điểm chính của bài giảng và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 3.4: Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
Mục đích: Giúp học viên hiểu các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 30 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Nêu được các nguyên tắc chính để cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy với chất lượng cao
‚ Xác định được mục tiêu của điều trị nghiện ma túy
‚ Hình dung được những khía cạnh liên quan đến các nguyên tắc trong điều trị
‚ Mô tả được các cơ sở cung cấp các dịch vụ điều trị
‚ Mô tả mối quan hệ giữa các loại hình điều trị khác nhau
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.4 103
Bản chiếu 1
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Nói: Bài này nhằm cung cấp cho các bạn những hiểu biết cơ bản về nguyên tắc cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy chất lượng cao. Chúng ta sẽ thảo luận về các cơ sở điều trị nghiện ma túy khác nhau và mối liên quan giữa các hình thức điều trị khác nhau.
104 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Nêu được các nguyên tắc chính trong việc cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy với chất lượng cao
Xác định được mục tiêu của điều trị nghiện ma túy
Mô tả được các cơ sở cung cấp các dịch vụ điều trị
Mô tả mối quan hệ giữa các loại hình điều trị khác nhau
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Chương iii – Bài 3.4 105
Bản chiếu 3
Nói: Trước khi chúng ta thảo luận các nguyên tắc cơ bản về điều trị nghiện ma túy, chúng ta cần phải xem xét lại những luận điểm quan trọng về nghiện ma túy. Hiểu được rằng nghiện ma túy là một tình trạng bệnh lí bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên ngoài sẽ giúp định hướng cho chúng ta thảo luận về các nguyên tắc trong điều trị và các cơ sở cung cấp các dịch vụ hiệu quả nhất.
Nghiện ma túy là một tình trạng bệnh tái diễn mạn tính, thường liên quan tới một giai đoạn tâm lí không ổn định
NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CẦN CÂN NHẮC
106 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Thực hành lâm sàng phải theo 4 nguyên tắc chung sau đây: chăm sóc đúng cách cho đúng người vào thời điểm thích hợp và theo đúng cách thức. Điều này nghe có vẻ rất đơn giản nhưng là điều rất quan trọng để đảm bảo rằng điều trị thực sự hiệu quả. Quyết định chăm sóc đúng cách đòi hỏi phải có kĩ năng và sự cam kết để đánh giá đúng bệnh nhân và giới thiệu được họ đến các dịch vụ hỗ trợ sẵn có. Điều đó có nghĩa là dịch vụ phải phù hợp với vấn đề cụ thể của bệnh nhân, ngoài ra có cân nhắc đến nguồn lực cá nhân của họ (cả về xã hội và nhận thức) cũng như giai đoạn chuyển đổi hành vi của họ. (Lưu ý rằng chúng ta sẽ thảo luận về Thuyết Các giai đoạn thay đổi hành vi chi tiết hơn trong phần sau). Dịch vụ chất lượng cao là dịch vụ cung cấp các can thiệp theo đúng như mô hình chiến lược đã được chứng minh có hiệu quả.
Đúng thời gian nghĩa là đảm bảo dịch vụ phải sẵn có khi bệnh nhân quan tâm và chuẩn bị cam kết thực hiện việc thay đổi hành vi sử dụng ma túy của họ. Khi xem xét tất cả 4 yếu tố này, bạn đang đảm bảo rằng chương trình điều trị được cung cấp theo đúng nhu cầu của bệnh nhân. Đồng thời, tiến độ điều trị cũng cần được theo dõi và đánh giá thường xuyên để đảm bảo điều trị hiệu quả.
Xác định chăm sóc đúng bao gồm hiểu đúng nhu cầu và năng lực của bệnh nhân và điều trị phải phù hợp với giai đoạn thay đổi hành vi. Theo đúng cách nghĩa là dịch vụ lâm sàng được cung cấp đúng theo phương pháp, mục tiêu và kĩ thuật của chương trình điều trị. Điều đó cũng có nghĩa là tư vấn viên sử dụng các kĩ năng và kĩ thuật theo đúng mục đích của chúng.

Chăm sóc đúng cách...
...cho đúng người...
....vào thời điểm thích hợp...
....theo đúng cách thức...
NGUYÊN TẮC CỦA ĐIỀU TRỊ
Chương iii – Bài 3.4 107
Bản chiếu 5
Nói: Điều trị bệnh mạn tính như tiểu đường, hen và tăng huyết áp cùng tuân theo các nguyên tắc áp dụng trong điều trị nghiện ma túy. Giống như bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường hoặc bệnh tim mạch, bệnh nhân điều trị nghiện ma túy thường uống thuốc như là một phần của phác đồ điều trị. Ngoài ra, họ còn cần học các kĩ thuật và kĩ năng để thay đổi hành vi. Sử dụng thuốc hiệu quả và động viên khuyến khích thay đổi lối sống thông qua điều trị thay đổi hành vi và tư vấn có thể hiệu quả với người nghiện ma túy giống như hiệu quả đối với bệnh nhân có các bệnh mạn tính khác. Sự phối hợp giữa điều trị bằng thuốc và liệu pháp thay đổi hành vi sẽ là phương pháp hiệu quả nhất, tốt hơn nhiều so với việc chỉ áp dụng riêng lẻ một trong hai biện pháp này.
Cán bộ lâm sàng phải có thái độ không phán xét khi điều trị bệnh nhân nghiện ma túy giống như khi điều trị cho bệnh nhân bị các bệnh mạn tính khác như tăng huyết áp.

Sử dụng thuốc điều trị có hiệu quả khi cần thiết
Khuyến khích thay đổi lối sống
- Khuyến khích bằng các biện pháp điều trị hành vi và tư vấn
Phối hợp giữa điều trị bằng thuốc và thay đổi lối sống là cách hiệu quả nhất
MÔ HÌNH BỆNH MẠN TÍNH GIÚP CHÚNG TA HIỂU VỀ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY NHƯ THẾ NÀO
108 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Không chỉ có một phương pháp điều trị nghiện ma túy duy nhất. Cơ sở điều trị, mô hình điều trị, mức độ tập trung và cường độ điều trị sẽ khác nhau. Ví dụ: cơ sở điều trị có thể là ở cơ sở tập trung, nơi người bệnh sống cũng là nơi họ nhận dịch vụ điều trị (như trung tâm 06). Điều trị ngoại trú đòi hỏi bệnh nhân phải có mặt tại cơ sở điều trị để nhận dịch vụ thường xuyên; còn dịch vụ nội trú là nơi bệnh nhân nằm điều trị tự nguyện tại một cơ sở y tế.
Mô hình điều trị sẽ khác nhau tùy thuộc vào lí thuyết và kĩ thuật của chính người cung cấp dịch vụ. Dịch vụ tư vấn có thể tập trung vào vấn đề nhận thức hoặc hành vi hoặc cả hai. Trọng tâm điều trị có thể là chỉ cung cấp dịch vụ đó cho cá nhân người bệnh hoặc cung cấp dịch vụ đó theo mô hình nhóm hoặc cho cá nhân và gia đình họ.
Cường độ điều trị cũng khác nhau. Có thể là dịch vụ điều trị được cung cấp trong một số ngày trong tuần hoặc một số giờ nào đó trong ngày. Thời gian điều trị có thể trong một khoảng nhất định hoặc sẽ vĩnh viễn cả đời.
Tất cả những yếu tố này đều ảnh hưởng đến sự tương thích và phù hợp của mỗi phương pháp điều trị được lựa chọn.

Nơi điều trị
- Tập trung, ngoại trú, nội trú
Mô hình trị liệu
- Lí thuyết và kĩ thuật
Trọng tâm điều trị
- Cá nhân, nhóm, gia đình
Cường độ
- Thường xuyên – nhiều ngày trong tuần; nhiều giờ trong ngày
NHỮNG THÀNH TỐ CỦA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY LÀ GÌ?
Bản chiếu 7 Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề bản chiếu, sau đó lần lượt chiếu từng ý khi thảo luận đến nội dung đó.
Nói: Bây giờ, hãy bắt đầu với các nguyên tắc then chốt để điều trị hiệu quả. Không có biện pháp điều trị nào là phù hợp đối với mọi đối tượng.
Khách hàng muốn có nhiều giải pháp để lựa chọn. Mục tiêu, vấn đề bệnh tật và nguồn lực sẽ tác động đến sự lựa chọn giải pháp điều trị của họ. Do đó, một điều rất quan trọng là bạn cần phải thu thập đầy đủ thông tin trong quá trình đánh giá khách hàng và hiểu biết về các biện pháp điều trị đang sẵn có. Dành thời gian để thảo luận với khách hàng về điều này và quyết định phương pháp nào có khả năng hiệu quả nhất đối với họ. Ví dụ, một số bệnh nhân muốn được điều trị bằng chất đối kháng như là naltrexon, một số muốn sử dụng biện pháp cổ truyền hoặc châm cứu, trong khi có những bệnh nhân methadone là phù hợp nhất đối với họ.
Điều trị có hiệu quả cần phải điều trị toàn diện những nhu cầu của bệnh nhân chứ không phải chỉ tập trung vào tình trạng sử dụng ma túy của họ.
Người sử dụng ma túy tham gia vào chương trình điều trị thường có nhiều vấn đề khác nhau. Chương trình điều trị cần phải nắm bắt được và cố gắng đáp ứng những nhu cầu đa dạng đó của bệnh nhân, chứ không nên chỉ tập trung vào vấn đề sử dụng ma túy của họ. Đứng ở góc độ của bệnh nhân, thì những nhu cầu khác cũng rất quan trọng và cần được quan tâm tới để giúp họ tin tưởng vào các cán bộ điều trị. Thực tế thì dịch vụ điều trị nghiện ma túy khó có thể cung cấp tất cả các dịch vụ theo nhu cầu của bệnh nhân. Thay vào đó, các tư vấn viên có thể đáp ứng bằng cách chuyển gửi và kết nối họ với các dịch vụ hỗ trợ đặc thù trong lĩnh vực này.
Không có một biện pháp điều trị nào là phù hợp với tất cả mọi đối tượng
Điều trị hiệu quả cần phải điều trị toàn diện các nhu cầu của khách hàng, không chỉ điều trị riêng việc sử dụng ma túy của họ
Những biện pháp đáp ứng nhu cầu điều trị phải luôn sẵn sàng
Duy trì điều trị đủ thời gian là yếu tố then chốt đảm bảo việc điều trị có hiệu quả
NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÓ HIỆU QUẢ (1)
110 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Dịch vụ điều trị cần phải sẵn sàng vì các rào cản trong việc tiếp cận dịch vụ sẽ khiến cho nhiều người không muốn tìm kiếm dịch vụ điều trị. Sự chậm trễ trong điều trị (hay là trong tiếp cận với dịch vụ điều trị) làm giảm đáng kể khả năng họ sẽ tham gia điều trị. Khi họ sẵn sàng bắt đầu, chúng ta cần phải sẵn sàng đón nhận họ.
Duy trì điều trị đủ thời gian là yếu tố then chốt đảm bảo điều trị có hiệu quả Bệnh nhân duy trì trong chương trình điều trị đủ thời gian mới đảm bảo được hiệu quả của điều trị. Những người rời khỏi điều trị sớm thường có nhiều khả năng tái sử dụng ma túy hơn. Cần phải tham gia chương trình điều trị ít nhất 3 tháng để có thể tạo ra sự thay đổi đáng kể. Một số hình thức điều trị, như methadone, cần có thời gian điều trị lâu dài hơn để duy trì sự thay đổi.
Chương iii – Bài 3.4 111
Bản chiếu 8
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu từng dòng một trên bản chiếu trên
Nói: Cần phải theo dõi tiến độ điều trị và theo dõi xem liệu bệnh nhân có sử dụng ma túy trong quá trình điều trị hay không. Đôi khi, tiến độ điều trị diễn ra chậm, đôi khi lại diễn ra nhanh. Điều quan trọng là cần phải theo dõi tiến độ điều trị và việc sử dụng ma túy của bệnh nhân trong quá trình điều trị để từ đó xác định xem phương pháp điều trị có hiệu quả hay không và liệu có cần phải thay đổi gì trong phương pháp điều trị.
Kế hoạch điều trị cần phải được đánh giá và thay đổi liên tục cho phù hợp. Đánh giá và điều chỉnh mục tiêu và tiến độ điều trị thường xuyên là một việc rất quan trọng nhằm điều chỉnh kế hoạch điều trị khi cần thiết.
Thuốc điều trị quan trọng nhưng các thành phần khác cũng quan trọng.

Dịch vụ tư vấn và các can thiệp thay đổi hành vi rất cần thiết: Điều trị bằng thuốc nhưng không có dịch vụ tư vấn sẽ không hiệu quả bằng việc kết hợp cả hai biện pháp. Tương tự như vậy, nếu chỉ có tư vấn mà không có thuốc hỗ trợ thì cũng không hiệu quả bằng kết hợp cả hai. Cùng với dịch vụ tư vấn, các chương trình hiệu quả còn có thêm các thành tố khác như dịch vụ điều trị thay đổi hành vi.
Cần theo dõi tiến độ điều trị và xem bệnh nhân có còn tiếp tục sử dụng ma túy hay không
Kế hoạch điều trị cần phải được đánh giá và thay đổi liên tục cho phù hợp
Thuốc điều trị là rất quan trọng, nhưng không phải là yếu tố duy nhất trong điều trị
Dịch vụ tư vấn và thay đổi hành vi là hết sức quan trọng
NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÓ HIỆU QUẢ (2)
112 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Điều trị cắt cơn chỉ là giai đoạn đầu của điều trị và nếu chỉ có điều trị cắt cơn thì không có hiệu quả gì đáng kể để giải quyết vấn đề sử dụng ma túy lâu dài. Một số bệnh nhân có thể nghĩ rằng nếu muốn từ bỏ ma túy thì họ chỉ cần cắt cơn là xong. Một điều rất quan trọng cần phải nhấn mạnh với họ là điều trị cắt cơn chỉ là giai đoạn đầu của quá trình điều trị. Dự phòng tái nghiện mới là cần thiết. Những bệnh nhân không được tư vấn sau khi cắt cơn là những người có nguy cơ tái nghiện rất cao. Ước tính ở Việt Nam có 95% những người chỉ được điều trị cắt cơn quay lại sử dụng ma túy.
Các chương trình điều trị cần tiến hành kiểm tra tình trạng HIV, viêm gan, lao và các bệnh truyền nhiễm khác. Đồng thời, cần phải hỗ trợ và cung cấp các phương tiện để giúp khách hàng thay đổi hành vi nguy cơ. Tỷ lệ viêm gan, lao và HIV trong số người tiêm chích ma túy là rất cao, đặc biệt là ở Việt Nam. Ở một số cơ sở điều trị tập trung như trung tâm 06, tỷ lệ HIV có thể cao tới 70%, lao là 5% và viêm gan C tới 80%. Đánh giá bệnh nhân và giới thiệu chuyển gửi có vai trò hết sức quan trọng trong giảm nguy cơ và cung cấp dịch vụ điều trị phù hợp.
Cắt cơn chỉ là giai đoạn đầu của điều trị và cắt cơn đơn thuần không có tác dụng đáng kể đối với người sử dụng ma túy trong thời gian dài
Các chương trình điều trị cần cung cấp dịch vụ đánh giá tình trạng HIV, viêm gan, lao và các bệnh truyền nhiễm khác và cung cấp sự hỗ trợ và các phương tiện để thay đổi hành vi
NHỮNG NGUYÊN TẮC ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÓ HIỆU QUẢ (3)
Chương iii – Bài 3.4 113
Bản chiếu 10
Nói: Cần lồng ghép với điều trị các bệnh kèm theo. Bệnh nhân thường có các vấn đề thể chất và tâm thần khác như trầm cảm và lo lắng. Những vấn đề này cũng cần được phát hiện và điều trị.
Phục hồi sau trạng thái nghiện là một quá trình lâu dài và thường xuyên đòi hỏi phải có nhiều đợt điều trị. Rất hiếm khi một người sử dụng ma túy chỉ cần một lần điều trị là có thể phục hồi khỏi tình trạng nghiện của họ. Chúng ta cần nhớ rằng nghiện ma túy là một tình trạng rối loạn mạn tính và tái diễn. Vì vậy, nghiện cần được điều trị lặp lại nhiều lần.
Cần lồng ghép với điều trị các bệnh kèm theo
Phục hồi khỏi trạng thái nghiện có thể là một quá trình lâu dài và thường xuyên đòi hỏi nhiều đợt điều trị
CÁC NGUYÊN TẮC ĐỂ ĐIỀU TRỊ CÓ HIỆU QUẢ (4)
114 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Đối với hầu hết người sử dụng ma túy, mục đích cuối cùng của điều trị nghiện ma túy là để bệnh nhân có thể từ bỏ hoàn toàn được ma túy. Tuy nhiên, một số người chỉ muốn giảm sử dụng ma túy, tăng cường khả năng để phục hồi chức năng, và giảm thiểu các tác hại về mặt y tế và xã hội do việc sử dụng ma túy của họ gây ra.
Mục đích cuối cùng:
- Giúp khách hàng cai nghiện
Mục tiêu trước mắt:
- Giảm sử dụng ma túy
- Tăng cường khả năng, phục hồi chức năng của bệnh nhân
- Giảm các tác hại về mặt xã hội và y tế của việc sử dụng ma túy
MỤC ĐÍCH CỦA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY LÀ GÌ?
Chương iii – Bài 3.4 115
Bản chiếu 12
Giảm sử dụng ma túy và rượu
Tăng chức năng cá nhân và xã hội của người sử dụng
Cải thiện sức khỏe và an ninh công cộng, thông qua
làm giảm lây truyền HIV, viêm gan B, C, và làm giảm tội phạm liên quan đến ma túy
CÁC KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Nói: Có một loạt các kết quả điều trị nghiện ma túy bao gồm giảm sử dụng ma túy/rượu, tăng cường chức năng cá nhân và xã hội, cải thiện sức khỏe và an ninh công cộng, bao gồm giảm lây truyền HIV, viêm gan C và tội phạm liên quan đến ma túy.
116 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13
Nói: Đây là sơ đồ rất quan trọng giúp chúng ta hiểu về những giải pháp lựa chọn trong điều trị nghiện heroin. Các bạn có thể thấy rằng các giải pháp điều trị có sự kết nối với nhau.
Thông tin tham khảo: Bản chiếu này cần được thiết kế để xuất hiện từng phần một (trình bày đến đâu xuất hiện đến đó).
Mũi tên đầu tiên cho thấy mối quan hệ giữa việc không sử dụng ma túy và có sử dụng ma túy, nó cũng cho thấy một số người hoàn toàn có thể ngừng sử dụng ma túy mà không cần phải điều trị
Mũi tên thứ hai cho thấy mối lên quan giữa sử dụng và nghiện heroin. Nó cho thấy rằng một số ngươi có thể thoát khỏi tình trạng nghiện mà không cần phải điều trị.
Mũi tên tiếp theo cho thấy mối liên quan giữa nghiện ma túy và các biện pháp can thiệp giảm nguy cơ. Nhiều người có thể chưa sẵn sàng thay đổi hành vi sử dụng ma túy của họ. Các tư vấn viên vẫn có thể cung cấp thông tin về giảm nguy cơ cho khách hàng, bao gồm giáo dục về quá liều và giảm nguy cơ nhiễm HIV.
Tới mũi tên tiếp theo, thể hiện sự liên quan giữa nghiện và cắt cơn. Cắt cơn là một quá trình, nó không phải là điều trị. Khách hàng cần được kết nối với dịch vụ dự phòng tái nghiện để duy trì không sử dụng ma túy. Dịch vụ dự phòng tái nghiện được cung cấp ở mọi dịch vụ điều trị nghiện, kể cả điều trị nội trú và điều trị ngoại trú là rất quan trọng. Nó có thể là dự phòng tái nghiện bằng tư vấn đơn thuần hoặc bằng thuốc như naltrexone.
Mũi tên tiếp theo cho thấy mỗi quan hệ giữa nghiện và điệu trị thay thế. Liệu pháp điều trị thay thế chính có ở Việt Nam là điều trị duy trì bằng methadone. Mũi tên hai chiều giữa cắt cơn và điều trị thay thế cho thấy rằng một số người cố gắng cắt cơn nhưng thất bại và lại phải quay lại điều trị thay thế. Một số người đã hoàn thành điều trị thay thế cần được điều trị cắt cơn để không phụ thuộc vào thuốc. Có một sự phân chia nhân tạo giữa dự phòng tái nghiện và điều trị thay thế. Cần cho học viên biết rằng điều trị thay thế lý tưởng cần có dịch vụ tư vấn điều trị nghiện kèm theo.
Nói: Các thông tin giảm tác hại, dự phòng HIV và sốc quá liều cần được cung cấp cho mọi khách hàng dù họ có muốn tham gia điều trị hay không.
Một số bệnh nhân sẽ điều trị cắt cơn trước rồi sau đó bước vào điều trị dự phòng tái nghiện trong khi bệnh nhân khác lại tham gia dịch vụ điều trị thay thế vì họ nhận thấy điều trị cắt cơn quá khó với họ. Điều trị cắt cơn đòi hỏi phải có thuốc để giảm bớt mức độ trầm trọng của triệu chứng cai và cần phải được thực hiện ở tốc độ không quá nhanh, nếu không, bệnh nhân khó có thể chịu đựng được và sẽ tăng nguy cơ ngừng điều trị sớm cũng như tái nghiện sau này. Cắt cơn thường được thực hiện tại các cơ sở cai tập trung nội trú mặc dù trên thực tế nó hoàn toàn có thể được thực hiện tại bệnh viện hoặc tại cộng đồng. Liệu pháp điều trị hội chứng cắt cơn rất hiếm ở Việt Nam (liệu pháp điều trị cắt cơn là sử dụng thuốc để điều trị cắt cơn rượu, chất dạng thuốc phiện và benzodiazepines).
Sau điều trị thay thế, bệnh nhân vẫn cần được cắt cơn (ở đây là cắt cơn methadone), và dự phòng tái nghiện sau điều trị là vô cùng quan trọng. Cả điều trị thay thế và dự phòng tái nghiện đều cần được gắn với tư vấn điều trị nghiện ma túy. Một số điều trị dự phòng tái nghiện hướng dẫn cho bệnh nhân những kĩ năng sống thiết yếu, một số chương trình khác cung cấp hỗ trợ tâm lí xã hội.

118 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Thông tin tham khảo:
‚ Mục đích của điều trị nghiện ma túy:
‐ Mục đích cuối cùng của tất cả các biện pháp điều trị trước mắt là để giảm việc sử dụng ma túy, tăng cường các chức năng của người sử dụng ma túy và giảm các hậu quả về y tế và xã hội do sử dụng ma túy.
‚ Nguyên tắc cơ bản trong cung cấp dịch vụ điều trị nghiện ma túy:
‐ Không có biện pháp điều trị nào phù hợp với mọi đối tượng
‐ Điều trị hiệu quả là giải quyết nhu cầu đa dạng của khách hàng, không phải chỉ điều trị việc sử dụng ma túy của họ
‐ Dịch vụ điều trị phải luôn luôn sẵn sàng
‐ Duy trì điều trị đủ thời gian là rất cần thiết để đạt hiệu quả
‐ Cần phải theo dõi tiến độ điều trị và theo dõi xem trong quá trình đó bệnh nhân có sử dụng ma túy hay không
‐ Kế hoạch điều trị phải được đánh giá và điều chỉnh liên tục
‐ Thuốc điều trị là thành tố rất quan trọng, nhưng không phải là thành phần duy nhất của chương trình điều trị toàn diện
‐ Dịch vụ tư vấn và các can thiệp về hành vi khác là then chốt
‐ Cắt cơn chỉ là giai đoạn đầu của quá trình điều trị và cắt cơn đơn thuần chỉ làm
thay đổi rất nhỏ tới việc thay đổi sử dụng ma túy trong thời gian dài
‐ Chương trình điều trị phải cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV, viêm gan, lao và các bệnh truyền nhiễm khác, và cung cấp hỗ trợ và các phương tiện hỗ trợ để thay đổi hành vi
Bản chiếu 14
Mục đích cuối cùng của tất cả các biện pháp điều trị nghiện ma túy là giúp bệnh nhân kéo dài việc không sử dụng ma túy
Mục tiêu trước mắt là để giảm việc sử dụng ma túy, tăng cường các chức năng của người sử dụng ma túy và giảm các hậu quả về y tế và xã hội do sử dụng ma túy gây ra
Có những nguyên tắc cơ bản trongtư vấn điều trị nghiện giúp củng cố thành công của mọi can thiệp điều trị
Có một số phương pháp điều trị khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ, cùng hỗ trợ điều trị nghiện heroin
- Hiểu biết về các phương pháp này là rất quan trọng để cung cấp dịch vụ điều trị tốt nhất
KẾT LUẬN
Chương iii – Bài 3.4 119
Bản chiếu 14 (tiếp)
‐ Điều trị các bệnh đi kèm cũng phải được phối kết hợp vào liệu pháp điều trị
‐ Phục hồi khỏi trạng thái nghiện có thể là quá trình dài hạn và thường cần nhiều lần điều trị.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.

3.5 CáC yếu tố quan trọng để điều trị thành Công
Bài 122 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 1 Phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên các yếu tố ảnh hưởng đến
thành công của điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 25 Phút
Sử dụng các bản chiếu để thảo luận về các yếu tố quan trọng với thành công của điều trị.
III. Kết luận 4 Phút
Nhắc lại các nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 3.5: Các yếu tố quan trọng để điều trị thành công
Mục đích: Học viên hiểu được về các yếu tố ảnh hưởng đến điều nghiện ma túy thành công.
Thời gian: 30 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài này, học viên sẽ có thể:
‚ Mô tả các yếu tố ảnh hưởng tới thành công của điều trị nghiện ma túy.
‚ Liên hệ các yếu tố này với tình hình thực tế tại Việt Nam.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.5 123
Bản chiếu 1
CÁC YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG
124 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Khi học xong bài này, học viên có thể:
Mô tả các yếu tố ảnh hưởng tới sự thành công của điều trị nghiện ma túy
Liên hệ các yếu tố này với tình hình thực tế tại Việt Nam
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Chương iii – Bài 3.5 125
Bản chiếu 3
Nói: Biểu đồ này cho thấy có sự khác biệt rất lớn về tỉ lệ thành công trong điều trị và sự khác biệt đó không liên quan gì đến cơ sở điều trị hay hình thức điều trị. Dịch vụ điều trị nội trú dài hạn so sánh với điều trị ngoại trú bằng tư vấn đơn thuần và điều trị ngoại trú bằng methadone có tỷ lệ duy trì trong chương trình của những chương trình tốt nhất tương tự nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân duy trì trong mỗi loại dịch vụ điều trị rất khác nhau giữa chương trình hiệu quả và chương trình kém hiệu quả. Cơ sở điều trị phục hồi nội trú dài hạn ở biểu đồ này là chương trình điều trị tự nguyện, không phải là hình thức điều trị giống như ở trung tâm 06 của chính phủ Việt Nam.
Vậy điều gì đã ảnh hưởng đến sự khác biệt này?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi. Viết các câu trả lời của học viên lên giấy khổ lớn và phân loại các câu trả lời của học viên thành hai nhóm: các yếu tố cá nhân và các yếu tố về chương trình. Sau khi động não xong chiếu 2 bản chiếu tiếp theo (yếu tố cá nhân và yếu tố chương trình).
TỈ LỆ DUY TRÌ BỆNH NHÂN Ở CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐIỀU TRỊ KHÁC NHAU

21 % 1 6 % 15 %
65 7 5 % 7 6
Chương trình tốt nhất
Chương trình kém hiệu quả nhất

3+Tháng, điều trị nội trú dài hạn (n=17)
3+Tháng điều trị cai nghiện ngoại trú (n=14)
12+Tháng điều trị Methadone ngoại trú (n=10)

Simpson, Joe, Broome, Hiller, Knight, Rowan-Szal, 1997, PAB
126 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Có một số yếu tố cá nhân góp phần thúc đẩy hoặc cản trở thành công của chương trình điều trị
‚ Những người sử dụng ma túy lâu năm với mức độ nghiện nặng với nhiều loại ma túy và có các rối loạn tâm thần là những người khó có kết quả điều trị thành công.
‚ Thiếu mạng lưới xã hội những người không sử dụng ma túy hoặc thiếu sự hỗ trợ của gia đình cũng làm giảm khả năng điều trị thành công.
‚ Trong tất cả các yếu tố này, không có một yếu tố nào là yếu tố tiên đoán chính xác kết quả điều trị là thất bại và chúng ta không nên dựa vào những yếu tố này để phân biệt bệnh nhân khi họ vào chương trình điều trị.
Nghiện nặng và mạn tính hơn
Nghiện nhiều loại chất gây nghiện một lúc
Các vấn đề tâm lí, bao gồm cả rối loại nhân cách chống lại xã hội
Mức độ tội phạm cao hơn
Không có sự hỗ trợ của gia đình và xã hội
CÁC YẾU TỐ CÁ NHÂN KHÁCH HÀNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Chương iii – Bài 3.5 127
Bản chiếu 5
Nói: Các yếu tố khác liên quan đến kết quả điều trị gồm có:
‚ Số lượng và loại hình dịch vụ được cung cấp – Liệu dịch vụ đó có được kết nối với các chương trình y tế và hỗ trợ xã hội khác hay không (chẳng hạn như chương trình tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện, giáo dục đồng đẳng, và/ hoặc quản lí trường hợp).
‚ Tổ chức chương trình – Nếu công việc hành chính, thủ tục đăng kí cho bệnh nhân, các quy định và quy chế quá phức tạp thì sẽ không thể thu hút sự tham gia của bệnh nhân cũng như duy trì trong chương trình điều trị.
‚ Chất lượng lãnh đạo – Sự đoàn kết và quản lí trong nhóm nhân viên cũng ảnh hưởng đến thành công của chương trình điều trị.
‚ Tổng hòa các kĩ năng của nhân viên – Kết quả điều trị cũng phụ thuộc vào việc nhân viên được đào tạo như thế nào, họ có kĩ năng và kinh nghiệm phong phú để đáp ứng những nhu cầu khác nhau của khách hàng hay không.
‚ Môi trường – Môi trường xã hội/thể chất là rất quan trọng. Kết quả điều trị sẽ phụ thuộc vào việc liệu bệnh nhân có cảm thấy thoải mái khi tới cơ sở điều trị trong môi trường điều trị hay không. Môi trường điều trị bao gồm cả sự thân thiện và thoải mái của không gian và thái độ đón tiếp bệnh nhân
Số lượng và loại hình các dịch vụ được cung cấp
Tổ chức chương trình
– Chất lượng lãnh đạo
– Tổng hoà các kĩ năng khác nhau của nhân viên
– Môi trường dịch vụ
CÁC YẾU TỐ THUỘC CHƯƠNG TRÌNH HOẶC TIẾN TRÌNH ĐIỀU TRỊ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Nói: Kết quả điều trị phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng dịch vụ điều trị chứ không phải các yếu tố cá nhân của khách hàng.
Điều này có làm bạn ngạc nhiên không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên thảo luận về nhận định trên.
Khuyến khích họ tranh luận về nhận định đó và đưa ra những lí do khác nhau mà họ không đồng ý.
Kết quả điều trị được quyết định chủ yếu bởi chất lượng chương trình điều trị chứ không phải từ cá nhân khách hàng
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ
Chương iii – Bài 3.5 129
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu, sau đó chiếu dần các dòng trên bản chiếu khi thảo luận theo hướng dẫn dưới đây.
Nói: Nếu chất lượng dịch vụ không tốt thì kết quả điều trị cũng kém. Các bản chiếu tiếp theo sẽ trình bày các yếu tố chính cần có để đảm bảo dịch vụ điều trị có chất lượng tốt. Trên bản chiếu này, chúng tôi liệt kê những yếu tố chất lượng về mặt tổ chức cần có để cung cấp dịch vụ điều trị có chất lượng.
‚ Kỹ năng quản lí cơ bản – Trưởng nhóm cần hiểu rõ lí thuyết và thực hành về cơ cấu tổ chức và kĩ năng quản lí.
‚ Môi trường làm việc lành mạnh tích cực – Môi trường làm việc cần phải thân thiện với cả nhân viên và khách hàng. Vấn đề môi trường làm việc bao gồm cả các vấn đề liên quan đến sự an toàn nơi làm việc.
‚ Phân định ranh giới các nhiệm vụ một cách rõ ràng – Mỗi thành viên trong nhóm cần biết rõ về vai trò và trách nhiệm của họ cũng như vai trò của các thành viên khác trong nhóm. Bất cứ thắc mắc nào liên quan đến việc chồng chéo nhiệm vụ của nhau cần phải được giải quyết.
‚ Nhóm phải hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm và trách nhiệm với khách hàng – Cần họp nhóm thường xuyên để thảo luận về tiến triển của khách hàng và giải quyết các vấn đề liên quan đến nhóm.
‚ Nhân viên cần có hiểu biết vững chắc về mục tiêu và mục đích của điều trị.
‚ Nhân viên được giám sát tốt, được khen ngợi đúng lúc và được ủng hộ – Ở đây vai trò của lãnh đạo là rất quan trọng. Trưởng nhóm cần phải nêu gương nhưng cũng cần phải dành thời gian để đánh giá kĩ năng của nhân viên và đáp ứng những nhu cầu học hỏi để nâng cao kĩ năng của họ. Giám sát hỗ trợ là yêu cầu quan trọng để duy trì hiệu quả công việc, sự hài lòng của nhân viên về công việc và đạt được kết quả điều trị tích cực.
Kỹ năng quản lí cơ bản
Môi trường làm việc lành mạnh tích cực
Phân định rõ ràng các nhiệm vụ
Mọi thành viên đều hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm
và trách nhiệm đối với khách hàng
Nhân viên được giám sát tốt, khen thưởng kịp thời và được hỗ trợ
NHỮNG VẤN ĐỀ THIẾT YẾU VỀ MẶT TỔ CHỨC ĐỂ QUẢN LÍ TỐT BỆNH NHÂN
130 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 8
Tổ chức, lãnh đạo của chương trình, sự rõ ràng về mục tiêu và tổng hoà các kĩ năng của nhân viên
Thời gian và mức độ điều trị
Sự sẵn sàng thay đổi hành vi của khách hàng và các vấn đề khi bắt đầu điều trị
Mức độ tuân thủ và mức độ tham gia vào chương trình điều trị
Loại tư vấn có cấu trúc hoặc các can thiệp xã hội khác
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ LIÊN QUAN TỚI...
Chương iii – Bài 3.5 131
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Tóm tắt những điểm quan trọng trong bài giảng như trên bản chiếu
Thông tin tham khảo: Nhấn mạnh rằng các yếu tố chương trình có ảnh hưởng lớn hơn tới kết quả điều trị so với các yếu tố cá nhân bệnh nhân.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
Các yếu tố về phía khách hàng
Mức độ lệ thuộc
Lệ thuộc đa chất gây nghiện
Bản chất và mức độ nghiêm trọng của các vấn đề khác
Mức độ hỗ trợ của xã hội và gia đình
Sẵn sàng thay đổi
Các yếu tố về cơ sở điều trị
Chất lượng lãnh đạo và tinh thần làm việc trong nhóm
Môi trường và điều kiện của cơ sở điều trị
Các loại hình dịch vụ cung cấp
Tổng hợp kĩ năng của nhân viên
TÓM TẮT: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ

3.6 Điều trị nghiện heroin Bài 134 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận với học viên về 3 phương pháp điều trị
nghiện ma túy hiện nay trên thế giới.
II. Thuyết trình 75 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày về các mô hình điều trị nghiện ma túy đang có trên
thế giới. Các mô hình điều trị trong bài này bao gồm 3 loại: liệu pháp y tế, liệu pháp hành
vi và sự phối hợp giữa liệu pháp y tế và hành vi.
III. Kết luận 9 phút
Nhắc lại các nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 3.6: Điều trị nghiện heroin
Mục đích: Đảm bảo học viên hiểu rõ về 3 phương pháp điều trị nghiện khác nhau.
Thời gian: 85 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Mô tả được các phương pháp điều trị nghiện ma túy khác nhau hiện nay trên thế giới
‚ Mô tả được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi phương pháp điều trị
‚ Gợi ý sự phối hợp các biện pháp điều trị để tăng cường hiệu quả điều trị.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
TổNG QuAN
Chương iii – Bài 3.6 135
Bản chiếu 1
Nói: Trong bài giảng này, chúng ta sẽ thảo luận về các biện pháp điều trị nghiện heroin hiện có trên thế giới.
ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN
136 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
Mô tả được 3 biện pháp điều trị nghiện heroin khác nhau hiện có trên thế giới
Nêu được điểm mạnh, điểm yếu của mỗi biện pháp điều trị
Gợi ý sự phối hợp các phương pháp điều trị để nâng cao hiệu quả điều trị
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương iii – Bài 3.6 137
Bản chiếu 3
Nói: Nghiện ma túy là một rối loạn mạn tính tái diễn và có thể điều trị được. Thông qua phương pháp điều trị được xây dựng dựa trên nhu cầu của mỗi người bệnh, những người nghiện ma túy có thể học được cách kiểm soát tình trạng nghiện của họ và sống một cuộc sống bình thường, có ích.
Có biện pháp điều trị bằng thuốc, điều trị hành vi và kết hợp điều trị bằng thuốc với điều trị hành vi.

1. Liệu pháp điều trị bằng thuốc
2. Liệu pháp về hành vi
3. Phối hợp điều trị bằng thuốc và hành vi
HIỆN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY NÀO?
138 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Việc điều trị nghiện bằng thuốc cần hướng tới kết quả gì? Có một vài điểm tiềm ẩn trên não mà thuốc có thể tác động để giúp bệnh nhân hồi phục. Một số thuốc có tác động theo nhiều cơ chế và cũng tác động lên nhiều vùng khác nhau trên não người bệnh. Một số thuốc khác chỉ có một cơ chế và tác động lên một vùng nhất định. Một số thuốc có hiệu quả điều trị nghiện một số loại ma túy khác nhau, trong khi những thuốc khác lại chỉ có hiệu quả với nghiện một loại ma túy nhất định. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về điều này. Điều trị bằng thuốc có thể mang lại nhiều kết quả đa dạng khác nhau. Thuốc có thể ngăn chặn hoặc làm giảm sự thèm nhớ ma túy, hoặc ngăn chặn hoặc làm giảm những khoái cảm do ma túy mang lại (ví dụ, cảm giác phê mạnh do heroin), hoặc dự phòng và/hoặc điều trị hội chứng cai, hoặc để phục hồi chức năng “bình thường” của não. Các thuốc này cũng có thể được dùng để điều trị các rối loạn tâm thần tiềm tàng. Những thuốc được phát triển để điều trị nghiện các dẫn chất thuốc phiện là những thuốc có hiệu quả nhất.
Để hiểu điều trị hỗ trợ bằng thuốc tác động như thế nào lên não, một điều rất quan trọng là phải hiểu được tác động của các loại ma túy khác nhau lên não và cơ thể như thế nào. Các bản chiếu tiếp theo sẽ cho chúng ta một cách nhìn chi tiết hơn về não bộ.

Ngăn chặn hoặc làm giảm sự thèm nhớ ma túy
Ngăn chặn hoặc làm giảm khoái cảm do sử dụng ma túy (ví dụ: phê)
Dự phòng/điều trị hội chứng cai
Phục hồi chức năng não bộ trở về “bình thường”
- Cải thiện tâm trạng hoặc sự giảm thiểu nhận thức do nghiện ma túy gây ra
- Cải thiện việc kiểm soát sự thôi thúc sử dụng ma túy Điều trị những rối loạn tâm lí do ma túy
MỤC TIÊU CỦA ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY BẰNG THUỐC LÀ GÌ?
Chương iii – Bài 3.6 139
Bản chiếu 5
Nói: Não bộ bao gồm một số vùng, mỗi vùng chịu trách nhiệm cho một số các hoạt động thiết yếu cho sự sống như vận động, phán xét, cảm giác, thị giác, khoái cảm, trí nhớ, đau và thăng bằng.
Ma túy ảnh hướng đến cơ chế hóa học của não, vì vậy làm thay đổi chức năng bình thường của não bộ. Các thuốc điều trị nghiện ma túy tác động vào các tế bào não, những tế bào đặc biệt dễ bị tổn thương bởi nghiện và những hậu quả của nghiện. Đây là những vùng có các tế bào não phụ trách về khoái cảm và nhận định.

140 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về thuốc điều trị nghiện heroin. Có 3 loại thuốc phổ biến nhất được dùng để điều trị nghiện heroin:methadone, buprenorphine và naltrexone.
Những thuốc này đã chứng tỏ được tính hiệu quả của nó nhưng các yếu tố như liều lượng, khả năng tái nghiện và các tác dụng phụ vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu.
Methadone
Buprenorphine
Naltrexone
THUỐC ĐIỀU TRỊ NGHIỆN HEROIN
Chương iii – Bài 3.6 141
Bản chiếu 7
Nói: Thuốc điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện tác động trên cùng một vùng của não bộ giống như heroin (thụ thể μ với chất dạng thuốc phiện). Nhưng những thuốc này an toàn hơn và tác động trong thời gian dài hơn so với heroin. Điều trị bằng các thuốc này thường cần kéo dài khoảng từ 1 đến 3 năm, nhưng đôi khi cần thiết phải điều trị cả đời. Những thuốc này cũng có thể được dùng để điều trị cắt cơn nghiện heroin.
Thuốc tác động theo các cách sau:

‚ Giảm các triệu chứng của hội chứng cai
‚ Giảm hoặc làm xóa bỏ hoàn toàn cảm giác thèm nhớ heroin
‚ Ngăn chặn tác động của heroin vì làm tăng độ dung nạp với chất dạng thuốc phiện
Sử dụng loại thuốc an toàn: thuốc đồng vận
Tác dụng tương tự như các dẫn chất thuốc phiện
Có thời gian tác động kéo dài hơn
Tác dụng:
- Làm giảm hội chứng cai
- Giảm hoặc xóa bỏ cảm giác thèm, nhớ
- Ngăn tác động của heroin
Điều trị lâu dài
- Điều trị duy trì, không phải là điều trị cắt cơn
ĐIỀU TRỊ THAY THẾ CDTP
142 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8
Nói: Mục đích cuối cùng của điều trị thay thế đối với bệnh nhân nghiện các chất dạng thuốc phiện là giảm hành vi nguy cơ và cải thiện sức khỏe. Điều trị thay thế là một trong những phương pháp thành công nhất để giảm tác hại liên quan đến nghiện chất dạng thuốc phiện. Tổ chức Y tế thế giới đưa ra danh mục các thuốc thiết yếu mà mọi quốc gia nên có để cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân ở mức cơ bản. Cả methadone và buprenorphine đều có trong danh mục các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế thế giới.
Giảm hành vi nguy cơ do
- Tiêm chích
- Sử dụng heroin
Cải thiện sức khỏe, phục hồi chức năng tâm lí và xã hội cho người sử dụng
- Tăng cường sự tham gia của người sử dụng ma túy trong các hoạt động chăm sóc y tế
- Giải quyết các vấn đề xã hội
- Vượt qua cảm giác lo lắng và trầm cảm
Giảm các hành vi phạm pháp
MỤC ĐÍCH CỦA ĐIỀU TRỊ THAY THẾ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Chương iii – Bài 3.6 143
Bản chiếu 9
Nói: Chất đồng vận như methadone tác động lên não bộ như thế nào? Chất đồng vận là chất hóa học gắn vào các thụ thể đặc hiệu để tạo ra đáp ứng. Methadone là một chất đồng vận mà, giống như heroin, gắn vào các thụ thể của dẫn chất thuốc phiện. Tuy nhiên, không giống như heroin, methadone không tạo ra được cảm giác phê với mức độ như Heroin và cũng không gây rối loạn phối hợp động tác vận động như heroin. Hãy nhìn vào phía bên trái của hình vẽ trên là hình ảnh thể hiện methadone gắn vào thụ thể với dẫn chất thuốc phiện thay cho Heroin.
Nguồn: National Institutes of Health. The Brain: Understanding Neurobiology. Lesson 5: Drug Addiction Is a Disease, So What Do We Do about It?
Available at: http://science-education.nih.gov Accessed June 29, 2004.
Giống như heroin, một chất đồng vận (như methadone) gắn vào các thụ cảm thể CDTP để tạo ra các đáp ứng (như cảm giác phấn khích)
Methadone không tạo ra cảm giác phê bằng cảm giác phê do heroin
TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT ĐỒNG VẬN (METHADONE) LÊN NÃO BỘ
National Institutes of Health. The Brain: Understanding Neurobiology. Lesson 5: Drug Addiction Is a Disease, So What Do We Do about It?
Chất đồng vận Chất đối kháng
Thụ thể Thụ thể

144 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10
Nói: Methadone được công nhận là biện pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng” để quản lí tình trạng nghiện chất dạng thuốc phiện và đã cho thấy là biện pháp y tế công cộng và giảm tác hại hiệu quả. Chỉ định dùng giới hạn trong những trường hợp đặc biệt, như là nghiện CDTP và giảm đau mãn tính.
Methadone có hiệu quả cao khi dùng bằng đường uống. Khi được uống hàng ngày, như trong giai đoạn điều trị duy trì cho người nghiện CDTP, hiệu quả của nó kéo dài đến hơn 24 tiếng. Mặc dù nó là thuốc giảm đau có hiệu lực cao có tác dụng trong điều trị đau mãn tính, nhưng tác dụng giảm đau này chỉ kéo dài dưới 24 tiếng. Nếu được sử dụng để giảm đau, bệnh nhân cần uống thuốc 4-6 tiếng một lần.

Methadone:
‚ Có thể phát hiện trong huyết tương trong vòng 30 phút sau khi uống
‚ Đạt nồng độ tối đa sau khoảng 4 giờ kể từ khi uống
‚ Thời gian bán hủy của liều đơn là 15 - 22 giờ (mức độ dao động cao)
‚ Thời gian bán hủy liều duy trì là 22 giờ và ngăn chặn biểu hiện cai trong khoảng 24-36 giờ
‚ Tính ổn định thay đổi tùy thuộc tốc độ chuyển hóa, mà tốc độ chuyển hóa này có thể thay đổi tùy theo đặc điểm di truyền, môi trường và các yếu tố bệnh tật (ví dụ tình trạng có thai, thuốc điều trị HIV và lao làm tăng chuyển hóa methadone)
‚ Methadone dạng uống ít có tác dụng bất lợi hơn dạng tiêm
Là biện pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng”
Liều hàng ngày (uống hàng ngày, vào một giờ nhất định) duy trì được nồng độ ổn định trong máu và giúp cho các hoạt động hàng ngày của người bệnh diễn ra bình thường
Đủ liều sẽ dự phòng được hội chứng cắt cơn CDTP (mà không bị ngộ độc)
METHADONE: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
Chương iii – Bài 3.6 145
Bản chiếu 11
Nói: Methadone là gì?
Methadone là thuốc điều trị an toàn và hiệu quả được chỉ định bằng đường uống thường xuyên với liều cố định cho những người nghiện dẫn chất thuốc phiện. Methadone có tác dụng sau khi uống từ từ hơn nhiều so với tác động của heroin, và kết quả là bệnh nhân được ổn định với thuốc điều trị thay thế này sẽ không bị cảm giác “bốc” hay “phê”. Thêm vào đó, cảm giác và methadone diễn ra từ từ hơn hẳn so với heroin, do đó, không có các biểu hiện cai đột ngột, não bộ và cơ thể không bị thay đổi đáng kể như tác động do heroin gây ra. Điều trị duy trì methadone làm giảm đáng kể thèm nhớ hoặc mong muốn sử dụng heroin. Nếu một người duy trì được liều methadone vừa đủ, thường xuyên uống thuốc (một lần một ngày) và nếu thử dùng heroin, cảm giác phê do heroin tạo ra sẽ bị ngăn chặn đáng kể.
Bệnh nhân điều trị duy trì sẽ không bị trải qua những bất ổn về sức khỏe và hành vi giống như tác động nhanh chóng của việc ngừng sử dụng heroin ở người nghiện heroin gây nên. Phương pháp điều trị này là điều trị đồng vận. Một chất đồng vận là một chất mà nó tạo ra đáp ứng sinh học khi gắn với thụ thể.

Dùng bằng đường uống thường xuyên, 1 liều nhất định Tác dụng từ từ hơn sau khi uống so với heroin nên bệnh nhân ổn định với điều trị methadone không có cảm giác “phê”, bốc.
Cảm giác vã thuốc (hết thuốc) cũng chậm hơn so với heroin nên người sử dụng không bị “vã” đột ngột Điều trị duy trì làm giảm ham muốn sử dụng heroin (thèm nhớ)
Tác dụng phê thuốc của heroin bị methadone ngăn chặn đáng kể
METHADONE
146 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Điều trị duy trì methadone (MMT) không đơn giản chỉ là thay thế cho nghiện các dẫn chất thuốc phiện.
MMT là sử dụng một thuốc an toàn, cho uống trong môi trường điều trị an toàn. Điều trị này bao gồm đánh giá nhu cầu gắn với các đáp ứng phù hợp. Methadone không có cùng một cảm giác phê sướng hoặc gây tổn hại như tác động của heroin. Sử dụng heroin và các ma túy khác được giám sát chặt chẽ và đáp ứng điều trị phù hợp nếu có xảy ra.
MMT phải bao gồm tư vấn điều trị lạm dụng ma túy, đánh giá về sức khỏe, tình trạng pháp lý, tài chính và nghề nghiệp cùng với việc kết nối với các dịch vụ khác.

Điều trị duy trì methadone KHÔNG CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ điều trị thay thế. Nó bao gồm:
Đánh giá tình trạng sức khỏe, xã hội, luật pháp, tài chính và nghề nghiệp của người sử dụng Liều an toàn, ổn định
Không có tác dụng gây phê hoặc rối loạn tâm thần
Kiểm soát việc sử dụng heroin và các ma túy khác
Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Kết nối được với các dịch vụ khác
METHADONE KHÔNG CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ ĐIỀU TRỊ THAY THẾ CDTP
Chương iii – Bài 3.6 147
Bản chiếu 13
Nói: Điều trị duy trì methadone (MMT) đã cho thấy có tỉ lệ chấp nhận và duy trì điều trị cao mà không có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe dài hạn. Bệnh nhân điều trị MMT tham gia điều trị duy trì lâu hơn tất cả các loại chương trình điều trị khác.
Các bằng chứng về điều trị duy trì methadone đã cho thấy MMT giúp:

‚ Giảm đáng kể việc sử dụng ma túy bất hợp pháp
‚ Giảm đáng kể các hành vi tội phạm, phạm pháp
‚ Giảm đáng kể tỉ lệ tử vong
‚ Giảm tỉ lệ mắc mới HIV
‚ Cải thiện đáng kể tình trạng sức khỏe và tâm lí xã hội của bệnh nhân
Có tỉ lệ chấp nhận và duy trì trong chương trình điều trị cao
Không có các tác dụng không mong muốn dài hạn với sức khỏe
Điều trị duy trì methadone sẽ giúp:
- Giảm đáng kể sử dụng ma túy bất hợp pháp
- Giảm đáng kể các hành vi phạm pháp
- Giảm đáng kể tỉ lệ tử vong
- Giảm đáng kể tỉ lệ mắc mới HIV
- Cải thiện đáng kể tình trạng sức khỏe và tình trạng tâm lí
ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ METHADONE CÓ HIỆU QUẢ NHƯ THẾ NÀO?
148 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Bản chiếu 14
Nói: Ở những người sử dụng ma túy có HIV(+), điều trị duy trì methadone liên quan chặt chẽ tới việc tuân thủ điều trị thuốc kháng vi rút và làm giảm tỉ lệ nhập viện.
Nguồn: Sambamoorthi U, Warner LA, Crystal S, Walkup J. Drug abuse, methadone treatment, and health services use among injection drug users with AIDS. Drug Alcohol Depend. 2000;60:77-89. Weber R, Ledegerber B, Opravil, M, Siegentbaler, W, Luthy R. Progression of HIV infection in mis-users of injected drugs who stop injecting or follow a programme of maintenance treatment methadone. BMJ 1990;301(6765):1362-5. Laine C, Hauck WW, Gourevitch MN, Rothman J, Cohen A, Turner BJ. Regular outpatient medical and drug abuse care and subsequent hospitalization of persons who use illicit drugs. JAMA 2001;285(18):2355-62.
Ở những bệnh nhân có HIV (+), điều trị duy trì methadone liên quan chặt chẽ với việc tuân thủ điều trị thuốc kháng vi rút và làm giảm tỉ lệ bệnh nhân phải nhập viện
TÁC DỤNG CỦA ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ METHADONE VỚI NHỮNG NGƯỜI SỬ DỤNG MA TÚY CÓ HIV
Sambamoorthi 2000; Weber 1990; Laine 1998.
Chương iii – Bài 3.6 149
Bản chiếu 15
Nói: Nghiên cứu quan sát ở nhiều nơi điều trị, kết quả đã cho thấy ở những bệnh nhân liều duy trì < 35mg hàng ngày thì tỉ lệ tiếp tục sử dụng heroin là 35%, trong khi chỉ có 5% tiếp tục sử dụng heroin ở những người có liều duy trì >60mg/ngày. Số liệu này cho thấy liều >60mg/ ngày có hiệu quả hơn.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, nghĩa là cả người được điều trị và người đo lường kết quả điều trị đều không biết bệnh nhân thuộc nhóm nào đã cho thấy liều lượng dùng methadone liên quan chặt chẽ với sử dụng ma túy. Liều càng tăng thì càng làm tăng việc duy trì bệnh nhân trong chương trình điều trị, làm giảm việc sử dụng ma túy bất hợp pháp. Nghiên cứu cho thấy liều 80-100 mg hơn hẳn 50-65 mg hơn hẳn 20 mg và hơn hẳn nhóm chứng placebo (0 mg).

Lưu ý: Liều tốt nhất cho mỗi người bệnh cần phải được xác định bởi bác sĩ thông qua đánh giá từng bệnh nhân để quyết định dựa trên:
‚ Còn tồn tại triệu chứng cai hay không
‚ Còn thèm nhớ hay không
‚ Tác dụng của heroin khi đang điều trị methadone đã bị ngăn chặn chưa
Nghiên cứu quan sát nhiều nơi điều trị cho thấy:
- Tiếp tục sử dụng heroin ở 35% bệnh nhân có liều duy trì < 35 mg/ngày; 5% nếu liều duy trì trên >60 mg/ngày
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên chọn bệnh nhân vào 2 cách điều trị, số liệu được giữ bí mật với bác sĩ điều trị và với người được điều trị
- Liều càng cao càng làm tăng sự duy trì tham gia của bệnh nhân, làm giảm tỉ lệ sử dụng ma túy bất hợp pháp: liều 80-100 mg hơn hẳn liều 50-65 mg hơn hẳn liều 20 mg hơn hẳn nhóm chứng placebo (0 mg)
LIỀU ĐIỀU TRỊ DUY TRÌ METHADONE CÓ VAI TRÒ QUAN TRỌNG NHƯ THẾ NÀO?
150 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16
Nói: Thời gian điều trị methadone tối ưu vẫn đang được nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể nói rằng thời gian điều trị duy trì bằng methadone cần phải được tính theo năm thay vì theo tháng. Một nghiên cứu năm 2000 do Sees tiến hành so sánh một nhóm được điều trị duy trì methadone bao gồm tư vấn cơ bản với một chương trình điều trị methadone 180 ngày gọi là “methadone tới cai nghiện hoàn toàn” bao gồm cả các dịch vụ tư vấn và dịch vụ hỗ trợ.
Nghiên cứu cho thấy điều trị duy trì methadone với tư vấn có hiệu quả hơn chương trình điều trị 180 ngày. Họ cũng cho thấy là nhóm điều trị duy trì methadone có tỉ lệ duy trì tham gia chương trình cao hơn và làm giảm việc sử dụng heroin, giảm các hành vi tội phạm. Số ngày sử dụng heroin trong tháng giảm từ 30 ngày xuống còn 5 ngày trong một tháng ở cả hai nhóm trong 180 ngày đầu, nhưng sau đó tăng tới 15 ngày trong một tháng ở nhóm điều trị 180 ngày trong khi duy trì ở mức 5 ngày ở nhóm điều trị duy trì methadone.

Nguồn: Sees et. al. JAMA 2000;283: 1303-10.
Thời gian điều trị lí tưởng không rõ ràng:
- Cần được tính bằng năm chứ không phải bằng tháng hay tuần
- Một số người phải dùng cả đời
Thời gian điều trị:
- So sánh điều trị duy trì với điều trị 180-ngày methadone tới cai nghiện hoàn toàn (MTA), Sees và cộng sự (2000)
- So sánh MMT kết hợp tư vấn với chương trình điều trị 180 ngày methadone kết hợp với tư vấn và các dịch vụ hỗ trợ khác
- MMT hơn hẳn 180-ngày MTA:
+ tỉ lệ duy trì trong chương trình cao hơn,
+ giảm tỉ lệ sử dụng heroin và các hành vi tội phạm
THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ METHADONE TỐI ƯU LÀ BAO NHIÊU?
Chương iii – Bài 3.6 151
Bản chiếu 17
Nói: Thuốc được dùng để điều trị nghiện heroin rộng rãi nhất là methadone. Tuy nhiên, những vấn đề như thời gian điều trị, mức độ dịch vụ của chương trình điều trị đang được nghiên cứu. Giống như các thuốc khác, methadone cũng có thể bị lạm dụng nếu sử dụng sai mục đích hoặc sử dụng không theo chủ đích điều trị, do đó nó đòi hỏi việc cho uống thuốc phải được quan sát trực tiếp trong chương trình điều trị có tổ chức chặt chẽ.
Mặc dù methadone có giá thành thấp ($50-100 một năm), giá thành cho uống thuốc có thể cao. Giá thành cho uống thuốc có thể thấp hơn ở những quốc gia có chi phí lao động rẻ.

Nhược điểm
- Có khả năng tiềm tàng lạm dụng methadone
- Lạm dụng và sử dụng thuốc sai mục đích làm hạn chế lựa chọn cấp thuốc
+ Tại nhiều nước, cho uống methadone được thực hiện với sự quan sát trực tiếp trong một chương trình kiểm soát chặt chẽ
Ưu điểm
- Giá thuốc rẻ
- Giá phân phối thuốc có thể cao ở những nơi có chương trình kiểm soát chặt chẽ
+ Ở các quốc gia đang phát triển thì rẻ hơn do chi phí lao động thấp
ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA METHADONE
152 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Nói: Có rất nhiều ưu điểm trong điều trị thay thế bao gồm cải thiện tình trạng sức khỏe, xã hội, tài chính, pháp luật và đào tạo nghề.
Làm giảm triệu chứng cai CDTP
Tinh khiết – không có chất pha tạp
Dùng bằng đường uống
Dùng mỗi ngày một lần
Tư vấn và hỗ trợ sẽ giúp thay đổi lối sống lâu dài
Hợp pháp và có thể chi trả được – giảm các hành vi tội phạm
Có ít tác dụng phụ khi dùng dài hạn
Việc giảm liều lượng từ từ và dừng điều trị theo kế hoạch
được trao đổi với người bệnh để giảm thiểu các cảm giác khó chịu cho họ
METHADONE: ƯU ĐIỂM
Chương iii – Bài 3.6 153
Bản chiếu 19
Nói: Có một số ảnh hưởng sức khỏe dài hạn do điều trị methadone. Những ảnh hưởng này là:
‚ Tăng cân, có thể do tác dụng giữ nước và thay đổi chế độ ăn
‚ Làm giảm tiết nước bọt – có thể gây ra một số vấn đề về răng
‚ Thay đổi nội tiết tố - có thể dẫn đến liệt dương, giảm ham muốn tình dục, làm thay đổi chu kỳ kinh nguyệt
‚ Có thể có hại nếu có một số bệnh tiềm tàng khác, ví dụ như bệnh thận, gan Một số ảnh hưởng này sẽ mất đi khi liều được điều chỉnh
Nguy cơ quá liều methadone cao hơn ở giai đoạn dò liều, khi độ dung nạp chất dạng thuốc phiện còn thấp và liều chưa được ổn định. Cũng có nguy cơ nếu dùng các chất ức chế hệ thần kinh trung ương như thuốc ngủ benzodiazepines hoặc rượu với số lượng lớn. Nguyên nhân gây tử vong do quá liều là do ức chế hô hấp do tác dụng của thuốc đối với não. Việc đến uống thuốc hàng ngày cũng làm mất khá nhiều thời gian. Điều này có thể sẽ là một khó khăn lớn khi bệnh nhân muốn tìm kiếm việc làm.
Một số bệnh nhân phàn nàn rằng các triệu chứng cắt cơn kéo dài sau khi ngừng tham gia điều trị bằng methadone. Những triệu chứng này có thể kéo dài hàng tuần, tháng và nhiều người cảm thấy lo lắng.

Cảm giác khó chịu ban đầu trong giai đoạn dò liều
Vẫn duy trì tình trạng lệ thuộc vào thuốc methadone
Có thể bị quá liều, đặc biệt khi sử dụng đồng thời nhiều loại chất gây nghiện
Cần phải cam kết dành thời gian và đến uống hàng ngày Nguy cơ thất thoát, sử dụng sai mục đích
Triệu chứng cai diễn ra chậm, nhưng có thể kéo dài đến vài tháng
Kéo dài hội chứng cai
Có các tác dụng phụ
METHADONE: NHƯỢC ĐIỂM
154 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 20
Nói: So sánh trực tiếp giữa methadone và heroin cho thấy một số lợi ích của điều trị bằng methadone. Các bạn còn thấy có lợi ích nào khác từ điều trị bằng methadone không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi, bổ sung những điểm còn thiếu nếu có hoặc giải thích.
Sau khi kết thúc thảo luận nhóm, nên cho nghỉ 10 phút để mọi người thư giãn trước khi chuyển sang nội dung tiếp theo.
Nói: Chúng ta sẽ nghỉ giải lao 10 phút, các bạn có thể đứng dậy, duỗi chân tay và thư giãn một chút trước khi đi tiếp
SO SÁNH METHADONE VÀ HEROIN

METHADONE HEROIN
Hiệu quả bằng đường uống Không có nguy cơ lây nhiễm Không hiệu quả bằng đường uống Sử dụng bằng đường tiêm chích là nguy cơ lây nhiễm bệnh tật
Tác động kéo dài. Uống 1 lần mỗi ngày Tác động ngắn. Cần phải dùng nhiều lần một ngày
Không có cảm giác ngủ gà, lơ mơ, không phê Có thể gây nên ngủ gà và/hoặc phê đáng kể.
Chương iii – Bài 3.6 155
Bản chiếu 21
Nói: Buprenorphine để điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện có dạng viên đặt dưới lưỡi. Buprenorphine là loại thuốc nửa đồng vận, có nghĩa là mặc dù buprenorphine có thể tạo ra các tác dụng điển hình của CDTP nhưng tác dụng tối đa của nó lại kém hơn tác dụng của heroin và methadone nhiều. Trong giai đoạn dò liều, do tác dụng trần đối với hệ hô hấp thấp nên buprenorphine an toàn hơn đối với nguy cơ quá liều khi so với chất đồng vận toàn phần như methadone.
Tác dụng tối đa của buprenorphine cho thấy khi sử dụng liều từ 16-32 mg. Liều dùng cao hơn thường không tạo ra cảm giác phê hơn nhưng sẽ làm tăng thời gian hoạt tính và do đó bệnh nhân đến uống thuốc thưa hơn.
Ngừng sử dụng buprenorphin dễ hơn nhiều so với ngừng sử dụng methadone.
Vì tác dụng đồng vận giống CDTP của nó, buprenorphine có thể bị lạm dụng, đặc biệt là ở những người chưa lệ thuộc về thể chất với CDTP. Naloxone được thêm vào với buprenorphine để làm giảm nguy cơ dùng sai mục đích và lạm dụng sản phẩm bào chế theo kiểu phối hợp này. Buprenorphine đặt dưới lưỡi có khả năng hấp thu cao, trong khi naloxone đặt dưới lưỡi thì hấp thu lại kém hơn. Do đó, khi sử dụng viên buprenorphine/naloxone dùng dưới lưỡi, tác dụng đồng vận opioid của buprenorphine sẽ chiếm ưu thế, và naloxone không dẫn đến hội chứng cai CDTP ngay ở người nghiện CDTP. Nhưng khi dùng sản phẩm buprenorphine/naloxone qua đường tiêm, naloxone lại có tác dụng sinh học tốt và do đó gây nên hội chứng cai ở những người nghiện CDTP. Vì vậy, cần hạn chế việc tiêm chích bất hợp pháp buprenorphine. Một nhược điểm của buprenorphine là giá thành của nó còn cao.

nguồn: Substance Abuse and Mental Health Services Administration Center for Substance Abuse Treatment (SAMHSA) website. About Buprenorphine Therapy. Available at: http://buprenorphine.samhsa.gov. Accessed June 24, 2004.
Viên đặt dưới lưỡi
Là chất nửa đồng vận: có thể tạo ra tác dụng kiểu CDTP nhưng ảnh hưởng tối đa (“tác dụng trần”) kém hơn heroin và methadone
Làm giảm nguy cơ quá liều và ít ảnh hưởng đến hô hấp
Viên mono (Subutex) hoặc phối hợp (Suboxone)
- Viên phối hợp buprenorhine/naloxone có thể làm giảm khả năng lạm dụng thuốc
- Naloxone không hấp thu dưới lưỡi – tác dụng đối kháng chỉ khi được tiêm vào cơ thể
BUPRENORPHINE
Substance Abuse and Mental Health Services Administration Center for Substance Abuse Treatment. About Buprenorphine Therapy.
156 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 22
Khả năng bám dính vào thụ thể CDTP rất cao
Liều trung bình: 12-16 mg
Khi đã ổn định, thời gian bán huỷ là 48-56 giờ và đôi
khi chỉ cần 3-4 liều trong một tuần.
Tương đối dễ dừng điều trị
BUPRENORPHINE: ĐẶC ĐIỂM
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu.
Chương iii – Bài 3.6 157
Bản chiếu 23
Nói: Thuốc nửa đồng vận (buprenorphine) tác động lên não bộ như thế nào? Buprenorphine, là chất bán đồng vận, gắn vào các thụ thể đặc hiệu đối với dẫn chất thuốc phiện để tạo ra đáp ứng theo cơ chế giống như heroin và methadone. Tác dụng đồng vận của buprenorphine tăng lên đồng biến với sự tăng liều sử dụng cho tới liều duy trì ổn định và không tăng lên nữa cho dù có tăng liều. Người ta gọi đó là “tác dụng trần”. Tác dụng này làm cho buprenorphine không thể tạo ra một mức phê bằng với mức phê do heroin tạo nên. Điều đó cũng có nghĩa là nó ít tác động lên hệ hô hấp hơn và do đó làm giảm nguy cơ quá liều trong giai đoạn dò liều.
Do đó, buprenorphine có nguy cơ lạm dụng, nghiện và các tác dụng phụ thấp hơn so với các chất đồng vận CDTP toàn phần. Thực tế, do tính bám dính vào thụ thể rất cao nên với liều cao trong những hoàn cảnh nhất định, buprenorphine có thể thực sự thay thế các chất đồng vận toàn phần khỏi thụ thể và ngăn chặn toàn bộ tác động của các chất này. Do đó, nó có thể dẫn đến hội chứng cai nếu điều trị cho những người nghiện CDTP trong khi chất đồng vận toàn phần vẫn lưu hành trong máu.

Nguồn: Substance Abuse and Mental Health Services Administration Center for Substance Abuse Treatment (SAMHSA) website. About Buprenorphine Therapy. Available at: http://buprenorphine.samhsa.gov Accessed June 24,2004.
Chất nửa đồng vận (như buprenorphine) bám vào các thụ thể đặc hiệu của CDTP tạo ra đáp ứng (như hưng phấn) tương tự như methadone
Buprenorphine không tạo ra cùng một mức phê như heroin và methadone
CHẤT NỬA ĐỒNG VẬN (BUPRENORPHINE) TÁC ĐỘNG LÊN NÃO BỘ NHƯ THẾ NÀO?
Substance Abuse and Mental Health Services Administration Center for Substance Abuse Treatment. About Buprenorphine Therapy.
Thụ thể Thụ thể
Chất nửa đồng vận Chất đối kháng

158 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 24
Nói: Naltrexone là một chất đối kháng. Nó được dùng hàng ngày bằng đường uống trong một thời gian nhất định.
Người được chỉ định điều trị phải được cắt cơn hoàn toàn và không sử dụng CDTP trong vài ngày trước khi điều trị naltrexone.
Khi được sử dụng theo cách này, tất cả mọi tác dụng của dẫn chất thuốc phiện nếu được bệnh nhân sử dụng, bao gồm cả cảm giác phê, hoàn toàn bị ngăn chặn. Điều trị này được coi là điều trị đối kháng với CDTP.
Naltrexone liên quan đến nguy cơ cao bị sốc quá liều nếu không được giám sát cẩn thận. Naltrexone không được sử dụng rộng rãi như buprenorphine và methadone.

Điều trị đối kháng
Dùng bằng đường uống hàng ngày
Người sử dụng phải được cắt cơn và không sử dụng dẫn chất thuốc phiện trong vài ngày trước khi bắt đầu sử dụng naltrexone
Mọi tác dụng của việc tự sử dụng dẫn chất thuốc phiện, bao gồm cảm giác phê đều bị ngăn chặn hoàn toàn
Tuân thủ điều trị kém trừ khi có động cơ cao
NALTREXONE
Chương iii – Bài 3.6 159
Bản chiếu 25
Nói: Chất đối kháng là chất hóa học gắn vào thụ thể và ngăn chặn các thụ thể này, nó không tạo ra đáp ứng gì và ngăn ngừa các chất hóa học khác (ma túy) bám vào được các thụ thể CDTP. Naltrexone là chất đối kháng bám vào các thụ thể dẫn chất thuốc phiện và ngăn heroin bám vào các thụ thể đó.
Nguồn: National Institutes of Health. The Brain: Understanding Neurobiology. Lesson 5: Drug Addiction Is a Disease, So What Do We Do about It?
Available at: http://science-education.nih.gov Accessed June 29, 2004.
Một chất đối kháng (như là naltrexone) gắn vào thụ thể và chẹn các thụ thể này
Không tạo ra đáp ứng gì và còn ngăn ngừa các hóa chất khác (chất gây nghiện hoặc các chất đồng vận khác) khỏi bám vào các thụ thể đó
CHẤT ĐỐI KHÁNG (NALTREXONE) TÁC ĐỘNG LÊN NÃO NHƯ THẾ NÀO?
Chất đồng vận Chất đối kháng
Thụ thể Thụ thể

160 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 26
Nói: Có những điểm khác biệt rất rõ rệt giữa điều trị bằng thuốc đồng vận và điều trị bằng thuốc đối kháng. Hơn nữa mức độ chấp nhận và duy trì trong điều trị cũng rất khác nhau. Điều trị bằng chất đồng vận với dẫn chất thuốc phiện thường hấp dẫn bệnh nhân hơn và duy trì họ trong chương trình điều trị lâu hơn so với điều trị bằng thuốc đối kháng.

Điều trị thay thế Điều trị ngăn chặn
Giảm triệu chứng cai Cần phải cắt cơn trước khi đều trị
Làm giảm sự thèm nhớ ma túy Có thể làm giảm thèm nhớ
Gây nên lệ thuộc về thể chất Không gây nên lệ thuộc về thể chất
Ngăn tác động của heroin Ngăn tác động của heroin
Methadone Naltrexone
Buprenorphine (nửa đồng vận) Naloxone (cấp cứu khi bị quá liều)
Chất đồng vận Chất đối kháng
Chương iii – Bài 3.6 161
Bản chiếu 27
Nói: Chúng ta hãy cùng nhắc lại những điểm mấu chốt cần quan tâm về các phương pháp điều trị bằng thuốc:
‚ Duy trì chất đồng vận (methadone hoặc buprenorphine) làm giảm đáng kể việc sử dụng heroin và các tác hại của nó lên sức khỏe, các hậu quả về pháp luật, tài chính, việc làm và về xã hội do nghiện heroin gây nên
‚ Vấn đề tuân thủ điều trị làm hạn chế hiệu quả điều trị của naltrexone
‚ Điều trị kết hợp (cả thuốc và tư vấn) là biện pháp hiệu quả nhất.
Duy trì chất đồng vận (methadone hoặc buprenorphine) làm giảm đáng kể việc sử dụng heroin và các tác hại do sử dụng heroin như sức khỏe, luật pháp, tài chính, đào tạo nghề và xã hội Vấn đề tuân thủ điều trị làm giảm hiệu quả của naltrexone
Điều trị phối hợp (thuốc và tư vấn) là hiệu quả nhất
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH TRONG ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN MA TÚY BẰNG THUỐC
162 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 28
Nói: Chúng ta đã nói rất nhiều về điều trị hỗ trợ bằng thuốc cho người nghiện ma túy. Bây giờ, hãy thảo luận về các biện pháp điều trị hành vi.
ĐIỀU TRỊ HÀNH VI SỬ DỤNG MA TÚY
Chương iii – Bài 3.6 163
Bản chiếu 29
Nói: Mục tiêu đầu tiên của điều trị hành vi sử dụng ma túy là giúp cho những người nghiện ma túy học được kĩ thuật dừng sử dụng ma túy và thích ứng với lối sống không sử dụng ma túy.
Giúp cho những người nghiện ma túy học được các kĩ thuật dừng sử dụng ma túy và thích ứng với lối sống không có ma túy
MỤC TIÊU CHÍNH CỦA ĐIỀU TRỊ HÀNH VI SỬ DỤNG MA TÚY LÀ GÌ?
164 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 30
Nói: Đối với những người nghiện, ma túy mang lại sự sung sướng và là yếu tố thiết yếu trong cuộc sống của họ. Muốn thay đổi đòi hỏi họ phải nhận thức được rằng:
‚ Hành vi nghiện ma túy là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề
‚ Lợi ích của việc dừng sử dụng ma túy hơn hẳn lợi ích khi sử dụng ma túy
‚ Duy trì trạng thái không sử dụng ma túy (hưởng thụ cuộc sống không ma túy) là có thực và có thể thực hiện được
‚ Mặc dù có thể thất bại trước đây, người nghiện ma túy vẫn có thể thành công trong việc ngừng sử dụng ma túy và tránh xa khỏi ma túy.
Trong khóa đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này, các bạn sẽ học cách giúp khách hàng thay đổi hành vi của họ và cung cấp các chiến lược hỗ trợ người sử dụng ma túy giảm và kiêng sử dụng ma túy nếu họ mong muốn.

Sự thay đổi đòi hỏi bệnh nhân nhận thức được:
- Hành vi nghiện đã gây ra những vấn đề rắc rối
- Lợi ích của việc dừng sử dụng ma túy hơn hẳn lợi ích của việc sử dụng ma túy
- Duy trì bền vững trạng thái không sử dụng (thích thú với cuộc sống không ma túy) là có thực và có thể đạt được
- Mặc dù những lần trước đã thất bại, người nghiện vẫn có thể dừng sử dụng và tránh xa khỏi ma túy
ĐỘNG VIÊN BỆNH NHÂN NGỪNG SỬ DỤNG MA TÚY NHƯ THẾ NÀO?
Chương iii – Bài 3.6 165
Bản chiếu 31
Nói: Hiện nay, có rất nhiều biện pháp điều trị hành vi sử dụng ma túy hiệu quả. Trong bài này, chúng ta sẽ thảo luận về tư vấn tâm lí, điều trị hành vi nhận thức, và chương trình phục hồi 12 bước.
Tư vấn tâm lí
Điều trị hành vi nhận thức
Chương trình phục hồi 12 bước
CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ HÀNH VI
166 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 32
Nói: Điều trị tâm lí bao gồm một loạt các phương pháp điều trị không dùng thuốc, để điều trị rối loạn do nghiện. Nhiều phương pháp bắt nguồn từ thuyết về học tập xã hội. Chúng có chung một nguyên lí là hành vi lạm dụng ma túy là do học từ người khác trong môi trường xã hội và có thể được thay thế bằng các hành vi mới, được xã hội chấp nhận, cho dù nó có có thể bị tác động bởi yếu tố gen hoặc sinh học.
Tư vấn tâm lí là công cụ rất quan trọng trong điều trị nghiện ma túy. Nó giúp động viên bệnh nhân ngừng sử dụng ma túy. Tư vấn tâm lí chú trọng tới những yếu tố cám dỗ về hành vi, xã hội và tâm lí khiến cho người bệnh tiếp tục sử dụng ma túy. Đặc biệt, nó cải thiện chức năng xây dựng mối quan hệ giữa người với người, hướng dẫn các kĩ năng đối phó với các vấn đề trong gia đình, áp lực từ phía bạn bè, những người sử dụng ma túy và dạy cho họ các kĩ thuật dự phòng tái nghiện.
Phương pháp điều trị tâm lí phổ biến nhất mà đã hỗ trợ từ kinh nghiệm thực tế bao gồm những can thiệp ngắn gọn, phương pháp động viên và các hình thức liệu pháp hành vi nhận thức như đào tạo kĩ năng đối phó với cuộc sống không ma túy, dự phòng tái nghiện và liệu pháp hành vi cho cặp bạn tình.

Động viên bệnh nhân ngừng sử dụng ma túy
Tác động vào các yếu tố cám dỗ về hành vi, xã hội,tâm lí có thể dẫn đến tiếp tục sử dụng ma túy
- Cải thiện quan hệ với mọi người
- Dạy các kĩ năng đối phó với các vấn đề trong gia đình, áp lực từ bạn bè, những người đang sử dụng ma túy
- Dạy các kĩ thuật dự phòng tái nghiện
VAI TRÒ CỦA TƯ VẤN TÂM LÍ (1)
Chương iii – Bài 3.6 167
Bản chiếu 33
Nói: Tư vấn động viên bệnh nhân thay đổi lối sống bằng cách xây dựng những hoạt động thay thế khác và tăng cường tham gia vào các hoạt động xã hội, dạy nghề và gia đình mà không có ma túy. Tư vấn tâm lí giải quyết các vấn đề là hậu quả của nhiều năm nghiện ma túy (ví dụ như các vấn đề về xã hội, pháp luật, công việc, sức khỏe, tâm lý và gia đình) và tăng cường sự tuân thủ theo liệu trình điều trị. Ví dụ, tư vấn làm tăng tỉ lệ duy trì tham gia chương trình điều trị và tuân thủ điều trị thuốc.
Can thiệp tâm lí xã hội có thể được áp dụng như một can thiệp điều trị độc lập hoặc gắn kết với các dịch vụ điều trị bằng thuốc. Can thiệp tâm lí xã hội được sử dụng để tăng cường mong muốn và cam kết thay đổi cho bệnh nhân, và dạy họ các kỹ năng duy trì sự thay đổi đó.

Động viên bệnh nhân tự thay đổi lối sống
- Xây dựng các hoạt động giải trí, hưởng thụ thay thế
- Tăng cường sự tham gia của khách hàng vào các hoạt động xã hội, dạy nghề, gia đình, mà không có ma túy.
Giải quyết các vấn đề khó khăn do hậu quả sau nhiều năm nghiện (ví dụ như các vấn đề về xã hội, luật pháp, việc làm, sức khỏe, tâm lí và gia đình)
Tăng cường sự tuân thủ với liệu pháp điều trị
- Tăng tỉ lệ duy trì trong chương trình điều trị
- Tăng sự tuân thủ với điều trị thuốc
VAI TRÒ CỦA TƯ VẤN TÂM LÍ (2)
168 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 34
Nói: Can thiệp nhận thức hành vi bao gồm một loạt các phương pháp mà nó chủ yếu dựa vào những nguyên tắc học tập và quan điểm cho rằng hành vi luôn chịu ảnh hưởng bởi quá trình nhận thức. Hầu hết các phương pháp điều trị đã có bằng chứng nghiên cứu đều bắt nguồn từ liệu pháp nhận thức hành vi. Thành công nổi bật nhất trong các phương pháp này là đào tạo kĩ năng đối phó với cuộc sống không ma túy và các chiến lược dự phòng tái nghiện.
Liệu pháp nhận thức hành vi được dựa trên các kĩ năng và kĩ thuật cụ thể sau:

‚ Lượng giá tình huống nguy cơ cao
‚ Đối phó với cơn thèm nhớ và sự thôi thúc sử dụng ma túy
‚ Quản lí và kiểm soát các suy nghĩ về ma túy
‚ Giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định
‚ Kĩ năng từ chối ma túy
‚ Lập kế hoạch trong trường hợp khẩn cấp
Tái nghiện khá phổ biến trong điều trị cai nghiện bằng thuốc, với khoảng 60% bệnh nhân tái nghiện trong vòng 12 tháng. Các bằng chứng cho thấy những tình huống cụ thể và các trạng thái tâm lí tình cảm có liên quan chặt chẽ với tình trạng tái nghiện. Các yếu tố như trạng thái cảm xúc tiêu cực, mâu thuẫn cá nhân và áp lực xã hội đều liên quan đến nguy cơ tái sử dụng ma túy. Dự phòng tái nghiện không chỉ là những can thiệp cụ thể mà là một loạt những chiến lược nhằm giúp bệnh nhân duy trì lợi ích điều trị.

Các nội dung chủ yếu
- Đánh giá tình trạng nguy cơ cao
- Đối phó với cơn thèm nhớ và sự thôi thúc sử dụng ma túy
- Quản lí các suy nghĩ về ma túy
- Giải quyết vấn đề và ra các quyết định
- Kĩ năng từ chối ma túy
- Lập kế hoạch trong trường hợp khẩn cấp
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI LÀ GÌ ? (1)
Chương iii – Bài 3.6 169
Bản chiếu 35
Nói: Liệu pháp nhận thức hành vi sử dụng các chiến lược sau:
‚ Thiết lập mối quan hệ hợp tác, tích cực
‚ Tích cực củng cố sự thay đổi hành vi
‚ Cung cấp những phản hồi hiệu chỉnh khi cần thiết
‚ Cung cấp chương trình và mong đợi cụ thể để điều trị, và các hoạt động hàng ngày – bao gồm lập thời gian biểu, các cuộc họp tự giúp đỡ, bài tập, công việc
‚ Sử dụng đóng vai, tưởng tượng hình ảnh, dừng suy nghĩ (một cách để ngăn những suy nghĩ có thể có hại hoặc dẫn đến hành vi có hại), dạy kĩ năng thay đổi môi trường hoặc hành vi.
Các biện pháp:
- Thiết lập mối quan hệ hợp tác và tích cực
- Tích cực củng cố sự thay đổi hành vi
- Cung cấp phản hồi điều chỉnh khi cần thiết
- Đưa ra một chương trình rõ ràng và những mong đợi cụ thể về điều trị và các hoạt động hàng ngày – lập thời gian biểu, các cuộc họp tự giúp đỡ, luyện tập, công việc
- Sử dụng hình thức đóng vai, tưởng tượng hình ảnh, dừng suy nghĩ, dạy các kĩ năng thay đổi môi trường và hành vi
LIỆU PHÁP NHẬN THỨC HÀNH VI LÀ GÌ ? (2)
170 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Bản chiếu 36
Nói: Chương trình phục hồi 12 bước như nhóm nghiện thuốc phiện ẩn danh (Nacrotics Anonymous (NA)) và nghiện rượu ẩn danh (Alcoholics Anonymous (AA)) dựa trên sự dẫn dắt, hỗ trợ của đồng đẳng, các cuộc họp nhóm hỗ trợ lẫn nhau và các hoạt động khác. Các thành viên trong nhóm chia sẻ các nguyên lí rằng nghiện là một bệnh bao gồm tổn thương về thể chất, tinh thần và cảm xúc mà cần có 12 bước để phục hồi.
Các thành viên tới cuộc họp hoặc dùng điện thoại để liên hệ thay cho việc sử dụng ma túy. Những người đang sử dụng ma túy được giúp đỡ bằng những khẩu hiệu không sử dụng ma túy và nhiều hình thức nhắc nhở khác.

Hướng dẫn của nhóm đồng đẳng, các cuộc họp nhóm hỗ trợ lẫn nhau và các hoạt động khác Chia sẻ các nguyên lí
- Nghiện là 1 bệnh bao gồm thành phần thể chất, tinh thần và cảm xúc
- Phục hồi 12 bước
Họp và liên hệ (thay cho việc sử dụng ma túy)
Khẩu hiệu và thông điệp nhắc nhở
CHƯƠNG TRÌNH 12 BƯỚC GIÚP NGƯỜI SDMT NHƯ THẾ NÀO? (1)
Chương iii – Bài 3.6 171
Bản chiếu 37
Nói: Quá trình này gồm:
‚ Thừa nhận rằng một người không thể tự giúp họ kiểm soát tình trạng nghiện hoặc ép buộc sử dụng
‚ Nhận biết được những nguồn năng lựợng có thể tạo sức mạnh cho họ
‚ Xem xét lại những sai lầm trước đây với sự hỗ trợ của người khác (người có kinh nghiệm)
‚ Chỉnh sửa những sai lầm đó
‚ Học cách sống cuộc sống mới bằng các hành vi mới
‚ Giúp đỡ người khác cũng phải chịu đựng tình trạng nghiện hoặc ép buộc như họ Những chương trình phục hồi này bắt đầu với những bệnh nhân thú nhận là họ có vấn đề về ma túy và họ không thể tự giúp đỡ chính bản thân mình. Chương trình khuyến khích bệnh nhân tự thú nhận điều này, và chương trình thường bao gồm thành tố tinh thần/ tôn giáo. Chương trình cũng giới thiệu bệnh nhân tới nhóm người có cùng hoàn cảnh để họ có được sự chấp nhận về mặt xã hội từ những người đồng cảnh nghiện và có cảm giác cộng đồng.
Bắt đầu với bệnh nhân công nhận rằng họ có các vấn đề do ma túy gây nên và họ không thể tự mình giải quyết được
- Các vấn đề liên quan đến nhụt chí, đầu hàng
- Thường (không phải luôn luôn) có yếu tố tinh thần rất mạnh mẽ
Cung cấp, giới thiệu tham gia các nhóm người có vấn đề tương tự
- Tạo ra sự chấp nhận xã hội với những người sử dụng ma túy
- Tạo ra cảm giác có cộng đồng và những người khác cùng thông cảm, gúp đỡ
CHƯƠNG TRÌNH 12 BƯỚC GIÚP NGƯỜI SDMT NHƯ THẾ NÀO? (2)
172 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 38
Nói: Trong quá trình điều trị, những thành viên khác của nhóm đưa ra các ví dụ làm sao có thể đối phó với những vấn đề liên quan đến ma túy. Chương trình cung cấp sự hỗ trợ mạnh mẽ và động viên các thành viên nhóm tiếp tục không sử dụng ma túy.
Những thành viên khác trong nhóm, đưa ra các ví dụ về cách đối phó với những vấn đề do ma túy gây ra Các thành viên hỗ trợ mạnh mẽ và động viên người sử dụng ma túy dừng, kiêng sử dụng
CHƯƠNG TRÌNH PHỤC HỒI 12 BƯỚC GIÚP NGƯỜI SDMT NHƯ THẾ NÀO?(3)
Chương iii – Bài 3.6 173
Bản chiếu 39
Hướng dẫn giảng dạy: Tóm tắt những nội dung chính của bài học.
Thông tin tham khảo: Nếu không được điều trị, lệ thuộc ma túy sẽ dẫn đến tỉ lệ mắc bệnh và tử vong cao. Điều trị toàn diện làm giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử vong, và tăng cường sức khỏe và chức năng về học nghề, xã hội, tài chính, gia đình và pháp luật.
Mục đích lâu dài của điều trị ma túy là giúp cho bệnh nhân đạt được trạng thái không sử dụng ma túy lâu dài.
Mục tiêu trước mắt của điều trị ma túy là:
‚ Giảm sử dụng ma túy.
‚ Tăng cường khả năng của bệnh nhân để tự phục hồi chức năng.
‚ Giảm thiểu các biến chứng y tế và xã hội do lạm dụng ma túy gây nên.
Điểm then chốt là gì?
‚ Điều trị ma túy được phân làm 3 loại chính: điều trị hỗ trợ bằng thuốc, điều trị hành vi và nhóm tự hỗ trợ xã hội.
‚ 3 thuốc điều trị nghiện ma túy phổ biến nhất là : methadone, buprenorphine và naltrexone.
‚ Ở những bệnh nhân HIV(+), điều trị thay thế liên quan chặt chẽ tới việc duy trì sử dụng thuốc kháng vi rút và giảm tỉ lệ nhập viện.
‚ Mục tiêu đầu tiên của điều trị hành vi là giúp cho những người nghiện ma túy học cơ chế và phương pháp dừng sử dụng ma túy và đối phó với cuộc sống không ma túy.
Điều trị ma túy được phân làm 3 loại: điều trị hỗ trợ bằng thuốc, điều trị hành vi và phối hợp giữa điều trị hỗ trợ bằng thuốc và điều trị hành vi
3 thuốc điều trị nghiện ma túy phổ biến nhất là : methadone, buprenorphine và naltrexone
Mục tiêu đầu tiên của điều trị hành vi là giúp cho những người nghiện ma túy học các kĩ thuật để dừng sử dụng ma túy và chuẩn bị đương đầu với cuộc sống không có ma túy
TÓM TẮT
174 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 39 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và tham gia nhiệt tình trong những phần thảo luận. Hỏi xem họ có còn câu hỏi nào nữa không. Nếu có thì hãy trả lời những câu hỏi liên quan tới nội dung bài giảng. Nếu câu hỏi liên quan tới những bài học khác, hãy trả lời rằng những nội dung đó sẽ được đề cập tới trong những phần sau, và đề nghị họ ghi lại các câu hỏi đó cho các bài học tiếp theo.
giải thích từ ngữ 175
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị
nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
176 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
giải thích từ ngữ 177 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
178 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
giải thích từ ngữ 179 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
180 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
giải thích từ ngữ 181 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
182 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 4

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 4

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
1 CHƯƠNG 4 Phỏng vấn tạo động lực
Bài 4.1: Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi và các khái niệm cơ bản về phỏng vấn tạo động lực 3
Bài 4.2: Các nguyên tắc và các bước trong phỏng vấn tạo động lực 31
Unit 4.3: Gắn kêt phỏng vấn tạo động lực các giai đoạn thay đổi hành vi 81
4.1 Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi và các khái niệM cơ bản vể phỏng vấn tạo động LỰc
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuAN
I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
và những khái niệm cơ bản về phỏng vấn tạo động lực.
II. Thuyết trình 50 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày cho học viên về các giai đoạn thay đổi hành vi và các
giai đoạn này phù hợp như thế nào với những nguyên lí cơ bản trong phỏng vấn tạo động
lực.
III. Kết luận 9 phút
Nhắc lại những nội dung quan trọng trong bài học lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 4.1: Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi và các khái niệm cơ bản về phỏng vấn tạo động lực
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi và các giai đoạn này phù hợp như thế nào với những nguyên lí cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Sau bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu rõ về Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
‚ Biết các giả định bất lợi ngăn cản khách hàng thay đổi hành vi
‚ HIểu được các khái niệm cơ bản của phỏng vấn tạo động lực
‚ Hiểu cơ sở khoa học của can thiệp phỏng vấn tạo động lực
‚ Nhận biết sự tương tác giữa Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi vào phỏng vấn tạo động lực.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận toàn nhóm
‚ Bài tập nhóm nhỏ
‚ Đóng vai.
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Tài liệu phát tay số 4.1: Các giai đoạn của mô hình thay đổi hành vi
Chương iV – Bài 4.1 5
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
6 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 1
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ trao đổi về các giai đoạn thay đổi hành vi và cách áp dụng chúng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy. Một điều rất quan trọng là bạn cần hiểu được vì sao khách hàng đến với chúng ta để tham gia vào dịch vụ điều trị, vì hiểu được những lí do đó sẽ giúp bạn tìm được cách tốt nhất để giúp họ.
Vào dịp năm mới, chúng ta hay có phong tục là tự hứa với bản thân về một điều gì đó mà mình muốn thay đổi trong cuộc sống, một điều gì đó mình muốn làm khác so với trước. Bạn có thể nhớ được bạn đã hứa gì trong Tết năm ngoái không?

Hướng dẫn giảng dạy: Điều hành thảo luận nhóm lớn. Yêu cầu học viên trả lời các câu hỏi của bạn. Mục đích của hoạt động thảo luận này là giúp cho học viên hiểu được đôi khi chúng ta cam kết sẽ thực hiện một điều gì đó nhưng rồi sau đó lại quên ngay lập tức hoặc quyết định sẽ không thực hiện.
Nói: Đối với những bạn có thể nhớ được cam kết của mình, có bao nhiêu người trong số các bạn đã thực hiện thành công lời hứa đó? Bao nhiêu người vẫn đang hết sức cố gắng thực hiện điều mình đã cam kết?
Hướng dẫn giảng dạy: Tiếp tục thảo luận nhóm, động viên học viên trả lời.
Nói: Các bạn thấy không, một số người ra quyết định thay đổi hành vi và họ có thể duy trì được sự cam kết đó. Nhưng một số người khác thì khó khăn trong việc duy trì cam kết; họ có thể quên, bớt quan tâm, hoặc đi chệch hướng vì những ưu tiên khác. Hầu hết mọi người thường nghĩ rằng việc thay đổi hành vi cũng giống như động tác bật công tắc cho đèn sáng, bạn chỉ cần tách một cái và sau đó cuộc sống sẽ thay đổi ngay lập tức. Nhưng trên thực tế, sự thay đổi hành vi không diễn ra như vậy, đối với bất kỳ ai trong chúng ta và kể cả đối với người sử dụng ma túy cũng vậy.
CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI HÀNH VI VÀ CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC
Chương iV – Bài 4.1 7
Bản chiếu 1 (tiếp)
Để bắt đầu phần thảo luận của chúng ta, hãy lưu ý rằng một người trong quá trình quyết định thay đổi một vấn đề nào đó trong cuộc sống, cần phải trải qua các giai đoạn suy nghĩ rồi mới đi tới được quyết định đó. Trong bài này, chúng ta sẽ thảo luận về một mô hình mô tả các giai đoạn của quá trình này, mà chúng ta gọi là “các giai đoạn thay đổi hành vi”. Chúng ta cũng thảo luận về cách xác định xem hiện nay một khách hàng đang ở trong giai đoạn của quá trình thay đổi đó. Tùy thuộc vào việc họ đang ở giai đoạn nào mà chúng ta sẽ quyết định xem làm thế nào để có thể hỗ trợ họ một cách tốt nhất nhằm đạt được hành vi họ mong muốn. Chúng ta sẽ học cách tìm hiểu và xác định được mức độ nhiệt tình thực sự của họ đối với việc thay đổi hành vi. Sau đó, chúng ta sẽ học cách đối đáp với các câu trả lời của họ như thế nào để có thể khích lệ khách hàng thay đổi hành vi của họ.
8 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu rõ về Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
Hiểu được những giả định có thể cản trở khách hàng thay đổi hành vi
Hiểu được các khái niệm về phỏng vấn tạo động lực
Hiểu được cơ sở của can thiệp sử dụng phỏng vấn tạo động lực
Hiểu được mối liên kết giữa mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi và phỏng vấn tạo động lực
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng nội dung bản chiếu để trình bày cho học viên
Chương iV – Bài 4.1 9
Nói: Nào bây giờ, tôi sẽ giới thiệu với các bạn một mô hình mô tả các giai đoạn của quá trình thay đổi.
Thông tin tham khảo: Những người ở giai đoạn tiền dự định không nghĩ đến việc sẽ thay đổi hành vi sử dụng ma túy của họ trong thời gian trước mắt. Họ thường được xem là “những người sử dụng ma túy đang sung sướng”. Họ chỉ quan tâm đến những ích lợi mà họ có được do sử dụng ma túy và không để ý đến những vấn đề do ma túy gây nên. Họ có thể được nghe các thông điệp về những vấn đề đáng lo ngại nhưng không để ý đến những thông tin đó. Nếu những người trong giai đoạn tiền dự định đến gặp chúng ta để tìm kiếm sự giúp đỡ thì thường là do bị người khác gây áp lực: vợ, chồng (đe dọa sẽ ly dị), hoặc bố mẹ (đe dọa từ con), hoặc công an (đe dọa sẽ trừng phạt họ).
Ở giai đoạn dự định, người ta thường đã ý thức được hiện họ đang gặp nhiều rắc rối và đang cân nhắc lựa chọn hoặc sẽ buông trôi hoặc là thay đổi hành vi sử dụng ma túy của mình, nhưng vẫn chưa cam kết thực hiện một hành động nào để thay đổi. Họ có thể tự nói với bản thân như, “Tôi thực sự nên từ bỏ heroin” hoặc “Tôi nghĩ là tôi cần phải uống rượu ít đi”. Họ có thể bị kẹt trong giai đoạn này trong một thời gian dài. Đồng thời một người cũng có thể trở đi trở lại giữa giai đoạn tiền dự định và giai đoạn dự định một vài lần trước khi chuyển hẳn sang giai đoạn chuẩn bị. Những người ở giai đoạn dự định có thể đấu tranh tư tưởng cân nhắc giữa lợi ích của việc sử dụng ma túy và những tác hại của nó. Họ cũng có thể đánh giá lợi ích mà họ có được do sử dụng ma túy so với những sự nỗ lực, thời gian, năng lượng cần phải bỏ ra nếu thay đổi hành vi sử dụng ma túy của họ. Đặc điểm nổi bật của giai đoạn dự định là việc suy nghĩ nghiêm về túc những vấn đề rắc rối của việc sử dụng ma túy nhưng vẫn thường xuyên rơi vào trạng thái mơ hồ không biết có nên thay đổi hay không.
Ở giai đoạn chuẩn bị, người sử dụng bắt đầu nhìn nhận một cách nghiêm túc hơn về cái giá họ phải trả do sử dụng ma túy đó có thể liên quan đến yếu tố tài chính, xã hội, sức khỏe và pháp luật. Khách hàng cũng nhìn nhận rõ ràng hơn về hậu quả tiêu cực do uống rượu
Bản chiếu 3
CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI HÀNH VI
Quá trình thay đổi hành vi
Tái nghiện

Tiền dự định
Thay đổi kiến thức
Thay đổi thái độ
Thay đổi hành vi
Dự định
Chuẩn bị
Hành động
Duy trì
10 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 3 (tiếp)
bia hoặc sử dụng các ma túy khác và nhận thấy những hậu quả này là quá nặng nề so với những lợi ích do sử dụng ma túy mang lại. Họ có thể đã thực hiện một số sự thay đổi nhỏ như là trì hoãn thời gian hút điếu thuốc lá đầu tiên vào buổi sáng. Những khách hàng ở trong giai đoạn này cần được động viên và hỗ trợ để họ có thể đề ra những mục tiêu thực tiễn và xây dựng một kế hoạch hành động. Mục tiêu của họ có thể chưa phải là việc cai nghiện hoàn toàn mà chỉ là giảm liều hoặc kiềm chế việc sử dụng ma túy. Đây là thời điểm tốt để bạn thảo luận với họ về những biện pháp khả thi để giúp họ đạt được mục đích. Giai đoạn hành động là giai đoạn khách hàng tích cực thực hiện các biện pháp thay đổi hành vi của họ nhưng chưa đạt được trạng thái ổn định. Trong giai đoạn này, bạn có thể bắt đầu động viên khách hàng tham gia các dịch vụ điều trị. Đây là thời điểm thuận lợi để hỗ trợ khách hàng cân nhắc những thay đổi mà họ có thể đạt được, dần dần từng bước. Bạn cũng cần phải nhận ra những khó khăn mà khách hàng gặp phải trong giai đoạn sớm này của quá trình thay đổi hành vi. Bạn cần giúp khách hàng đánh giá xem họ có được sự hỗ trợ mạnh mẽ của gia đình và xã hội hay không. Dựa vào kết quả đánh giá, bạn có thể huy động những nguồn hỗ trợ tiềm năng để giúp khách hàng đạt được mục tiêu của họ. Trong giai đoạn hành động, cũng cần phải giúp khách hàng xác định các tình huống nguy cơ cao và xây dựng các chiến lược đối phó phù hợp.
Ở giai đoạn duy trì, khách hàng đã thay đổi. Họ đã duy trì được hành vi mới trong một khoảng thời gian dài (ít nhất là 6 tuần). Ví dụ, một khách hàng có mục đích là hoàn toàn không sử dụng ma túy đang cố gắng phòng tái nghiện và đã đạt được những kết quả nhất định. Họ đang củng cố những thành tựu đã đạt được. Điều quan trọng là phải động viên việc duy trì những thay đổi này, giúp họ nhận ra và tận hưởng những thú vui không liên quan đến ma túy, và cần tiếp tục hỗ trợ để duy trì những thay đổi lối sống đó. Qua các buổi tư vấn định kì, bạn cần khen ngợi những cố gắng họ đã bỏ ra để duy trì sự thay đổi và giúp họ củng cố lòng tự tin. Giai đoạn duy trì cũng là thời điểm để cùng với khách hàng xem xét lại và xây dựng mục đích lâu dài.
Mô hình trên bản chiếu này được Prochaska và DiClemente xây dựng, đưa vấn đề tái nghiện vào như một phần của quá trình thay đổi thông thường. Tuy nhiên, nếu tư vấn viên thảo luận hoặc giảng dạy về tái nghiện cho khách hàng thì cần trang bị cho khách hàng các kĩ năng để họ không bị “vấp” và/hoặc giảm nguy cơ bị vấp vì vấp nhiều thì sẽ rơi vào tình trạng tái nghiện hoàn toàn.
Chỉ có một số ít khách hàng trải qua các giai đoạn của quá trình thay đổi hành vi theo một đường thẳng liên tục. Tư vấn viên cần xác định việc khách hàng có thể tái nghiện nhiều lần trong quá trình từ bỏ ma túy và tránh cảm thấy bất an khi một khách hàng tái nghiện. Một khách hàng có thể quay trở lại giai đoạn trước nhiều lần trước khi đạt được mục tiêu. Ví dụ: một khách hàng đang ở giai đoạn chuẩn bị có thể quyết định rằng “Làm việc này thật quá khó khăn” và chuyển về giai đoạn “những người sử dụng ma túy đang sung sướng” trong một thời gian. Nếu họ tái nghiện, họ có thể cảm thấy ngượng, có lỗi và xấu hổ. Họ có thể cảm thấy đó là sự thất bại. Tuy nhiên, mỗi lần tái nghiện như vậy là họ lại có thêm thông tin và trải nghiệm về hành vi và có thể sử dụng những thông tin và trải nghiệm đó cho những nỗ lực thay đổi lần sau.
Chương iV – Bài 4.1 11
Bản chiếu 3 (tiếp)
Một công việc quan trọng mà người tư vấn phải thực hiện là đánh giá khách hàng. Biết được khách hàng đang ở giai đoạn nào trong quá trình thay đổi hành vi sẽ giúp tư vấn viên có thể quyết định nên cung cấp dịch vụ can thiệp nào là phù hợp nhất cho khách hàng đó. Ví dụ về các dịch vụ can thiệp đối với khách hàng ở từng giai đoạn như sau:
Tiền dự định: Khuyên/cung cấp thông tin (VD: tờ rơi), chiến lược giảm thiểu tác hại và các vật dụng hỗ trợ (bao cao su, phát bơm kim tiêm sạch)
Dự định: Đánh giá các vấn đề, giáo dục, nêu ra sự không nhất quán
Chuẩn bị: Đưa ra quyết định, xây dựng kế hoạch hành động
Hành động: Giải quyết vấn đề, đề ra mục tiêu, phản hồi và hỗ trợ
Duy trì: Xây dựng tính bền bỉ, tự kiểm soát, kết cấu lại nhận thức, xác định được các tình huống nguy cơ cao, phản hồi và hỗ trợ.
Tái nghiện: Hỗ trợ, bình thường hóa tái nghiện, chia sẻ thông tin, học tập từ tái nghiện
Nói: Có một khía cạnh thú vị nữa của biểu đồ mà tôi muốn thảo luận ở đây. Bạn có thể thấy phía bên phải của biểu đồ có sự kết nối giữa các giai đoạn thay đổi hành vi và sự thay đổi về kiến thức và thái độ (bên cạnh việc thay đổi hành vi). Bạn chỉ có thể thực sự thay đổi hành vi khi bạn có đủ kiến thức về lí do bạn cần thay đổi hành vi đó. Bạn cũng sẽ không thay đổi một hành vi cho đến khi thái độ của bạn về hành vi đó cũng như các hậu quả của nó cũng thay đổi. Cuối cùng, bạn cần có đủ các kĩ năng cần thiết để tiến hành thay đổi.
12 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Đối với bệnh nhân với động cơ thay đổi ở các mức độ khác nhau, PVTĐL có thể được sử dụng để giúp cho họ đạt được và duy trì mục tiêu của họ. Phỏng vấn TĐL là phương pháp trao đổi thông tin trực tiếp, lấy khách hàng làm trung tâm, nhằm mục đích giúp khách hàng tìm hiểu và giải quyết được sự mơ hồ, mâu thuẫn trong tư tưởng của họ về việc sử dụng ma túy và chuyển tới giai đoạn tiếp theo trong quá trình thay đổi hành vi. Phương pháp này đặc biệt hữu dụng khi làm việc với khách hàng trong giai đoạn dự định, tuy nhiên những nguyên lí và kĩ năng của nó thì quan trọng đối với khách hàng ở tất cả các giai đoạn.
Phỏng vấn TĐL dựa trên sự hiểu biết rằng:

‚ Điều trị hiệu quả sẽ hỗ trợ cho quá trình thay đổi tự nhiên
‚ Tư vấn viên có thể giúp khách hàng có thêm động lực để thay đổi hành vi của họ
‚ Phong cách của một phương pháp can thiệp sẽ ảnh hưởng đến tính hiệu quả của phương pháp can thiệp đó. Ví dụ tư vấn với sự thấu cảm thường mang lai hiệu quả cao hơn hình thức tư vấn không thấu cảm
Đối với những khách hàng đã có động lực lớn để thay đổi, phỏng vấn TĐL giúp họ đạt được các mục tiêu mà họ đề ra.

PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC
Một hình thức tư vấn nhằm mục đích hỗ trợ các quyết định của bệnh nhân trong quá trình thay đổi các hành vi có hại
Có thể dễ dàng kết hợp trong quá trình tư vấn PVTĐL có thể hữu ích với người có “dự định” thay đổi hành vi nhưng vẫn có thể còn mâu thuẫn trong tư tưởng
Chương iV – Bài 4.1 13
Bản chiếu 5
Thông tin tham khảo: Kỹ thuật phỏng vấn TĐL rất hữu dụng vì những lí do sau:
‚ Khách hàng đến với tư vấn viên vì nhiều lí do khác nhau. Kĩ thuật PVTĐL tạo điều kiện thuận lợi để khách hàng cảm thấy thoải mái và cởi mở trao đổi.
‚ Nhiều người không nhận thấy là có mối liên quan giữa việc sử dụng ma túy với các vấn đề khó khăn khiến họ phải tìm đến dịch vụ tư vấn. Kĩ thuật PVTĐL giúp cho khách hàng nhận thức được sự không lô gíc nhất quán giữa hành vi của họ (việc sử dụng ma túy) và những vấn đề họ đang lo lắng (ví dụ, nó ảnh hưởng như thế nào đến những tham vọng, mục tiêu và giá trị quan trọng đối với họ). Nguyên tắc "tìm ra sự không nhất quán“ - nghĩa là giúp khách hàng nhận ra rằng, những gì họ mong muốn và những gì họ đang có ở hiện tại là không hề giống nhau - có thể có hiệu quả đặc biệt.
‚ PVTĐL có thể giúp khách hàng có thêm động lực để bắt đầu suy nghĩ về việc sử dụng ma túy và xây dựng ý chí quyết tâm thay đổi. PVTĐL tập trung vào kích thích động cơ bên trong của khách hàng để hướng tới sự thay đổi. Sử dụng kĩ thuật này không hàm ý đánh giá thấp những phương pháp tác động từ bên ngoài - những phương pháp đó vẫn có thể rất hiệu quả trong việc điều chỉnh hành vi. PVTĐL thậm chí có thể có tác dụng cả trong trường hợp khách hàng tìm đến với dịch vụ tư vấn chỉ tác động từ bên ngoài (ví dụ như bị cha mẹ hoặc công an ép phải đến).
‚ Kĩ thuật PVTĐL khác với các chiến lược tạo động cơ ở chỗ là những chiến lược này tập trung vào việc áp đặt để tạo ra sự thay đổi bằng những phương tiện bên ngoài, ví dụ như: bằng những lệnh cấm của hệ thống luật pháp, trừng phạt, sức ép xã hội, nếu thay đổi thì được thưởng tiền…
KỸ THUẬT PVTĐL HỮU ÍCH VÌ…
Khách hàng đến với tư vấn viên vì nhiều vấn đề khó khăn khác nhau
NHƯNG nhiều khách hàng không nhìn nhận được mối liên quan giữa việc sử dụng ma túy với những khó khăn mà họ muốn thảo luận
PVTĐL có thể tạo động lực để họ bắt đầu suy nghĩ về việc sử dụng ma túy và xây dựng ý chí quyết tâm thay đổi
PVTĐL có thể giúp khách hàng hiểu lí do họ muốn thay đổi
PVTĐL có thể giúp tư vấn viên áp dụng can thiệp phù hợp với khách hàng, dựa trên giai đoạn thay đổi hành vi của họ
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Có một số giả định nguy hiểm bạn không nên đặt ra bởi vì chúng có thể ảnh hưởng đến khả năng áp dụng phương pháp phỏng vấn tạo động lực của bạn và khiến cho khách hàng khó thay đổi hành vi hơn.
Điều đầu tiên là bạn tin rằng khách hàng phải thay đổi hành vi của họ. Cũng không nên có sẵn trong đầu ý nghĩ là mọi khách hàng đều thực sự muốn thay đổi và tất cả họ đều tràn đầy nhiệt huyết để bắt tay vào thực hiện. Nếu bạn có tư tưởng như vậy thì bạn cũng sẽ có một suy nghĩ chủ quan là: “Ồ, như vậy là mọi việc sẽ rất dễ dàng nếu khách hàng đều hiểu rất rõ về những việc họ cần phải thực hiện.” Nếu bạn có một tư tưởng cho rằng ai cũng nhiệt tình thay đổi thì bạn sẽ rất thất vọng. Thực tế là rất nhiều khách hàng là người ở giai đoạn tiền dự định mà thôi. Cũng rất nguy hiểm khi cho rằng lí do chính khiến khách hàng muốn thay đổi hành vi là vì họ muốn khỏe mạnh hơn. Sức khỏe thường không phải là mối quan tâm hàng đầu của nhiều người. Vậy nên khi trao đổi với khách hàng bạn cần phải chú ý lắng nghe để tìm hiểu xem yếu tố nào là quan trọng đối với khách hàng, chứ không nên chú tâm vào những điều bạn coi là quan trọng.
Bạn cũng không nên nghĩ rằng bất cứ khi nào khách hàng không thành công thì đó là lỗi của bạn và như vậy bạn đã thất bại. Nên nhớ một điều là bạn đang cố giúp đỡ họ. Nhưng bên cạnh việc bạn cố gắng tư vấn và hỗ trợ, khách hàng của bạn chính là người phải thực hiện việc thay đổi. Chúng ta cần nhớ rằng động viên một ai đó thay đổi không giống như bật đèn "tách" một cái là sáng. Động lực thay đổi của khách hàng có thể ở nhiều mức độ cao thấp khác nhau và chúng ta sẽ học cách xác định khách hàng đang ở mức độ nào để có thể hỗ trợ họ thay đổi. Không nên nghĩ rằng họ phải thực hiện thay đổi và phải thực hiện ngay lập tức. Đôi khi người ta chưa sẵn sàng cho việc thay đổi ngay mà họ cần có thêm thời gian, cho nên sẽ không ích lợi gì nếu chúng ta cứ cố gắng thuyết phục họ cần phải thay đổi ngay tức thì. Cũng không nên có tư tưởng là chúng ta phải nghiêm khắc cứng rắn với khách hàng, rằng nếu không nghiêm

1. Khách hàng phải thay đổi hành vi
2. Khách hàng muốn thay đổi hành vi
3. Sức khoẻ là động cơ chính của khách hàng
4. Nếu khách hàng không lựa chọn sự thay đổi thì coi như can thiệp đã thất bại
5. Khách hàng chỉ có 2 lựa chọn: hoặc thay đổi hoặc không
6. Bây giờ là lúc phải lựa chọn để thay đổi
7. Phương pháp cứng rắn là phương pháp tốt nhất
8. Tôi là chuyên gia, khách hàng phải tuân theo lời chỉ bảo của tôi
PVTĐL: 8 GIẢ ĐỊNH BẤT LỢI
Chương iV – Bài 4.1 15
Bản chiếu 6 (tiếp)
khắc cứng rắn thì họ sẽ không thay đổi hành vi. Tư tưởng này sẽ chỉ khiến cho khách hàng đối kháng mạnh mẽ hơn và không muốn thay đổi. Cuối cùng, không nên cho rằng khách hàng không biết gì cả và bạn mới là người biết điều gì là tốt nhất cho họ. Một tư vấn viên tốt sẽ biết lắng nghe và học hỏi từ khách hàng.
16 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Bản chiếu 7
Thông tin tham khảo: Phỏng vấn TĐL là kĩ thuật có thể áp dụng để hỗ trợ thay đổi đối với nhiều hành vi tiêu cực khác nhau.
Đánh giá giai đoạn thay đổi của khách hàng
Phỏng vấn TĐL có thể được sử dụng ở bất kì giai đoạn nào của quá trình thay đổi hành vi. Như đã thảo luận, việc đánh giá xem khách hàng đang ở giai đoạn nào là một bước vô cùng quan trọng nhằm giúp xác định xem phương pháp can thiệp nào là thích hợp nhất. Kĩ thuật PVTĐL có thể giúp khách hàng ở giai đoạn tiền dự định tăng thêm nhận thức, có thể giúp cho khách hàng đang ở giai đoạn dự định để họ có thể ra quyết định. Trong giai đoạn hành động và duy trì, kĩ thuật này có thể tiếp thêm sức mạnh hoặc nhắc nhở khách hàng về ý chí quyết tâm thay đổi hành vi. Sau khi tái nghiện, PVTĐL giúp khách hàng đánh giá lại động cơ của bản thân. Kĩ thuật này thường được sử dụng thành công nhất đối với các khách hàng đang ở giai đoạn dự định, khi họ vẫn còn chưa rõ ràng về việc có nên thay đổi hay không.
Tăng cường ý chí quyết tâm để thay đổi hành vi
PVTĐL tạo cơ hội cho khách hàng tìm hiểu về những lợi ích và cái giá phải trả của một quyết định cụ thể. Việc cân nhắc lợi ích – giá phải trả có thể giúp một số khách hàng chuyển tiếp sang giai đoạn hành động hay duy trì hành vi hiện tại khi gặp phải khó khăn. Làm rõ hơn các vấn đề
Bên cạnh việc giúp khách hàng tăng thêm ý chí quyết tâm thay đổi, PVTĐL có thể giúp khách hàng nhận thức rõ về giá phải trả và lợi ích của việc sử dụng ma túy và xác định mục tiêu cho tương lai.
ÁP DỤNG KĨ THUẬT PVTĐL TRONG TƯ VẤN
Áp dụng với hầu hết các hành vi
Đánh giá giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng
Tăng cường quyết tâm thay đổi
Làm rõ các vấn đề và phương pháp giải quyết các vấn đề đó
Giúp đánh giá mục đích
Chương iV – Bài 4.1 17
Bản chiếu 7 (tiếp)
Đánh giá
Khi khách hàng xác định được lợi ích và cái giá phải trả của hành vi hiện tại thì mục đích sống của họ và những mục tiêu để đạt được mục đích đó sẽ trở nên rõ ràng hơn. PVTĐL giúp khách hàng khám phá thông tin mà cả khách hàng và tư vấn viên có thể sử dụng để thay đổi.
Khi khách hàng quyết định không thay đổi
Khi còn ở giai đoạn tiền dự định thì khách hàng có thể vẫn còn cảm thấy muốn duy trì việc sử dụng ma túy. Vì kỹ thuật này là một công cụ để giúp cho việc ra quyết định của khách hàng cho nên tư vấn viên cần chấp nhận quyết định không thay đổi của khách hàng. Tuy nhiên, sử dụng PVTĐL trong giai đoạn tiền dự định, mặc dù khách hàng có thể quyết định tiếp tục sử dụng ma túy, vẫn giúp ích cho quá trình tư vấn tiếp theo khi khách hàng đã chuyển sang giai đoạn dự định. PVTĐL chờ đợi cơ hội để định hướng cho khách hàng trong tương lai.
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8
Thông tin tham khảo:
Đối diện với chính mình

Đối diện với chính mình là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong PVTĐL. Các phương pháp truyền thống sử dụng cách thức đối chất trực tiếp để thắng sự phủ nhận của khách hàng. Tuy nhiên, những cách thức như thế cũng có thể khiến cho người ta phản kháng mạnh hơn. Với PVTĐL, khách hàng có thể tự phát hiện một số lợi ích và giá phải trả của các hành động của họ. Khi tự mình nói ra những vấn đề của bản thân, khách hàng sẽ bớt phản kháng hơn. Họ cũng dễ đi tới kết luận của bản thân hơn và dễ thực hiện các bước tiếp theo hơn so với khi họ bị chỉ bảo nên làm việc gì.
Quy luật tâm lí: “Tôi học những điều mà tôi tin khi tôi nghe chính bản thân tôi nói”
PVTĐL sử dụng một quy luật tâm lí cho rằng khách hàng sẽ tự khám phá bản thân khi họ tự mình nói ra những suy nghĩ và cảm nhận của mình. Họ cũng có xu hướng cam kết thực hiện hơn khi họ nghe chính mình nói thật to về điều đó. Tất nhiên, không có nghĩa là cứ nói được thành lời là người ta sẽ sẵn sàng làm bất cứ việc gì, nhưng nó sẽ làm tăng khả năng họ thực hiện với ý muốn thực sự. Cam kết bằng lời là một bước quan trọng trong việc ra quyết định. Trước khi bạn cam kết thực hiện điều gì đó, chỉ cần nói ra điều đó bằng lời là bạn sẽ làm gì sẽ tăng khả năng thực hiện được cam kết đó.
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên tại sao họ cho rằng việc nói về cam kết thực hiện một việc trong tương lai sẽ làm tăng khả năng thực hiện cam kết đó. Điều hành thảo luận nhóm ngắn về chủ đề này và sau đó đề cập nội dung dưới đây.
Nói: Bộ não rất thông minh, nếu bạn không nói lên thành lời thì nó có thể làm giảm mức độ quan trọng của vấn đề và hậu quả trong suy nghĩ của bạn. Nó cũng sẽ che giấu khiến
Tự đối mặt với chính mình
Quy luật tâm lí:
“Tôi học những gì tôi tin khi tôi nghe chính bản thân tôi nói”
Tôn trọng quyền lựa chọn của khách hàng
CÁC YẾU TỐ THEN CHỐT CỦA PVTĐL
Chương iV – Bài 4.1 19
Bản chiếu 8 (tiếp)
bạn không hiểu rõ những chi tiết liên quan. Nhưng khi bạn nói ra thành lời về những điều bạn quan tâm và những hậu quả của hành vi của chính bản thân, bạn đã ép buộc não bộ phải lắng nghe, và nó không thể giả vờ như là không có hậu quả gì hết. Thực tế, điều đó có thể gây sốc cho não của bạn. Bạn có thể nhận ra rằng suy nghĩ của bạn khi được nói ra bằng lời có thể sẽ khác so với khi bạn suy nghĩ trước đó trong đầu, và việc trao đổi thông tin giữa miệng và tai sẽ giúp bạn tăng khả năng tìm hiểu vấn đề, ra quyết định và cam kết hướng tới kết quả mong muốn.
Thông tin tham khảo: Khách hàng có quyền được lựa chọn.
Thay cho việc quyết định cách tốt nhất cho họ, phương pháp PVTĐL sẽ động viên khách hàng tự đưa ra quyết định. Tư vấn viên chỉ hỗ trợ khách hàng đi đến kết luận của chính họ rằng việc thay đổi là cần thiết.
20 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng nội dung bản chiếu để trình bày. Xem thông tin tham khảo ở trang tiếp theo để bổ sung thêm.
Quá trình thay đổi là một quá trình liên tục
Các chiến lược can thiệp gắn với các giai đoạn thay đổi hành vi
Giai đoạn tiền dự định: khách hàng không cân nhắc đến việc thay đổi
Giai đoạn dự định: khách hàng bắt đầu nghĩ đến một hành động nào đó
Giai đoạn hành động: khách hàng cố gắng từ bỏ hoặc giảm sử dụng ma túy
Giai đoạn duy trì: khách hàng từ bỏ thành công và muốn duy trì tình trạng ổn định
Giai đoạn tái nghiện: khách hàng sử dụng trở lại (là một phần của quá trình thay đổi thông thường)
TÓM TẮT - PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC
Chương iV – Bài 4.1 21
Bản chiếu 10
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài giảng.
Thông tin tham khảo: Thay đổi là một quá trình liên tục.
‚ Không phải là mọi người đều trải qua tất cả các giai đoạn
‚ Trong giai đoạn tiền dự định, khách hàng không cân nhắc đến việc dừng sử dụng
‚ Trong giai đoạn dự định, họ bắt đầu nghĩ đến việc phải làm một việc nào đó
‚ Trong giai đoạn hành động, khách hàng cố gắng dừng sử dụng hoặc giảm sử dụng ma túy
‚ Trong giai đoạn duy trì, khách hàng đã dừng sử dụng thành công và muốn duy trì tình trạng ổn định
‚ Trong giai đoạn tái nghiện, sau khi đã cố gắng dừng sử dụng, một số lớn khách hàng sử dụng lại, cần được coi là một phần của quá trình thay đổi thông thường
‚ Các chiến lược can thiệp gắn với các giai đoạn thay đổi hành vi cụ thể của khách hàng
‚ Đánh giá chính xác giai đoạn thay đổi của khách hàng sẽ giúp tư vấn viên định hướng can thiệp phù hợp
‚ PVTĐL là một hình thức tư vấn nhằm mục đích hỗ trợ các quyết định của khách hàng trong quá trình thay đổi các hành vi có hại
‚ PVTĐL có thể hữu ích đối với một người đang “có dự định” thay đổi hành vi của họ nhưng có thể vẫn còn mơ hồ về quyết định đó
‚ Khi người ta nghe chính lời nói và suy nghĩ của bản thân thì dễ có động lực để thay đổi hơn
PVTĐL là một hình thức tư vấn nhằm mục đích hỗ trợ các quyết định của khách hàng trong quá trình thay đổi những hành vi có hại
PVTĐL có thể hữu ích đối với người đang “có dự định” thay đổi hành vi của mình nhưng có thể vẫn còn mơ hồ về quyết định đó
Khi nghe chính lời mình nói ra thì người ta dễ cam kết thay đổi hơn
TÓM TẮT (TIẾP THEO)
22 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và hỏi họ xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
1. Mason, P. 1997, Respecting Choice: Brief Motivational Interviewing, National Centre for Education and Training on Addiction (NCETA), Flinders University, Adelaide.
2. McDonald, J., Roche, A.M., Durbridge, M. & Skinner, N. 2003, Peer Education: From Evidence to Practice. An Alcohol and Other Drugs Primer, National Centre for Education and Training on Addiction (NCETA), Flinders University, Adelaide.
3. Miller, W.R. and Rollnick, S. (2002). (2nd edition). Motivational Intervewing –preparing people to change. London: The Guildford Press.
Chương iV – Bài 4.1 23
Tài liệu phát tay 4.1
Mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
1. Giai đoạn tiền dự định:
Trong giai đoạn này, người sử dụng ma túy không muốn từ bỏ ma túy. Khi bạn làm việc với họ, hãy thiết lập mối quan hệ với họ và cố gắng khơi gợi hiểu biết của họ về hậu quả của việc sử dụng ma túy đối với chính họ, gia đình và cộng đồng. Lưu ý không được thúc ép khách hàng quá. Hãy nhớ nhiệm vụ chính của bạn trong giai đoạn này là tạo được mối quan hệ với họ và giúp họ bắt đầu suy nghĩ về việc thay đổi lối sống. Bạn có thể giúp gì? Hãy thiết lập mối quan hệ tốt!
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Làm sao bạn có thể biết được khi nào là lúc bạn nghĩ muốn thay đổi?
‚ Những tín hiệu nào sẽ nói cho bạn biết đây là thời điểm nên bắt đầu nghĩ về sự thay đổi?
‚ Điểm gì bạn nghĩ bạn có thể làm tốt nhất?
‚ Việc gì bạn cho rằng mình làm tốt nhất?
‚ Có mối liên hệ gì giữa các giá trị đó và việc sử dụng ma túy của bạn không?
‚ Hãy tưởng tượng rằng cuộc sống của bạn giống như trước khi bạn sử dụng ma túy, hình ảnh ấy làm cho bạn cảm thấy như thế nào?
‚ Hãy hình dung cuộc sống của bạn sau này sẽ như thế nào nếu bạn tiếp tục sống như hiện nay, hình ảnh ấy làm cho bạn cảm thấy như thế nào?
‚ Hãy hình dung cuộc sống của bạn sẽ như thế nào nếu bạn thay đổi? Hình ảnh đó làm cho bạn có cảm giác thế nào?
‚ Bạn thấy sử dụng ma túy có những lợi ích gì? Hãy lập một danh sách những lợi ích này nhé?
‚ Sử dụng ma túy có những điểm gì không tốt?
‚ Hãy viết những điểm bất lợi đó bên cạnh danh sách những điểm tốt kia nhé? Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra nếu bạn thay đổi (ví dụ không sử dụng ma túy nữa) là gì?
‚ Điều tốt nhất có thể xảy ra nếu bạn tiếp tục giữ nguyên cách sống như hiện nay (ví dụ sử dụng ma túy) là gì?
‚ Hãy liệt kê về phía bên này “những ưu điểm” nếu không sử dụng ma túy
‚ Hãy liệt kê bên này những điểm không tốt khi không sử dụng ma túy
‚ Bây giờ, hãy nhìn vào danh sách này, bạn nghĩ gì sau khi đọc hết các mục bạn vừa liệt kê?
2. Giai đoạn dự định:
Trong giai đoạn dự định, người sử dụng ma túy bắt đầu nghĩ cần phải làm một điều gì đó đối với việc sử dụng ma túy của họ, nhưng họ chưa giảm mức độ sử dụng ma túy. Khách hàng thường lưỡng lự về sự thay đổi. “Dự định” thường có xuất phát điểm từ một yếu tố tác động bên ngoài hay tác động bởi một người nào đó. Bạn sẽ giúp khách hàng đang ở giai đoạn này bằng cách thảo luận về những ưu điểm và nhược điểm của việc ngừng sử dụng ma túy (thông qua phỏng vấn tạo động lực). Quan sát và cung cấp các thông tin, nhưng tránh tranh cãi. Bạn sẽ giúp họ như thế nào?
Trong giai đoạn này, bạn có thể cần thực hiện một hoặc nhiều hoạt động sau là:
‚ Tiếp tục nâng cao nhận thức của khách hàng về nguy cơ nếu tiếp tục hành vi đó
‚ Hỗ trợ để họ đưa ra lựa chọn sáng suốt (sử dụng kỹ thuật phỏng vấn tạo động lực)
‚ Tiếp tục hỗ trợ và động viên
‚ Thừa nhận những “khoái cảm” do sử dụng ma túy và thảo luận về những lợi ích đạt được nếu khách hàng thay đổi
‚ Tránh quá tập trung vào “hành động”
‚ Cố gắng để cán cân nghiêng về phía thay đổi
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Điều gì khiến bạn nghĩ rằng bạn cần thay đổi cuộc sống của mình?
‚ Đâu là những điểm tốt ở lối sống mới mà bạn đang cố gắng theo đuổi? Hãy lập một danh sách nhé?
‚ Thế còn đâu là những điểm chưa tốt lắm, hoặc những khó khăn của cách sống mới? Hãy liệt kê vào cột bên kia của danh sách.
‚ Cuộc sống của bạn sẽ như thế nào nếu bạn thay đổi được theo ý muốn?
‚ Thật là tuyệt vời khi bạn suy nghĩ về sự thay đổi. Bạn có cần giúp đỡ gì để thực hiện được sự thay đổi đó không?
3. Giai đoạn chuẩn bị
Trong giai đoạn chuẩn bị, sự thay đổi hành vi bắt đầu diễn ra với sự thay đổi về cách sử dụng và mức độ sử dụng ma túy. Đây là thời điểm để lập kế hoạch. Trước khi tiến hành lập kế hoạch, cần đánh giá toàn diện về khách hàng.
Cần phải biết những thông tin sau:
‚ Khách hàng đang sử dụng loại ma túy nào?
‚ Họ đang sử dụng liều lượng bao nhiêu?
‚ Họ sử dụng thường xuyên như thế nào (ví dụ hàng ngày, 3 lần một ngày, hàng tuần)?
‚ Đường dùng nào họ đang sử dụng (tiêm, hít, uống) và họ đã thay đổi đường dùng chưa (thay đổi như thế nào, tại sao)?
‚ Họ đã đang ở giai đoạn dùng thử, dùng có mục đích, dùng nhiều hay nghiện ma túy?
‚ Trong quá khứ, họ đã cố gắng từ bỏ hoặc giảm liều sử dụng bao giờ chưa, nếu có thì họ đã cố gắng như thế nào?
Chương iV – Bài 4.1 25
Tài liệu phát tay 4.1 (tiếp)
‚ Mục đích họ sử dụng ma túy để làm gì (nhu cầu nào của khách hàng được giải quyết bằng việc sử dụng ma túy)?
‚ Họ nhận được những hỗ trợ gì?
‚ Họ kiếm tiền để mua ma túy bằng cách nào?
‚ Họ tự dùng ma túy một mình, với bạn bè, hay cả hai?
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Điều gì cản trở sự thay đổi mà bạn đang muốn thực hiện?
‚ Hãy lựa chọn một rào cản và liệt kê những giải pháp để vượt qua rào cản đó
‚ Bạn có thể lựa chọn một trong những giải pháp đó và thử thực hiện không?
‚ Điều gì đã khiến bạn chọn giải pháp đó?
Một phần nhiệm vụ của tư vấn viên có thể là để:
‚ Phản hồi
‚ Hỗ trợ khách hàng để họ có sự tin tưởng vào khả năng của bản thân
‚ Đánh giá toàn diện
‚ Giúp khách hàng tự đưa ra các khả năng lựa chọn
‚ Hỗ trợ khách hàng lập kế hoạch
‚ Hỗ trợ khách hàng duy trì động lực
‚ Hỗ trợ phát triển các kĩ năng và sử dụng các chiến lược phù hợp
‚ Hỗ trợ khách hàng trong quá trình thực hiện
‚ Hướng dẫn kĩ năng dự phòng tái nghiện
4. Giai đoạn hành động
Ở giai đoạn hành động, khách hàng cố từ bỏ, hoặc ít nhất cũng giảm liều sử dụng ma túy. Bạn có thể chủ động hơn ở giai đoạn này bằng cách giúp đỡ khách hàng học những kĩ năng và xây dựng những chiến lược cần thiết để giảm sử dụng ma túy hoặc hoàn toàn từ bỏ ma túy. Khách hàng sẽ cần phải tự nhìn nhận cuộc sống của bản thân để tìm hiểu xem những yếu tố nào đang ảnh hưởng đến việc sử dụng ma túy của họ, như con người, địa điểm, cảm giác, hoặc một vật nào đó. Tư vấn và hỗ trợ là điều hết sức quan trọng trong giai đoạn này.
Bạn có thể giúp đỡ họ như thế nào? Bạn có thể giúp đỡ bằng cách hướng dẫn các kĩ năng sống và chiến lược đối phó. Hãy hỗ trợ!
Một khi khách hàng xác định được những yếu tố cám dỗ khiến họ sử dụng ma túy, họ có thể bắt đầu bằng cách cố gắng giảm hoặc loại trừ các yếu tố đó ra khỏi cuộc sống của mình. Ở một số khách hàng, điều đó có nghĩa là vứt đi các dụng cụ tiêm chích. Với những người khác là đi tìm việc làm để tránh nhàm chán, nhàn rỗi, tránh gặp bạn bè - những người vẫn đang còn sử dụng ma túy. Khách hàng có thể cần phải nói chuyện về quá khứ hoặc trao đổi với gia đình hoặc những người đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của họ. Họ cũng có thể cần thay đổi việc làm.
Rất nhiều trong số những can thiệp này hiện được sử dụng trong dịch vụ tư vấn để xác định các hành vi có vấn đề. Trong suốt giai đoạn này, khách hàng bắt đầu và duy trì hành vi đã được thay đổi của họ, cố gắng để không tái nghiện.
Một phần nhiệm vụ của tư vấn viên có thể là:
‚ Củng cố tinh thần cho khách hàng trong những thời điểm khó khăn
‚ Hỗ trợ khách hàng duy trì trạng thái không sử dụng ma túy
‚ Hướng dẫn cho họ những kĩ năng củng cố tinh thần
‚ Theo dõi kĩ năng dự phòng tái nghiện
‚ Hướng dẫn kĩ năng tự theo dõi kiểm soát bản thân
‚ Giới thiệu đến các nhóm tự hỗ trợ phù hợp
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Chúc mừng! Khi bạn thực hiện các bước vừa rồi thì cụ thể là những điều gì đã thành công?
‚ Chúng ta có thể làm gì để thành công hơn nữa?
‚ Ngoài ra còn điều gì có thể giúp thành công?
‚ Bạn có thể chia nhỏ những giải pháp bạn đã xác định thành các bước nhỏ hơn, dễ đạt được không?
‚ Tôi có thể làm gì để giúp đỡ bạn?
5. Giai đoạn duy trì:
Khách hàng ở giai đoạn duy trì thường đã lâu không sử dụng ma túy và muốn duy trì cuộc sống đó. Bạn cần phải giúp họ xây dựng một lối sống lành mạnh, có thể là chuyển nhà đến nơi ít có hiện tượng sử dụng ma túy, tìm kiếm các hoạt động làm cho họ ít phải ra phố, tránh xa khỏi người sử dụng và người buôn bán ma túy, và chỉ dành thời gian rỗi giao lưu với những người không sử dụng ma túy mà thôi. Quan trọng nhất là, những khách hàng ở giai đoạn này cần phải học cách để kiểm soát chính bản thân họ và ý thức được những tình huống nguy hiểm. Việc duy trì không sử dụng ma túy là một việc làm rất khó khăn. Khách hàng thường cảm thấy ma túy rất hữu ích với họ ở nhiều phương diện. Họ có thể buồn nhớ ma túy, giống như việc người ta đau lòng buồn nhớ một người bạn tốt đã qua đời. Điều quan trọng là tư vấn viên cần phải luôn ghi nhớ lí do tại sao trước đây khách hàng sử dụng ma túy và họ đang thèm nhớ những điều gì (chẳng hạn như cảm giác lâng lâng hay cảm giác sung sướng khi sử dụng ma túy đó). Khách hàng cũng có thể trải qua những kí ức đau buồn, trạng thái lo lắng hay trầm cảm do không có ma túy.
Chương iV – Bài 4.1 27
Tài liệu phát tay 4.1 (tiếp)
Bạn có thể giúp họ như thế nào? Hãy cố gắng hiểu cảm giác của họ, những điều khách hàng đang nhớ và hãy hỗ trợ, động viên nếu có thể.
Một số đáp ứng phù hợp có thể là:
‚ Tiếp tục hỗ trợ
‚ Củng cố những thành quả đạt được, không cho là mất tất cả nếu có một lần sử dụng lại ma túy
‚ Giúp khách hàng duy trì sử dụng những dịch vụ phù hợp và khuyến khích họ tiếp cận các dịch vụ hữu ích khác
‚ Đưa họ quay trở lại một buổi tư vấn nhắc lại hoặc một can thiệp toàn diện khác
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Chúc mừng! Điều gì đã giúp bạn kiểm soát được cuộc sống của mình?
‚ Bạn có thể làm gì để thành công hơn nữa?
‚ Ngoài ra còn điều gì có thể giúp thành công?
‚ Bạn có thể chia nhỏ những giải pháp bạn đã xác định được thành các bước nhỏ hơn, dễ đạt được không?
6. Tái nghiện
Sau khi thử cố gắng kiêng ma túy, đa số người sử dụng phải trải qua giai đoạn quay trở lại sử dụng ma túy với liều như trước hoặc liều giảm hơn. Đó không phải là sự thất bại: tái nghiện đơn giản là một phần của quá trình thay đổi. Bạn cần phải chuẩn bị để khách hàng biết trước được giai đoạn này và giúp họ vượt qua. Hãy cố giúp khách hàng tìm ra nguyên nhân đã khiến họ sử dụng lại. Không phải tất cả các chiến lược thay đổi đều thành công đối với mọi khách hàng. Khi khách hàng sẵn sàng làm lại, bạn có thể giúp cho người đó lập một kế hoạch hành động hiệu quả hơn.
Bạn có thể giúp họ như thế nào? Đảm bảo với họ đây là một phần của quá trình thay đổi. Giúp cho họ tìm ra nguyên nhân vì sao tái nghiện lại xảy ra. Khi họ sẵn sàng lại từ bỏ ma túy, hãy ở bên cạnh để giúp họ.
Khi một người quay trở lại sử dụng ma túy (vấp) hoặc quay lại mức độ sử dụng trước đây (tái nghiện), nó có thể là một sự kiện chỉ diễn ra một lần, hoặc là tiếp tục sử dụng lại.
Nhiệm vụ của tư vấn viên bao gồm:
‚ Chuẩn bị trước cho khách hàng đối mặt với giai đoạn này, giải thích rằng “vấp” và “ngã” là một phần hay gặp của quá trình thay đổi
‚ Hỗ trợ khách hàng nhìn nhận lại những gì họ đã trải qua
‚ Giúp khách hàng phân biệt giữa “vấp” (sử dụng lại) và “ngã” (tái nghiện)
‚ Giúp khách hàng giảm thiểu tác hại do sử dụng lại, tái nghiện
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
‚ Hỗ trợ khách hàng tìm ra giải pháp mới để thay đổi
‚ Hỗ trợ khách hàng xác định và thử các chiến lược khác nhau
Một số câu hỏi hữu ích:
‚ Có điều gì mà chỉ có tác dụng một thời gian không?
‚ Vì sao bạn nghĩ nó chỉ có tác dụng trong một thời gian?
‚ Điều gì đã xảy ra làm cho bạn khó duy trì được tình trạng hiện tại?
‚ Bạn học được gì từ kinh nghiệm đó?
‚ Bạn có nghĩ về những cách khác để duy trì sự thay đổi hành vi không?
‚ Điều gì khiến cho những biện pháp này không hiệu quả đối với bạn?
‚ Bạn học được điều gì từ bài học đó?
‚ Chúng ta hãy nghĩ về những điều mà bạn có thể cố gắng thực hiện để có thể cai lại lần nữa, từ đó bạn có thể kiểm soát cuộc sống của bạn tốt hơn. Hãy lập một danh sách những việc đó.
‚ Bạn có thể chia những điều mà bạn vừa xác định thành những bước nhỏ hơn, dễ đạt được không?
‚ Ngoài ra tôi có thể làm gì để giúp bạn?
Tóm tắt
‚ Quá trình thay đổi là quá trình liên tục: khách hàng chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn khác
‚ Ở giai đoạn tiền dự định, khách hàng chưa muốn từ bỏ việc sử dụng ma túy của họ.
‚ Trong giai đoạn dự định, người sử dụng ma túy bắt đầu nghĩ về việc cần phải làm gì đó về tình trạng sử dụng ma túy của mình.
‚ Trong giai đoạn hành động, người sử dụng cố gắng thử từ bỏ, hoặc giảm sử dụng ma túy.
‚ Sau khi cố gắng rất nhiều để từ bỏ ma túy, đa số người sử dụng có khuynh hướng sử dụng lại. Đây là giai đoạn tái nghiện. Sử dụng lại và tái nghiện phải được nhìn nhận là một phần của quá trình thay đổi hành vi, không được coi là thất bại.
‚ Ở giai đoạn duy trì, người sử dụng ma túy thường thành công trong việc không sử dụng ma túy trong thời gian tương đối dài và muốn giữ nguyên trạng thái đó.
Nguồn:
Mason, P. 1997, Respecting Choice: Brief Motivational Interviewing, National Centre for Education and Training on Addiction (NCETA), Flinders University, Adelaide. John Howard, 2006. A Toolkit for Building Capacity For Community-based Treatment and Continuing Care of Young Drug Abusers in The Greater Mekong Subregion. The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacifc.
William R. Miller, 1999. ‘Enhancing Motivation for Change in Substance Abuse Treatment’ Treatment Improvement Protocol (TIP) Series 35. Center for Substance Abuse Treatment (CSAT). Substance Abuse and Mental Health Services Administration's (SAMHSA). U.S. Department Of Health And Human Services At: http://www.ncbi.nlm.nih.gov

4.2 CÁC NguyêN tắC và CÁC bướC troNg PhỏNg vấN tạo độNg LỰC
Bài 32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
NộI DuNG
I. Giới thiệu 1 phút
Giảng viên ôn lại các nguyên tắc cơ bản của Phỏng vấn tạo động lực (PVTĐL) và giới thiệu
những nội dung chính của bài này.
II. Thuyết trình và thực hành 95 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về các bước trong PVTĐL và cách áp dụng PVTĐL
khi tư vấn.
III. Kết luận 14 phút
Ôn lại những nội dung chính của bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 4.2: Các nguyên tắc và các bước trong Phỏng vấn tạo động lực
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được các nguyên tắc cơ bản và các bước trong PVTĐL và hướng dẫn họ cách lồng ghép PVTĐL trong buổi tư vấn.
Thời gian: 110 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản của PVTĐL
‚ Nêu được các bước tiến hành can thiệp PVTĐL
‚ Có cơ hội thực hành các kĩ năng này thông qua hoạt động đóng vai
‚ Biết cách áp dụng phương pháp PVTĐL khi tư vấn cho các khách hàng.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
‚ Đóng vai.
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Các tài liệu phát tay 4.2 - 1 – 4.2 - 8
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương iV – Bài 4.2 33
Bản chiếu 1
Nói: Bài trình bày này có liên quan chặt chẽ với bài trước, bài giới thiệu về PVTĐL.
CÁC NGUYÊN TẮC VÀ CÁC BƯỚC TRONG PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC
34 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
Hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản của PVTĐL
Nêu được các bước tiến hành PVTĐL
Thực hành các kĩ năng PVTĐL trong phần đóng vai
Biết cách áp dụng phương pháp PVTĐL khi tiến hành tư vấn.
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Chương iV – Bài 4.2 35
Thông tin tham khảo: Khi áp dụng kĩ thuật PVTĐL, việc thể hiện sự thấu cảm là một việc vô cùng quan trọng. Nếu bạn thể hiện sự quan tâm thì khách hàng sẽ cảm thấy tự tin hơn để có thể thổ lộ những thông tin cá nhân của họ, và có thể kể với bạn về những gì đã xảy ra trong cuộc đời họ. Chúng ta cũng cần phải hỗ trợ khách hàng chuyển từ giai đoạn dự định sang giai đoạn thay đổi hành vi. Như đã thảo luận ở bài trước, khách hàng đang trong giai đoạn dự định thay đổi hành vi thường tự nhủ: "đây là những điều mà tôi thích về việc sử dụng ma túy, nhưng cũng có những vấn đề mà tôi gặp phải liên quan đến sử dụng ma túy". Đó được gọi là sự mơ hồ - họ đang mơ hồ không biết có nên thay đổi hay không. Một tư vấn viên giỏi sẽ giúp khách hàng nhận ra sự không nhất quán giữa những gì họ đang làm và những gì họ muốn làm. Bên cạnh đó, nếu người ta cảm thấy tự tin hơn về việc thay đổi một hành vi, họ sẽ cảm thấy có nhiệt tình để thay đổi. Tư vấn viên cần giúp khách hàng tự thúc đẩy bản thân và thêm tự tin để tiếp tục thay đổi.
Một số người sẽ phản kháng lại những gợi ý về việc thay đổi hành vi. Có thể là họ thiếu tự tin vào khả năng của bản thân và do đó, thiếu động cơ để thay đổi. Một phương pháp hiệu quả để xử lý sự phản kháng này là tránh đối đầu, thay vào đó hãy lựa theo sự phản kháng. Sẽ không hiệu quả nếu chúng ta cố thuyết phục khách hàng thay đổi quan điểm hoặc đối đầu với họ với những câu hỏi như: "Bạn bị điên à? Tại sao bạn lại làm như vậy?" Bạn càng cố ép khách hàng phải thay đổi hành vi thì họ lại càng dễ phản kháng lại và chống đối lại bạn. Nhắc lại với học viên rằng bạn đã thảo luận với họ về các kĩ năng tư vấn có thể áp dụng bao gồm: đặt câu hỏi mở, lắng nghe tích cực, khen ngợi và tóm tắt những điều khách hàng nói. Có rất nhiều cách để giúp khách hàng bình tâm lại để hàng suy nghĩ về những điều họ đang làm và họ có thực sự muốn tiếp tục hành vi đó hay không. Những kĩ năng này có thể sử dụng phối hợp với nhau để khởi xướng cuộc thảo luận với khách hàng về sự thay đổi.
Hướng dẫn giảng dạy: Nói với học viên rằng họ có thể tham khảo Tài liệu phát tay 4.2-1 về 5 nguyên tắc cơ bản trong PVTĐL để có thêm kiến thức về kĩ thuật này.
Bản chiếu 3
Thể hiện sự thấu cảm
Giảm mơ hồ và nêu ra sự không nhất quán
Hướng dẫn những lời nói tự động viên
Lựa theo sự phản kháng
Sử dụng các kĩ năng tư vấn để khuyến khích thảo luận về sự thay đổi
- Đặt câu hỏi mở
- Khen ngợi
- Lắng nghe có phản hồi
- Tóm tắt
PVTĐL: 5 NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Quá trình thực hiện kĩ thuật PVTĐL bao gồm 4 bước:
Bước 1: Đánh giá khách hàng
Nội dung chi tiết về đánh giá khách hàng sẽ được đề cập đến trong bài 5.1. Thông thường trong một buổi tư vấn sẽ khó có thể đánh giá tất cả những nội dung cần thiết. Quá trình đánh giá là một quá trình lâu dài và liên tục. Để có thể thực hiện kĩ thuật PVTĐL nhằm khuyến khích sự thay đổi, có thể chỉ cần thực hiện một đánh giá sơ bộ ban đầu để giúp tư vấn viên định hướng cho quá trình PVTĐL.
Bước 2. Tìm hiểu về những điều tốt và không tốt của hành vi hiện tại Khách hàng thường mong đợi bạn hỏi họ về những điều không tốt liên quan tới việc sử dụng ma túy của họ. Họ không bao giờ nghĩ rằng bạn lại quan tâm và sẽ hỏi họ về những điều mà họ thấy có lợi khi sử dụng ma túy. Tại sao một tư vấn viên lại cần quan tâm đến những điều mà khách hàng cho là những lợi ích có được khi sử dụng ma túy?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi
Nói: Điều quan trọng là khuyến khích khách hàng bắt đầu việc trao đổi thông tin giữa miệng và não của họ để họ có thể nghe thấy những điều họ thích và những điều họ không thích. Làm như vậy sẽ giúp bạn hiểu rõ xem họ đang ở giai đoạn tiền dự định hay giai đoạn dự định đối với việc thay đổi hành vi. Nó cũng sẽ giúp bạn hiểu điều gì là quan trọng đối với họ và điều gì là không quan trọng. Những điểm khách hàng cho rằng có lợi từ việc sử dụng ma túy của họ sẽ là trọng tâm để bạn tập trung vào trong phần tiếp theo của buổi tư vấn. Hãy tiến hành sắm vai và bạn sẽ hiểu lý do.
Bản chiếu 4
1. Đánh giá khách hàng
2. Tìm hiểu những điều tốt và những điều không tốt
3. Tóm tắt và giúp khách hàng ra quyết định
(sử dụng bảng ra quyết định)
4. Hỗ trợ đặt mục tiêu
CÁC BƯỚC TRONG PVTĐL
Chương iV – Bài 4.2 37
Bản chiếu 4 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Tiến hành đóng vai với một học viên tình nguyện. Đề nghị học viên đó lựa chọn một hành vi cụ thể, không nhất thiết phải liên quan tới việc sử dụng ma túy. Bạn sẽ vào vai tư vấn viên còn học viên vào vai khách hàng. Mục tiêu của phần đóng vai là để thảo luận với khách hàng về những điều tốt và không tốt về hành vi đó. Ví dụ về bài tập đóng vai giữa giảng viên và học viên trong Tài liệu phát tay 4.2-1: Ví dụ về một buổi tư vấn tìm hiểu về những điều tốt và không tốt về một hành vi cụ thể (thói quen đi ngủ - hay thức khuya). Bảng mẫu liệt kê những điều tốt và không tốt của việc sử dụng ma túy cũng được trình bày trong Tìa liệu phát tay 4.2-4
Nói:
Bước 3: Giúp khách hàng ra quyết định (sử dụng Bảng ra quyết định) Một trong những cách để giúp cho khách hàng ra quyết định là sử dụng Bảng ra quyết định. Khách hàng thường cùng lúc có nhiều động cơ mâu thuẫn với nhau, vì hành vi hiện tại của họ (ví dụ như việc uống rượu) hoặc một hành vi họ muốn thực hiện (ví dụ như tập thể dục) bao giờ cũng có hai mặt có lợi và không có lợi. Chúng ta sẽ thảo luận về Bảng ra quyết định sau một vài bản chiếu tiếp theo.
Bước 4: Giúp đề ra mục tiêu
Ngay sau khi khách hàng quyết định là họ sẽ thay đổi, tư vấn viên cần tận dụng ngay thời điểm đó để thảo luận với khách hàng về việc đề ra mục tiêu nhằm đảm bảo họ sẽ hành động ngay sau buổi tư vấn. Có thể cũng cần tìm hiểu xem khách hàng coi việc thay đổi này quan trọng như thế nào và họ tự tin đến đâu khi thực hiện thay đổi. Một cách để xác định chính là hỏi họ xem họ cần hỗ trợ gì để thay đổi.
38 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Nói: Trước khi tiến hành PVTĐL, nên tiến hành đánh giá khách hàng một cách ngắn gọn. Trong khi đánh giá khách hàng, bạn cần xây dựng mối quan hệ tốt với họ, thể hiện sự thấu cảm trong quá trình đánh giá, tìm hiểu về tiền sử sử dụng ma túy (mục đích là có được thông tin về loại ma túy khách hàng dùng và lượng sử dụng trong một ngày nhất định), và phản hồi về kết quả đánh giá một cách khách quan. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về cách đánh giá việc sử dụng ma túy và rượu trong bài sau.
Tạo mối quan hệ tốt với khách hàng
Thể hiện sự thấu cảm
Lấy thông tin về tiền sử sử dụng ma túy (ngày tiêu biểu)
Đưa ra kết quả và phản hồi về việc đánh giá
- Hãy khách quan
ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG
Chương iV – Bài 4.2 39
Nói: Sau khi bạn đã khai thác được tiền sử sử dụng ma túy của khách hàng, bước tiếp theo là tìm hiểu những điều họ thích về việc sử dụng ma túy của họ. Những câu hỏi liệt kê trên bản chiếu là ví dụ về những cách bạn có thể áp dụng để tìm hiểu. Không hiếm khi khách hàng sẽ ngạc nhiên với những câu hỏi này và ngần ngại đưa ra những suy nghĩ bên trong về những điều họ thích về sử dụng ma túy. Họ có thể lo lắng và không hiểu động cơ của bạn là gì. Tuy nhiên, thảo luận về những lợi ích đó là rất quan trọng vì chúng sẽ là những điểm khởi đầu cho các can thiệp tiếp theo trong quá trình PVTĐL.
Sau khi tóm tắt lại những lợi điểm vừa thảo luận với khách hàng, hãy hỏi họ xem còn những lợi ích nào khác của việc sử dụng ma túy không, để đề phòng trường hợp bỏ sót. Bạn cũng có thể sắp xếp những lợi điểm này theo thứ tự quan trọng từ góc nhìn của khách hàng. Đừng chủ quan cho rằng điều gì được liệt kê trước thì quan trọng hơn. Bạn có thể đặt câu hỏi như: "Trong số này, điều gì là quan trọng nhất đối với bạn? Điều gì ít quan trọng nhất?" Đồng thời, luôn khen ngợi và hỗ trợ những nỗ lực thay đổi của khách hàng. Cám ơn họ đã đến với dịch vụ tư vấn và đã cân nhắc thay đổi sẽ khuyến khích khách hàng tự tin hơn về sự thay đổi mà họ đang cố gắng thực hiện.

Bản chiếu 6
Những điểm tốt về … là gì?
Mọi người thường hay sử dụng ma túy vì nó có thể giúp đỡ họ một phần nào - Ma túy giúp ích gì cho bạn?
Bạn thích những tác dụng gì của... ?
Bạn sẽ nhớ điều gì nếu bạn sẽ không tiếp tục dùng... ?
Còn gì nữa không? Bạn nói tiếp đi
Lưu ý: Luôn khen ngợi và hỗ trợ
TÌM HIỂU NHỮNG ĐIỂM TỐT VỀ SỬ DỤNG MA TÚY
40 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Có một số câu hỏi mẫu có thể được sử dụng để tìm hiểu về những điều không tốt liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng. Giống như với phần hỏi về những điều tốt, hãy sắp xếp các yếu tố không tốt theo thứ tự từ ít quan trọng nhất đến quan trọng nhất. Tham khảo một ví dụ về 5 phút tìm hiểu về những điều tốt và chưa tốt về việc sử dụng heroin trong một buổi tư vấn kèm theo nhận xét phản hồi trong Tài liệu phát tay 4.2-5.
Bản chiếu 7
Bạn có thể nói với tôi về những điểm không tốt của việc sử dụng … không?
Những điểm nào khiến bạn không được vui lắm?
Những điều mà bạn không muốn nhớ là gì?
Nếu tiếp tục sử dụng như trước đây, sau 3 năm nữa bạn hình dung bản thân sẽ như thế nào?
Còn gì nữa không?
Lưu ý: Luôn khen ngợi và hỗ trợ nỗ lực của khách hàng
TÌM HIỂU VỀ NHỮNG ĐIỂM KHÔNG TỐT VỀ SỬ DỤNG MA TÚY
Chương iV – Bài 4.2 41
Bản chiếu 8
Nói: Việc tóm tắt lại sau mỗi bước là rất quan trọng. Nó giúp bạn chắc chắn rằng bạn hiểu đúng khách hàng và để khách hàng khẳng định những điều họ đã nói. Ghi chép lại những nội dung chính trong quá trình trao đổi có thể giúp tư vấn viên tóm tắt chính xác hơn. Tóm tắt cũng giúp khách hàng sắp xếp lại và xác định điều gì là quan trọng nhất với họ. Phải nhớ đảm bảo rằng việc tóm tắt nhấn mạnh vào những điều mà khách hàng cho là quan trọng nhất.
Tóm tắt những điều tốt
Tóm tắt những điều không tốt (các vấn đề)
Tóm tắt lại khi khách hàng so sánh việc SDMT với những mục tiêu trong cuộc đời của họ
Tóm tắt, tóm tắt và tóm tắt
Nếu bạn thấy bế tắc, hãy nói: “vậy thì hãy cùng xem lại nào, từ nãy đến giờ bạn đã nói rằng...”
TÓM TẮT
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Mục đích chính của việc tóm tắt lợi ích và giá phải trả của việc sử dụng ma túy của khách hàng là giúp họ so sách giữa giá phải trả và lợi ích để họ có thể ra quyết định. Thực ra khi đến dịch vụ tư vấn là khách hàng thường đã bắt đầu nhận ra rằng họ cần thay đổi cách sống. Tuy nhiên, họ có thể vẫn còn mơ hồ. Quá trình tóm tắt và đánh giá mức độ quan trọng có thể giúp họ nhìn nhận sự việc rõ ràng hơn. Hãy nhớ: việc quyết định tiến hành thay đổi hay không phải là lựa chọn của khách hàng.
Bản chiếu 9
Lợi ích của thay đổi
Giá phải trả của duy
trì hành vi cũ

Lợi ích của duy trì hành vi cũ Giá phải trả của thay đổi
Chương iV – Bài 4.2 43
Nói: Một cách khác để giúp khách hàng ra quyết định là sử dụng bảng ra quyết định. Bảng ra quyết định này giúp bạn có thể so sánh giữa lợi ích và giá phải trả của một hành vi nào đó bằng cách cho điểm các yếu tố này và so sánh điểm số. Bạn có thể thay đổi thang điểm cho phù hợp với mỗi khách hàng. Yêu cầu khách hàng điền vào các ô những lợi ích và giá phải trả, ngắn hạn và dài hạn và sau đó đề nghị khách hàng cho điểm mỗi yếu tố theo thang điểm từ 1 đến 10 theo mức độ quan trọng đối với họ (điểm lớn hơn có nghĩa là yếu tố đó quan trọng hơn). Nếu số điểm của “lợi ích” của việc thay đổi cao hơn số điểm của “cái giá phải trả” nếu thay đổi thì hy vọng khách hàng của bạn sẽ nhận ra việc thay đổi hành vi của họ là tốt. Mặt khác, nếu số điểm của giá phải trả của việc thay đổi cao hơn thì điều đó có nghĩa là khách hàng của bạn không muốn thay đổi trong thời điểm hiện tại. Thông tin tham khảo: Dưới đây là một ví dụ về cách sử dụng bảng ra quyết định khi cân nhắc lợi ích và hậu quả của việc say rượu bia:
Bản chiếu 10

Ngắn hạn Dài hạn Điểm  
Lợi ích Giúp tôi thư giãn (6) Thích tụ tập uống rượu bia với bạn bè (7) Lãng quên các vấn đề (4) 17
Giá phải trả Có thể sẽ mất đi tình cảm của gia đình (8) Tấm gương xấu đối với con cái (8) Hủy hoại sức khỏe (3) Tốn quá nhiều tiền (3) Tổn hại đến khả năng suy nghĩ (3) Có thể mất việc (5) Lãng phí thời gian/cuộc sống (2) 32
BẢNG RA QUYẾT ĐỊNH
Ngắn hạn Dài hạn Điểm
Lợi ích
Giá phải trả
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10 (tiếp)
Từ ví dụ này, rõ ràng tổng số điểm cho thấy cái giá phải trả cao hơn lợi ích. Một khách hàng có kết quả như trên có thể sẽ quyết định rằng giá phải trả cho việc uống rượu của họ là quá cao và có thể lựa chọn dừng hoặc giảm uống rượu bia.
Một ví dụ khác về lợi ích và hậu quả của việc duy trì tập thể dục đều đặn:

Ngắn hạn Dài hạn Điểm  
Lợi ích Trông khỏe mạnh, thon thả, có thể mặc quần áo đẹp (6) Được người bạn tình yêu hơn (4) Sống lâu, sống khỏe, cả về thể chất (7) và tinh thần (6) 23
Giá phải trả Khó có thể dậy sớm đế tập thể dục (4) Cần phải giảm bớt những công việc khác để không phải thức khuya (5) Có thể phải từ bỏ những sở thích khác: xem phim (3) Sự ấm áp và dễ chịu khi nằm trên giường mỗi buổi sáng (3) Có thể gây chấn thương cho bản thân (1) 16
Trong ví dụ này, tổng số điểm cho thấy hành vi mong muốn (tập thể dục buổi sáng hàng ngày) sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn. Trong khi chỉ nghĩ về điều đó không giúp khách hàng thay đổi thì việc yêu cầu họ viết những suy nghĩ của họ ra giấy sẽ giúp họ dễ thay đổi hơn.
Chương iV – Bài 4.2 45
Bản chiếu 11
Nói: Nhìn chung, tại thời điểm này, bạn nên hạn chế cung cấp thêm thông tin. Khách hàng có thể bị quá tải về thông tin hoặc về cảm xúc. Lí tưởng nhất là lúc này khách hàng phải “biết” rõ về con đường tốt nhất mà họ nên đi.
Đây không phải là lúc để thảo luận về “CÁCH THỰC HIỆN” của một quyết định. Nếu như khách hàng băn khoăn về việc thực hiện quyết định đó bằng cách nào thì hãy trấn an họ rằng chỉ cần đưa ra một quyết định một cách chắc chắn vào thời điểm này, còn thực hiện bằng “CÁCH NÀO” thì sẽ thảo luận sau.

Nhắc lại sự lưỡng lự hoặc mơ hồ của khách hàng
“Bạn nói rằng bạn đang bạn đang cố gắng quyết định xem là nên tiếp tục hay giảm bớt...”
“Sau cuộc trao đổi vừa rồi, bạn đã rõ hơn về những việc bạn muốn làm chưa?”
"Như vậy là bạn đã sẵn sàng đưa ra một quyết định rồi chứ?”
YÊU CẦU ĐƯA RA QUYẾT ĐỊNH
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Ngay sau khi khách hàng quyết định là họ muốn thay đổi, bạn cần tận dụng ngay giây phút khách hàng đang có động cơ đó để thảo luận với khách hàng về việc đặt mục tiêu. Điều này giúp đảm bảo họ sẽ hành động sau buổi tư vấn.
Hãy nhớ tiêu chí SMART của việc đặt mục tiêu (Specifc - Cụ thể, Measurable - Có thể đo lường được, Attainable - Có thể đạt được, Realistic - Thực tế, Timebound - Có thời hạn). Những bước khởi đầu thường là những bước nhỏ.
Đặt mục tiêu có nghĩa là phải biến quyết định thành hành động. Kĩ thuật Đặt mục tiêu sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong một bài giảng tiếp theo (Bài 5.3). Nhớ là phải đạt được cam kết sẽ hành động của khách hàng. Càng tự tin thì khách hàng càng dễ có khả năng thực hiện.

Bước tiếp theo (đầu tiên) của bạn là gì?
Bạn sẽ làm gì trong 1 hoặc 2 ngày (tuần) tới?
Bạn đã làm những gì để đạt được điều này? Nếu có, bạn có thể tiếp tục làm thêm được không ?
Ai sẽ giúp bạn làm điều này?
Bạn cảm thấy tự tin rằng bạn sẽ thực hiện việc này ở mức độ nào tính từ 1 đến 10?
LƯU Ý: khen ngợi và hỗ trợ sự tự tin vào bản thân của khách hàng
ĐẶT MỤC TIÊU
Chương iV – Bài 4.2 47
Bản chiếu 13
Hướng dẫn giảng dạy: Để giúp học viên hiểu được các thang điểm, bạn có thể cần vẽ thước đo sự sẵn sàng và thước đo mức độ tự tin lên bảng giấy lật. Sau đó, bạn có thể dùng hình vẽ để minh họa trong quá trình thảo luận về những nội dung dưới đây.
Nói: Trong nhiều trường hợp, những thước đo này giúp khách hàng có thể nhìn thấy họ đang ở mức độ nào đối với việc thay đổi một điều gì đó.
Thông tin tham khảo:
Thước đo sự sẵn sàng

Việc sử dụng ‘thước đo sự sẵn sàng’ là một cách đơn giản để xác định xem trong suy nghĩ của khách hàng thì việc giảm sử dụng ma túy có tầm quan trọng như thế nào đối với họ. Đây chỉ là một thang điểm được chia ra thành các mức từ 1 đến 10 mà trên đó 1 có nghĩa là “không quan trọng” và 10 là “rất quan trọng”. Hãy yêu cầu khách hàng tự đánh giá về mức độ quan trọng của việc thay đổi hành vi sử dụng ma túy đối với bản thân họ. Bạn có thể hỏi: “Bạn thấy rằng việc giảm bớt hoặc ngừng sử dụng ma túy quan trọng như thế nào đối với bản thân bạn? Tính trên thang điểm từ 1 đến 10, trong đó 1 có nghĩa là không quan trọng và 10 là rất quan trọng, thì bạn tự đánh giá bản thân bạn được mấy điểm?”

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Không quan trọng Rất quan trọng
1. Thước đo mức độ sẵn sàng Việc SDMT quan trọng như thế nào đối với bạn?
- Tính theo thang điểm từ 1 đến 10
- (1 = không quan trọng, 10 = rất quan trọng)
2. Thước đo mức độ tự tin
Bạn tự tin vào sự thay đổi của bạn ở mức độ nào?
- Tính theo thang điểm từ 1 đến 10
- (1 = không tự tin, 10 = rất tự tin)
Tại sao bạn lại tự cho điểm về bản thân mình ở mức cao/thấp như vậy?
Điều gì có thể giúp bạn nâng thang điểm của mình lên mức cao hơn nữa?
3. Bạn thấy cần phải đạt được mức độ nào thì mới tự tin để thay đổi?
ĐÁNH GIÁ TRONG VÒNG 5 PHÚT
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13 (tiếp)
‘Thước đo sự sẵn sàng’ có thể được sử dụng ngay ở giai đoạn đầu của buổi tư vấn để giúp xác định giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng, hoặc có thể được sử dụng trong quá trình tư vấn để động viên khách hàng nói về các lí do khiến họ thay đổi.
Thước đo sự tự tin
Có thể dùng thang điểm tương tự như trên để đánh giá sự tự tin của khách hàng về khả năng cắt giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy của họ. Thước đo sự tự tin có thể được sử dụng với những khách hàng đã xác định được tầm quan trọng của việc thay đổi hành vi hoặc có thể được sử dụng như là một câu hỏi giả định để động viên khách hàng nói về cách họ sẽ làm để có thể thay đổi được hành vi sử dụng ma túy.
Bạn có thể hỏi: “Nếu bạn đã quyết định thay đổi thì bạn cảm thấy tự tin ở mức độ nào về khả năng có thể cắt giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy? Tính theo thang điểm từ 1 đến 10, trong đó 1 có nghĩa là không tự tin và 10 là rất tự tin, thì bạn tự đánh giá bản thân bạn được mấy điểm?

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Không tự tin Rất tự tin
Không nhất thiết phải đưa ra một cái thước đo thật, nhưng nếu có thì rất hữu ích, đặc biệt là đối với những khách hàng không biết đọc hoặc không biết đếm số. Đối với một số khách hàng thì chỉ cần mô tả thước đo và thang điểm bằng lời nói là đủ. Sau khi yêu cầu khách hàng tự đánh giá, nếu họ cho điểm từ 7 trở xuống, hãy hỏi xem điều gì ngăn cản họ tiến hành các bước tiếp theo, hoặc có thể hỏi họ cần phải giải quyết vấn đề gì để có thể tiến hành thay đổi.
Hướng dẫn giảng dạy: Cho học viên thực hành các bước phỏng vấn tạo động lực bằng một bài tập đóng vai, có người đóng làm khách hàng, có người đóng làm tư vấn viên.
Chương iV – Bài 4.2 49
Bản chiếu 14
CÔNG THỨC "FRAMES”
F - Phản hồi Đánh giá và lượng giá vấn đề
R - Trách nhiệm Nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân của khách hàng và việc sử dụng rượu/ma túy là sự lựa chọn của chính họ
A - Gợi ý Đưa ra gợi ý thật cụ thể để giúp khách hàng thay đổi hoặc tìm kiếm phương pháp điều trị khác
M - Thực đơn Đưa ra một thực đơn gồm nhiều chiến lược thay thế khác nhau. Sự lựa chọn, mục tiêu và kiểm soát là của cá nhân khách hàng
E - Thấu cảm Yếu tố quyết định động cơ và sự thay đổi của khách hàng - vai trò của tư vấn viên rất quan trọng
S - Tự tin vào Truyền tải tinh thần lạc quan – giúp khách hàng khả năng có thể đạt được các mục tiêu họ đã lựa chọn
Nói: Công thức FRAMES được sử dụng để nói tới những yếu tố quan trọng cần được đề cập trong PVTĐL. FRAMES là viết tắt của: Feedback - Phản hồi, Responsibility - Trách nhiệm, Advice - Lời khuyên, Menu - Thực đơn các chiến lược thay đổi, Empathy - Thấu cảm, và Self-Efcacy - Tự tin vào khả năng bản thân.
Thông tin tham khảo:
Phản hồi

Đưa ra ý kiến nhận xét phù hợp là một thành tố quan trọng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy và thường được thực hiện sau khi đã tiến hành đánh giá kĩ lưỡng việc sử dụng ma túy và những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng. Nhận xét phản hồi có thể bao gồm cả thông tin về việc sử dụng ma túy và những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng, thông tin về những nguy cơ có liên quan đến hình thái sử dụng ma túy hiện tại của khách hàng và thông tin về những nguy cơ và tác hại nói chung của ma túy. Nếu những vấn đề hiện tại của khách hàng có thể có liên quan tới việc sử dụng ma túy, thì trong khi nhận xét cần phải cho khách hàng biết về mối liên quan này. Trong quá trình phản hồi, bạn cũng có thể so sánh giữa những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng với những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của những người khác có hoàn cảnh tương tự.
Trách nhiệm
Điều quan trọng là khách hàng phải nhận thức được rằng họ phải chịu trách nhiệm cho những hành vi của mình và họ có sự lựa chọn đối với việc sử dụng ma túy. Tư vấn viên cần đưa ra những thông điệp như là “Bạn làm gì đối với việc sử dụng ma túy của bạn là tùy thuộc vào chính bản thân bạn” và “Không một ai có thể quyết định thay cho bạn được” để giúp khách hàng duy trì được sự kiểm soát đối với các hành vi của họ cũng như hậu quả của các hành vi đó. Khi cảm thấy mình kiểm soát được sự việc thì khách hàng sẽ có thêm động lực để thay đổi và bớt phản kháng.
Lời khuyên
Cho những lời khuyên cụ thể và rõ ràng về các tác hại liên quan tới việc tiếp tục sử dụng ma túy là yếu tố cơ bản của các can thiệp tư vấn hiệu quả. Khách hàng thường không nhận thức được rằng cấp độ sử dụng ma túy hiện tại của họ có thể dẫn tới những vấn đề về sức khỏe và những hậu quả khác hoặc có thể khiến cho những vấn đề hiện có trở nên trầm trọng hơn. Việc đưa ra những lời khuyên cụ thể và rõ ràng về việc giảm bớt hoặc ngừng sử dụng ma túy sẽ làm giảm các nguy cơ trong tương lai, nâng cao nhận thức của khách hàng về những nguy cơ đối với cá nhân họ, và đưa ra những lí do để họ tự cân nhắc về việc thay đổi hành vi của bản thân. Bảng ra quyết định có thể là một công cụ hữu ích để đưa ra lời khuyên.
Đưa ra nhiều giải pháp thay thế để lựa chọn
Các can thiệp có hiệu quả cần cung cấp cho khách hàng nhiều chiến lược khác nhau để cắt giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy. Điều này cho phép khách hàng tự lựa chọn các giải pháp phù hợp nhất với hoàn cảnh của họ và là giải pháp mà họ cảm thấy hữu ích nhất. Tạo ra nhiều sự lựa chọn sẽ củng cố cảm giác tự chủ, trách nhiệm và động lực của khách hàng để thay đổi hành vi. Về lí thuyết, lựa chọn của khách hàng thường liên quan đến giai đoạn thay đổi hành vi của họ. Sau đây là một số ví dụ tham khảo để khách hàng lựa chọn:
‚ Ghi chép hàng ngày về việc sử dụng ma túy (địa điểm, thời gian, liều lượng, dùng với ai, tại sao dùng)
‚ Giúp khách hàng chuẩn bị các hướng dẫn về việc sử dụng ma túy cho chính bản thân họ
‚ Xác định các tình huống nguy cơ cao và các chiến lược để đối phó với các tình huống đó
‚ Xác định các hoạt động có thể làm thay vì sử dụng ma túy- sở thích, thể thao, các câu lạc bộ, thể dục thể hình, vv.
‚ Động viên khách hàng xác định ra những người có thể hỗ trợ và giúp đỡ họ thay đổi hành vi như mong muốn của họ.
‚ Cung cấp thông tin về các nhóm tự giúp đỡ khác và các tài liệu
‚ Động viên khách hàng không giữ tiền trong người và dành số tiền để mua ma túy cho một mục đích khác.
Thấu cảm
Một can thiệp có hiệu quả cần phải dựa trên thái độ hiểu biết, thấu cảm, thân thiện và có phản hồi của tư vấn viên. Những yếu tố trên sẽ đảm bảo khách hàng cảm thấy thoải mái và được chào đón. Chúng cũng góp phần làm tăng khả năng khách hàng tiếp tục nhận dịch vụ tư vấn và điều trị, và do đó sẽ nâng cao kết quả tư vấn và điều trị.
Tự tin
Tư vấn viên cần phải giúp khách hàng tự tin rằng họ có thể thay đổi được hành vi sử dụng ma túy. Những người tin rằng họ có thể thay đổi được thường sẽ thực sự bắt tay vào việc hơn so với những người không tin hoặc không hi vọng vào bản thân. Tư vấn viên cần giúp khách hàng nói ra sự tự tin của họ, bởi vì khách hàng thường hay tin vào những gì mà chính bản thân họ nói ra hơn là những điều nghe được từ người khác.
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 15
Nói: Khi khách hàng không muốn thay đổi hành vi thì họ sẽ thể hiện sự phản kháng bằng những biểu hiện liệt kê ở đây. Họ có thể tranh cãi với bạn, phản đối những điều bạn nói. Hoặc khi bạn đang cố gắng giải thích về một điều gì đó, họ sẽ lập tức ngắt lời bạn vì họ không muốn nghe bạn nói nữa.
Họ có thể nói với bạn rằng các vấn đề của họ chả liên quan gì đến sử dụng ma túy cả. Hoặc họ sẽ phớt lờ tất cả các vấn đề như thể là chúng chưa từng xảy ra. Cuối cùng, họ có thể không nói chuyện với bạn nữa hoặc không quay trở lại nữa. Đó là sự phủ nhận.

Khi khách hàng:
Tranh cãi
Ngắt lời tư vấn viên
Không liên kết được các vấn đề lại với nhau (các vấn đề đối với việc SDMT)
Bỏ qua các vấn đề
Không tập trung
NHẬN BIẾT SỰ PHẢN KHÁNG CỦA KHÁCH HÀNG
Chương iV – Bài 4.2 53
Nói: Có nhiều phương pháp để giảm bớt sự phản kháng của khách hàng, bao gồm: lựa theo sự phản kháng, chuyển chủ đề, chỉnh khung, nhấn mạnh sự tự lựa chọn và tự chủ của cá nhân khách hàng, và dừng việc đưa ra các giải pháp.
Thông tin tham khảo:
1. Lựa theo sự phản kháng

Chúng ta đã thảo luận về kĩ năng lựa theo sự phản kháng trong bài học 2.4 về các kĩ năng tư vấn.
Phản kháng xảy ra khi khách hàng tranh cãi, cắt ngang hoặc phủ nhận những gợi ý của tư vấn viên. Trong trường hợp này, điều quan trọng là không tiếp tục tranh cãi với họ vì sẽ làm họ phản kháng mạnh hơn. Lựa theo sự phản kháng có nghĩa là không đối đầu với khách hàng. Có nhiều kĩ thuật có thể dùng trong trường hợp này. Ví dụ, bạn có thể nói: “Hiện tại, bạn có vẻ là chưa sẵn sàng thay đổi phải không?”. Đây là cách phản hồi một chiều quan điểm của khách hàng.
Phản hồi hai chiều là bạn chấp nhận những gì khách hàng nói và bổ sung thêm mặt kia của vấn đề để làm rõ sự xung đột giữa suy nghĩ và hành động của họ. Bạn có thể nói: “Tôi có thể thấy điều này khiến cho bạn lúng túng. Một mặt bạn lo lắng về việc sử dụng ma túy của bạn, nhưng mặt khác bạn lại cảm thấy là bạn không sử dụng nhiều hơn bạn bè và họ có vẻ là không có vấn đề gì hết”. Mục đích của việc lựa theo sự phản kháng là giúp khách hàng cân nhắc về những thông tin và cách nhìn nhận mới về việc sử dụng ma túy của họ.
Bản chiếu 16
Lựa theo sự phản kháng
Chuyển chủ đề
Chỉnh khung
Nhấn mạnh về sự lựa chọn và tự chủ của cá nhân
khách hàng
Dừng việc đưa ra các giải pháp
GIẢM BỚT SỰ PHẢN KHÁNG
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16 (tiếp)
2. Chuyển chủ đề
Chuyển chủ đề là chuyển hướng quan tâm của khách hàng từ những điều đi vào ngõ cụt chuyển sang một lối đi thoáng đãng hơn. Cách đi vòng như vậy có thể là một cách giải quyết tốt hoặc ít nhất là trì hoãn sự bất đồng giữa khách hàng và tư vấn viên khi đang thảo luận đến một nội dung đặc biệt khó khăn. Một nguyên tắc để chuyển chủ đề hiệu quả là trước tiên giải tỏa sự lo lắng ban đầu rồi sau đó định hướng sang một chủ đề khác dễ giải quyết hơn.
3. Chỉnh khung
Một phương pháp khác để làm giảm nhẹ sự phản kháng là phương pháp chỉnh khung những gì khách hàng đang nói. Với phương pháp này, tư vấn viên ghi nhận những thông tin ban đầu khách hàng đã đưa ra nhưng sau đó diễn giải cũng chính những thông tin đó với một cách nhìn mới. Thông tin của khách hàng được đặt vào trong một khung mới và được rọi chiếu bởi một ánh sáng mới, qua đó giúp họ hiểu sự việc tường tận hơn để thay đổi. Phương pháp chỉnh khung cũng đã được thảo luận trong bài 2.4 về Kỹ năng tư vấn.
4. Nhấn mạnh vào sự lựa chọn và tự chủ của cá nhân khách hàng
Sự phản kháng đôi khi nảy sinh từ một hiện tượng phản ứng về mặt tâm lí. Khi người ta cảm thấy rằng quyền tự do lựa chọn của họ bị đe dọa, họ thường có thiên hướng phản ứng lại bằng cách khẳng định quyền tự do đó (ví dụ: “Không ai có thể ra lệnh cho tôi phải làm việc này hay việc kia!” ) Đó là những cách phản ứng rất tự nhiên khi người ta cảm thấy bị mất quyền lựa chọn. Có lẽ biện pháp tốt nhất khi gặp trường hợp này là khẳng định với họ về sự thật: cuối cùng thì khách hàng vẫn là người quyết định điều gì sẽ được thực hiện. Làm rõ điều này với khách hàng ngay từ đầu sẽ làm giảm được hiện tượng phản kháng tự nhiên này. Dưới đây là một ví dụ:
Khách hàng: Nếu tôi nói với anh rằng tôi thích hút thuốc lá và tôi không muốn cai thì sao?
Tư vấn viên: Anh là một người tự do, và đó là sự lựa chọn của anh. Tôi không thể quyết định hộ cho anh, kể cả khi tôi muốn làm như vậy.
5. Dừng việc đưa ra giải pháp
Nếu đã dùng nhiều phương pháp để làm giảm sự đối kháng của khách hàng nhưng không thành công thì tư vấn viên cần phải ngừng việc đưa ra giải pháp.
Chương iV – Bài 4.2 55
Bản chiếu 17
Nói: Nếu khách hàng không đưa ra được quyết định thì bạn cần phải chấp nhận lựa chọn của họ. Bạn cần thể hiện sự thấu cảm với khách hàng về những khó khăn khi họ còn cảm thấy mơ hồ và lưỡng lự. Bạn có thể hỏi khách hàng xem họ có kế hoạch nào để xử trí trong trường hợp không đưa ra được quyết định không. Bạn cũng có thể cần hỏi xem họ có cần thêm điều gì để có thể đưa ra được quyết định không, ví dụ như thêm thời gian, thêm thông tin hoặc cần hỗ trợ thêm.
Chấp nhận điều đó
Hiểu rằng sự mơ hồ có thể gây nhiều khó khăn
Hỏi xem khách hàng có kế hoạch gì để xử trí trong trường hợp không đưa ra được quyết định không.
Còn điều gì khác (thông tin, thời gian, vv) có thể giúp khách hàng đưa ra được quyết định không?
NẾU KHÁCH HÀNG KHÔNG CAM KẾT THAY ĐỔI
56 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Nói: Tuy nhiên, cần luôn luôn mở rộng cánh cửa…
Hãy mở rộng cửa…..
‘Nói tóm lại, dường như là tại thời điểm này bạn chưa muốn thay đổi hành vi, nhưng nếu có lúc nào đó bạn cảm thấy cần được trao đổi thêm về điều này hoặc thấy rằng hành vi này đang gây ra cho bạn nhiều vấn đề thì hãy đến gặp tôi và chúng ta có thể trao đổi thêm nhé …’
LƯU Ý
Chương iV – Bài 4.2 57
Bản chiếu 19
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu. Tham khảo thông tin dưới đây về phỏng vấn tạo động lực và hạn chế của nó.
Thông tin tham khảo: Những điểm cần lưu ý và những hạn chế của PVTĐL Tính hiệu quả của kĩ thuật PVTĐL đã được nghiên cứu rộng rãi trong các cộng đồng dân cư khác nhau và đi đến kết luận rằng đây là một trong những biện pháp hiệu quả nhất để điều trị nghiện. Tuy nhiên, kĩ thuật này cũng còn có một số hạn chế nhất định cần được xem xét (Burke, Arkowitz, & Dunn, in press; Noonan & Moyers, 1997). Thứ nhất, không nên cho rằng PVTĐL là một phương thuốc trị bách bệnh dùng cho điều trị nghiện ma túy toàn diện. Thay vào đó, PVTĐL là một giải pháp để giải quyết sự mâu thuẫn giữa suy nghĩ và hành động của khách hàng và có thể chỉ là giải pháp ban đầu. Bởi vì PVTĐL cơ bản là dùng để hỗ trợ khách hàng giải quyết các yếu tố mâu thuẫn nên nếu sử dụng quá nhiều có thể lại gây trở ngại hoặc khiến cho những khách hàng có động cơ mạnh mẽ và cam kết sẽ thay đổi hành vi cảm thấy bực mình. Trong những trường hợp này, vai trò của PVTĐL chỉ đơn thuần là để giải quyết những vấn đề liên quan đến sự mâu thuẫn giữa suy nghĩ và hành động của khách hàng, nếu có.
Tương tự như những kĩ năng tư vấn khác, để áp dụng thành thạo PVTĐL đòi hỏi phải thực hành thường xuyên chứ không chỉ dừng lại ở việc học qua sách vở. Ngoài ra, không nên nghĩ rằng PVTĐL là một phương pháp được lập trình sẵn theo từng bước một, mà đây là một phương pháp linh hoạt của sự tương tác trong điều trị. Cuối cùng, để nắm chắc các kĩ thuật PVTĐL, bạn cần phải nghiên cứu và thực hành rất nhiều. Chúng tôi cũng cung cấp cho các bạn những nguồn tài liệu tham khảo chi tiết ở phần cuối của tài liệu này. Hi vọng rằng đây sẽ là những nguồn tài liệu tham khảo bổ ích giúp các bạn thành thạo cả về lí thuyết lẫn thực hành PVTĐL.
Việc quyết định phải tập trung vào khách hàng Sử dụng các kỹ năng tư vấn để dẫn dắt thảo luận về thay đổi
Giúp xác định giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng
Can thiệp phải phù hợp với giai đoạn thay đổi của khách hàng
Làm nổi bật sự mâu thuẫn giữa tình trạng hiện tại của khách hàng và mong muốn của họ trong tương lai
KẾT LUẬN - PVTĐL
58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 19 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, hãy trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài khác, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
Jarvis, T., Tebutt, J. & Mattick, R. 1995, ‘Motivational Interviewing’, Treatment Approaches for Alcohol and Drug Dependence, An Introductory Guide, ch. 3, John Wiley & Sons Ltd., Chichester, England. Mason, P. 1997, Respecting Choice: Brief Motivational Interviewing, National Centre for Education and Training on Addiction (NCETA), Flinders University, Adelaide.
McDonald, J., Roche, A.M., Durbridge, M. & Skinner, N. 2003, Peer Education: From Evidence to Practice. An Alcohol and Other Drugs Primer, National Centre for Education and Training on Addiction (NCETA), Flinders University, Adelaide. Miller, W. & Rollnick, S. 1991, ‘Motivational Interviewing’ Preparing People to Change Addictive Behavior, The Guilford Press, New York.
Motivational Interviewing at: http://www.drugnet.bizland.com Daniel D. Squires & Theresa B. Moyers. ‘Motivational Interviewing’ A Guideline developed for the Behavioral Health Recovery Management Project. University of New Mexico Center on Alcoholism, Substance Abuse and Addictions, Albuquerque, New Mexico.
John Howard, 2006. A Toolkit for Building Capacity For Community-based Treatment and Continuing Care of Young Drug Abusers in The Greater Mekong Subregion. The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacifc.
William R. Miller, 1999. ‘Enhancing Motivation for Change in Substance Abuse Treatment’ Treatment Improvement Protocol (TIP) Series 35. Center for Substance Abuse Treatment (CSAT). Substance Abuse and Mental Health Services Administration's (SAMHSA). U.S. Department Of Health And Human Services At: http://www.ncbi.nlm.nih.gov
Chương iV – Bài 4.2 59
Năm nguyên tắc chính của PVTĐL
Phương pháp PVTĐL có tính chất định hướng, ở đó tư vấn viên phải có sẵn trong đầu các mục tiêu cụ thể trước khi tiến hành. Những mục tiêu này được hình thành dựa trên hiểu biết về các nguyên tắc chính của PVTĐL. Khi lên kế hoạch cho buổi tư vấn sử dụng PVTĐL, tư vấn viên phải cố gắng thực hiện những điều sau đây.
Thể hiện sự thấu cảm
Trong bối cảnh điều trị, thấu cảm bao gồm chấp nhận, không phán xét và cố gắng hiểu rõ quan điểm của khách hàng, và tránh sử dụng các từ ngữ như “sâu rượu” hoặc “nghiện ma túy”. Đặc biệt là tránh tranh cãi, chỉ trích hoặc trách mắng khách hàng. Sử dụng kĩ năng lắng nghe có phản hồi để làm rõ và nêu bật quan điểm của cá nhân khách hàng là yếu tố nền tảng để thể hiện tốt sự thấu cảm. Thấu cảm sẽ giúp buổi tư vấn đạt được kết quả tốt hơn.
Giảm bớt mâu thuẫn/Nêu ra sự không nhất quán
Khách hàng thường có động lực thay đổi hành vi sử dụng ma túy khi họ nhận ra sự không nhất quán giữa việc sử dụng ma túy hiện tại của họ và những vấn đề có liên quan đến việc sử dụng ma túy đó và cuộc sống mà họ mong muốn. Sự khác biệt giữa những mục đích quan trọng trong cuộc sống và hành vi hiện tại của họ càng lớn thì họ càng dễ thay đổi hơn. PVTĐL giúp chỉ rõ và nêu bật sự không nhất quán đó, dựa trên quan điểm của chính khách hàng. Điều này rất quan trọng đối với khách hàng để từ đó họ có thể xác định được những mục tiêu và giá trị quan trọng trong cuộc sống và bày tỏ lý do để thay đổi của chính họ.
Hướng dẫn khách hàng tự nói những lời tự động viên
Tư vấn viên cần đánh giá khách hàng về những nội dung:
‚ Sự sẵn sàng tiếp nhận thông tin
‚ Nhận thức về các tác hại liên quan đến hành vi
‚ Mong muốn/ nhu cầu thay đổi hành vi
Hướng dẫn khách hàng tự nói những lời động viên bản thân là một trong những mục tiêu của PVTĐL. Niềm tin của khách hàng vào khả năng thay đổi và một loạt các giải pháp thay thế đóng vai trò rất quan trọng. Lưu ý rằng, khách hàng tự chịu trách nhiệm đối với sự thay đổi và lựa chọn của họ. Đây chỉ là một giải pháp nhằm để giúp khách hàng giải quyết sự mơ hồ và để khách hàng có khả năng xác định lí do cho sự thay đổi của họ.
Tài liệu phát tay 4.2-1
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Dưới đây là bốn nội dung chính để thảo luận về sự thay đổi:
‚ Nhận ra sự bất lợi của việc duy trì hành vi hiện tại
‚ Nhận ra những lợi điểm của việc thay đổi
‚ Thể hiện sự lạc quan về sự thay đổi
‚ Thể hiện ý định thay đổi
Có nhiều cách để khuyến khích khách hàng trao đổi về sự thay đổi:
‚ Trực tiếp hỏi các câu hỏi mở; ví dụ:
- “Bạn lo lắng những gì về việc sử dụng ma túy của bạn?”
- “Theo bạn chuyện gì sẽ sảy ra nếu bạn không thay đổi hành vi?”
- “Nếu bạn giảm bớt việc sử dụng ma túy đi thì bạn sẽ có thể có những lợi ích gì?”
- “Bạn mong muốn cuộc sống của mình sẽ như thế nào trong 5 năm tới?”
- “Nếu bạn đã quyết định thay đổi thì bạn thấy rằng cần phải làm gì để có thể thay đổi được?”
- “Bạn cảm thấy tự tin ở mức độ nào rằng bạn có thể đạt được sự thay đổi này?”
- “Giảm bớt việc sử dụng ma túy quan trọng như thế nào đối với bạn ?”
- “Bạn nghĩ thế nào về việc sử dụng ma túy hiện tại của bạn?”
‚ Sử dụng các thước đo tầm quan trọng và sự tự tin. Miller và Rollnick đã đưa ra gợi ý nên sử dụng các thước đo này để đo mức độ tự đánh giá của khách hàng và sau đó hỏi tiếp hai câu hỏi sau đây:
- “Tại sao bạn lại đánh giá bản thân ở mức (VD: điểm 3) chứ không phải là ở mức 1?”. Câu hỏi này giúp khách hàng phải đưa ra lí do bằng lời để bảo vệ mức độ cam kết của bản thân - điều này giúp tăng thêm động cơ thay đổi của khách hàng.
- “Điều gì khiến bạn tự thay đổi mức đánh giá từ (VD: mức 3) lên (VD: mức 6) (một mức cao hơn)? Câu hỏi này giúp khách hàng phải nói ra các giải pháp khả thi nhất để thay đổi và bắt buộc họ phải suy nghĩ kĩ hơn về sự thay đổi đó.
‚ Sử dụng cán cân ra quyết định bằng cách khuyến khích khách hàng trao đổi về những lợi ích của sự thay đổi và những hậu quả của việc duy trì hành vi.
‚ Yêu cầu khách hàng làm rõ hoặc nói thật chi tiết về từng điểm một. Ví dụ, một khách hàng nói về những điều không tốt về việc sử dụng cocaine là nỗi sợ bị đánh đập, thì có thể yêu cầu khách hàng:
- “Mô tả về lần cuối cùng chuyện xảy ra như thế nào”
- “Rồi chuyện gì xảy ra nữa?”
- “Hãy nêu một ví dụ về điều đó”
- “Kể cụ thể hơn nữa về điều đó”
‚ Đề nghị khách hàng hình dung ra những hậu quả xấu nhất của việc duy trì hành vi và những điểm ích lợi nhất của việc thay đổi.
‚ Tìm hiểu những mục tiêu và giá trị quan trọng trong cuộc đời của khách hàng để xác định ra sự khác biệt giữa các giá trị đó và việc sử dụng ma túy hiện tại của khách hàng. Ví dụ, hãy hỏi khách hàng:
- “Điều quan trọng nhất trong cuộc đời bạn là gì?”
Các ví dụ về việc giúp khách hàng tự nói ra những lời động viên bản thân có trong Tài liệu phát tay 4.2-2
Lựa theo sự phản kháng
Phản kháng xảy ra khi khách hàng tranh cãi, ngắt lời hoặc phủ nhận những gợi ý của tư vấn viên. Khi đó, bạn không nên tiếp tục phản đối họ vì làm như thế sẽ chỉ khiến cho họ càng phản ứng mạnh hơn. Diễn giải lại các câu nói của khách hàng theo một quan điểm khác có thể tăng thêm động cơ của khách hàng mà không gây ra sự phản kháng. Một trong những nguyên tắc chính của PVTĐL là tư vấn viên phải chấp nhận rằng sự mơ hồ và phản kháng của khách hàng đối với thay đổi hành vi là hoàn toàn bình thường và cần gợi ý để khách hàng cân nhắc về một số thông tin và khía cạnh mới liên quan đến việc sử dụng ma túy của họ. Khi khách hàng có biểu hiện phản kháng, tư vấn viên chỉ nên diễn giải lại hoặc phản hồi lại sự phản kháng đó chứ không nên phản đối khách hàng. Điều quan trọng nhất là tránh tranh cãi với khách hàng để phục vụ cho mục đích thay đổi hành vi, vì làm như vậy sẽ đẩy khách hàng vào tình thế tranh cãi lại quan điểm đó của bạn. Lựa theo sự phản kháng nghĩa là không đối đầu với khách hàng. Có rất nhiều kĩ thuật có thể được áp dụng trong trường hợp này. Ví dụ, bạn có thể nói với họ rằng, “Hiện tại, bạn có vẻ là chưa sẵn sàng thay đổi phải không?”. Đây là phản hồi một chiều quan điểm của khách hàng.
Một cách nữa là phản hồi hai chiều. Với cách phản hồi này, bạn chấp nhận những gì khách hàng nói và bổ sung vào vế bên kia để làm rõ sự xung đột giữa suy nghĩ và hành động của họ. Bạn có thể nói: “Tôi nhận thấy là bạn đang còn bối rối về vấn đề này: một mặt bạn nói rằng bạn rất lo lắng về việc sử dụng ma túy của bạn nhưng mặt khác, bạn dường như không sử dụng ma túy nhiều như bạn bè mình, mà họ thì lại có vẻ chẳng có vấn đề gì cả”. Mục đích của lựa theo sự phản kháng là để khách hàng cân nhắc về thông tin và cách nhìn nhận mới về việc sử dụng ma túy của họ. Một số khách hàng tin rằng cai nghiện có th
ể gây tổn hại tới các bộ phận nội tạng trong cơ thể, khiến họ có thể chết. Họ tin như vậy vì đã chứng kiến rất nhiều bạn bè chết trong hoặc sau khi cai nghiện. Vì vậy, họ nghĩ rằng cần phải tiếp tục sử dụng ma túy để có thể sống được lâu hơn, mặc dù biết rằng việc sử dụng ma túy gây cho họ quá nhiều rắc rối. Khi khách hàng quá tin vào sự hiểu lầm này, tư vấn viên không nên nói với họ rằng điều đó là không đúng, vì nếu bạn nói như vậy họ sẽ phản kháng mạnh hơn, thậm chí bỏ đi không tiếp tục buổi tư vấn nữa.
Trong tình huống này, chúng ta có thể nói với khách hàng như sau:
Phản hồi một chiều: ‘Tôi hiểu rõ lý do tại sao bạn lại nghĩ như vậy vì rất nhiều người sử dụng ma túy khác cũng nghĩ như thế”.
Phản hồi hai chiều: ‘Từ những điều bạn vừa nói, tôi hiểu rằng bạn rất sợ phải cai nghiện bởi vì rất nhiều người sử dụng ma túy tin rằng họ sẽ chết sau khi cai nghiện. Tuy nhiên, tôi nghĩ là bạn cũng biết rất nhiều người đã cai nghiện rất thành công, đúng không?”
Sử dụng các kĩ năng tư vấn
Phỏng vấn tạo động lực sử dụng 4 kĩ năng tư vấn cụ thể. Các kĩ năng này được sử dụng kết hợp với nhau để khuyến khích khách hàng trao đổi, khám phá những mâu thuẫn nội tâm của họ về việc sử dụng ma túy, và làm rõ những lí do tại sao họ muốn giảm bớt hoặc ngừng sử dụng ma túy. Những kĩ năng này bao gồm: đặt câu hỏi mở, khen ngợi, lắng nghe có phản hồi, và tóm tắt. Kĩ năng thứ năm là “gợi cho khách hàng nói về sự thay đổi” được áp dụng cùng với 4 kỹ năng trên để hướng dẫn khách hàng trình bày những lí do vì sao họ lại thay đổi hành vi sử dụng ma túy của họ.
Các kỹ năng cụ thể
Đặt câu hỏi mở
Câu hỏi mở là một câu hỏi có thể có nhiều cách trả lời và người trả lời có cơ hội để nói lên ý kiến của mình. Ví dụ về các câu hỏi mở bao gồm:
‚ “Những lợi ích của việc sử dụng ma túy đối với bạn là gì?”
‚ “Hãy nói cho tôi biết về những điều không tốt của việc sử dụng...(tên loại ma túy)?”
‚ “Hình như là bạn đang lo lắng về việc sử dụng ma túy của bạn - hãy nói cho tôi nghe về những lo lắng đó đi.”
‚ “Bạn lo lắng gì về điều đó?”
‚ “Bạn cảm thấy thế nào về ...?”
‚ “Bạn muốn làm gì về điều đó?”
‚ “Bạn biết gì về....?”
Khen ngợi
Khen ngợi và thấu hiểu khách hàng giúp tạo nên không khí thoải mái và tạo dựng mối quan hệ thân thiện với họ. Khẳng định sức mạnh và nỗ lực để thay đổi của khách hàng sẽ giúp khách hàng tự tin vào khả năng của bản thân chính họ, đồng thời khẳng định lại những lời nói tự động viên của khách hàng (nói về sự thay đổi) sẽ khuyến khích họ sẵn sàng thay đổi. Ví dụ về những lời khen ngợi/khẳng định bao gồm:
‚ “Cảm ơn bạn đã đến đây ngày hôm nay.”
‚ “Tôi đánh giá cao việc bạn sẵn lòng trao đổi với tôi về việc sử dụng ma túy của bạn.”
‚ “Bạn đúng là một người rất mạnh mẽ khi đương đầu với những khó khăn như vậy.”
‚ “Tôi có thể nhận thấy bạn thực sự là một người rất mạnh mẽ.”
‚ “Ý kiến đó thật hay.”
‚ “Thật khó khăn khi nói về .... tôi thực sự đánh giá cao về sự kiên trì của bạn.”
Lắng nghe có phản hồi
Lắng nghe có phản hồi là dựa trên lời nói của khách hàng để đoán ý của họ và diễn đạt lại ý hiểu đó. Phản hồi lại hàm ý và cảm xúc thầm kín của khách hàng đóng vai trò rất quan trọng. Lắng nghe có phản hồi giống như là một chiếc gương soi để khách hàng có thể nghe thấy tư vấn viên nhắc lại những gì họ vừa nói ra. Lắng nghe có phản hồi cho khách hàng thấy rằng tư vấn viên hiểu những gì họ nói và làm rõ nghĩa những lời nói của họ. Thể hiện tốt kĩ năng lắng nghe có phản hồi sẽ khuyến khích khách hàng tiếp tục nói chuyện với bạn và bạn nên dành đủ thời gian để khách hàng bộc bạch hết tâm tư của họ. Trong PVTĐL, lắng nghe có phản hồi được sử dụng để nêu bật sự mơ hồ trong nội tâm của khách hàng về việc sử dụng ma túy của họ, để khách hàng nhận thức rõ hơn về những vấn đề và mối lo ngại của họ, và để nhấn mạnh những lời nói cho thấy khách hàng đang suy nghĩ về sự thay đổi. Ví dụ:
‚ “Bạn có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy rằng mức điểm của bạn cho thấy là bạn đang có nguy cơ gặp nhiều rắc rối”
‚ “Thực sự là bạn cần phải duy trì được mối quan hệ với người yêu của bạn”
‚ “Bạn cảm thấy không thoải mái khi nói về vấn đề này”
‚ “Anh đang cảm thấy rất tức giận vì vợ anh cứ cằn nhằn về việc sử dụng ma túy của anh.”
‚ “Bạn muốn giảm bớt việc sử dụng ma túy của bạn tại các bữa tiệc.”
‚ “Bạn đang cảm thấy rất thích thú với việc sử dụng ma túy của bạn và không hề muốn từ bỏ nó, đồng thời bạn cũng thấy rằng việc sử dụng ma túy cũng gây cho bạn những vấn đề liên quan tới tài chính và luật pháp.”
Tóm tắt
Tóm tắt là một phương pháp quan trọng nhằm xâu chuỗi các thông tin mà khách hàng vừa nói và chuẩn bị để họ thực hiện các bước tiếp theo. Tóm tắt hỗ trợ cho kĩ năng lắng nghe có phản hồi, đặc biệt là khi thảo luận về những mối quan tâm và sự thay đổi của khách hàng. Đầu tiên, khách hàng tự nghe mình nói, sau đó họ lại nghe ý kiến phản hồi của tư vấn viên, rồi cuối cùng họ lại nghe tư vấn viên tóm tắt về điều đó. Tư vấn viên hãy lựa chọn những nội dung cần phải tóm tắt để có thể định hướng cho việc thay đổi hành vi bằng cách nhấn mạnh vào một số nội dung nhất định chứ không phải tất cả các nội dung đã được trao đổi. Phần tóm tắt phải thật là ngắn gọn và xúc tích. VD:
“Vậy là bạn rất thích sử dụng heroin tại các buổi tiệc và bạn nghĩ rằng bạn sử dụng không nhiều bằng bạn bè của bạn. Nhưng đồng thời bạn lại tiêu quá nhiều tiền so với khả năng bạn có thể kiếm được, và điều đó khiến bạn rất lo lắng. Bạn đang gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản chi của mình. Vợ bạn đang rất giận bạn và bạn thực sự không muốn làm cho cô ấy tiếp tục lo lắng. Ngoài ra, bạn cũng nhận thấy rằng bạn bị khó ngủ và rất hay quên.”
Chương iV – Bài 4.2 65
Làm thế nào để nhận biết những lời nói tự động viên

Lời nói tích cực tự động viên Những lời khẳng định không mang tính động viên
Tôi đoán là việc này có tác động tới bản thân tôi nhiều hơn là tôi tưởng. Tôi chẳng có bất kỳ vấn đề gì với cần sa.
Đôi khi khi tôi đang sử dụng, tôi không thể suy nghĩ hoặc tập trung được. Khi tôi đang phê, tôi cảm thấy thật thư giãn và sáng tạo.
Tôi cảm thấy như là đầu óc tôi đang chao đảo. Tôi có thể uống cả đêm mà chẳng hề say.
Tôi cảm thấy thật khủng khiếp khi nhận ra rằng việc say xỉn của tôi đã làm cho gia đình tôi bị tổn thương như thế nào. Tôi là người chẳng bao giờ có vấn đề gì cả.
Tôi không biết phải làm gì, nhưng dứt khoát là phải thay đổi một điều gì đó. Chẳng có cách nào khiến tôi có thể từ bỏ được ma túy cả.
Hãy nói cho tôi biết tôi nên làm gì nếu tôi tham gia vào chương trình điều trị cai nghiện. Tôi sẽ chẳng đời nào đi điều trị ở bệnh viện đâu.
Tôi nghĩ là tôi sẽ trở nên sáng sủa và nghiêm túc hơn nếu tôi quyết định làm như vậy. Tôi đã thử cai rồi, và tôi không thể nào cai được.
Nếu tôi thực sự quyết tâm làm điều đó, tôi có thể làm được. Tôi còn bao nhiêu thứ phải lo nên tôi chẳng thể nào suy nghĩ về việc cai được.
Tài liệu phát tay 4.2-2
66 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu phát tay 4.2-3
Ví dụ về một buổi tư vấn tìm hiểu về những điều tốt và không tốt của một hành vi (thói quen thức khuya)
Giảng viên: Xin mời ngồi. Theo như tôi hiểu thì bạn rất thích thức khuya phải không?
Học viên: Vâng. Đúng thế.
Giảng viên: Bạn có thể nói cho tôi biết lý do tại sao bạn lại thích thức khuya không?
Học viên: Tôi thức khuya vì lúc đó rất yên tĩnh, tôi có thể tập trung suy nghĩ và làm được nhiều việc trong một thời gian ngắn. Đó là lý do tại sao tôi lại thích thức khuya.
Giảng viên: Vậy là thức khuya giúp bạn suy nghĩ tốt hơn?
Học viên: Đúng thế.
Giảng viên: Ừ, còn lí do nào khác khiến bạn thích thức khuya nữa không?
Học viên: Khi tôi thức đến 11 hoặc 12 giờ đêm thì tôi rất khó ngủ lúc đó, do vậy tôi cứ tiếp tục thức thôi.
Giảng viên: Vậy là nếu bạn càng thức khuya, bạn càng thức được lâu hơn nữa. Thế thức khuya thì có lợi gì cho bạn?
Học viên: Khi mà tôi còn là sinh viên, tôi phải làm rất nhiều bài tập khó vào buổi tối và tôi có thể làm rất nhanh và làm tốt các bài tập này so với khi mà tôi phải làm vào lúc ban ngày, thậm chí có lúc tôi còn không thể làm nổi vào ban ngày nữa.
Giảng viên: À, thì ra là học bài vào buổi tối thì hiệu quả hơn. Nghe có vẻ như là việc thức khuya hồi còn là sinh viên là rất quan trọng và hiệu quả đối với bạn. Thế bạn có thể nói cho tôi biết là bạn có vấn đề gì khi thức khuya như vậy không?
Học viên: Vấn đề là ở chỗ nếu tối hôm trước tôi thức khuya thì sáng hôm sau khi đi học hoặc đi làm tôi khó có thể tập trung vào công việc, nhưng nếu hôm sau là ngày nghỉ, tôi ở nhà và ngủ cả ngày.
Giảng viên: Ô, thế à. Hóa ra đó lại là vấn đề của bạn à? Bạn có thể giải thích cho tôi biết vì sao điều đó lại là một vấn đề không?
Học viên: Thì khi tôi ngủ cả ngày trời, lúc dậy tôi cảm thấy rất mệt. Và tôi không thể làm tốt công việc sau đó nữa.
Giảng viên: Được rồi. Vậy là bạn gặp một số vấn đề do thức khuya, như là không thể tỉnh táo, không suy nghĩ hiệu quả và cảm thấy rất mệt khi thức dậy. Vậy thì một mặt, bạn thích thức khuya vì bạn cho rằng điều đó giúp bạn suy nghĩ sáng suốt hơn và làm việc hiệu quả hơn. Bạn cũng đã từng hay thức khuya khi còn là sinh viên và dường như chẳng gặp bất cứ vấn đề gì. Tôi cũng thấy bạn nói rằng vấn đề mà bạn gặp phải khi thức khuya là bạn làm việc không hiệu quả vào ngày hôm sau và cuối tuần thì rất mệt mỏi. Vậy thì thức khuya vừa có lợi vừa gây cho bạn một số vấn đề, và tôi tò mò muốn tìm hiểu xem là đối với bạn thì những vấn đề đó là quan trọng hay chẳng có gì to tát cho lắm?
Học viên: Thỉnh thoảng tôi cũng suy nghĩ rất nhiều về điều này, và tôi cũng biết là thức khuya thì chẳng tốt gì cho sức khỏe và về lâu dài thì càng không phải là một biện pháp tốt. Nhưng mà đó là thói quen và rất là khó bỏ.
Giảng viên: À, bây giờ thì bạn đã có một danh sách khá dài về những vấn đề so với những lợi ích của việc thức khuya. Và nghe chừng bạn cũng đang lo lắng về những vấn đề đó. Thế thì chúng ta có thể cùng nhau trao đổi và tôi có thể giúp bạn nghĩ ra một giải pháp nào đó để giúp bạn không thức khuya nữa.
Bình luận:
Đây là một ví dụ rất tốt về một cuộc phỏng vấn với khách hàng đang ở trong giai đoạn dự định và muốn thay đổi một hành vi nào đó. Tư vấn viên bắt đầu câu chuyện bằng cách hỏi về những điều mà khách hàng thích về việc thức khuya. Tư vấn viên cố gắng để khách hàng trả lời thật dài và khơi gợi xem còn điều gì nữa không. Trong một buổi tư vấn, tư vấn viên có thể tiếp tục khơi gợi cho đến khi không còn một lí do nào nữa mới thôi. Tư vấn viên cũng sẽ ghi chép lại nội dung câu chuyện và nhắc lại những nội dung này. Khách hàng sẽ có cơ hội nghe lại và xem lại những nội dung đó và có thể khẳng định lại những lời đã nói. Trong một buổi tư vấn thực, tư vấn viên nên hỏi về tầm quan trọng của mỗi lí do. Với những điểm thật sự quan trọng, tư vấn viên nên đánh dấu lại vì chúng cần được lưu ý thêm. Lưu ý rằng tư vấn viên không giả định là có vấn đề mà chỉ hỏi xem có vấn đề không và sau đó khẳng định lại khi khách hàng cho rằng có thể có vấn đề. Cũng cần lưu ý là tư vấn viên không giả định điều nào quan trọng hơn mà cần hỏi khách hàng xem điều gì quan trọng và quan trọng đến mức nào. Tư vấn viên cũng cần khẳng định lại là có vấn đề hay không bằng cách hỏi: "Còn vấn đề nào khác không" Sau đó, tư vấn viên sẽ lập một danh sách các vấn đề do khách hàng xác định.
Sau đó, tư vấn viên chỉ ra sự không nhất quán bằng cách nói : "Có vẻ là có một vài vấn đề mà bạn vừa nhắc đến, bao gồm giảm khả năng suy nghĩ, hiệu quả công việc và cảm giác mệt mỏi suốt cả ngày và đặc biệt vào cuối tuần. Nhưng mặt khác, bạn lại nói rằng bạn rất thích thức khuya vì bạn nghĩ đó là cách hiệu quả giúp bạn suy nghĩ và hoàn thành công việc tốt hơn". Sau đó khách hàng được dành thời gian để suy nghĩ và quyết định xem có hay không có sự không nhất quán ở đây.
Đừng nên vì thấy danh sách các điểm có hại nhiều hơn các điểm có lợi mà cho rằng cán cân sẽ nghiêng về phía phải thay đổi. Nhiều khi chỉ duy nhất một yếu tố thôi cũng có thể quan trọng hơn nhiều yếu tố khác cộng lại chúng. Giá trị của hoạt động này là khách hàng đã xác định các vấn đề và bạn đã ghi lại. Khách hàng đọc lại danh sách và xem xét cả những lợi ích và vấn đề cùng với nhau. Đây có thể là lần đầu tiên trong đời, khách hàng được xem một danh sách như vậy. Điều này có thể có tác động mạnh đến cán cân thay đổi. Đôi khi đầu óc bạn khó có thể ghi nhớ được tất cả các nội dung cùng một lúc. Khách hàng có thể vẫn rất bối rối và có thể ra về và tiếp tục suy nghĩ về những điều bạn vừa nói. Vì vậy bạn cũng đừng quá lo lắng khi khách hàng không thể đưa ra được cam kết gì tại thời điểm đó bởi vì có thể ngày mai, hoặc ngày kia họ sẽ quay lại và nói : "Ồ, tôi phải làm một điều gì đó’. Bạn cũng không cần phải lo lắng khi khách hàng có thể nhìn thấy một danh sách rất dài những điểm có hại mà khách hàng vẫn muốn sử dụng ma túy. Với những khách hàng đang ở trong giai đoạn tiền dự định, chúng ta vẫn có thể sử dụng những kĩ thuật can thiệp khác. Kỹ thuật PVTĐL có tác dụng chủ yếu là giúp khách hàng đang ở trong giai đoạn dự định thay đổi chuyển sang giai đoạn hành động để thực sự thay đổi.
Chương iV – Bài 4.2 69
Tài liệu phát tay 4.2-4
Những điểm tốt và không tốt của việc sử dụng ma túy
Hãy sử dụng một bảng giống như bảng dưới đây, để giúp khách hàng tìm hiểu về việc sử dụng ma túy của họ và để xác định những vấn đề có thể trở thành trọng tâm cho quá trình điều trị.


Những điểm tốt của việc sử dụng ma túy Những điểm không tốt của việc sử dụng ma túy
70 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu phát tay 4.2-5
Sau khi hoàn thành các câu hỏi đánh giá với tư vấn viên Khang, Tuấn - một thanh niên 18 tuổi hiện đang sống với vợ và con nhỏ đã tự đánh giá bản thân ở mức nguy cơ thấp đối với tất các các ma túy, trừ heroin được xếp ở mức độ nguy cơ ở mức trung bình.
Các kỹ thuật và các bước PVTĐL được sử dụng trong buổi tư vấn này được in đậm và nằm trong ngoặc đơn ở cuối câu.
Khang. Cảm ơn bạn đã cùng tôi hoàn thành bảng câu hỏi đánh giá này. Có thể nói rằng hiện tại heroin là loại ma túy mà bạn sử dụng nhiều nhất phải không?
(khẳng định)
Tuấn. Vâng. Khá nhiều.
Khang. Bạn thấy thích điều gì về việc sử dụng heroin - Ý tôi là những điều có lợi là gì?
(câu hỏi mở- tìm ra các điều tốt và không tốt).
Tuấn. À, nó giúp tôi thư giãn, đặc biệt là khi đi làm về. Nó giúp tôi đỡ mệt và quên đi ngày tháng. Khi chơi cùng với bạn bè hoặc tại các buổi tiệc hoặc một dịp nào đó vào cuối tuần thì càng tuyệt hơn vì khi đó mình cảm thấy vui vẻ hơn.
Khang. Vậy thì trung bình một ngày bạn chích bao nhiêu? (tìm hiểu về tiền sử sử dụng)
Tuấn. Khoảng 2 lần, tôi không nhớ là bao nhiêu nhưng mỗi liều tốn khoảng 30.000 đồng.
Khang. Vào những ngày cuối tuần bạn cũng chích bấy nhiêu thôi à? (tìm hiểu về tiền sử sử dụng)
Tuấn. À..vâng.. có thể là nhiều hơn một chút… khoảng 3 lần, mà tôi chẳng biết nữa, thỉnh thoảng tôi chẳng thể nào nhớ nổi cái gì cả (cười).
Khang. Thế những điều bạn không thích lắm về việc sử dụng heroin là gì vậy? (câu hỏi mở- tìm ra các điều tốt và không tốt).
Tuấn. Hỏi vợ tôi ấy. Cô ấy lúc nào mà chẳng cằn nhằn về việc này (cười). Tôi nghĩ là điều tồi tệ nhất về nó là dường như nó làm giảm trí nhớ của tôi và tôi không thể tập trung vào công việc được. Thỉnh thoảng sau khi đã chích một liều thật phê vào đêm hôm trước thì ngày hôm sau tôi hơi lười biếng và cảm thấy rất mệt mỏi. Có hôm tôi cảm thấy thực sự rất mệt và không thể đi làm được.
Ví dụ về một buổi tư vấn
Phản hồi và tìm ra các điều tốt và không tốt của việc sử dụng heroin – 5 phút
Chương iV – Bài 4.2 71
Khang. Vậy là sử dụng nó giúp bạn thư giãn và đỡ mệt mỏi sau khi làm việc, nhưng nó cũng làm bạn hay quên và mệt mỏi và đôi lúc bạn còn quên cả đi làm nữa. Bạn cũng nói rằng vợ bạn không thích bạn sử dụng heroin - vậy bạn có biết vì sao lại như vậy không? (lắng nghe có phản hồi, định hướng lại trọng tâm, câu hỏi mở).
Tuấn. Cô ấy không thích tôi cứ “phê’ suốt ngày vì cô ấy nói rằng tôi chẳng làm gì cả ngoài việc chỉ ngồi đó và xem TV và thường quên giúp cô ấy làm việc nhà. Cô ấy bảo là tôi chẳng chịu làm việc nhà và cô ấy luôn phải tự làm hết mọi việc và phải trông con nữa. Nhưng mà tôi đã phải đi làm mà đưa lương tháng cho cô ấy rồi mà...
Khang. Và như vậy thì thật khó cho bạn vì sử dụng heroin giúp bạn thư giãn nhưng cũng làm cho bạn chẳng giúp được việc nhà vì lúc đó bạn ”phê” và đôi lúc bạn còn quên làm các công việc mà cô ấy đã nhờ bạn làm giúp. (tóm tắt, thấu cảm).
Tuấn. À vâng.
Khang. Bạn có muốn xem kết quả đánh giá mà bạn vừa giúp tôi hoàn tất không?
(Khơi gợi)
Tuấn. Có.
Khang. Dựa trên những câu trả lời của bạn thì mức độ nguy cơ đối với hầu hết các loại ma túy đang ở mức thấp, vì vậy bạn chưa có vấn đề gì nghiêm trọng lắm nếu như bạn tiếp tục sử dụng chúng ở mức độ hiện tại. Tuy nhiên, mức độ nguy cơ của việc sử dụng heroin thì tương đối cao, điều đó có nghĩa là bạn có nguy cơ bị tổn hại về mặt sức khoẻ do việc tiêm chích heroin hiện tại của bạn. (đưa ra nhận xét phản hồi)
Bạn cũng nói rằng bạn có vấn đề về trí nhớ, sự tập trung và động cơ trong công việc...
Tuấn. (ngắt lời) vâng nhưng đó có thể là do tôi quá mệt mỏi vì tôi không thể ngủ ngon giấc nếu như con tôi cứ khóc vào buổi đêm. (phản kháng)
Khang. Vậy là anh chỉ có vấn đề về trí nhớ và khó tập trung vào công việc và giúp đỡ vợ khi đi làm về bởi vì anh ngủ không đủ giấc phải không.? (lựa theo sự phản kháng - làm rõ nhận xét phản hồi)
Tuấn. À, một phần là như thế. Tôi nghĩ là một phần cũng có thể là do tôi dùng quá nhiều heroin. (sự mâu thuẫn)
Khang. Bạn lo lắng như thế nào về các tác động của heroin đối với bạn? (câu hỏi mở, giúp tự nói ra những lo lắng của mình)
Tuấn. À, vâng… tôi cũng chẳng biết nữa….ý tôi là tôi cũng hơi lo lắng một chút rằng nó sẽ ảnh hưởng tới trí óc của tôi… tôi cũng chẳng biết nữa. (im lặng)
Khang. Nghe này Tuấn, bạn có rất nhiều sự lựa chọn và bạn hãy tự quyết định xem lựa chọn nào là tốt nhất cho bạn. Tôi cứ đưa cho bạn một số tờ rơi về việc sử dụng ma túy để bạn mang về nhà đọc thêm nhé? Những tài liệu này sẽ giải thích kỹ hơn về các tác động của heroin và các chất ma túy khác và cung cấp các thông tin về cách giảm bớt hoặc ngừng sử dụng heroin. Bạn có thể xem và quyết định xem nên làm thế nào (đưa cho Tuấn tài liệu). Nếu bạn muốn chúng ta có thể bàn tiếp về các lựa chọn của bạn vào dịp khác cũng được. (lời khuyên bằng tài liệu, các giải pháp lựa chọn, nhấn mạnh vào sự lựa chọn và kiểm soát của cá nhân khách hàng)
Tuấn. À... OK...cảm ơn anh...tôi sẽ suy nghĩ thêm về việc này. (Nếu có thời gian nên tập trung vào mối quan hệ của Tuấn với vợ và con)
Chương iV – Bài 4.2 73
Tài liệu phát tay 4.2-6

Bốn dạng phản kháng của khách hàng
Tranh cãi
Khách hàng tranh cãi về sự chính xác, chuyên môn, hoặc sự chân thành của tư vấn viên.
 Thách thức: Khách hàng trực tiếp thách thức sự chính xác của những điều tư vấn viên vừa nói .
 Không tin tưởng: Khách hàng chất vấn về quyền hạn và chuyên môn của tư vấn viên.
 Thù nghịch: Khách hàng trực tiếp thể hiện thái độ thù nghịch đối với tư vấn viên.
Ngắt lời
Khách hàng ngắt lời và chọc tức tư vấn viên một cách rất khó chịu.
 Nói át đi: Khách hàng nói to trong khi tư vấn viên vẫn chưa dứt lời.
 Ngắt lời: Khách hàng xem ngang bằng những lời lẽ chủ ý để ngắt lời tư vấn viên (VD: "Chờ một chút nhé. Tôi đã nghe đủ rồi").
Phủ nhận
Khách hàng thể hiện sự từ chối không chịu nhận thức về vấn đề , không hợp tác, từ chối trách nhiệm, hoặc không cần lời khuyên.
 Đổ lỗi: Khách hàng đổ lỗi cho người khác về những vấn đề của họ.
 Không đồng ý: Khách hàng không đồng ý với gợi ý của tư vấn viên, không đưa ra ý kiến xây dựng. Giống như là "ừ, nhưng mà...," để giải thích về những gợi ý mà họ cho là sai.
 Bào chữa: Khách hàng đưa ra lí do để bào chữa cho những hành vi của họ.
 Khẳng định sự vô tội: Khách hàng khẳng định rằng họ không hề có nguy cơ gì (VD: không bị nghiện rượu).
 Giảm bớt: Khách hàng cho là tư vấn viên thổi phồng các nguy cơ hoặc sự nguy hiểm và cho rằng vấn đề của họ không đến nỗi nghiêm trọng như vậy.
 Bi quan: Khách hàng nói về mình hoặc người khác với giọng điệu bi quan, thất vọng hoặc tiêu cực
 Miễn cưỡng: Khách hàng thể hiện sự dè dặt và miễn cưỡng khi nhận được thông tin và lời khuyên.
 Chưa sẵn sàng để thay đổi: Khách hàng thể hiện sự không mong muốn hoặc không sẵn sàng để thay đổi.
Phớt lờ
Khách hàng phớt lờ hoặc không làm theo hướng dẫn của tư vấn viên.
 Không tập trung: Câu trả lời của khách hàng cho thấy rằng họ không chú ý đến câu hỏi của tư vấn viên.
 Không trả lời: Khách hàng đưa ra một câu trả lời không đúng với câu hỏi.
 Thờ ơ: Khách hàng chẳng nói mà cũng không thể hiện thái độ gì sau câu hỏi của tư vấn viên.
 Chuyển hướng: Khách hàng thay đổi hướng của cuộc nói chuyện mà tư vấn viên đang tập trung vào.
Nguồn: Miller and Rollnick, 1991. Adapted from a behavior coding system by Chamberlain et al., 1984. Reprinted with perPVĐVssion.
74 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Phỏng vấn tạo động lực
PVTĐL là một quá trình tương tác lấy khách hàng làm trung tâm nhằm mục đích giúp cho khách hàng khám phá và giải quyết sự dao động, mâu thuẫn của họ về việc sử dụng ma túy (những điểm tốt so với những điểm chưa tốt) và chuyển tới giai đoạn tiếp theo trong các bước thay đổi hành vi. PVTĐL rất hữu ích khi tư vấn với khách hàng ở giai đoạn tiền dự định và dự định, nhưng những nguyên tắc và kĩ năng của phương pháp này quan trọng với bệnh nhân ở tất cả các giai đoạn thay đổi hành vi. PVTĐL dựa trên cơ sở hiểu biết rằng một biện pháp điều trị hiệu quả sẽ hỗ trợ cho quá trình thay đổi tự nhiên và tư vấn viên có thể giúp khách hàng tự thúc đẩy bản thân thay đổi.
Sử dụng các câu hỏi mở để tạo nên sự mâu thuẫn và dao động
Khách hàng sẽ có thêm động cơ để thay đổi hành vi sử dụng ma túy khi họ nhận ra được sự không nhất quán giữa việc sử dụng ma túy hiện tại và các vấn đề liên quan và những mong đợi của họ trong cuộc sống. Mâu thuẫn giữa những mục tiêu quan trọng của khách hàng với hành vi hiện tại của họ càng lớn, họ càng dễ có khả năng thay đổi. PVTĐL nhằm mục đích bộc lộ và nêu bật sự mâu thuẫn này hơn từ quan điểm của khách hàng. Điều quan trọng là khách hàng phải xác định được mục tiêu và giá trị của họ, và bộc lộ lí do họ muốn thay đổi.
Một trong những biện pháp để khuyến khích khách hàng bộc lộ lí do thay đổi là tư vấn viên sử dụng các câu hỏi mở. Câu hỏi mở là một kĩ thuật được sử dụng thường xuyên trong PVTĐL để giúp khách hàng bắt đầu suy nghĩ và nói về tình trạng sử dụng ma túy của họ. Sử dụng các câu hỏi mở cũng nhắc nhở thêm rằng khách hàng phải chịu trách nhiệm về phương hướng của can thiệp và các lựa chọn của họ đối với vấn đề sử dụng ma túy.
Lựa theo sự phản kháng
Một nguyên tắc cơ bản trong PVTĐL là phải chấp nhận rằng sự lưỡng lự và phản kháng lại thay đổi là điều bình thường, và tư vấn viên cần động viên khách hàng xem xét các thông tin và cách nhìn mới về vấn đề sử dụng ma túy của họ. Khi khách hàng thể hiện sự phản kháng, tư vấn viên nên sử dụng kĩ thuật chỉnh khung hoặc phản hồi hơn là phản đối họ. Đặc biệt cần tránh tranh cãi để thúc giục họ thay đổi vì điều đó sẽ đẩy khách hàng vào tình trạng phản đối lại điều đó.
Các kĩ năng cụ thể
PVTĐL thường sử dụng 4 kĩ năng đặc thù. Các kĩ năng này được sử dụng phối hợp với nhau để khuyến khích khách hàng trao đổi, tìm hiểu những mâu thuẫn của họ trong việc sử dụng ma túy, và làm rõ lí do giảm hoặc dừng sử dụng ma túy. Những kĩ năng này bao gồm: đặt câu hỏi mở, khen ngợi, lắng nghe có phản hồi, và tóm tắt (OARS). Kỹ năng thứ năm là “khuyến khích nói về sự thay đổi” được sử dụng cùng với các kĩ năng OARS nhằm giúp khách hàng nhận ra được mâu thuẫn của họ để thay đổi hành vi sử dụng ma túy
Đặt câu hỏi mở
Câu hỏi mở là những câu hỏi cần những câu trả lời dài hơn và tạo cơ hội cho khách hàng trao đổi. Một số ví dụ về câu hỏi mở:
‚ “Bạn thích những gì khi sử dụng ma túy?”
‚ “Bạn có thể nói với tôi về những điều chưa tốt khi sử dụng …?”
‚ “Có vẻ bạn đang có một số lo lắng về việc sử dụng ma túy của bạn, hãy nói rõ hơn về những điều đó”
‚ “Bạn lo lắng về vấn đề gì?”
‚ “Bạn cảm thấy như thế nào về …?”
‚ “Bạn thích làm gì?”
Khen ngợi
Thể hiện sự thấu hiểu và động viên sẽ giúp tạo nên bầu không khí tích cực và xây dựng mối quan hệ thân thiện với khách hàng. Khen ngợi khả năng và nỗ lực thay đổi của khách hàng sẽ giúp họ thêm tự tin, còn khen ngợi những lời nói tự động viên của khách hàng sẽ khuyến khích họ sẵn sàng thay đổi. Một số ví dụ về khen ngợi:
‚ “Cám ơn bạn đã đến đây hôm nay.”
‚ “Tôi rất vui khi bạn sẵn sàng trao đổi với tôi về việc sử dụng ma túy của bạn.”
‚ “Bạn thật là giỏi khi vượt qua được những khó khăn đó”
‚ “Tôi thấy là bạn là người rất mạnh mẽ.”
‚ “Đó là ý kiến hay.”
‚ “Thật là khó khi phải nói về … Tôi thực sự cám ơn vì bạn tiếp tục trao đổi.”
Lắng nghe có phản hồi
Lắng nghe có phản hồi là phỏng đoán lại những điều khách hàng suy nghĩ. Việc phản hồi lại những hàm ý và cảm xúc nội tâm của khách hàng, cũng như ngôn từ họ đã sử dụng là rất quan trọng. Kĩ năng lắng nghe có phản hồi giống như một cái gương để khách hàng có thể được nghe nhân viên y tế nhắc lại những điều họ đã trao đổi. Lắng nghe có phản hồi cũng cho khách hàng thấy rằng tư vấn viên hiểu những điều khách hàng đã nói hoặc được sử dụng để làm rõ ý của khách hàng. Lắng nghe có phản hồi sẽ khuyến khích khách hàng tiếp tục trao đổi và bạn cần dành đủ thời gian cho họ chia sẻ.
Trong PVTĐL, lắng nghe có phản hồi được sử dụng để nêu bật những điểm mâu thuẫn của khách hàng về tình trạng sử dụng ma túy của họ, giúp khách hàng nhận thức rõ hơn về những vấn đề và lo lắng của họ, và để nhấn mạnh lại những lời khách hàng nói cho thấy họ đang suy nghĩ về sự thay đổi. Ví dụ:
‚ “Bạn có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy rằng mức điểm của bạn cho thấy là bạn đang có nguy cơ gặp nhiều rắc rối.”
‚ “Việc duy trì quan hệ với bạn trai là rất quan trọng đối với bạn”
‚ “Bạn cảm thấy không thoải mái khi nói về điều đó”
‚ “Bạn đang bực mình vì vợ bạn vẫn cằn nhằn về việc bạn sử dụng ma túy”
‚ “Bạn muốn giảm số lượng ma túy bạn sử dụng tại các buổi tiệc”
‚ “Bạn thực sự thích thú với sử dụng ma túy và không muốn bỏ, nhưng bạn cũng nhận thấy là nó gây ra một số vấn đề về tiền bạc và pháp luật”.
Tóm tắt
Tóm tắt là cách quan trọng để tổng hợp lại những thông tin đã được trao đổi và chuẩn bị cho khách hàng chuyển sang bước tiếp theo. Tóm tắt làm tăng thêm tác dụng của lắng nghe có phản hồi, nhất là khi thảo luận về những mối quan tâm và sự thay đổi. Đầu tiên, khách hàng tự nghe mình nói, sau đó họ nghe tư vấn viên phản hồi lại, và cuối cùng họ lại nghe lại lần nữa khi tư vấn viên tóm tắt. Tư vấn viên cần lựa chọn những nội dung tóm tắt và có thể sử dụng những nội dung này để định hướng khách hàng bằng cách nhấn mạnh một số điểm nhất định và bỏ qua những điểm khác. Điều quan trọng là hãy tóm tắt một cách ngắn gọn và súc tích.
Một ví dụ về tóm tắt:
“Như vậy, một mặt bạn thực sự thích thú khi sử dụng heroin và bạn không nghĩ là mình dùng nhiều hơn bạn bè. Mặt khác, bạn lại tiêu nhiều tiền quá khả năng của bạn cho việc sử dụng ma túy và điều này khiến bạn lo lắng. Bạn gặp khó khăn khi trả các hóa đơn hàng tháng. Vợ bạn rất giận và bạn không muốn làm cô ấy buồn. Hơn nữa, bạn nhận thấy bạn bị mất ngủ và trí nhớ không được tốt.”
Khuyến khích khách hàng nói về sự thay đổi
Động viên khách hàng nói về sự thay đổi là một mục đích của PVTĐL. Điều quan trọng là khách hàng phải tin vào khả năng thay đổi và biết được các lựa chọn thay thế. Hãy nhớ rằng khách hàng chịu trách nhiệm xác định lựa chọn của họ và tiến hành thay đổi. Đây là một chiến lược giúp khách hàng giải quyết sự mơ hồ và được dùng để động viên khách hàng xác định các cơ sở giúp họ thay đổi.
Có 4 nội dung chính khi thảo luận về sự thay đổi:
‚ Nhận ra được các tác hại của việc duy trì hành vi cũ
‚ Thể hiện dự định thay đổi
‚ Tỏ ra lạc quan về khả năng thay đổi
‚ Tỏ thái độ lạc quan về khả năng thay đổi
Có nhiều cách để giúp khách hàng thảo luận về sự thay đổi.
Hỏi trực tiếp các câu hỏi mở, ví dụ:
‚ “Điều gì khiến bạn lo lắng về việc sử dụng heroin?”
‚ “Theo bạn điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không thay đổi?”
‚ “Lợi ích của việc ngừng sử dụng heroin là gì?”
‚ “Bạn mong muốn cuộc sống của bạn như thế nào trong 5 năm tới?”
‚ “Điều gì sẽ xảy ra cho bạn nếu bạn quyết định thay đổi?”
‚ “Bạn tự tin thế nào về khả năng thực hiện thay đổi?”
‚ “Giảm sử dụng ma túy quan trọng như thế nào đối với bạn?”
‚ “Bạn nghĩ gì về tình trạng sử dụng ma túy của mình hiện nay?”
Công thức FRAMES
FRAMES là từ viết tắt trong tiếng Anh tên các yếu tố quan trọng trong PVTĐL: - Phản hồi (Feedback), Trách nhiệm (Responsibility), Lời khuyên (Advice), Thực đơn lựa chọn (Menu of options), Thấu cảm (Empathy) and Tự tin vào khả năng bản thân (Self-efcacy).
Thông tin tham khảo:
Phản hồi

Phản hồi một cách phù hợp là một thành tố quan trọng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy và thường được đưa ra sau khi đã tiến hành đánh giá kĩ lưỡng việc sử dụng ma túy và những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng. Nhận xét phản hồi có thể bao gồm cả thông tin về việc sử dụng ma túy và những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng, thông tin về những nguy cơ có liên quan đến cấp độ sử dụng ma túy hiện tại của cá nhân khách hàng, và thông tin chung về những nguy cơ và tác hại của ma túy. Nếu những vấn đề hiện tại của khách hàng có thể có liên quan tới việc sử dụng ma túy, thì trong khi đưa ra nhận xét cần phải thông tin cho khách hàng biết về điều này. Trong quá trình phản hồi, bạn cũng có thể so sánh giữa những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng với những vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của những người khác cũng có hoàn cảnh tương tự.
Trách nhiệm
Điều quan trọng là khách hàng phải nhận thức được rằng họ phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình và họ có quyền lựa chọn đối với việc sử dụng ma túy của họ. Tư vấn viên cần đưa ra những thông điệp như là: “Bạn định làm gì đối với việc sử dụng ma túy của bạn là tùy thuộc vào chính bản thân bạn” và “Không ai có thể quyết định thay cho bạn được” để giúp khách hàng duy trì khả năng kiểm soát đối với các hành vi của họ cũng như là hậu quả của các hành vi đó. Những người có được cảm giác kiểm soát tình thế sẽ dế có động lực thay đổi hơn và ít phản kháng hơn. Những câu nói như: “Tôi nghĩ anh/chị nên...” hay “Tôi lo lắng về tình trạng sử dụng ma túy của anh/chị” nhiều khả năng sẽ gây nên sự phản kháng của khách hàng và khiến họ duy trì và bảo vệ thói quen sử dụng ma túy hiện tại.
Lời khuyên
Yếu tố trung tâm của các can thiệp tư vấn hiệu quả là đưa ra những lời khuyên cụ thể và rõ ràng về các tác hại liên quan tới việc tiếp tục sử dụng ma túy. Khách hàng thường không nhận thức được rằng việc sử dụng ma túy hiện tại của họ có thể dẫn tới những vấn đề về sức khỏe và những hậu quả khác, hoặc có thể khiến cho những vấn đề hiện có trở nên trầm trọng hơn. Những lời khuyên cụ thể và rõ ràng về việc giảm bớt hoặc ngừng sử dụng ma túy sẽ làm giảm nguy cơ khách hàng gặp phải các vấn đề trong tương lai và nâng cao nhận thức của họ về những nguy cơ cá nhân, và đưa ra những lí do để họ tự cân nhắc về việc thay đổi hành vi của bản thân. Bảng ra quyết định có thể là một công cụ hữu ích khi cho lời khuyên. Lời khuyên có thể được đưa ra dưới dạng các câu đơn giản như: “Cách tốt nhất mà bạn có thể làm để giảm nguy cơ (VD: trầm cảm, lo lắng) là dừng sử dụng .....”. Cần thận trọng với ngôn ngữ sử dụng khi cho lời khuyên, vì những nhận xét như: “Tôi nghĩ là bạn nên dừng sử dụng ....” hoặc “Tôi lo lắng về tình trạng sử dụng ... của anh/chị” không phải là những lời khuyên rõ ràng và khách quan.
Thực đơn những lựa chọn thay đổi
Các can thiệp có hiệu quả cung cấp cho khách hàng nhiều chiến lược để cắt giảm hoặc ngừng sử dụng ma túy. Điều này cho phép khách hàng tự lựa chọn các giải pháp phù hợp nhất với hoàn cảnh của họ và là giải pháp mà họ cảm thấy hữu ích nhất. Tạo ra nhiều sự lựa chọn giúp tăng cường cảm giác tự chủ và trách nhiệm, và động lực của khách hàng để thay đổi hành vi. Về lí thuyết, lựa chọn của khách hàng thường liên quan đến giai đoạn chuyển đổi hành vi của họ. Tư vấn viên có thể trợ giúp khách hàng thực hiện những việc sau:
‚ Khuyến khích khách hàng ghi chép hàng ngày về việc sử dụng ma túy (địa điểm, thời gian, liều lượng, dùng với ai, tại sao dùng)
‚ Giúp khách hàng chuẩn bị các hướng dẫn về việc sử dụng ma túy cho chính bản thân họ
‚ Xác định các tình huống nguy cơ cao và các chiến lược để đối phó với các tình huống đó
‚ Xác định các hoạt động có thể làm thay vì sử dụng ma túy- sở thích, thể thao, các câu lạc bộ, thể dục thể hình, vv.
‚ Động viên khách hàng xác định những người có thể hỗ trợ và giúp đỡ họ thay đổi hành vi như mong muốn.
‚ Cung cấp thông tin về các nhóm tự giúp đỡ khác và các tài liệu
‚ Không giữ tiền trong người và dùng số tiền vốn để mua ma túy để sử dụng cho mục đích khác
Thấu cảm
Một can thiệp có hiệu quả cần phải dựa trên thái độ hiểu biết, thấu cảm, thân thiện và có phản hồi của tư vấn viên. Những yếu tố trên sẽ đảm bảo khách hàng cảm thấy thoải mái và được chào đón. Chúng cũng góp phần vào tăng khả năng khách hàng tiếp tục tham gia nhận dịch vụ tư vấn và điều trị, do đó sẽ nâng cao kết quả tư vấn và điều trị. Trong bối cảnh điều trị, thấu cảm là thái độ chấp nhận và không phán xét nhằm mục đích hiểu được quan điểm của khách hàng. Tránh sử dụng những từ ngữ có tính quy chụp khách hàng ví dụ như “thằng nghiện”. Điều này đặc biệt quan trọng để tránh đối đầu, đổ lỗi và chỉ trích khách hàng. Lắng nghe có phản hồi giúp làm rõ và nêu bật những kinh nghiệm bản thân và ý tưởng của khách hàng. Tư vấn viên thực hành thấu cảm tốt thường đạt được kết quả tốt hơn khi làm việc với khách hàng.
Tự tin vào khả năng bản thân
Việc giúp khách hàng tự tin rằng họ có thể thay đổi được hành vi sử dụng ma túy là rất quan trọng. Những người tin rằng họ có thể thay đổi được thường sẽ dễ bắt tay vào việc hơn so với những người cảm thấy kém tự tin hoặc không có hy vọng vào bản thân. Tư vấn viên cần hỗ trợ khách hàng nói ra những lời tự động viên, vì khách hàng thường dễ tin vào những gì mà chính bản thân họ nói ra hơn là những điều họ nghe người khác nói.

Phỏng vấn tạo động lực: Tóm tắt các kĩ thuật
1. Lắng nghe, tạo dựng mối quan hệ thân thiện - tôn trọng sự lựa chọn và những giá trị của khách hàng
2. Nhận thức được chương trình của bạn và chương trình của khách hàng – Lưu ý rằng PVTĐL hướng tới sự hợp tác
3. Tập trung vào một hành vi cụ thể
4. Đánh giá
mức độ quan trọng và sự tự tin
a. “Vấn đề đó quan trọng đối với bạn ở mức độ nào, tính từ 1 đến 10?”
b. “Tại sao mức điểm lại cao như vậy?”
c. “Điều gì sẽ giúp bạn có thể chuyển sang một mức điểm cao hơn?”
d. “Bạn muốn ở mức điểm bao nhiêu để có thể thay đổi được?”
e. “Bạn tự tin ở mức độ nào về sự thay đổi của bạn, tính theo thang điểm từ 1 đến 10?”
5. Đánh giá mức độ quan trọng
a. “Những điều tốt về hành vi đó là gì?”
b. “Những điều không tốt lắm về hành vi đó là gì?”
c. Chia sẻ thông tin về các nguy cơ: không thúc giục để lấy thông tin, chỉ hỏi về những điều khách hàng đã biết, hỏi xem họ có muốn biết thêm thông tin không, và để cho khách hàng tự xâu chuỗi các mẩu thông tin lại với nhau
d. Xử trí khi gặp sự phản kháng: chuyển chủ đề, thể hiện sự thấu cảm, nhấn mạnh sự kiểm soát của khách hàng, tóm tắt về thực trạng của khách hàng
e. Tóm tắt những điều tốt và không tốt
6. Xây dựng sự tự tin
a. “Bạn thấy những lần cố gắng thay đổi trước đây của bạn có hữu ích không?”
b. “Bạn học hỏi được những gì từ những vấn đề mà bạn gặp phải trong lần thay đổi gần đây nhất?”
c. “Bạn có biết ai đã thay đổi hành vi rất thành công không? Họ đã làm gì để đạt được thành công đó?”
7. Tóm tắt về mức độ quan trọng và sự tự tin bằng câu hỏi “Hiện tại bạn đang ở trong giai đoạn nào?”
a. Tôi chẳng muốn thay đổi
- “Với tư cách là một tư vấn viên/bác sĩ điều trị của bạn, tôi cảm thấy lo lắng về… (chủ đề của bạn). Nếu bạn muốn trao đổi lại về vấn đề này thì hãy đến gặp tôi nhé.”
b. Tôi muốn thay đổi
- Thảo luận về kế hoạch thực hiện (những yếu tố thực tế)
c. Tôi cần phải suy nghĩ về việc này
- Khuyến khích khách hàng tự phản hồi/theo dõi: ghi nhật ký, liệt kê những điểm tốt và không tốt
4.3 Gắn kết PhỏnG vấn tạo độnG LỰC với CáC Chiến LượC áP dụnG Cho CáC Giai đoạn thay đổi hành vi
Bài 82 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuAN

I. Giới thiệu 1 phút
Nhắc lại tầm quan trọng và chức năng của việc gắn kết phỏng vấn tạo động lực với các
chiến lược có thể áp dụng cho các giai đoạn thay đổi hành vi khác nhau.
II. Thuyết trình và thực hành 50 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về các giai đoạn thay đổi hành vi và các chiến lược
can thiệp phù hợp với các giai đoạn khác nhau.
III. Kết luận 9 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 4.3: Gắn kết phỏng vấn tạo động lực với các chiến lược áp dụng cho các giai đoạn thay đổi hành vi
Mục đích:
Giúp học viên hiểu mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi để từ đó họ có thể vận dụng phỏng vấn tạo động lực nhằm xây dựng các chiến lược và kế hoạch phù hợp khi làm việc với khách hàng ở các giai đoạn thay đổi hành vi khác nhau.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Hiểu rõ về mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
‚ Biết được chiến lược/kế hoạch can thiệp nào hiệu quả nhất với khách hàng ở các giai đoạn thay đổi hành vi khác nhau
‚ Học được cách áp dụng các phương pháp phỏng vấn tạo động lực vào mô hình thay đổi hành vi
‚ Thể hiện kiến thức và kĩ năng qua đóng vai
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương iV – Bài 4.3 83
Bản chiếu 1
Nói: Trong bài này, chúng ta sẽ thảo luận cách áp dụng phương pháp phỏng vấn tạo động lực phù hợp nhất trong các buổi tư vấn, tùy thuộc vào giai đoạnh thay đổi hành vi của khách hàng. Các bạn sẽ có cơ hội thể hiện những điều đã học qua thực hành đóng vai.
GẮN KẾT PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC VỚI CÁC CHIẾN LƯỢC ÁP DỤNG CHO CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI HÀNH VI
84 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên có thể:
Hiểu rõ hơn về mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi
Biết được chiến lược/kế hoạch can thiệp nào hiệu quả nhất với khách hàng ở các giai đoạn thay đổi hành vi khác nhau
Học được cách áp dụng các phương pháp phỏng vấn tạo động lực vào mô hình thay đổi hành vi
Thể hiện kiến thức và kĩ năng qua đóng vai
MỤC TIÊU
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu
Chương iV – Bài 4.3 85
Bản chiếu 3
Nói: Hãy nhớ lại mô hình các giai đoạn thay đổi hành vi mà chúng ta đã thảo luận trong bài 4.1. Mô hình này dựa trên quan điểm cho rằng mỗi người đều nằm ở một giai đoạn chuẩn bị khác nhau để thay đổi hành vi, tùy thuộc vào nhận thức và hiểu biết về lợi ích và bất lợi của hành vi đó. Mặc dù vẫn còn những tranh cãi về sự tương tác giữa các giai đoạn thay đổi hành vi và phỏng vấn tạo động lực nhưng có một điều rất rõ ràng là: các nhà nghiên cứu về y tế/ nghiện và tư vấn viên đã nhận thấy cả hai phương pháp này đều có ích trong hỗ trợ khách hàng thay đổi hành vi sử dụng ma túy. Tư vấn viên cũng nhận thấy những phương pháp này hữu ích trong việc mở rộng phạm vi can thiệp nhằm hỗ trợ khách hàng thay đổi từ giai đoạn tiền dự định sang duy trì. Phỏng vấn tạo động lực cũng giúp tư vấn viên hỗ trợ khách hàng có thêm động lực để thay đổi - một cuộc cách mạng trao quyền trong các mô hình điều trị.
CÁC GIAI ĐOẠN THAY ĐỔI HÀNH VI
Quá trình thay đổi hành vi
Tái nghiện

Tiền dự định Thay đổi kiến thức
Thay đổi thái độ
Thay đổi hành vi
Dự định
Chuẩn bị
Hành động
Duy trì
86 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành 3 nhóm nhỏ. Yêu cầu các nhóm thảo luận độc lập để xác định các phương pháp can thiệp với các nhóm khách hàng khác nhau như trên bản chiếu (tiền dự định, dự định và duy trì). Bạn cũng có thể yêu cầu một nhóm thực hiện một bài tập đóng vai trước cả lớp. Hoặc bạn cũng có thể phân công cho mỗi nhóm thảo luận và đóng vai về một loại khách hàng
Sau khi các nhóm đã thảo luận xong và đóng vai xong, hướng dẫn cả lớp thảo luận nhóm lớn để xác định những điểm khác biệt chính về hình thức và nội dung giữa các can thiệp theo giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng.
Chia lớp thành 3 nhóm nhỏ
Thảo luận và xây dựng chiến lược can thiệp cho 3 nhóm khách hàng:
- Tiền dự định
- Dự định
- Duy trì
- 20 phút
Thảo luận nhóm lớn
Làm thế nào bạn có thể xác định giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng?
Sự khác nhau của khách hàng ở mỗi giai đoạn thay đổi hành vi là gì?
Với mỗi giai đoạn, cần có những can thiệp khác nhau như thế nào?
THẢO LUẬN NHÓM NHỎ
Chương iV – Bài 4.3 87
Bản chiếu 5

Khách hàng đang Chiến lược can thiệp
‘thích’ sử dụng Không lo lắng gì Tạo ra sự hồ nghi
Không nhận thấy các vấn đề ma túy gây ra Tăng nhận thức của khách hàng về nguy cơ và những vấn đề do sử dụng ma túy
Không bày tỏ ý định muốn thay đổi Không muốn thay đổi Giảm nguy cơ
GIAI ĐOẠN TIỀN DỰ ĐỊNH
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ thảo luận các chiến lược và can thiệp hiệu quả nhất ở các giai đoạn thay đổi hành vi khác nhau. Người đang ở giai đoạn tiền dự định là những người sử dụng ma túy đang sung sướng. Họ thường không liên kết những vấn đề rắc rối họ gặp phải với việc sử dụng ma túy của họ và họ cũng không lo lắng gì tới việc sử dụng ma túy hay những hậu quả liên quan. Họ không quan tâm đến việc thay đổi hoặc không muốn thay đổi. Giống như tất cả các chiến lược can thiệp tạo động cơ khác, tư vấn viên cần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp và tạo dựng sự tin tưởng ở khách hàng. Để làm được như vậy, tư vấn viên phải thể hiện sự thấu cảm và lắng nghe tích cực. Điều quan trọng là tư vấn viên phải kích thích sự hồ nghi và mối quan tâm của khách hàng về việc sử dụng ma túy của họ. Điều quan trọng là phải tạo ra sự hồ nghi hoặc mối quan ngại về việc sử dụng ma túy. Điều đó có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ, tìm hiểu kĩ về những sự kiện khiến họ tìm đến với dịch vụ hoặc đánh giá kết quả của các đợt điều trị trước đây. Hỏi họ xem liệu họ có thể nhận thấy bất kì vấn đề nào do việc sử dụng ma túy gây nên không, và nhận thức của họ về những vấn đề rắc rối đó. Để có thể tập trung vào những yêu cầu này, bạn có thể cần phải cung cấp thông tin thực tế về nguy cơ của việc sử dụng ma túy và đưa ra phản hồi cá nhân về những phát hiện từ đánh giá khách hàng. Các chiến lược phỏng vấn tạo động lực bao gồm tìm hiểu những ưu và nhược điểm của việc sử dụng ma túy và phát hiện sự không nhất quán giữa hành vi hiện tại của khách hàng và mục đích/tham vọng của họ trong tương lai. Nếu khách hàng không muốn thay đổi, cần đề cập đến các vấn đề giảm nguy cơ hoặc giảm những hậu quả bất lợi của việc sử dụng ma túy cho đến khi khách hàng muốn thay đổi hành vi. Chúng ta sẽ thảo luận về giảm nguy cơ trong một bài khác.
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Ở giai đoạn dự định, khách hàng thừa nhận có các vấn đề đang lo lắng và cân nhắc khả năng thay đổi, nhưng vẫn lưỡng lự và chưa chắc chắn về sự thay đổi. Điều quan trọng là phải bình thường hóa cảm giác lưỡng lự này và giúp khách hàng thay đổi cán cân nghiêng về phía thay đổi. Có một số cách để thay đổi cán cân, gồm: so sánh những điểm lợi và hại của việc sử dụng ma túy và của sự thay đổi, và chuyển động cơ thay đổi từ những yếu tố bên ngoài sang những yếu tố bên trong khách hàng. Thông thường, khách hàng tìm đến với dịch vụ vì sức ép từ người khác và bản thân họ có rất ít động cơ bên trong để thay đổi. Bạn có thể đánh giá động cơ của họ bằng cách đánh giá giá trị cá nhân, tham vọng và mục đích của khách hàng.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng khách hàng được tự do lựa chọn những việc họ muốn làm, và họ phải có trách nhiệm về quyết định đó. Để tăng khả năng tự lực của khách hàng, bạn có thể cần củng cố những nỗ lực mà họ đã thực hiện trước đây để thay đổi hành vi và bất kỳ tinh thần lạc quan nào mà họ có cho tương lai. Cố gắng gợi ý khách hàng tự nói ra những lời tự động viên và cam kết thay đổi. Bằng cách tóm tắt, khơi gợi những lời nói tự động viên, đánh giá sự tự tin và mong đợi về kết quả điều trị của khách hàng, bạn có thể giúp họ chuyển sang giai đoạn tiếp theo của quá trình thay đổi hành vi.

Khách hàng
Thừa nhận các mối quan ngại
Đang cân nhắc khả năng thay đổi hành vi
Nhưng vẫn còn hồ nghi và chưa chắc chắn
Biện pháp can thiệp
Bình thường hóa sự hồ nghi.
Giúp cho khách hàng “thay đổi cán cân” nghiêng về phía sự thay đổi bằng cách:
- So sánh những điểm lợi và hại của sử dụng ma túy và sự thay đổi
- Chuyển động cơ thay đổi từ yếu tố bên ngoài sang những yếu tố bên trong khách hàng
- Kiểm tra các giá trị cá nhân của khách hàng liên quan tới việc thay đổi
- Nhấn mạnh vào quyền tự do chọn lựa, trách nhiệm và tính tự lực của khách hàng
Khiến khách hàng nói ra những lời tự động viên
Khơi gợi khách hàng tự nhận xét về năng lực của họ và mong đợi từ dịch vụ điều trị
Tóm tắt lại những câu nói tự động viên của khách hàng
GIAI ĐOẠN DỰ ĐỊNH
Bản chiếu 7
Nói: Ở giai đoạn chuẩn bị, khách hàng có dự định hành động và đang thực hiện những bước nhỏ để thay đổi. Họ cũng đang quan tâm đến những yếu tố có thể giúp họ thay đổi được. Khách hàng cam kết và lập kế hoạch thay đổi hành vi trong tương lai gần nhưng vẫn còn cân nhắc xem nên làm như thế nào.
Đối với khách hàng ở giai đoạn này, tư vấn viên phải xác định rõ mục đích và chiến lược thay đổi của họ. Đưa ra nhiều lựa chọn điều trị để khách hàng tự quyết định. Tư vấn viên cũng cần chuẩn bị để hướng dẫn họ cách tốt nhất để thực hiện. Để thực hiện được yêu cầu này, tư vấn viên cần xem xét những biện pháp giảm bớt những rào cản cá nhân và giúp khách hàng lập danh sách những nguồn hỗ trợ để thay đổi. Tư vấn viên có thể tìm hiểu các yếu tố từng giúp khách hàng thành công trong việc thay đổi hành vi trước đây, hoặc xác định các yếu tố mà họ biết chúng có hiệu quả với những người khác. Có thể có các rào cản quan trọng đối với sự thay đổi như vấn đề tài chính, chăm sóc con cái, công việc, đi lại hoặc các rào cản tiềm năng khác. Bạn có thể cũng cần phải cùng với khách hàng bàn cách vượt qua những rào cản này.
Nếu khách hàng có thể nói thành lời ý định thay đổi, họ sẽ dễ dàng thay đổi hơn

Khách hàng
Dự định hành động
Biện pháp can thiệp
Làm cho khách hàng biết được lợi điểm và hậu quả của sự thay đổi hành vi đó
Hỗ trợ khách hàng các chiến lược đối phó với những hậu quả đó
Cung cấp những lời khuyên thực tế giúp khách hàng thay đổi
GIAI ĐOẠN CHUẨN BỊ
Đang tạo ra những thay đổi hành vi nhỏ
Cân nhắc những khả năng hỗ trợ thay đổi
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8
Nói: Ở giai đoạn hành động, khách hàng chủ động thực hiện các bước để thay đổi nhưng chưa đạt đến giai đoạn ổn định.
Có một số chiến lược tạo động cơ mà tư vấn viên có thể thực hiện để duy trì kết quả đạt được. Điều quan trọng là phải đưa khách hàng vào chương trình điều trị và củng cố tầm quan trọng của việc không sử dụng ma túy. Một việc hết sức quan trọng nữa là hỗ trợ khách hàng hiểu rằng sự thay đổi sẽ diễn ra qua các bước nhỏ. Giúp khách hàng duy trì cái nhìn thực tế bằng cách thừa nhận những khó khăn xảy ra trong giai đoạn đầu của tiến trình thay đổi. Đó là điều bình thường và khách hàng cần lường trước những khó khăn này.
Tư vấn viên cần tiến hành phân tích nguy cơ và xây dựng các chiến lược phù hợp để vượt qua những khó khăn này. Việc phân tích này đồng thời cũng giúp đánh giá chất lượng của hỗ trợ gia đình và xã hội. Sự hỗ trợ từ gia đình/ bạn bè có thể giúp và duy trì hành vi thay đổi. Tuy nhiên, cần lưu ý với những trường hợp gia đình không có mối quan hệ ổn định với khách hàng. Nội dung này sẽ được thảo luận trong một bài khác.

Khách hàng
Đang chủ động thực hiện những bước thay đổi
Nhưng chưa đạt được đến giai đoạn ổn định
Biện pháp can thiệp
Đưa khách hàng vào điều trị Hỗ trợ cách nhìn thực tế thông qua các bước thay đổi nhỏ
Thừa nhận những khó khăn trong giai đoạn ban đầu của tiến trình thay đổi Giúp cho khách hàng xác định được
những tình huống nguy cơ cao và xây dựng những chiến lược đối phó
Hỗ trợ khách hàng tìm ra cách mới để củng cố những thay đổi tích cực
Giúp khách hàng tìm hiểu xem họ có được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ gia đình/ xã hội không
GIAI ĐOẠN HÀNH ĐỘNG
Chương iV – Bài 4.3 91
Bản chiếu 9
Nói: Ở giai đoạn duy trì, khách hàng đã thay đổi được hành vi sử dụng ma túy của họ trong một khoảng thời gian khá dài. Họ đã đang thực hiện các chiến lược dự phòng tái nghiện và củng cố những thành quả đạt được.
Trong giai đoạn này, tư vấn viên phải giúp khách hàng xác định các hoạt động giải trí không liên quan đến việc sử dụng ma túy. Việc hỗ trợ thay đổi lối sống cũng hết sức quan trọng và cần củng cố ý chí quyết tâm của khách hàng trung việc duy trì không sử dụng ma túy. Khách hàng có thể thực hành và sử dụng các chiến lược đối phó mới để không quay lại sử dụng ma túy. Điều quan trọng nữa là phải xác định các tình huống nguy cơ cao và các kĩ thuật để dự phòng tái nghiện. Bạn cũng cần xây dựng kế hoạch thoát hiểm hoặc an toàn nếu khách hàng tái sử dụng ma túy. Khi khách hàng tham gia trong chương trình điều trị trong một khoảng thời gian dài, cần cùng với họ xem xét mục tiêu dài hạn và xây dựng các cách mới để duy trì lối sống không có ma túy nếu cần.

Khách hàng
Đã thay đổi/dừng những hành vi không mong muốn trong thời gian tương đối dài (hơn 6 tháng)
Đang cố gắng để dự phòng tái nghiện
Đang củng cố những thành quả đạt được
Biện pháp can thiệp
Chuẩn bị cho khách hàng đối phó với sử dụng lại và tái nghiện
Củng cố lợi ích của sự tiếp tục duy trì thay đổi hành vi
GIAI ĐOẠN DUY TRÌ
Bản chiếu 10
Nói: Không phải tất cả những người đã từ bỏ ma túy đều có thể duy trì tình trạng không sử dụng ma túy cho đến hết cuộc đời. Một số người tái sử dụng ma túy trong khi điều trị và cuối cùng trở nên nghiện nặng, trong khi một số người khác có thể tái sử dụng ma túy một vài lần nhưng nhận biết được khó khăn, nguy hiểm do sử dụng nên đã ngừng sử dụng. Trong giai đoạn tái nghiện, khách hàng phải đối mặt với những hậu quả của việc sử dụng lại ma túy. Họ cũng phải quyết định những việc cần làm trong tương lai. Trong bài về dự phòng tái nghiện, chúng ta sẽ thảo luận kĩ hơn về sự khác biệt giữa vấp, trượt và tái nghiện. Chiến lược phỏng vấn tạo lực phù hợp mà tư vấn viên có thể áp dụng trong giai đoạn này là giúp khách hàng quay trở lại chu kì thay đổi hành vi và động viên bất kỳ mong muốn có những thay đổi tích cực nào của khách hàng. Bạn cũng cần tìm hiểu những lý do khiến khách hàng tái nghiện và coi đó là cơ hội để học hỏi và rút kinh nghiệm. Bằng cách hỗ trợ khách hàng tìm ra các chiến lược khác để đối phó trong khi duy trì liên lạc hỗ trợ với họ, bạn có thể giúp họ tái thiết lập một cuộc sống không ma túy.
Khách hàng
Đã tái nghiện
Phải đối phó với hậu quả
Phải quyết định việc cần làm tiếp theo
Biện pháp can thiệp
Giúp khách hàng quay lại chu kỳ thay đổi – dựa trên bất kỳ mong muốn thay đổi nào
Khám phá ý nghĩa và thực tiễn của việc tái nghiện và coi đó là một cơ hội học hỏi
Hỗ trợ khách hàng tìm những chiến lược đối phó thay thế
Duy trì liên lạc hỗ trợ
GIAI ĐOẠN TÁI NGHIỆN
Chương iV – Bài 4.3 93
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài
Quá trình thay đổi là một quá trình liên tục:
‚ Đánh giá chính xác giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng sẽ giúp tư vấn viên quyết định can thiệp phù hợp
‚ Các chiến lược can thiệp phải gắn với giai đoạn thay đổi hành vi
‚ Không phải ai cũng cần đi qua tất cả các giai đoạn
‚ Ở giai đoạn tiền dự định, khách hàng không có ý định thay đổi
‚ Ở giai đoạn dự định khách hàng bắt đầu nghĩ đến việc cần phải làm gì đó
‚ Ở giai đoạn hành động, khách hàng cố gắng ngừng hoặc giảm sử dụng ma túy
‚ Ở giai đoạn duy trì, khách hàng thành công trong việc từ bỏ và muốn duy trì
‚ Hầu hết khách hàng tái sử dụng sau khi cố gắng từ bỏ - giai đoạn tái sử dụng này là một phần của quá trình thay đổi
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và các câu hỏi của họ, hỏi họ xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Thay đổi hành vi là một quá trình liên tục:
Các chiến lược trong rất nhiều can thiệp khác nhau đều liên quan đến các giai đoạn thay đổi hành vi
Giai đoạn tiền dự định: khách hàng không có ý định thay đổi
Giai đoạn dự định: khách hàng bắt đầu nghĩ đến cần phải làm gì đó
Giai đoạn hành động: khách hàng cố gắng ngừng hoặc giảm sử dụng ma túy
Giai đoạn duy trì: khách hàng thành công trong việc từ bỏ và muốn duy trì
Giai đoạn tái nghiện: khách hàng tái sử dụng (một phần bình thường của quá trình thay đổi)
TÓM TẮT – PHỎNG VẤN TẠO ĐỘNG LỰC
94 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
giải thích từ ngữ 95
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
giải thích từ ngữ 97
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
giải thích từ ngữ 99 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
100 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
giải thích từ ngữ 101 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 5

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 5

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
CHƯƠNG 5
Bài 5.1: Đánh giá khách hàng 3
Bài 5.2: Giải quyết vấn đề 39
Bài 5.3: Đặt mục tiêu 63
Bài 5.4: Giảm nguy cơ 83
Kĩ thuật và Kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
5.1 Đánh giá khách hàng
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I. Giới thiệu 5 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận với học viên cơ sở của việc đánh giá khách
hàng, quy trình đánh giá và ứng dụng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 75 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày về đánh giá khách hàng
III. Kết luận 10 phút
Nhắc lại những nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 5.1: Đánh giá khách hàng
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được những nội dung cơ bản trong đánh giá khách hàng, quy trình và các bước thực hiện đánh giá khách hàng.
Thời gian: 90 phút
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu được tại sao cần tiến hành đánh giá khách hàng khi họ mới bắt đầu tham gia chương trình điều trị
‚ Hiểu được trình tự và nội dung cần phải thực hiện khi đánh giá khách hàng
‚ Thể hiện được kiến thức và thực hành các kĩ năng đánh giá khách hàng thông qua phần đóng vai
‚ Áp dụng các kiến thức và kĩ năng đánh giá khách hàng trong tư vấn cho người sử dụng ma túy.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Bài tập nhóm nhỏ
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Bản chiếu Powerpoint
‚ Máy chiếu LCD
‚ Tài liệu phát tay số 5.1-1: Đóng vai (hướng dẫn đóng vai)
‚ Tài liệu phát tay số 5.1-2: Mẫu phiếu giá khách hàng
‚ Tài liệu phát tay số 5.1-3: Kế hoạch dịch vụ cá nhân
TổNG QuAN
Chương V – Bài 5.1 5
Bản chiếu 1
Nói: Đánh giá khách hàng trong những buổi đầu tiên là bước cần thiết trong quá trình điều trị nghiện và phục hồi nhưng cần thực hiện một cách khéo léo vì ở những buổi đầu này, khách hàng thường hay trầm cảm, lo âu, nghi ngờ và lẫn lộn. Ngay cả với những người có vẻ rất bình tĩnh và tích cực thì họ cũng hay che giấu những cảm xúc của họ; họ cần được khuyến khích và hỗ trợ rất nhiều để nói ra những khó khăn riêng tư. Trong buổi tư vấn đầu tiên, tư vấn viên cần nhấn mạnh rằng nội dung thảo luận sẽ được giữ bí mật tuyệt đối. Một buổi đánh giá định hướng ban đầu (sử dụng bộ câu hỏi) là một công cụ rất quan trọng để bạn có thể thu thập được thông tin đầy đủ về tiền sử của mỗi khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng có thể sẽ rất sợ các câu hỏi. Vì vậy, tốt hơn hết là bạn bắt đầu cuộc phỏng vấn một cách thân thiện, tự nhiên, không để bộ câu hỏi trước mặt. Sau khi phá vỡ được sự ngăn cách ban đầu với khách hàng bằng cách thể hiện sự quan tâm đến cảm xúc của họ, bạn có thể bắt đầu điền thông tin vào biểu mẫu đánh giá.
Hướng dẫn giảng dạy: Bạn có thể thảo luận thêm những nội dung dưới đây với học viên nếu thời gian cho phép.
Thông tin tham khảo: Trong khi một số khách hàng có thể đến với bạn với mong muốn là bạn có thể giúp đỡ được họ, một số khác lại muốn thử thách hoặc kiểm tra hiểu biết của bạn về các vấn đề ma túy. Một vài người lại nhìn nhận bạn theo hướng tiêu cực, chỉ là một phần của hệ thống cứng nhắc chẳng mang lại lợi ích gì cho họ cả. Với vai trò là tư vấn viên, bạn cần đáp ứng với tất cả các khách hàng mới với thái độ cảm thông, cho dù họ có tỏ ra căm phẫn hay gây khó khăn như thế nào đi nữa. Bạn có thể đáp ứng với thái độ này bằng sự thấu cảm, ví dụ bằng cách nói:
“Tôi có thể hiểu cảm giác của bạn về việc phải đến đây ngày hôm nay, nhưng vấn đề nào cũng có thể giải quyết được, và chúng ta nên giải quyết cùng nhau. Nhưng trước hết tôi rất muốn biết một vài điều về bạn.”
ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG
Bản chiếu 1 (tiếp)
Bạn có thể không hoàn thiện được phần đánh giá này trong buổi đầu tiên mới gặp khách hàng. Nhiều nội dung trong hồ sơ khách hàng có thể được hoàn thiện trong những buổi tư vấn tiếp theo, sau khi bạn đã thiết lập được mối quan hệ tin cậy và tự tin với khách hàng. Hồ sơ khách hàng cho phép chúng ta lưu giữ được những thông tin của khách hàng một cách liên tục, kể cả khi họ đã ở trong giai đoạn phục hồi. Sử dụng tờ thông tin bổ sung để ghi chép các sự kiện chính (tái sử dụng, tái nghiện hay những kết quả chính đã đạt được) trong suốt thời gian bạn còn giữ liên hệ với khách hàng.
Chương V – Bài 5.1 7
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học vên sẽ có thể:
Hiểu rõ tại sao đánh giá khách hàng lại quan trọng
Hiểu được quy trình và nội dung đánh giá khách hàng
Thể hiện được các kiến thức và kĩ năng đánh giá khách hàng thông qua đóng vai
Áp dụng được kiến thức và kĩ năng đánh giá khách hàng khi tư vấn
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày bày trực tiếp nội dung bản chiếu
8 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Đánh giá khách hàng là bước đầu tiên trong nhiều bước liên tiếp của quá trình điều trị và phục hồi. Việc đánh giá này được tiến hành trong một vài buổi làm việc đầu tiên với khách hàng để xác định và đánh giá những thông tin chung về khách hàng, bao gồm điểm mạnh, điểm yếu, khó khăn, và nhu cầu của họ, để từ đó xây dựng kế hoạch điều trị và mục tiêu phục hồi.
Đánh giá là một quá trình tìm hiểu tiền sử cá nhân của khách hàng bằng cách lắng nghe khách hàng/gia đình khách hàng. Chúng ta không thể giúp đỡ khách hàng thành công trừ khi chúng ta hiểu những thông tin cơ bản về họ, bao gồm thông tin cá nhân, học vấn/ nghề nghiệp liên quan đến việc sử dụng ma túy của họ. Đánh giá khách hàng giúp tư vấn viên xác định cần cung cấp hỗ trợ cụ thể nào để giúp đặt mục tiêu phục hồi cho khách hàng và tạo được những thay đổi lối sống cần thiết để đạt được các mục tiêu đó.
Thử thách của bạn trong giai đoạn đánh giá là phải tìm hiểu về cuộc sống của khách hàng và giúp họ nhận biết được giá trị của dịch vụ tư vấn. Có thể có rất nhiều áp lực trong cuộc đời khách hàng đã khiến họ sử dụng ma túy. Bạn cần phải tìm hiểu được càng nhiều thông tin về khách hàng càng tốt trước khi có thể đưa ra những nhận định về họ. Không nên để cho khách hàng cảm thấy họ có lỗi.

Bản chiếu 3
Đánh giá là bước đầu tiên trong nhiều bước liên tiếp của quá trình điều trị và phục hồi.
Đánh giá là quá trình tìm hiểu tiền sử cá nhân của khách hàng bằng cách lắng nghe khách hàng và thành viên gia đình họ
Đánh giá là một bước rất quan trọng giúp tư vấn viên xác định những can thiệp cụ thể giúp đặt mục tiêu phục hồi cho khách hàng
ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG LÀ GÌ?
Chương V – Bài 5.1 9
Bản chiếu 4
Nói: Có ba mục tiêu chính mà bạn cần phải đạt được trong khi đánh giá khách hàng:
‚ Đầu tiên, bạn cần phải cố gắng xây dựng mối quan hệ giữa bạn và khách hàng sao cho khách hàng cảm thấy tin tưởng vào khả năng của bạn để giúp đỡ và hỗ trợ họ giải quyết các vấn đề.
‚ Sau đó, bạn cần phải cố gắng xác định rõ bản chất và mức độ nghiêm trọng của các vấn đề khách hàng gặp phải.
‚ Sau khi xác định được các vấn đề, bạn cần giúp họ xác định kế hoạch hành động để đáp ứng với các vấn đề đó, và bạn có thể hướng dẫn họ cách theo dõi việc thực hiện kế hoạch này.
Để đạt được những mục tiêu này, bạn phải thực hiện những yêu cầu sau:

‚ Thu thập thông tin về tiền sử tâm thần, thể chất, xã hội và việc làm của khách hàng
‚ Tạo động cơ cho khách hàng tăng cường sự gắn kết với điều trị, nếu cần
‚ Tìm hiểu những yếu tố thúc đẩy khách hàng sử dụng ma túy
‚ Xác định những nhu cầu cá nhân, cảm xúc và kinh tế của khách hàng, mà những nhu cầu này có thể cần được quan tâm và đáp ứng ngay trước mắt.
‚ Chuẩn bị giải quyết những nhu cầu này.
‚ Xác định những điểm mạnh của khách hàng (nghĩa là những yếu tố trong cuộc sống của họ có thể hỗ trợ và hữu ích cho việc đáp ứng các nhu cầu).
‚ Cung cấp thông tin cho khách hàng về cách bạn sẽ làm việc với họ, nguyên lý và nền tảng cấu trúc của chương trình điều trị.
Thiết lập mối quan hệ trị liệu
Xác định rõ bản chất và mức độ nghiêm trọng của vấn đề khách hàng gặp phải
Đưa những vấn đề của khách hàng vào kế hoạch điều trị
MỤC TIÊU ĐÁNH GIÁ
Bản chiếu 5
Nói: Bạn muốn hiểu xem thực sự khách hàng của mình mong muốn điều gì. Tại sao họ lại đến gặp mình?
Bạn cũng rất muốn biết liệu khách hàng của mình có nghiện ma túy hay không bởi vì các giải pháp để giải quyết những khó khăn của khách hàng sẽ rất khác nhau tùy thuộc vào việc họ có hay không nghiện ma túy. Đối với người sử dụng heroin, bạn cần phải biết họ dùng bao nhiêu heroin mỗi lần và bao nhiêu lần mỗi ngày. Bạn cũng cần phải biết mức độ dung nạp của họ đối với heroin như thế nào, và liệu họ có sử dụng loại ma túy nào khác hay không. Bạn cần đánh giá mức độ thôi thúc muốn làm điều gì đó đối với việc SDMT của họ như thế nào. Không phải cứ khách hàng tìm đến với chúng ta thì có nghĩa là họ muốn thay đổi hành vi. Bạn cũng cần biết về mạng lưới hỗ trợ xã hội cho khách hàng, vì nếu khách hàng nhận được càng nhiều sự hỗ trợ xã hội thì khả năng họ thành công trong việc thay đổi hành vi càng lớn. Bạn cũng cần phải tìm hiểu xem liệu khách hàng có vấn đề gì về sức khỏe, tâm lí hay xã hội không, vì những vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến năng lực của họ trong việc thực hiện các hoạt động thay đổi lối sống.

Khách hàng mong muốn điều gì?
Khách hàng có nghiện không?
Mức độ dung nạp của khách hàng như thế nào?
Khách hàng có sử dụng/nghiện loại ma túy khác không?
Động cơ thay đổi của khách hàng là gì?
Những hỗ trợ xã hội hiện có của khách hàng là gì?
Khách hàng có vấn đề gì về sức khỏe hay tâm thần không?
NHỮNG NỘI DUNG CHỦ CHỐT CẦN ĐÁNH GIÁ
Chương V – Bài 5.1 11
Bản chiếu 6
Nói: Nhiều người trong chúng ta vẫn nghĩ rằng nghiện ma túy là biểu hiện của sự yếu kém đạo đức. Trên thực tế, nghiện là một rối loạn mạn tính tái diễn với các hậu quả trên cả ba phương diện sinh học, xã hội và tâm lí. Với vai trò là một tư vấn viên, bạn cần tập trung vào cả 3 lĩnh vực này.
Nếu chúng ta chỉ điều trị một lĩnh vực, vấn đề sẽ tiếp tục tồn tại. Với vai trò là một tư vấn viên, bạn sẽ thấy rằng khách hàng đến với bạn với rất nhiều vấn đề khác nhau. Bạn sẽ trực tiếp cùng khách hàng giải quyết nhiều vấn đề mà không cần phải giới thiệu chuyển gửi đến các dịch vụ khác. Tuy nhiên, đôi khi bạn sẽ nhận thấy có những vấn đề thực sự nghiêm trọng nằm ngoài khả năng chuyên môn của bạn. Bạn cần giới thiệu họ đến các dịch vụ hoặc những chuyên gia chuyên ngành khác để cung cấp các dịch vụ khác phù hợp cho khách hàng. Dù bạn không trực tiếp giúp khách hàng giải quyết những vấn đề này thì chúng vẫn vô cùng quan trọng đối với họ, và bạn cần nhận biết những vấn đề làm khách hàng thực sự lo ngại.

MÔ HÌNH “ TÂM SINH LÍ - XÃ HỘI” CỦA NGHIỆN MA TÚY
Sinh học
HIV
Độ dung nạp
Hậu quả về sức khỏe
Xã hội
Gia đình/bạn bè
Sự sẵn có
Việc làm
Tội phạm
Tâm lí
Lệ thuộc
Trầm cảm
Thèm nhớ
Động cơ
12 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7
Nói: Để có thể gắn kết khách hàng với dịch vụ, điều đầu tiên mà bạn cần phải nhớ là nếu bạn tập trung vào vấn đề mà khách hàng lo ngại nhất thì bạn sẽ dễ lấy được niềm tin của khách hàng để từ đó giải quyết vấn đề mà bạn lo ngại nhất cho họ.
Những vấn đề với gia đình, công việc, luật pháp hay nhà ở là những vấn đề mà bạn thường cần đến sự hỗ trợ từ những người khác, dịch vụ khác.
Bản chiếu này cho thấy dịch vụ tư vấn điều trị nghiện ma túy trực tiếp giải quyết các vấn đề như nghiện ma túy và các hành vi liên quan, nhưng ít khi đáp ứng được các vấn đề như việc làm hay nhà cửa. Bạn cần phải chuyển gửi khách hàng tới các dịch vụ khác để hỗ trợ giải quyết những vấn đề này. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những vấn đề đó kém quan trọng hơn. Nên hiểu là tư vấn điều trị nghiện ma túy chỉ tập trung vào vấn đề nghiện và nhận biết các vấn đề khác có thể tác động đáng kể đến sự thành công trong quá trình phục hồi. Quá trình đánh giá giúp bạn hiểu rõ những vấn đề này có có tồn tại hay không, và nếu có thì giải quyết như thế nào cho có hiệu quả nhất.

Nghiện ma túy
Hành vi liên quan đến ma túy
Tình trạng thể chất
Vấn đề tâm lí
Vấn đề trong quan hệ
Hỗ trợ pháp lí
Nhà ở
Đào tạo/việc làm
CÁC VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT KHI CUNG CẤP DỊCH VỤ ĐIỀU TRỊ CAI NGHIỆN
HẦU HẾT
ÍT KHI
TRỰC TIẾP
GIÁN TIẾP

Chương V – Bài 5.1 13
Bản chiếu 8
Nói: Để tối đa hóa kết quả điều trị, tư vấn viên cần ưu tiên, các vấn đề xã hội và tâm lí, bên cạnh các vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy của khách hàng. Rất khó thành công trong tư vấn điều trị nghiện ma túy, điều trị nghiện và phục hồi chức năng cho khách hàng khi họ có những vấn đề tâm lí và xã hội trầm trọng.
Ưu tiên giải quyết các vấn đề tâm lí xã hội
Mức độ ổn định về cảm xúc
Sử dụng ma túy “kiểu không ổn định"
Tình trạng nhà ở
Tình trạng thu nhập
TỐI ĐA HÓA KHẢ NĂNG TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Tâm lí xã hội
Sử dụng ma túy
Vấn đề sức khỏe và tâm thần
Vấn đề lựa chọn điều trị
Đánh giá thực thể
NĂM THÀNH PHẦN QUAN TRỌNG CỦA ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU
Nói: Đây là 5 thành phần quan trọng cần được đề cập trong buổi đánh giá đầu tiên. Chúng ta sẽ dành thời gian để thảo luận chi tiết từng thành phần.
Chương V – Bài 5.1 15
Bản chiếu 10
Nói: Ngoài những thông tin nhân khẩu học cơ bản như tên, địa chỉ, tuổi, giới... bạn cũng cần biết khách hàng hiện đang sống với ai, vai trò và thái độ của những người đó đối với khách hàng như thế nào, và liệu có ai trong gia đình cũng sử dụng/lạm dụng ma túy không. Bạn cần hỏi về bạn bè thân, họ hàng và những người có thể có ảnh hưởng lớn đến khách hàng. Bạn cũng cần đánh giá xem mức độ ảnh hưởng của việc sử dụng ma túy đến các mối quan hệ trong gia đình và các mối quan hệ khác như thế nào.
Luôn giữ thái độ cảm thông với khách hàng để tìm hiểu thêm những thông tin sau:

‚ Bạn có việc làm không? Bạn kiếm sống như thế nào?
‚ Bạn có bị nợ nần nhiều không? Hãy nói cho tôi biết về những khoản nợ đó.
‚ Bạn đã bao giờ phải bán những thứ quý giá của bạn hay của gia đình đề mua ma túy hay chưa?
‚ Bạn đã bao giờ gặp rắc rối với công an chưa? Hãy kể cho tôi nghe về những lần rắc rối đó.
Hỏi khách hàng xem hiện nay họ có vướng mắc gì với công an không, hay trước đây họ đã từng gặp rắc rối với công an bao giờ chưa. Họ có tham gia vào hoạt động phạm pháp nào như trộm cắp, buôn bán ma túy hay mại dâm hay không?
Họ đang sống ở đâu? Họ làm gì để kiếm ra tiền?
Dùng chính những câu trả lời của khách hàng để hỏi tiếp, họ sẽ khó có thể chối bỏ những vấn đề nghiêm trọng do ma túy gây ra cho họ. Họ cũng khó có thể tìm ra cách trốn tránh việc gánh trách nhiệm cho những hậu quả này, bởi vì tất cả những điều này chính là phương pháp lấy khách hàng làm trọng tâm

Nhân khẩu học
Mối quan hệ với gia đình
Mối quan hệ với vợ/chồng/bạn tình
Trình độ học vấn và nghề nghiệp
Vấn đề phạm tội
Hoàn cảnh sống hiện tại
Nguồn thu nhập
VẤN ĐỀ TÂM LÍ XÃ HỘI
16 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10 (tiếp)
Hướng dẫn giảng dạy: Điều hành thảo luận nhóm lớn về các loại thông tin cần hỏi khi đánh giá tiền sử sử dụng chất gây nghiện của khách hàng
Chương V – Bài 5.1 17
Bản chiếu 11
Nói: Một số người sử dụng ma túy có thể đến dịch vụ tư vấn vì những lí do khác chứ không phải để tìm cách thoát khỏi ma túy. Họ có thể tới để tìm kiếm sự hỗ trợ giảm triệu chứng cai. Bạn sẽ cần các thông tin về quá khứ và hiện tại của khách hàng để đánh giá tình trạng của họ.
Điều quan trọng bạn cần hỏi khách hàng những câu hỏi sau:

‚ Bạn bắt đầu sử dụng ma túy như thế nào, trong điều kiện hoàn cảnh nào và loại ma túy sử dụng lần đầu là gì?
‚ Bạn đã sử dụng mỗi loại ma túy đó trong thời gian bao lâu?
‚ Liều dùng hàng ngày trong giai đoạn trước đây, gần đây và hiện nay như thế nào, tần suất và thời gian sử dụng trong bao lâu?
‚ Loại ma túy nào bạn cho là nguyên nhân chính gây ra các vấn đề cho bạn?
‚ Bạn dùng ma túy bằng đường nào? Dùng theo cách nuốt, hút hay tiêm chích?
‚ Nếu bạn tiêm chích, bạn chích riêng hay chích chung bơm kim tiêm với bạn bè?
‚ Bạn có làm sạch bơm kim tiêm trước và sau mỗi lần chích không? (nhiễm HIV và virus viêm gan là những nguy cơ thực sự đối với những người nghiện nếu họ dùng chung dụng cụ tiêm chích. Ban đầu, khách hàng có thể không biết được các nguy cơ đối với sức khỏe của họ, nhưng trong quá trình tư vấn và phục hồi họ sẽ có thể nhận biết được điều này và mong muốn được chăm sóc sức khỏe.)
Khách hàng của bạn có thể đã từng tham gia các chương trình điều trị cai nghiện trước đây. Vì vậy, cần hiểu thêm những thông tin về tiền sử điều trị trước đây và cách nhìn nhận của họ về thành công của các phương pháp điều trị đó. Bạn cũng cần tìm hiểu thông tin về số lần và khoảng thời gian ngừng sử dụng của mỗi loại chất gây nghiện. Hỏi lần ngừng sử dụng ma túy gần đây nhất kéo dài trong bao lâu và bao lâu sau thì tái nghiện. Người ta tái nghiện vì những lí do khác nhau. Nói chung, mỗi khách hàng có những điểm yếu riêng của mình hay còn gọi là “những yếu tố cám dỗ cá nhân” có thể dẫn đến tái nghiện. Thông tin này rất quan trọng cho quá trình phục hồi và giai đoạn dự phòng tái nghiện.

Loại CGN chính
- Liều dùng trung bình hàng ngày (số lần/khoảng thời gian)
- Lần cuối cùng sử dụng
- Cách dùng
- Tuổi bắt đầu dùng
- Giai đoạn không sử dụng
- Mức độ lệ thuộc
- Hình thức điều trị trước đây
Loại CGN khác
- Loại CGN hiện dùng và trước đây
- Mức độ nghiện
TIỀN SỬ SỬ DỤNG CHẤT GÂY NGHIỆN
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Những vấn đề bệnh tật và tâm lí cũng cần được thảo luận vì chúng có thể có mối quan hệ mật thiết với việc sử dụng ma túy của khách hàng. Là một tư vấn viên, chúng ta cần phải biết về những vấn đề bệnh tật, tâm lí nào cần được chuyển gửi đến các dịch vụ phù hợp để cung cấp dịch vụ kịp thời, hiệu quả và toàn diện cho họ.
‚ Khách hàng đã từng được xét nghiệm HIV chưa? Tư vấn trước và sau xét nghiệm rất quan trọng.
‚ Nếu là nữ, khách hàng có mang thai không?
‚ Khách hàng có bệnh gì về tim mạch hay gan không?
‚ Khách hàng đã bao giờ có ý định tự tử chưa? Bạn sẽ hỏi câu hỏi này như thế nào? Đây là một lĩnh vực rất nhạy cảm và cần phải được hỏi một cách thận trọng. Bạn có thể hỏi khách hàng liệu có bao giờ họ cảm thấy cuộc sống thật là khó khăn đến nỗi họ nghĩ là không còn gì đáng để tiếp tục sống nữa hay không. Nếu khách hàng trả lời là có, sau đó có thể hỏi tiếp xem họ đã làm gì khi nghĩ như vậy? Bạn có thể khám phá liệu họ vẫn còn những suy nghĩ như vậy trong thời điểm hiện tại không. Nếu có, bệnh nhân cần phải được khám đánh giá chuyên khoa.
‚ Khách hàng đã bao giờ bị quá liều chưa?
Nhiễm vi-rút lây truyền qua đường máu (HIV và viêm gan)
Tình trạng thai nghén
Những vấn đề y tế nghiêm trọng khác
- Gan
- Tim mạch
Những vấn đề tâm lí nghiêm trọng
- Trầm cảm, tự tử, loạn thần
Quá liều do dùng chất dạng thuốc phiện
VẤN ĐỀ BỆNH TẬT VÀ TÂM LÝ
Chương V – Bài 5.1 19
Bản chiếu 13
Nói: Điều quan trọng là bạn cần phải biết điều gì thúc đẩy khách hàng đến với bạn. Có phải anh ta bị vợ bỏ không? Gần đây anh ta có bị công an bắt không? Anh ta có sợ bị mất việc làm hay không? Anh ta có bị cha mẹ đuổi ra khỏi nhà không? Hay anh ta đến là vì bạn thân của anh ta mới bị chết do sốc quá liều? Đó là những nguyên nhân phổ biến khiến người sử dụng ma túy tìm đến chương trình điều trị.
Nhiều người sử dụng ma túy trẻ, đặc biệt là những người bị ép buộc tham gia điều trị thường có xu hướng chối bỏ, không thừa nhận những tác hại của hành vi sử dụng ma túy. Họ cho rằng mọi thứ chẳng có vấn đề gì cả.

‚ Động cơ của khách hàng như thế nào trong việc phục hồi khỏi việc sử dụng ma túy và vượt qua các vấn đề khó khăn có liên quan đến sử dụng ma túy?
‚ Mong đợi của họ từ dịch vụ của bạn là gì?
Bây giờ là cơ hội để hỏi về những vấn đề ưu tiên của khách hàng. Một số người nói họ muốn vợ quay lại với họ. Một số người nói rằng họ bị căng thẳng vì lâm vào cảnh nợ nần hoặc họ bị buộc thôi việc. Ưu tiên của họ là họ cần có người giúp trả nợ và giúp tìm lại việc làm. Hãy xem mức độ cam kết của khách hàng và khả năng điều trị bằng cách hỏi khách hàng mức độ sẵn sàng thay đổi và mức độ tự tin về sự thay đổi của họ. Tất cả những yếu tố này đều góp phần quyết định can thiệp phù hợp nhất.

Đánh giá các yếu tố sau:
Yếu tố thúc đẩy tham gia điều trị
Mục đích điều trị của khách hàng
Giai đoạn thay đổi hành vi
Cam kết điều trị
- Mức độ tự tin thực hiện thay đổi (thang điểm)
- Mức độ sẵn sàng thay đổi hoàn cảnh (thang điểm)
LỰA CHỌN ĐIỀU TRỊ
20 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14
Nói: Trong lần gặp gỡ đầu tiên, tư vấn viên cần thực hiện đánh giá cơ bản về tình trạng tâm thần của khách hàng xem liệu họ có bị ảnh hưởng bởi ma túy đến tâm trạng, hành vi và nhận thức hay không. Sắp xếp những thông tin quan sát được theo các nội dung sau:
‚ Hành vi và vẻ bề ngoài của bệnh nhân
‚ Khả năng nói/diễn đạt
‚ Tác động và tâm trạng của bệnh nhân
- Sự phù hợp

‚ Suy nghĩ (dòng suy nghĩ, nội dung và định hình suy nghĩ)
‚ Quan niệm
‚ Nhận thức
‚ Phán xét
‚ Những vấn đề nội tâm
‚ Lòng tin
Tư vấn viên có thể cần phải xem vết tiêm chích để xác định xem có tổn thương nghiêm trọng nào không. Bạn cũng tìm kiếm các biểu hiện phê thuốc hoặc biểu hiện cai để xem lần sử dụng ma túy gần đây có đồng nhất với quan sát của bạn không. Bạn cũng cần xem xét về mặt tổng thể tình trạng dinh dưỡng của khách hàng.

Tình trạng tâm thần
- Tâm trạng
- Nhận thức
- Hành vi
Vết tiêm chích
Dấu hiệu phê thuốc/cắt cơn (vã)
Tình trạng dinh dưỡng
ĐÁNH GIÁ THỰC THỂ
Chương V – Bài 5.1 21
Bản chiếu 15
Hướng dẫn giảng dạy: Lưu ý là còn một số câu hỏi trong bản chiếu tiếp theo
Nói: Để biết được liệu khách hàng của bạn có nghiện loại CGN chính mà họ đang sử dụng không, bạn cần hỏi các câu hỏi sau. Nếu khách hàng trả lời là “có” với ít nhất 3 câu hỏi thì họ đã nghiện loại CGN đó.
Bạn có thể bắt đầu bằng cách nói: “Đây là một số câu hỏi về các vấn đề bạn có thể gặp phải do việc sử dụng (loại CGN chính). Hay nghĩ về 12 tháng qua …. “

1. Độ dung nạp
Liệu bạn có cần phải tăng liều CGN để đạt được trạng thái phê hoặc tác động như mong muốn?
HOẶC
Vào một thời điểm bất kì, bạn có thấy dường như tác động giảm khi bạn dùng một lượng ma túy như thường lệ?
2. Hội chứng cai
Bạn có biểu hiện cai/cắt cơn khi tác dụng của CGN giảm đi không?
HOẶC
Bạn phải sử dụng nhiều hơn hay vẫn cùng một lượng CGN để làm giảm hoặc tránh các biểu hiện cai/cắt cơn
3. Thời gian: Bạn có phải dành phần lớn thời gian để có được CGN, sử dụng, hoặc phục hồi khỏi tác động của nó hay không.
4. Số lượng: Bạn có sử dụng CGN với lượng lớn hơn hoặc với thời gian dài hơn bạn mong muốn không?
Bạn có muốn giảm liều hoặc dừng sử dụng CGN không, hoặc bạn có gặp khó khăn khi cố gắng làm như vậy không?
5. Bạn có giảm hoặc từ bỏ các công việc quan trọng, các thú vui, các hoạt động xã hội do sử dụng (ma túy) không?
6. Bạn có tiếp tục sử dụng (ma túy) không, ngay cả khi bạn biết đó là nguyên nhân gây ra hoặc làm cho các vấn đề về thực thể và tâm lí ngày càng nặng hơn?
NGHIỆN (2)
Chương V – Bài 5.1 23
Bản chiếu 17
Nói: Có hai tiêu chuẩn bạn có thể dụng để đánh giá mức độ nghiện về mặt thực thể ở khách hàng: Độ dung nạp Hội chứng cắt cơn.
Độ dung nạp
Dùng liều cao hơn để đạt được tác động giống như ban đầu
Hội chứng cắt cơn Xuất hiện khi ngừng sử dụng ma túy đột ngột
LỆ THUỘC VỀ THỂ CHẤT
24 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Nói: Các chất dạng thuốc phiện có thể gây nên các triệu chứng từ trung bình đến nặng của hội chứng cai nhưng không đe dọa đến tính mạng. Dấu hiệu và triệu chứng cai CDTP có thể bị chẩn đoán nhầm với một trường hợp bị cảm cúm nặng. Hội chứng cai heroin ít khi gây tử vong trừ khi người bệnh bị mất nước hoặc có những bệnh lý đồng diễn nghiêm trọng khác.
Khởi phát và thời gian kéo dài hội chứng cai có thể thay đổi tùy thuộc vào thời gian bán hủy của loại ma túy sử dụng. Hội chứng cai heroin có thể bắt đầu 6-12 giờ kể từ liều cuối cùng sử dụng, có thể kéo dài trong vòng 5-7 ngày. Với methadone, hội chứng cai có thể bắt đầu từ 2-3 ngày kể từ liều uống gần nhất, và kéo dài cho tới 3 tuần.

Triệu chứng
Chán ăn và buồn nôn
Đau bụng, đau quặn
Cơn nóng lạnh
Đau hoặc xoắn vặn cơ, khớp
Ngủ kém
Thèm nhớ ma túy
Lo âu, bồn chồn
HỘI CHỨNG CAI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Chương V – Bài 5.1 25
Bản chiếu 19
Nói: Khởi phát và thời gian kéo dài hội chứng cai có thể thay đổi tùy thuộc vào thời gian bán hủy của loại ma túy sử dụng. Hội chứng cai heroin có thể bắt đầu 6-12 giờ kể từ liều cuối cùng sử dụng, có thể kéo dài trong vòng 5-7 ngày. Với methadone, hội chứng cai có thể bắt đầu từ 2-3 ngày kể từ liều uống gần nhất, và kéo dài cho tới 3 tuần. Các dấu hiệu bao gồm giãn đồng tử. Đồng tử sẽ co khi người sử dụng ma túy đang phê. Chảy nước mắt, chảy nước mũi và nổi da gà cũng là những dấu hiệu có thể thấy.
Dấu hiệu
Ngáp
Chảy nước mắt
Đồng tử giãn
Vã mồ hôi
Chảy mũi, hắt hơi
Lạnh, rùng mình
Nổi da gà
Tiêu chảy và nôn
HỘI CHỨNG CAI CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu hình ảnh này và hỏi học viên liệu xem nghĩ cô gái này đang ở trạng thái cai hay là phê? Vì sao?
Nói: Câu trả lời là cô ấy đang bị biểu hiện cai do heroin vì cô ta có đồng tử giãn rộng. Tuy nhiên, cô ấy cũng có thể đang ở trạng thái phê ecstasy hoặc methamphetamine
Chương V – Bài 5.1 27
Bản chiếu 21
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thang đánh giá mức độ nghiện để giải thích với học viên khách hàng nghiện ở mức độ nào nào với các loại chất gây nghiện khác
Thông tin tham khảo: Thang đánh giá mức độ nghiện: Điểm tối thiểu
‚ Methamphetamine: ít nhất là 4 điểm (Topp và Martick 1997)
‚ Rượu: ít nhất là 3 điểm (Lawrinson, Copelad và cộng sự 2007)
‚ Cần sa: ít nhất là 3 điểm (Swift, Copeland & Hall, 2002), ít nhất 4 điểm với vị thành niên (Copeland, 2009)
‚ Heroin: ít nhất là 3 điểm (Gonzalez-Sáiz và cộng sự, 2009)
‚ Cocain: ít nhất là 4 điểm (Gonzalez – Sáiz và cộng sự, 2009)
Nói: Ngoài công cụ đánh giá khách hàng trong tài liệu phát tay số 5.1-2, đây là một công cụ khác bạn có thể sử dụng. Công cụ này rất hữu ích nhằm giúp tư vấn viên đánh giá mức độ lệ thuộc về tâm lí của khách hàng. Nó cũng được sử dụng cho cuộc thảo luận giữa tư vấn viên và khách hàng để xác định mức độ nghiêm trọng của việc sử dụng ma túy đối với khách hàng theo cách nhìn của chính họ.
Thang điểm đánh giá mức độ nghiện (SAS) có 5 câu hỏi được thiết kế để đo lường mức độ lệ thuộc về tâm lí vào ma túy. Thang điểm SAS này tập trung vào các khía cạnh tâm lí của nghiện, bao gồm tình trạng mất kiểm soát việc sử dụng ma túy, và sự chế ngự bởi ma túy lo lắng về việc sử dụng ma túy của họ trong vòng 12 tháng qua. SAS là công cụ có độ tin cậy để đánh giá mức độ nghiện. Nó đã cho thấy khả năng đo lường tâm lí tốt đối với heroin, cocaine, amphetamine, và cần sa. Ứng dụng của nó trong đo lường lệ thuộc cần sa và thuốc ngủ benzodiazepine gần đây mới được kiểm chứng. Những phân tích ban đầu đã chỉ ra ngưỡng điểm lệ thuộc/nghiện đối với amphetamine, cần sa và thuốc ngủ nhóm benzodiazepine lần lượt là 4, 3 và 6.

THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGHIỆN (SAS)

1. Bạn đã bao giờ nghĩ là bạn đã không thể kiểm soát được ma túy? 0 Không hoặc gần như không 3 Liên tục hoặc gần như liên tục 1 Thỉnh thoảng 2 Thường xuyên
2. Liệu ý tưởng bỏ ma túy có làm bạn lo lắng, sợ hãi không? 0 Không hoặc gần như không 3 Liên tục hoặc gần như liên tục 1 Thỉnh thoảng 2 Thường xuyên
3. Bạn có lo lắng về việc sử dụng ma túy của bạn không? 0 Không hoặc gần như không 3 Liên tục hoặc gần như liên tục 1 Thỉnh thoảng 2 Thường xuyên
4. Bạn có mong muốn bỏ ma túy không? 0 Không hoặc gần như không 3 Liên tục hoặc gần như liên tục 1 Thỉnh thoảng 2 Thường xuyên
5. Bạn thấy việc bỏ ma túy khó như thế nào? 0 Dễ 3 Không thể 1 Hơi khó 2 Rất khó
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 22
Nói: Điều quan trọng là bạn cần giúp khách hàng để họ tự nói về các vấn đề của họ, để từ đó họ bắt đầu chịu trách nhiệm về việc sử dụng ma túy của mình.
Cuộc gặp đầu tiên sẽ thành công nếu bạn giúp khách hàng:
1. Nhận biết được và thừa nhận họ gặp khó khăn do sử dụng ma túy
2. Đồng ý tiếp nhận dịch vụ tư vấn và điều trị một cách tự nguyện
3. Hiểu được rằng mặc dù ma túy có thể khiến họ cảm thấy tốt hơn và giúp đối phó với các khó khăn, nhưng ma túy cũng chính là tác nhân tiêu cực, hủy hoại cuộc sống của họ
4. Hiểu rằng họ sẽ phải cố gắng rất nhiều và hợp tác chặt chẽ với bạn nếu muốn giải quyết các khó khăn. Bạn có thể cần phải đảm bảo rằng thông qua tư vấn, khách hàng học được rất nhiều phương pháp lành mạnh hơn, an toàn hơn để giải quyết những vấn đề đó.
Trong khi đánh giá, nhiệm vụ của bạn giống như cầm lấy chiếc gương phản chiếu để giúp khách hàng kể lại câu chuyện về cuộc đời họ. Sau đó khi bạn nói về câu chuyện của khách hàng, bạn có thể giúp họ chấp nhận thử thách trong tư vấn và điều trị. Khách hàng cần biết rằng đó sẽ là một công việc khó khăn nhưng sẽ rất đáng giá để thực hiện và bạn luôn sẵn sàng để giúp họ.

Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi của họ. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp có câu hỏi, hãy trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài khác, đề nghị học viên ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
1. Khách hàng nhận biết được và thừa nhận họ gặp khó khăn do sử dụng ma túy
2. Đồng ý tiếp nhận dịch vụ tư vấn và điều trị một cách tự nguyện
3. Hiểu được lợi ích và những tác hại của việc sử dụng ma túy
4. Hiểu rằng họ sẽ phải cố gắng rất nhiều và hợp tác với bạn nếu họ thực sự muốn giải quyết vấn đề
ĐÁNH GIÁ THÀNH CÔNG
Chương V – Bài 5.1 29
Tài liệu phát tay 5.1-1
Đóng vai (Tài liệu này chỉ dành cho giảng viên):
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người.
Các nhóm tự phân công các vai sau: tư vấn viên, khách hàng và quan sát viên. Mỗi vai đều có cách nhìn nhận khác nhau về quá trình tư vấn. Nhiệm vụ của quan sát viên là quan sát chất lượng buổi tư vấn để xem liệu tư vấn viên có quên một điều nào đó hay bỏ lỡ cơ hội nào đó không. Quan sát viên cũng cần quan sát những đặc điểm của khách hàng.
Tư vấn viên sẽ sử dụng các kĩ năng mà chúng ta đã thảo luận trong bài trước để thu thập thông tin cần thiết khi đánh giá khách hàng.
Gọi tất cả “khách hàng” ra một chỗ.
Nói:
Tôi muốn các bạn không quá dễ dãi với tư vấn viên. Hãy làm khó họ một chút để họ phải rất cố gắng mới thu thập được thông tin từ các bạn. Vì vậy, tôi muốn các bạn trả lời hoặc là không rõ ràng một chút hoặc là không đúng với câu hỏi của họ. Hãy chờ cho đến khi họ hỏi thật nhiều lần rồi mới cung cấp thông tin cho họ.
Hướng dẫn giảng dạy: Giảng viên quay lại với cả nhóm học viên.
Nói: Bây giờ tôi muốn các bạn quay trở lại các nhóm của mình gồm ba người, và phân tán ra quanh phòng. Các bạn sẽ có 20 phút để đóng vai.
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn sơ bộ nội dung đóng vai. Đưa cho người đóng vai tư vấn viên 1 bản Mẫu đánh giá khách hàng (xem trang sau), với những câu hỏi về các vấn đề cụ thể như sức khỏe tâm thần và chức năng trong gia đình.
Nói: Cần chú ý rằng, buổi đánh giá đầu tiên nên ngắn gọn nhưng có ý nghĩa. Tránh để khách hàng cảm thấy phải chịu đựng buổi đánh giá hoặc bị quá tải. Chỉ thu thập những thông tin đủ để đưa ra quyết định cần thiết. Bạn có thể đánh giá đầy đủ hơn trong những buổi tư vấn sau.
Đầu tiên, bạn cần xác định xem khách hàng có cần chăm sóc khẩn cấp về y tế không. Các vấn đề chính khác cần đánh giá là tiền sử sử dụng ma túy của khách hàng, các vấn đề liên quan đến việc sử dụng ma túy và các vấn đề về thể chất và sức khỏe tâm thần.
Bộ câu hỏi đánh giá chỉ là một phần của việc đánh giá. Sự tham gia, xây dựng mối quan hệ, quan sát, làm rõ các câu trả lời, tìm hiểu thêm về những điều quan trọng mà khách hàng nói tới hoặc trả lời cũng là những nội dung của quá trình đánh giá. Không nên chỉ điền thông tin vào bộ câu hỏi mà cho rằng chúng ta đã hoàn thành đánh giá khách hàng.

30 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Mẫu phiếu đánh giá khách hàng
Mã số khách hàng:...................................
PHẦN I: THÔNG TIN XÃ HỘI - NHÂN KHẨu HỌC- Y TẾ
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Họ tên: ........................................ Chữ cái đầu tiên của tên: ............ Chữ cái đầu tiên của họ: ...........
2. ngày tháng năm sinh: ............. /............./............. 3. Tuổi:............4. giới tính: nam nữ:
5.Trình độ học vấn ................................................. 6. Tình trạng hôn nhân: .....................................
Không đi học Chưa kết hôn
Cấp I Đã kết hôn
Cấp II Ly thân
Cấp III Ly dị
Trung cấp/ CĐ/ĐH/SĐH Góa
7. Địa chỉ liên lạc: ...............................................
8. KH là giáo dục viên đồng đẳng: .....................
Số nhà: ............................................................... Có
Phường/xã: ........................................................ Không
Quận/huyện: ......................................................
Thành phố/ tỉnh: .................................................
9. Vợ/chồng/người thân trong gia đình có ai sử dụng ma túy không?
10. ngày vào Trung tâm 06 (nếu có):

................... /................... /...................
Không Ghi 99/99/9999 nếu không vào TT 06
11. ngày hồi gia: ................... /................... /...................
Ghi 99/99/9999 nếu không vào TT 06
II. THÔNG TIN VỀ VIỆC LÀM VÀ THu NHẬP
12. Việc làm:
13. KH có muốn thay đổi công việc hiện nay không?

Thất nghiệp, không tìm việc
Thất nghiệp, đang tìm việc Không
Đang làm việc, bán thời gian Làm việc cho gia đình
Đang có việc ổn định, làm việc toàn bộ thời gian
Tài liệu phát tay 5.1-2
Loại công việc:
Nếu có, hãy mô tả:
Chương V – Bài 5.1 31
Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
14(a). Thu nhập từ công việc chính ............./tháng 14(b). Thu nhập khác: ....................../tháng
14(c). Tổng thu nhập .............................../tháng
14(d). Đánh giá về nhu cầu cơ bản:
KH không có nguồn thu nhập nào để đáp ứng nhu cầu cơ bản (thức ăn, chỗ ở, quần áo). Cần được can thiệp hỗ trợ ngay lập tức.
KH có nguồn thu nhập ổn định nhưng không đủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản. Cần được hỗ trợ nhưng chưa cấp thiết.
KH có nguồn thu nhập ổn định đủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản (thực phẩm, quần áo, nơi ở). Không có nhu cầu được can thiệp.
III. NHÀ Ở
15. Hiện nay khách hàng đang sống với ai?
Sống một mình Sồng cùng vợ/ chồng hoặc bạn tình Sống với gia đình Sống với bạn
16(a). Hiện nay khách hàng đang thuê nhà hay có nhà riêng?
Thuê nhà Có nhà riêng
16(b). Hãy mô tả tình trạng và hoàn cảnh nhà ở hiện nay:
16(c). Đánh giá về điều kiện sống
Điều kiện sống không an toàn, không ổn định và/hoặc khách hàng cảm thấy không hài lòng. Cần can thiệp ngay.
Điều kiện sống chưa ổn định hoặc chưa hài lòng. Cần đến can thiệp hỗ trợ trong tương lai.
Điều kiện sống ổn định và khách hàng cảm thấy hài lòng. Không cần can thiệp, hỗ trợ.
32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
IV.PHƯƠNG TIỆN ĐI LẠI
17. KH thường xuyên đi lại bằng phương tiện gì?
18. Khách hàng có cần sắp xếp phương tiện đi lại khác không?

Xe đạp Xe buýt
Xe máy Đi bộ Không
Ô tô
V.THÔNG TIN VỀ SỰ HỖ TRỢ TỪ GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
19. Đánh giá mức độ hỗ trợ mà khách hàng nhận được:

Hỗ trợ về tâm lý/ tình cảm Hỗ trợ về vật chất Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe Hỗ trợ khác
1. Vợ/chồng
2. Bạn tình
3. Cha mẹ
4. Con cái
5. Anh/chị/em ruột
6. Họ hàng
7. Bạn bè
8. GDVĐĐ
9. Khác
Mã hóa: 1. Hỗ trợ nhiều và liên lục
2. Hỗ trợ không thường xuyên
3. Hỗ trợ rất ít
4. Không hỗ trợ/ không biết
20. Mức độ hài lòng của khách hàng đối với sự hỗ trợ về mặt xã hội hiện nay:
Không hài lòng Hơi hài lòng Tương đối hài lòng Hài lòng Rất hài lòng
21. Đánh giá các hỗ trợ xã hội
Khách hàng cảm thấy bị cô lập, không có bất cứ nguồn hỗ trợ xã hội đáng kể nào. Cần có biện pháp can thiệp ngay.
Khách hàng dường như có rất ít nguồn hỗ trợ xã hội đáng kể, nhưng cảm thấy hài lòng với hoàn cảnh hiện tại. Có thể cần được can thiệp sau này.
Khách hàng có sự hỗ trợ, nhưng cảm thấy chưa đủ, cần có thêm các nguồn hỗ trợ khác.
Khách hàng có được mạng lưới hỗ trợ xã hội tích cực và phù hợp. Không cần biện pháp can thiệp nào.
Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
Chương V – Bài 5.1 33
Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
VI. THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE
22. Khách hàng đã bao giờ xét nghiệm HiV chưa?
23(a). Khách hàng đã bao giờ xét nghiệm viêm gan B chưa?

Chưa xét nghiệm Chưa xét nghiệm
Đã XN, kết quả (-) Đã XN, kết quả (-)
Đã XN, kết quả (+) Đã XN, kết quả (+)
Đã XN, kết quả không xác định Đã XN, kết quả không xác định
Đã XN, không đến lấy kết quả Đã XN, không đến lấy kết quả
Ngày xét nghiệm: ......./...../....... Ngày xét nghiệm: ......./...../.......
Nơi xét nghiệm: ..................... Nơi xét nghiệm: .....................
23(b). Khách hàng đã bao giờ Xn viêm gan C chưa? Chưa xét nghiệm Đã XN, kết quả (+)
Đã XN, kết quả (-) Đã XN, kết quả không xác định
Đã XN, không đến lấy kết quả Ngày xét nghiêm: ........./......./........... Nơi xét nghiệm: .............................. 24. Tình trạng sức khỏe hiện nay? 25. . KH đã từng được điều trị các bệnh mạn tính dưới đây bao giờ chưa?
Rất tốt Viêm gan B
Tốt Viêm gan C
Trung bình Lao
Kém Khác (cụ thể) .................................
26. KH có mắc BlTQĐTd không (cụ thể)? ...............................................................
27(a). KH đang điều trị ARV? 27(b). Mức độ tuân thủ điều trị?
Rất tốt
Không Tốt
Trung bình
Kém
Không tuân thủ
28(a). KH có hành vi QHTd không Sd BCS với bạn tình nữ trong 12 tháng qua không?
Có Không
28(b). KH có hành vi QHTd không Sd BCS với bạn tình nam trong 12 tháng qua không?
Có Không
29. KH có hành vi tiêm chích không an toàn trong 12 tháng qua không?
Có Không
34 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
VII. THÔNG TIN VỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
Lưu ý:
Đối với câu 30, 31 nếu KH trả lời “Không” hoặc người thân KH nói KH từng bị mất trí nhớ, cần phải giới thiệu ngay khách hàng tới bác sĩ chuyên khoa để kiểm tra.
30. Khách hàng có ý thức được hiện nay họ đang ở đâu hay không?
31. Khách hàng có biết tại sao họ đang ở đây hay không?

Không Không
32. Khách hàng có các biểu hiện nào dưới đây? Trầm cảm Ý nghĩ tự sát
Lo lắng Hoang tưởng
Mất ngủ Cô lập về mặt xã hội
Hay quên
33. Đánh giá về sức khỏe tâm thần
Khách hàng cần được bác sĩ chuyên khoa khám và chẩn đoán về tâm thần ngay
Khách hàng cần được can thiệp, nhưng chưa khẩn cấp lắm
Khách hàng hiện vẫn có biểu hiện bình thường, có thể cần được can thiệp sau
KH hiện có biểu hiện/chức năng tâm thần bình thường. Không cần biện pháp can thiệp nào vào thời điểm này.
Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
Chương V – Bài 5.1 35
Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
Mã số khách hàng:...................................
PHẦN II: THÔNG TIN SỬ DỤNG MA TuÝ
Ngày đầu tiên đến TT HTCĐNSC (##/##/####): ............ /............/............
VIII. TIỀN SỬ SỬ DỤNG MA TÚY (TRƯớC KHI ĐẾN TRuNG TÂM HỖ TRỢ CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI SAU CAI)
34. Sử dụng các chất gây nghiện:

Loại ma túy Tuổi bắt đầu sử dụng Tần suất sử dụng trung bình (lần/ ngày) Số tiền sử dụng trung bình/ ngày Đường dùng* Lần sử dụng gần đây nhất (ngày/ tháng/ năm) Sắp xếp mức độ sử dụng thường xuyên **
Thuốc phiện/ heroin
Cocaine
ATS (thuốc lắc)
Cần sa
Rượu
Thuốc lá
Khác:
. . . . . . .
* : 1- uống; 2- hít; 3- hút; 4- tiêm bắp/dưới da; 5- tiêm tĩnh mạch; 9- không sử dụng
**: 1- Sử dụng thường xuyên nhất; 2- Sử dụng thường xuyên thứ hai; 3- Sử dụng thường xuyên thứ ba
35. Số lần cai nghiện: ........................ lần
36. Số lần tái nghiện: ........................lần
37. Hãy nhớ lại từ lần cuối cùng, thời gian ngừng sử dụng ma túy sau mỗi lần cai?

Số lần cai  
Thời gian ngừng sử dụng ma túy (số ngày hoặc số tháng) Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
38. Đã bao giờ dùng chung BKT chưa?
‚ Có
‚ Không
‚ Không nhớ
39. Đã bao giờ bị sốc quá liều chưa?
‚ Có
‚ Không
Nếu có, bao nhiêu lần?............................lần
40. KH có vi phạm pháp luật bao giờ chưa?
‚ Có
‚ Không
Nếu trả lời có, đánh dấu vào các ô phù hợp:
‚ Bán ma túy
‚ Mại dâm
‚ Ăn cắp
‚ Đánh lộn
‚ Trộm/cướp
‚ Khác (cụ thể): ................................................

Tài liệu phát tay 5.1-2 (tiếp)
Chương V – Bài 5.1 37
Tài liệu phát tay 5.1-3
kế hoạch dịch vụ cá nhân
Mã số khách hàng:...........................
Họ tên: ......................................... Ngày: ........ /......../........

1 Xác định vấn đề/nhu cầu
2 Các bước giải quyết vấn đề/nhu cầu
3 Các hỗ trợ xã hội, khung thời gian và kế hoạch theo dõi
4 Giới thiệu chuyển tiếp
Khách hàng có nguy cơ tái nghiện cao không? Có Không
Tài liệu tham khảo: John Howard, 2006. A Toolkit for Building Capacity For Community-based Treatment and Continuing Care of Young Drug Abusers in The Greater Mekong Subregion. The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacifc.

5.2
Giải quyết vấn đề
Bài 40 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuÁT
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên về giải quyết vấn đề, các bước
thực hiện và ứng dụng trong tư vấn.
II. Thuyết trình 45 phút
Sử dụng các bản chiếu để trình bày về giải quyết vấn đề, các bước giải quyết vấn đề và áp
dụng trong tư vấn.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 5.2: Giải quyết vấn đề
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về kĩ thuật giải quyết vấn đề, cơ sở khoa học và các bước thực hiện trong tư vấn.
Thời gian: 55 phút
Mục tiêu:
Sau bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu được lí do cần phải học về kĩ thuật giải quyết vấn đề
‚ Hiểu rõ các bước trong quá trình giải quyết vấn đề
‚ Thể hiện được các kiến thức và kĩ năng qua hoạt động đóng vai về giải quyết vấn đề
‚ Biết cách áp dụng kĩ thuật giải quyết vấn đề trong tư vấn cho khách hàng là người sử dụng ma túy
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Bài tập nhóm nhỏ
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Tài liệu phát tay số 5.2-1: Bảng giải quyết vấn đề
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương V – Bài 5.2 41
Bản chiếu 1
Nói: Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với những vấn đề khó khăn. Thỉnh thoảng chúng ta gặp phải một vấn đề dường như vượt quá khả năng của chúng ta và chúng ta đối phó bằng cách lảng tránh hoặc quá lo lắng về vấn đề đó. Những cách làm này thường không giải quyết được vấn đề, chỉ làm một chút để giải quyết vấn đề thường làm cho vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn.
Giải quyết vấn đề một cách hệ thống là một kĩ thuật có thể giúp cho bạn tìm ra các giải pháp cho vấn đề bạn đang gặp phải. Bạn chỉ cần thực hành một chút là sẽ thấy phương pháp này rất dễ sử dụng và có thể giúp bạn giải quyết bất cứ vấn đề gì.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể :
Hiểu rõ lí do cần phải học về kĩ thuật giải quyết vấn đề
Hiểu rõ các bước trong quá trình giải quyết vấn đề
Thể hiện được các kiến thức và kĩ năng qua hoạt động đóng vai về giải quyết vấn đề
Biết cách áp dụng kĩ thuật giải quyết vấn đề trong tư vấn cho khách hàng là người sử dụng ma túy
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Chương V – Bài 5.2 43
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành hai nhóm và đề nghị học viên thảo luận về cách họ giải quyết các vấn đề hàng ngày. Họ giải quyết vấn đề theo những bước nào? Nói với học viên rằng họ sẽ có 5 phút để thảo luận, sau đó một người đại diện cho cả nhóm lên trình bày. Dành cho mỗi nhóm 2 phút để trình bày kết quả thảo luận.
Bạn giải quyết những vấn đề hàng ngày như thế nào?
Bạn giải quyết theo những bước như thế nào?
HOẠT ĐỘNG
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Người sử dụng ma túy cần tìm giải pháp cho rất nhiều vấn đề nếu họ quyết định giảm việc sử dụng ma túy và/hoặc ngừng sử dụng, và thay đổi cuộc sống một cách đáng kể. Một số khách hàng có thể cùng một lúc gặp quá nhiều vấn đề đến nỗi thậm chí những vấn đề nhỏ dường như cũng trở nên quá khó khăn. Ví dụ, một mục tiêu đơn giản như đi đến trung tâm dịch vụ việc làm để gặp tư vấn viên và kí vào biểu mẫu yêu cầu hỗ trợ cũng đòi hỏi khách hàng phải giải quyết một số vấn đề khác nhau. Họ có thể không sẵn có phương tiện đi lại, họ cần có người chăm sóc con cái giúp, thời gian hẹn còn trống duy nhất để họ có thể đến gặp tư vấn viên lại bị trùng với thời gian của một số công việc khác quan trọng họ cần phải làm. Đối với nhiều khách hàng, việc sử dụng heroin đã khiến họ lảng tránh các vấn đề hoặc đi đến những quyết định vội vàng, không thực sự có lợi cho họ. Những cách giải quyết vấn đề kém hiệu quả như vậy thường mang lại những hậu quả tiêu cực khiến cho vấn đề hiện tại càng trở nên trầm trọng hơn hoặc làm nảy sinh thêm vấn đề mới.
Mục tiêu của bài học này là nhằm hướng dẫn khách hàng cách xác định, phân tích và tìm ra giải pháp cho nhiều vấn đề mà họ sẽ đối mặt trong nỗ lực ngừng sử dụng ma túy của họ và thay đổi lối sống.
Tư vấn viên cần giải thích cho khách hàng hiểu rõ tại sao họ cần phải học nội dung này.

Bản chiếu 4
Khả năng giải quyết vấn đề là một đặc trưng của lối sống khoẻ mạnh
Rất nhiều người sử dụng ma tuý có khả năng giải quyết vấn đề chưa tốt
Năng lực giải quyết vấn đề có tác động giảm nguy cơ tái nghiện
Hướng dẫn kĩ thuật giải quyết vấn đề gắn liền với kết quả điều trị tốt hơn
Giải quyết vấn đề có thể thực hiện bởi cá nhân hay theo nhóm
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương V – Bài 5.2 45
Thông tin tham khảo: Những người đang cố gắng phục hồi khỏi việc sử dụng heroin thường thấy mình phải đối mặt với các tình huống khó khăn. Những tình huống này sẽ trở nên rất khó giải quyết nếu người ta không có những đáp ứng hiệu quả. Người sử dụng heroin thường gặp phải một số vấn đề như sau:
‚ Bị rơi vào những hoàn cảnh mà trước đây họ thường sử dụng heroin và các loại ma túy khác
‚ Phải đối mặt với sức ép xã hội
‚ Chịu đựng các cơn thèm nhớ
‚ Tái nghiện
Khách hàng đang cố gắng thay đổi lối sống tích cực thường gặp một số vấn đề phổ biến sau:
‚ Khó sắp xếp thời gian để tham gia các hoạt động xã hội hoặc các hoạt động yêu thích
‚ Thiếu phương tiện đi lại
‚ Gặp khó khăn trong việc chăm sóc con cái
‚ Những khó khăn liên quan đến việc làm
‚ Áp lực gia đình
‚ Các vấn đề pháp lí
Để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả bạn cần chấp nhận một thực tế rằng bạn đang có vấn đề khó khăn, hãy suy nghĩ thấu đáo, cần phải biết kiềm chế không nóng vội đi đến quyết định ngay lập tức, nhưng đồng thời cũng không nên phó mặc buông xuôi. Nếu bạn không tìm được các giải pháp tốt, vấn đề của bạn sẽ càng trầm trọng thêm theo thời gian, và áp lực sẽ dần trở thành yếu tố thúc đẩy sử dụng ma túy. Tư vấn viên có thể giải thích cho khách hàng rằng chương trình can thiệp sẽ giúp họ trở thành một người biết cách giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Để đạt được điều đó, khách hàng cần thực hành nhiều để thành thục kĩ thuật này..
Bản chiếu 4 (tiếp)
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu tiêu đề bản chiếu số 5. Hỏi học viên khi nào họ nghĩ là họ nên thảo luận giải quyết vấn đề với khách hàng. Dẫn dắt một cuộc thảo luận trong khoảng 5 phút câu hỏi này, sau đó chiếu nội dung của bản chiếu.
Nói: Bạn chỉ nên thảo luận kỹ thuật giải quyết vấn đề với khách hàng khi bạn đã gây dựng được mong muốn của họ, khả năng và sự tự tin sẽ hành động
Giải quyết vấn đề sẽ hiệu quả nhất khi khách hàng không bị suy giảm chức năng, nghĩa là họ không bị vã ma túy hoặc không bị suy giảm nhận thức nghiêm trọng. Nếu không, sẽ rất khó khăn cho khách hàng tập trung vào phần thảo luận. Thậm chí ngay cả khi một kế hoạch hành động sau khi kết thúc buổi tư vấn thì khách hàng cũng khó có thể nhớ được, đồng ý và cam kết với kế hoạch đó, nếu họ bị suy giảm chức năng.
Tốt nhất nên thảo luận về giải quyết vấn đề khi khách hàng đang ở giai đoạn hành động hoặc giai đoạn duy trì của quá trình chuyển đổi hành vi để đảm bảo sự cam kết của khách hàng. Bạn và khách hàng nên chia kế hoạch giải quyết vấn đề thành những bước nhỏ.

Giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất khi khách hàng:
Không bị suy giảm chức năng (VD: không đói thuốc hoặc không bị suy giảm nhận thức đáng kể hoặc đang phê)
Đang ở giai đoạn hành động
Cần nhiều kĩ thuật khác nhau để hỗ trợ nhận thức và trí nhớ
Lưu ý: Chia kế hoạch hành động ra thành nhiều bước nhỏ
ĐÚNG THỜI ĐIỂM
Chương V – Bài 5.2 47
Nói: Việc gì bạn có thể làm đầu tiên khi khách hàng của bạn có vấn đề? Bạn có thể giúp khách hàng như thế nào trong buổi tư vấn thông thường?
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận nhanh về câu hỏi trên.
Nói: Một điều quan trọng là bạn cần giải thích với khách hàng rằng vấn đề xảy ra là chuyện bình thường và có thể giải quyết được. Khi nảy sinh vấn đề, họ cần phải kiên nhẫn, dừng lại suy nghĩ trước khi đưa ra bất kì hành động nào và cần cân nhắc kĩ lưỡng những thuận lợi và khó khăn trước khi hành động.
Không nên quá vội vàng!
Bạn có thể hướng dẫn khách hàng các bước để họ giải quyết vấn đề của họ. Sử dụng vấn đề hiện tại của họ để giúp họ thực hành.

Bản chiếu 6
Bước 1: Định hướng
Coi các vấn đề gặp phải là bình thường và có thể giải quyết được
Dừng lại và suy nghĩ
Không nên hành động ngay lập tức
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7
Nói: Xác định được rằng hiện đang có vấn đề không phải là một điều quá khó khăn - chúng ta nhận biết được khó khăn đang tồn tại vì chúng ta cảm thấy căng thẳng hoặc lo lắng. Cái khó là ở chỗ, làm thế nào để xác định được chính xác đó là vấn đề gì. Nếu bạn dành nhiều thời gian hơn để suy nghĩ về các khía cạnh khác nhau của tình huống, bạn sẽ có thể xác định được vấn đề của bạn là gì. Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ về nó, nhưng vẫn không xác định rõ được vấn đề, bạn nên nói chuyện với một người nào đó mà bạn tin tưởng.
Khách hàng cần học cách làm thế nào để cụ thể hoá hoặc xác định được vấn đề rõ ràng, mỗi khi họ ý thức được rằng có điều gì đó không ổn. Họ cũng nên thu thập càng nhiều thông tin càng tốt để làm rõ vấn đề. Ví dụ, nếu khách hàng thất vọng về tình hình gia đình hiện nay và đang suy nghĩ về đến việc bỏ nhà, bạn có thể muốn hỏi một số câu hỏi sau:
"Quan hệ của bạn với gia đình bạn như thế nào?"
"Bạn đã bao giờ bị chỉ trích chưa?"
Bạn có thể đặt những câu hỏi để làm tăng thêm mức độ chi tiết khi bạn tập trung vào vấn đề. Cố gắng tối đa để giúp khách hàng mô tả vấn đề một cách cụ thể và chính xác nhất có thể.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Bước 2: Xác định vấn đề
Hãy xác định vấn đề thật cụ thể
VD: “Bạn tình của tôi không thích tôi”
- Quá chung chung
Cố gắng cụ thể hóa vấn đề thành:
“Bạn tình của tôi không thích tôi làm việc muộn vào các buổi tối”
Chương V – Bài 5.2 49
Hướng dẫn giảng dạy: Hãy suy nghĩ về một vấn đề mà có một số giải pháp khác nhau. Mô tả với học viên một số chi tiết của vấn đề, và hướng dẫn học viên động não về các giải pháp có thể.
Nói: Trong quá trình động não, khách hàng cần đưa ra càng nhiều giải pháp càng tốt. Viết tất cả các giải pháp đó ra. Không loại bỏ bất kì ý tưởng nào và cũng không phải suy nghĩ quá lâu để cố tìm ra một ý tưởng tốt nhất. Bạn nên vận dụng trí tưởng tượng và nghĩ về tất cả các khả năng. Ngay cả các ý tưởng không có tính khả thi hoặc không thể thực hiện được cũng có những phần hữu ích nhất định. Không đánh giá tính hợp lí và tính khả thi cho đến khi đã liệt kê tất cả các khả năng có thể có.
Bản chiếu 8
Bước 3: Tìm ra các giải pháp (Động não)
Mọi vấn đề đều có một số giải pháp nhất định
Ý kiến nào cũng được ghi nhận
Số lượng phát sinh chất lượng
Không đánh giá
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
50 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Yêu cầu khách hàng cân nhắc ưu và nhược điểm của từng giải pháp. Với mỗi giải pháp, hãy hỏi khách hàng những câu hỏi sau đây:
‚ Liệu có thể xảy ra những hậu quả xấu nào không (cả hiện tại và trong tương lai gần)?
‚ Phải mất bao lâu để thực hiện giải pháp này?
‚ Có tốn kém nhiều tiền không?
‚ Bạn có kĩ năng gì để thực hiện giải pháp không? Bạn có các nguồn lực / nguồn hỗ trợ cần thiết không?
‚ Bạn có cần phải phối hợp với người khác không? Nếu có, liệu họ có sẵn sàng hợp tác không?
‚ Liệu bạn có thể gặp khó khăn gì khi thực hiện giải pháp này không? Việc quyết định lựa chọn giải pháp nào phụ thuộc rất nhiều vào tính cấp bách của vấn đề và những khó khăn dự kiến có thể xảy ra khi thực hiện các giải pháp khác nhau. Trong một tình huống mà vấn đề cần được giải quyết thật nhanh, có thể lựa chọn một giải pháp nào đó mà nó có thể thực hiện được ngay lập tức (cho dù đó không phải là giải pháp lí tưởng). Cân nhắc hậu quả: Xem xét lần lượt từng phương án một. Sau đó hình dung xem nếu chọn phương án này thì kết quả sẽ đạt được là gì? Những kết quả mong muốn sẽ là gì? Những kết quả tích cực ngắn hạn là gì? Những hậu quả dài hạn là gì? Những gì sẽ xảy ra trước mắt? Khách hàng là người lựa chọn giải pháp Mặc dù tư vấn viên có thể cảm thấy là giải pháp khách hàng lựa chọn không phải là giải pháp hợp lí nhất nhưng đó là sự lựa chọn thích hợp nhất dưới cách nhìn nhận của khách hàng tại thời điểm đó. Một khi khách hàng đã lựa chọn được giải pháp, họ sẽ cam kết thực hiện giải pháp đó. Đây là nguyên tắc lấy khách hàng làm trọng tâm quan trọng mà bạn cần ghi nhớ.
Bước 4: Đưa ra các quyết định
Rút gọn danh sách các giải pháp
Rà soát những ưu điểm và nhược điểm
Liệu có hiệu quả không? Liệu có thực thi được không?
Chọn ra một (một vài) giải pháp
Luôn nhớ rằng đó là sự lựa chọn của khách hàng
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương V – Bài 5.2 51
Bản chiếu 9 (tiếp)
Nếu bạn thấy rằng giải pháp khách hàng lựa chọn không được tốt thì bạn có thể gợi ý họ suy nghĩ thêm về những giải pháp khác mà họ có thể thực hiện nếu giải pháp họ lựa chọn ban đầu không thành công, và đưa ra gợi ý mà bạn nghĩ có thể hữu ích. Cần nhớ rằng, điều quan trọng là bạn không cho phép khách hàng thực hiện những giải pháp nguy hiểm.
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10
Nói: Khách hàng cần thực hiện giải pháp đã lựa chọn để giải quyết vấn đề. Có những giải pháp cần phải chia thành nhiều bước nhỏ hơn. Chia nhỏ giải pháp thành những bước nhỏ và quyết định xem bạn sẽ tiến hành từng bước đó như thế nào và khi nào. Đó là cách để khách hàng tự đặt ra mục tiêu cho chính bản thân.
Khi giải pháp đã được lựa chọn, tư vấn viên nên thảo luận với khách hàng về các bước tiếp theo, đánh giá hiệu quả của giải pháp đó. Bạn có thể cần đóng vai với khách hàng để thực hành giải pháp đó trước khi thực hiện trong thực tế. Bạn và khách hàng không thể dự đoán tất cả các khó khăn có thể gặp phải khi thực hiện giải pháp. Bạn cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá giải pháp và thử những giải pháp khác nếu giải pháp ban đầu không có kết quả. Quá trình xem xét này sẽ giúp xác định các vấn đề còn tồn tại. Bạn có thể cần phải điều chỉnh lại các bước hoặc thêm vào các bước mới. Khách hàng sẽ trở nên thực tế hơn và lạc quan hơn về việc tìm ra giải pháp hiệu quả cho vấn đề của họ nếu bạn có thể chỉ ra cách đo lường thành công của họ.
Giải quyết vấn đề đòi hỏi sự kiên nhẫn và bền bỉ. Vì vậy, hãy nhớ chúc mừng khách hàng vì tất cả những nỗ lực và những tiến bộ họ đạt được. Phương pháp giải quyết vấn đề sẽ không làm cho mọi vấn đề của khách hàng mất đi hay giải quết được tất cả các vấn đề. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với việc thực hành kĩ thuật này, bạn sẽ thấy rằng khách hàng có thể giải quyết vấn đề tốt hơn và cảm thấy bớt căng thẳng hơn khi khó khăn nảy sinh.

Bước 5: Tiến hành giải quyết vấn đề
Lên kế hoạch hành động (bao gồm cả việc đặt mục tiêu)
Thử thực hiện
- Suy nghĩ thấu đáo
- Đóng vai
- Thực tế/trong đời thực
Có tác dụng không? Có thể cải thiện hơn không?
Khách hàng có thể thử cách khác không?
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương V – Bài 5.2 53
Bản chiếu 11
Theo nhóm nhỏ, áp dụng quá trình giải quyết vấn đề cho vấn đề sau:
- “Dường như tôi không còn có thời gian để hưởng thụ cuộc sống nữa. Tôi quá bận bịu với công việc”
HOẠT ĐỘNG
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm nhỏ và cho họ 15 phút để giải quyết vấn đề trên bản chiếu.
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12

Trở ngại: Gợi ý:
Vấn đề chưa được xác định rõ Xác định vấn đề thật cụ thể
Khách hàng không nhớ các bước Sử dụng nhiều phương pháp truyền đạt khác nhau: giải thích, làm mẫu, tập dượt, đưa ra các biện pháp giúp nhớ lại nội dung
NHỮNG TRỤC TRẶC CÓ THỂ XẢY RA (1)
Nói: Đôi khi, trong giải quyết vấn đề, bạn có thể gặp phải một số trở ngại, ví dụ như những vấn đề liệt kê trong bản chiếu này. Vấn đề có thể không được xác định rõ ràng, hoặc khách hàng của bạn có thể không nhớ tất cả các bước cần thiết để giải quyết. Trong những trường hợp này, hãy đảm bảo vấn đề được xác định thật cụ thể, và/hoặc cố gắng phối hợp nhiều phương pháp truyền đạt khác nhau để giúp khách hàng nhớ lại các bước đã thảo luận.
Chương V – Bài 5.2 55
Bản chiếu 13

Trở ngại: Gợi ý:
Khách hàng không làm gì cả 1. Chưa phù hợp với giai đoạn thay đổi (Khách hàng chưa thật sẵn sàng để thực hiện)? - thì nên cân nhắc sử dụng phương pháp phỏng vấn tạo động lực 2. Thiếu kỹ năng? - thì nên cân nhắc khả năng nhận thức của khách hàng và/hoặc sử dụng các biện pháp hiệu quả hơn để truyền đạt/ giúp nhớ lại nội dung Hỏi khách hàng về các cách giải quyết hiệu quả trước đây.
NHỮNG TRỤC TRẶC CÓ THỂ XẢY RA (2)
Nói: Trong trường hợp bạn không thấy khách hàng thực hiện giải pháp, hãy cân nhắc xem liệu khách hàng có thực sự đang ở giai đoạn thay đổi hành vi phù hợp chưa. Nếu không, hãy sử dụng PVTĐL để giúp họ tới được giai đoạn phù hợp. Nếu không, bạn có thể tìm hiểu xem liệu khách hàng có thiếu kĩ năng để đạt được mục tiêu hay không. Trong trường hợp này, bạn có thể nên kiểm tra khả năng nhận thức của khách hàng, và/hoặc cố gắng sử dụng các phương pháp hỗ trợ/gợi nhớ khác nhau.
56 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14

Trở ngại: Gợi ý:
Tư vấn viên bắt đầu với một vấn đề quá khó Khi truyền đạt về một kĩ năng mới, nên bắt đầu với một (các) ví dụ đơn giản dễ thực hiện
Sự đánh giá xuất hiện trong khi động não Giải thích rõ ràng về “các quy tắc” trong quá trình động não
NHỮNG TRỤC TRẶC CÓ THỂ XẢY RA (3)
Nói: Đôi khi, bạn bắt đầu với vấn đề có vẻ quá khó giải quyết đối với khách hàng. Trong trường hợp như vậy, hãy đổi sang các vấn đề dễ hơn để giải quyết để khách hàng có được sự tự tin về khả năng của họ trong giải quyết vấn đề.
Trong các trường hợp khác, bạn có thể thấy khách hàng bắt đầu đánh giá các giải pháp trong giai đoạn động não. Trong trường hợp này, điều quan trọng là bạn quay trở lại các quy tắc trong động não, và giải thích tại sao việc đánh giá các giải pháp chỉ nên thực hiện sau khi đã thử thực hiện giải pháp.

Chương V – Bài 5.2 57
Bản chiếu 15

Trở ngại: Giải pháp:
Chậm: tư vấn viên làm hầu hết các công việc Điều này là bình thường trong giai đoạn ban đầu khi tư vấn viên đang truyền đạt về một kĩ năng mới
Tư vấn viên quên mất mục đích Mục đích là dạy cho khách hàng kĩ năng để họ tự giải quyết vấn đề chứ không phải là để giải quyết tất cả các vấn đề giúp khách hàng
NHỮNG TRỤC TRẶC CÓ THỂ XẢY RA (4)
Nói: Đôi khi khách hàng làm chậm hơn bạn mong đợi và kết quả là bạn phải làm nhiều hơn bạn định làm để giúp họ giải quyết vấn đề. Đó là điều rất phổ biến trong giai đoạn mới bắt đầu giải quyết vấn đề, và là điều hoàn toàn bình thường. Bạn nên cố gắng giảm dần mức độ tham gia vào việc giải quyết vấn đề khi những vấn đề cần được giải quyết ngày càng khó khăn hơn,. Một số tư vấn viên quên mất mục đích của việc truyền đạt kĩ thuật này cho khách hàng. Hãy nhớ là nhiệm vụ của bạn không phải là giải quyết mọi vấn đề cho khách hàng, giúp họ học cách tự giải quyết các vấn đề của chính họ.
58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Bản chiếu 16
Chia nhóm 3 người (tư vấn viên, khách hàng và quan sát viên)
Đổi vai, mỗi vòng thảo luận 1 trong 2 vấn đề :
- Khi tôi cảm thấy buồn chán là tôi lại sử dụng heroin
- Khi tôi gặp bạn bè là tôi lại sử dụng heroin
HOẠT ĐỘNG
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người gồm "tư vấn viên", "khách hàng", và "quan sát viên". Đưa cho "tư vấn viên" bảng hỗ trợ giải quyết vấn đề (Tài liệu phát tay 5.2– 1). Giải thích rằng tư vấn viên cần phải hướng dẫn khách hàng qua các bước giải quyết vấn đề được liệt kê trong bài này, trong khi quan sát viên thì quan sát. Khách hàng cần phải đóng vai đang ở trong giai đoạn phù hợp và xác định vấn đề như đã liệt kê trong bản chiếu (từng vấn đề một). Tư vấn viên cần yêu cầu khách hàng mô tả vấn đề của họ càng chính xác càng tốt, động não tìm ra giải pháp, đánh giá các giải pháp, lựa chọn một giải pháp và lập kế hoạch để thực hiện giải pháp đó. Sau khi giải quyết một vấn đề, học viên tự đổi vai để thực hành tiếp.
Chương V – Bài 5.2 59
Bản chiếu 17
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài
Thông tin tham khảo:
‚ Nhiều khách hàng gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề
‚ Bạn có thể giúp khách hàng tự giải quyết vấn đề bằng cách hướng dẫn cho họ những kĩ thuật hiệu quả
‚ Nhắc họ rằng vấn đề xảy ra là điều bình thường và đều có thể giải quyết được
‚ Giúp họ cụ thể hoá vấn đề
‚ Khuyến khích họ động não để lấy số lượng tạo ra chất lượng cho giải pháp
‚ Xác định giải pháp tốt nhất bằng cách so sánh điểm lợi và bất lợi, tính khả thi và hiệu quả
‚ Giúp suy nghĩ về quá trình thực hiện
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi họ xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, hãy trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài khác, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nhiều khách hàng gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề
Dạy khách hàng các bước giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất
Nhắc họ rằng vấn đề xảy ra là bình thường và đều có thể giải quyết được
Giúp họ cụ thể hoá vấn đề
Khuyến khích họ động não để lấy số lượng tạo ra chất lượng cho giải pháp
Xác định giải pháp tốt nhất bằng cách so sánh điểm lợi và bất lợi, tính khả thi và hiệu quả
Giúp suy nghĩ về quá trình thực hiện
TÓM TẮT
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu phát tay 5.2-1
Bảng hỗ trợ giải quyết vấn đề
Trình tự thực hiện
Thu thập thông tin:
Thừa nhận là có vấn đề. Liệu có vấn đề thật không? Bạn cần tìm ra những đầu mối, từ chính cơ thể, suy nghĩ, cảm giác, hành vi, và phản ứng của bạn đối với người khác và cách mà người khác phản ứng với bạn. Suy nghĩ về tình huống tạo ra vấn đề. Ai là người có liên quan? Vấn đề xảy ra khi nào? Chính xác thì điều gì đã xảy ra? Vấn đề đó ảnh hưởng như thế nào đối với bạn?
Xác định vấn đề: Mô tả vấn đề một cách chính xác nhất có thể. Bạn muốn đạt được mục tiêu gì? Nêu càng cụ thể càng tốt. Chia vấn đề thành từng phần nhỏ để dễ dàng hơn trong việc thực hiện.
Động não để tìm các giải pháp: Liệt kê tất cả những điều mà một người khác ở trong tình huống của bạn có thể thực hiện. Cân nhắc các phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Liệt kê cả những giải pháp có vẻ như không thực tế. Hãy đặt mình trên những quan điểm khác nhau và suy nghĩ về những giải pháp khả thi trước sau đó hỏi người khác những giải pháp khả thi đối với họ trong những tình huống tương tự.
Cân nhắc hậu quả: Xem xét lần lượt từng giải pháp. Những điều gì có nhiều khả năng sẽ xảy ra nếu chúng ta thực hiện từng hành động? Những kết quả tích cực là gì? Có thể có những hậu quả dài hạn nào? Có những hậu quả ngắn hạn nào? Điều gì bạn cho rằng mình có thể thực hiện được?
Quyết định: Giải pháp nào có nhiều khả năng giúp bạn đạt mục tiêu nhất? Lựa chọn một giải pháp có nhiều khả năng giải quyết được vấn đề nhất mà lại gây ra ít rắc rối nhất. Hành động: Kế hoạch tốt nhất trên thế giới sẽ không giúp ích gì nếu nó không được thực hiện. Hãy thử làm đi.
Đánh giá hiệu quả: Điều gì đã được thực hiện tốt nhất? Tự thưởng cho bạn vì đã làm được điều đó. Lần sau liệu bạn có làm khác đi không? Sau khi bạn thử thực hiện phương pháp đó, bạn thấy nó có hiệu quả không? Nếu không, hãy cân nhắc xem bạn có thể làm gì để đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch hoặc từ bỏ kế hoạch đó chọn giải pháp khác. Nhớ rằng khi bạn đã cố gắng hết sức có nghĩa là bạn đã làm tất cả những việc có thể.
Chú ý: Tên các bước giải quyết vấn đề trong tài liệu này có thể không giống như trong bài trình bày. Tuy nhiên, những khái niệm sau mỗi bước đều giống nhau.
Chương V – Bài 5.2 61
Tài liệu phát tay 5.2-1 (tiếp)
Bài tập thực hành

Chọn một vấn đề có thể nảy sinh trong tương lai gần. Mô tả vấn đề đó thật chính xác. Động não để tìm ra các giải pháp. Đưa ra những kết quả có thể đạt được. Lựa chọn các giải pháp ưu tiên.

Xác định vấn đề:  
Động não tìm ra các giải pháp: Điểm mạnh: Điểm yếu:
1.
2.
3.
4.
Early Psychosis Intervention Project at http://www.psychosissucks.ca/epi/index.
5.3 Đặt mục tiêu
Bài 64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ cùng học viên thảo luận về đặt mục tiêu, các bước đặt
mục tiêu và áp dụng kĩ thuật này trong tư vấn.
II. Thuyết trình 45 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về đặt mục tiêu.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 5.3: Đặt mục tiêu
Mục đích:
Giúp học viên hiểu rõ về những lí do cần đặt mục tiêu, đặc điểm, các bước thực hiện đặt mục tiêu và cách áp dụng kĩ thuật này trong buổi tư vấn cho khách hàng là người sử dụng ma túy.
Thời gian: 55 phút
Mục tiêu:
Sau bài giảng này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu được lí do tại sao cần đặt mục tiêu
‚ Hiểu được những đặc điểm chính của việc đặt mục tiêu
‚ Hiểu được phương pháp thiết lập mục tiêu một cách bài bản
‚ Thể hiện được kiến thức và kĩ năng đặt mục tiêu thông qua hoạt động đóng vai
‚ Hiểu được mối liên quan giữa giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu
‚ Có khả năng áp dụng các kĩ năng đặt mục tiêu khi tư vấn cho khách hàng là người sử dụng ma túy.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu LCD và màn chiếu
‚ Tài liệu phát tay số 5.3-1: Ví dụ về phương pháp thảo luận tích cực giữa giảng viên và học viên về đặt mục tiêu và giải quyết vấn đề
Chương V – Bài 5.3 65
Bản chiếu 1
Nói: Đặt mục tiêu là một kĩ thuật giúp đạt được mục tiêu. Tất cả mọi người (doanh nhân thành đạt, sinh viên hay vận động viên) đều có thể sử dụng kĩ thuật này để có được động lực trong ngắn hạn và tầm nhìn dài hạn.
Việc áp dụng phương pháp đặt mục tiêu một cách có trình tự, hệ thống có thể giúp tăng khả năng đạt được mục tiêu đề ra. Bằng cách đặt mục tiêu thường xuyên, bạn có thể quyết định mình muốn đạt được điều gì và tiến dần từng bước trên con đường đạt tới mục tiêu đó. Bằng cách biết chính xác điều mình muốn đạt được, bạn sẽ biết bạn cần tập trung vào điều gì để có thể đạt được mục tiêu đó.
Bạn cũng có thể đo lường được những thành công và tự hào với những gì mình đạt được. Bạn có thể nhìn thấy sự tiến bộ trong những việc mà trước đây bạn cảm thấy rất khó thực hiện. Từ đó, lòng tự tin của bạn cũng sẽ ngày một tăng lên khi nhận thấy rằng khả năng và năng lực của mình trong việc đạt được những mục tiêu đã đề ra, và trong quá trình chinh phục những mục tiêu mới cao hơn, khó khăn hơn.

ĐẶT MỤC TIÊU
66 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu được lí do cần đặt mục tiêu
Hiểu được những đặc điểm chính của việc đặt mục tiêu
Hiểu được phương pháp thiết lập mục tiêu một cách hệ thống
Thể hiện được kiến thức và kĩ năng đặt mục tiêu thông qua hoạt động đóng vai
Hiểu được mối liên quan giữa giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu
Có khả năng áp dụng các kĩ năng đặt mục tiêu khi tư vấn cho khách hàng là người sử dụng ma túy.
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày các mục tiêu của bài học theo nội dung trên bản chiếu.
Chương V – Bài 5.3 67
Bản chiếu 3
Trong nhóm nhỏ, hãy thảo luận:
- Tại sao cần lập mục tiêu ngắn hạn khi tư vấn?
- Những đặc điểm chính của mục tiêu ngắn hạn là gì?
BÀI TẬP NHÓM NHỎ
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 4 - 5 người. Các nhóm có 10 phút để thảo luận về những câu hỏi ghi trên bản chiếu. Yêu cầu mỗi nhóm cử 1 người lên trình bày kết quả thảo luận trước lớp và dành cho mỗi nhóm vài phút để họ trình bày.
68 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Xác định được những việc có thể thực hiện được trong thời gian trước mắt có thể khiến cho khách hàng dễ dàng nhận ra con đường tiếp tục đi phía trước. Thông thường, người ta thường do dự trước một công việc vì nghĩ rằng việc đó là quá sức đối với họ. Người ta tự bó tay mình vì thấy việc gì dường như cũng quá lớn và quá khó. Họ thực sự cảm thấy mình không thể thành công trong bất kì công việc nào.
Khách hàng sẽ cảm thấy tự tin hơn nếu như họ có thể đạt được một thành công nho nhỏ. Khi đó, bạn có thể tiếp tục yêu cầu họ thực hiện những công việc dần phức tạp và khó khăn hơn. Hãy nhớ rằng mục tiêu ngắn hạn cần phải SMART. Điều này có nghĩa là bạn có thể đo lường được kết quả công việc của khách hàng và cho ý kiến nhận xét về những tiến bộ đạt được. Điều đó sẽ tiếp tục củng cố thành tựu và khiến khách hàng cam kết mạnh mẽ hơn.

Giúp cho những thay đổi dễ đạt được hơn
Giúp mọi người học hỏi được kinh nghiệm khi tự lực trải qua thành công và thất bại
Giúp tăng thêm sự tự tin
Khuyến khích cố gắng hơn nữa
Có thể đóng vai trò như các mốc chỉ dẫn cụ thể để định hướng và đo lường sự tiến bộ
LỢI ÍCH CỦA MỤC TIÊU NGẮN HẠN
Chương V – Bài 5.3 69
Bản chiếu 5
Nói: Mục tiêu ngắn hạn cần phải phù hợp với giai đoạn thay đổi hành vi của khách hàng. Ví dụ, khi khách hàng đang ở giai đoạn dự định thì họ vẫn còn mơ hồ lưỡng lự về việc có thay đổi hành vi hay không. Chính vì vậy, đối với những khách hàng ở giai đoạn này, cần phải thảo luận với họ để xây dựng những mục tiêu nhỏ, khiêm tốn và thực tiễn để họ có thể đạt được. Mục tiêu ngắn hạn có thể chính là việc làm thế nào để giúp họ chuyển dịch từ giai đoạn dự định sang giai đoạn hành động. Để làm được việc này đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc phỏng vấn tạo động lực và khách hàng cần phải đồng ý rằng thay đổi hành vi là một mục tiêu ngắn hạn quan trọng.
Một điều quan trọng trong quá trình xây dựng mục tiêu ngắn hạn là khách hàng phải luôn là người ra quyết định cuối cùng. Điều gì họ cho là quan trọng cần phải đạt được thì đó chính là quyết định cuối cùng về mục tiêu. Tuy nhiên, tư vấn viên cũng có một vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định. Một số mục tiêu khách hàng lựa chọn có thể không thực tiễn hoặc có thể nguy hiểm có khả năng dẫn tới tái nghiện. Khách hàng cần tới sự khôn ngoan của tư vấn viên để giúp họ nhận biết được điều gì là thực tiễn. Tư vấn viên rất cần giúp khách hàng hiểu rõ hơn về những nguy cơ tiềm ẩn.

Hướng dẫn giảng dạy: Xem ví dụ trong Tài liệu phát tay 5.3-1 về đặt mục tiêu và giải quyết vấn đề.
Tạo đà cho giai đoạn thay đổi
- Không hữu ích khi sử dụng những mục tiêu có tính định hướng cho khách hàng đang ở giai đoạn dự định
Thống nhất với khách hàng
- Khách hàng sẽ cam kết hơn khi được tham gia trong quá trình xác định các mục tiêu
- Tư vấn viên đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin để khách hàng ra quyết định
MỤC TIÊU NGẮN HẠN CẦN PHẢI:
70 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về phương pháp SMART khi xác lập mục tiêu.
Thông tin tham khảo: Một mục tiêu ngắn hạn tốt cần phải SMART (nghĩa đen của tiếng Anh là Thông Minh, đồng thời cũng là những chữ cái đầu của những từ sau:
Specifc - Cụ thể
Measurable - Có thể đo lường được
Attainable - Có thể đạt được
Realistic - Thực tiễn và
Timebound - có khung thời gian
Cụ thể: Một mục tiêu cụ thể sẽ dễ có khả năng thực hiện thành công hơn là một mục tiêu chung chung. Để có thể xây dựng được một mục tiêu cụ thể, bạn cần phải trả lời những câu hỏi sau:
Ai : Ai là người tham gia?
Điều gì: Tôi muốn đạt được điều gì?
Ở đâu: Xác định một địa điểm
Khi nào: Xác định một khung thời gian
Cái nào: Xác định những yêu cầu và trở ngại
Tại sao: Những lí do, mục đích hoặc lợi ích cụ thể khiến phải đạt được mục tiêu này
Ví dụ: một mục tiêu chung chung là "Có cơ thể gọn đẹp". Một mục tiêu cụ thể cần phải là: "Tham gia một câu lạc bộ sức khỏe và tập thể dục 3 ngày mỗi tuần."
Có thể đo lường được: Xây dựng những tiêu chí cụ thể để đo lường tiến độ thực hiện của mỗi mục tiêu đã đề ra. Khi bạn đo lường tiến độ thực hiện, bạn luôn luôn gắn bó với nhiệm vụ, luôn thực hiện các bước theo đúng thời gian đã định, và đón nhận cảm giác hân hoan khi đạt được thành công, và thành công đó lại thúc đẩy bạn tiếp tục có thêm nỗ lực để đạt mục tiêu cuối cùng.
Cụ thể
Có thể đo lường được
Có thể đạt được
Thực tiễn
Có khung thời gian
Rõ ràng, cụ thể
Miêu tả một hành động sẽ thực hiện chứ không phải hành động sẽ KHÔNG thực hiện
Thái độ, năng lực và kỹ năng để biến mục tiêu thành hiện thực
Thành công sản sinh tiếp thành công
Cần ngày hoàn thành cụ thể
Để đánh giá liệu mục tiêu của bạn có đo lường được hay không, bạn có thể đặt những câu hỏi như: "Bao nhiêu?", "Làm thế nào để tôi biết khi nào thì mục tiêu đó đã đạt được?"
Có thể đạt được: Khi bạn đã xác định được đâu là những mục tiêu quan trọng nhất đối với bản thân thì cũng là lúc bạn phải suy nghĩ về việc làm thế nào để biến mục tiêu đó thành hiện thực. Bạn cần phải có thái độ, năng lực, kĩ năng và khả năng tài chính để thực hiện kế hoạch. Bạn bắt đầu nhận thấy rằng trước đây bạn đã bỏ lỡ những cơ hội có thể giúp bạn tiến gần đến khả năng thực hiện thành công mục tiêu mong muốn.
Bạn có thể đạt được hầu hết các mục tiêu mong muốn nếu bạn lên kế hoạch các bước cần thực hiện một cách khôn ngoan và đề ra một khung thời gian cho phép bạn thực hiện các bước đó. Những mục tiêu tưởng chừng như quá xa và ngoài tầm tay cuối cùng cũng dần dần trở nên gần hơn và có thể đạt được, không phải vì mục tiêu đó tự tiến gần tới bạn mà là vì bạn đã trưởng thành và có thể vươn được tới các mục tiêu đó. Khi chúng ta liệt kê ra các mục tiêu mong muốn đạt được trong cuộc sống thì cũng là lúc chúng ta xây dựng hình ảnh của chính mình. Bạn tự nhìn nhận rằng bạn là người xứng đáng với những mục tiêu này, và từ cách nhìn nhận đó bạn hình thành những phẩm chất và nhân cách để biến bạn trở thành một người có khả năng sở hữu những mục tiêu đã được đề ra.
Điều quan trọng là cần đảm bảo rằng mục tiêu vừa phải có thể đạt được vừa phải có sự đồng ý của cả hai bên. Khách hàng và tư vấn viên thường không thống nhất về mức độ hợp lí của mục tiêu, vì thế cần thương lượng với nhau để đi đến thống nhất.
Có tính thực tiễn: Để có tính thực tiễn, một mục tiêu cần phải thể hiện một cái đích mà bạn phải vừa sẵn sàng, vừa có khả năng đạt tới. Mục tiêu có thể rất tham vọng nhưng vẫn có tính thực tiễn và bạn là người duy nhất có thể quyết định mục tiêu của bạn cao và khó ở mức độ nào. Nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo rằng mỗi mục tiêu cần phải thể hiện một sự tiến triển đáng kể. Một mục tiêu cao đôi khi lại có thể dễ đạt được hơn so với một mục tiêu thấp bởi vì một mục tiêu đầy tham vọng có thể khiến chúng ta có thêm động lực để phấn đấu.
Mục tiêu của bạn có thể có tính thực tiễn nếu bạn thực sự tin rằng mục tiêu đó có thể thực hiện được. Một số cách khác có thể giúp bạn đánh giá tính thực tiễn của mục tiêu là xem lại xem trước đây bạn đã thực hiện thành công một mục tiêu nào tương tự hay chưa, hoặc tự hỏi bản thân xem để đạt được mục tiêu đó thì cần phải có những điều kiện gì.
Có khung thời gian: Một mục tiêu cần phải được thực hiện trong một khung thời gian nhất định. Nếu không có một khung thời gian thì chúng ta sẽ không cảm thấy là cần phải bắt tay vào việc ngay lập tức. Ví dụ, nếu bạn muốn giảm đi 4kg nhưng lại không đặt ra một thời điểm cụ thể để giảm được mức đó, thì bạn sẽ thiếu động lực để thực hiện. Nhưng nếu bạn ấn định vào một khung thời gian cụ thể "đến ngày 1 tháng 5", thì có nghĩa là bạn đã rất rõ là mình có bao nhiêu thời gian từ giờ đến lúc đó, và bạn biết khi nào cần bắt tay vào việc.
72 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để hướng dẫn cho học viên về phương pháp đặt mục tiêu.
Thông tin tham khảo:
1) Liệt kê các mục tiêu và lựa chọn 1 hoặc 2 mục tiêu để thực hiện

Yêu cầu khách hàng suy nghĩ về tất cả những mục tiêu mà họ muốn đạt được trong năm tới. Hãy đặt những câu hỏi như: “Bạn muốn thực hiện thành công điều gì?” và “Sau một năm nữa bạn muốn mình sẽ là người như thế nào?”
Nếu ban đầu khách hàng gặp khó khăn trong việc đưa ra mục tiêu thì hãy hỏi xem có điều gì trong cuộc sống mà họ muốn thay đổi không, hay có điều gì mà họ chưa hài lòng không?
Viết lên giấy những mục tiêu mà khách hàng đề cập tới. Cố gắng viết những mục tiêu ở thể khẳng định: “Tôi sẽ thi đỗ”, chứ không nên viết ở thể phủ định: “Tôi sẽ không trượt”. Sau khi dành thời gian suy nghĩ về những mục tiêu này, khách hàng có thể sẽ thấy rằng họ có quá nhiều mục tiêu khác nhau cần phải đạt được – nếu quả có thế thì thật là tuyệt! Tuy nhiên, nếu cố gắng đạt được tất cả các mục tiêu này cùng một lúc thì khách hàng sẽ có rất ít thời gian và nỗ lực dành cho mỗi mục tiêu, và họ sẽ cảm thấy quá tải. Vì vậy, hãy nhìn lại danh sách những mục tiêu đó và lập thứ tự ưu tiên. Trước mắt, hãy chỉ tập trung vào 1 hoặc 2 mục tiêu thôi.
Khi suy nghĩ và lựa chọn lấy một mục tiêu để thực hiện, chúng ta cần phải thực tế. Để việc lập mục tiêu này có hiệu quả thì những mục tiêu đặt ra cần phải có khả năng đạt được.
Một số mục tiêu thực sự không khả thi – ví dụ, nhiều người muốn tìm được công việc có
1. Liệt kê tất cả các mục tiêu, lựa chọn một hoặc hai mục tiêu để giải quyết
2. Xác định mục tiêu rõ ràng và chia nhỏ thành nhiều bước
3. Rà soát tiến trình thực hiện và chỉnh sửa
4. Hài lòng với nỗ lực của bạn và những thành công bước đầu
PHƯƠNG PHÁP ĐẶT MỤC TIÊU
Chương V – Bài 5.3 73
Bản chiếu 7 (tiếp)
thu nhập một trăm triệu đồng trong năm nay nhưng rõ ràng đây không phải là mục tiêu thực tế!
Thực ra cũng khó để có thể xác định một số mục tiêu là có thực tiễn hay không. Bạn có thể giúp đỡ khách hàng trong quá trình ra quyết định bằng cách trao đổi cởi mở với họ. Đặt mục tiêu ở mức độ phù hợp nghĩa là đảm bảo mục tiêu đó không quá khó mà cũng không quá dễ. Cách lí tưởng nhất là đặt ra những mục tiêu hơi khó hơn so với khả năng hiện tại của khách hàng một chút, nhưng không quá khó đến mức không có hi vọng thành công. Thường thì chúng ta phải trải nghiệm nhiều mới có thể lập được mục tiêu một cách phù hợp - và thường thì cần phải điều chỉnh mục tiêu nếu bắt đầu cảm thấy mục tiêu đó quá khó hoặc quá dễ. Không nên thất vọng khi thấy khách hàng phải điều chỉnh mục tiêu, vì đó chính là một phần của quá trình đặt mục tiêu.
2) Xác định mục tiêu rõ ràng và chia thành các bước nhỏ
Khi khách hàng đã chọn được 1 hoặc 2 mục tiêu thực tiễn và có thể đạt được, họ sẽ cần định nghĩa rõ ràng những mục tiêu ấy là gì. Đề nghị khách hàng xác định mục tiêu thật chính xác – bao gồm thông tin về ngày, thời gian và khối lượng công việc để khách hàng có thể tự đo lường thành quả của mình.
Chia nhỏ mỗi mục tiêu thành các bước nhỏ chính xác. Những bước này cần phải đạt được trong thời gian ngắn - một vài ngày hoặc vài tuần.
Nếu được, hãy cố gắng làm cho các bước thực hiện trở nên vui vẻ, thú vị. Có nhiều cách để cùng đạt được một mục tiêu, vì thế hãy lựa chọn những cách thoải mái hơn nếu có thể. 3) Xem xét kết quả đạt được và điều chỉnh
Nên thường xuyên xem xét tiến triển việc thực hiện mục tiêu của khách hàng. Tìm ra và ghi lại bất kì vấn đề hoặc trở ngại nào mà khách hàng gặp phải.
Cần áp dụng kĩ năng giải quyết vấn đề để xác định xem liệu có phương pháp nào giúp giải quyết những trở ngại đó để khách hàng có thể tiếp tục chinh phục mục tiêu như đã định không. Trong một số trường hợp, có thể không dễ dàng tìm được một giải pháp rõ ràng cho vấn đề, khi đó bạn sẽ phải điều chỉnh các bước thực hiện, hoặc điều chỉnh chính bản thân mục tiêu.
Không nên thất vọng nếu khách hàng phải điều chỉnh lại mục tiêu - điều này hoàn toàn có thể xảy ra và nó cho thấy là bạn đã áp dụng đúng phương pháp đặt mục tiêu. Trong khi xem xét tiến trình thực hiện của khách hàng, hãy ghi chú xem liệu họ có đạt được mục tiêu một cách quá dễ dàng hay không, hay tiến bộ có quá chậm, quá khó, hay không có tiến bộ nào hay không. Không có thất bại trong việc đặt mục tiêu - chỉ cần điều chỉnh tiến trình hoặc mức độ của mục tiêu mà thôi.
74 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Đồng thời cũng cần nhớ là mục tiêu của bạn có thể thay đổi theo thời gian. Những mục tiêu đặt ra cách đây 6 tháng có thể không còn là mục tiêu của hôm nay nữa. Nếu mục tiêu không còn phù hợp nữa thì chỉ cần thay đổi hoặc từ bỏ nó. Đặt mục tiêu là một công cụ nhằm giúp khách hàng đạt được điều họ mong muốn đạt được.
4) Hài lòng với nỗ lực và kết quả đạt được
Khách hàng cần phải hưởng thụ thành công khi chinh phục được mục tiêu. Hãy chúc mừng họ – họ đã nỗ lực vất vả và cần cảm thấy tự hào về điều đó!
Nhưng thành công sẽ không đến nếu khách hàng không nỗ lực và không vượt qua được từng bước nhỏ trong quá trình tiến tới mục tiêu. Vì thế, bất kì khi nào họ thực hiện thành công một bước hoặc đã có những nỗ lực rất lớn, hãy dành thời gian để họ vui sướng vì đã làm được như vậy.
Chương V – Bài 5.3 75
Bản chiếu 8
Nói: Bạn có thể sử dụng ”thước đo sự sẵn sàng” để xác định xem trong suy nghĩ của khách hàng thì việc cam kết thực hiện mục tiêu có tầm quan trọng như thế nào. Đây chỉ là một thang điểm được chia ra thành các mức từ 1 đến 10 mà trên đó 1 có nghĩa là không sẵn sàng và 10 là rất sẵn sàng. Hãy yêu cầu khách hàng tự đánh giá về mức độ quan trọng của việc thay đổi hành vi sử dụng ma túy đối với bản thân họ.
Bạn có thể nói với khách hàng:
"Tính trên thang điểm từ 1 đến 10, trong đó 1 có nghĩa là bạn không sẵn sàng thay đổi và 10 là bạn thiết tha muốn thay đổi, thì bạn tự đánh giá bản thân bạn được mấy điểm?”

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Không muốn thay đổi Rất muốn thay đổi
”Thước đo sự sẵn sàng” có thể được sử dụng trong buổi tư vấn để khuyến khích khách hàng nói về lí do họ muốn thay đổi.
Có thể dùng thang điểm tương tự như trên để đánh giá sự tự tin của khách hàng khi thực hiện một công việc. Thước đo sự tự tin có thể được sử dụng với các khách hàng đã xác định được tầm quan trọng của việc thay đổi hành vi của họ hoặc có thể được sử dụng như là một câu hỏi giả định để động viên khách hàng nói về việc họ sẽ làm thế nào để thay đổi.

Thước đo sự sẵn sàng
Thước đo sự tự tin
ĐO LƯỜNG SỰ CAM KẾT
76 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8 (tiếp)
Bạn có thể nói với khách hàng:
”Nếu như bạn quyết định thực hiện công việc này thì bạn thấy là mình tự tin đến đâu? Tính theo thang điểm từ 1 đến 10, trong đó 1 có nghĩa là không hề tự tin và 10 là rất tự tin, thì bạn tự đánh giá bản thân bạn được mấy điểm?”

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Không tự tin Rất tự tin
Không nhất thiết phải đưa ra một thước đo cụ thể, nhưng nếu có thì rất hữu ích, đặc biệt là đối với các khách hàng không biết đọc hoặc không biết đếm số. Đối với một số khách hàng thì chỉ cần mô tả thước đo và thang điểm bằng lời nói như trong các ví dụ trên là đủ.
Sau khi đã hỏi khách hàng về mức độ sẵn sàng và tự tin của họ, nếu họ trả lời ở thang điểm 7 hoặc thấp hơn, thì hỏi họ xem hiện tại họ còn lo lắng về vấn đề gì. Hoặc có thể hỏi họ theo cách là bây giờ cần phải giải quyết vấn đề gì để mức điểm của họ cao hơn.

Chương V – Bài 5.3 77
Bản chiếu 9
Mỗi nhóm 3 người: tư vấn viên, khách hàng và quan sát viên
Áp dụng kĩ thuật đặt mục tiêu để giải quyết vấn đề:
- “Khi tôi gặp bạn bè là tôi lại sử dụng heroin”
HOẠT ĐỘNG NHÓM NHỎ
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người và họ sẽ phân công từng vai: “tư vấn viên”, “khách hàng” và “người quan sát”. Người "tư vấn viên" sẽ hướng dẫn “khách hàng” thực hiện từng bước trong quá trình đặt mục tiêu, còn người thứ 3 sẽ quan sát. Sau khi các nhóm thảo luận xong, mời họ quay lại nhóm lớn và kiểm tra những mục tiêu được đặt ra có đáp ứng yêu cầu SMART không. Đảm bảo rằng mục tiêu phải thể hiện mọi thành phần và tất cả học viên đồng ý.
78 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những nội dung chính của bài.
Thông tin tham khảo:
‚ Mục tiêu ngắn hạn rất quan trọng để thay đổi
‚ Xác định mục tiêu rõ ràng và chia thành các bước nhỏ để thực hiện
‚ Xác định mức độ cam kết qua thang điểm
‚ Rà soát tiến độ để điều chỉnh mục tiêu khi cần thiết
‚ Hỗ trợ khách hàng thực các mục tiêu khó
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp có câu hỏi, hãy trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài khác, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Bản chiếu 10
Mục tiêu ngắn hạn rất quan trọng để thay đổi
Xác định mục tiêu rõ ràng và chia thành các bước nhỏ để thực hiện
Xác định mức độ cam kết qua thang điểm
Rà soát tiến độ để điều chỉnh mục tiêu nếu cần thiết
Hỗ trợ khách hàng thực hiện các mục tiêu khó
TÓM TẮT
Chương V – Bài 5.3 79
Tài liệu phát tay 5.3-1 (Chỉ dành cho giảng viên)
Ví dụ về cuộc thảo luận tích cực về Đặt mục tiêu và Giải quyết vấn đề.
Giảng viên: Bây giờ tôi muốn bàn về việc đặt mục tiêu. Hãy nói cho tôi biết tại sao chúng ta cần đặt mục tiêu ngắn hạn và đặt mục tiêu có những đặc điểm gì? Ai có ý kiến gì không?
Học viên: Đặt mục tiêu là một kĩ thuật để giúp chúng ta đạt được mục tiêu trong một khoảng thời gian nào đó.
Giảng viên: Rất hay. Vậy chúng ta lập mục tiêu như thế nào?
Học viên: Tôi nghĩ chúng ta cần đặt ra mục tiêu ngắn hạn để giải quyết vấn đề dễ dàng hơn.
Giảng viên: Nếu chúng ta làm như vậy thì chúng ta có thể giảng giải cho mọi người về kỹ thuật đặt mục tiêu như thế nào? Những đặc điểm của việc đặt mục tiêu mà chúng ta cần quan tâm là gì?
Học viên: Tôi nghĩ vì mục tiêu có thể sẽ không đạt được trong thời gian ngắn, nên chúng ta cần chia nhỏ nó ra để có thể đạt được.
Học viên: Tôi nghĩ nó cũng giống như xây nhà vậy.
Giảng viên: Đúng vậy. Mục tiêu nhỏ hơn thường dễ lập và dễ đạt được hơn mục tiêu lớn. Mục tiêu ngắn hạn cần thực tế và có thể đạt được. Mục tiêu ngắn hạn còn những đặc điểm nào khác không?
Học viên: Mục tiêu ngắn hạn dễ thực hiện hơn cho khách hàng, có tính khả thi cao hơn.
Giảng viên: Đúng, tính khả thi rất quan trọng trong việc đặt mục tiêu.
Học viên: Và khách hàng không phải dành quá nhiều thời gian để đạt được.
Giảng viên: Đúng, nó có thể được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn.
Học viên: Tôi nghĩ mục tiêu đôi khi quá lớn nên khi chia thành những mục tiêu nhỏ thì khách hàng sẽ cảm thấy tự tin hơn vì họ có thể đạt được chúng.
Giảng viên: Đúng, như vậy sự tự tin cũng rất quan trọng trong việc khuyến khích khách hàng thực hiện.
Học viên: Tôi nghĩ khi chúng ta chia nhỏ mục tiêu ra, chúng ta có thể đánh giá kết quả dễ dàng hơn cũng như dễ điều chỉnh và giám sát thực hiện mục tiêu hơn.
Giảng viên: Đúng. Đánh giá kết quả rất quan trọng. Tôi đồng ý.
80 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Học viên: Tôi nghĩ mỗi khi khách hàng đạt được một mục tiêu nhỏ, họ sẽ thêm tự tin và điều đó khuyến khích họ tiến tới thực hiện những mục tiêu tiếp theo.
Giảng viên: Tôi đồng ý, chúng ta cũng đã thống nhất rằng sự tự tin là rất quan trọng.
Học viên: Nó giúp người ta tránh cảm giác chán nản khi thực hiện mục tiêu và khuyến khích được họ tiếp tục cố gắng.
Giảng viên: Ừ, nó khích lệ khách hàng tiếp tục thực hiện. Còn gì nữa không?
Học viên: Giúp chúng ta nhận thấy tiến bộ của khách hàng.
Giảng viên: Bạn hãy nói rõ hơn về điều đó đi - điều đó có nghĩa là gì?
Học viên: Khi đặt mục tiêu nhỏ hơn và đạt được nó, người ta có thể nhận thấy sự tiến bộ, và ngày càng tiến gần hơn đến mục tiêu dài hạn cuối cùng.
Giảng viên: Ừ, nói cách khác là mục tiêu có tính tích cực, nó giúp người ta tiến bước theo chiều hướng tích cực.
Học viên: Tôi nghĩ, một trong những đặc điểm của mục tiêu ngắn hạn là nó là cơ sở để người ta đạt được mục tiêu dài hạn.
Giảng viên: Đúng vậy. Đặt mục tiêu ngắn hạn cho phép tiến từng bước từng bước để đạt được mục tiêu dài hạn. Người Trung Quốc có một câu nói, ”Hành trình ngàn dặm bắt đầu từ một bước đi”. Hành trình mà chúng ta đang nói tới ở đây chính là một mục tiêu dài hạn.
Học viên: Mục tiêu ngắn hạn còn góp phần xác định xem mục tiêu dài hạn có hợp lí không.
Giảng viên: Đúng vậy, việc đánh giá, xem xét lại các bước để đảm bảo bạn đang tiến lên là rất quan trọng. Đặt ra những mục tiêu ngắn hạn sẽ giúp bạn dễ đạt được chúng hơn. Điều đó cũng giúp tăng thêm sự tự tin cho khách hàng, khích lệ họ tiếp tục chinh phục những mục tiêu phức tạp hơn. Việc đánh giá giúp họ có được bằng chứng cụ thể để nói rằng, ”Đúng vậy, mọi thứ đã tốt hơn, mình làm rất tốt”. Giống như kĩ thuật giải quyết vấn đề, đặt ra mục tiêu cần được thực hiện khi khách hàng đang ở giai đoạn hành động. Nếu khách hàng đang ở giai đoạn tiền dự định thì việc đạt được mục tiêu là một việc rất khó.
Có một điều rất quan trọng mà chúng ta chưa nhắc đến đó là mục tiêu ngắn hạn phải có thể đo lường được. Mục tiêu cũng cần phải cụ thể và có thể quan sát được. Điều đó có nghĩa là mục tiêu phải nói về một hành vi cụ thể. Vì nếu bạn không quan sát được thì theo tôi đó không phải là một mục tiêu. Mục tiêu ngắn hạn cũng phải có thể đạt được trong thời gian ngắn, để nhờ đó mà người ta cảm thấy tự tin để bước tiếp. Mục tiêu cần phải được mô tả ở thể khẳng định: tức là nói về một việc chúng ta sẽ thực hiện, chứ không phải về một việc chúng ta sẽ không thực hiện. Đồng thời, mục tiêu cũng cần thể hiện mong muốn thực sự của khách hàng.
Tài liệu phát tay 5.3-1 (tiếp)
Chương V – Bài 5.3 81
Bạn cũng cần phải tìm hiểu xem mức độ cam kết của khách hàng với việc thực hiện mục tiêu đến đâu. Sự cam kết gồm 2 yếu tố: người ta sẵn sàng làm việc đó đến mức nào và mức độ tự tin của họ như thế nào. Quá trình giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu thường gắn kết với nhau, vì mỗi khi bạn xác định vấn đề và các giải pháp, bạn cũng đồng thời phải xác định mục tiêu cần đạt được là gì.
(Đóng vai)
Giảng viên: Nào, trước khi bắt đầu thảo luận, hãy cho biết đâu là vấn đề mà các bạn dự tính gặp phải trong phần đóng vai?
Học viên: Tất cả các khách hàng đều khăng khăng cách duy nhất để giải quyết vấn đề của họ là dùng lại ma túy.
Giảng viên: Vậy à? Điều đó có nghĩa là gì? Bạn có thể nói gì về việc đó? Theo bạn thì khách hàng đang ở giai đoạn chuyển đổi hành vi nào?
Học viên: Tiền dự định.
Giảng viên: Đúng. Và nhớ là đối với khách hàng ở giai đoạn tiền dự định, sẽ rất khó và phức tạp để có thể giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu. Vấn đề của tư vấn viên ở đây là gì?
Học viên: Tôi nghĩ rất khó cho tư vấn viên nếu phải cố gắng nghe khách hàng 90% thời gian, và chỉ nói trong 10% thời gian.
Giảng viên: Tại sao lại khó?
Học viên: Vì khi ta đặt câu hỏi, khách hàng không biết trả lời thế nào hoặc họ cố trả lời thật ngắn.
Giảng viên: Đúng là khó bởi vì khách hàng thường nghĩ rằng người khác sẽ giải quyết vấn đề cho họ và họ đã quen với việc người khác bảo họ nên làm gì, cũng vì thế mà họ hiếm khi đưa ra ý kiến hoặc trình bày quan điểm của mình.
Chúng ta cần luôn nhớ là chúng ta không phải là người giải quyết vấn đề cho khách hàng, mà chỉ hướng dẫn cho họ cách để giải quyết vấn đề thôi. Có lẽ bạn cũng cần biết rằng, một tư vấn viên có kinh nghiệm đánh giá khách hàng sẽ cần khoảng thời gian từ 45 phút đến 1 giờ. Sau khi đã đánh giá khách hàng xong và họ đã thật sự có mối quan hệ tốt với bạn, thì một buổi tư vấn thường chỉ kéo dài khoảng 45 phút. Vì vậy, cho dù đó là buổi tư vấn về việc đặt mục tiêu, giải quyết vấn đề hay dự phòng tái nghiện, hay bất kì nội dung nào khác, nếu bạn kéo dài buổi tư vấn quá 45 phút thì khách hàng sẽ rất mệt mỏi và chẳng còn thấy nhiệt tình tham gia nữa. Nếu thời gian buổi tư vấn ngắn hơn thì có thể khách hàng vẫn còn ý tưởng muốn nói khi bạn kết thúc. Nếu là tôi thì một điều quan trọng tôi cần thông báo cho khách hàng là vấn đề thời gian: họ cần hiểu rằng mỗi buổi tư vấn sẽ kéo dài 45 phút. Tôi sẽ nói cho họ biết điều đó ngay từ đầu buổi tư vấn để họ biết được khoảng thời gian đã ấn định. Cần nhớ rằng chúng ta phải làm việc có trọng tâm và sử dụng thời gian một cách hiệu quả.
Nguồn:
Early Psychosis Intervention Project at http://www.psychosissucks.ca/epi/index
Tài liệu phát tay 5.3-1 (tiếp)
5.4 Giảm nGuy cơ
Bài 84 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN

I. Giới thiệu 1 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận những khái niệm quan trọng về giảm nguy
cơ và dự phòng quá liều để áp dụng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
II. Thuyết trình 55 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về giảm nguy cơ.
III. Kết luận 4 phút
Ôn lại những nội dung chính của bài và trả lời các câu hỏi của các học viên (nếu có)
Bài 5.4: Giảm nguy cơ
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn giảm nguy cơ và dự phòng quá liều cho khách hàng khi cung cấp dịch vụ tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Nêu được khái niệm về giảm nguy cơ
‚ Nêu được các nguyên tắc giảm nguy cơ
‚ Hiểu và thực hành cách tiêm chích an toàn, vứt BKT an toàn
‚ Biết cách chăm sóc ven
‚ Nêu được các biện pháp cơ bản trong dự phòng quá liều
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
‚ Trình diễn và thực hành
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương V – Bài 5.4 85
Bản chiếu 1
Nói: Mục đích dài hạn của tư vấn điều trị nghiện ma túy là giúp khách hàng ngừng sử dụng ma túy. Tuy nhiên, nghiện ma túy là một rối loạn mạn tính, tái diễn của não bộ nên khách hàng cần được điều trị nhiều lần, lâu dài mới có thể ngừng sử dụng hoàn toàn. Vì vậy, việc cung cấp cho khách hàng thông tin về giảm nguy cơ là hết sức cần thiết, vì điều đó sẽ giúp họ giảm thiểu các tác hại do việc sử dụng ma túy của họ gây ra.
GIẢM NGUY CƠ
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Định nghĩa được giảm nguy cơ
Hiểu được các nguyên tắc giảm nguy cơ
Hiểu và thực hành tiêm chích an toàn, vứt BKT an toàn
Biết cách chăm sóc ven
Nêu được cách dự phòng và xử trí sốc quá liều
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Chương V – Bài 5.4 87
Bản chiếu 3
Nói: Giảm nguy cơ có thể là một chính sách hoặc chương trình nhằm giảm hoặc kiểm soát các hậu quả bất lợi về mặt sức khỏe, kinh tế và xã hội của việc sử dụng rượu và các loại ma túy khác (AADAC, 1998). Nó cũng có thể là một hệ thống các chiến lược và phương pháp không mang tính phán xét nhằm cung cấp và/hoặc tăng cường các kĩ năng, kiến thức, nguồn lực và hỗ trợ cho khách hàng để họ có thể sống một cuộc sống an toàn hơn, lành mạnh hơn. Các chiến lược giảm nguy cơ phải được thiết kế nhằm đáp ứng nhu cầu của cộng đồng và cá nhân.
Nhằm mục đích giảm các hậu quả bất lợi về sức khoẻ, xã hội và kinh tế do rượu và các loại ma túy khác gây ra, thông qua việc giảm thiểu hoặc hạn chế những nguy cơ và tác hại đối với cá nhân và cộng đồng do sử dụng ma túy. (Lenton & Single 1998)
GIẢM NGUY CƠ
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích thêm về ba loại hình can thiệp chính đối với việc sử dụng ma túy
Thông tin tham khảo: Những nỗ lực nhằm hạn chế nguồn cung ma túy thì khá tốn kém và có thể gây ra những hậu quả bất lợi không lường trước được, và ít cho thấy kết quả làm giảm một cách rõ rệt và bền vững những vấn đề do ma túy gây ra. Chỉ khi nhu cầu sử dụng ma túy thấp, việc phát hiện có hiệu quả đến mức mà người buôn bán không thể trốn tránh được và các biện pháp thay thế không sẵn có thì việc giảm cung mới có hiệu quả làm giảm các vấn đề do ma túy. Điều này cho thấy rằng giảm cung ma túy sẽ chỉ trở thành một chiến lược thành công trong giảm nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy khi các chiến lược giảm cầu hiệu quả cũng được thực hiện song song.
Các chiến lược dự phòng HIV dành cho người tiêm chích ma túy (TCMT) cần được xây dựng và thực hiện trong bối cảnh mà cả hai nỗ lực nhằm giảm sử dụng ma túy và đáp ứng các nhu cầu khác như chăm sóc sức khỏe ban đầu và nhân quyền của người sử dụng đều được thực hiện. Giáo dục về ma túy một cách hiệu quả có thể giảm việc thử sử dụng ma túy. Đồng thời, giáo dục cũng giúp đảm bảo rằng những người thử dùng ma túy có kiến thức cần thiết để giảm những nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy, đặc biệt là lây truyền HIV. Việc thực thi pháp luật có thể giúp tấn công hiệu quả những trùm buôn bán ma túy, trong khi vẫn sử dụng các phương pháp y tế công cộng để hỗ trợ những người sử dụng ma túy. Nhận thức được điều này sẽ giúp ngành công an nắm giữ một vai trò quan trọng trong dự phòng lây truyền HIV. Ở một số nước, công an tham gia rất tích cực vào việc giảm nguy cơ, bằng cách giới thiệu người sử dụng ma túy đi điều trị thay vì bắt giữ họ, và thậm chí còn cung cấp BKT sạch cho họ.
ĐÁP ỨNG VỚI TÌNH TRẠNG SỬ DỤNG MA TÚY
Giảm cung
Giảm cầu
Giảm nguy cơ
Chương V – Bài 5.4 89
Bản chiếu 4 (tiếp)
Đối với xã hội, việc bỏ tù người sử dụng ma túy, chỉ vì họ sử dụng ma túy, sẽ không có hiệu quả trong việc giảm cầu. Nó thậm chí còn tạo ra nguy cơ cho người bị bắt vì họ còn phải chịu đựng những mối nguy hiểm khác trong nhà tù (bao gồm nguy cơ nhiễm HIV cao hơn) trong khi không được điều trị gì cho tình trạng sử dụng ma túy của họ.
Ba phương pháp giảm cung, giảm cầu và giảm nguy cơ tuy độc lập với nhau nhưng khó có thể hiệu quả nếu chỉ sử dụng riêng lẻ. Tuy nhiên, nếu cùng được thực hiện, chúng sẽ bổ trợ lẫn nhau để tạo ra một môi trường thuận lợi, vừa hạn chế tình trạng sử dụng ma túy, vừa giải quyết được những vấn đề về nhiễm HIV/AIDS trong nhóm người tiêm chích ma túy.
Các ví dụ:
‚ Giảm cung

- Luật pháp -
- Chính sách
- Giảm trồng cây thuốc phiện, cần sa...
- Bắt giam
‚ Giảm cầu
- Chiến dịch truyền thông đại chúng
- Điều trị
- Hỗ trợ cộng đồng
- Giáo dục trong nhà trường
‚ Giảm tác hại
- Chương trình trao đổi (phát) bơm, kim tiêm
- Bao cao su
- Giáo dục đồng đắng
- Hỗ trợ gia đình
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Thông tin tham khảo: Triết lí về giảm nguy cơ
Giảm nguy cơ là một trong những công cụ hiệu quả nhất để giải quyết những vấn đề y tế, xã hội liên quan đến các hoạt động có nguy cơ. Phương pháp giảm nguy cơ được xây dựng dựa trên tình trạng sử dụng ma túy của khách hàng - tôn trọng và hỗ trợ họ trong việc đưa ra quyết định. Một trong những quyết định của họ có thể là sử dụng ma túy hoặc thực hiện các hành vi có nguy cơ cao. Người ta sử dụng ma túy vì rất nhiều lí do khác nhau. Nếu bạn gặp một khách hàng mà họ không muốn từ bỏ ma túy, thì bạn, với tư cách là người cung cấp dịch vụ, hãy dành cho họ những lựa chọn khác nhau và hỗ trợ họ giảm bớt những hậu quả tiêu cực của việc sử dụng ma túy.
Những vấn đề do sử dụng ma túy có các mức độ nguy cơ cao thấp khác nhau, từ nguy cơ rất thấp đến rất cao. Bạn không thể yêu cầu khách hàng ngừng sử dụng ma túy, nhưng bạn có thể giúp họ giảm nguy cơ liên quan đến việc sử dụng ma túy. Triết lí về giảm nguy cơ cho phép bạn duy trì mức độ sẵn có và chất lượng dịch vụ cũng như điều trị mà bạn cung cấp cho người sử dụng ma túy giống như cho người không sử dụng. Điều đó có nghĩa là dịch vụ của bạn không mang tính phân biệt đối xử.
Một trong những nhiệm vụ chính của người cung cấp dịch vụ chăm sóc xã hội và y tế là giúp mọi người sống lành mạnh hơn. Người cung cấp dịch vụ chăm sóc cần nhận thấy rằng chỉ một sự cải thiện nhỏ trong sức khỏe của một người cũng có thể mở đường cho việc giảm sử dụng ma túy sau này và cải thiện lối sống. Các chiến lược giảm nguy cơ khuyến khích con người có thêm sức mạnh và sự tự tin. Chúng có thể giúp một người tiến triển từ trạng thái mất phương hướng đến lúc có khả năng tự kiểm soát.
Nhiều người sử dụng chất gây nghiện (một hay nhiều loại)
Nhiều người không muốn ngừng sử dụng CGN
Một CGN có thể gây tác hại với nhiều mức độ khác nhau
Những nguy cơ do sử dụng CGN có thể giảm nhẹ được
Các phương pháp giảm nguy cơ không khuyến khích việc sử dụng CGN
Giảm nguy cơ khuyến khích những người sử dụng ma túy giảm các hành vi nguy cơ và do đó giảm bớt tác hại do việc sử dụng ma túy
GIẢM NGUY CƠ LÀ NHẬN THỨC ĐƯỢC RẰNG:
Chương V – Bài 5.4 91
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về các nguyên tắc giảm nguy cơ.
Thông tin tham khảo: Những nguyên tắc giảm nguy cơ sau đây được chỉnh sửa từ những nguyên tắc của Trung tâm Canada về lạm dụng chất gây nghiện (CCSA 1996), Lenton và Single năm 1998.
Giảm nguy cơ:
Phải thực tế: Giảm nguy cơ tức là chấp nhận rằng sử dụng ma túy là một đặc điểm thường gặp và có từ lâu trong lịch sử loài người. Cũng cần phải thừa nhận rằng, mặc dù việc sử dụng ma túy gây ra một số nguy cơ, nhưng nó cũng mang lại cho người sử dụng những lợi ích nhất định mà chúng ta cần quan tâm tới, nếu muốn các can thiệp có hiệu quả. Giảm nguy cơ nghĩa là nhận thức được rằng việc hạn chế và giảm thiểu các nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy là khả thi hơn việc cố gắng loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng ma túy.
Lập ưu tiên các mục tiêu: Những can thiệp giảm nguy cơ liên quan đến sử dụng ma túy bao gồm việc đặt ra các mục tiêu từ thấp đến cao. Trước mắt cần tập trung vào việc chủ động lôi kéo sự tham gia của các cá nhân, các nhóm đích và cộng đồng để giải quyết những nhu cầu cấp thiết nhất của họ, thông qua việc cung cấp những dịch vụ dễ tiếp cận và thân thiện. Điều quan trọng là phải đạt được những mục tiêu thực tế nhất trước mắt, bởi vì đó là bước đầu tiên hướng tới sử dụng không có nguy cơ và, nếu được, cai hoàn toàn.
Có giá trị nhân văn: Quyết định tiếp tục sử dụng ma túy của người sử dụng ma túy phải được chấp nhận. Không được đưa ra bất cứ phán xét về mặt đạo đức nào nhằm kết tội hay ủng hộ việc sử dụng ma túy. Nhân phẩm và quyền của người sử dụng ma túy cần được tôn Nguyên tắc của giảm nguy cơ:
Thực tế
Lập ưu tiên các mục tiêu
Có các giá trị nhân văn
Tập trung vào nguy cơ và tác hại
Không chú trọng vào việc cai hoàn toàn
Nhằm tối đa hóa phạm vi lựa chọn can thiệp sẵn có
CÁC NGUYÊN TẮC GIẢM NGUY CƠ
trọng và các dịch vụ cần hướng đến tiêu chí “thân thiện với người sử dụng” trong phương thức hoạt động. Các phương pháp giảm nguy cơ cũng nhận biết rằng đối với hầu hết các trường hợp những người sử dụng ma túy, nghiện ma túy là một phần của cuộc sống của họ, và các can thiệp cần phải chấp nhận thực tế đó.
Tập trung vào nguy cơ và tác hại: Bằng việc cung cấp các dịch vụ giảm nguy cơ, các tác hại do sử dụng ma túy cũng có thể giảm hoặc tránh được. Trọng tâm của can thiệp giảm nguy cơ thường là hành vi sử dụng ma túy. Tuy nhiên, can thiệp giảm nguy cơ cũng nhận thức được rằng, khả năng thay đổi hành vi của con người chịu ảnh hưởng bởi các chuẩn mực trong nhóm người sử dụng ma túy, thái độ và quan điểm của cộng đồng. Các can thiệp giảm nguy cơ có thể tập trung vào cá nhân, cộng đồng và thậm chí là toàn xã hội.
Không chú trọng vào cai hoàn toàn: Mặc dù can thiệp giảm nguy cơ hỗ trợ những người muốn kiểm soát hoặc giảm sử dụng ma túy, nó không hề loại trừ hoặc coi nhẹ mục tiêu từ bỏ ma túy hoàn toàn. Các phương pháp giảm tác hại nhận thấy rằng việc đặt ra mục tiêu cai hoàn toàn trong ngắn hạn thường có tỉ lệ thành công thấp và tỉ lệ quá liều sau điều trị ở những người sử dụng các CDTP là rất cao.
Tối đa hóa phạm vi lựa chọn can thiệp sẵn có: Chương trình giảm nguy cơ giúp xác định, đo lường và đánh giá tầm quan trọng tương đối của việc giảm các tác hại liên quan đến ma túy và cân bằng giữa lợi ích và chi phí của việc giảm những tác hại đó.
Nguồn: CCSA (1996) Harm Reduction: Concepts and Practice: A Policy Discussion Paper, Canadian Centre on Substance Abuse (CCSA) National Working Group on Policy. Lenton, S. and Single, E. The defnition of harm reduction. Drug & Alcohol Review 17, 2: 213-220, 1998.
Chương V – Bài 5.4 93
Bản chiếu 7
Nói: Các chiến lược giảm nguy cơ có thể được áp dụng với một loạt các hành vi nguy cơ cao. Những ví dụ về chiến lược giảm nguy cơ trong sử dụng ma túy bao gồm:
Chương trình trao đổi bơm kim tiêm: Cung cấp BKT sạch là cách đơn giản và hiệu quả để giảm nguy cơ lây truyền HIV và viêm gan C cho cộng đồng. Những chương trình này cung cấp một hệ thống dịch vụ và hỗ trợ rộng rãi ngoài dịch vụ phát và/hoặc trao đổi BKT. Dịch vụ trao đổi BKT tạo ra một con đường thuận lợi để với tới và cung cấp hỗ trợ cho những quần thể nhóm đích khó tiếp cận.
Chương trình điều trị duy trì bằng methadone: Methadone là một CDTP tổng hợp, được sử dụng cho những người nghiện các dẫn chất thuốc phiện như heroin. Thuốc có hiệu quả trong việc ngăn chặn cảm giác thèm nhớ heroin và làm mất cảm giác phê heroin. Thuốc tương đối an toàn, không độc và có rất ít tác dụng phụ. Người ta có thể được điều trị an toàn trong nhiều năm bằng methadone. Người nghiện heroin được điều trị bằng methadone có thể có cuộc sống cân bằng và sống có ích. Họ có thể tìm được việc làm, chăm sóc gia đình và tham gia đầy đủ vào cộng đồng. Chương trình điều trị thay thế cho các chất gây nghiện khác đang được nghiên cứu.
Chương trình Giáo dục và Tiếp cận cộng đồng: Sử dụng tài liệu giáo dục về ma túy, tập trung vào giảm nguy cơ trong các nhóm có nguy cơ có thể là một cách để bắt đầu khuyến khích những thay đổi tích cực. Những tài liệu này có thể bao gồm các thông tin về sử dụng ma túy an toàn hơn, cải thiện sức khỏe nói chung, và chỉ rõ những hậu quả của việc sử dụng ma túy. Nhân viên tiếp cận cộng đồng và người cung cấp dịch vụ khác có thể phát tài liệu giáo dục về giảm nguy cơ kèm theo các dịch vụ mà họ đang cung cấp. Ví dụ về các tài liệu giáo dục giảm nguy cơ có thể xem trong bộ tài liệu Công cụ thông tin giảm nguy cơ trong khóa tập huấn này.
Chương trình trao đổi/phân phát bơm kim tiêm
Chương trình điều trị duy trì bằng methadone
Chương trình giáo dục và tiếp cận đồng đẳng
Các chính sách pháp luật
CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM NGUY CƠ
94 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Các chính sách thực thi pháp luật: Cách kiểm soát ma túy nói chung vẫn đang là tội phạm hóa việc sử dụng ma túy, mặc dù phương pháp này hiện đang là vấn đề gây tranh cãi của công luận trên khắp thế giới. Thay đổi chính sách hướng tới cộng đồng, vận động cho việc tiếp cận các dịch vụ điều trị, và xem xét/ sửa đổi hệ thống luật pháp có thể tạo điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp giảm nguy cơ trong tương lai thông qua các cơ quan thực thi pháp luật.
Chương V – Bài 5.4 95
Bản chiếu 8
Nói: Tiêm ven là cách rất hiệu quả để đưa thuốc vào cơ thể. Tuy nhiên, một khi thuốc được đưa vào cơ thể bằng đường này, cơ chế lọc và ngăn chặn của cơ thể nhằm bảo vệ con người từ yếu tố bên ngoài như hàng rào dạ dày-ruột, phổi và da bị bỏ qua. Điều này khiến việc dùng thuốc qua tiêm ven là cách dùng nguy hiểm nhất. Đặc biệt, nguy cơ nhiễm trùng và quá liều cao hơn rất nhiều so với các đường khác.
Rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy tiêm chích liên quan đến tăng mức độ lệ thuộc và tăng nguy cơ đối với sức khỏe do:

‚ Nhiễm vi-rút lây truyền qua đường máu
‚ Nhiễm khuẩn
‚ Nhiễm nấm
‚ Tổn thương hệ thống tuần hoàn
‚ Tăng nguy cơ bị quá liều
Mặc dù cách tốt nhất để giảm nguy cơ liên quan đến tiêm chích là không tiêm chích nữa, rõ ràng là nhiều người TCMT không muốn dừng việc đó mà cũng chẳng muốn tiếp nhận các can thiệp hoặc điều trị nhằm khiến họ ngừng tiêm chích ma túy.
Vì vậy, những dịch vụ cung cấp cho người TCMT phải cung cấp thông tin phù hợp và hỗ trợ họ giảm thiểu các nguy cơ do tiêm chích.
Trọng tâm của những thông tin và khuyến cáo cho người TCMT là tránh dùng chung dụng cụ tiêm chích và dự phòng lây truyền vi rút qua đường máu như viêm gan B, viêm gan C và HIV. Tuy nhiên, đã có nhiều người tiêm chích từng bị tổn thương tại các vết chích như bị nhiễm trùng, trầy xước và những tổn thương này hầu như không được điều trị phù hợp trừ khi chúng quá nặng. Điều này dẫn đến tổn thương nặng hơn, vĩnh viễn, và đòi hỏi phải được điều trị tích cực và tốn kém hơn.

Chăm sóc VEN
Làm thế nào để ven không bị tổn thương và chăm sóc ven?
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 8 (tiếp)
Điều quan trọng là tư vấn viên cần có những khuyến cáo nhằm giúp giảm tỉ lệ tổn thương vết chích và khuyến khích người TCMT tìm kiếm hỗ trợ phù hợp khi bị những tổn thương đó. Cách lí tưởng nhất là có nhân viên là điều dưỡng viên/cán bộ y tế làm việc tại cơ sở tư vấn để thực hiện các chăm sóc đó, song điều này là không thực tế tại nhiều dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên, nếu tư vấn viên thực sự có kiến thức và tự tin, họ vẫn có thể cung cấp những lời khuyên rõ ràng và hữu ích cho khách hàng để dự phòng và xử lí những vết thương hay nhiễm trùng tại chỗ, cũng như các biện pháp để giảm tổn thương do việc tiêm chích gây nên.
Chương V – Bài 5.4 97
Bản chiếu 9
Nói: Có ba cách tiêm: tiêm dưới da, tiêm bắp và tiêm ven. Tiêm dưới da là tiêm ngay dưới bề mặt da. Tiêm thẳng vào cơ là hình thức tiêm bắp. Hầu hết người tiêm chích các loại ma túy bất hợp pháp thích tiêm trực tiếp vào ven.
Tiêm dưới da
Tiêm bắp
Tiêm ven

CÁC KIỂU TIÊM
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10
Nói: Khi tiêm vào ven, cần hướng mặt xiên lên trên và kim tiêm làm thành một góc khoảng 20° so với bề mặt da. Tiêm như vậy sẽ giúp kim xuyên qua da dễ dàng hơn và đầu kim đi vào ven dễ hơn. Khi đầu kim vào ven, bạn sẽ nhìn thấy máu trong bơm tiêm.
Mặt xiên
Lỗ kim
Cỡ– đo độ dầy của kim
Chích vào dưới da theo một góc nông với mặt xiên quay lên trên
KIM TIÊM – NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
Chương V – Bài 5.4 99
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về các đặc điểm của tĩnh mạch (ven) và động mạch.
Thông tin tham khảo: Động mạch mang máu có nhiều ô-xy từ tim đi khắp cơ thể. Động mạch lan tỏa khắp cơ thể, kích thước giảm dần cho đến khi nối với mao mạch. Máu sẽ đi qua mao mạch đến các mô, giải phóng ô-xy và quay về qua các ven nhỏ, rồi từ các ven nhỏ tập trung về các ven lớn hơn. Ven vận chuyển máu đã giải phóng ô-xy về phổi sau khi qua tim.
Vì vậy, cách tiêm chích phù hợp là phải tiêm theo hướng chảy của dòng máu: ma túy được chích đi từ ven nhỏ đến ven lớn rồi về tim. Từ tim, ma túy được bơm lên phổi nơi máu được vận chuyển qua các mao mạch phổi để nhận ô-xy rồi sau đó lại trở lại tim rồi từ đó được bơm lên não.
Khi ma túy được chích vào ven, nó có thể lên não qua phổi trong vòng 15 đến 20 giây. Ma túy không bị pha loãng đáng kể nên người sử dụng sẽ cảm thấy “bốc” hoặc “hích” do não bộ bị ngộ độc nhanh.
Chỉ có ven mới có các van giúp đẩy máu đi ngược về tim và tránh để máu chảy ngược lại (xem hình trên bản chiếu).
Tiêm vào động mạch
Người tiêm chích ma túy cần được khuyến cáo là không bao giờ được tiêm chích vào động mạch, nơi mà họ có thể sờ thấy mạch đập. Tiêm vào động mạch rất nguy hiểm và có thể gây tử vong.
Ven (tĩnh mạch)
Đưa máu về tim
Mang máu đã xả hết ô-xy
Máu màu đỏ thẫm
Thành mạch mỏng /không đàn hồi
Có các van
Không thấy mạch – máu chảy chậm
Động mạch
Đưa máu ra khỏi tim
Mang máu giàu ô-xy
Máu màu đỏ tươi
Thành mạch dầy/đàn hồi
Không có van
Có thể nhận thấy được mạch đập -
Máu phun mạnh
VEN VÀ ĐỘNG MẠCH
Van mở
HÌnh 7. Van
Van đóng
Mặc dù hầu hết các trường hợp tiêm vào động mạch đều là vô tình nhưng đôi khi vẫn có người cố ý tiêm vào động mạch. Cần cảnh báo mạnh mẽ mọi người rằng họ không được cố ý tiêm vào động mạch.
Đối với những người vô tình hoặc cố ý tiêm vào động mạch, hướng dẫn họ:
‚ Rút kim ra ngay lập tức - không bơm thuốc vào nữa
‚ Ấn thật chặt vào nơi chích ít nhất 15 phút
‚ Nếu được, nâng chân hoặc tay nơi bị chích vào lên cao
‚ Đi khám ngay để kiểm tra vết thương
Tại sao tiêm vào động mạnh lại rất nguy hiểm?
‚ Không khí đi vào động mạch sẽ làm tắc nghẽn động mạch và giết chết bạn
‚ Mất máu nhiều (do động mạch có áp lực mạnh dẫn đến máu chảy rất mạnh)
‚ Co thắt động mạch dẫn đến liệt hoặc tử vong
‚ Đau đớn.
Chương V – Bài 5.4 101
Bản chiếu 12
Nói: Tổn thương dạng cục hình thành khi dòng chảy của máu bị nhiễu loạn. Những tổn thương hoặc viêm nhiễm ở lòng ven (hình 1) có thể tạo ra các cục máu đông tại vị trí bị tổn thương (hình 2).
Những vết tổn thương do kim đâm trên thành ven được gọi là những huyết khối. Những cục máu đông này cản trở dòng chảy của máu và lại tiếp tục tạo ra các huyết khối khác (hình 3). Một cục máu đông trong ven cũng giống như một cục máu đông trên bề mặt da sẽ cứng lên và hóa thành mô sẹo, loại mô kéo hai bờ vết thương lại gần nhau (hình 4). Chính vì hai bờ vết thương bị kéo lại gần nhau nên nó làm ven bị hẹp hoàn toàn - ”hỏng ven”. Khi ven bị hẹp hoàn toàn như thế thì sẽ không thể mở trở lại được và máu sẽ phải tìm đường khác để về tim.
Ven có thể bị tắc tạm thời nếu trong thành ven bị sưng do bị tổn thương hoặc tiêm liên tục. Vết sưng này có thể là do kim tiêm, do thuốc hoặc do cả hai nguyên nhân gây ra. Khi vết sưng xẹp đi, dòng tuần hoàn sẽ có thể hồi phục được.
Những ven nhỏ có thể bị tắc nếu khi tiêm, người sử dụng rút pít-tông ngược lại hoặc đâm đi, đâm lại quá nhiều lần để kiểm tra xem kim đã đi vào ven hay chưa. Việc rút pít-tông ngược lại sẽ kéo 2 thành ven lại với nhau (đặc biệt là khi chúng bị viêm) và 2 thành ven sẽ dính với nhau khiến ven bị tắc. Rút kim ra quá nhanh sau khi tiêm cũng có thể gây tác động tương tự.

HỎNG VEN
Hình 8.1 Thành ven có thể bị tổn thương do kim đâm, thuốc (nhất là dạng viên), tiêm quá dày hoặc quá nhanh, nhiễm khuẩn và “rút ngược”
Hình 8.2 Thành ven bị tổn thương tạo thành cục trong lòng ven
Hình 8.3 Dòng máu bị cản trở, tạo thêm nhiều nốt sần khiến lòng ven bị thu hẹp hơn
Hình 8.4 Cuối cùng ven bị tắc hoàn toàn, các nốt sần biến thành sẹo làm cho hai thành ven dính lại với nhau
Bản chiếu 12 (tiếp)
Hỏng ven vĩnh viễn (hình 4) xảy ra do hậu quả của việc:
‚ Tiêm chích trong thời gian dài
‚ Tiêm chích liên tục đặc biệt là bằng kim cùn
‚ Kĩ thuật tiêm kém
‚ Tiêm những loại thuốc gây kích ứng ven.
Chương V – Bài 5.4 103
Bản chiếu 13
Nói: Hình trên cho thấy một loạt các vị trí tiêm chích mà người sử dụng ma túy hay tiêm. Các ven ở vùng cánh tay và cẳng tay đều có thể tiêm chích được những cần phải thường xuyên thay đổi vị trí chích. Các ven ở bàn tay, bẹn và nách là những vùng khá nguy hiểm vì chúng gần các động mạch lớn mà người tiêm chích dễ vô tình đâm vào. Người sử dụng ma túy cần được khuyến cáo không bao giờ tiêm vùng dưới thắt lưng vì nguy cơ tiêm vào động mạch lớn hơn.
Các vị trí tiêm chích
Không tiêm vào cổ. Tiêm vào đó ngoài các nguy cơ thông thường, còn có nguy cơ đột quị (do tổn thương động mạch). Tiêm vào ven thượng đòn còn có thể đâm vào đỉnh phổi gây tràn khí màng phổi
Tiêm vào khối cơ phía trên cánh tay chỉ an toàn với heroin
Có thể tiêm ven ở phía trên cánh tay.
Nhớ thay đổi vị trí để tránh hỏng ven
Có thể tiêm ven ở cẳng tay. Nhớ thay đổi vị trí để tránh hỏng ven Không bao giờ tiêm ở vùng từ thắt lưng trở xuống
Có thể tiêm ven ở bàn tay, ngón tay nhưng có thể sẽ rất đau nên cần dùng kim nhỏ, sắc. Phải tháo hết các đồ trang sức trên tay để tránh tắc nghẽn và tổn thương mất ngón tay
Phụ nữ không nên tiêm vào vùng vú
Chỉ tiêm dưới da, chỉ sử dụng với heroin
Không bao giờ tiêm ở vùng từ thắt lưng trở xuống
Tiêm được
Thận trọng
Không bao giờ
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về các hậu quả dài hạn do tổn thương ven.
Thông tin tham khảo: Khi dòng chảy của máu đến các chi bị tổn thương nghiêm trọng, nó sẽ làm phát sinh một số tổn thương như:
‚ Vết loét: tổn thương bề mặt da
‚ Áp xe: một vùng mô bị viêm khu trú
‚ Viêm tĩnh mạch: kích ứng thành trong ven
‚ Viêm mô tế bào: viêm đau tế bào da
‚ Hoại tử: do mô bị chết
Vết loét
Tổn thương nghiêm trọng hệ tuần hoàn có thể gây ra một vùng da hở bị tổn thương và đau, gọi là vết loét. Các vết loét hình thành khi da bị trầy xước, bị cào (hoặc tiêm vào) làm phá vỡ bề mặt da. Dòng máu đến với tốc độ chậm đồng nghĩa với việc tế bào không thể được tạo ra nhanh để làm lành vết thương. Do vậy, những vết thương ướt và đau có thể phải mất hàng năm mới có thể lành lại được và có thể bị bội nhiễm.
Áp xe
Ổ áp xe là một vùng viêm tạo thành túi mủ khu trú trong mô viêm. Áp xe có thể là hậu quả của tình trạng nhiễm khuẩn hoặc nhiễm nấm. Một ổ áp xe khác với một tổn thương viêm nội tế bào ở điểm là nó có bờ và có hình dáng rõ rệt.
Loét – tổn thương bề mặt da
Áp xe – một vùng mô bị viêm tạo mủ khu trú
Viêm tĩnh mạch – kích ứng thành trong ven
Viêm mô dưới da - sưng đau da và tổ chức dưới da
Hoại tử – do mô bị chết
Đi khám khi
Nhiễm trùng – viêm gan C/nhiễm HIV, nhiễm khuẩn, nấm
Tiêm chệch ven – sưng xung quanh vết chích
Mô sẹo – làm cho ven bị tắc
Có u, sưng dưới da
Hậu quả dài hạn của tổn thương ven
Chương V – Bài 5.4 105
Một ổ áp xe có những đặc điểm sau:
‚ Sưng
‚ Nóng ở vị trí tổn thương
‚ Ấn mềm và đau
‚ Đỏ da (ở người da trắng)
‚ Có túi mủ
‚ Có mùi hôi khi ổ áp xe bị vỡ
Những người bị áp xe cần phải đi khám để được điều trị. Áp xe cần được điều trị bằng thuốc kháng sinh và/hoặc chích mủ. Người TCMT cần được cảnh báo rằng họ không bao giờ được tự chích hoặc mổ vết áp xe. Tự mổ hoặc chích mủ có thể làm vết nhiễm trùng lan rộng, và nếu không được sử dụng thuốc kháng sinh phù hợp thì sẽ nhanh chóng dẫn đến nhiễm trùng huyết. Cần khuyến cáo người TCMT thay đổi vết chích thường xuyên để giảm nguy cơ viêm, nhiễm trùng và tạo ổ áp xe khu trú.
Viêm tĩnh mạch
Viêm tĩnh mạch là tình trạng kích ứng thành trong của tĩnh mạch (ven), làm thành ven cứng lên, từ đó kích thích sự hình thành cục máu đông. Ven bị đỏ hoặc viêm và đôi khi có cảm giác như một sợi dây dày dưới bề mặt da.
Viêm tĩnh mạch có thể xảy ra khi:
‚ Tiêm các chất gây kích ứng (như thuốc dạng viên…)
‚ Kĩ thuật tiêm không tốt
‚ Nhiễm trùng
‚ Chấn thương do tai nạn (bị va đập, dập)
Một biến chứng của viêm tĩnh mạch là tạo huyết khối ven sâu và dẫn đến tắc mạch phổi. Nếu nghi ngờ viêm tĩnh mạch, cần giới thiệu khách hàng đi khám ngay lập tức. Điều trị bao gồm nghỉ ngơi, kê cao chi, sử dụng kháng sinh và thuốc chống viêm.
Viêm mô tế bào
Viêm mô tế bào là tình trạng viêm đau lan tỏa trên bề mặt da thể hiện bằng vết sưng, đỏ có dịch (phù nề).
Viêm mô tế bào có thể xảy ra do:
‚ Các chất gây kích ứng bám vào mô cơ thể
‚ Nhiễm trùng nặng
Nếu nghi ngờ có viêm mô tế bào, cần giới thiệu khách hàng đi khám ngay lập tức. Điều trị viêm mô dưới da bằng cách nghỉ ngơi, kê cao chi bị tổn thương, dùng thuốc kháng sinh và thuốc chống viêm.
Hướng dẫn những người bị viêm mô tế bào thực hiện các biện pháp sau để dự phòng tái nhiễm trùng:
‚ Dùng dụng cụ tiêm chích sạch
‚ Dùng nước cất để pha chế và thảo luận về việc sử dụng loại nước khác khi không có nước cất
‚ Tránh tiêm các chất gây kích ứng hoặc pha trộn nhiều loại thuốc
‚ Tháo nhẫn ra trước khi tiêm nếu tiêm vào bàn tay
Hoại tử
Hoại tử là mô tế bào chết do thiếu máu hoặc không có máu nuôi dưỡng. Vết hoại tử có thể xảy ra khi tổn thương động mạch hoặc tổn thương ven nghiêm trọng.
Hậu quả của hoại tử có thể rất nghiêm trọng, dẫn đến bị cụt chi. Vết hoại tử cũng có thể gây ra tình trạng các mảng mô hoại tử xâm nhập vào máu làm nhiễm độc máu và đe dọa tính mạng.
Bản chiếu 14 (tiếp)
Chương V – Bài 5.4 107
Bản chiếu 15
Nói: Một số cách chăm sóc ven đơn giản có thể dự phòng tổn thương ven:
‚ Dùng BKT mới tiệt trùng cho mỗi lần tiêm chích
‚ Dùng kim cỡ nhỏ nhất (27G)
‚ Làm sạch vị trí tiêm trước khi tiêm
‚ Bơm thuốc từ từ, nhẹ nhàng
‚ Thay đổi vị trí tiêm chích
‚ Học cách tiêm ở cả hai cánh tay
‚ Không tiêm chích ở những vị trí tấy đỏ, sưng và đau nhức
‚ Không được nghiền thuốc viên ra để tiêm chích
‚ Ăn uống đầy đủ và ngủ đủ giấc
Dùng BKT mới tiệt trùng cho mỗi lần tiêm chích
Dùng kim cỡ nhỏ nhất (27G)
Làm sạch vị trí tiêm chích
Tiêm từ từ và nhẹ nhàng
Thay đổi vị trí tiêm chích
Học cách tiêm ở cả hai cánh tay
Không tiêm chích ở những vị trí tấy đỏ, sưng và đau nhức
Không được nghiền thuốc viên ra để tiêm chích
Duy trì ăn uống đầy đủ và ngủ đủ giấc
CHĂM SÓC VEN
Bản chiếu 16
Nói: Đây là vết chích điển hình do tiêm heroin qua ven. Người này đang chỉ vào vùng viêm nhẹ (vệt đỏ) ở cánh tay. Đó là tình trạng viêm ven có huyết khối.
Chương V – Bài 5.4 109
Bản chiếu 17
Nói: Đây là tình trạng quá nhiều vết chích vào ven.
Bản chiếu 18
Nói: Đây là tình trạng nhiễm trùng do tiêm ven. Khách hàng đã được điều trị bằng kháng sinh trong 1 tuần. Bức ảnh cũng cho thấy một vết thương hở và viêm nội tế bào.
Chương V – Bài 5.4 111
Bản chiếu 19
Nói: Bức ảnh này cho thấy một người bị áp xe do tiêm vào ven. Nhiễm trùng có thể bao gồm nhiễm trùng huyết (nghĩa là có sinh vật gây bệnh trong máu và dẫn đến tình trạng nhiễm trùng huyết) hoặc viêm khớp ở người tiêm chích ma túy. Nóng và đau khớp có thể coi là tình trạng nhiễm trùng huyết trừ khi xác định được nguyên nhân khác.
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ cùng thảo luận về sốc quá liều.
Bản chiếu 20
NGUY CƠ SỐC QUÁ LIỀU

Chương V – Bài 5.4 113
Bản chiếu 21
Nói: Sốc quá liều hiện là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong nhóm người TCMT. Sử dụng heroin khi bị say/phê các loại chất ức chế thần kinh trung ương khác như rượu, thuốc ngủ nhóm benzodiazepines có thể làm tăng độc tính của heroin và gây tử vong do sốc quá liều.
Sốc quá liều là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu hiện nay trong nhóm người tiêm chích ma túy
Nhiều người sử dụng ma túy bị sốc quá liều do họ không nhận biết nguy cơ sốc khi tiêm heroin hay khi họ pha trộn heroin với các loại thuốc khác (kể cả rượu)
Nhiều người bị tử vong do người khác nhìn thấy họ bị sốc quá liều nhưng không biết PHẢI LÀM GÌ để cứu giúp họ
GIỚI THIỆU VỀ SỐC QUÁ LIỀU
Bản chiếu 22
Nói: Hãy thảo luận những nguyên nhân chính gây sốc quá liều bao gồm:
Tiêm chích ma túy
Người tiêm chích heroin có nguy cơ tử vong cao gấp 14 lần so với người không tiêm chích. Người tiêm chích heroin có nguy cơ sốc quá liều cao hơn hẳn so với người dùng bằng cách hút.
Trộn ma túy với rượu
Hầu hết các trường hợp sốc quá liều là do họ pha heroin với rượu, thuốc giảm đau (paracetamol, decolgen…) hoặc thuốc ngủ (valium, temazepam) với nhau trước khi tiêm. Tác dụng cộng của các chất an thần này gây ức chế hệ thần kinh trung ương và hệ hô hấp. Ngay sau khi tiêm như vậy, người sử dụng có thể ngừng thở.
Sử dụng dẫn chất thuốc phiện khi độ dung nạp thấp
Độ dung nạp với dẫn chất thuốc phiện giảm nhanh chóng sau vài ngày ngừng sử dụng. Sau khoảng một tuần, chỉ cần một liều mà trước đây chẳng thấm tháp gì với bạn cũng có thể giết bạn.
Những người đã từng sống sót sau khi bị sốc quá liều vẫn có thể tử vong do sốc quá liều lần sau. Những người “mới sử dụng” ít khi bị sốc quá liều, tình trạng này hay xảy ra ở những người đã tiêm chích lâu năm.
Đôi khi tình trạng sốc quá liều không phải là do vô tình. Khi bạn thấy buồn chán, vô vọng hoặc không quan tâm đến chuyện sống, chết có thể khiến bạn dễ bị quá liều hơn. Chia sẻ cảm xúc là cách rất quan trọng để giảm nguy cơ sốc quá liều do cố ý.

Tiêm chích ma tuý
Khi dùng quá nhiều một loại ma túy HOẶC dùng một lúc nhiều loại ma túy. Một số loại ma tuý kết hợp với nhau có thể gây CHẾT NGƯỜI (heroin & rượu; heroin & thuốc giảm đau) Bất cứ người nào sử dụng ma túy cũng có nguy cơ sốc thuốc (cho dù mới sử dụng hay đã có kinh nghiệm lâu năm rồi) Sử dụng các loại ma túy chất dạng thuốc phiện khi khả năng dung nạp của cơ thể thấp. Sau khi bạn cai nghiện ma túy chỉ khoảng một vài ngày là khả năng dung nạp các chất ma tuý sẽ giảm xuống. Chỉ trong vòng khoảng 1 tuần bạn không dùng ma tuý, chỉ với một liều mà với liều đó trước đây không thấm tháp gì với bạn, thì nay cũng có thể giết chết bạn.
NGUYÊN NHÂN GÂY SỐC THUỐC
Chương V – Bài 5.4 115
Bản chiếu 23
Không biết chất lượng ma túy
Không biết khả năng dung nạp của cơ thể
Pha trộn ma túy (đa nghiện)
Sử dụng một mình (không ai cứu bạn ­ bạn có thể chết)
NGUY CƠ SỐC QUÁ LIỀU
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
116 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 24
Nói: Nếu một người nào đó bị quá liều, đặt họ nằm ở tư thế hồi sức và theo dõi chặt chẽ. Bạn cần biết liệu họ còn tỉnh hay không. Bạn có thể đánh giá bằng cách gõ ấn ngón tay vào hõm ức - điểm nối hai bờ sườn.
Những dấu hiệu bất tỉnh khác bao gồm bạn không thể đánh thức được họ hoặc họ có những dấu hiệu như:

‚ Ngáy to
‚ Tím tái
‚ Ngừng thở
Suy hô hấp
- Thở rất chậm, yếu và dường như không thở
Tím tái
- Tím tái đầu tiên ở môi và đầu ngón tay
Mê man
- Khó đánh thức: buồn ngủ
NHẬN BIẾT DẤU HIỆU SỐC QUÁ LIỀU
Chương V – Bài 5.4 117
Bản chiếu 25
Nói: Luôn nhớ phải thật bình tĩnh và kiểm tra các tiêu chí ABC. Nếu nạn nhân không thở thì cần hà hơi thổi ngạt. Nếu nạn nhân không thở và tim cũng ngừng đập thì cần làm động tác ép tim và hà hơi thổi ngạt. Nếu nạn nhân vẫn còn thở và tim vẫn đập thì cần đặt nằm theo tư thế hồi sức và giữ cho không bị sặc chất nôn.
Phương pháp ABC theo các bước sau đây:

A. Airways - Đường thở: Làm thông thoáng đường thở bằng cách nâng cằm lên cao và ngửa cổ tối đa. Cho miệng bệnh nhân mở miệng. Nếu có dị vật trong miệng, bao gồm chất nôn, đặt cho đầu nghiêng về một bên và lau sạch miệng.
B. Breathing - Hơi thở: Ghé sát tai vào miệng nạn nhân để cảm nhận hơi thở và quan sát toàn bộ cơ thể. Việc quan sát, nghe và cảm nhận hơi thở không được phép kéo dài quá 10 giây.
C. Circulation - Tuần hoàn: Tìm các dấu hiệu tuần hoàn như hơi thở, ho hoặc vận động. Việc đánh giá không nên kéo dài quá 10 giây.
Thông tin tham khảo: Hô hấp nhân tạo là kĩ thuật cấp cứu kết hợp hô hấp với ấn tim ngoài lồng ngực. Mục đích của hô hấp nhân tạo là duy trì tạm thời tuần hoàn đủ để duy trì chức năng não bộ cho đến khi được điều trị chuyên khoa. Người sơ cứu cần bắt đầu hô hấp nhân tạo nếu bệnh nhân không còn dấu hiệu của sự sống (bất tỉnh, mất phản xạ, không cử động không tự thở được). Cứ ấn ngực 30 lần thì thổi hô hấp 2 lần. Số lần ấn lồng ngực phải là 100 - 130 lần/phút. Nếu kết hợp với 2 lần hô hấp nhân tạo (mỗi lần hô hấp trong 1 giây) thì phải lặp lại đủ 5 lần trong vòng 2 phút. Sau đó kiểm tra xem nạn nhân đã tự thở hoặc mạch đã đập chưa. Nếu chưa thì lặp lại các thao tác trên.
Có thể tìm được hình vẽ và hướng dẫn chi tiết nhanh và thuận lợi theo địa chỉ dưới đây: http://depts.washington.edu/ learncpr/quickcpr.html
Giữ BÌNH TĨNH và thực hiện phương pháp A B C
£ Airway – Đường thở
£ Breathing – Hơi thở và mạch đập
£ Circulation – Tuần hoàn
Ngừng thở? Hà hơi thổi ngạt
Ngừng thở, ngừng tim? Ép tim (và hà hơi thổi ngạt)
Vẫn thở và tim đập? Tư thế hồi sức: Tránh sặc chất nôn và tắc đường thở.
LÀM GÌ NẾU CÓ NGƯỜI BỊ SỐC THUỐC?
118 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 26
Nói: Sau đây là các bước cần làm để đặt nạn nhân theo tư thế hồi sức :
1. Đảm bảo không còn dị vật trong miệng nạn nhân (như răng bị gẫy, chất nôn) bằng cách nhìn vào miệng và lấy hết các dị vật đó ra
2. Làm thông thoáng đường thở bằng cách nâng cằm lên cao và ngửa cổ tối đa. Duỗi thẳng hai chân nạn nhân.
3. Ngồi sang bên trái nạn nhân, đặt tay trái của nạn nhân vuông góc với cơ thể nạn nhân
4. Kéo tay phải nạn nhân chéo qua ngực để đưa nạn nhân vào tư thế nằm nghiêng sang trái
5. Kéo chân phải lên, gập đầu gối lại và đặt chéo qua chân trái, cho đầu gối phải chạm đất
6. Gấp tay phải lại sao cho mu bàn tay kê vào má bên trái của nạn nhân
7. Giữ tay ở nguyên tư thế như vậy và lật người nạn nhân nghiêng hẳn về bên trái giữ cho đầu gối chạm đất
8. Giữ cho cổ nạn nhân ngửa về sau để có thể thở dễ dàng
9. Đảm bảo là hông và đầu gối của chân phía trên được đặt đúng vị trí.

Hướng dẫn giảng dạy: Mời một học viên lên để làm mẫu các bước này, sau đó đề nghị học viên chia thành các cặp để thực hành.
TƯ THẾ HỒI SỨC
Chương V – Bài 5.4 119
Bản chiếu 27
Nói: Sau đây là những điều không bao giờ được làm khi cấp cứu cho một người bị sốc quá liều:
Không dìu nạn nhân đi
‚ Có thể làm cho tình hình xấu đi vì nạn nhân có thể bị ngã hoặc bị rơi
‚ Nó cũng có thể làm tăng nhịp tim do vận động khiến thuốc ngấm vào trong máu với tốc độ nhanh hơn.
Không tắm nước lạnh cho nạn nhân
‚ Nếu bạn nghe nói có người nào đó tỉnh lại sau khi được tắm thì đó là do may mắn hoặc do nạn nhân chưa dùng đến liều gây chết. Việc họ tỉnh lại không phải là do họ được tắm.
‚ Đặt nạn nhân vào bồn tắm rất nguy hiểm vì bạn mất thời gian chờ nước chảy vào bồn, và họ có thể chết trong khi bạn đang xả nước. Thậm chí, trước khi bạn đưa nạn nhân vào bồn tắm, họ vẫn còn sống nhưng sau đó họ chết vì bị ngạt nước hoặc bị lạnh.
Không đánh, làm đau hoặc gây bỏng để làm họ tỉnh lại
‚ Bạn cần biết phân biệt xem liệu người đó đang ngủ hay bất tỉnh. Bạn có thể thử bằng cách ấn ngón tay vào hõm ức họ. Nếu làm như vậy mà họ không tỉnh, bạn cần gọi cấp cứu và bắt đầu sơ cứu.
‚ Đánh mạnh hơn cũng không giúp nạn nhân tỉnh lại được, ngược lại còn có thể làm cho họ bị chấn thương nghiêm trọng!
KHÔNG dìu bệnh nhân đi – họ có thể ngã hoặc bị rơi xuống!
KHÔNG
đưa bệnh nhân vào bồn tắm hoặc tắm cho họ – họ có thể chết đuối hoặc chết vì lạnh!
KHÔNG
nên kiểm tra họ có tỉnh không bằng cách làm đau họ.
KHÔNG tiêm chích nước muối, sữa, hoặc những loại ma túy khác (như cocaine hoặc amphetamine).
KHÔNG NÊN LÀM GÌ?
Không tiêm nước muối cho nạn nhân
Một số người có thể đã nhìn thấy bạn bè được truyền nước muối khi cấp cứu trong bệnh viện, và nghĩ rằng đó là cách để cứu sống nạn nhân. Thực tế, truyền nước muối chỉ nhằm giữ cho ven căng lên để có thể tiêm được thuốc vào.
Tiêm nước muối nguy hiểm vì tốn thời gian và có thể làm nạn nhân nhiễm thêm HIV hoặc viêm gan nếu dùng BKT bẩn để tiêm nước muối.

Chương V – Bài 5.4 121
Bản chiếu 28
Có một Kế hoạch xử trí sốc quá liều với bạn cùng chích
Thận trọng nếu mua ma túy từ chỗ mới
Hỏi xung quanh, độ mạnh của ma tuý sẽ khác nhau
Tự pha chế chuẩn bị thuốc – để có thể biết được trong liều đó có lượng ma tuý là bao nhiêu và thành phần của thuốc là gì
Tránh pha trộn heroin với các loại ma túy khác
Tránh tiêm chích một mình
LỜI KHUYÊN ĐỂ DỰ PHÒNG SỐC QUÁ LIỀU
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Bản chiếu 29
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những nội dung chính của bài
Nói: Giảm nguy cơ phù hợp với những kiến thức khoa học hiện tại và đã cho thấy những thành công nổi bật. Ngày càng nhiều nước tiếp nhận các nguyên tắc giảm nguy cơ vì những nguyên tắc này mang tính thực tế, nhân văn, hiệu quả và toàn diện.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài khác, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Giảm nguy cơ là một trong những phương pháp và khung giải quyết những vấn đề của người tiêm chích ma túy
Các nguyên tắc giảm nguy cơ đã được áp dụng tại một số quốc gia. Những nguyên tắc đó thể hiện tính:
º Thực tế
º Nhân văn
º Hiệu quả
º Toàn diện
Giảm nguy cơ là một phương pháp y tế công cộng nhằm hỗ trợ kiểm soát tình trạng nhiễm HIV trong nhóm người TCMT
KẾT LUẬN
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
124 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
giải thích từ ngữ 125 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
126 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
giải thích từ ngữ 127 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
128 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
giải thích từ ngữ 129 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
130 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 6

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 6

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
Bài 6.1: Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Bài 6.2: Kỹ năng từ chối
Bài 6.3: Đối phó với cơn thèm nhớ
Bài 6.4: Quản lí căng thẳng
Bài 6.5: Quản lí thời gian
6.1 Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên về dự phòng tái nghiện.
II. Thảo luận nhóm lớn 20 phút
Dẫn dắt một cuộc thảo luận nhóm lớn về những lí do chính khiến người ta tái nghiện.
III. Thuyết trình 70 phút
Trình bày các bản chiếu PowerPoint về liệu pháp dự phòng tái nghiện.
IV. Kết luận 8 phút
Nhắc lại những điểm chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.1: Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được các biện pháp dự phòng tái nghiện cho khách hàng phục hồi sau cai nghiện.
Thời gian: 100 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài này, học viên sẽ có thể:
‚ Xác định được những nguyên nhân dẫn đến tái nghiện
‚ Giải thích được Mô hình tái nghiện
‚ Xác định những tình huống nguy cơ cao trong khi thảo luận với khách hàng
‚ Hiểu được các chiến lược để đối phó với các tình huống nguy cơ cao
‚ Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện chung
‚ Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện cụ thể
Phương pháp:
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thuyết trình
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương VI – Bài 6.1 5
Bản chiếu 1
LIỆU PHÁP DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Nói: Trong bài này chúng ta sẽ thảo luận nhiều nội dung khác nhau về liệu pháp dự phòng tái nghiện (DPTN). Trước khi bắt đầu, tôi đề nghị các bạn suy nghĩ về những lí do khiến người sau cai tái nghiện?
Hướng dẫn giảng dạy: Dẫn dắt một buổi thảo luận nhóm lớn kéo dài 20 phút, ghi chép câu trả lời của học viên trên giấy khổ lớn.
6 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Xác định được những nguyên nhân dẫn đến tái nghiện
Giải thích được Mô hình tái nghiện
Xác định những tình huống nguy cơ cao trong khi thảo luận với khách hàng
Hiểu được các chiến lược để đối phó với các tình huống nguy cơ cao
Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện chung
Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện cụ thể
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Nói: Chúng ta có thể nhóm các nguyên nhân khiến khách hàng tái nghiện thành hai nhóm, đó là: nhóm nguyên nhân cá nhân và nhóm nguyên nhân do quan hệ cá nhân/xã hội. Nhóm đầu tiên có thể xuất hiện mỗi khi khách hàng tái sử dụng (trượt) và nó thường liên quan đến việc phải chống chọi với những sự kiện quan trọng về tâm lí và thể chất (ví dụ: đối phó với cảm xúc tiêu cực, rơi vào trạng thái thèm muốn “nội tâm”, do các triệu chứng cắt cơn,...), hoặc muốn kiểm tra xem mình còn lệ thuộc vào ma túy nữa hay không. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là những sự kiện này có thể không phải là nguyên nhân quan trọng đối với người khác hoặc nhóm người khác.
Trong nhóm nguyên nhân thứ hai, khách hàng tái sử dụng là do những ảnh hưởng từ những người khác (như mâu thuẫn cá nhân, áp lực xã hội).

Hướng dẫn giảng dạy: Quay lại danh sách những lí do tái nghiện (kết quả thảo luận nhóm) và yêu cầu học viên chia chúng thành 2 nhóm: a) các nguyên nhân cá nhân và b) các nguyên nhân quan hệ cá nhân/xã hội. Dành 5 phút cho hoạt động này.
Nói: Các bạn đã đưa ra được một danh sách đầy đủ những nguyên nhân tái nghiện và bây giờ chúng ta sẽ phân loại thành 2 nhóm: nguyên nhân liên quan đến cá nhân và nguyên nhân liên quan đến quan hệ với người khác/cộng đồng. Khi bạn thảo luận với khách hàng, bạn sẽ hiểu được có nhiều điều (thuộc về cá nhân hoặc quan hệ cá nhân/xã hội) có thể là yếu tố thúc đẩy họ tái sử dụng ma túy. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về một số yếu tố này.
Bản chiếu 3
Đánh giá các tình huống nguy cơ cao và nguyên nhân tái nghiện của khách hàng theo các nhóm sau:
Cá nhân
Quan hệ cá nhân/xã hội
CÁC BƯỚC DPTN CƠ BẢN
8 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Hãy nói kĩ hơn về các nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân thứ nhất bao gồm những yếu tố liên quan chủ yếu đến cá nhân (bên trong con người), và/hoặc những phản ứng đối với những sự kiện trong môi trường không liên quan đến con người. Nó có thể là phản ứng trước những sự kiện giữa con người và con người trong quá khứ (nghĩa là mối quan hệ tương tác ấy không còn có tác động quan trọng nào). Hãy thảo luận về một số yếu tố đó.
Đối phó với trạng thái cảm xúc tiêu cực. Những yếu tố này liên quan đến việc đối phó với trạng thái cảm xúc, tâm trạng hoặc cảm giác tiêu cực (không thoải mái).
Thông tin tham khảo:
(1) Đối phó với sự thất vọng và/hoặc tức giận. Những yếu tố này có liên quan đến sự thất vọng - một phản ứng trước những điều khiến họ bế tắc, bị gò ép theo mục tiêu - và/hoặc tức giận (gồm thái độ thù địch hoặc hung hăng) đối với cá nhân họ hoặc một yếu tố môi trường không liên quan đến con người. Những yếu tố môi trường này bao gồm cảm giác tội lỗi và phản ứng chống đối lại những đòi hỏi ("cãi lại") xuất phát từ môi trường hoặc từ chính cá nhân họ, mà dễ tạo ra cảm xúc tức giận.
(2) Đối phó với các trạng thái cảm xúc tiêu cực khác. Đây là những trạng thái cảm xúc khác mang lại sự không hài lòng hoặc đối kháng (ngoài thất vọng/ tức giận), bao gồm sợ hãi, lo âu, căng thẳng, trầm cảm, cô đơn, buồn bã, chán nản, lo lắng, thương tiếc, đau khổ, mất mát và những cảm xúc khó chịu tương tự.
Nói: Chịu đựng trạng thái thể chất - sinh lí tiêu cực. Các yếu tố này liên quan đến phản ứng không thoải mái hoặc đau đớn về sinh lí hoặc thể chất.
Khách hàng có thể tái nghiện do:
Đối phó với trạng thái cảm xúc tiêu cực:
thất vọng, tức giận, sợ hãi, lo âu, căng thẳng, trầm cảm, cô đơn, buồn chán, lo lắng, đau khổ và mất mát
Chịu đựng trạng thái thể chất – sinh lí tiêu cực: cơn thèm nhớ, các triệu chứng cai
Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực: tăng cảm xúc thoải mái, hài lòng, phấn khởi, v.v...
NGUYÊN NHÂN CÁ NHÂN DẪN ĐẾN TÁI NGHIỆN (1)
Thông tin tham khảo:
(1) Chịu đựng trạng thái thể chất liên quan đến quá khứ sử dụng ma túy. Chịu đựng trạng thái thể chất liên quan chặt chẽ với việc sử dụng ma túy hoặc chất gây nghiện trước đây như "sự đau đớn trong khi cắt cơn" hoặc "sự thèm nhớ" liên quan đến quá trình cắt cơn.
(2) Chịu đựng những trạng thái tiêu cực khác về thể chất. Chịu đựng các cơn đau, bệnh tật, chấn thương, mệt mỏi và các rối loạn khác (như đau đầu) không liên quan đến việc sử dụng ma túy trước đây.
Nói: Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực. Sử dụng ma tuý nhằm tăng cảm giác hài lòng, phấn khởi,... kể cả khi sử dụng ma túy chỉ với tác động tích cực của chúng là "để phê" hoặc chỉ để thử mức độ tác động mạnh hơn của ma túy.
10 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Nói: Hơn nữa, khách hàng có thể dùng lại ma túy để kiểm tra khả năng kiềm chế bản thân. Nghĩa là họ sử dụng ma tuý để “kiểm tra” xem mình có khả năng sử dụng ma túy có kiểm soát hoặc có điều độ hay không; để "thử một lần xem thế nào"; hoặc có thể khách hàng muốn kiểm tra hiệu quả điều trị hoặc kiểm tra mức độ cam kết kiêng sử dụng ma túy của mình (kiểm định "sức mạnh ý chí").
Khi người ta bắt đầu sử dụng ma túy, họ cảm thấy họ có thể kiểm soát được ma túy. Tuy nhiên, khi đã nghiện ma túy, con người mất đi khả năng kiểm soát việc sử dụng ma túy của họ. Thông thường, khi người ta mới thoát khỏi ma túy trong một khoảng thời gian ngắn, họ rất muốn kiểm tra xem họ đã thực sự kiểm soát được việc sử dụng ma túy như trước kia hay chưa.

Kiểm tra khả năng cá nhân: Sử dụng ma tuý để kiểm tra khả năng sử dụng ma tuý có kiểm soát hoặc có điều độ hoặc kiểm định sức mạnh ý chí.
NGUYÊN NHÂN CÁ NHÂN DẪN ĐẾN TÁI NGHIỆN (2)
Bản chiếu 6
Nói: Nhóm nguyên nhân thứ hai bao gồm các yếu tố mà chúng chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người. Ví dụ về những nguyên nhân đó là những quan hệ tương tác hiện tại hoặc gần đây với một hay một số người có ảnh hưởng tới người SDMT (những phản ứng trước các sự kiện xảy ra trong quá khứ xa được xếp vào nhóm nguyên nhân số 1). Nếu sự xuất hiện của người khác xảy ra vào thời điểm khách hàng tái nghiện thì điều đó cũng không được xếp vào nhóm nguyên nhân quan hệ cá nhân trừ khi khách hàng cho rằng sự xuất hiện của người đó gây ra những ảnh hưởng hoặc họ trực tiếp tham gia vào các sự kiện gây ảnh hưởng với khách hàng.
Đối phó với những mâu thuẫn cá nhân. Đối phó với những mâu thuẫn hiện tại hoặc gần đây trong các mối quan hệ cá nhân như hôn nhân, tình bạn, gia đình và quan hệ người làm thuê với chủ lao động.
Áp lực xã hội. Những yếu tố này liên quan đến phản ứng của khách hàng trước những ảnh hưởng của một người hoặc nhóm người khác tạo áp lực (trực tiếp hoặc gián tiếp) với khách hàng khiến họ phải sử dụng ma túy.
Thông tin tham khảo:
(1) Áp lực xã hội trực tiếp. Đây là những mối quan hệ trực tiếp (thường có sự tương tác bằng lời nói) với một người hoặc một nhóm người - những người này gây áp lực đối với khách hàng hoặc cung cấp ma túy cho khách hàng (ví dụ: được người khác mời sử dụng ma túy, hoặc bị người khác ép phải sử dụng ma túy). Cần phân biệt tình huống này với tình huống khách hàng nhờ người khác mua hộ ma túy (trường hợp này, khách hàng đã muốn sử dụng ma túy).
(2) Áp lực xã hội gián tiếp. Phản ứng khi nhìn thấy một người hoặc một nhóm người đang sử dụng ma túy hoặc làm mẫu về việc sử dụng ma túy cho họ trước mặt họ.
Đối phó với những mâu thuẫn cá nhân: giải quyết các vấn đề nẩy sinh do tranh cãi, ghen tức, chống đối, v.v…
Áp lực xã hội: Ảnh hưởng của người hoặc nhóm người khác tạo áp lực xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp khiến một người phải sử dụng ma tuý
Tăng cường các trạng thái cảm xúc tích cực: sử dụng ma tuý trong tình huống cá nhân nhằm tăng cảm giác thoải mái, khoái cảm tình dục, tự do…
NGUYÊN NHÂN TÁI NGHIỆN THUỘC VỀ QUAN HỆ VỚI NGƯỜI KHÁC/XÃ HỘI
Nói: Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực. Sử dụng ma tuý trong tình huống quan hệ cá nhân nhằm tăng cảm giác thỏa mãn, phấn khởi, khoái cảm tình dục, tự do và các cảm xúc có liên quan.
Bản chiếu 7
Nói: Dự phòng tái nghiện là thành phần vô cùng quan trọng trong quá trình hồi phục sau cai nghiện. Sau khi khách hàng đã chuyển sang giai đoạn tương đối ổn định, họ cần xây dựng ngay những kĩ năng dự phòng tái nghiện trong tương lai. Khách hàng cần học cách xác định những nguyên nhân gây ra tái nghiện và kiểm soát chúng mà không tái sử dụng heroin hay các loại ma túy khác.
Dự phòng tái nghiện bao gồm dạy khách hàng nhận biết trước khi nào thì họ đang có xu hướng tái nghiện để có thể quay ngược lại. Quá trình tái nghiện không phải chỉ bắt đầu khi khách hàng bắt đầu sử dụng lại ma túy - nó là cả một quá trình dài được bắt đầu từ trước đó. Nếu được giáo dục thì khách hàng có thể nhận biết dễ dàng những dấu hiệu cảnh báo/yếu tố cám dỗ dẫn tới tái nghiện. Các dấu hiệu cảnh báo/yếu tố cám dỗ này là những trạng thái cảm xúc, cảm giác và hành vi tiêu cực. Thông thường, khách hàng có thể nhận biết những ví dụ về những thay đổi tiêu cực này trong cuộc đời họ và, vì vậy, họ có thể hiểu được quá trình tái nghiện xảy ra như thế nào.
Các bạn có tin không, người ta hoàn toàn có thể giúp một người tái sử dụng một lần không bị tái nghiện hoàn toàn. Bạn phải cùng với khách hàng xây dựng các chiến lược hành vi và/hoặc nhận thức để nhận biết và dự phòng thói quen cũ. Các chiến lược này có thể bao gồm thường xuyên tham dự các cuộc họp hỗ trợ đồng đẳng, chỉ dành thời gian với những người hỗ trợ bạn phục hồi, duy trì cuộc sống ổn định, tránh hoặc đối phó với những yếu tố cám dỗ bên ngoài, như tránh đến chơi nhà hàng xóm nơi mình vẫn mua ma túy trước đây.
Kết quả điều trị cho thấy nhiều người tái sử dụng nhưng không phải ai cũng sử dụng lại nhiều như trước khi cai. Trước đây nhiều người nghĩ rằng chỉ cần sử dụng lại một lần thì có nghĩa là đã tái nghiện hoàn toàn. Chúng ta biết rằng hiểu như vậy là không đúng.
Chúng ta có thể xác định rằng khoảng 90% những người cai nghiện trong trung tâm cai nghiện (trung tâm 06) sẽ sử dụng lại heroin trong vòng 1 năm kể từ thời điểm ra khỏi trung tâm. Tuy nhiên, chỉ có 60% trong số này là sẽ quay trở lại sử dụng với cường độ sử dụng như trước đây.

Quan niệm trước đây: tái nghiện heroin là do cơn thèm nhớ quá mạnh, tiếp tục sử dụng là do người ta mất khả năng kiểm soát.
- Đến nay, chúng ta biết là sự việc phức tạp hơn như vậy 90% tái sử dụng ma túy trong vòng 1 năm sau khi điều trị cai nghiện
- Nhưng chỉ có 60% tái sử dụng với cường độ như thời điểm trước khi điều trị
TÁI NGHIỆN
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Chúng ta sẽ thảo luận những cách để có thể giúp họ, kể cả những người mới lỡ sử dụng một vài lần và những người đã tái nghiện hoàn toàn, để họ có thể lấy lại được khả năng kiểm soát.
Chương Vi – Bài 6.1 15
Bản chiếu 8
Nói: Những nội dung trên đây rất hữu ích khi chúng ta bắt đầu câu chuyện với khách hàng. Những nội dung này hình thành nên một bộ khung giúp chúng ta xác định những vấn đề khó khăn có thể xảy ra trong khi khách hàng cố gắng đối phó với nguy cơ tái nghiện. Nó cũng tạo ra một mô hình lí thuyết về tái nghiện để chúng ta có thể thảo luận với khách hàng.
Phân biệt sự khác nhau giữa vấp, trượt và ngã (tái nghiện)
Nếu một người nghiện heroin ngừng sử dụng heroin nhưng sau đó anh ta muốn thử lại. Anh ta chỉ dùng lại 1 lần. Liệu có chắc chắn là anh ta sẽ nghiện heroin trở lại như trước đây hay không? Ai trong chúng ta tin rằng chắc chắn họ sẽ nghiện heroin trở lại như trước đây?
Thông tin tham khảo: Điều quan trọng là cần giải thích rằng mặc dù nghiện heroin là một rối loạn mạn tính nhưng điều đó không có nghĩa là nếu họ chỉ dùng lại một lần thì đương nhiên họ sẽ tái nghiện heroin.
Nói: Ai trong chúng ta biết về sự khác biệt giữa vấp, trượt và ngã?
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên động não trong vài phút để lấy ý kiến.
Nói: Vấp là khi người ta phạm phải một lỗi nhỏ và sau đó nhận ra: “Ồ, mình đã phạm phải sai lầm” và ngay lập tức họ lấy lại được khả năng kiểm soát, không tiếp tục sử dụng nữa. Họ có thể suy nghĩ về những điểm có lợi và cái giá phải trả của việc họ vừa mới làm. Họ có thể nghĩ: “Tại sao mình lại làm điều đó nhỉ? Tôi sẽ mất tất cả những điều quý giá này nếu tôi sử dụng lại.”
Khi trượt, họ phải mất nhiều thời gian hơn mới có thể kiểm soát trở lại được. Có thể họ sẽ tiếp tục sử dụng ma túy một vài lần, sau đó quyết định là không nên như vậy và không dùng nữa.

Cần phân biệt rõ vấp, trượt, ngã/tái nghiện
Xác định những tình huống nguy cơ cao
- Những yếu tố cám dỗ bên trong và bên ngoài
Thảo luận:
- Những quyết định tưởng như không liên quan
- Hiệu ứng vi phạm kiêng khem
Đối phó với những tình huống nguy cơ cao
- Các kĩ năng và tự động viên
Cần chú trọng đến sự tự tin và năng lực quyết định dừng sử dụng ma túy của khách hàng
CÁC BƯỚC DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Bản chiếu 8 (tiếp)
Khi tái nghiện, giống như khi bị ngã, họ nghĩ: “Ôi, thế là mình không còn kiểm soát được mình nữa”, rồi họ tiếp tục sử dụng ma túy và quay lại với cường độ sử dụng như trước đây. Nhiều khách hàng không biết rằng hành vi sử dụng ma túy của họ trong quá trình hồi phục có thể được phân thành 3 loại như trên. Sử dụng lại heroin một lần chưa có nghĩa là họ đã nghiện lại. Lưu ý rằng, đối với bất cứ cá nhân nào, chúng ta cũng không thể khẳng định người đó sẽ tái nghiện hay không sau khi họ đã thử lại một lần. Họ có nghiện lại hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Chúng ta có thể học hỏi từ những yếu tố đó. Khi họ bị vấp, họ có thể học từ việc bị vấp để dự phòng tái nghiện. Bạn cũng có thể sử dụng điều đó để thảo luận với khách hàng về dự phòng tái nghiện.
Xác định các tình huống nguy cơ cao
Các tình huống nguy cơ cao có thể là những yếu tố cám dỗ nội tâm hoặc ngoại cảnh, hoặc cả hai. Các chiến lược dự phòng tái nghiện cần phải phù hợp với các tình huống cụ thể của từng khách hàng để giảm nguy cơ cho họ. Cần xóa bỏ những hiểu biết không đúng về những hệ quả tích cực của việc sử dụng lại ma túy. Những mong đợi sai lầm này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tái nghiện. Nhiều khách hàng tán dương trải nghiệm sử dụng ma túy của họ và chỉ tập trung vào những kết quả tích cực như cảm giác phê, sung sướng phấn khích, tác dụng giảm đau và thư giãn. Đồng thời, họ có thể không thừa nhận hoặc xem nhẹ những hậu quả của sử dụng ma túy (ví dụ như đau đầu, mỏi mệt, nguy cơ đối với sức khỏe, và những hậu quả liên quan đến luật pháp). Điều quan trọng mà họ cần hiểu được đó là một khi họ đã lệ thuộc vào ma túy hay là “nô lệ” cho ma túy, họ sẽ không bao giờ có thể quay lại làm “ông chủ” của ma túy được nữa.
Thảo luận về những quyết định tưởng chừng không liên quan
Đôi khi người ta đi đến một quyết định mà dường như quyết định đó đến với họ một cách ngẫu nhiên. Họ không ý thức được rằng những quyết định tưởng như vô hại của họ lại có thể đẩy họ đến những quyết định khác có hại hơn. Ví dụ, họ có thể chỉ định đi mua cà phê ở một quán cà phê gần nhà. Tại quán cà phê đó, họ gặp lại bạn bè cũ, đám bạn đang dùng ma túy và họ cùng sử dụng. Rõ ràng là khách hàng không hề có ý định sử dụng, họ không hề nghĩ đến hậu quả của việc đi đến quán cà phê. Vì thế, tư vấn viên cần giúp họ hiểu rằng ngay cả những quyết định tưởng như hoàn toàn không liên quan cũng có thể dẫn đến những hậu quả có hại.
Thảo luận về hiệu ứng vi phạm kiêng khem
Hiệu ứng vi phạm kiêng khem xảy ra khi một cá nhân sau khi đã cam kết cai nghiện, lại vấp và sau đó tiếp tục sử dụng ma túy đến mức không kiểm soát được. Họ nghĩ: “Mình đã dùng lại một lần rồi thì không có cách nào có thể kiểm soát được nữa. Vậy cho nên tốt nhất là mình quay lại với ma túy và không chiến đấu với nó nữa.” Đương nhiên là khách hàng CÓ THỂ kiểm soát được việc sử dụng ma túy của họ và bạn cần giúp họ hiểu điều này trong quá trình hồi phục.
Đối phó với các tình huống nguy cơ cao
Tái nghiện cần phải được hiểu như là một phần tự nhiên của quá trình thay đổi hay là một cơ hội để học hỏi. Thay vì dựa vào sức mạnh ý chí của khách hàng, hướng dẫn dự phòng tái nghiện cần tập trung vào sức mạnh kĩ năng. Hướng dẫn dự phòng tái nghiện có thể cung cấp các kĩ năng cụ thể giúp khách hàng sau cai đối phó với từng tình huống nguy cơ cụ thể. Bạn cũng cần giúp khách hàng thêm tự tin vào khả năng của bản thân. Sự tự tin vào khả năng của bản thân được định nghĩa là mức độ mà một người nào đó cảm thấy họ có đủ khả năng thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Mức độ tự tin vào khả năng của bản thân cao là yếu tố dự báo kết quả điều trị tốt hơn.
Chú trọng đến sự tự tin và năng lực quyết định dừng sử dụng ma túy
Chúng ta cần giúp khách hàng xây dựng sự tự tin và năng lực để kiêng sử dụng ma túy bằng cách thảo luận về những lợi ích và cái giá phải trả của việc không sử dụng ma túy so sánh với lợi ích và hậu quả của việc sử dụng ma túy. Chúng ta cần chú ý đặc biệt đến lợi ích và cái giá phải trả về lâu dài, đặc biệt là lợi ích lâu dài của việc không sử dụng ma túy, bởi vì người sử dụng ma túy thường không nghĩ xa đến như vậy. Chúng ta cũng cần phải đánh giá mức độ tự tin trong quyết định của họ và sử dụng thông tin này để quyết định các chiến lược và kĩ năng phù hợp với khách hàng.
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị dự phòng tái nghiện. Các đặc điểm cá nhân bao gồm mức độ tự tin vào bản thân và mất khả năng kiểm soát. Khách hàng nữ có thể có những nhu cầu hoặc hoàn cảnh khác phức tạp hơn. Các bạn có thể nêu thêm các ví dụ khác được không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành vài phút để học viên trả lời câu hỏi
Nói: Như đã trình bày trong bản chiếu trước, mức độ tự tin vào bản thân là yếu tố dự báo kết quả điều trị dự phòng tái nghiện.
Các yếu tố liên quan đến tiền sử sử dụng ma túy, bao gồm mức độ nghiện và suy giảm nhận thức cũng có tầm quan trọng tương tự. Mức độ nghiện càng nặng thì xác suất thành công càng thấp.
Những khách hàng có khả năng nhận thức kém khó có thể tiếp thu nổi hướng dẫn dự phòng tái nghiện. Hơn nữa, lối sống của khách hàng cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Những người có lối sống lành mạnh hơn (tập thể dục thường xuyên, thói quen ăn uống tốt, sở thích tích cực...) thường thành công hơn.
Một lần nữa, môi trường trong đó khách hàng hồi phục sau điều trị cũng rất quan trọng. Hãy nhớ lại tầm quan trọng của sự tương tác giữa ba yếu tố Ma túy-Con người-và Môi trường.

Đặc điểm cá nhân
- Giới, mức độ tự tin vào bản thân, mất kiểm soát
Yếu tố sử dụng ma túy
- Nghiện, suy giảm nhận thức
Lối sống
Môi trường
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KẾT QUẢ
Chương Vi – Bài 6.1 19
Bản chiếu 10
Nói: Giúp khách hàng tìm ra những yếu tố nguy cơ và nguyên nhân tái nghiện, không chỉ là những nguyên nhân bên trong mà còn cả các mối quan hệ và/hoặc môi trường, rồi sau đó cùng với khách hàng lập các chiến lược dự phòng tái sử dụng.
Đôi khi người ta quên những tiểu tiết của các yếu tố nguy cơ. Ví dụ: cần phải hỏi họ xem khi nào thì họ thèm nhớ, yêu cầu họ ghi lại lúc đó họ ở đâu, họ đang làm gì, bên cạnh họ có những ai, và những hoàn cảnh khác. Làm như vậy sẽ tăng thêm tính cụ thể khi bạn trao đổi với khách hàng.
Cũng cần phải xem xét những sự kiện có thể là những yếu tố nguy cơ phổ biến. Đó có thể là lễ kỷ niệm một sự kiện vui hay sự kiện buồn, ví dụ như ngày chia tay người yêu hoặc ngày người thân mất, hay sinh nhật.

Yêu cầu khách hàng theo dõi và ghi lại những tình huống mà họ cảm thấy muốn sử dụng ma túy
Thăm dò các tình huống tiềm tàng có thể gây tái nghiện - bao gồm những sự kiện buồn hoặc sự kiện vui
XÁC ĐỊNH NHỮNG TÌNH HUỐNG NGUY CƠ CAO
20 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Trên đây là những loại câu hỏi mà bạn có thể sử dụng để làm rõ những tình huống nguy cơ:
‚ Khi gặp người như thế nào, nơi nào hoặc điều gì khiến bạn khó có thể cảm thấy thoải mái?
‚ Những tình huống nào bạn cảm thấy có nguy cơ cao dùng lại ma túy?
‚ Làm thế nào bạn biết được một cú vấp có thể xảy ra với bạn?
‚ Những cảm xúc nào khiến bạn cảm thấy khó kiểm soát ham muốn sử dụng ma túy?
Khi gặp người như thế nào, nơi nào hoặc điều gì khiến bạn khó cảm thấy thoải mái?
Những tình huống nào bạn cảm thấy có nguy cơ cao tái sử dụng ma túy?
Làm thế nào bạn biết được một cú vấp có thể xảy ra với bạn?
Những ý nghĩ nào thúc đẩy bạn muốn sử dụng lại ma túy?
ĐẶT CÁC CÂU HỎI NHƯ:
Chương Vi – Bài 6.1 21
Bản chiếu 12
Nói: Mục đích ở đây là xác định những tình huống nguy cơ cao để xây dựng các chiến lược cụ thể và các cơ chế đối phó. Đồng thời tư vấn viên cũng nên trao đổi với khách hàng về cảm giác của họ sau mỗi lần “trượt” vì làm như vậy sẽ giúp xác định được mức độ cam kết của họ trong việc giành lại khả năng kiểm soát.
Đôi khi “trượt” xảy ra khi ở trong một tình huống cụ thể và không dẫn tới tái nghiện hoàn toàn. Tình huống đó có thể là lễ kỉ niệm một sự kiện đặc biệt trong đời. Giúp khách hàng phân biệt rõ ràng tình huống nào là tình huống có thể dẫn đến “vấp”, “trượt” và tái nghiện sẽ giúp cho khách hàng cam kết hơn trong việc duy trì không sử dụng ma túy.

Những tình huống cụ thể nào thôi thúc khách hàng sử dụng ma túy?
Những can thiệp nào có thể giúp khách hàng đối phó với các tình huống nguy cơ cao?
Khách hàng có cảm giác như thế nào về sử dụng ma túy sau khi tái nghiện?
Liệu những nguyên nhân dẫn đến vấp hoặc trượt có giống như nguyên nhân làm khách hàng tái nghiện hoàn toàn không?
QUY TRÌNH DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN CƠ BẢN
22 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13
Nói: Giúp khách hàng nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo tái nghiện là rất quan trọng. Tư vấn viên nên cùng với khách hàng thảo luận về những dấu hiệu đó để khách hàng có thể theo dõi được chúng. Khách hàng có thể cam kết lại việc thực hiện từ bỏ ma túy bằng cách tăng cường tham dự các cuộc họp nhóm tự lực, chuyển đến một nơi ở mới không có ma túy, hoặc thực hiện những hành động tích cực để giải quyết các vấn đề về quan hệ, cá nhân hay công việc.
Hãy nhớ là không ai lường trước được điều gì sẽ xảy ra trong cuộc sống nên bạn cũng không thể luôn tiên đoán được những điều gì sẽ xảy ra với khách hàng của bạn. Vì vậy, chúng ta nên hướng dẫn những kĩ năng cần thiết cho mọi khách hàng.
Cụm từ “kĩ năng từ chối” và “đối phó với cơn thèm nhớ” được bôi đỏ ở trên bản chiếu vì chúng là những kĩ năng quan trọng và hiệu quả nhất để chống tái nghiện. Chúng ta sẽ có hai bài riêng về hai nội dung này.

Cân nhắc danh mục các tình huống nguy cơ cao đã xác định
Cân nhắc những kĩ năng, kĩ thuật họ đã sử dụng trước đây và quyết định những kĩ năng, kĩ thuật thích hợp nhất. - có thể bao gồm kĩ năng từ chối, đối phó với cơn thèm nhớ, gạt bỏ những ý nghĩ bất lợi hoặc thư giãn v.v…
Tìm ra những kĩ năng và kĩ thuật mới mà có thể hữu ích
Không phải tất cả các tình huống đều có thể dự đoán được - cần nghĩ đến các kĩ năng đối phó nói chung
CHUẨN BỊ ĐỐI MẶT VỚI TÌNH HUỐNG NGUY CƠ CAO
Chương Vi – Bài 6.1 23
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để làm rõ nội dung trên bản chiếu.
Thông tin tham khảo: Kĩ thuật đánh giá dự phòng tái nghiện và các chiến lược can thiệp đều nhằm hướng dẫn khách hàng tiên liệu và đối phó được với khả năng tái nghiện. Ngay khi bắt đầu hướng dẫn DPTN, khách hàng được hướng dẫn cách nhận biết và đối phó với các tình huống nguy cơ cao thúc đẩy họ sử dụng lại ma túy, và điều chỉnh suy nghĩ và hành vi nhằm ngăn chặn chuyển từ một lần tái sử dụng thành tái nghiện thực sự. Do quy trình này tập trung vào những yếu tố thúc đẩy trực tiếp quá trình tái nghiện nên nó được đề cập đến như là các chiến lược can thiệp DPTN cụ thể.
Khi khách hàng thành thục các kĩ thuật này rồi thì có thể phát triển thêm những phân tích sâu hơn về quá trình tái nghiện và tái sử dụng, bao gồm các chiến lược nhằm thay đổi lối sống của khách hàng cũng như để xác định và đối phó với những yếu tố gây tái nghiện (dấu hiệu cảnh báo sớm, suy giảm nhận thức, v.v…). Khi được tập hợp lại, những quy trình này được gọi là Các chiến lược can thiệp DPTN chung.
Can thiệp dự phòng tái nghiện chung
Đào tạo khách hàng về các kĩ năng hành vi và các chiến lược nhận thức để đối phó với các tình huống nguy cơ cao và việc tái sử dụng một vài lần là rất quan trọng. Những kĩ thuật này có thể là trọng tâm chính của những nỗ lực nhằm kiêng và duy trì kiêng sử dụng heroin trong khoảng thời gian đầu giai đoạn duy trì của tiến trình điều trị. Tuy nhiên, nếu chỉ dạy khách hàng đối phó với tình huống nguy cơ cao khi chúng lần lượt xuất hiện thì không đủ để tạo ra thành công dài hạn. Tư vấn viên và khách hàng không thể xác định được hết tất cả những tình huống nguy cơ cao mà khách hàng có thể phải đối mặt. Vì vậy, cần thực hiện một số hoạt động sau:
Bản chiếu 14
Tăng khả năng cân bằng trong lối sống
Nâng cao nhận thức về những dấu hiệu cảnh báo nguy cơ tái nghiện
- Phân tích những ‘lối mòn’ dẫn đến tái nghiện (tình huống nguy cơ cao và những lựa chọn)
Đối phó với sự biện hộ và chối bỏ
Quản lý căng thẳng
Đánh giá động cơ thay đổi
CÁC CAN THIỆP DPTN CHUNG
24 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14 (tiếp)
(1) Giúp khách hàng xây dựng một lối sống cân bằng hơn để nâng cao năng lực chung của họ trong việc đối phó với trạng thái căng thẳng và giúp họ tăng dần sự tự tin vào năng lực bản thân.
(2) Hướng dẫn khách hàng cách xác định và tiên liệu được những dấu hiệu cảnh báo sớm trước khi rơi vào tình huống nguy cơ cao và thực hiện các chiến lược tự kiềm chế nhằm giảm khả năng xảy ra tái sử dụng hoặc tái nghiện.
(3) Đối phó với sự biện hộ và chối bỏ. Ngoài sự thèm nhớ, những nguyên nhân sâu sa khiến tái nghiện còn bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố cấu thành nhận thức: sự biện hộ, chối bỏ, và những quyết định không liên quan. Những yếu tố này liên quan đến chuỗi những sự kiện xảy ra trước khi rơi vào tình huống nguy cơ cao. Sự biện hộ là một lời giải thích hoặc một lí do đưa ra để hợp lí hóa việc thực hiện vào một hành vi cụ thể nào đó. Sự biện hộ được sử dụng nhằm cho phép một cá nhân nào đó tiếp cận với một tình huống hoặc có một hành vi mà không phải thừa nhận với chính họ hay người khác về mục đích thật sự hay dự định của họ. Cá nhân đó hành động sai lầm nhưng họ viện dẫn những động cơ đáng tin cậy là nguyên nhân thực hiện hành vi đó mà không chú ý hoặc không tin vào những lí do “thực” khiến họ thực hiện hành vi đó. Sự chối bỏ cũng là một cơ chế tự vệ tương tự mà trong đó cá nhân không chịu thừa nhận một số khía cạnh trong động cơ, quyết định của họ, hoặc những đặc điểm của một tình huống hay một loạt các sự kiện. Người đó thường phủ nhận sự tồn tại của mọi động cơ khiến họ dễ bị tái nghiện và cũng có thể phủ nhận cả sự nhận thức về hậu quả của việc quay lại thói quen sử dụng ma túy. Thỉnh thoảng họ phủ nhận cả nguy cơ tái nghiện.
(4) Giúp khách hàng quản lí căng thẳng. Ngoài việc hướng dẫn khách hàng đáp ứng hiệu quả với những tình huống nguy cơ cao thì cũng cần hướng dẫn họ về cách thư giãn cũng như giảm bớt căng thẳng để nâng cao năng lực chung của khách hàng trong đối phó với căng thẳng. Hướng dẫn cách thư giãn có thể giúp khách hàng tăng khả năng tự kiểm soát, từ đó giảm bớt các yếu tố gây căng thẳng mà họ phải đối mặt. Những cách đó có thể là thả lỏng hoàn toàn các cơ của cơ thể, ngồi thiền, tập thể dục, và nhiều kĩ thuật giảm bớt căng thẳng khác giúp khách hàng đối phó hiệu quả hơn với những đòi hỏi trong cuộc sống hàng ngày.
(5) Đánh giá động cơ thay đổi. Do việc sử dụng ma túy là một quá trình có tính lặp lại nên hầu hết mọi người không thể thành công hoàn toàn sau lần thay đổi đầu tiên. Bài học rút ra từ mỗi lần tái sử dụng, tái nghiện có thể giúp khách hàng tiến gần hơn đến việc duy trì thành công nếu chúng được coi như là những cơ hội để học hỏi thay vì là những thất bại. Như đã thảo luận trong chương 4, Prochaska và DiClemente (1984) đã mô tả tái nghiện trong một mô hình gồm 6 giai đoạn: tiền dự định, dự định, chuẩn bị, hành động, duy trì và tái nghiện. Những giai đoạn thay đổi này đã được áp dụng thành công trong tìm hiểu động cơ của khách hàng khi tham gia điều trị nghiện (DiClemente & Hughes, 1990). Động cơ thay đổi có sự liên quan chặt chẽ với kết quả điều trị và tái nghiện (Xem chương 4 - Phỏng vấn tạo động lực).
Chương Vi – Bài 6.1 25
Nói: Có một số liệu pháp can thiệp DPTN cụ thể có thể giúp khách hàng dự phòng tái sử dụng và/hoặc dự phòng chuyển từ tái sử dụng sang tái nghiện hoàn toàn. Giúp khách hàng đối phó với cơn thèm nhớ
Vì thèm nhớ là một vấn đề rất khó khăn đối với nhiều người sử dụng heroin nên chủ đề này cần được bàn đến rất sớm trong quá trình điều trị. Những cơn thèm nhớ mạnh mẽ thường xuất hiện trong một vài tuần, thậm chí một vài tháng sau khi từ bỏ ma túy hoàn toàn. Chịu đựng thèm nhớ có thể là rất khó chịu đối với khách hàng và có thể dẫn đến tái sử dụng heroin nếu nó không được hiểu và giải quyết hiệu quả.
Đánh giá tiền sử sử dụng ma túy
Lí do chính mà khách hàng tìm đến dịch vụ của bạn có thể không phải là họ muốn từ bỏ ma túy. Có thể là họ muốn làm thế nào giảm bớt các triệu chứng cắt cơn liên quan đến tình trạng nghiện của họ hoặc có thể là những lí do khác. Bạn sẽ cần rất nhiều thông tin về việc sử dụng ma túy trong quá khứ và hiện tại của khách hàng để có thể phán đoán tình huống thực của họ. Vì vậy cần đặt câu hỏi sau đây:
‚ Loại ma túy nào được khách hàng cho rằng nó gây ra cho họ nhiều vấn đề rắc rối nhất?
‚ Lợi ích của những đợt điều trị trước đây là gì? Trước đây, khách hàng của bạn có thể đã được điều trị trong những chương trình khác. Vì vậy, cần tìm hiểu khoảng thời gian từ bỏ được mỗi loại ma túy mà họ lạm dụng trước đây và lí do tái nghiện. Điều quan trọng là phải xác định xem liệu đó có phải là một cú vấp, trượt hay là tái nghiện và các yếu tố cám dỗ có liên quan là gì.
Bản chiếu 15
Hướng dẫn khách hàng cách đối phó với cơn thèm nhớ
Đánh giá tiền sử sử dụng ma tuý và khả năng tái nghiện
Hướng dẫn khách hàng cách đối phó với các tình huống nguy cơ cao và khuyến khích sự tự tin
Sử dụng bảng ra quyết định (bảng so sánh cán cân giữa điểm có lợi và điểm bất cập nếu thay đổi)
CÁC CAN THIỆP DPTN CỤ THỂ (1)
26 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 15 (tiếp)
Giúp đối phó với tình huống nguy cơ cao và tăng sự tự tin
Chúng ta đã đề cập đến điều này trong phần Mô hình tái nghiện. Những người tin tưởng vào khả năng dự phòng tái nghiện của chính họ sẽ dễ đối phó thành công với những tình huống nguy cơ cao. Vì vậy, cần khuyến khích khách hàng cảm thấy rằng họ có thể kiểm soát được những tình huống khó khăn hay căng thẳng. Bằng cách khuyến khích khách hàng mỗi khi họ xử trí thành công và củng cố cảm giác tự tin, bạn sẽ giúp họ thêm tự tin vào năng lực bản thân.
Chương Vi – Bài 6.1 27
Bản chiếu 16
Nói: Chúng ta đã thảo luận về bảng ra quyết định trong Chương 4. Bạn có thể sử dụng bảng này để giúp khách hàng ra quyết định liên quan đến tránh tái sử dụng và tái nghiện. Với người sử dụng heroin, họ sẽ thấy việc nói về những lợi ích ngắn hạn rất dễ dàng. Người sử dụng heroin có thể phủ nhận các tác hại và hậu quả dài hạn của hành động họ đã thực hiện. Họ muốn sống hết mình cho hôm nay và không nghĩ đến ngày mai. Có vẻ như heroin giúp họ giải quyết rất tốt mọi vấn đề và giúp họ đối mặt với mọi cảm xúc và hoàn cảnh. Tuy nhiên, bạn vẫn cần phải hỏi về những lợi ích và hậu quả dài hạn. Khi họ nhìn thấy chúng được viết ra họ sẽ tập trung hơn vào những cam kết dài hạn. Họ có thể chưa bao giờ nghĩ đến những lợi ích dài hạn của việc không sử dụng ma túy.
Hướng dẫn giảng dạy: Nên chuẩn bị trước khi bắt đầu bài giảng một bảng ra quyết định trên bảng lật. Đến thời điểm này, mở trang giấy đó ra và từng bước yêu cầu học viên nêu ra những điểm tốt và không tốt của việc sử dụng ma túy, hậu quả ngắn hạn và hậu quả dài hạn của nó. Làm như vậy sẽ giúp học viên hiểu được mục đích của bảng ra quyết định và cảm thấy tự tin hơn trong việc xây dựng bảng này với khách hàng trong một buổi tư vấn thực sự.
Xem ví dụ về bảng ra quyết định trong Bài 4.2, bản chiếu số 10.
BẢNG RA QUYẾT ĐỊNH

Ngắn hạn Dài hạn
Lợi ích
Hậu quả
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Theo thời gian, nhiều người nghiện heroin chỉ biết sử dụng heroin để đối phó và giải quyết tất cả các vấn đề của họ. Nhiều khách hàng không nhận thức được vấn đề khi nó xuất hiện lần đầu tiên và lờ đi cho đến tận khi nó khiến họ bị khủng hoảng. Người khác lại nghĩ rằng họ có kĩ năng giải quyết vấn đề rất tốt, nhưng khi đối mặt với vấn đề họ lại hành động một cách thiếu suy nghĩ.
Mặc dù nhiều khách hàng tưởng là cuộc sống sẽ dễ dàng hơn và không gặp khó khăn gì sau khi đã ngừng sử dụng heroin, chỉ đến khi phải kiêng heroin họ mới nhận ra những vấn đề mà trước đây họ đã lờ đi hoặc trốn tránh. Thực hành dự phòng tái nghiện là một cách rất hữu ích giúp khách hàng giải quyết vấn đề. Nếu họ không thực hành với bạn, họ có thể sẽ phạm sai lầm và sai lầm sẽ khiến họ dễ bị tái nghiện hơn.
Khách hàng phải hiểu là tái sử dụng chỉ là một lỗi nhỏ và họ có thể lấy lại thăng bằng. Khi người ta dùng lại một hoặc vài lần, điều đó không có nghĩa là họ sẽ tái nghiện. Để tránh tái nghiện hoàn toàn, khách hàng cần dành thời gian để suy ngẫm về những lợi ích lâu dài của việc không sử dụng lại ma túy và những hậu quả dài hạn của việc sử dụng lại ma túy.
Một điều cũng hết sức quan trọng là bạn cần thảo luận về hiệu ứng vi phạm kiêng khem với khách hàng để giúp khách hàng không chuyển sang tái nghiện hoàn toàn sau khi vấp một lần. Thảo luận với họ trước khi cú vấp xảy ra và tìm hiểu những cơ hội và tiềm năng của khách hàng để lấy lại thăng bằng khi bị vấp là vấn đề mang tính chiến lược.

Bản chiếu 17
Thực hành giải quyết vấn đề và chống tái nghiện
Đối phó với việc sử dụng lại
Đối phó với Hiệu ứng vi phạm kiêng ma tuý
CÁC CAN THIỆP DPTN CỤ THỂ (2)
Chương Vi – Bài 6.1 29
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những thông điệp chính trong bài bằng cách trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn: G. Alan Marlatt, George A. Parks, Katie Witkiewitz (2002). Clinical Guidelines for Implementing: A Guideline Developed for the Behavioral Health Recovery Management Project.
Web Sites on Cognitive Behavioral Therapy and Relapse Prevention Therapy:
http://www.nida.nih.gov
http://www.drugabuse.gov
http://www.med.nyu.edu<
http://www.atforum.com
http://www.drugnet.bizland.com
Tái nghiện là phổ biến và khó tránh khỏi
- Đừng thất vọng
- Chuẩn bị tinh thần trước và đối phó
Những trạng thái tình cảm tiêu cực là những lí do phổ biến dẫn tới tái nghiện
- Nhưng cũng còn những lí do khác nữa, hãy để ý
Phân biệt sự khác nhau giữa vấp, trượt và tái nghiện
Xác định tình huống nguy cơ cao
- Đây là trọng tâm của can thiệp
Xây dựng các chiến lược dự phòng chung và dự phòng cụ thể
- Giúp họ quản lí được những tình huống có thể lường trước được và những tình huống không lường trước được.
TÓM TẮT

6.2
Kĩ năng từ chối
Bài 32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích với học viên rằng, trong bài này bạn sẽ thảo luận về kĩ năng từ chối và kĩ năng
đó liên quan đến dự phòng tái nghiện như thế nào.
II. Thuyết trình 30 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để trình bày về các kĩ năng từ chối.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính của bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.2: Kĩ năng từ chối
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được mối liên quan giữa kĩ năng từ chối và dự phòng tái nghiện, và ứng dụng kĩ năng từ chối trong các buổi tư vấn cho khách hàng.
Thời gian: 35 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Thảo luận lí do phải học kĩ năng từ chối
‚ Biết cách từ chối lịch sự khi bị thuyết phục thực hiện một hành động không mong muốn
‚ Thảo luận các biện pháp không lời
‚ Thảo luận các biện pháp bằng lời
‚ Thực hành kĩ năng từ chối heroin
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.2 33
Bản chiếu 1
Nói: Nhiều người sử dụng heroin gặp rất nhiều khó khăn trong việc từ chối khi có người mời chào dùng heroin. Đặc biệt, những khách hàng còn mơ hồ về việc giảm sử dụng heroin thường gặp khó khăn khi họ được mời sử dụng heroin. Mạng lưới quan hệ xã hội của nhiều người sử dụng heroin rất hạn hẹp. Đa số chỉ giao lưu với một vài người không sử dụng ma tuý và vì thế, từ bỏ mối quan hệ với người sử dụng ma túy đồng nghĩa với việc tự cô lập mình. Nhiều khách hàng thiếu các kĩ năng quyết đoán cơ bản để có thể từ chối hiệu quả lời mời gọi sử dụng heroin.
Việc hướng dẫn khách hàng kĩ năng từ chối sử dụng ma túy cần phải nằm trong kế hoạch điều trị của họ. Khoảng 1/3 số người nghiện ma túy tái nghiện do tác động trực tiếp từ sức ép xã hội của bạn bè. Hầu hết người sử dụng heroin đang cố gắng từ bỏ heroin vẫn tiếp tục có quan hệ với những người đang sử dụng, dù là mới có ý định làm quen hay đã có quan hệ từ trước. Từ chối heroin hoặc từ chối đi đến những nơi có heroin là một việc mà hầu hết khách hàng không thể lường trước được mức độ khó khăn.
Tư vấn viên cần thận trọng đặt ra những câu hỏi trực tiếp để tìm ra những manh mối về sự mơ hồ hay sự chống đối không muốn thay đổi, cũng như những áp lực xã hội gây khó khăn cho việc thay đổi. Việc khách hàng thất bại trong áp dụng những bước đầu tiên để gạt bỏ những yếu tố kích thích thèm nhớ ma tuý và tránh sử dụng heroin có thể bộc lộ một số vấn đề nổi cộm.

KĨ NĂNG TỪ CHỐI
34 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu. Sau khi trình bày xong nội dung trên bản chiếu, tiếp tục như sau:
Nói: Thực hành các kĩ năng này với khách hàng là rất cần thiết để đảm bảo là khách hàng có khả năng thực hiện và tự tin về khả năng thực hiện những kĩ năng này, trước khi họ áp dụng trong các tình huống thực tế.
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Thảo luận lí do phải học kĩ năng từ chối
Biết cách từ chối lịch sự khi bị thuyết phục thực hiện một hành động không mong muốn
Thảo luận các biện pháp không lời
Thảo luận các biện pháp bằng lời
Thực hành kĩ năng từ chối heroin
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vi – Bài 6.2 35
Bản chiếu 3
Nói: Cách tốt nhất là tránh những tình huống nguy cơ cao (không gặp bạn bè sử dụng ma túy hoặc người bán ma túy). Tuy nhiên, đây không phải là một giải pháp lâu dài với hầu hết khách hàng. Hướng dẫn từ chối sử dụng ma túy rất quan trọng trong việc hỗ trợ khách hàng vượt qua được khoảng thời gian kiêng khem và kéo dài khoảng thời gian đó. Tư vấn viên và khách hàng cần thực hành các cách để từ chối heroin hoặc từ chối đi đến những nơi có heroin. Khách hàng sẽ cảm thấy có thể tự kiểm soát khi họ rơi vào hoàn cảnh bị cám dỗ mà họ đã từng nói "có" trong những lần trước đây mà không suy nghĩ gì.
Khách hàng thường không lường hết được những khó khăn họ gặp phải khi muốn từ chối hoặc tránh né để không dùng heroin. Họ có thể cảm thấy việc nói không đối với họ không quá khó, hoặc sẽ chẳng có ai dụ dỗ họ khi biết họ đang cố gắng từ bỏ. Tuy nhiên, nhiều khách hàng đã nhận thấy nếu không chuẩn bị trước khi rơi vào tình huống này, lí trí mạnh không đủ để từ chối hiệu quả. Việc lập kế hoạch và thực hành liên tục các kĩ năng từ chối cụ thể để đối phó với các tình huống nguy cơ cao là cách hữu ích nhất.
Phần này nhằm hướng dẫn hoặc nhắc nhở khách hàng về những cách hiệu quả để nói không khi nguy cơ xuất hiện. Khách hàng cần phải sáng tạo trong việc dự đoán những tình huống có thể xảy ra. Bài tập này sẽ hữu ích nhất cho khách hàng nếu đề cập đến tình huống liên quan đến cuộc sống của họ, giúp họ có thể tập dượt được cách tốt nhất để đối phó với chúng.

Khách hàng nên tránh những tình huống nguy cơ, tuy nhiên phương án đó không có tính thực tiễn lâu dài
Khách hàng thường không lường trước được những khó khăn họ gặp phải khi từ chối hoặc tránh sử dụng heroin
Có một số chiến lược giúp nói “KHÔNG” dễ dàng hơn
LÍ DO
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trước khi chiếu bản chiếu này, hãy trình bày những nội dung gợi ý dưới đây.
Nói: Khi bạn tạo phong cách từ chối của riêng bạn, bạn cần sử dụng các biện pháp bằng lời và không lời.
Theo bạn, có thể có những biện pháp bằng lời và không lời nào?

Hướng dẫn giảng dạy: Chờ học viên đưa ra ý kiến của họ, sau đó chiếu từng nội dung trên bản chiếu về các biện pháp không lời. Sử dụng thông tin dưới đây để bổ sung những điểm mà học viên chưa đề cập đến. Lưu ý: các biện pháp bằng lời được chiếu trên bản chiếu sau.
Thông tin tham khảo: Các biện pháp không lời
‚ Giao tiếp bằng mắt là một kĩ năng rất quan trọng: nhìn thẳng vào mắt người đó khi trả lời để tăng hiệu quả của lời nói.
‚ Đứng hoặc ngồi thẳng lưng để cảm thấy tự tin.
‚ Đừng cảm thấy có lỗi khi từ chối. Không dùng ma túy thì chẳng hại đến ai cả. Nhiều khách hàng cảm thấy không thoải mái hoặc có lỗi khi nói không và cho rằng mình cần phải xin lỗi người kia vì mình từ chối sử dụng ma túy, điều đó sẽ dẫn đến khả năng người kia sẽ tiếp tục mời chào họ trong tương lai. Nói với khách hàng rằng, sau khi "nói không", họ có thể chuyển sang chủ đề khác, gợi ý thực hiện hoạt động khác, và yêu cầu một cách rõ ràng là từ nay trở đi người kia đừng mời mình dùng heroin nữa. (VD: "Nghe này, tôi đã ngừng chơi rồi và từ nay anh đừng bao giờ rủ tôi chơi với anh nữa. Nếu anh còn làm như vậy nữa, anh đừng đến nhà tôi nữa.")
‚ Bỏ đi nếu họ vẫn tiếp tục nài nỉ hoặc ép bạn.
Bản chiếu 4
Nhìn thẳng vào mắt: nhìn thẳng vào người đó khi trả lời
- Tăng sự hiệu nghiệm của thông điệp
Đứng hoặc ngồi thẳng lưng để có thể cảm thấy tự tin
Đừng cảm thấy có lỗi về việc phải từ chối
- Không dùng thì chẳng hại đến ai cả
Bỏ đi nếu họ cố tình nài nỉ hoặc ép buộc
BIỆN PHÁP KHÔNG LỜI
Chương Vi – Bài 6.2 37
Hướng dẫn giảng dạy: Trước khi chiếu bản chiếu, yêu cầu học viên hình dung như có một người bạn đang rủ rê mời họ sử dụng ma túy và yêu cầu họ đưa ra các cách khả thi để nói “KHÔNG”. Sau đó, chiếu bản chiếu và đề cập đến những thông tin mà học viên chưa nói đến.
Thông tin tham khảo:
‚ Nói với giọng rõ ràng, tự tin và chắc chắn
‚ “KHÔNG” phải là lời đầu tiên được thốt ra
‚ Đưa ra một giải pháp thay thế nếu bạn muốn thực hiện một hoạt động nào đó với họ
‚ Yêu cầu người kia không được mời chào nữa, kể từ nay trở đi, để những người khác cũng không tiếp tục mời chào nữa
‚ Thay đổi chủ đề sang chuyện khác
‚ Tránh nói lời xin lỗi hoặc trả lời mập mờ – những câu như “Lúc khác nhé”, “Tôi đi về đây”, hoặc “Tôi đang uống thuốc” sẽ khiến họ sẽ tiếp tục mời chào bạn vì bạn không thể hiện là bạn sẽ không dùng nữa.
Những ví dụ về những câu nói không:
‚ Không, cảm ơn.
‚ Không, cảm ơn, tôi sẽ uống cà phê hoặc ăn một thứ gì đó.
‚ Không, tôi không dùng nữa, tôi đã chịu đựng đủ lắm rồi.
‚ Không, tôi gặp nhiều rắc rối do dùng heroin nên sẽ không bao giờ dùng nữa.
Bản chiếu 5
Nói bằng giọng rõ ràng, tự tin và chắc chắn
“KHÔNG” phải là lời đầu tiên được thốt ra
Đưa ra một giải pháp thay thế nếu bạn muốn thực hiện một hoạt động nào đó với họ
Yêu cầu người kia không được mời chào nữa kể từ nay trở đi, để những người khác cũng không mới chào nữa
Thay đổi chủ đề sang chuyện khác
Tránh nói lời xin lỗi hoặc trả lời mập mờ - Vì điều đó có nghĩa là sau đó bạn sẽ thay đổi quyết định
BIỆN PHÁP BẰNG LỜI
38 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu 1 đến 2 học viên xung phong ngồi với bạn để đóng vai trong đó bạn thể hiện kĩ năng từ chối với “khách hàng” của bạn.
Nói: Sau khi cùng với khách hàng trao đổi về kĩ năng từ chối cơ bản, khách hàng phải thực hành qua đóng vai. Cần phải xác định và thảo luận về những khó khăn nảy sinh khi khách hàng thiếu sự quyết đoán. Tư vấn viên nên sắp xếp phần đóng vai này theo cách mà khách hàng cảm thấy thoải mái, tự nhiên.
‚ Chọn một tình huống cụ thể mới xảy ra gần đây đối với khách hàng. Ví dụ về những tình huống như bạn bè ghé thăm và mang theo heroin, bạn gọi điện thoại, vô tình gặp bạn đang sử dụng. Tình huống mà họ lựa chọn phải thật cụ thể. Nghĩa là phải bao gồm con người cụ thể, thời gian cụ thể trong ngày,...
‚ Yêu cầu khách hàng đưa ra một vài thông tin cơ bản về người lôi kéo họ.
Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu 2 học viên đóng vai, một người trong vai khách hàng sau cai, người kia đóng vai là người đang sử dụng ma túy và đang ép người sau cai dùng lại heroin. Sau đó đổi vai ngược lại. Dành vài phút để tóm tắt lại.
Nói: Trong mỗi buổi tư vấn, điều quan trọng là cần thảo luận thật kĩ lưỡng sau khi kết thúc mỗi phần đóng vai. Tư vấn viên cần ngợi khen những hành vi hiệu quả của khách hàng và đưa ra những góp ý chính xác mang tính xây dựng, ví dụ:
"Tốt lắm! Bạn cảm thấy thế nào? Tôi thấy bạn đã nhìn thẳng vào mắt tôi và nói rõ ràng - điều đó rất tốt. Tôi cũng nhận thấy bạn còn tạo cơ hội cho họ chèo kéo thêm lần nữa khi bạn nói bạn mới chỉ bỏ “được một thời gian". Hãy thử lại nhé, nhưng lần này hãy cố nói một cách rõ ràng rằng bạn muốn người đó đừng bao giờ mời bạn sử dụng ma túy nữa."

ĐÓNG VAI: DẠY KHÁCH HÀNG KĨ NĂNG TỪ CHỐI
Chương Vi – Bài 6.2 39
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng nội dung bản chiếu để nhắc lại những kiến thức đã được thảo luận trong bài.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 2 A Cognitive-Behavioral Approach: Treating Heroin Addiction, http://www.nida.nih.gov
United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacifc
A Toolkit for Building Capacity For Community-based Treatment and Continuing Care of Young Drug Abusers in The Greater Mekong Subregion.
Dr. John Howard, Consultant; Draft 23 January 2006;
Khách hàng phải tránh các tình huống nguy cơ
Khách hàng cần hiểu cả biện pháp bằng lời và không lời
Có một số chiến lược để nói không.
TÓM TẮT

6.3 Đối phó với cơn thèm nhớ
Bài
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận về cách giúp khách hàng đối phó với cơn
thèm nhớ.
II. Thuyết trình 40 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để thuyết trình về đối phó với cơn thèm nhớ.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.3: Đối phó với cơn thèm nhớ
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được về cơn thèm nhớ ma túy và tìm ra những yếu tố cám dỗ gây thèm nhớ để từ đó cùng với khách hàng xây dựng chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ.
Thời gian: 45 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Định nghĩa được sự thèm nhớ
‚ Mô tả được cơn thèm nhớ khi thảo luận với khách hàng
‚ Xác định được những yếu tố kích thích sự thèm nhớ đối với khách hàng
‚ Cùng với khách hàng, lập kế hoạch đối phó với sự thèm nhớ
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.3 43
Bản chiếu 1
Nói: Do thèm nhớ ma túy là một vấn đề hết sức khó khăn đối với nhiều người sử dụng heroin nên chủ đề này cũng cần được bàn đến sớm trong quá trình điều trị. Khoảng thời gian người ta bị thèm nhớ heroin mạnh nhất là khoảng vài tuần, có khi đến vài năm sau khi họ cai nghiện hoàn toàn. Điều này vừa có tính bí ẩn lại vừa gây khó chịu cho người sau cai nghiện và dẫn đến tái sử dụng heroin nếu không được hiểu và xử lí hiệu quả.
ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Định nghĩa được sự thèm nhớ
Mô tả được cơn thèm nhớ khi thảo luận với khách hàng
Xác định được những yếu tố kích thích sự thèm nhớ đối với khách hàng
Cùng với khách hàng lập kế hoạch đối phó với sự thèm nhớ
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu
Chương Vi – Bài 6.3 45
Bản chiếu 3
Nói: Thảo luận về sự thèm nhớ là rất quan trọng vì thông thường, chính cơn thèm nhớ khiến khách hàng tái nghiện. Điều đầu tiên cần biết đó là hiện tượng thèm nhớ là bình thường. Người sử dụng ma túy thường không biết điều này. Họ nghĩ rằng họ là người duy nhất phải chịu đựng cơn thèm nhớ và nếu sự thèm nhớ xuất hiện thì điều đó có nghĩa là cơ thể họ có vấn đề gì đó. Họ cũng có thể tin là nếu họ thấy thèm nhớ, sẽ chẳng có cách nào giúp họ vượt qua được, nên họ thấy rằng việc sử dụng ma túy là điều khó có thể tránh khỏi.
Cơn thèm nhớ xuất hiện là do ma túy đã làm thay đổi một số chức năng của não. Khách hàng đã sử dụng ma túy càng nhiều thì cơn thèm nhớ càng mạnh khi ngừng sử dụng. Tuy nhiên, theo thời gian, não và cơ thể sẽ điều chỉnh với sự thay đổi này và cơn thèm nhớ sẽ dịu dần. Tư vấn viên có thể hướng dẫn cho khách hàng những kĩ năng để làm cho quá trình này dễ dàng hơn.

Là một phần tự nhiên của quá trình cai nghiện ma tuý và hồi phục
- Thèm nhớ là một điều khó khăn đối với bất kì ai, cho dù sự thèm nhớ đó có liên quan đến sử dụng ma túy hay không
Thèm nhớ ma tuý là hậu quả của một thời gian dài sử dụng ma tuý, và có thể tiếp tục trong một thời gian dài kể từ khi từ bỏ ma tuý
- Những người nghiện ma tuý nặng thì có thể có những cơn thèm nhớ mạnh mẽ hơn.
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY (1)
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Có nhiều yếu tố kích thích sự thèm nhớ. Khách hàng cần học cách đối phó với các yếu tố này để có thể tiếp tục không sử dụng ma túy. Đây là chủ đề trọng tâm của tư vấn điều trị nghiện và cần được thảo luận nhắc lại trong suốt quá trình điều trị.
Đầu tiên, bạn cần giúp khách hàng xác định những con người, địa điểm và những vật dụng có thể kích thích cơn thèm nhớ hoặc kích thích sự ham muốn sử dụng ma túy. Khách hàng cần tránh những yếu tố kích thích đó nếu có thể. Có một số cách thực hiện như: nhờ một người nào đó mà họ tin tưởng giữ hộ tiền, thoát khỏi những dụng cụ để sử dụng ma túy (tốt nhất là với sự hỗ trợ của người khác), không gặp một số người hàng xóm hoặc chuyển đến nơi ở mới, tránh tiếp xúc với những người bạn hoặc người thân đang còn sử dụng ma túy.
Khách hàng và tư vấn viên cần hợp tác để bàn về những cách giúp khách hàng tránh hoặc kiểm soát được những yếu tố kích thích khó tránh hơn (như vợ hoặc chồng họ còn sử dụng ma túy). Những yếu tố làm tăng cơn thèm nhớ mà họ không thể tránh được đôi khi có thể được giải quyết an toàn hơn với sự hỗ trợ của một người không sử dụng ma túy như vợ hoặc con họ.
Không sử dụng ma túy sẽ giảm mức độ của cơn thèm nhớ nhưng nếu thỉnh thoảng họ dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ mạnh mẽ và kéo dài hơn. Sau mỗi lần khách hàng chống chọi và vượt qua được cơn thèm nhớ, cơn thèm nhớ lần sau sẽ yếu hơn, bởi vì khách hàng đã bắt đầu đối phó với nó. Tuyệt đối không sử dụng là cách tốt nhất giúp có thể loại bỏ được cơn thèm nhớ hoàn toàn và nhanh nhất.

Cơn thèm nhớ có thể tăng lên do tác động của các yếu tố cám dỗ:

- Con người - Địa điểm
- Vật dụng - Cảm giác
- Tình huống Hay bất kỳ điều gì có liên quan đến việc sử dụng ma túy trong quá khứ
Hiện tượng thèm nhớ ma tuý sẽ yếu dần đi nếu không tiếp tục sử dụng
- Thỉnh thoảng sử dụng lại ma tuý sẽ làm cho hiện tượng thèm nhớ ma tuý kéo dài
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY(2)
Chương Vi – Bài 6.3 47
Bản chiếu 5
Nói: Một điều thú vị khác về sự thèm nhớ là người ta tin rằng nếu người ta phải chịu đựng cảm giác thèm nhớ mạnh, nó sẽ tồn tại mãi mãi. Họ cảm thấy nó mạnh đến mức họ chẳng thể làm gì để kiểm soát được nó. Họ tin rằng nó sẽ ngày càng mạnh hơn và sẽ kéo dài mãi mãi.
Liệu có đúng vậy không? Không.
Cơn thèm nhớ giống như một cơn sóng. Mức độ mạnh mẽ của nó tăng lên từ từ rồi tan biến mất. Nó chỉ kéo dài trong vài phút và lâu nhất cũng chỉ đến 20 phút.

Cơn thèm nhớ giống như cơn sóng biển
- Mỗi đợt sóng thường bắt đầu rất nhỏ, cao dần lên và đổ ập xuống rồi biến mất
- Cơn thèm nhớ kéo dài trong vài phút, tối đa là 20 phút
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY(3)
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Người ta càng không sử dụng ma túy trong thời gian dài thì cơn thèm nhớ càng yếu đi. Một trong những kĩ thuật nhận thức hữu ích nhất để đối phó với cơn thèm nhớ là hiểu cơn thèm nhớ xảy ra như thế nào (Carroll và cộng sự, 1991).
Bản chiếu 6
Mỗi lần thèm nhớ, nếu chúng ta làm việc gì khác, chứ không phải sử dụng lại ma tuý thì hiện tượng thèm nhớ ma tuý sẽ yếu dần đi.
- Đỉnh điểm thèm nhớ sẽ nhỏ dần và cơn sóng sẽ tan ra
- Kiêng sử dụng là cách tốt nhất và là con đường nhanh nhất, trọn vẹn nhất để thoát khỏi hiện tượng thèm nhớ ma tuý
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TUÝ (4)
Chương Vi – Bài 6.3 49
Bản chiếu 7
Nói: Thông thường, cơn thèm nhớ mạnh mẽ nhất ngay sau khi vừa mới cai nghiện. Theo thời gian, nó sẽ giảm dần, nhưng không phải luôn luôn là như vậy. Ngay cả khi đã ngừng sử dụng ma túy trong thời gian dài, cơn thèm nhớ có thể sẽ rất mạnh do một số yếu tố thúc đẩy. Mặc dù cơn thèm nhớ có thể đến thường xuyên và mạnh hơn trong giai đoạn đầu sau cai, chúng ta vẫn có thể áp dụng một số kĩ năng để khống chế chúng. Những kĩ năng này sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo.
Hiện tượng thèm nhớ ma tuý mạnh mẽ nhất trong thời gian đầu sau cai
- Nhưng có thể tiếp tục cảm thấy thèm nhớ ma tuý trong vài tháng, thậm chí nhiều năm.
Cơn thèm nhớ ma túy xảy ra sau chưa chắc đã nhẹ hơn cơn thèm nhớ lần trước
- Đôi khi, đặc biệt những lúc căng thẳng, cơn thèm nhớ lên cao điểm nhưng sau đó sẽ nhẹ dần rồi kết thúc
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TUÝ (5)
50 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Tư vấn viên cần biết về trải nghiệm của khách hàng đối với cơn thèm nhớ. Cần tìm hiểu những thông tin sau đây:
Cơn thèm nhớ diễn ra đối với bạn như thế nào?
Cơn thèm nhớ hay ham muốn diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Ở một số người, đó là những dấu hiệu thể chất, ví dụ: "Tôi thấy bụng cứ cuộn lên" hay "Tim tôi đập nhanh hơn" hoặc "Tự nhiên tôi ngửi thấy mùi của nó". Với người khác thì lại thiên về nhận thức, ví dụ: "Tôi cần có nó ngay bây giờ" hoặc "Tôi không thể gạt nó ra khỏi đầu" hoặc "Có tiếng gọi thúc giục tôi". Cũng có thể là những ảnh hưởng của ma túy, ví dụ: "Tôi thấy lo lắng quá" hoặc "Tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu."
Bạn bị cơn thèm nhớ hành hạ như thế nào?
Mức độ mạnh yếu của cơn thèm nhớ đối với các khách hàng là rất khác nhau. Với một số người, đạt được và duy trì sự kiểm soát cơn thèm nhớ là mục tiêu điều trị chính và phải mất vài tuần mới đạt được. Một số khách hàng nói họ không hề thèm nhớ. Làm việc với khách hàng phủ nhận sự thèm nhớ sẽ phát hiện được là họ đã hiểu sai về một loạt sự kiện xảy ra với họ hoặc họ đã lờ đi cơn thèm nhớ xảy ra với họ. Một số khách hàng phủ nhận là họ thèm nhớ ma túy nhưng thường thú nhận là họ rất sợ bị tái nghiện. Cần phải thảo luận với khách hàng về việc họ cảm thấy bị khó chịu như thế nào. Sự thèm nhớ da diết không có nghĩa là điều không thể vượt qua nổi và ngược lại nếu chỉ thèm nhớ một chút không có nghĩa là có thể vượt qua một cách dễ dàng.
Cơn thèm nhớ kéo dài bao lâu?
Để xác định rõ cơn thèm nhớ diễn ra trong bao lâu, cần chỉ rõ cho khách hàng hiểu là họ hiếm khi tự mình trải nghiệm hết cơn thèm nhớ nếu không lưu tâm đến nó. Theo thời gian, khi khách hàng phải chống lại các cơn thèm nhớ, chúng sẽ không kéo dài nữa và cũng không xuất hiện thường xuyên nữa.
Bản chiếu 8
Khách hàng cần mô tả cơn thèm nhớ xảy ra đối với họ như thế nào để bạn có thể hiểu được. Hỏi các câu sau :
Các cơn thèm nhớ diễn ra đối với bạn như thế nào?
Bạn bị cơn thèm nhớ hành hạ như thế nào?
Cơn thèm nhớ ấy kéo dài trong bao nhiêu lâu?
Bạn đã cố gắng đương đầu như thế nào với cơn thèm nhớ?
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (1)
Chương Vi – Bài 6.3 51
Bản chiếu 8 (tiếp)
Bạn đã cố gắng đối phó với cơn thèm nhớ như thế nào?
Tư vấn viên cần xác định được những cách mà khách hàng đối phó với cơn thèm nhớ để lựa chọn biện pháp phù hợp nhất bằng cách hiểu rõ về các chiến lược đó. Đồng thời, tư vấn viên cũng nên hỏi khách hàng xem những biện pháp đó đã thành công như thế nào.
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Cường độ của các cơn thèm nhớ sẽ phụ thuộc một phần vào mức độ suy nghĩ về việc sử dụng ma túy của khách hàng. Nếu người ta càng nghĩ về nó, cơn thèm nhớ sẽ càng kéo dài. Ngược lại, nếu họ càng bận rộn với những việc khác trong cuộc sống, họ càng ít phải chịu đựng cơn thèm nhớ hơn.
Mức độ thèm nhớ ma túy nhẹ hay nặng chủ yếu là do khách hàng nghĩ về việc sử dụng ma túy nhiều hay ít
MỨC ĐỘ THÈM NHỚ
Chương Vi – Bài 6.3 53
Nói: Đôi khi khách hàng không nhận biết được khi nào thì họ phải chịu đựng các cơn thèm nhớ. Nhiều người chỉ đơn giản lờ đi khi cơn thèm nhớ xảy đến cho ra khi họ sử dụng lại. Trong trường hợp này, bạn phải đề nghị khách hàng tự theo dõi trong tuần tiếp theo bằng cách ghi chép lại tất cả những tình huống khiến họ cảm thấy muốn sử dụng và những cảm giác liên quan đến những tình huống đó.
Viết nhật ký cơn thèm nhớ là một kĩ thuật được sử dụng trong một số chương trình DPTN để hiểu rõ hơn về cơn thèm nhớ và giúp tiếp tục đối phó được với chúng. Yêu cầu khách hàng ghi lại những yếu tố bên trong và bên ngoài kích thích cơn thèm nhớ, trạng thái tình cảm, mức độ mạnh mẽ của cơn thèm nhớ, thời gian kéo dài, các kĩ năng đã được sử dụng để vượt qua cơn thèm nhớ, và các chiến lược đó thành công hay không.
Cơn thèm nhớ là sự kết hợp suy nghĩ, hành vi và cảm giác thể chất của khách hàng. Tư vấn viên cần thảo luận với khách hàng về tất cả những yếu tố trong cả 3 khía cạnh trên. Người sử dụng ma túy thường không kết nối hành vi, suy nghĩ và cảm giác với nhau. Trong trường hợp này, bạn cần liên kết chúng lại để giúp khách hàng tăng khả năng chống lại cơn thèm nhớ. Hỏi khách hàng cơn thèm nhớ xuất hiện ở đâu? Khi nào? Khi đó họ đang làm gì? Cảm giác ấy như thế nào? Kéo dài trong bao lâu?

Bản chiếu 10
Đề nghị khách hàng tự theo dõi bản thân trong một tuần tiếp theo
Ghi chép lại những tình huống họ cảm thấy muốn sử dụng ma túy
Viết ra những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi liên quan đến những tình huống đó
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (2)
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Yêu cầu khách hàng tóm tắt nhật kí thèm nhớ theo các nhóm hành vi, cảm giác thể chất và suy nghĩ. Giải thích với họ là cơn thèm nhớ là tổng hợp của ba yếu tố này.
Thông tin tham khảo: Xem các ví dụ dưới đây
Hành vi: “Tôi đi xuống phố nơi trước đây tôi dùng ma túy với bạn bè và ngay lập tức tôi thấy rất thèm nhớ.” Đây là yếu tố hành vi vì nó liên quan đến việc bạn làm.
Cảm giác thể chất: “Khi tôi chịu đựng cơn thèm nhớ, tôi thấy bụng mình nhói đau” hoặc “Tôi ngửi thấy mùi của nó”.
Suy nghĩ (hay nhận thức): “Tôi cảm thấy tôi cần phải dùng” hoặc “Tôi không thể quên được nó” hoặc “Nó đang gọi tôi.”

Tóm tắt nhật kí cơn thèm nhớ theo Hành vi, Cảm giác thể chất và Suy nghĩ
Giải thích rằng sự thèm nhớ là kết hợp của hành vi, cảm giác thể chất và suy nghĩ
Hành vi Cảm giác thể chất Suy nghĩ
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (3)
Chương Vi – Bài 6.3 55
Nói: Tùy theo cơn thèm nhớ mà chúng ta có thể thảo luận với khách hàng về các chiến lược đối phó cụ thể theo hai nhóm khác nhau (hành vi hay nhận thức). Bản chiếu này thể hiện những chiến lược về hành vi
Trì hoãn
Một cách mà chúng ta có thể hỗ trợ khách hàng là yêu cầu họ trì hoãn việc sử dụng ma túy. Tại sao chúng ta lại khuyên họ như vậy? Tại sao đó lại là ý kiến hay? Bởi vì chúng ta đã thảo luận về một thực tế là cơn thèm nhớ chỉ kéo dài vài phút rồi nó sẽ qua đi. Vì vậy, nếu mình trì hoãn được thì cơn thèm nhớ sẽ qua đi. Nếu bạn kiềm chế không dùng ma túy trong khoảng 30 phút, cơn thèm nhớ sẽ biến mất và khả năng sử dụng sẽ rất thấp.
Phân tán
Chúng ta có thể hướng dẫn khách hàng làm việc gì đó thay vì ngồi một chỗ và nghĩ về ma túy khi cơn thèm nhớ xảy ra. Nói cách khác, hãy làm cho bản thân bận rộn. Khách hàng có thể tự phân tán suy nghĩ. Bạn cần thảo luận với họ về những điều họ thích làm thay vì sử dụng ma túy (ví dụ như một sở thích lành mạnh). Khuyến khích họ thực hiện một trong những hoạt động đó thay vì chờ đợi cơn thèm nhớ qua đi.
Quyết định
Khi đang ở trong thời điểm thèm nhớ dữ dội nhất, người sử dụng ma túy sẽ thấy khó khăn để nhớ được những hậu quả xấu của việc sử dụng ma túy. Hãy thử bài tập hữu ích sau trong buổi tư vấn. Đưa cho khách hàng mảnh giấy như một tấm danh thiếp để liệt kê những lợi ích của việc sử dụng heroin ở bên trái và những tác hại ở bên phải. Bắt đầu bằng những lợi ích. Khách hàng có thể đưa ra một hoặc hai lợi ích và thường là không đưa ra được thêm nữa. Khi họ không đưa ra được nữa, nói với khách hàng tạm dừng bàn đến những lợi ích và quay lại vấn đề đó sau. Bây giờ hãy bàn đến những tác hại. Không cần phải hỗ trợ hoặc chỉ cần hỗ trợ một
Bản chiếu 12
CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ MA TÚY (1)
Phân tán
suy nghĩ
Trì hoãn
Quyết định
Hành vi
Sau khi cơn thèm nhớ ma túy qua đi, nghĩ đến những lí do phải từ bỏ ma túy
chút, khách hàng sẽ có thế đưa ra rất nhanh một danh sách các tác hại. Đến lúc đó, họ sẽ bắt đầu tự đặt câu hỏi liệu có những lợi ích nào thuộc về phần tác hại. Đưa cho khách hàng mảnh giấy đó để anh ta cho vào ví cùng với tiền của anh ta. Mảnh giấy này sẽ giúp nhắc nhở họ về những tác hại của việc sử dụng ma túy. Đây là một kĩ thuật để hỗ trợ khách hàng quyết định lại mục tiêu cai hoàn toàn.
Chúng ta đã thảo luận về trì hoãn, phân tán và quyết định những gì sẽ làm. Đây chính là khái niệm 3D (Delay - Trì hoãn, Distract - Phân tán và Decide - Quyết định).

Chương Vi – Bài 6.3 57
Bản chiếu 13
Nói: Bây giờ tôi muốn thảo luận về các chiến lược nhận thức để đối phó với cơn thèm nhớ. Chúng ta có thể khuyến khích khách hàng độc thoại tích cực. Độc thoại có thể có sức mạnh rất lớn. Những gì chúng ta nói ra từ miệng, tai của chúng ta sẽ nghe thấy và những suy nghĩ của chúng ta sẽ được củng cố. Khách hàng có thể nhắc nhở bản thân rằng cơn thèm nhớ rồi sẽ qua đi họ có thể vượt qua cơn thèm nhớ. Họ cũng có thể nói về những điều họ sẽ bị mất, những vấn đề sẽ xảy đến với họ nếu dùng ma túy. Những điều này có thể giúp làm giảm sự thèm nhớ rất mạnh.
Thông tin tham khảo: Đối với nhiều khách hàng, có nhiều suy nghĩ vô thức gắn liền với cơn thèm nhớ mạnh đến mức khách hàng không nhận biết được chúng. Những suy nghĩ vô thức liên quan đến cơn thèm nhớ thường mang tính khẩn cấp và có những ảnh hưởng rất nặng nề (như: "Tôi phải dùng ngay bay giờ", "Nếu không dùng, tôi sẽ chết mất," hoặc "Tôi không thể làm gì được trừ khi tôi dùng lại ").
Khi đối phó với cơn thèm nhớ, điều quan trọng là phải nhận biết được những suy nghĩ vô thức đó và đối phó với những suy nghĩ đó một cách hiệu quả. Để giúp khách hàng nhận biết được những suy nghĩ vô thức đó, có thể sử dụng một chiến lược là giúp khách hàng "tua lại băng" để họ phân tích được suy nghĩ của mình.
"Khi bạn quyết định đi chơi đêm qua, bạn nói là bạn không tự ý thức được suy nghĩ về việc sử dụng heroin. Nhưng tôi cá là nếu chúng ta cố gắng nhớ lại đêm qua diễn ra như thế nào và tua lại nó như là một bộ phim quay chậm thì chúng ta sẽ tìm thấy một vài ví dụ về những điều bạn tự nói với bản thân dẫn đến sử dụng heroin, mà thậm chí bạn có thể không nhận ra được. Bạn có thể kể lại chi tiết về đêm qua được không?"
Nhận thức
Thư giãn và tưởng tượng
Độc thoại tích cực
CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ MA TÚY (2)
58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Một khi những suy nghĩ vô thức được xác định, chúng ta sẽ dễ dàng đối phó hơn bằng cách độc thoại tích cực thay vì độc thoại tiêu cực. Điều này bao gồm những chiến lược như thách thức suy nghĩ tiêu cực (VD "Tôi sẽ không chết nếu tôi không dùng heroin"), và bình thường hóa cơn thèm nhớ (VD "Thèm nhớ không dễ chịu chút nào, nhưng nhiều người phải chịu đựng nó và mình có thể vượt qua nó mà không phải dùng lại").
Nói: Bạn có thể sử dụng kĩ thuật thư giãn và tưởng tượng để đối phó với sự căng thẳng. Căng thẳng là một trong những lí do chính dẫn đến thèm nhớ ma túy.
Phân tán suy nghĩ là một cách rất hiệu quả. Những tưởng tượng nhất định được sử dụng như là một phương tiện để giúp những người trong trạng thái căng thẳng thư giãn. Bạn cũng có thể tưởng tượng để xóa bỏ những suy nghĩ về sự ham muốn đang lấn át nhận thức của bạn. Tưởng tượng đến một nơi thoải mái như một bãi biển hoặc một hồ nước không chỉ giúp bạn xóa bỏ những suy nghĩ về thèm muốn mà còn giúp bạn thư giãn.
Tuy nhiên, những hình ảnh "thư giãn" không phải là cách phù hợp đối với tất cả mọi người. Một số người nhận thấy rằng nếu họ thư giãn khi thèm nhớ sẽ chỉ khiến họ thèm hơn. Đó là vì đối với một số người, việc sử dụng ma túy của họ có mối liên quan rất chặt chẽ đến thư giãn và sảng khoái. Thể hiện những hình ảnh thư giãn của những địa điểm trước đây họ đã từng sử dụng ma túy khiến sự ham muốn càng mạnh mẽ hơn.

Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem có cách nào khác để thư giãn hay không. Dành thời gian cho họ suy nghĩ và trả lời.
Nói: Một trong những cách thư giãn phổ biến nhất là hít thở. Chúng ta có thể hướng dẫn khách hàng của chúng ta làm như sau:
‚ Đặt cả hai chân xuống sàn, ngồi thẳng lưng dựa vào ghế và nhắm mắt lại.
‚ Hít vào qua mũi và thở ra qua đường miệng
‚ Hít thật sâu, giữ lại một lúc rồi thở ra từ từ
‚ Làm lại như vậy để cảm nhận phổi chứa đầy không khí rồi sau đó thở hết ra.
‚ Thở với nhịp độ thật chậm và đều
‚ Để ý xem có ý nghĩ nào xảy ra trong đầu bạn không
‚ Tự hỏi xem mình có cảm thấy cơ thể mình căng thẳng không
‚ Mở mắt khi bạn thấy thoải mái
Bản chiếu 13 (tiếp)
Chương Vi – Bài 6.3 59
Bản chiếu 14
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những tóm tắt gợi ý dưới đây để ôn lại những nội dung chính của bài. Nội dung tóm tắt còn được trình bày trong bản chiếu tiếp theo. Lưu ý: sau những bản chiếu tóm tắt này, bạn sẽ hướng dẫn học viên thực hành đóng vai.
Nói: Tôi muốn tóm tắt nội dung bài này như sau:
‚ Thèm nhớ rất phổ biến và xuất hiện là chuyện bình thường. Chúng không phải là dấu hiệu thất bại. Khách hàng cần phải tìm hiểu những yếu tố làm cho cơn thèm nhớ xuất hiện.
‚ Thèm nhớ giống như những cơn sóng biển. Chúng mạnh dần lên đến mức nào đó rồi biến mất.
‚ Nếu khách hàng không dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ yếu dần và biến mất. Cơn thèm nhớ chỉ mạnh hơn nếu họ cứ nghĩ đến nó.
‚ Khách hàng có thể tránh thèm nhớ bằng cách tránh hoặc loại bỏ những yếu tố kích thích nó.
Thèm nhớ ma túy là hiện tượng phổ biến và bình thường. Chúng không phải là dấu hiệu thất bại. Khách hàng cần tìm hiểu xem những yếu tố nào làm cho cơn thèm nhớ xuất hiện.
Thèm nhớ giống như cơn sóng biển. Nó sẽ mạnh lên đến mức nào đó rồi biến mất.
Nếu khách hàng không dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ yếu dần và mất hẳn. Cơn thèm nhớ chỉ mạnh lên nếu họ cứ nghĩ đến nó.
Khách hàng có thể tránh cơn thèm nhớ bằng cách tránh hoặc loại bỏ các yếu tố kích thích nó.
TÓM TẮT (1)
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu tiêu đề bản chiếu và hỏi những câu dưới đây. Dành thời gian để học viên suy nghĩ và trả lời. Sau đó chiếu nội dung bản chiếu và bổ sung những điểm còn thiếu.
Nói: Bạn có thể đối phó với cơn thèm nhớ bằng cách sử dụng các kĩ thuật hành vi và nhận thức.
Có bao nhiêu kĩ thuật về hành vi, đó là những kĩ thuật nào?
Có bao nhiêu kĩ thuật về nhận thức, đó là những kĩ thuật nào?

Bản chiếu 15
Bạn có thể đối phó với cơn thèm nhớ bằng:
Biện pháp hành vi
Trì hoãn
Phân tán
Quyết định
- Sau khi cơn thèm nhớ qua đi, hãy điểm lại những lí do tại sao cần phải từ bỏ ma túy
Biện pháp nhận thức
Độc thoại tích cực
Thư giãn và tưởng tượng
TÓM TẮT (2)
Chương Vi – Bài 6.3 61
Hướng dẫn giảng dạy: Hai giảng viên sẽ đóng vai về nội dung thèm nhớ: một người trong vai tư vấn viên và người kia trong vai khách hàng sau cai. Tư vấn viên cần phải làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái và thảo luận từ từ để đưa khách hàng vào chủ đề về thèm nhớ. Hãy làm cho khách hàng nói lên trải nghiệm của mình khi thèm nhớ, cung cấp cho anh ta những thông tin về thèm nhớ và thảo luận ít nhất một chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ, tuỳ thuộc vào yếu tố kích thích thèm nhớ cụ thể của khách hàng
Bản chiếu 16
GIẢNG VIÊN ĐÓNG VAI
62 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đề nghị học viên thực hành theo từng cặp, tập trung vào thèm nhớ: một vai là tư vấn viên và vai kia là khách hàng sau cai. Dành cho họ 20 phút để thực hành. Sau đó mời 2 cặp lên để đóng vai trước cả lớp. Đề nghị học viên khác quan sát cẩn thận và phản hồi.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 3
An Individual Drug Counseling Approach to Treat Heroin Addiction
http://www.drugabuse.gov
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 2
A Cognitive-Behavioral Approach: Treating Heroin Addiction
http://www.nida.nih.gov
Bản chiếu 17
HỌC VIÊN ĐÓNG VAI
6.4 Quản lí sự căng thẳng
Bài
64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN

I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về cách quản lí sự căng thẳng và sự liên
quan giữa quản lí căng thẳng với liệu pháp dự phòng tái nghiện.
II. Thảo luận nhóm lớn 20 phút
Đề nghị học viên định nghĩa về căng thẳng và họ đã quản lí căng thẳng như thế nào trong
cuộc sống. (Lưu ý, sử dụng hướng dẫn trên bản chiếu để dẫn dắt cuộc thảo luận và hướng
dẫn các hoạt động.)
II. Thuyết trình 30 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để trình bày với học viên về quản lí căng thẳng và cách
sử dụng kĩ thuật này trong dự phòng tái nghiện.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại các nội dung chính của bài học và trả lời câu hỏi (nếu có).
Bài 6.4: Quản lí sự căng thẳng
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về kĩ thuật quản lí sự căng thẳng và cách áp dụng kĩ thuật này trong làm việc với khách hàng đang phục hồi sau cai nghiện để giúp dự phòng tái nghiện.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu các thành tố của căng thẳng
‚ Hiểu những triệu chứng của sự căng thẳng
‚ Hiểu những nguyên nhân của sự căng thẳng
‚ Hiểu được căng thẳng có thể ảnh hưởng đến cả tư vấn viên lẫn khách hàng như thế nào
‚ Hiểu những cách để giảm căng thẳng
Phương pháp:
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thuyết trình
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.4 65
Bản chiếu 1
Nói: Bài này sẽ tập trung cụ thể vào quản lí sự căng thẳng và cách áp dụng kĩ thuật này trong tư vấn dự phòng tái nghiện cho khách hàng.
QUẢN LÝ SỰ CĂNG THẲNG
66 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu các thành tố của căng thẳng
Hiểu những triệu chứng của sự căng thẳng
Hiểu những nguyên nhân của sự căng thẳng
Hiểu được căng thẳng có thể ảnh hưởng đến cả tư vấn viên lẫn khách hàng như thế nào
Hiểu những cách để giảm căng thẳng
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vi – Bài 6.4 67
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm gồm 4 - 5 học viên. Đề nghị mỗi nhóm thảo luận 2 câu hỏi sau trong vòng 10 phút:
1. Sự căng thẳng là gì?
2. Bạn xử trí như thế nào khi gặp căng thẳng trong cuộc sống?
Nói cho học viên biết rằng không có câu trả lời nào là đúng hay sai và hoạt động này nhằm thu thập ý kiến của họ về những câu hỏi trên.
Yêu cầu mỗi nhóm cử ra một người đại diện để báo cáo kết quả. Dành 10 phút để các nhóm thảo luận và 10 phút để báo cáo. Hướng dẫn học viên là họ không cần phải nhắc lại những gì nhóm khác đã nêu ra và nhắc họ hiểu rằng hoạt động này không nhằm mục đích kiểm tra kiến thức mà là để lấy ý kiến của học viên. Trong quá trình thuyết trình, nhắc lại những thông tin đã được nêu lên trong phần thảo luận nhóm này.
Căng thẳng là gì?
Trong cuộc sống bạn đã vượt qua sự căng thẳng như thế nào?
THẢO LUẬN NHÓM
68 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Mặc dù chúng ta thường nghĩ rằng sự căng thẳng là do những sự kiện bên ngoài gây ra nhưng bản thân các sự kiện này không có tính gây căng thẳng. Thực ra, căng thẳng là do cách chúng ta hiểu, diễn giải và phản ứng với các sự kiện đó. Mỗi người chúng ta có một cách diễn giải các sự kiện một cách khác nhau nên đối với cùng một sự kiện xảy ra có thể gây căng thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người khác. Việc họ phản ứng với các sự kiện này cũng khác nhau. Ví dụ: nói chuyện trước công chúng có thể là một việc gây căng thẳng đối với người này nhưng lại là một việc hoàn toàn thoải mái và thư giãn đối với người khác.
Bản chiếu 4
Căng thẳng là những đáp ứng hoặc phản ứng về tâm lí và thể chất trước những mối đe dọa có thật hoặc do suy diễn, tưởng tượng, trước những sự kiện và những thay đổi.
Mối đe dọa, sự kiện hay sự thay đổi được gọi chung là yếu tố gây căng thẳng.
Yếu tố gây căng thăng có thể xuất phát trong nội tâm (suy nghĩ, niềm tin, thái độ) hoặc bên ngoài (mất mát, thảm kịch, những thay đổi khác)
CĂNG THẲNG LÀ GÌ ?
Chương Vi – Bài 6.4 69
Bản chiếu 5
Nói: Kể cả những sự kiện tích cực và những sự kiện tiêu cực trong cuộc đời của một con người đều có tính căng thẳng. Tuy nhiên, những thay đổi lớn trong cuộc đời là những yếu tố chính gây ra căng thẳng cho phần lớn chúng ta. Những sự kiện này đòi hỏi phải có rất nhiều nguồn lực để có thể đối phó.
Những thay đổi chính trong cuộc đời có thể gây căng thẳng:
‚ Di chuyển chỗ ở đến một nơi xa
‚ Chuyển đến một trường mới
‚ Hôn nhân
‚ Mang thai
‚ Công việc mới
‚ Một lối sống mới
‚ Ly hôn
‚ Một người thân yêu qua đời
‚ Bị mất việc làm
Những sự kiện bên ngoài có thể gây ra sự căng thẳng:
‚ Áp lực về thời gian
‚ Cạnh tranh
‚ Những khó khăn về tài chính
‚ Tiếng ồn
‚ Sự thất vọng
Các thay đổi lớn trong cuộc sống (chuyển chỗ ở, chuyển việc làm, có người thân qua đời…).
Yếu tố môi trường (áp lực thời gian hoàn thành, sự cạnh tranh, vấn đề tài chính…)
CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY RA CĂNG THẲNG
70 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Theo các bạn thì liệu có phải tất cả mọi sự căng thẳng đều là tiêu cực không? Bạn có thể cho ví dụ về những yếu tố gây căng thẳng nhưng không mang tính tiêu cực với bạn?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên suy nghĩ và trả lời.
Bản chiếu 6
Là một thực tế xảy ra trong cuộc sống hàng ngày
Căng thẳng có thể là tích cực
Căng thẳng quá mức có thể có hại
CĂNG THẲNG
Chương Vi – Bài 6.4 71
Bản chiếu 7
Nói: Chúng ta hãy xem Mô hình căng thẳng của Hanson. Như trên biểu đồ, bạn có thể thấy mức độ căng thẳng càng tăng, chúng ta càng có thể hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu căng thẳng quá mức, khả năng thực hiện công việc sẽ bị giảm sút. Vì vậy, có những mức độ căng thẳng làm tăng năng suất nhưng cũng có ngưỡng căng thẳng mà khi vượt quá ngưỡng sẽ làm giảm năng suất. Sự căng thẳng có thể làm tăng hiệu quả công việc nhưng QUÁ NHIỀU có thể gây suy giảm khả năng làm việc.
Vùng căng thẳng tích cực trên biểu đồ khác nhau ở mỗi người. Nguyên tắc là càng căng thẳng thì càng làm việc hiệu quả. Tuy nhiên với mỗi người, sự tăng căng thẳng sẽ làm tăng hiệu quả làm việc ở mức độ khác nhau. Sự khác biệt giữa các cá nhân chính là mức độ cải thiện hiệu quả công việc tương ứng với mức độ gia tăng của căng thẳng. Sự giảm hiệu suất công việc liên quan đến tăng mức độ căng thẳng cũng khác nhau ở mỗi người. Nhưng về nguyên tắc thì giống nhau, càng căng thẳng thì hiệu quả làm việc càng giảm.

MÔ HÌNH CĂNG THẲNG CỦA HANSON
Tích cực
Căng thẳng
Hiệu quả

Tiêu cực
72 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Các bạn có thấy điều này đúng với các bạn không?
Hướng dẫn giảng dạy: Khuyến khích cả lớp thảo luận nhanh về căng thẳng đã tác động tích cực đến họ như thế nào trước đây. Quan sát xem có sự thống nhất rằng căng thẳng có thể tạo ra kết quả tích cực hay không?
Bản chiếu 8
Giúp tập trung hơn
Tăng cường khả năng thực hiện công việc
Tiếp thêm động lực
TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA CĂNG THẲNG
Chương Vi – Bài 6.4 73
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và đặt câu hỏi dưới đây. Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi và nhóm các câu trả lời theo các nhóm sau: thể chất, tâm lí và hành vi. Sau đó chiếu nội dung bản chiếu, chuyển sang bản chiếu tiếp theo và đồng thời kiểm tra xem ý kiến trả lời của học viên có trùng với những điểm được nêu trong bản chiếu không.
Nói: Các bạn có thể nêu một số những vấn đề về thể chất, tâm lí và hành vi do căng thẳng gây nên không?
Giảm động lực
Giảm hiệu quả
Gây ra những vấn đề về thể chất, tâm lí, hành vi
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CĂNG THẲNG
74 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau phần thảo luận nhóm được hướng dẫn ở bản chiếu trước.
Bản chiếu 10
Nhịp thở tăng
Nhịp tim tăng
Co cơ
Bàn tay ẩm ướt và lạnh
Run tay
Mất ngủ /thao thức
Rối loạn tiêu hóa:
- Đầy bụng/sôi bụng
- Tiêu chảy
Mệt mỏi
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ THỂ CHẤT
Chương Vi – Bài 6.4 75
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau thảo luận nhóm.
Lo lắng
Hay quên
Trầm cảm
Thờ ơ
Lẫn lộn
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ TÂM LÍ
76 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau khi thảo luận.
Bản chiếu 12
Chống đối
Cáu kỉnh
Bồn chồn
Ăn nhiều hoặc ăn ít hơn
Tăng sử dụng ma túy/ rượu
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ HÀNH VI
Chương Vi – Bài 6.4 77
Bản chiếu 13
Nói: Bây giờ chúng ta đã hiểu về thế nào là sự căng thẳng, những nguyên nhân và hậu quả của nó, chúng ta cần dành thời gian thảo luận về sự cần thiết phải ý thức được về những phản ứng của chúng ta đối với căng thẳng. Chúng ta cần phải nhận thức được để biết cách giảm sự căng thẳng.
Có 3 nhóm kĩ thuật chính để đối phó với sự căng thẳng, đó là nhóm kĩ thuật về tinh thần, về thể chất và giải trí.
Ai có thể cho một số ví dụ?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời.
Nói: Nhiều yếu tố gây căng thẳng có thể thay đổi được, mất đi, hoặc được giảm thiểu. Bạn có thể giảm sự căng thẳng bằng những cách sau:
1. Ý thức được về phản ứng của bản thân đối với sự căng thẳng
2. Duy trì những câu nói khích lệ bản thân
3. Tập trung vào những ưu điểm và những thành tựu của bản thân
4. Tránh cạnh tranh không cần thiết
5. Phát triển những hành vi quả quyết
6. Nhận biết và chấp nhận giới hạn của mình. Ghi nhớ rằng mỗi người đều có những đặc điểm riêng và khác với những người khác
7. Có một vài sở thích. Thư giãn và hưởng thụ
8. Tập thể dục thường xuyên
9. Có chế độ ăn cân bằng

Xác định được mình đang căng thẳng
Biết được mình phản ứng như thế nào
Học các kĩ thuật đối phó với sự căng thẳng
Áp dụng quản lí sự căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày.
10. Trao đổi với bạn bè hoặc một ai đó mà bạn tin tưởng về những điều bạn cảm thấy lo ngại
11. Học cách sử dụng thời gian một cách khôn ngoan:
a. Đánh giá việc phân chia thời gian
b. Luôn lập kế hoạch từ trước và tránh trì hoãn
c. Lập một kế hoạch hàng tuần và bám sát theo kế hoạch đó
12. Đề ra các mục tiêu thiết thực
13. Lập thứ tự ưu tiên
14 Thực hành kĩ thuật thư giãn. Ví dụ, bất cứ khi nào bạn cảm thấy căng thẳng, hít thở chậm trong vòng một vài phút

Bản chiếu 14
Nói: Có 3 phương pháp chính để quản lí căng thẳng, đó là sử dụng kĩ thuật về tâm lí, kĩ thuật về thể chất và giải trí. Trên đây là một số kĩ thuật về tinh thần mà khách hàng có thể sử dụng để đối phó với các yếu tố gây căng thẳng. Chúng ta sẽ có những bài học riêng về quản lí thời gian, giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu.
Quản lí thời gian
Tổ chức cuộc sống hợp lí
Giải quyết vấn đề
Xác định vấn đề quan trọng
- Xác định giá trị của bản thân
- Thiết lập ưu tiên
- Đặt mục tiêu
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ TINH THẦN
80 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Tập thể dục và tập thở là những cách đơn giản đối với khách hàng. Thông thường, người ta quên tầm quan trọng của việc cười thoải mái để cải thiện tâm trạng và giảm căng thẳng. Chế độ ăn cân đối cũng giúp giảm căng thẳng. Những người ăn uống không đủ chất có thể bị căng thẳng do thiếu dinh dưỡng. Yoga và ngồi thiền cũng giúp giảm căng thẳng hiệu quả. Kĩ thuật tưởng tượng cũng có thể hữu ích. Bạn chỉ cần nhắm mắt và tập trung tư tưởng vào một nơi yên bình là bạn sẽ quên được những căng thẳng trong cuộc sống.
Bản chiếu 15
Cười
Dinh dưỡng
Tập thể dục
Tập thở
Thiền (yoga)
Tưởng tượng
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ THỂ CHẤT
Chương Vi – Bài 6.4 81
Bản chiếu 16
Nói: Mọi người ai cũng cần được nghỉ ngơi sau những căng thẳng cuộc sống hàng ngày. Đây là những ví dụ phổ biến về cách giảm căng thẳng, giúp người ta nghỉ ngơi và hồi phục sức khỏe.
Âm nhạc
Thực hiện hoạt động yêu thích
Vui chơi
Đi nghỉ
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ GIẢI TRÍ
82 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu học viên dành 5 phút tự suy nghĩ và viết lên một tờ giấy về những điều khiến họ căng thẳng.
Sau khi họ đã viết xong, đi vòng quanh lớp và hỏi học viên xem liệu họ có đối phó với những yếu tố gây căng thẳng theo cách khác đi sau khi học bài học này không.Hỏi về những điều mà họ có thể áp dụng để thay đổi cách đáp ứng của họ với những nguyên nhân gây căng thẳng cụ thể. Nhớ ghi lại trên bảng lật.
Sau đó hỏi học viên xem những nguyên nhân gây căng thẳng nào có thể ảnh hưởng tới khách hàng.
Nói: Bạn sẽ áp dụng những chiến lược nào để giúp khách hàng giảm sự căng thẳng?
Hướng dẫn giảng dạy: Ghi nhận những điều tương tự và khác nhau về cách mà tư vấn viên có thể giải quyết những nguyên nhân gây căng thẳng của họ, và với những cách họ sẽ hướng dẫn khách hàng. Tìm hiểu xem liệu họ có áp dụng chiến lược giống nhau không, tại sao, và nếu không, tại sao.
Bản chiếu 17
Viết ra những nguyên nhân gây căng thẳng trong cuộc sống của bạn (bài tập cá nhân – 5 phút)
Chờ hướng dẫn tiếp theo
BÀI TẬP
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những thông điệp chính của bài học.
Nói: Bây giờ có lẽ bạn cảm thấy rằng bạn đã hiểu rõ hơn về những yếu tố gây căng thẳng và cách kiểm soát căng thẳng.
Các bạn cũng hiểu biết hơn về:

‚ Những nguyên nhân của sự căng thẳng
‚ Những triệu chứng của sự căng thẳng
‚ Sự căng thẳng ảnh hưởng đến bản thân bạn và khách hàng của bạn như thế nào
‚ Những cách giảm căng thẳng
Nội dung quan trọng cần ghi nhớ là:

‚ Căng thẳng xảy ra đối với cả bạn và khách hàng
‚ Căng thẳng có các dấu hiệu và triệu chứng rõ rệt
‚ Có thể kiểm soát và giảm bớt sự căng thẳng
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Căng thẳng xảy ra cả với bạn và khách hàng
Căng thẳng có các dấu hiệu và triệu chứng rõ rệt
Có thể kiểm soát và giảm bớt sự căng thẳng
TÓM TẮT

6.5 Quản lí thời gian
Bài 86 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về quản lí thời gian trong tư vấn điều trị
nghiện ma túy và mối liên quan với dự phòng tái nghiện.
II. Thuyết trình 55 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về quản lí thời gian.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của các học viên (nếu có).
Bài 6.5: Quản lí thời gian
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về những nguyên tắc cơ bản trong việc quản lí thời gian cho cả tư vấn viên và khách hàng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu rõ tầm quan trọng của quản lí thời gian trong tư vấn
‚ Giải quyết được những vấn đề về quản lí thời gian cho bản thân và cho khách hàng
‚ Hiểu được sự liên quan giữa quản lí thời gian và tái nghiện
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
‚ Bài tập nhóm nhỏ
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.5 87
Nói: Bài học về quản lí thời gian gồm 3 phần. Phần đầu tiên thảo luận về cách quản lí thời gian hiệu quả cho chính các bạn. Phần thứ hai thảo luận về cách quản lí thời gian trong các buổi tư vấn. Phần thứ ba nhằm hướng dẫn cách giới thiệu khái niệm quản lí thời gian với khách hàng và giúp họ xây dựng chiến lược quản lí thời gian.
Bài học này được chia thành 3 phần là vì cách sử dụng kĩ thuật này cho bản thân các bạn và cho khách hàng là khác nhau. Hơn nữa, bản thân các bạn cũng cần có kiến thức và các kĩ năng để quản lí thời gian hiệu quả. Cuối cùng, những lí do đòi hỏi các bạn phải xây dựng cơ chế quản lí thời gian cũng khác so với những lí do của khách hàng.

Bản chiếu 1
QUẢN LÍ THỜI GIAN
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu rõ tầm quan trọng của quản lý thời gian trong tư vấn
Giải quyết được những vấn đề về quản lí thời gian cho bản thân và cho khách hàng
Hiểu được sự liên quan giữa quản lí thời gian và tái nghiện
MỤC TIÊU
Chương Vi – Bài 6.5 89
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành 3 nhóm nhỏ. Yêu cầu mỗi nhóm chọn một người để trình bày kết quả thảo luận.
Đề nghị mỗi nhóm thảo luận MỘT trong số những câu hỏi trên bản chiếu. Nói cho tất cả mọi người biết rằng không có câu trả lời nào là đúng hay sai và họ cần viết ra tất cả các ý tưởng nảy sinh trong đầu.
Sau khi các nhóm đã trình bày kết quả thảo luận xong, nói với học viên rằng bạn sẽ lần lượt thảo luận chi tiết về các chủ đề này trong bài. Vào cuối bài học, hãy yêu cầu học viên nhớ lại những gì đã thảo luận trong bài tập này để xem có gì thay đổi không. (Học viên không cần phải ghi chép lại những kết quả thảo luận của họ)
Bản chiếu 3
Bạn sẽ sử dụng những kĩ thuật nào để tập trung vào công việc của bạn sau khi bị chen ngang bởi một công việc/một người khác?
Tại sao bạn nghĩ quản lí thời gian lại quan trọng trong tư vấn ?
Khi bạn đang tư vấn cho khách hàng nhưng thời gian buổi tư vấn sắp kết thúc, bạn sẽ làm gì để dừng cuộc nói chuyện/ thảo luận với khách hàng?
THẢO LUẬN NHÓM
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu bản chiếu số 4 và hỏi họ xem liệu đây là những hiểu biết không đúng hay là sự thật. Mời học viên tham gia thảo luận. Để ý xem ý kiến của học viên có thống nhất không. Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về các hiểu biết không đúng.
Thông tin tham khảo:
Số 1:
Lập thời gian biểu chỉ tốn thời gian. Trên thực tế, kết quả các nghiên cứu đã chứng minh là ngược lại.
Số 2: Khi tôi uống rượu, tôi làm việc hiệu quả hơn. Sai! Nghiên cứu cho thấy rượu luôn ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định và năng suất làm việc. Thông thường, khi uống rượu, người ta thường nghĩ rằng họ đã có những quyết định khôn ngoan khi say nhưng đến ngày hôm sau khi tỉnh dậy, họ nhận thấy quyết định của họ thật ngớ ngẩn.
Số 3: Vấn đề trong quản lí thời gian là không đủ thời gian để hoàn thành những việc cần làm. Không đúng, vấn đề trong việc quản lí thời gian là ở chỗ bạn không dùng thời gian một cách tối ưu, để hoàn thành những việc mà bạn cần làm.
Số 4: Càng bận thì tôi càng sử dụng thời gian hiệu quả hơn. Hãy thận trọng! Có thể bạn chỉ làm những việc khẩn, chứ không phải là những việc quan trọng.
Số 5: Tôi cảm thấy bận rộn, như vậy nghĩa là tôi đang gặp rắc rối trong việc quản lí thời gian. Không nhất thiết là như vậy. Bạn nên làm rõ xem bạn có gặp rắc rối gì trong việc quản lí thời gian hay không. Việc này đòi hỏi bạn phải biết bạn thực sự muốn hoàn thành những công việc gì và bạn có đang hoàn thành những công việc đó hay không.
# 1: Lập thời gian biểu chỉ tốn thời gian
# 2: Khi tôi uống rượu, tôi làm việc hiệu quả hơn
#3: Vấn đề trong quản lí thời gian là không đủ thời gian để hoàn thành những việc cần làm
#4: Càng bận rộn tôi đang sử dụng hiệu quả thời gian của mình
# 5: Tôi cảm thấy bận rộn, như vậy tôi đang gặp vấn đề trong việc quản lí thời gian
MỘT SỐ HIỂU BIẾT SAI VỀ QUẢN LÍ THỜI GIAN
Chương Vi – Bài 6.5 91
Bản chiếu 5
Nói: Một điều cần làm để quản lí thời gian hiệu quả là ghi chép lại những điều cần làm để sau này không phải lo lắng là mình có quên điều gì đó hay không.
Tránh việc chỉ lập danh sách những việc cần làm ở trong đầu. Danh sách tốt hơn hết nên được viết ra để không phải ghi nhớ chúng trong đầu. Khi bạn viết danh sách này trong nhật ký, bạn có thể dành đầu óc để tập trung suy nghĩ vào các việc khác. Danh sách những việc cần làm cần được cập nhật liên tục vì những ưu tiên sẽ thay đổi, danh sách của bạn cũng cần phải thay đổi theo.
Hãy thực tế. Tự cam kết thực hiện những công việc và dự án có thể hoàn thành được. Nếu bạn biết chắc là sẽ không thể hoàn thành một công việc trong một ngày đã định, thì cần chuyển công việc đó sang ngày hôm sau hoặc một ngày nào đó phù hợp. Khi bạn đã viết xong danh sách những việc cần làm trong nhật ký thì việc tiếp theo là xem lại danh sách để sắp xếp các hoạt động theo thứ tự quan trọng. Sau đó, bạn đơn giản chỉ cần bắt đầu công việc số 1 và cứ như thế đến số 2, 3 …
Trong những bản chiếu tiếp theo chúng ta sẽ thảo luận về các phương pháp quản lí thời gian hiệu quả.

Thời gian đối với mỗi người là một nguồn lực hữu hạn nên cần được phân bổ hợp lý để tạo ra sản lượng cao nhất
Luôn phải ưu tiên cho những công việc quan trọng nhất Không thể dành quá nhiều thời gian để đáp ứng mọi yêu cầu
VÌ SAO CẦN QUẢN LÍ THỜI GIAN
Nói: Có ba bước chính mà bạn cần thực hiện khi lập kế hoạch về thời gian.
‚ Tạo môi trường làm việc thuận lợi
‚ Lựa chọn ưu tiên công việc với quỹ thời gian của bạn
‚ Lập kế hoạch hành động để hoàn thành những nhiệm vụ này.
Bản chiếu 6
Bước 1: Tạo môi trường làm việc thuận lợi
Bước 2: Lựa chọn ưu tiên
Bước 3: Lập kế hoạch
QUẢN LÍ THỜI GIAN:
CÁC BƯỚC CHÍNH

Chương Vi – Bài 6.5 93
Bản chiếu 7
Nói: Để quản lí thời gian hiệu quả và hoàn thành công việc, bạn nên tạo dựng một môi trường làm việc mà bạn cảm thấy thoải mái và hiệu quả. Đảm bảo nơi làm việc của bạn phải phù hợp và mang phong cách riêng. Một số người thích trang trí cho nơi làm việc của họ bằng những đồ vật hoặc hình ảnh làm cho họ cảm thấy bình tĩnh (ví dụ: ảnh gia đình, bạn bè, những kỷ niệm đẹp).
Tạo dựng một không gian làm việc hấp dẫn, hiệu quả là một việc rất quan trọng đối với tư vấn viên. Bạn phải giúp cho khách hàng của bạn cảm thấy thoải mái khi họ đến phòng tư vấn của bạn. Bạn phải sắp xếp và trang trí nơi làm việc của bạn một cách chuyên nghiệp để bạn không phải mất thời gian vào việc tìm thứ này, thứ nọ khi tư vấn cho khách hàng. Đồng thời, bạn là một hình mẫu tốt cho khách hàng noi theo. Nếu bạn không thể quản lí thời gian tốt, bạn sẽ không thể dạy họ cách quản lí thời gian tốt.
Bạn cũng cần phải quan tâm đến những thay đổi về sinh lí có thể tác động tới hiệu quả công việc của bạn. Ví dụ, nếu bạn là người thường làm việc rất tập trung và năng nổ vào buổi sáng thì có lẽ bạn nên sắp xếp lịch tư vấn cho càng nhiều khách hàng càng tốt trong thời gian buổi sáng và dành thời gian còn lại vào buổi chiều cho những công việc hành chính. Bạn sẽ không bao giờ muốn xuất hiện với dáng vẻ mệt mỏi khi tiếp xúc với khách hàng vì họ có thể hiểu sai và cho rằng bạn không quan tâm tới tình huống của họ.

Bước 1: Tạo môi trường làm việc thuận lợi
Tạo môi trường khuyến khích làm việc
Theo dõi nhịp sinh học
- Giải quyết công việc trong khoảng thời gian bạn có thể làm việc tốt nhất
QUẢN LÍ THỜI GIAN: NGUYÊN TẮC CHUNG
Nói: Sau khi tạo dựng được một môi trường làm việc đạt được những kết quả đúng theo kế hoạch đã định, việc tiếp theo bạn cần phải làm là lập thứ tự ưu tiên các nhiệm vụ. Hãy nhớ là bạn không thể nào cùng một lúc làm tất cả mọi việc và càng không thể nào cùng một lúc có thể hoàn thành tất cả mọi việc. Như đã thảo luận ở phần trước, bạn cần phải lập một danh sách những việc cần làm chứ không nên chỉ nhớ trong đầu.
GHI NHỚ: Một danh sách tốt về những việc cần làm là một danh sách được cập nhật hàng ngày. Một điều quan trọng nữa là danh sách này cũng phải thực tế. Chỉ nên lập danh sách những dự án và hoạt động có thể thực hiện và hoàn thành được.
Hãy nhìn vào bảng ở trên bản chiếu. Có hai góc độ nhìn nhận về những công việc chúng ta cần làm, đó là mức độ khẩn cấp và mức độ quan trọng. Khi lập xong danh sách thì hãy sử dụng bảng chia mức độ ưu tiên ở bản chiếu này để quyết định mức độ khẩn cấp và mức độ quan trọng của từng nhiệm vụ. Hãy bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ được xếp vào ô số I. Khi hoàn thành xong thì chuyển sang các hoạt động ở ô số II và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi ngày làm việc kết thúc.
Cách phân loại các việc cần làm thành 4 nhóm sẽ không phải cứ cố định như vậy. Bạn cần xem lại bảng này sau mỗi ngày vì đôi khi, những việc nằm trong ô số IV đột nhiên lại phải được chuyển vào ô số I do tính quan trọng và khẩn cấp của nó thay đổi. Bạn có thể phải điều chỉnh danh sách này hàng ngày hoặc hàng tuần.

Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu học viên suy nghĩ về những nhiệm vụ của họ trong tuần trước. Yêu cầu họ dành 1 phút và nhóm các nhiệm vụ đó thành một bảng giống như trên bản chiếu. Thảo luận xem họ đã sắp xếp như thế nào. Nói với học viên rằng, sau khi đã lập thứ tự ưu tiên những việc phải làm, cần phải bắt đầu xây dựng kế hoạch.
Bản chiếu 8
Bước 2: Lựa chọn ưu tiên
Lập danh sách những việc bạn cần thực hiện Sắp xếp các công việc đó theo bảng 2x2 và lựa chọn hoạt động trong ô I và II
QUẢN LÍ THỜI GIAN:
NGUYÊN TẮC CHUNG

Khẩn cấp Quan trọng Cao Thấp
Cao I II
Thấp III IV
Chương Vi – Bài 6.5 95
Bản chiếu 9
Nói: Lập kế hoạch rất quan trọng đối với cả bạn và khách hàng. Có ba loại kế hoạch: ngắn hạn (1 ngày/ 1 tuần), trung hạn (1 tháng/ 1 quý) và dài hạn (3-5 năm).
Với mục tiêu dài hạn, bạn cần:

‚ Quyết định mục tiêu cần phải đạt được
‚ Xác định các bước để đạt được mục tiêu đó
‚ Bắt đầu bằng những bước nhỏ ban đầu và hoàn thành những bước đó. Điều chỉnh hoặc bổ sung thêm các bước nếu cần. (Có thể bạn không biết được tất cả các hoạt động hoặc các bước cần thiết để đạt được mục tiêu cuối cùng).
Trong quá trình thực hiện các bước, có lúc bạn cần phải dừng lại để đánh giá kết quả đạt được và điều chỉnh kế hoạch, nếu cần. Cũng giống như khi bạn leo núi, có những vách núi rất khó vượt qua, bạn sẽ mất can đảm và quyết tâm để tiếp tục trèo lên nếu bạn luôn luôn chỉ nhìn thấy còn quá xa mới đến được đích. Vì vậy, hãy dành thời gian để nhìn lại những gì bạn đã thực hiện được và thấy rằng bạn đã rất thành công. Điều đó giúp bạn mạnh mẽ hơn, dũng cảm hơn và quyết tâm mạnh mẽ hơn trên con đường đi tới.
Đối với bất kỳ kế hoạch nào cũng cần phải có thời gian để đáp ứng những nhu cầu cá nhân như thư giãn, giải tỏa sự căng thẳng và thưởng thức. Bạn nên đưa vào kế hoạch này một chuyến đi nghỉ. Nhớ là ngay từ đầu, bạn không nên quá tham vọng.

Bước 3: Xây dựng kế hoạch
Lập thời gian biểu chi tiết cho mục tiêu dài hạn, bao gồm các bước để đạt được mục tiêu
Sau mỗi ngày, mỗi tuần cần nhìn lại và điều chỉnh kế hoạch
Đưa những hoạt động liên quan đến nhu cầu cá nhân, nghỉ ngơi, giải trí vào kế hoạch Đừng tạo ra một kế hoạch quá tham vọng.
QUẢN LÍ THỜI GIAN: NGUYÊN TẮC CHUNG
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để nói về vai trò và trách nhiệm chính của tư vấn viên trong quản lí thời gian một buổi tư vấn.
Thông tin tham khảo: Vai trò của tư vấn viên là gì?
Vai trò chính của tư vấn viên là khích lệ và củng cố động cơ của khách hàng để hướng tới sự thay đổi. Vai trò này có thể bao gồm cả vai trò của một giáo dục viên và một cộng tác viên trong quá trình phục hồi của khách hàng. Phải giảm bớt vai trò của một chuyên gia/ cố vấn.
Ai là người nên nói nhiều hơn?
Khách hàng nên nói là chính, không tính phần thời gian làm đánh giá cá nhân và phản hồi bởi vì khi đó tư vấn viên phải nói rất nhiều để giải thích cho khách hàng.
Tư vấn viên nên giữ vai trò dẫn dắt ở mức độ nào?
Các buổi tư vấn là những buổi thảo luận tập trung vào khách hàng nhưng cũng cần phải được định hướng. Mục tiêu cụ thể mà tư vấn viên theo đuổi được dựa trên kết quả đánh giá khách hàng (và nhu cầu của khách hàng). Tuy nhiên, nó sẽ chỉ thành công khi khách hàng không cảm thấy là họ bị chỉ đạo, ép buộc, hoặc dạy bảo. Tư vấn viên nên hướng dẫn khách hàng thông qua việc đặt các câu hỏi mở và phản hồi có lựa chọn với những câu trả lời của khách hàng, chứ không nên áp dụng các chiến lược đối đầu và đưa ra lời khuyên. Hãy hình dung vai trò này giống như khi tư vấn viên và khách hàng cùng hợp tác với nhau để chơi trò ghép hình. Thay vì tư vấn viên một mình xếp hình trong khi khách hàng ngồi xem, tư vấn viên thực ra sẽ là người giúp khách hàng dựng khung, đặt từng hình lên trên bàn để tự tay khách hàng sẽ là người xếp từng hình vào đúng vị trí trong khung.
Bản chiếu 10
Tuân thủ trình tự của mỗi buổi tư vấn
Tập trung vào vấn đề quan trọng nhất của khách hàng
Liên kết các điểm quan trọng và chuyển chủ đề một cách hợp lí
Cần phải tập trung và sử dụng kĩ năng tóm tắt khi cần
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG MỘT BUỔI TƯ VẤN
Chương Vi – Bài 6.5 97
Tư vấn viên cần thiết lập một mối quan hệ trị liệu với khách hàng ngay từ đầu. Phương pháp trị liệu lấy khách hàng làm trung tâm cung cấp một nền tảng vững chắc cho việc xây dựng mối quan hệ này, với trọng tâm là đặt các câu hỏi mở và lắng nghe có phản hồi. Tư vấn viên nên sử dụng các chiến lược hỗ trợ và tạo dựng động cơ cho đến khi nào khách hàng không còn có thái độ phản kháng và thể hiện những dấu hiệu mong muốn thay đổi. Các buổi tư vấn phải có trọng tâm. Với vai trò là một tư vấn viên, bạn cần giúp khách hàng tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất trước và giúp họ nhìn nhận được sự liên quan giữa việc sử dụng chất gây nghiện và các hậu quả về sinh học - tâm lí - xã hội của họ. Bạn có thể làm việc này với khách hàng mà không khiến họ có cảm giác gấp gáp bằng cách kết nối các điểm quan trọng với nhau và thay đổi chủ đề nếu cần.
Luôn luôn hành động có định hướng và sử dụng kĩ năng tóm tắt khi cần.
Bản chiếu 10 (tiếp)
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Làm thế nào để tư vấn viên có thể giữ cho buổi tư vấn đi theo hướng tích cực mà không cảm thấy vội vã?
Bạn có thể làm được bằng cách phối kết hợp các kĩ năng tư vấn sau đây:

‚ Đặt câu hỏi mở/ câu hỏi đóng
‚ Khơi gợi
‚ Diễn giải
‚ Tóm tắt
‚ Phản hồi các trạng thái cảm xúc
‚ Thể hiện sự thấu cảm
Bạn cần biết khi nào thì nên đặt câu hỏi mở, khi nào thì nên đặt câu hỏi đóng. Sẽ rất khó cho bạn nếu từ đầu đến cuối bạn chỉ đặt một loại câu hỏi. Bạn luôn phải biết sử dụng cân bằng giữa hai loại câu hỏi này. Điều quan trọng là bạn phải phân biệt được điều gì bạn cần biết chi tiết, cụ thể, điều gì bạn chỉ cần biết thông tin chung chung. Bạn cũng có thể cần phải sử dụng tất cả những kĩ năng khác nữa mà chúng ta đã thảo luận. Những kĩ năng đó cũng giúp bạn quản lí thời gian tốt hơn.
Nếu bạn thực hiện thành công những kĩ năng này trong một buổi tư vấn thì khách hàng sẽ cảm thấy:

‚ Họ được lắng nghe
‚ Họ được tham gia vào trong một cuộc hội thoại chứ không phải là người chỉ nghe lời người khác nói
‚ Hành động và hành vi của họ cũng như những hậu quả của nó đều liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của họ.
Bản chiếu 11
Sử dụng lồng ghép các kĩ năng tư vấn
- Đặt câu hỏi mở/đóng
- Khơi gợi
- Diễn giải
- Tóm tắt
- Phản hồi các trạng thái cảm xúc
- Thể hiện sự thấu cảm
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG MỘT BUỔI TƯ VẤN
Chương Vi – Bài 6.5 99
Bản chiếu 11 (tiếp)
Sử dụng những kĩ năng này sẽ giúp khách hàng cảm thấy họ được chào đón, được thấu hiểu, được hỗ trợ, và quan trọng nhất là buổi tư vấn sẽ bắt đầu và kết thúc đúng giờ.
100 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Chúng ta đã thảo luận xong về quản lí thời gian, những hiểu biết không đúng về quản lí thời gian, và tầm quan trọng của quản lí thời gian trong cuộc sống và trong các buổi tư vấn.
Chúng ta cũng đã thảo luận những gì cần thực hiện trong một buổi tư vấn, kể cả các kĩ thuật quản lí thời gian.

Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành 3 nhóm và yêu cầu các nhóm cử người trình bày kết quả thảo luận với cả lớp
Nói: Tôi muốn mỗi nhóm dành 5 phút để thảo luận xem cần bao nhiêu thời gian cho mỗi bước của buổi tư vấn như trên bản chiếu. Hãy xác định xem tư vấn viên cần nói gì khi bắt đầu buổi tư vấn, trong buổi tư vấn và kết thúc buổi tư vấn.
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để từng nhóm báo cáo kết quả thảo luận và góp ý khi cần. Sử dụng những thông tin dưới đây để bổ sung cho kết quả thảo luận nhóm.
Thông tin tham khảo:
Mở đầu

Bạn phải dành khoảng 5 phút để chào đón và định hướng cho khách hàng, để giúp họ không hiểu sai về mong đợi từ buổi tư vấn. Để thực hiện điều này một cách hiệu quả, trước khi gặp khách hàng, bạn cần đọc những thông tin ghi chép trước đó để nhớ lại những nội dung tư vấn buổi trước. Bạn có thể bắt đầu buổi tư vấn bằng cách nói: “Rất vui được gặp lại bạn, trong buổi tư vấn trước chúng ta đã nói về __________. Giờ chúng ta sẽ tiếp tục nhé. Bạn hãy cho tôi biết bạn đã thực hiện đến đâu.” Tư vấn viên luôn luôn phải làm như vậy vì rất hiếm khi khách hàng có thể nhắc bạn là buổi tư vấn trước hai bên đã làm gì. Làm như vậy cũng giúp bạn đặt ra cấu trúc và điểm bắt đầu cho những chủ đề sẽ được thảo luận trong buổi tư vấn này.
Mở đầu
Quá trình tư vấn
Kết thúc
TRÌNH TỰ CỦA MỘT BUỔI TƯ VẤN: 45 PHÚT
Thực hiện
Phần thứ hai của buổi tư vấn có tính tương tác cao hơn. Nó được phát triển dựa trên cơ sở của phần giới thiệu và có sử dụng các kĩ năng tư vấn. Hầu hết thời gian, bạn sẽ dành để nghe khách hàng nói, sau khi đặt những câu hỏi mở để giúp họ tìm hiểu những điều đang diễn ra. Giai đoạn này có thể kéo dài 30 phút.
Kết thúc buổi tư vấn
Tư vấn là một hành trình mà nó không có điểm đến cuối cùng. Trong hầu hết các trường hợp, kết thúc một buổi tư vấn chỉ là thời gian nghỉ trước khi tiếp tục buổi tư vấn tiếp theo. Đôi khi, bạn phải áp dụng cách sáng tạo nhất để kết thúc buổi tư vấn. Một cách để kết thúc buổi tư vấn là 10 phút trước khi hết giờ, bạn nên tóm tắt lại nội dung buổi tư vấn. Bạn cũng có thể sử dụng khoảng thời gian này để suy nghĩ về những bước tiếp theo phù hợp. Kiểm tra xem khách hàng đã thật sự hiểu những gì đã được thảo luận chưa. Phải chắc chắn là khách hàng đồng ý về những việc cần làm tiếp theo, kể cả trước, trong và sau buổi tư vấn tiếp theo. Bạn cũng cần có những phản hồi và góp ý cho khách hàng về những gì họ sẽ làm và những gì đã đạt được, để họ cảm thấy phấn khởi trước khi ra về. Chắc chắn rằng bạn ghi chép lại tất cả những điều quan trọng lại để phục vụ cho buổi tư vấn lần sau.
Nói: Giống như khi bạn cần phải quản lí thời gian trong cuộc sống của bạn và trong các buổi tư vấn mà bạn thực hiện, khách hàng cũng cần được hướng dẫn về cách quản lí thời gian. Một lí do tại sao quản lí thời gian lại cần thiết và quan trọng đối với khách hàng đang phục hồi là nó góp phần dự phòng tái nghiện. Một người nghiện ma túy sử dụng rất nhiều thời gian vào việc tìm kiếm, mua và sử dụng ma túy. Tuy nhiên, khi họ ngừng sử dụng ma túy và tham gia tư vấn, họ có rất nhiều thời gian rảnh rỗi.
Điều này gây ra 2 khó khăn. Quá nhiều thời gian rảnh sẽ gây buồn chán và buồn chán gây căng thẳng. Căng thẳng có thể làm tăng nguy cơ tái nghiện. Khó khăn thứ hai là làm sao giúp khách hàng lấp đầy khoảng thời gian rỗi theo cách mà họ cảm thấy hữu ích và hiệu quả. Sẽ rất khó khăn khi bắt đầu việc này vì khách hàng không quen nghĩ đến việc quản lí thời gian của họ.

Bản chiếu 13
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Chương Vi – Bài 6.5 103
Bản chiếu 14
Nói: Khi hỗ trợ cho khách hàng quản lí thời gian hiệu quả hơn, bạn cũng góp phần giúp họ dự phòng tái nghiện. Tư vấn viên nên giải thích cho khách hàng biết rằng, khi họ xây dựng kế hoạch là họ cũng đang giải quyết những vấn đề có thể liên quan đến nguy cơ tái nghiện. Bạn có thể nói thêm rằng:
‚ Việc phân bổ thời gian không hợp lí có thể gây ra sự nhàm chán làm tăng nguy cơ tái nghiện
‚ Thời gian không được quản lí có thể dẫn tới những quyết định vô tình xô đẩy họ tới những tình huống nguy cơ cao
‚ Khách hàng thường phàn nàn rằng họ không có việc gì để làm - một kế hoạch cá nhân chi tiết sẽ giúp họ rõ hơn về những việc họ nên làm
‚ Một kế hoạch cá nhân chi tiết có thể giúp khách hàng có được sự ủng hộ của gia đình và bạn bè vì họ có thể nhận thấy rằng khách hàng đang cố gắng nỗ lực để thay đổi cuộc sống.
Phân bổ thời gian không hợp lí
Không quản lí thời gian dẫn đến thiếu mục đích trong cuộc sống
Thiếu công việc để làm dẫn đến buồn chán
Khách hàng sẽ nhận được sự hỗ trợ hiệu quả hơn từ gia đình và người thân nếu họ có kế hoạch hành động
TẠI SAO CẦN QUẢN LÍ THỜI GIAN ĐỂ DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Nói: Nhiều khách hàng cần được hướng dẫn các kĩ năng để có thể học cách lập một kế hoạch cá nhân hữu ích cho cuộc sống hàng ngày của họ. Điều này sẽ giúp giảm đi sự căng thẳng và bảo đảm rằng khách hàng có thể hoàn thành công việc hàng ngày của họ. Vậy thì bạn làm thế nào để có thể giúp khách hàng học được những kĩ năng quý giá này.
Có thể giúp họ bằng các cách sau đây:

‚ Khuyến khích khách hàng tự lập một kế hoạch cá nhân, chỉ trợ giúp khi cần thiết.
‚ Kế hoạch càng chi tiết thì quyết tâm thực hiện càng lớn và khả năng thành công sẽ càng cao.
‚ Sau khi khách hàng xây dựng được một kế hoạch phác thảo thì dành riêng một buổi tư vấn cho họ để thảo luận về những điểm thuận lợi và khó khăn của kế hoạch.
‚ Giúp khách hàng nhận biết được những kết quả của từng thay đổi nhỏ họ đã thực hiện.
Trong quá trình thực hiện các buổi tư vấn, cần lồng ghép kế hoạch cá nhân của khách hàng vào kế hoạch phục hồi tổng thể của họ. Công nhận những thành công và mỗi thay đổi họ đã làm được. Bạn cũng có thể cần chỉ cho khách hàng thấy rằng trong quá trình này, họ cũng bắt đầu học được cách đối phó với những yếu tố cám dỗ thúc đẩy họ tới nguy cơ tái nghiện.

Bản chiếu 15
Khuyến khích khách hàng tự lập ra kế hoạch cá nhân, chỉ hỗ trợ khi cần thiết
Chuẩn bị kế hoạch càng kỹ thì càng có quyết tâm thực hiện và khả năng thành công càng cao
Thảo luận với khách hàng về những khó khăn, trở ngại và những yếu tố thuận lợi liên quan đến kế hoạch của khách hàng
Giúp khách hàng nhận biết được tầm quan trọng của mỗi thay đổi đạt được
LẬP KẾ HOẠCH CÁ NHÂN NHƯ THẾ NÀO
Nói: Hãy nhớ lại phần đầu của bài này chúng ta đã thảo luận về việc tư vấn viên cần phải xây dựng một kế hoạch quản lí thời gian cá nhân và trong các buổi tư vấn. Điều đó quan trọng đối với tư vấn viên như thế nào thì cũng quan trọng như vậy đối với khách hàng. Bạn có thể cần phải thảo luận kế hoạch của khách hàng và giao cho khách hàng bài tập về nhà (khách hàng phải về nhà tự xây dựng kế hoạch) để buổi tư vấn sau, khách hàng sẽ mang bản kế hoạch sơ bộ đến để thảo luận tiếp.
Khách hàng có thể làm những việc sau:

‚ Xây dựng một kế hoạch cá nhân phù hợp (đừng quá tham vọng và ưu tiên những việc dễ thực hiện)
‚ Hiểu rõ kế hoạch và hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu
‚ Lập kế hoạch chi tiết và liệt kê các hoạt động cần thực hiện theo từng giờ trong ngày
‚ Ưu tiên những hoạt động an toàn hoặc nguy cơ thấp
TẠI SAO ĐIỀU NÀY LẠI QUAN TRỌNG NHƯ VẬY? Bởi vì một kế hoạch thành công sẽ nhiều khả năng giúp khách hàng không bị tái nghiện. Ngược lại, kế hoạch không thành công có thể dẫn đến tái nghiện.
Khách hàng có thể làm như sau:
Lập kế hoạch cá nhân phù hợp: tránh kế hoạch quá tham vọng, ưu tiên các hoạt động dễ thực hiện trước
Hiểu rõ những kế hoạch và hoạt động nào cần thực hiện để đạt được mục tiêu
Lập kế hoạch chi tiết và liệt kê các hoạt động theo từng giờ trong ngày
Ưu tiên những hoạt động an toàn hoặc nguy cơ thấp
Thực hiện thành công kế hoạch = giảm nguy cơ tái nghiện;
Không thực hiện được = nguy cơ tái nghiện cao

HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG LẬP KẾ HOẠCH HÀNG NGÀY
Nói: Bạn cần phải hiểu rõ về trình độ học vấn và nền tảng kiến thức của khách hàng. Ví dụ, nếu họ không biết đọc biết viết thì việc xây dựng kế hoạch có thể sẽ khó khăn hơn đối với họ.
Bạn cần phải suy nghĩ về cách đối phó với tình huống này.
Nhiều khách hàng hay phàn nàn rằng họ không có việc gì để làm, không có gì để có thể đưa vào thời gian biểu.
Làm thế nào để lôi cuốn khách hàng tham gia vào việc lập thời gian biểu riêng cho họ trong những tình huống này?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi.
Nói: Một giải pháp là đề nghị khách hàng ghi chép lại những việc họ làm trong ngày trước khi đến tư vấn (những việc họ thực sự đã làm trong ngày đó hoặc ngày trước đó). Sau đó nhân viên tư vấn có thể hỗ trợ khách hàng tự xây dựng thời gian biểu cho họ dựa trên các hoạt động của một ngày điển hình. Khách hàng cần đưa vào thời gian biểu giờ ngủ dậy, ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, đi ngủ… Kết quả là họ sẽ nhận thấy là họ có rất nhiều việc để làm trong một ngày.
Bản chiếu 17
Nhận biết được trình độ học vấn và nền tảng kiến thức của khách hàng:
- Họ có mù chữ không, nếu có thì sẽ khó khăn trong xây dựng kế hoạch
- Có thể cần các chiến lược bổ sung để xây dựng kế hoạch hàng ngày hiệu quả
Rào cản hay gặp:
- Nhiều khách hàng phàn nàn rằng họ chẳng có việc gì để làm, chẳng có gì để đưa vào thời gian biểu
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Chương Vi – Bài 6.5 107
Bản chiếu 18
Nói: Nếu bạn yêu cầu khách hàng của bạn tự xây dựng kế hoạch hàng ngày của họ theo bảng trên ngay từ buổi tư vấn đầu tiên, thường thì khách hàng của bạn sẽ rất bối rối và có thể họ sẽ nói: “Tôi chẳng có việc gì để làm cả”. Việc điền vào bảng kế hoạch như thế này là một việc hết sức bình thường đối với những người có đầu óc tổ chức và luôn bận rộn. Với khách hàng, những người cho rằng họ chẳng có việc để làm, thì bảng này sẽ khiến họ lúng túng. Bạn có thể giúp họ chia nhỏ một ngày ra thành 4 hàng và đặt tên: ngủ, ăn sáng, ăn trưa và ăn tối với những khoảng trống giữa chúng. khách hàng sau đó sẽ nghĩ ra các hoạt động hàng ngày để điền thêm các hoạt động vào các khoảng trống đó.
Để công việc này thêm phần thú vị, bạn có thể bắt đầu bằng các câu hỏi:

‚ Bạn đi ngủ lúc mấy giờ tối?
‚ Bạn dậy lúc mấy giờ sáng?
‚ Bạn ăn sáng lúc mấy giờ?
‚ Bạn ăn trưa lúc mấy giờ?
‚ Bạn ăn tối lúc mấy giờ?
‚ Bạn tắm lúc nào?
‚ Bạn có thể làm được những việc gì khác trong khoảng thời gian này?
Hãy giúp khách hàng điền vào những khoảng thời gian rỗi các hoạt động giúp họ đạt được mục tiêu ngắn hạn. Đảm bảo có thời gian để thư giãn nhưng không dành quá nhiều vì như vậy có thể họ lại buồn chán hoặc vướng vào những quyết định không liên quan. Cả hai khả năng này đều gây tái nghiện.
Sau khi hoàn thành kế hoạch ngày, bạn nên đưa cho khách hàng và yêu cầu họ thực hiện. Trong buổi tư vấn tiếp theo, bạn tiếp tục hướng dẫn họ lập kế hoạch theo cách này rồi dần dần, họ sẽ tự lập được kế hoạch của họ.

THỰC HÀNH: KẾ HOẠCH CHI TIẾT NGÀY

Thời điểm Hoạt động Ghi chú/Lời nhắc
7h sáng
8h sáng
9h sáng
10h sáng
11h trưa
12h trưa
1h chiều
2h chiều
3h chiều
4h chiều
5h chiều
6h chiều
7h tối
8h tối
9h tối
10h tối
11h đêm
108 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 19
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài.
Nói: Chúng ta hãy cùng tóm tắt lại những nội dung quan trọng nhất của bài này:
1. Thời gian là một nguồn lực hữu hạn và không thể quay ngược lại nên cần phải sử dụng một cách khôn ngoan
2. Cần xác định ưu tiên các hoạt động hàng ngày như một phần của kế hoạch cá nhân khả thi. Kế hoạch hoạt động giúp tư vấn viên làm việc chuyên nghiệp và có trọng tâm, giúp khách hàng giảm nguy cơ tái nghiện hiệu quả.
3. Tuân thủ trình tự các bước trong tư vấn và lồng ghép các kĩ năng là cách tốt nhất để đảm bảo buổi tư vấn ngắn gọn, hiệu quả

Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Thời gian là một nguồn lực hữu hạn và không thể quay ngược lại nên cần phải biết sử dụng một cách khôn ngoan
Cần xác định các hoạt động ưu tiên hàng ngày và lập kế hoạch khả thi để thực hiện
Tuân thủ trình tự các bước trong tư vấn và lồng ghép các kĩ năng trong các buổi tư vấn để tạo kết quả tích cực
Trợ giúp khách hàng lập kế hoạch chi tiết hàng ngày để giúp dự phòng tái nghiện
TÓM TẮT
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
110 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
giải thích từ ngữ 111
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
112 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
giải thích từ ngữ 113
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
114 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
giải thích từ ngữ 115
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
116 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 6

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
Bài 6.1: Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Bài 6.2: Kỹ năng từ chối
Bài 6.3: Đối phó với cơn thèm nhớ
Bài 6.4: Quản lí căng thẳng
Bài 6.5: Quản lí thời gian
6.1 Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên về dự phòng tái nghiện.
II. Thảo luận nhóm lớn 20 phút
Dẫn dắt một cuộc thảo luận nhóm lớn về những lí do chính khiến người ta tái nghiện.
III. Thuyết trình 70 phút
Trình bày các bản chiếu PowerPoint về liệu pháp dự phòng tái nghiện.
IV. Kết luận 8 phút
Nhắc lại những điểm chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.1: Liệu pháp dự phòng tái nghiện
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được các biện pháp dự phòng tái nghiện cho khách hàng phục hồi sau cai nghiện.
Thời gian: 100 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài này, học viên sẽ có thể:
‚ Xác định được những nguyên nhân dẫn đến tái nghiện
‚ Giải thích được Mô hình tái nghiện
‚ Xác định những tình huống nguy cơ cao trong khi thảo luận với khách hàng
‚ Hiểu được các chiến lược để đối phó với các tình huống nguy cơ cao
‚ Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện chung
‚ Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện cụ thể
Phương pháp:
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thuyết trình
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương VI – Bài 6.1 5
Bản chiếu 1
LIỆU PHÁP DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Nói: Trong bài này chúng ta sẽ thảo luận nhiều nội dung khác nhau về liệu pháp dự phòng tái nghiện (DPTN). Trước khi bắt đầu, tôi đề nghị các bạn suy nghĩ về những lí do khiến người sau cai tái nghiện?
Hướng dẫn giảng dạy: Dẫn dắt một buổi thảo luận nhóm lớn kéo dài 20 phút, ghi chép câu trả lời của học viên trên giấy khổ lớn.
6 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Xác định được những nguyên nhân dẫn đến tái nghiện
Giải thích được Mô hình tái nghiện
Xác định những tình huống nguy cơ cao trong khi thảo luận với khách hàng
Hiểu được các chiến lược để đối phó với các tình huống nguy cơ cao
Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện chung
Giải thích được các can thiệp dự phòng tái nghiện cụ thể
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Nói: Chúng ta có thể nhóm các nguyên nhân khiến khách hàng tái nghiện thành hai nhóm, đó là: nhóm nguyên nhân cá nhân và nhóm nguyên nhân do quan hệ cá nhân/xã hội. Nhóm đầu tiên có thể xuất hiện mỗi khi khách hàng tái sử dụng (trượt) và nó thường liên quan đến việc phải chống chọi với những sự kiện quan trọng về tâm lí và thể chất (ví dụ: đối phó với cảm xúc tiêu cực, rơi vào trạng thái thèm muốn “nội tâm”, do các triệu chứng cắt cơn,...), hoặc muốn kiểm tra xem mình còn lệ thuộc vào ma túy nữa hay không. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là những sự kiện này có thể không phải là nguyên nhân quan trọng đối với người khác hoặc nhóm người khác.
Trong nhóm nguyên nhân thứ hai, khách hàng tái sử dụng là do những ảnh hưởng từ những người khác (như mâu thuẫn cá nhân, áp lực xã hội).

Hướng dẫn giảng dạy: Quay lại danh sách những lí do tái nghiện (kết quả thảo luận nhóm) và yêu cầu học viên chia chúng thành 2 nhóm: a) các nguyên nhân cá nhân và b) các nguyên nhân quan hệ cá nhân/xã hội. Dành 5 phút cho hoạt động này.
Nói: Các bạn đã đưa ra được một danh sách đầy đủ những nguyên nhân tái nghiện và bây giờ chúng ta sẽ phân loại thành 2 nhóm: nguyên nhân liên quan đến cá nhân và nguyên nhân liên quan đến quan hệ với người khác/cộng đồng. Khi bạn thảo luận với khách hàng, bạn sẽ hiểu được có nhiều điều (thuộc về cá nhân hoặc quan hệ cá nhân/xã hội) có thể là yếu tố thúc đẩy họ tái sử dụng ma túy. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn về một số yếu tố này.
Bản chiếu 3
Đánh giá các tình huống nguy cơ cao và nguyên nhân tái nghiện của khách hàng theo các nhóm sau:
Cá nhân
Quan hệ cá nhân/xã hội
CÁC BƯỚC DPTN CƠ BẢN
8 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Hãy nói kĩ hơn về các nhóm nguyên nhân. Nhóm nguyên nhân thứ nhất bao gồm những yếu tố liên quan chủ yếu đến cá nhân (bên trong con người), và/hoặc những phản ứng đối với những sự kiện trong môi trường không liên quan đến con người. Nó có thể là phản ứng trước những sự kiện giữa con người và con người trong quá khứ (nghĩa là mối quan hệ tương tác ấy không còn có tác động quan trọng nào). Hãy thảo luận về một số yếu tố đó.
Đối phó với trạng thái cảm xúc tiêu cực. Những yếu tố này liên quan đến việc đối phó với trạng thái cảm xúc, tâm trạng hoặc cảm giác tiêu cực (không thoải mái).
Thông tin tham khảo:
(1) Đối phó với sự thất vọng và/hoặc tức giận. Những yếu tố này có liên quan đến sự thất vọng - một phản ứng trước những điều khiến họ bế tắc, bị gò ép theo mục tiêu - và/hoặc tức giận (gồm thái độ thù địch hoặc hung hăng) đối với cá nhân họ hoặc một yếu tố môi trường không liên quan đến con người. Những yếu tố môi trường này bao gồm cảm giác tội lỗi và phản ứng chống đối lại những đòi hỏi ("cãi lại") xuất phát từ môi trường hoặc từ chính cá nhân họ, mà dễ tạo ra cảm xúc tức giận.
(2) Đối phó với các trạng thái cảm xúc tiêu cực khác. Đây là những trạng thái cảm xúc khác mang lại sự không hài lòng hoặc đối kháng (ngoài thất vọng/ tức giận), bao gồm sợ hãi, lo âu, căng thẳng, trầm cảm, cô đơn, buồn bã, chán nản, lo lắng, thương tiếc, đau khổ, mất mát và những cảm xúc khó chịu tương tự.
Nói: Chịu đựng trạng thái thể chất - sinh lí tiêu cực. Các yếu tố này liên quan đến phản ứng không thoải mái hoặc đau đớn về sinh lí hoặc thể chất.
Khách hàng có thể tái nghiện do:
Đối phó với trạng thái cảm xúc tiêu cực:
thất vọng, tức giận, sợ hãi, lo âu, căng thẳng, trầm cảm, cô đơn, buồn chán, lo lắng, đau khổ và mất mát
Chịu đựng trạng thái thể chất – sinh lí tiêu cực: cơn thèm nhớ, các triệu chứng cai
Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực: tăng cảm xúc thoải mái, hài lòng, phấn khởi, v.v...
NGUYÊN NHÂN CÁ NHÂN DẪN ĐẾN TÁI NGHIỆN (1)
Thông tin tham khảo:
(1) Chịu đựng trạng thái thể chất liên quan đến quá khứ sử dụng ma túy. Chịu đựng trạng thái thể chất liên quan chặt chẽ với việc sử dụng ma túy hoặc chất gây nghiện trước đây như "sự đau đớn trong khi cắt cơn" hoặc "sự thèm nhớ" liên quan đến quá trình cắt cơn.
(2) Chịu đựng những trạng thái tiêu cực khác về thể chất. Chịu đựng các cơn đau, bệnh tật, chấn thương, mệt mỏi và các rối loạn khác (như đau đầu) không liên quan đến việc sử dụng ma túy trước đây.
Nói: Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực. Sử dụng ma tuý nhằm tăng cảm giác hài lòng, phấn khởi,... kể cả khi sử dụng ma túy chỉ với tác động tích cực của chúng là "để phê" hoặc chỉ để thử mức độ tác động mạnh hơn của ma túy.
10 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Nói: Hơn nữa, khách hàng có thể dùng lại ma túy để kiểm tra khả năng kiềm chế bản thân. Nghĩa là họ sử dụng ma tuý để “kiểm tra” xem mình có khả năng sử dụng ma túy có kiểm soát hoặc có điều độ hay không; để "thử một lần xem thế nào"; hoặc có thể khách hàng muốn kiểm tra hiệu quả điều trị hoặc kiểm tra mức độ cam kết kiêng sử dụng ma túy của mình (kiểm định "sức mạnh ý chí").
Khi người ta bắt đầu sử dụng ma túy, họ cảm thấy họ có thể kiểm soát được ma túy. Tuy nhiên, khi đã nghiện ma túy, con người mất đi khả năng kiểm soát việc sử dụng ma túy của họ. Thông thường, khi người ta mới thoát khỏi ma túy trong một khoảng thời gian ngắn, họ rất muốn kiểm tra xem họ đã thực sự kiểm soát được việc sử dụng ma túy như trước kia hay chưa.

Kiểm tra khả năng cá nhân: Sử dụng ma tuý để kiểm tra khả năng sử dụng ma tuý có kiểm soát hoặc có điều độ hoặc kiểm định sức mạnh ý chí.
NGUYÊN NHÂN CÁ NHÂN DẪN ĐẾN TÁI NGHIỆN (2)
Bản chiếu 6
Nói: Nhóm nguyên nhân thứ hai bao gồm các yếu tố mà chúng chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người. Ví dụ về những nguyên nhân đó là những quan hệ tương tác hiện tại hoặc gần đây với một hay một số người có ảnh hưởng tới người SDMT (những phản ứng trước các sự kiện xảy ra trong quá khứ xa được xếp vào nhóm nguyên nhân số 1). Nếu sự xuất hiện của người khác xảy ra vào thời điểm khách hàng tái nghiện thì điều đó cũng không được xếp vào nhóm nguyên nhân quan hệ cá nhân trừ khi khách hàng cho rằng sự xuất hiện của người đó gây ra những ảnh hưởng hoặc họ trực tiếp tham gia vào các sự kiện gây ảnh hưởng với khách hàng.
Đối phó với những mâu thuẫn cá nhân. Đối phó với những mâu thuẫn hiện tại hoặc gần đây trong các mối quan hệ cá nhân như hôn nhân, tình bạn, gia đình và quan hệ người làm thuê với chủ lao động.
Áp lực xã hội. Những yếu tố này liên quan đến phản ứng của khách hàng trước những ảnh hưởng của một người hoặc nhóm người khác tạo áp lực (trực tiếp hoặc gián tiếp) với khách hàng khiến họ phải sử dụng ma túy.
Thông tin tham khảo:
(1) Áp lực xã hội trực tiếp. Đây là những mối quan hệ trực tiếp (thường có sự tương tác bằng lời nói) với một người hoặc một nhóm người - những người này gây áp lực đối với khách hàng hoặc cung cấp ma túy cho khách hàng (ví dụ: được người khác mời sử dụng ma túy, hoặc bị người khác ép phải sử dụng ma túy). Cần phân biệt tình huống này với tình huống khách hàng nhờ người khác mua hộ ma túy (trường hợp này, khách hàng đã muốn sử dụng ma túy).
(2) Áp lực xã hội gián tiếp. Phản ứng khi nhìn thấy một người hoặc một nhóm người đang sử dụng ma túy hoặc làm mẫu về việc sử dụng ma túy cho họ trước mặt họ.
Đối phó với những mâu thuẫn cá nhân: giải quyết các vấn đề nẩy sinh do tranh cãi, ghen tức, chống đối, v.v…
Áp lực xã hội: Ảnh hưởng của người hoặc nhóm người khác tạo áp lực xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp khiến một người phải sử dụng ma tuý
Tăng cường các trạng thái cảm xúc tích cực: sử dụng ma tuý trong tình huống cá nhân nhằm tăng cảm giác thoải mái, khoái cảm tình dục, tự do…
NGUYÊN NHÂN TÁI NGHIỆN THUỘC VỀ QUAN HỆ VỚI NGƯỜI KHÁC/XÃ HỘI
Nói: Tăng cường trạng thái cảm xúc tích cực. Sử dụng ma tuý trong tình huống quan hệ cá nhân nhằm tăng cảm giác thỏa mãn, phấn khởi, khoái cảm tình dục, tự do và các cảm xúc có liên quan.
Bản chiếu 7
Nói: Dự phòng tái nghiện là thành phần vô cùng quan trọng trong quá trình hồi phục sau cai nghiện. Sau khi khách hàng đã chuyển sang giai đoạn tương đối ổn định, họ cần xây dựng ngay những kĩ năng dự phòng tái nghiện trong tương lai. Khách hàng cần học cách xác định những nguyên nhân gây ra tái nghiện và kiểm soát chúng mà không tái sử dụng heroin hay các loại ma túy khác.
Dự phòng tái nghiện bao gồm dạy khách hàng nhận biết trước khi nào thì họ đang có xu hướng tái nghiện để có thể quay ngược lại. Quá trình tái nghiện không phải chỉ bắt đầu khi khách hàng bắt đầu sử dụng lại ma túy - nó là cả một quá trình dài được bắt đầu từ trước đó. Nếu được giáo dục thì khách hàng có thể nhận biết dễ dàng những dấu hiệu cảnh báo/yếu tố cám dỗ dẫn tới tái nghiện. Các dấu hiệu cảnh báo/yếu tố cám dỗ này là những trạng thái cảm xúc, cảm giác và hành vi tiêu cực. Thông thường, khách hàng có thể nhận biết những ví dụ về những thay đổi tiêu cực này trong cuộc đời họ và, vì vậy, họ có thể hiểu được quá trình tái nghiện xảy ra như thế nào.
Các bạn có tin không, người ta hoàn toàn có thể giúp một người tái sử dụng một lần không bị tái nghiện hoàn toàn. Bạn phải cùng với khách hàng xây dựng các chiến lược hành vi và/hoặc nhận thức để nhận biết và dự phòng thói quen cũ. Các chiến lược này có thể bao gồm thường xuyên tham dự các cuộc họp hỗ trợ đồng đẳng, chỉ dành thời gian với những người hỗ trợ bạn phục hồi, duy trì cuộc sống ổn định, tránh hoặc đối phó với những yếu tố cám dỗ bên ngoài, như tránh đến chơi nhà hàng xóm nơi mình vẫn mua ma túy trước đây.
Kết quả điều trị cho thấy nhiều người tái sử dụng nhưng không phải ai cũng sử dụng lại nhiều như trước khi cai. Trước đây nhiều người nghĩ rằng chỉ cần sử dụng lại một lần thì có nghĩa là đã tái nghiện hoàn toàn. Chúng ta biết rằng hiểu như vậy là không đúng.
Chúng ta có thể xác định rằng khoảng 90% những người cai nghiện trong trung tâm cai nghiện (trung tâm 06) sẽ sử dụng lại heroin trong vòng 1 năm kể từ thời điểm ra khỏi trung tâm. Tuy nhiên, chỉ có 60% trong số này là sẽ quay trở lại sử dụng với cường độ sử dụng như trước đây.

Quan niệm trước đây: tái nghiện heroin là do cơn thèm nhớ quá mạnh, tiếp tục sử dụng là do người ta mất khả năng kiểm soát.
- Đến nay, chúng ta biết là sự việc phức tạp hơn như vậy 90% tái sử dụng ma túy trong vòng 1 năm sau khi điều trị cai nghiện
- Nhưng chỉ có 60% tái sử dụng với cường độ như thời điểm trước khi điều trị
TÁI NGHIỆN
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7 (tiếp)
Chúng ta sẽ thảo luận những cách để có thể giúp họ, kể cả những người mới lỡ sử dụng một vài lần và những người đã tái nghiện hoàn toàn, để họ có thể lấy lại được khả năng kiểm soát.
Chương Vi – Bài 6.1 15
Bản chiếu 8
Nói: Những nội dung trên đây rất hữu ích khi chúng ta bắt đầu câu chuyện với khách hàng. Những nội dung này hình thành nên một bộ khung giúp chúng ta xác định những vấn đề khó khăn có thể xảy ra trong khi khách hàng cố gắng đối phó với nguy cơ tái nghiện. Nó cũng tạo ra một mô hình lí thuyết về tái nghiện để chúng ta có thể thảo luận với khách hàng.
Phân biệt sự khác nhau giữa vấp, trượt và ngã (tái nghiện)
Nếu một người nghiện heroin ngừng sử dụng heroin nhưng sau đó anh ta muốn thử lại. Anh ta chỉ dùng lại 1 lần. Liệu có chắc chắn là anh ta sẽ nghiện heroin trở lại như trước đây hay không? Ai trong chúng ta tin rằng chắc chắn họ sẽ nghiện heroin trở lại như trước đây?
Thông tin tham khảo: Điều quan trọng là cần giải thích rằng mặc dù nghiện heroin là một rối loạn mạn tính nhưng điều đó không có nghĩa là nếu họ chỉ dùng lại một lần thì đương nhiên họ sẽ tái nghiện heroin.
Nói: Ai trong chúng ta biết về sự khác biệt giữa vấp, trượt và ngã?
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên động não trong vài phút để lấy ý kiến.
Nói: Vấp là khi người ta phạm phải một lỗi nhỏ và sau đó nhận ra: “Ồ, mình đã phạm phải sai lầm” và ngay lập tức họ lấy lại được khả năng kiểm soát, không tiếp tục sử dụng nữa. Họ có thể suy nghĩ về những điểm có lợi và cái giá phải trả của việc họ vừa mới làm. Họ có thể nghĩ: “Tại sao mình lại làm điều đó nhỉ? Tôi sẽ mất tất cả những điều quý giá này nếu tôi sử dụng lại.”
Khi trượt, họ phải mất nhiều thời gian hơn mới có thể kiểm soát trở lại được. Có thể họ sẽ tiếp tục sử dụng ma túy một vài lần, sau đó quyết định là không nên như vậy và không dùng nữa.

Cần phân biệt rõ vấp, trượt, ngã/tái nghiện
Xác định những tình huống nguy cơ cao
- Những yếu tố cám dỗ bên trong và bên ngoài
Thảo luận:
- Những quyết định tưởng như không liên quan
- Hiệu ứng vi phạm kiêng khem
Đối phó với những tình huống nguy cơ cao
- Các kĩ năng và tự động viên
Cần chú trọng đến sự tự tin và năng lực quyết định dừng sử dụng ma túy của khách hàng
CÁC BƯỚC DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Bản chiếu 8 (tiếp)
Khi tái nghiện, giống như khi bị ngã, họ nghĩ: “Ôi, thế là mình không còn kiểm soát được mình nữa”, rồi họ tiếp tục sử dụng ma túy và quay lại với cường độ sử dụng như trước đây. Nhiều khách hàng không biết rằng hành vi sử dụng ma túy của họ trong quá trình hồi phục có thể được phân thành 3 loại như trên. Sử dụng lại heroin một lần chưa có nghĩa là họ đã nghiện lại. Lưu ý rằng, đối với bất cứ cá nhân nào, chúng ta cũng không thể khẳng định người đó sẽ tái nghiện hay không sau khi họ đã thử lại một lần. Họ có nghiện lại hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác. Chúng ta có thể học hỏi từ những yếu tố đó. Khi họ bị vấp, họ có thể học từ việc bị vấp để dự phòng tái nghiện. Bạn cũng có thể sử dụng điều đó để thảo luận với khách hàng về dự phòng tái nghiện.
Xác định các tình huống nguy cơ cao
Các tình huống nguy cơ cao có thể là những yếu tố cám dỗ nội tâm hoặc ngoại cảnh, hoặc cả hai. Các chiến lược dự phòng tái nghiện cần phải phù hợp với các tình huống cụ thể của từng khách hàng để giảm nguy cơ cho họ. Cần xóa bỏ những hiểu biết không đúng về những hệ quả tích cực của việc sử dụng lại ma túy. Những mong đợi sai lầm này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tái nghiện. Nhiều khách hàng tán dương trải nghiệm sử dụng ma túy của họ và chỉ tập trung vào những kết quả tích cực như cảm giác phê, sung sướng phấn khích, tác dụng giảm đau và thư giãn. Đồng thời, họ có thể không thừa nhận hoặc xem nhẹ những hậu quả của sử dụng ma túy (ví dụ như đau đầu, mỏi mệt, nguy cơ đối với sức khỏe, và những hậu quả liên quan đến luật pháp). Điều quan trọng mà họ cần hiểu được đó là một khi họ đã lệ thuộc vào ma túy hay là “nô lệ” cho ma túy, họ sẽ không bao giờ có thể quay lại làm “ông chủ” của ma túy được nữa.
Thảo luận về những quyết định tưởng chừng không liên quan
Đôi khi người ta đi đến một quyết định mà dường như quyết định đó đến với họ một cách ngẫu nhiên. Họ không ý thức được rằng những quyết định tưởng như vô hại của họ lại có thể đẩy họ đến những quyết định khác có hại hơn. Ví dụ, họ có thể chỉ định đi mua cà phê ở một quán cà phê gần nhà. Tại quán cà phê đó, họ gặp lại bạn bè cũ, đám bạn đang dùng ma túy và họ cùng sử dụng. Rõ ràng là khách hàng không hề có ý định sử dụng, họ không hề nghĩ đến hậu quả của việc đi đến quán cà phê. Vì thế, tư vấn viên cần giúp họ hiểu rằng ngay cả những quyết định tưởng như hoàn toàn không liên quan cũng có thể dẫn đến những hậu quả có hại.
Thảo luận về hiệu ứng vi phạm kiêng khem
Hiệu ứng vi phạm kiêng khem xảy ra khi một cá nhân sau khi đã cam kết cai nghiện, lại vấp và sau đó tiếp tục sử dụng ma túy đến mức không kiểm soát được. Họ nghĩ: “Mình đã dùng lại một lần rồi thì không có cách nào có thể kiểm soát được nữa. Vậy cho nên tốt nhất là mình quay lại với ma túy và không chiến đấu với nó nữa.” Đương nhiên là khách hàng CÓ THỂ kiểm soát được việc sử dụng ma túy của họ và bạn cần giúp họ hiểu điều này trong quá trình hồi phục.
Đối phó với các tình huống nguy cơ cao
Tái nghiện cần phải được hiểu như là một phần tự nhiên của quá trình thay đổi hay là một cơ hội để học hỏi. Thay vì dựa vào sức mạnh ý chí của khách hàng, hướng dẫn dự phòng tái nghiện cần tập trung vào sức mạnh kĩ năng. Hướng dẫn dự phòng tái nghiện có thể cung cấp các kĩ năng cụ thể giúp khách hàng sau cai đối phó với từng tình huống nguy cơ cụ thể. Bạn cũng cần giúp khách hàng thêm tự tin vào khả năng của bản thân. Sự tự tin vào khả năng của bản thân được định nghĩa là mức độ mà một người nào đó cảm thấy họ có đủ khả năng thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Mức độ tự tin vào khả năng của bản thân cao là yếu tố dự báo kết quả điều trị tốt hơn.
Chú trọng đến sự tự tin và năng lực quyết định dừng sử dụng ma túy
Chúng ta cần giúp khách hàng xây dựng sự tự tin và năng lực để kiêng sử dụng ma túy bằng cách thảo luận về những lợi ích và cái giá phải trả của việc không sử dụng ma túy so sánh với lợi ích và hậu quả của việc sử dụng ma túy. Chúng ta cần chú ý đặc biệt đến lợi ích và cái giá phải trả về lâu dài, đặc biệt là lợi ích lâu dài của việc không sử dụng ma túy, bởi vì người sử dụng ma túy thường không nghĩ xa đến như vậy. Chúng ta cũng cần phải đánh giá mức độ tự tin trong quyết định của họ và sử dụng thông tin này để quyết định các chiến lược và kĩ năng phù hợp với khách hàng.
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Có một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị dự phòng tái nghiện. Các đặc điểm cá nhân bao gồm mức độ tự tin vào bản thân và mất khả năng kiểm soát. Khách hàng nữ có thể có những nhu cầu hoặc hoàn cảnh khác phức tạp hơn. Các bạn có thể nêu thêm các ví dụ khác được không?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành vài phút để học viên trả lời câu hỏi
Nói: Như đã trình bày trong bản chiếu trước, mức độ tự tin vào bản thân là yếu tố dự báo kết quả điều trị dự phòng tái nghiện.
Các yếu tố liên quan đến tiền sử sử dụng ma túy, bao gồm mức độ nghiện và suy giảm nhận thức cũng có tầm quan trọng tương tự. Mức độ nghiện càng nặng thì xác suất thành công càng thấp.
Những khách hàng có khả năng nhận thức kém khó có thể tiếp thu nổi hướng dẫn dự phòng tái nghiện. Hơn nữa, lối sống của khách hàng cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Những người có lối sống lành mạnh hơn (tập thể dục thường xuyên, thói quen ăn uống tốt, sở thích tích cực...) thường thành công hơn.
Một lần nữa, môi trường trong đó khách hàng hồi phục sau điều trị cũng rất quan trọng. Hãy nhớ lại tầm quan trọng của sự tương tác giữa ba yếu tố Ma túy-Con người-và Môi trường.

Đặc điểm cá nhân
- Giới, mức độ tự tin vào bản thân, mất kiểm soát
Yếu tố sử dụng ma túy
- Nghiện, suy giảm nhận thức
Lối sống
Môi trường
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KẾT QUẢ
Chương Vi – Bài 6.1 19
Bản chiếu 10
Nói: Giúp khách hàng tìm ra những yếu tố nguy cơ và nguyên nhân tái nghiện, không chỉ là những nguyên nhân bên trong mà còn cả các mối quan hệ và/hoặc môi trường, rồi sau đó cùng với khách hàng lập các chiến lược dự phòng tái sử dụng.
Đôi khi người ta quên những tiểu tiết của các yếu tố nguy cơ. Ví dụ: cần phải hỏi họ xem khi nào thì họ thèm nhớ, yêu cầu họ ghi lại lúc đó họ ở đâu, họ đang làm gì, bên cạnh họ có những ai, và những hoàn cảnh khác. Làm như vậy sẽ tăng thêm tính cụ thể khi bạn trao đổi với khách hàng.
Cũng cần phải xem xét những sự kiện có thể là những yếu tố nguy cơ phổ biến. Đó có thể là lễ kỷ niệm một sự kiện vui hay sự kiện buồn, ví dụ như ngày chia tay người yêu hoặc ngày người thân mất, hay sinh nhật.

Yêu cầu khách hàng theo dõi và ghi lại những tình huống mà họ cảm thấy muốn sử dụng ma túy
Thăm dò các tình huống tiềm tàng có thể gây tái nghiện - bao gồm những sự kiện buồn hoặc sự kiện vui
XÁC ĐỊNH NHỮNG TÌNH HUỐNG NGUY CƠ CAO
20 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Trên đây là những loại câu hỏi mà bạn có thể sử dụng để làm rõ những tình huống nguy cơ:
‚ Khi gặp người như thế nào, nơi nào hoặc điều gì khiến bạn khó có thể cảm thấy thoải mái?
‚ Những tình huống nào bạn cảm thấy có nguy cơ cao dùng lại ma túy?
‚ Làm thế nào bạn biết được một cú vấp có thể xảy ra với bạn?
‚ Những cảm xúc nào khiến bạn cảm thấy khó kiểm soát ham muốn sử dụng ma túy?
Khi gặp người như thế nào, nơi nào hoặc điều gì khiến bạn khó cảm thấy thoải mái?
Những tình huống nào bạn cảm thấy có nguy cơ cao tái sử dụng ma túy?
Làm thế nào bạn biết được một cú vấp có thể xảy ra với bạn?
Những ý nghĩ nào thúc đẩy bạn muốn sử dụng lại ma túy?
ĐẶT CÁC CÂU HỎI NHƯ:
Chương Vi – Bài 6.1 21
Bản chiếu 12
Nói: Mục đích ở đây là xác định những tình huống nguy cơ cao để xây dựng các chiến lược cụ thể và các cơ chế đối phó. Đồng thời tư vấn viên cũng nên trao đổi với khách hàng về cảm giác của họ sau mỗi lần “trượt” vì làm như vậy sẽ giúp xác định được mức độ cam kết của họ trong việc giành lại khả năng kiểm soát.
Đôi khi “trượt” xảy ra khi ở trong một tình huống cụ thể và không dẫn tới tái nghiện hoàn toàn. Tình huống đó có thể là lễ kỉ niệm một sự kiện đặc biệt trong đời. Giúp khách hàng phân biệt rõ ràng tình huống nào là tình huống có thể dẫn đến “vấp”, “trượt” và tái nghiện sẽ giúp cho khách hàng cam kết hơn trong việc duy trì không sử dụng ma túy.

Những tình huống cụ thể nào thôi thúc khách hàng sử dụng ma túy?
Những can thiệp nào có thể giúp khách hàng đối phó với các tình huống nguy cơ cao?
Khách hàng có cảm giác như thế nào về sử dụng ma túy sau khi tái nghiện?
Liệu những nguyên nhân dẫn đến vấp hoặc trượt có giống như nguyên nhân làm khách hàng tái nghiện hoàn toàn không?
QUY TRÌNH DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN CƠ BẢN
22 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13
Nói: Giúp khách hàng nhận biết được các dấu hiệu cảnh báo tái nghiện là rất quan trọng. Tư vấn viên nên cùng với khách hàng thảo luận về những dấu hiệu đó để khách hàng có thể theo dõi được chúng. Khách hàng có thể cam kết lại việc thực hiện từ bỏ ma túy bằng cách tăng cường tham dự các cuộc họp nhóm tự lực, chuyển đến một nơi ở mới không có ma túy, hoặc thực hiện những hành động tích cực để giải quyết các vấn đề về quan hệ, cá nhân hay công việc.
Hãy nhớ là không ai lường trước được điều gì sẽ xảy ra trong cuộc sống nên bạn cũng không thể luôn tiên đoán được những điều gì sẽ xảy ra với khách hàng của bạn. Vì vậy, chúng ta nên hướng dẫn những kĩ năng cần thiết cho mọi khách hàng.
Cụm từ “kĩ năng từ chối” và “đối phó với cơn thèm nhớ” được bôi đỏ ở trên bản chiếu vì chúng là những kĩ năng quan trọng và hiệu quả nhất để chống tái nghiện. Chúng ta sẽ có hai bài riêng về hai nội dung này.

Cân nhắc danh mục các tình huống nguy cơ cao đã xác định
Cân nhắc những kĩ năng, kĩ thuật họ đã sử dụng trước đây và quyết định những kĩ năng, kĩ thuật thích hợp nhất. - có thể bao gồm kĩ năng từ chối, đối phó với cơn thèm nhớ, gạt bỏ những ý nghĩ bất lợi hoặc thư giãn v.v…
Tìm ra những kĩ năng và kĩ thuật mới mà có thể hữu ích
Không phải tất cả các tình huống đều có thể dự đoán được - cần nghĩ đến các kĩ năng đối phó nói chung
CHUẨN BỊ ĐỐI MẶT VỚI TÌNH HUỐNG NGUY CƠ CAO
Chương Vi – Bài 6.1 23
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để làm rõ nội dung trên bản chiếu.
Thông tin tham khảo: Kĩ thuật đánh giá dự phòng tái nghiện và các chiến lược can thiệp đều nhằm hướng dẫn khách hàng tiên liệu và đối phó được với khả năng tái nghiện. Ngay khi bắt đầu hướng dẫn DPTN, khách hàng được hướng dẫn cách nhận biết và đối phó với các tình huống nguy cơ cao thúc đẩy họ sử dụng lại ma túy, và điều chỉnh suy nghĩ và hành vi nhằm ngăn chặn chuyển từ một lần tái sử dụng thành tái nghiện thực sự. Do quy trình này tập trung vào những yếu tố thúc đẩy trực tiếp quá trình tái nghiện nên nó được đề cập đến như là các chiến lược can thiệp DPTN cụ thể.
Khi khách hàng thành thục các kĩ thuật này rồi thì có thể phát triển thêm những phân tích sâu hơn về quá trình tái nghiện và tái sử dụng, bao gồm các chiến lược nhằm thay đổi lối sống của khách hàng cũng như để xác định và đối phó với những yếu tố gây tái nghiện (dấu hiệu cảnh báo sớm, suy giảm nhận thức, v.v…). Khi được tập hợp lại, những quy trình này được gọi là Các chiến lược can thiệp DPTN chung.
Can thiệp dự phòng tái nghiện chung
Đào tạo khách hàng về các kĩ năng hành vi và các chiến lược nhận thức để đối phó với các tình huống nguy cơ cao và việc tái sử dụng một vài lần là rất quan trọng. Những kĩ thuật này có thể là trọng tâm chính của những nỗ lực nhằm kiêng và duy trì kiêng sử dụng heroin trong khoảng thời gian đầu giai đoạn duy trì của tiến trình điều trị. Tuy nhiên, nếu chỉ dạy khách hàng đối phó với tình huống nguy cơ cao khi chúng lần lượt xuất hiện thì không đủ để tạo ra thành công dài hạn. Tư vấn viên và khách hàng không thể xác định được hết tất cả những tình huống nguy cơ cao mà khách hàng có thể phải đối mặt. Vì vậy, cần thực hiện một số hoạt động sau:
Bản chiếu 14
Tăng khả năng cân bằng trong lối sống
Nâng cao nhận thức về những dấu hiệu cảnh báo nguy cơ tái nghiện
- Phân tích những ‘lối mòn’ dẫn đến tái nghiện (tình huống nguy cơ cao và những lựa chọn)
Đối phó với sự biện hộ và chối bỏ
Quản lý căng thẳng
Đánh giá động cơ thay đổi
CÁC CAN THIỆP DPTN CHUNG
24 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14 (tiếp)
(1) Giúp khách hàng xây dựng một lối sống cân bằng hơn để nâng cao năng lực chung của họ trong việc đối phó với trạng thái căng thẳng và giúp họ tăng dần sự tự tin vào năng lực bản thân.
(2) Hướng dẫn khách hàng cách xác định và tiên liệu được những dấu hiệu cảnh báo sớm trước khi rơi vào tình huống nguy cơ cao và thực hiện các chiến lược tự kiềm chế nhằm giảm khả năng xảy ra tái sử dụng hoặc tái nghiện.
(3) Đối phó với sự biện hộ và chối bỏ. Ngoài sự thèm nhớ, những nguyên nhân sâu sa khiến tái nghiện còn bị ảnh hưởng bởi 3 yếu tố cấu thành nhận thức: sự biện hộ, chối bỏ, và những quyết định không liên quan. Những yếu tố này liên quan đến chuỗi những sự kiện xảy ra trước khi rơi vào tình huống nguy cơ cao. Sự biện hộ là một lời giải thích hoặc một lí do đưa ra để hợp lí hóa việc thực hiện vào một hành vi cụ thể nào đó. Sự biện hộ được sử dụng nhằm cho phép một cá nhân nào đó tiếp cận với một tình huống hoặc có một hành vi mà không phải thừa nhận với chính họ hay người khác về mục đích thật sự hay dự định của họ. Cá nhân đó hành động sai lầm nhưng họ viện dẫn những động cơ đáng tin cậy là nguyên nhân thực hiện hành vi đó mà không chú ý hoặc không tin vào những lí do “thực” khiến họ thực hiện hành vi đó. Sự chối bỏ cũng là một cơ chế tự vệ tương tự mà trong đó cá nhân không chịu thừa nhận một số khía cạnh trong động cơ, quyết định của họ, hoặc những đặc điểm của một tình huống hay một loạt các sự kiện. Người đó thường phủ nhận sự tồn tại của mọi động cơ khiến họ dễ bị tái nghiện và cũng có thể phủ nhận cả sự nhận thức về hậu quả của việc quay lại thói quen sử dụng ma túy. Thỉnh thoảng họ phủ nhận cả nguy cơ tái nghiện.
(4) Giúp khách hàng quản lí căng thẳng. Ngoài việc hướng dẫn khách hàng đáp ứng hiệu quả với những tình huống nguy cơ cao thì cũng cần hướng dẫn họ về cách thư giãn cũng như giảm bớt căng thẳng để nâng cao năng lực chung của khách hàng trong đối phó với căng thẳng. Hướng dẫn cách thư giãn có thể giúp khách hàng tăng khả năng tự kiểm soát, từ đó giảm bớt các yếu tố gây căng thẳng mà họ phải đối mặt. Những cách đó có thể là thả lỏng hoàn toàn các cơ của cơ thể, ngồi thiền, tập thể dục, và nhiều kĩ thuật giảm bớt căng thẳng khác giúp khách hàng đối phó hiệu quả hơn với những đòi hỏi trong cuộc sống hàng ngày.
(5) Đánh giá động cơ thay đổi. Do việc sử dụng ma túy là một quá trình có tính lặp lại nên hầu hết mọi người không thể thành công hoàn toàn sau lần thay đổi đầu tiên. Bài học rút ra từ mỗi lần tái sử dụng, tái nghiện có thể giúp khách hàng tiến gần hơn đến việc duy trì thành công nếu chúng được coi như là những cơ hội để học hỏi thay vì là những thất bại. Như đã thảo luận trong chương 4, Prochaska và DiClemente (1984) đã mô tả tái nghiện trong một mô hình gồm 6 giai đoạn: tiền dự định, dự định, chuẩn bị, hành động, duy trì và tái nghiện. Những giai đoạn thay đổi này đã được áp dụng thành công trong tìm hiểu động cơ của khách hàng khi tham gia điều trị nghiện (DiClemente & Hughes, 1990). Động cơ thay đổi có sự liên quan chặt chẽ với kết quả điều trị và tái nghiện (Xem chương 4 - Phỏng vấn tạo động lực).
Chương Vi – Bài 6.1 25
Nói: Có một số liệu pháp can thiệp DPTN cụ thể có thể giúp khách hàng dự phòng tái sử dụng và/hoặc dự phòng chuyển từ tái sử dụng sang tái nghiện hoàn toàn. Giúp khách hàng đối phó với cơn thèm nhớ
Vì thèm nhớ là một vấn đề rất khó khăn đối với nhiều người sử dụng heroin nên chủ đề này cần được bàn đến rất sớm trong quá trình điều trị. Những cơn thèm nhớ mạnh mẽ thường xuất hiện trong một vài tuần, thậm chí một vài tháng sau khi từ bỏ ma túy hoàn toàn. Chịu đựng thèm nhớ có thể là rất khó chịu đối với khách hàng và có thể dẫn đến tái sử dụng heroin nếu nó không được hiểu và giải quyết hiệu quả.
Đánh giá tiền sử sử dụng ma túy
Lí do chính mà khách hàng tìm đến dịch vụ của bạn có thể không phải là họ muốn từ bỏ ma túy. Có thể là họ muốn làm thế nào giảm bớt các triệu chứng cắt cơn liên quan đến tình trạng nghiện của họ hoặc có thể là những lí do khác. Bạn sẽ cần rất nhiều thông tin về việc sử dụng ma túy trong quá khứ và hiện tại của khách hàng để có thể phán đoán tình huống thực của họ. Vì vậy cần đặt câu hỏi sau đây:
‚ Loại ma túy nào được khách hàng cho rằng nó gây ra cho họ nhiều vấn đề rắc rối nhất?
‚ Lợi ích của những đợt điều trị trước đây là gì? Trước đây, khách hàng của bạn có thể đã được điều trị trong những chương trình khác. Vì vậy, cần tìm hiểu khoảng thời gian từ bỏ được mỗi loại ma túy mà họ lạm dụng trước đây và lí do tái nghiện. Điều quan trọng là phải xác định xem liệu đó có phải là một cú vấp, trượt hay là tái nghiện và các yếu tố cám dỗ có liên quan là gì.
Bản chiếu 15
Hướng dẫn khách hàng cách đối phó với cơn thèm nhớ
Đánh giá tiền sử sử dụng ma tuý và khả năng tái nghiện
Hướng dẫn khách hàng cách đối phó với các tình huống nguy cơ cao và khuyến khích sự tự tin
Sử dụng bảng ra quyết định (bảng so sánh cán cân giữa điểm có lợi và điểm bất cập nếu thay đổi)
CÁC CAN THIỆP DPTN CỤ THỂ (1)
26 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 15 (tiếp)
Giúp đối phó với tình huống nguy cơ cao và tăng sự tự tin
Chúng ta đã đề cập đến điều này trong phần Mô hình tái nghiện. Những người tin tưởng vào khả năng dự phòng tái nghiện của chính họ sẽ dễ đối phó thành công với những tình huống nguy cơ cao. Vì vậy, cần khuyến khích khách hàng cảm thấy rằng họ có thể kiểm soát được những tình huống khó khăn hay căng thẳng. Bằng cách khuyến khích khách hàng mỗi khi họ xử trí thành công và củng cố cảm giác tự tin, bạn sẽ giúp họ thêm tự tin vào năng lực bản thân.
Chương Vi – Bài 6.1 27
Bản chiếu 16
Nói: Chúng ta đã thảo luận về bảng ra quyết định trong Chương 4. Bạn có thể sử dụng bảng này để giúp khách hàng ra quyết định liên quan đến tránh tái sử dụng và tái nghiện. Với người sử dụng heroin, họ sẽ thấy việc nói về những lợi ích ngắn hạn rất dễ dàng. Người sử dụng heroin có thể phủ nhận các tác hại và hậu quả dài hạn của hành động họ đã thực hiện. Họ muốn sống hết mình cho hôm nay và không nghĩ đến ngày mai. Có vẻ như heroin giúp họ giải quyết rất tốt mọi vấn đề và giúp họ đối mặt với mọi cảm xúc và hoàn cảnh. Tuy nhiên, bạn vẫn cần phải hỏi về những lợi ích và hậu quả dài hạn. Khi họ nhìn thấy chúng được viết ra họ sẽ tập trung hơn vào những cam kết dài hạn. Họ có thể chưa bao giờ nghĩ đến những lợi ích dài hạn của việc không sử dụng ma túy.
Hướng dẫn giảng dạy: Nên chuẩn bị trước khi bắt đầu bài giảng một bảng ra quyết định trên bảng lật. Đến thời điểm này, mở trang giấy đó ra và từng bước yêu cầu học viên nêu ra những điểm tốt và không tốt của việc sử dụng ma túy, hậu quả ngắn hạn và hậu quả dài hạn của nó. Làm như vậy sẽ giúp học viên hiểu được mục đích của bảng ra quyết định và cảm thấy tự tin hơn trong việc xây dựng bảng này với khách hàng trong một buổi tư vấn thực sự.
Xem ví dụ về bảng ra quyết định trong Bài 4.2, bản chiếu số 10.
BẢNG RA QUYẾT ĐỊNH

Ngắn hạn Dài hạn
Lợi ích
Hậu quả
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Theo thời gian, nhiều người nghiện heroin chỉ biết sử dụng heroin để đối phó và giải quyết tất cả các vấn đề của họ. Nhiều khách hàng không nhận thức được vấn đề khi nó xuất hiện lần đầu tiên và lờ đi cho đến tận khi nó khiến họ bị khủng hoảng. Người khác lại nghĩ rằng họ có kĩ năng giải quyết vấn đề rất tốt, nhưng khi đối mặt với vấn đề họ lại hành động một cách thiếu suy nghĩ.
Mặc dù nhiều khách hàng tưởng là cuộc sống sẽ dễ dàng hơn và không gặp khó khăn gì sau khi đã ngừng sử dụng heroin, chỉ đến khi phải kiêng heroin họ mới nhận ra những vấn đề mà trước đây họ đã lờ đi hoặc trốn tránh. Thực hành dự phòng tái nghiện là một cách rất hữu ích giúp khách hàng giải quyết vấn đề. Nếu họ không thực hành với bạn, họ có thể sẽ phạm sai lầm và sai lầm sẽ khiến họ dễ bị tái nghiện hơn.
Khách hàng phải hiểu là tái sử dụng chỉ là một lỗi nhỏ và họ có thể lấy lại thăng bằng. Khi người ta dùng lại một hoặc vài lần, điều đó không có nghĩa là họ sẽ tái nghiện. Để tránh tái nghiện hoàn toàn, khách hàng cần dành thời gian để suy ngẫm về những lợi ích lâu dài của việc không sử dụng lại ma túy và những hậu quả dài hạn của việc sử dụng lại ma túy.
Một điều cũng hết sức quan trọng là bạn cần thảo luận về hiệu ứng vi phạm kiêng khem với khách hàng để giúp khách hàng không chuyển sang tái nghiện hoàn toàn sau khi vấp một lần. Thảo luận với họ trước khi cú vấp xảy ra và tìm hiểu những cơ hội và tiềm năng của khách hàng để lấy lại thăng bằng khi bị vấp là vấn đề mang tính chiến lược.

Bản chiếu 17
Thực hành giải quyết vấn đề và chống tái nghiện
Đối phó với việc sử dụng lại
Đối phó với Hiệu ứng vi phạm kiêng ma tuý
CÁC CAN THIỆP DPTN CỤ THỂ (2)
Chương Vi – Bài 6.1 29
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những thông điệp chính trong bài bằng cách trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn: G. Alan Marlatt, George A. Parks, Katie Witkiewitz (2002). Clinical Guidelines for Implementing: A Guideline Developed for the Behavioral Health Recovery Management Project.
Web Sites on Cognitive Behavioral Therapy and Relapse Prevention Therapy:
http://www.nida.nih.gov
http://www.drugabuse.gov
http://www.med.nyu.edu<
http://www.atforum.com
http://www.drugnet.bizland.com
Tái nghiện là phổ biến và khó tránh khỏi
- Đừng thất vọng
- Chuẩn bị tinh thần trước và đối phó
Những trạng thái tình cảm tiêu cực là những lí do phổ biến dẫn tới tái nghiện
- Nhưng cũng còn những lí do khác nữa, hãy để ý
Phân biệt sự khác nhau giữa vấp, trượt và tái nghiện
Xác định tình huống nguy cơ cao
- Đây là trọng tâm của can thiệp
Xây dựng các chiến lược dự phòng chung và dự phòng cụ thể
- Giúp họ quản lí được những tình huống có thể lường trước được và những tình huống không lường trước được.
TÓM TẮT

6.2
Kĩ năng từ chối
Bài 32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích với học viên rằng, trong bài này bạn sẽ thảo luận về kĩ năng từ chối và kĩ năng
đó liên quan đến dự phòng tái nghiện như thế nào.
II. Thuyết trình 30 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để trình bày về các kĩ năng từ chối.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính của bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.2: Kĩ năng từ chối
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được mối liên quan giữa kĩ năng từ chối và dự phòng tái nghiện, và ứng dụng kĩ năng từ chối trong các buổi tư vấn cho khách hàng.
Thời gian: 35 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Thảo luận lí do phải học kĩ năng từ chối
‚ Biết cách từ chối lịch sự khi bị thuyết phục thực hiện một hành động không mong muốn
‚ Thảo luận các biện pháp không lời
‚ Thảo luận các biện pháp bằng lời
‚ Thực hành kĩ năng từ chối heroin
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.2 33
Bản chiếu 1
Nói: Nhiều người sử dụng heroin gặp rất nhiều khó khăn trong việc từ chối khi có người mời chào dùng heroin. Đặc biệt, những khách hàng còn mơ hồ về việc giảm sử dụng heroin thường gặp khó khăn khi họ được mời sử dụng heroin. Mạng lưới quan hệ xã hội của nhiều người sử dụng heroin rất hạn hẹp. Đa số chỉ giao lưu với một vài người không sử dụng ma tuý và vì thế, từ bỏ mối quan hệ với người sử dụng ma túy đồng nghĩa với việc tự cô lập mình. Nhiều khách hàng thiếu các kĩ năng quyết đoán cơ bản để có thể từ chối hiệu quả lời mời gọi sử dụng heroin.
Việc hướng dẫn khách hàng kĩ năng từ chối sử dụng ma túy cần phải nằm trong kế hoạch điều trị của họ. Khoảng 1/3 số người nghiện ma túy tái nghiện do tác động trực tiếp từ sức ép xã hội của bạn bè. Hầu hết người sử dụng heroin đang cố gắng từ bỏ heroin vẫn tiếp tục có quan hệ với những người đang sử dụng, dù là mới có ý định làm quen hay đã có quan hệ từ trước. Từ chối heroin hoặc từ chối đi đến những nơi có heroin là một việc mà hầu hết khách hàng không thể lường trước được mức độ khó khăn.
Tư vấn viên cần thận trọng đặt ra những câu hỏi trực tiếp để tìm ra những manh mối về sự mơ hồ hay sự chống đối không muốn thay đổi, cũng như những áp lực xã hội gây khó khăn cho việc thay đổi. Việc khách hàng thất bại trong áp dụng những bước đầu tiên để gạt bỏ những yếu tố kích thích thèm nhớ ma tuý và tránh sử dụng heroin có thể bộc lộ một số vấn đề nổi cộm.

KĨ NĂNG TỪ CHỐI
34 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu. Sau khi trình bày xong nội dung trên bản chiếu, tiếp tục như sau:
Nói: Thực hành các kĩ năng này với khách hàng là rất cần thiết để đảm bảo là khách hàng có khả năng thực hiện và tự tin về khả năng thực hiện những kĩ năng này, trước khi họ áp dụng trong các tình huống thực tế.
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Thảo luận lí do phải học kĩ năng từ chối
Biết cách từ chối lịch sự khi bị thuyết phục thực hiện một hành động không mong muốn
Thảo luận các biện pháp không lời
Thảo luận các biện pháp bằng lời
Thực hành kĩ năng từ chối heroin
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vi – Bài 6.2 35
Bản chiếu 3
Nói: Cách tốt nhất là tránh những tình huống nguy cơ cao (không gặp bạn bè sử dụng ma túy hoặc người bán ma túy). Tuy nhiên, đây không phải là một giải pháp lâu dài với hầu hết khách hàng. Hướng dẫn từ chối sử dụng ma túy rất quan trọng trong việc hỗ trợ khách hàng vượt qua được khoảng thời gian kiêng khem và kéo dài khoảng thời gian đó. Tư vấn viên và khách hàng cần thực hành các cách để từ chối heroin hoặc từ chối đi đến những nơi có heroin. Khách hàng sẽ cảm thấy có thể tự kiểm soát khi họ rơi vào hoàn cảnh bị cám dỗ mà họ đã từng nói "có" trong những lần trước đây mà không suy nghĩ gì.
Khách hàng thường không lường hết được những khó khăn họ gặp phải khi muốn từ chối hoặc tránh né để không dùng heroin. Họ có thể cảm thấy việc nói không đối với họ không quá khó, hoặc sẽ chẳng có ai dụ dỗ họ khi biết họ đang cố gắng từ bỏ. Tuy nhiên, nhiều khách hàng đã nhận thấy nếu không chuẩn bị trước khi rơi vào tình huống này, lí trí mạnh không đủ để từ chối hiệu quả. Việc lập kế hoạch và thực hành liên tục các kĩ năng từ chối cụ thể để đối phó với các tình huống nguy cơ cao là cách hữu ích nhất.
Phần này nhằm hướng dẫn hoặc nhắc nhở khách hàng về những cách hiệu quả để nói không khi nguy cơ xuất hiện. Khách hàng cần phải sáng tạo trong việc dự đoán những tình huống có thể xảy ra. Bài tập này sẽ hữu ích nhất cho khách hàng nếu đề cập đến tình huống liên quan đến cuộc sống của họ, giúp họ có thể tập dượt được cách tốt nhất để đối phó với chúng.

Khách hàng nên tránh những tình huống nguy cơ, tuy nhiên phương án đó không có tính thực tiễn lâu dài
Khách hàng thường không lường trước được những khó khăn họ gặp phải khi từ chối hoặc tránh sử dụng heroin
Có một số chiến lược giúp nói “KHÔNG” dễ dàng hơn
LÍ DO
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trước khi chiếu bản chiếu này, hãy trình bày những nội dung gợi ý dưới đây.
Nói: Khi bạn tạo phong cách từ chối của riêng bạn, bạn cần sử dụng các biện pháp bằng lời và không lời.
Theo bạn, có thể có những biện pháp bằng lời và không lời nào?

Hướng dẫn giảng dạy: Chờ học viên đưa ra ý kiến của họ, sau đó chiếu từng nội dung trên bản chiếu về các biện pháp không lời. Sử dụng thông tin dưới đây để bổ sung những điểm mà học viên chưa đề cập đến. Lưu ý: các biện pháp bằng lời được chiếu trên bản chiếu sau.
Thông tin tham khảo: Các biện pháp không lời
‚ Giao tiếp bằng mắt là một kĩ năng rất quan trọng: nhìn thẳng vào mắt người đó khi trả lời để tăng hiệu quả của lời nói.
‚ Đứng hoặc ngồi thẳng lưng để cảm thấy tự tin.
‚ Đừng cảm thấy có lỗi khi từ chối. Không dùng ma túy thì chẳng hại đến ai cả. Nhiều khách hàng cảm thấy không thoải mái hoặc có lỗi khi nói không và cho rằng mình cần phải xin lỗi người kia vì mình từ chối sử dụng ma túy, điều đó sẽ dẫn đến khả năng người kia sẽ tiếp tục mời chào họ trong tương lai. Nói với khách hàng rằng, sau khi "nói không", họ có thể chuyển sang chủ đề khác, gợi ý thực hiện hoạt động khác, và yêu cầu một cách rõ ràng là từ nay trở đi người kia đừng mời mình dùng heroin nữa. (VD: "Nghe này, tôi đã ngừng chơi rồi và từ nay anh đừng bao giờ rủ tôi chơi với anh nữa. Nếu anh còn làm như vậy nữa, anh đừng đến nhà tôi nữa.")
‚ Bỏ đi nếu họ vẫn tiếp tục nài nỉ hoặc ép bạn.
Bản chiếu 4
Nhìn thẳng vào mắt: nhìn thẳng vào người đó khi trả lời
- Tăng sự hiệu nghiệm của thông điệp
Đứng hoặc ngồi thẳng lưng để có thể cảm thấy tự tin
Đừng cảm thấy có lỗi về việc phải từ chối
- Không dùng thì chẳng hại đến ai cả
Bỏ đi nếu họ cố tình nài nỉ hoặc ép buộc
BIỆN PHÁP KHÔNG LỜI
Chương Vi – Bài 6.2 37
Hướng dẫn giảng dạy: Trước khi chiếu bản chiếu, yêu cầu học viên hình dung như có một người bạn đang rủ rê mời họ sử dụng ma túy và yêu cầu họ đưa ra các cách khả thi để nói “KHÔNG”. Sau đó, chiếu bản chiếu và đề cập đến những thông tin mà học viên chưa nói đến.
Thông tin tham khảo:
‚ Nói với giọng rõ ràng, tự tin và chắc chắn
‚ “KHÔNG” phải là lời đầu tiên được thốt ra
‚ Đưa ra một giải pháp thay thế nếu bạn muốn thực hiện một hoạt động nào đó với họ
‚ Yêu cầu người kia không được mời chào nữa, kể từ nay trở đi, để những người khác cũng không tiếp tục mời chào nữa
‚ Thay đổi chủ đề sang chuyện khác
‚ Tránh nói lời xin lỗi hoặc trả lời mập mờ – những câu như “Lúc khác nhé”, “Tôi đi về đây”, hoặc “Tôi đang uống thuốc” sẽ khiến họ sẽ tiếp tục mời chào bạn vì bạn không thể hiện là bạn sẽ không dùng nữa.
Những ví dụ về những câu nói không:
‚ Không, cảm ơn.
‚ Không, cảm ơn, tôi sẽ uống cà phê hoặc ăn một thứ gì đó.
‚ Không, tôi không dùng nữa, tôi đã chịu đựng đủ lắm rồi.
‚ Không, tôi gặp nhiều rắc rối do dùng heroin nên sẽ không bao giờ dùng nữa.
Bản chiếu 5
Nói bằng giọng rõ ràng, tự tin và chắc chắn
“KHÔNG” phải là lời đầu tiên được thốt ra
Đưa ra một giải pháp thay thế nếu bạn muốn thực hiện một hoạt động nào đó với họ
Yêu cầu người kia không được mời chào nữa kể từ nay trở đi, để những người khác cũng không mới chào nữa
Thay đổi chủ đề sang chuyện khác
Tránh nói lời xin lỗi hoặc trả lời mập mờ - Vì điều đó có nghĩa là sau đó bạn sẽ thay đổi quyết định
BIỆN PHÁP BẰNG LỜI
38 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu 1 đến 2 học viên xung phong ngồi với bạn để đóng vai trong đó bạn thể hiện kĩ năng từ chối với “khách hàng” của bạn.
Nói: Sau khi cùng với khách hàng trao đổi về kĩ năng từ chối cơ bản, khách hàng phải thực hành qua đóng vai. Cần phải xác định và thảo luận về những khó khăn nảy sinh khi khách hàng thiếu sự quyết đoán. Tư vấn viên nên sắp xếp phần đóng vai này theo cách mà khách hàng cảm thấy thoải mái, tự nhiên.
‚ Chọn một tình huống cụ thể mới xảy ra gần đây đối với khách hàng. Ví dụ về những tình huống như bạn bè ghé thăm và mang theo heroin, bạn gọi điện thoại, vô tình gặp bạn đang sử dụng. Tình huống mà họ lựa chọn phải thật cụ thể. Nghĩa là phải bao gồm con người cụ thể, thời gian cụ thể trong ngày,...
‚ Yêu cầu khách hàng đưa ra một vài thông tin cơ bản về người lôi kéo họ.
Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu 2 học viên đóng vai, một người trong vai khách hàng sau cai, người kia đóng vai là người đang sử dụng ma túy và đang ép người sau cai dùng lại heroin. Sau đó đổi vai ngược lại. Dành vài phút để tóm tắt lại.
Nói: Trong mỗi buổi tư vấn, điều quan trọng là cần thảo luận thật kĩ lưỡng sau khi kết thúc mỗi phần đóng vai. Tư vấn viên cần ngợi khen những hành vi hiệu quả của khách hàng và đưa ra những góp ý chính xác mang tính xây dựng, ví dụ:
"Tốt lắm! Bạn cảm thấy thế nào? Tôi thấy bạn đã nhìn thẳng vào mắt tôi và nói rõ ràng - điều đó rất tốt. Tôi cũng nhận thấy bạn còn tạo cơ hội cho họ chèo kéo thêm lần nữa khi bạn nói bạn mới chỉ bỏ “được một thời gian". Hãy thử lại nhé, nhưng lần này hãy cố nói một cách rõ ràng rằng bạn muốn người đó đừng bao giờ mời bạn sử dụng ma túy nữa."

ĐÓNG VAI: DẠY KHÁCH HÀNG KĨ NĂNG TỪ CHỐI
Chương Vi – Bài 6.2 39
Bản chiếu 7
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng nội dung bản chiếu để nhắc lại những kiến thức đã được thảo luận trong bài.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 2 A Cognitive-Behavioral Approach: Treating Heroin Addiction, http://www.nida.nih.gov
United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacifc
A Toolkit for Building Capacity For Community-based Treatment and Continuing Care of Young Drug Abusers in The Greater Mekong Subregion.
Dr. John Howard, Consultant; Draft 23 January 2006;
Khách hàng phải tránh các tình huống nguy cơ
Khách hàng cần hiểu cả biện pháp bằng lời và không lời
Có một số chiến lược để nói không.
TÓM TẮT

6.3 Đối phó với cơn thèm nhớ
Bài
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận về cách giúp khách hàng đối phó với cơn
thèm nhớ.
II. Thuyết trình 40 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để thuyết trình về đối phó với cơn thèm nhớ.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 6.3: Đối phó với cơn thèm nhớ
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được về cơn thèm nhớ ma túy và tìm ra những yếu tố cám dỗ gây thèm nhớ để từ đó cùng với khách hàng xây dựng chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ.
Thời gian: 45 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Định nghĩa được sự thèm nhớ
‚ Mô tả được cơn thèm nhớ khi thảo luận với khách hàng
‚ Xác định được những yếu tố kích thích sự thèm nhớ đối với khách hàng
‚ Cùng với khách hàng, lập kế hoạch đối phó với sự thèm nhớ
Phương pháp:
‚ Thuyết trình và thảo luận
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.3 43
Bản chiếu 1
Nói: Do thèm nhớ ma túy là một vấn đề hết sức khó khăn đối với nhiều người sử dụng heroin nên chủ đề này cũng cần được bàn đến sớm trong quá trình điều trị. Khoảng thời gian người ta bị thèm nhớ heroin mạnh nhất là khoảng vài tuần, có khi đến vài năm sau khi họ cai nghiện hoàn toàn. Điều này vừa có tính bí ẩn lại vừa gây khó chịu cho người sau cai nghiện và dẫn đến tái sử dụng heroin nếu không được hiểu và xử lí hiệu quả.
ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Định nghĩa được sự thèm nhớ
Mô tả được cơn thèm nhớ khi thảo luận với khách hàng
Xác định được những yếu tố kích thích sự thèm nhớ đối với khách hàng
Cùng với khách hàng lập kế hoạch đối phó với sự thèm nhớ
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung trên bản chiếu
Chương Vi – Bài 6.3 45
Bản chiếu 3
Nói: Thảo luận về sự thèm nhớ là rất quan trọng vì thông thường, chính cơn thèm nhớ khiến khách hàng tái nghiện. Điều đầu tiên cần biết đó là hiện tượng thèm nhớ là bình thường. Người sử dụng ma túy thường không biết điều này. Họ nghĩ rằng họ là người duy nhất phải chịu đựng cơn thèm nhớ và nếu sự thèm nhớ xuất hiện thì điều đó có nghĩa là cơ thể họ có vấn đề gì đó. Họ cũng có thể tin là nếu họ thấy thèm nhớ, sẽ chẳng có cách nào giúp họ vượt qua được, nên họ thấy rằng việc sử dụng ma túy là điều khó có thể tránh khỏi.
Cơn thèm nhớ xuất hiện là do ma túy đã làm thay đổi một số chức năng của não. Khách hàng đã sử dụng ma túy càng nhiều thì cơn thèm nhớ càng mạnh khi ngừng sử dụng. Tuy nhiên, theo thời gian, não và cơ thể sẽ điều chỉnh với sự thay đổi này và cơn thèm nhớ sẽ dịu dần. Tư vấn viên có thể hướng dẫn cho khách hàng những kĩ năng để làm cho quá trình này dễ dàng hơn.

Là một phần tự nhiên của quá trình cai nghiện ma tuý và hồi phục
- Thèm nhớ là một điều khó khăn đối với bất kì ai, cho dù sự thèm nhớ đó có liên quan đến sử dụng ma túy hay không
Thèm nhớ ma tuý là hậu quả của một thời gian dài sử dụng ma tuý, và có thể tiếp tục trong một thời gian dài kể từ khi từ bỏ ma tuý
- Những người nghiện ma tuý nặng thì có thể có những cơn thèm nhớ mạnh mẽ hơn.
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY (1)
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Có nhiều yếu tố kích thích sự thèm nhớ. Khách hàng cần học cách đối phó với các yếu tố này để có thể tiếp tục không sử dụng ma túy. Đây là chủ đề trọng tâm của tư vấn điều trị nghiện và cần được thảo luận nhắc lại trong suốt quá trình điều trị.
Đầu tiên, bạn cần giúp khách hàng xác định những con người, địa điểm và những vật dụng có thể kích thích cơn thèm nhớ hoặc kích thích sự ham muốn sử dụng ma túy. Khách hàng cần tránh những yếu tố kích thích đó nếu có thể. Có một số cách thực hiện như: nhờ một người nào đó mà họ tin tưởng giữ hộ tiền, thoát khỏi những dụng cụ để sử dụng ma túy (tốt nhất là với sự hỗ trợ của người khác), không gặp một số người hàng xóm hoặc chuyển đến nơi ở mới, tránh tiếp xúc với những người bạn hoặc người thân đang còn sử dụng ma túy.
Khách hàng và tư vấn viên cần hợp tác để bàn về những cách giúp khách hàng tránh hoặc kiểm soát được những yếu tố kích thích khó tránh hơn (như vợ hoặc chồng họ còn sử dụng ma túy). Những yếu tố làm tăng cơn thèm nhớ mà họ không thể tránh được đôi khi có thể được giải quyết an toàn hơn với sự hỗ trợ của một người không sử dụng ma túy như vợ hoặc con họ.
Không sử dụng ma túy sẽ giảm mức độ của cơn thèm nhớ nhưng nếu thỉnh thoảng họ dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ mạnh mẽ và kéo dài hơn. Sau mỗi lần khách hàng chống chọi và vượt qua được cơn thèm nhớ, cơn thèm nhớ lần sau sẽ yếu hơn, bởi vì khách hàng đã bắt đầu đối phó với nó. Tuyệt đối không sử dụng là cách tốt nhất giúp có thể loại bỏ được cơn thèm nhớ hoàn toàn và nhanh nhất.

Cơn thèm nhớ có thể tăng lên do tác động của các yếu tố cám dỗ:

- Con người - Địa điểm
- Vật dụng - Cảm giác
- Tình huống Hay bất kỳ điều gì có liên quan đến việc sử dụng ma túy trong quá khứ
Hiện tượng thèm nhớ ma tuý sẽ yếu dần đi nếu không tiếp tục sử dụng
- Thỉnh thoảng sử dụng lại ma tuý sẽ làm cho hiện tượng thèm nhớ ma tuý kéo dài
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY(2)
Chương Vi – Bài 6.3 47
Bản chiếu 5
Nói: Một điều thú vị khác về sự thèm nhớ là người ta tin rằng nếu người ta phải chịu đựng cảm giác thèm nhớ mạnh, nó sẽ tồn tại mãi mãi. Họ cảm thấy nó mạnh đến mức họ chẳng thể làm gì để kiểm soát được nó. Họ tin rằng nó sẽ ngày càng mạnh hơn và sẽ kéo dài mãi mãi.
Liệu có đúng vậy không? Không.
Cơn thèm nhớ giống như một cơn sóng. Mức độ mạnh mẽ của nó tăng lên từ từ rồi tan biến mất. Nó chỉ kéo dài trong vài phút và lâu nhất cũng chỉ đến 20 phút.

Cơn thèm nhớ giống như cơn sóng biển
- Mỗi đợt sóng thường bắt đầu rất nhỏ, cao dần lên và đổ ập xuống rồi biến mất
- Cơn thèm nhớ kéo dài trong vài phút, tối đa là 20 phút
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TÚY(3)
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Người ta càng không sử dụng ma túy trong thời gian dài thì cơn thèm nhớ càng yếu đi. Một trong những kĩ thuật nhận thức hữu ích nhất để đối phó với cơn thèm nhớ là hiểu cơn thèm nhớ xảy ra như thế nào (Carroll và cộng sự, 1991).
Bản chiếu 6
Mỗi lần thèm nhớ, nếu chúng ta làm việc gì khác, chứ không phải sử dụng lại ma tuý thì hiện tượng thèm nhớ ma tuý sẽ yếu dần đi.
- Đỉnh điểm thèm nhớ sẽ nhỏ dần và cơn sóng sẽ tan ra
- Kiêng sử dụng là cách tốt nhất và là con đường nhanh nhất, trọn vẹn nhất để thoát khỏi hiện tượng thèm nhớ ma tuý
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TUÝ (4)
Chương Vi – Bài 6.3 49
Bản chiếu 7
Nói: Thông thường, cơn thèm nhớ mạnh mẽ nhất ngay sau khi vừa mới cai nghiện. Theo thời gian, nó sẽ giảm dần, nhưng không phải luôn luôn là như vậy. Ngay cả khi đã ngừng sử dụng ma túy trong thời gian dài, cơn thèm nhớ có thể sẽ rất mạnh do một số yếu tố thúc đẩy. Mặc dù cơn thèm nhớ có thể đến thường xuyên và mạnh hơn trong giai đoạn đầu sau cai, chúng ta vẫn có thể áp dụng một số kĩ năng để khống chế chúng. Những kĩ năng này sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo.
Hiện tượng thèm nhớ ma tuý mạnh mẽ nhất trong thời gian đầu sau cai
- Nhưng có thể tiếp tục cảm thấy thèm nhớ ma tuý trong vài tháng, thậm chí nhiều năm.
Cơn thèm nhớ ma túy xảy ra sau chưa chắc đã nhẹ hơn cơn thèm nhớ lần trước
- Đôi khi, đặc biệt những lúc căng thẳng, cơn thèm nhớ lên cao điểm nhưng sau đó sẽ nhẹ dần rồi kết thúc
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HIỆN TƯỢNG THÈM NHỚ MA TUÝ (5)
50 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Tư vấn viên cần biết về trải nghiệm của khách hàng đối với cơn thèm nhớ. Cần tìm hiểu những thông tin sau đây:
Cơn thèm nhớ diễn ra đối với bạn như thế nào?
Cơn thèm nhớ hay ham muốn diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Ở một số người, đó là những dấu hiệu thể chất, ví dụ: "Tôi thấy bụng cứ cuộn lên" hay "Tim tôi đập nhanh hơn" hoặc "Tự nhiên tôi ngửi thấy mùi của nó". Với người khác thì lại thiên về nhận thức, ví dụ: "Tôi cần có nó ngay bây giờ" hoặc "Tôi không thể gạt nó ra khỏi đầu" hoặc "Có tiếng gọi thúc giục tôi". Cũng có thể là những ảnh hưởng của ma túy, ví dụ: "Tôi thấy lo lắng quá" hoặc "Tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu."
Bạn bị cơn thèm nhớ hành hạ như thế nào?
Mức độ mạnh yếu của cơn thèm nhớ đối với các khách hàng là rất khác nhau. Với một số người, đạt được và duy trì sự kiểm soát cơn thèm nhớ là mục tiêu điều trị chính và phải mất vài tuần mới đạt được. Một số khách hàng nói họ không hề thèm nhớ. Làm việc với khách hàng phủ nhận sự thèm nhớ sẽ phát hiện được là họ đã hiểu sai về một loạt sự kiện xảy ra với họ hoặc họ đã lờ đi cơn thèm nhớ xảy ra với họ. Một số khách hàng phủ nhận là họ thèm nhớ ma túy nhưng thường thú nhận là họ rất sợ bị tái nghiện. Cần phải thảo luận với khách hàng về việc họ cảm thấy bị khó chịu như thế nào. Sự thèm nhớ da diết không có nghĩa là điều không thể vượt qua nổi và ngược lại nếu chỉ thèm nhớ một chút không có nghĩa là có thể vượt qua một cách dễ dàng.
Cơn thèm nhớ kéo dài bao lâu?
Để xác định rõ cơn thèm nhớ diễn ra trong bao lâu, cần chỉ rõ cho khách hàng hiểu là họ hiếm khi tự mình trải nghiệm hết cơn thèm nhớ nếu không lưu tâm đến nó. Theo thời gian, khi khách hàng phải chống lại các cơn thèm nhớ, chúng sẽ không kéo dài nữa và cũng không xuất hiện thường xuyên nữa.
Bản chiếu 8
Khách hàng cần mô tả cơn thèm nhớ xảy ra đối với họ như thế nào để bạn có thể hiểu được. Hỏi các câu sau :
Các cơn thèm nhớ diễn ra đối với bạn như thế nào?
Bạn bị cơn thèm nhớ hành hạ như thế nào?
Cơn thèm nhớ ấy kéo dài trong bao nhiêu lâu?
Bạn đã cố gắng đương đầu như thế nào với cơn thèm nhớ?
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (1)
Chương Vi – Bài 6.3 51
Bản chiếu 8 (tiếp)
Bạn đã cố gắng đối phó với cơn thèm nhớ như thế nào?
Tư vấn viên cần xác định được những cách mà khách hàng đối phó với cơn thèm nhớ để lựa chọn biện pháp phù hợp nhất bằng cách hiểu rõ về các chiến lược đó. Đồng thời, tư vấn viên cũng nên hỏi khách hàng xem những biện pháp đó đã thành công như thế nào.
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Cường độ của các cơn thèm nhớ sẽ phụ thuộc một phần vào mức độ suy nghĩ về việc sử dụng ma túy của khách hàng. Nếu người ta càng nghĩ về nó, cơn thèm nhớ sẽ càng kéo dài. Ngược lại, nếu họ càng bận rộn với những việc khác trong cuộc sống, họ càng ít phải chịu đựng cơn thèm nhớ hơn.
Mức độ thèm nhớ ma túy nhẹ hay nặng chủ yếu là do khách hàng nghĩ về việc sử dụng ma túy nhiều hay ít
MỨC ĐỘ THÈM NHỚ
Chương Vi – Bài 6.3 53
Nói: Đôi khi khách hàng không nhận biết được khi nào thì họ phải chịu đựng các cơn thèm nhớ. Nhiều người chỉ đơn giản lờ đi khi cơn thèm nhớ xảy đến cho ra khi họ sử dụng lại. Trong trường hợp này, bạn phải đề nghị khách hàng tự theo dõi trong tuần tiếp theo bằng cách ghi chép lại tất cả những tình huống khiến họ cảm thấy muốn sử dụng và những cảm giác liên quan đến những tình huống đó.
Viết nhật ký cơn thèm nhớ là một kĩ thuật được sử dụng trong một số chương trình DPTN để hiểu rõ hơn về cơn thèm nhớ và giúp tiếp tục đối phó được với chúng. Yêu cầu khách hàng ghi lại những yếu tố bên trong và bên ngoài kích thích cơn thèm nhớ, trạng thái tình cảm, mức độ mạnh mẽ của cơn thèm nhớ, thời gian kéo dài, các kĩ năng đã được sử dụng để vượt qua cơn thèm nhớ, và các chiến lược đó thành công hay không.
Cơn thèm nhớ là sự kết hợp suy nghĩ, hành vi và cảm giác thể chất của khách hàng. Tư vấn viên cần thảo luận với khách hàng về tất cả những yếu tố trong cả 3 khía cạnh trên. Người sử dụng ma túy thường không kết nối hành vi, suy nghĩ và cảm giác với nhau. Trong trường hợp này, bạn cần liên kết chúng lại để giúp khách hàng tăng khả năng chống lại cơn thèm nhớ. Hỏi khách hàng cơn thèm nhớ xuất hiện ở đâu? Khi nào? Khi đó họ đang làm gì? Cảm giác ấy như thế nào? Kéo dài trong bao lâu?

Bản chiếu 10
Đề nghị khách hàng tự theo dõi bản thân trong một tuần tiếp theo
Ghi chép lại những tình huống họ cảm thấy muốn sử dụng ma túy
Viết ra những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi liên quan đến những tình huống đó
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (2)
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Yêu cầu khách hàng tóm tắt nhật kí thèm nhớ theo các nhóm hành vi, cảm giác thể chất và suy nghĩ. Giải thích với họ là cơn thèm nhớ là tổng hợp của ba yếu tố này.
Thông tin tham khảo: Xem các ví dụ dưới đây
Hành vi: “Tôi đi xuống phố nơi trước đây tôi dùng ma túy với bạn bè và ngay lập tức tôi thấy rất thèm nhớ.” Đây là yếu tố hành vi vì nó liên quan đến việc bạn làm.
Cảm giác thể chất: “Khi tôi chịu đựng cơn thèm nhớ, tôi thấy bụng mình nhói đau” hoặc “Tôi ngửi thấy mùi của nó”.
Suy nghĩ (hay nhận thức): “Tôi cảm thấy tôi cần phải dùng” hoặc “Tôi không thể quên được nó” hoặc “Nó đang gọi tôi.”

Tóm tắt nhật kí cơn thèm nhớ theo Hành vi, Cảm giác thể chất và Suy nghĩ
Giải thích rằng sự thèm nhớ là kết hợp của hành vi, cảm giác thể chất và suy nghĩ
Hành vi Cảm giác thể chất Suy nghĩ
MÔ TẢ CƠN THÈM NHỚ (3)
Chương Vi – Bài 6.3 55
Nói: Tùy theo cơn thèm nhớ mà chúng ta có thể thảo luận với khách hàng về các chiến lược đối phó cụ thể theo hai nhóm khác nhau (hành vi hay nhận thức). Bản chiếu này thể hiện những chiến lược về hành vi
Trì hoãn
Một cách mà chúng ta có thể hỗ trợ khách hàng là yêu cầu họ trì hoãn việc sử dụng ma túy. Tại sao chúng ta lại khuyên họ như vậy? Tại sao đó lại là ý kiến hay? Bởi vì chúng ta đã thảo luận về một thực tế là cơn thèm nhớ chỉ kéo dài vài phút rồi nó sẽ qua đi. Vì vậy, nếu mình trì hoãn được thì cơn thèm nhớ sẽ qua đi. Nếu bạn kiềm chế không dùng ma túy trong khoảng 30 phút, cơn thèm nhớ sẽ biến mất và khả năng sử dụng sẽ rất thấp.
Phân tán
Chúng ta có thể hướng dẫn khách hàng làm việc gì đó thay vì ngồi một chỗ và nghĩ về ma túy khi cơn thèm nhớ xảy ra. Nói cách khác, hãy làm cho bản thân bận rộn. Khách hàng có thể tự phân tán suy nghĩ. Bạn cần thảo luận với họ về những điều họ thích làm thay vì sử dụng ma túy (ví dụ như một sở thích lành mạnh). Khuyến khích họ thực hiện một trong những hoạt động đó thay vì chờ đợi cơn thèm nhớ qua đi.
Quyết định
Khi đang ở trong thời điểm thèm nhớ dữ dội nhất, người sử dụng ma túy sẽ thấy khó khăn để nhớ được những hậu quả xấu của việc sử dụng ma túy. Hãy thử bài tập hữu ích sau trong buổi tư vấn. Đưa cho khách hàng mảnh giấy như một tấm danh thiếp để liệt kê những lợi ích của việc sử dụng heroin ở bên trái và những tác hại ở bên phải. Bắt đầu bằng những lợi ích. Khách hàng có thể đưa ra một hoặc hai lợi ích và thường là không đưa ra được thêm nữa. Khi họ không đưa ra được nữa, nói với khách hàng tạm dừng bàn đến những lợi ích và quay lại vấn đề đó sau. Bây giờ hãy bàn đến những tác hại. Không cần phải hỗ trợ hoặc chỉ cần hỗ trợ một
Bản chiếu 12
CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ MA TÚY (1)
Phân tán
suy nghĩ
Trì hoãn
Quyết định
Hành vi
Sau khi cơn thèm nhớ ma túy qua đi, nghĩ đến những lí do phải từ bỏ ma túy
chút, khách hàng sẽ có thế đưa ra rất nhanh một danh sách các tác hại. Đến lúc đó, họ sẽ bắt đầu tự đặt câu hỏi liệu có những lợi ích nào thuộc về phần tác hại. Đưa cho khách hàng mảnh giấy đó để anh ta cho vào ví cùng với tiền của anh ta. Mảnh giấy này sẽ giúp nhắc nhở họ về những tác hại của việc sử dụng ma túy. Đây là một kĩ thuật để hỗ trợ khách hàng quyết định lại mục tiêu cai hoàn toàn.
Chúng ta đã thảo luận về trì hoãn, phân tán và quyết định những gì sẽ làm. Đây chính là khái niệm 3D (Delay - Trì hoãn, Distract - Phân tán và Decide - Quyết định).

Chương Vi – Bài 6.3 57
Bản chiếu 13
Nói: Bây giờ tôi muốn thảo luận về các chiến lược nhận thức để đối phó với cơn thèm nhớ. Chúng ta có thể khuyến khích khách hàng độc thoại tích cực. Độc thoại có thể có sức mạnh rất lớn. Những gì chúng ta nói ra từ miệng, tai của chúng ta sẽ nghe thấy và những suy nghĩ của chúng ta sẽ được củng cố. Khách hàng có thể nhắc nhở bản thân rằng cơn thèm nhớ rồi sẽ qua đi họ có thể vượt qua cơn thèm nhớ. Họ cũng có thể nói về những điều họ sẽ bị mất, những vấn đề sẽ xảy đến với họ nếu dùng ma túy. Những điều này có thể giúp làm giảm sự thèm nhớ rất mạnh.
Thông tin tham khảo: Đối với nhiều khách hàng, có nhiều suy nghĩ vô thức gắn liền với cơn thèm nhớ mạnh đến mức khách hàng không nhận biết được chúng. Những suy nghĩ vô thức liên quan đến cơn thèm nhớ thường mang tính khẩn cấp và có những ảnh hưởng rất nặng nề (như: "Tôi phải dùng ngay bay giờ", "Nếu không dùng, tôi sẽ chết mất," hoặc "Tôi không thể làm gì được trừ khi tôi dùng lại ").
Khi đối phó với cơn thèm nhớ, điều quan trọng là phải nhận biết được những suy nghĩ vô thức đó và đối phó với những suy nghĩ đó một cách hiệu quả. Để giúp khách hàng nhận biết được những suy nghĩ vô thức đó, có thể sử dụng một chiến lược là giúp khách hàng "tua lại băng" để họ phân tích được suy nghĩ của mình.
"Khi bạn quyết định đi chơi đêm qua, bạn nói là bạn không tự ý thức được suy nghĩ về việc sử dụng heroin. Nhưng tôi cá là nếu chúng ta cố gắng nhớ lại đêm qua diễn ra như thế nào và tua lại nó như là một bộ phim quay chậm thì chúng ta sẽ tìm thấy một vài ví dụ về những điều bạn tự nói với bản thân dẫn đến sử dụng heroin, mà thậm chí bạn có thể không nhận ra được. Bạn có thể kể lại chi tiết về đêm qua được không?"
Nhận thức
Thư giãn và tưởng tượng
Độc thoại tích cực
CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ VỚI CƠN THÈM NHỚ MA TÚY (2)
58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Một khi những suy nghĩ vô thức được xác định, chúng ta sẽ dễ dàng đối phó hơn bằng cách độc thoại tích cực thay vì độc thoại tiêu cực. Điều này bao gồm những chiến lược như thách thức suy nghĩ tiêu cực (VD "Tôi sẽ không chết nếu tôi không dùng heroin"), và bình thường hóa cơn thèm nhớ (VD "Thèm nhớ không dễ chịu chút nào, nhưng nhiều người phải chịu đựng nó và mình có thể vượt qua nó mà không phải dùng lại").
Nói: Bạn có thể sử dụng kĩ thuật thư giãn và tưởng tượng để đối phó với sự căng thẳng. Căng thẳng là một trong những lí do chính dẫn đến thèm nhớ ma túy.
Phân tán suy nghĩ là một cách rất hiệu quả. Những tưởng tượng nhất định được sử dụng như là một phương tiện để giúp những người trong trạng thái căng thẳng thư giãn. Bạn cũng có thể tưởng tượng để xóa bỏ những suy nghĩ về sự ham muốn đang lấn át nhận thức của bạn. Tưởng tượng đến một nơi thoải mái như một bãi biển hoặc một hồ nước không chỉ giúp bạn xóa bỏ những suy nghĩ về thèm muốn mà còn giúp bạn thư giãn.
Tuy nhiên, những hình ảnh "thư giãn" không phải là cách phù hợp đối với tất cả mọi người. Một số người nhận thấy rằng nếu họ thư giãn khi thèm nhớ sẽ chỉ khiến họ thèm hơn. Đó là vì đối với một số người, việc sử dụng ma túy của họ có mối liên quan rất chặt chẽ đến thư giãn và sảng khoái. Thể hiện những hình ảnh thư giãn của những địa điểm trước đây họ đã từng sử dụng ma túy khiến sự ham muốn càng mạnh mẽ hơn.

Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem có cách nào khác để thư giãn hay không. Dành thời gian cho họ suy nghĩ và trả lời.
Nói: Một trong những cách thư giãn phổ biến nhất là hít thở. Chúng ta có thể hướng dẫn khách hàng của chúng ta làm như sau:
‚ Đặt cả hai chân xuống sàn, ngồi thẳng lưng dựa vào ghế và nhắm mắt lại.
‚ Hít vào qua mũi và thở ra qua đường miệng
‚ Hít thật sâu, giữ lại một lúc rồi thở ra từ từ
‚ Làm lại như vậy để cảm nhận phổi chứa đầy không khí rồi sau đó thở hết ra.
‚ Thở với nhịp độ thật chậm và đều
‚ Để ý xem có ý nghĩ nào xảy ra trong đầu bạn không
‚ Tự hỏi xem mình có cảm thấy cơ thể mình căng thẳng không
‚ Mở mắt khi bạn thấy thoải mái
Bản chiếu 13 (tiếp)
Chương Vi – Bài 6.3 59
Bản chiếu 14
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng những tóm tắt gợi ý dưới đây để ôn lại những nội dung chính của bài. Nội dung tóm tắt còn được trình bày trong bản chiếu tiếp theo. Lưu ý: sau những bản chiếu tóm tắt này, bạn sẽ hướng dẫn học viên thực hành đóng vai.
Nói: Tôi muốn tóm tắt nội dung bài này như sau:
‚ Thèm nhớ rất phổ biến và xuất hiện là chuyện bình thường. Chúng không phải là dấu hiệu thất bại. Khách hàng cần phải tìm hiểu những yếu tố làm cho cơn thèm nhớ xuất hiện.
‚ Thèm nhớ giống như những cơn sóng biển. Chúng mạnh dần lên đến mức nào đó rồi biến mất.
‚ Nếu khách hàng không dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ yếu dần và biến mất. Cơn thèm nhớ chỉ mạnh hơn nếu họ cứ nghĩ đến nó.
‚ Khách hàng có thể tránh thèm nhớ bằng cách tránh hoặc loại bỏ những yếu tố kích thích nó.
Thèm nhớ ma túy là hiện tượng phổ biến và bình thường. Chúng không phải là dấu hiệu thất bại. Khách hàng cần tìm hiểu xem những yếu tố nào làm cho cơn thèm nhớ xuất hiện.
Thèm nhớ giống như cơn sóng biển. Nó sẽ mạnh lên đến mức nào đó rồi biến mất.
Nếu khách hàng không dùng lại, cơn thèm nhớ sẽ yếu dần và mất hẳn. Cơn thèm nhớ chỉ mạnh lên nếu họ cứ nghĩ đến nó.
Khách hàng có thể tránh cơn thèm nhớ bằng cách tránh hoặc loại bỏ các yếu tố kích thích nó.
TÓM TẮT (1)
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu tiêu đề bản chiếu và hỏi những câu dưới đây. Dành thời gian để học viên suy nghĩ và trả lời. Sau đó chiếu nội dung bản chiếu và bổ sung những điểm còn thiếu.
Nói: Bạn có thể đối phó với cơn thèm nhớ bằng cách sử dụng các kĩ thuật hành vi và nhận thức.
Có bao nhiêu kĩ thuật về hành vi, đó là những kĩ thuật nào?
Có bao nhiêu kĩ thuật về nhận thức, đó là những kĩ thuật nào?

Bản chiếu 15
Bạn có thể đối phó với cơn thèm nhớ bằng:
Biện pháp hành vi
Trì hoãn
Phân tán
Quyết định
- Sau khi cơn thèm nhớ qua đi, hãy điểm lại những lí do tại sao cần phải từ bỏ ma túy
Biện pháp nhận thức
Độc thoại tích cực
Thư giãn và tưởng tượng
TÓM TẮT (2)
Chương Vi – Bài 6.3 61
Hướng dẫn giảng dạy: Hai giảng viên sẽ đóng vai về nội dung thèm nhớ: một người trong vai tư vấn viên và người kia trong vai khách hàng sau cai. Tư vấn viên cần phải làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái và thảo luận từ từ để đưa khách hàng vào chủ đề về thèm nhớ. Hãy làm cho khách hàng nói lên trải nghiệm của mình khi thèm nhớ, cung cấp cho anh ta những thông tin về thèm nhớ và thảo luận ít nhất một chiến lược đối phó với cơn thèm nhớ, tuỳ thuộc vào yếu tố kích thích thèm nhớ cụ thể của khách hàng
Bản chiếu 16
GIẢNG VIÊN ĐÓNG VAI
62 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đề nghị học viên thực hành theo từng cặp, tập trung vào thèm nhớ: một vai là tư vấn viên và vai kia là khách hàng sau cai. Dành cho họ 20 phút để thực hành. Sau đó mời 2 cặp lên để đóng vai trước cả lớp. Đề nghị học viên khác quan sát cẩn thận và phản hồi.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Nguồn:
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 3
An Individual Drug Counseling Approach to Treat Heroin Addiction
http://www.drugabuse.gov
Therapy Manuals for Drug Abuse: Manual 2
A Cognitive-Behavioral Approach: Treating Heroin Addiction
http://www.nida.nih.gov
Bản chiếu 17
HỌC VIÊN ĐÓNG VAI
6.4 Quản lí sự căng thẳng
Bài
64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN

I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về cách quản lí sự căng thẳng và sự liên
quan giữa quản lí căng thẳng với liệu pháp dự phòng tái nghiện.
II. Thảo luận nhóm lớn 20 phút
Đề nghị học viên định nghĩa về căng thẳng và họ đã quản lí căng thẳng như thế nào trong
cuộc sống. (Lưu ý, sử dụng hướng dẫn trên bản chiếu để dẫn dắt cuộc thảo luận và hướng
dẫn các hoạt động.)
II. Thuyết trình 30 phút
Sử dụng các bản chiếu PowerPoint để trình bày với học viên về quản lí căng thẳng và cách
sử dụng kĩ thuật này trong dự phòng tái nghiện.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại các nội dung chính của bài học và trả lời câu hỏi (nếu có).
Bài 6.4: Quản lí sự căng thẳng
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về kĩ thuật quản lí sự căng thẳng và cách áp dụng kĩ thuật này trong làm việc với khách hàng đang phục hồi sau cai nghiện để giúp dự phòng tái nghiện.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu các thành tố của căng thẳng
‚ Hiểu những triệu chứng của sự căng thẳng
‚ Hiểu những nguyên nhân của sự căng thẳng
‚ Hiểu được căng thẳng có thể ảnh hưởng đến cả tư vấn viên lẫn khách hàng như thế nào
‚ Hiểu những cách để giảm căng thẳng
Phương pháp:
‚ Thảo luận nhóm lớn
‚ Thuyết trình
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.4 65
Bản chiếu 1
Nói: Bài này sẽ tập trung cụ thể vào quản lí sự căng thẳng và cách áp dụng kĩ thuật này trong tư vấn dự phòng tái nghiện cho khách hàng.
QUẢN LÝ SỰ CĂNG THẲNG
66 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu các thành tố của căng thẳng
Hiểu những triệu chứng của sự căng thẳng
Hiểu những nguyên nhân của sự căng thẳng
Hiểu được căng thẳng có thể ảnh hưởng đến cả tư vấn viên lẫn khách hàng như thế nào
Hiểu những cách để giảm căng thẳng
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vi – Bài 6.4 67
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm gồm 4 - 5 học viên. Đề nghị mỗi nhóm thảo luận 2 câu hỏi sau trong vòng 10 phút:
1. Sự căng thẳng là gì?
2. Bạn xử trí như thế nào khi gặp căng thẳng trong cuộc sống?
Nói cho học viên biết rằng không có câu trả lời nào là đúng hay sai và hoạt động này nhằm thu thập ý kiến của họ về những câu hỏi trên.
Yêu cầu mỗi nhóm cử ra một người đại diện để báo cáo kết quả. Dành 10 phút để các nhóm thảo luận và 10 phút để báo cáo. Hướng dẫn học viên là họ không cần phải nhắc lại những gì nhóm khác đã nêu ra và nhắc họ hiểu rằng hoạt động này không nhằm mục đích kiểm tra kiến thức mà là để lấy ý kiến của học viên. Trong quá trình thuyết trình, nhắc lại những thông tin đã được nêu lên trong phần thảo luận nhóm này.
Căng thẳng là gì?
Trong cuộc sống bạn đã vượt qua sự căng thẳng như thế nào?
THẢO LUẬN NHÓM
68 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Mặc dù chúng ta thường nghĩ rằng sự căng thẳng là do những sự kiện bên ngoài gây ra nhưng bản thân các sự kiện này không có tính gây căng thẳng. Thực ra, căng thẳng là do cách chúng ta hiểu, diễn giải và phản ứng với các sự kiện đó. Mỗi người chúng ta có một cách diễn giải các sự kiện một cách khác nhau nên đối với cùng một sự kiện xảy ra có thể gây căng thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người khác. Việc họ phản ứng với các sự kiện này cũng khác nhau. Ví dụ: nói chuyện trước công chúng có thể là một việc gây căng thẳng đối với người này nhưng lại là một việc hoàn toàn thoải mái và thư giãn đối với người khác.
Bản chiếu 4
Căng thẳng là những đáp ứng hoặc phản ứng về tâm lí và thể chất trước những mối đe dọa có thật hoặc do suy diễn, tưởng tượng, trước những sự kiện và những thay đổi.
Mối đe dọa, sự kiện hay sự thay đổi được gọi chung là yếu tố gây căng thẳng.
Yếu tố gây căng thăng có thể xuất phát trong nội tâm (suy nghĩ, niềm tin, thái độ) hoặc bên ngoài (mất mát, thảm kịch, những thay đổi khác)
CĂNG THẲNG LÀ GÌ ?
Chương Vi – Bài 6.4 69
Bản chiếu 5
Nói: Kể cả những sự kiện tích cực và những sự kiện tiêu cực trong cuộc đời của một con người đều có tính căng thẳng. Tuy nhiên, những thay đổi lớn trong cuộc đời là những yếu tố chính gây ra căng thẳng cho phần lớn chúng ta. Những sự kiện này đòi hỏi phải có rất nhiều nguồn lực để có thể đối phó.
Những thay đổi chính trong cuộc đời có thể gây căng thẳng:
‚ Di chuyển chỗ ở đến một nơi xa
‚ Chuyển đến một trường mới
‚ Hôn nhân
‚ Mang thai
‚ Công việc mới
‚ Một lối sống mới
‚ Ly hôn
‚ Một người thân yêu qua đời
‚ Bị mất việc làm
Những sự kiện bên ngoài có thể gây ra sự căng thẳng:
‚ Áp lực về thời gian
‚ Cạnh tranh
‚ Những khó khăn về tài chính
‚ Tiếng ồn
‚ Sự thất vọng
Các thay đổi lớn trong cuộc sống (chuyển chỗ ở, chuyển việc làm, có người thân qua đời…).
Yếu tố môi trường (áp lực thời gian hoàn thành, sự cạnh tranh, vấn đề tài chính…)
CÁC NGUYÊN NHÂN GÂY RA CĂNG THẲNG
70 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Theo các bạn thì liệu có phải tất cả mọi sự căng thẳng đều là tiêu cực không? Bạn có thể cho ví dụ về những yếu tố gây căng thẳng nhưng không mang tính tiêu cực với bạn?
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian cho học viên suy nghĩ và trả lời.
Bản chiếu 6
Là một thực tế xảy ra trong cuộc sống hàng ngày
Căng thẳng có thể là tích cực
Căng thẳng quá mức có thể có hại
CĂNG THẲNG
Chương Vi – Bài 6.4 71
Bản chiếu 7
Nói: Chúng ta hãy xem Mô hình căng thẳng của Hanson. Như trên biểu đồ, bạn có thể thấy mức độ căng thẳng càng tăng, chúng ta càng có thể hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu căng thẳng quá mức, khả năng thực hiện công việc sẽ bị giảm sút. Vì vậy, có những mức độ căng thẳng làm tăng năng suất nhưng cũng có ngưỡng căng thẳng mà khi vượt quá ngưỡng sẽ làm giảm năng suất. Sự căng thẳng có thể làm tăng hiệu quả công việc nhưng QUÁ NHIỀU có thể gây suy giảm khả năng làm việc.
Vùng căng thẳng tích cực trên biểu đồ khác nhau ở mỗi người. Nguyên tắc là càng căng thẳng thì càng làm việc hiệu quả. Tuy nhiên với mỗi người, sự tăng căng thẳng sẽ làm tăng hiệu quả làm việc ở mức độ khác nhau. Sự khác biệt giữa các cá nhân chính là mức độ cải thiện hiệu quả công việc tương ứng với mức độ gia tăng của căng thẳng. Sự giảm hiệu suất công việc liên quan đến tăng mức độ căng thẳng cũng khác nhau ở mỗi người. Nhưng về nguyên tắc thì giống nhau, càng căng thẳng thì hiệu quả làm việc càng giảm.

MÔ HÌNH CĂNG THẲNG CỦA HANSON
Tích cực
Căng thẳng
Hiệu quả

Tiêu cực
72 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Các bạn có thấy điều này đúng với các bạn không?
Hướng dẫn giảng dạy: Khuyến khích cả lớp thảo luận nhanh về căng thẳng đã tác động tích cực đến họ như thế nào trước đây. Quan sát xem có sự thống nhất rằng căng thẳng có thể tạo ra kết quả tích cực hay không?
Bản chiếu 8
Giúp tập trung hơn
Tăng cường khả năng thực hiện công việc
Tiếp thêm động lực
TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA CĂNG THẲNG
Chương Vi – Bài 6.4 73
Bản chiếu 9
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề bản chiếu và đặt câu hỏi dưới đây. Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi và nhóm các câu trả lời theo các nhóm sau: thể chất, tâm lí và hành vi. Sau đó chiếu nội dung bản chiếu, chuyển sang bản chiếu tiếp theo và đồng thời kiểm tra xem ý kiến trả lời của học viên có trùng với những điểm được nêu trong bản chiếu không.
Nói: Các bạn có thể nêu một số những vấn đề về thể chất, tâm lí và hành vi do căng thẳng gây nên không?
Giảm động lực
Giảm hiệu quả
Gây ra những vấn đề về thể chất, tâm lí, hành vi
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA CĂNG THẲNG
74 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau phần thảo luận nhóm được hướng dẫn ở bản chiếu trước.
Bản chiếu 10
Nhịp thở tăng
Nhịp tim tăng
Co cơ
Bàn tay ẩm ướt và lạnh
Run tay
Mất ngủ /thao thức
Rối loạn tiêu hóa:
- Đầy bụng/sôi bụng
- Tiêu chảy
Mệt mỏi
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ THỂ CHẤT
Chương Vi – Bài 6.4 75
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau thảo luận nhóm.
Lo lắng
Hay quên
Trầm cảm
Thờ ơ
Lẫn lộn
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ TÂM LÍ
76 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Đối chiếu danh sách này với danh sách mà học viên đưa ra sau khi thảo luận.
Bản chiếu 12
Chống đối
Cáu kỉnh
Bồn chồn
Ăn nhiều hoặc ăn ít hơn
Tăng sử dụng ma túy/ rượu
DẤU HIỆU CĂNG THẲNG VỀ HÀNH VI
Chương Vi – Bài 6.4 77
Bản chiếu 13
Nói: Bây giờ chúng ta đã hiểu về thế nào là sự căng thẳng, những nguyên nhân và hậu quả của nó, chúng ta cần dành thời gian thảo luận về sự cần thiết phải ý thức được về những phản ứng của chúng ta đối với căng thẳng. Chúng ta cần phải nhận thức được để biết cách giảm sự căng thẳng.
Có 3 nhóm kĩ thuật chính để đối phó với sự căng thẳng, đó là nhóm kĩ thuật về tinh thần, về thể chất và giải trí.
Ai có thể cho một số ví dụ?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời.
Nói: Nhiều yếu tố gây căng thẳng có thể thay đổi được, mất đi, hoặc được giảm thiểu. Bạn có thể giảm sự căng thẳng bằng những cách sau:
1. Ý thức được về phản ứng của bản thân đối với sự căng thẳng
2. Duy trì những câu nói khích lệ bản thân
3. Tập trung vào những ưu điểm và những thành tựu của bản thân
4. Tránh cạnh tranh không cần thiết
5. Phát triển những hành vi quả quyết
6. Nhận biết và chấp nhận giới hạn của mình. Ghi nhớ rằng mỗi người đều có những đặc điểm riêng và khác với những người khác
7. Có một vài sở thích. Thư giãn và hưởng thụ
8. Tập thể dục thường xuyên
9. Có chế độ ăn cân bằng

Xác định được mình đang căng thẳng
Biết được mình phản ứng như thế nào
Học các kĩ thuật đối phó với sự căng thẳng
Áp dụng quản lí sự căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày.
10. Trao đổi với bạn bè hoặc một ai đó mà bạn tin tưởng về những điều bạn cảm thấy lo ngại
11. Học cách sử dụng thời gian một cách khôn ngoan:
a. Đánh giá việc phân chia thời gian
b. Luôn lập kế hoạch từ trước và tránh trì hoãn
c. Lập một kế hoạch hàng tuần và bám sát theo kế hoạch đó
12. Đề ra các mục tiêu thiết thực
13. Lập thứ tự ưu tiên
14 Thực hành kĩ thuật thư giãn. Ví dụ, bất cứ khi nào bạn cảm thấy căng thẳng, hít thở chậm trong vòng một vài phút

Bản chiếu 14
Nói: Có 3 phương pháp chính để quản lí căng thẳng, đó là sử dụng kĩ thuật về tâm lí, kĩ thuật về thể chất và giải trí. Trên đây là một số kĩ thuật về tinh thần mà khách hàng có thể sử dụng để đối phó với các yếu tố gây căng thẳng. Chúng ta sẽ có những bài học riêng về quản lí thời gian, giải quyết vấn đề và đặt mục tiêu.
Quản lí thời gian
Tổ chức cuộc sống hợp lí
Giải quyết vấn đề
Xác định vấn đề quan trọng
- Xác định giá trị của bản thân
- Thiết lập ưu tiên
- Đặt mục tiêu
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ TINH THẦN
80 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Tập thể dục và tập thở là những cách đơn giản đối với khách hàng. Thông thường, người ta quên tầm quan trọng của việc cười thoải mái để cải thiện tâm trạng và giảm căng thẳng. Chế độ ăn cân đối cũng giúp giảm căng thẳng. Những người ăn uống không đủ chất có thể bị căng thẳng do thiếu dinh dưỡng. Yoga và ngồi thiền cũng giúp giảm căng thẳng hiệu quả. Kĩ thuật tưởng tượng cũng có thể hữu ích. Bạn chỉ cần nhắm mắt và tập trung tư tưởng vào một nơi yên bình là bạn sẽ quên được những căng thẳng trong cuộc sống.
Bản chiếu 15
Cười
Dinh dưỡng
Tập thể dục
Tập thở
Thiền (yoga)
Tưởng tượng
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ THỂ CHẤT
Chương Vi – Bài 6.4 81
Bản chiếu 16
Nói: Mọi người ai cũng cần được nghỉ ngơi sau những căng thẳng cuộc sống hàng ngày. Đây là những ví dụ phổ biến về cách giảm căng thẳng, giúp người ta nghỉ ngơi và hồi phục sức khỏe.
Âm nhạc
Thực hiện hoạt động yêu thích
Vui chơi
Đi nghỉ
NHỮNG KĨ THUẬT VỀ GIẢI TRÍ
82 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu học viên dành 5 phút tự suy nghĩ và viết lên một tờ giấy về những điều khiến họ căng thẳng.
Sau khi họ đã viết xong, đi vòng quanh lớp và hỏi học viên xem liệu họ có đối phó với những yếu tố gây căng thẳng theo cách khác đi sau khi học bài học này không.Hỏi về những điều mà họ có thể áp dụng để thay đổi cách đáp ứng của họ với những nguyên nhân gây căng thẳng cụ thể. Nhớ ghi lại trên bảng lật.
Sau đó hỏi học viên xem những nguyên nhân gây căng thẳng nào có thể ảnh hưởng tới khách hàng.
Nói: Bạn sẽ áp dụng những chiến lược nào để giúp khách hàng giảm sự căng thẳng?
Hướng dẫn giảng dạy: Ghi nhận những điều tương tự và khác nhau về cách mà tư vấn viên có thể giải quyết những nguyên nhân gây căng thẳng của họ, và với những cách họ sẽ hướng dẫn khách hàng. Tìm hiểu xem liệu họ có áp dụng chiến lược giống nhau không, tại sao, và nếu không, tại sao.
Bản chiếu 17
Viết ra những nguyên nhân gây căng thẳng trong cuộc sống của bạn (bài tập cá nhân – 5 phút)
Chờ hướng dẫn tiếp theo
BÀI TẬP
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những thông điệp chính của bài học.
Nói: Bây giờ có lẽ bạn cảm thấy rằng bạn đã hiểu rõ hơn về những yếu tố gây căng thẳng và cách kiểm soát căng thẳng.
Các bạn cũng hiểu biết hơn về:

‚ Những nguyên nhân của sự căng thẳng
‚ Những triệu chứng của sự căng thẳng
‚ Sự căng thẳng ảnh hưởng đến bản thân bạn và khách hàng của bạn như thế nào
‚ Những cách giảm căng thẳng
Nội dung quan trọng cần ghi nhớ là:

‚ Căng thẳng xảy ra đối với cả bạn và khách hàng
‚ Căng thẳng có các dấu hiệu và triệu chứng rõ rệt
‚ Có thể kiểm soát và giảm bớt sự căng thẳng
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Căng thẳng xảy ra cả với bạn và khách hàng
Căng thẳng có các dấu hiệu và triệu chứng rõ rệt
Có thể kiểm soát và giảm bớt sự căng thẳng
TÓM TẮT

6.5 Quản lí thời gian
Bài 86 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về quản lí thời gian trong tư vấn điều trị
nghiện ma túy và mối liên quan với dự phòng tái nghiện.
II. Thuyết trình 55 phút
Sử dụng các bản chiếu để thuyết trình về quản lí thời gian.
III. Kết luận 3 phút
Ôn lại những nội dung chính trong bài và trả lời các câu hỏi của các học viên (nếu có).
Bài 6.5: Quản lí thời gian
Mục đích:
Giúp học viên hiểu về những nguyên tắc cơ bản trong việc quản lí thời gian cho cả tư vấn viên và khách hàng trong tư vấn điều trị nghiện ma túy.
Thời gian: 60 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Hiểu rõ tầm quan trọng của quản lí thời gian trong tư vấn
‚ Giải quyết được những vấn đề về quản lí thời gian cho bản thân và cho khách hàng
‚ Hiểu được sự liên quan giữa quản lí thời gian và tái nghiện
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận
‚ Bài tập nhóm nhỏ
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vi – Bài 6.5 87
Nói: Bài học về quản lí thời gian gồm 3 phần. Phần đầu tiên thảo luận về cách quản lí thời gian hiệu quả cho chính các bạn. Phần thứ hai thảo luận về cách quản lí thời gian trong các buổi tư vấn. Phần thứ ba nhằm hướng dẫn cách giới thiệu khái niệm quản lí thời gian với khách hàng và giúp họ xây dựng chiến lược quản lí thời gian.
Bài học này được chia thành 3 phần là vì cách sử dụng kĩ thuật này cho bản thân các bạn và cho khách hàng là khác nhau. Hơn nữa, bản thân các bạn cũng cần có kiến thức và các kĩ năng để quản lí thời gian hiệu quả. Cuối cùng, những lí do đòi hỏi các bạn phải xây dựng cơ chế quản lí thời gian cũng khác so với những lí do của khách hàng.

Bản chiếu 1
QUẢN LÍ THỜI GIAN
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Hiểu rõ tầm quan trọng của quản lý thời gian trong tư vấn
Giải quyết được những vấn đề về quản lí thời gian cho bản thân và cho khách hàng
Hiểu được sự liên quan giữa quản lí thời gian và tái nghiện
MỤC TIÊU
Chương Vi – Bài 6.5 89
Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành 3 nhóm nhỏ. Yêu cầu mỗi nhóm chọn một người để trình bày kết quả thảo luận.
Đề nghị mỗi nhóm thảo luận MỘT trong số những câu hỏi trên bản chiếu. Nói cho tất cả mọi người biết rằng không có câu trả lời nào là đúng hay sai và họ cần viết ra tất cả các ý tưởng nảy sinh trong đầu.
Sau khi các nhóm đã trình bày kết quả thảo luận xong, nói với học viên rằng bạn sẽ lần lượt thảo luận chi tiết về các chủ đề này trong bài. Vào cuối bài học, hãy yêu cầu học viên nhớ lại những gì đã thảo luận trong bài tập này để xem có gì thay đổi không. (Học viên không cần phải ghi chép lại những kết quả thảo luận của họ)
Bản chiếu 3
Bạn sẽ sử dụng những kĩ thuật nào để tập trung vào công việc của bạn sau khi bị chen ngang bởi một công việc/một người khác?
Tại sao bạn nghĩ quản lí thời gian lại quan trọng trong tư vấn ?
Khi bạn đang tư vấn cho khách hàng nhưng thời gian buổi tư vấn sắp kết thúc, bạn sẽ làm gì để dừng cuộc nói chuyện/ thảo luận với khách hàng?
THẢO LUẬN NHÓM
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Chiếu bản chiếu số 4 và hỏi họ xem liệu đây là những hiểu biết không đúng hay là sự thật. Mời học viên tham gia thảo luận. Để ý xem ý kiến của học viên có thống nhất không. Sử dụng những thông tin dưới đây để giải thích về các hiểu biết không đúng.
Thông tin tham khảo:
Số 1:
Lập thời gian biểu chỉ tốn thời gian. Trên thực tế, kết quả các nghiên cứu đã chứng minh là ngược lại.
Số 2: Khi tôi uống rượu, tôi làm việc hiệu quả hơn. Sai! Nghiên cứu cho thấy rượu luôn ảnh hưởng đến khả năng ra quyết định và năng suất làm việc. Thông thường, khi uống rượu, người ta thường nghĩ rằng họ đã có những quyết định khôn ngoan khi say nhưng đến ngày hôm sau khi tỉnh dậy, họ nhận thấy quyết định của họ thật ngớ ngẩn.
Số 3: Vấn đề trong quản lí thời gian là không đủ thời gian để hoàn thành những việc cần làm. Không đúng, vấn đề trong việc quản lí thời gian là ở chỗ bạn không dùng thời gian một cách tối ưu, để hoàn thành những việc mà bạn cần làm.
Số 4: Càng bận thì tôi càng sử dụng thời gian hiệu quả hơn. Hãy thận trọng! Có thể bạn chỉ làm những việc khẩn, chứ không phải là những việc quan trọng.
Số 5: Tôi cảm thấy bận rộn, như vậy nghĩa là tôi đang gặp rắc rối trong việc quản lí thời gian. Không nhất thiết là như vậy. Bạn nên làm rõ xem bạn có gặp rắc rối gì trong việc quản lí thời gian hay không. Việc này đòi hỏi bạn phải biết bạn thực sự muốn hoàn thành những công việc gì và bạn có đang hoàn thành những công việc đó hay không.
# 1: Lập thời gian biểu chỉ tốn thời gian
# 2: Khi tôi uống rượu, tôi làm việc hiệu quả hơn
#3: Vấn đề trong quản lí thời gian là không đủ thời gian để hoàn thành những việc cần làm
#4: Càng bận rộn tôi đang sử dụng hiệu quả thời gian của mình
# 5: Tôi cảm thấy bận rộn, như vậy tôi đang gặp vấn đề trong việc quản lí thời gian
MỘT SỐ HIỂU BIẾT SAI VỀ QUẢN LÍ THỜI GIAN
Chương Vi – Bài 6.5 91
Bản chiếu 5
Nói: Một điều cần làm để quản lí thời gian hiệu quả là ghi chép lại những điều cần làm để sau này không phải lo lắng là mình có quên điều gì đó hay không.
Tránh việc chỉ lập danh sách những việc cần làm ở trong đầu. Danh sách tốt hơn hết nên được viết ra để không phải ghi nhớ chúng trong đầu. Khi bạn viết danh sách này trong nhật ký, bạn có thể dành đầu óc để tập trung suy nghĩ vào các việc khác. Danh sách những việc cần làm cần được cập nhật liên tục vì những ưu tiên sẽ thay đổi, danh sách của bạn cũng cần phải thay đổi theo.
Hãy thực tế. Tự cam kết thực hiện những công việc và dự án có thể hoàn thành được. Nếu bạn biết chắc là sẽ không thể hoàn thành một công việc trong một ngày đã định, thì cần chuyển công việc đó sang ngày hôm sau hoặc một ngày nào đó phù hợp. Khi bạn đã viết xong danh sách những việc cần làm trong nhật ký thì việc tiếp theo là xem lại danh sách để sắp xếp các hoạt động theo thứ tự quan trọng. Sau đó, bạn đơn giản chỉ cần bắt đầu công việc số 1 và cứ như thế đến số 2, 3 …
Trong những bản chiếu tiếp theo chúng ta sẽ thảo luận về các phương pháp quản lí thời gian hiệu quả.

Thời gian đối với mỗi người là một nguồn lực hữu hạn nên cần được phân bổ hợp lý để tạo ra sản lượng cao nhất
Luôn phải ưu tiên cho những công việc quan trọng nhất Không thể dành quá nhiều thời gian để đáp ứng mọi yêu cầu
VÌ SAO CẦN QUẢN LÍ THỜI GIAN
Nói: Có ba bước chính mà bạn cần thực hiện khi lập kế hoạch về thời gian.
‚ Tạo môi trường làm việc thuận lợi
‚ Lựa chọn ưu tiên công việc với quỹ thời gian của bạn
‚ Lập kế hoạch hành động để hoàn thành những nhiệm vụ này.
Bản chiếu 6
Bước 1: Tạo môi trường làm việc thuận lợi
Bước 2: Lựa chọn ưu tiên
Bước 3: Lập kế hoạch
QUẢN LÍ THỜI GIAN:
CÁC BƯỚC CHÍNH

Chương Vi – Bài 6.5 93
Bản chiếu 7
Nói: Để quản lí thời gian hiệu quả và hoàn thành công việc, bạn nên tạo dựng một môi trường làm việc mà bạn cảm thấy thoải mái và hiệu quả. Đảm bảo nơi làm việc của bạn phải phù hợp và mang phong cách riêng. Một số người thích trang trí cho nơi làm việc của họ bằng những đồ vật hoặc hình ảnh làm cho họ cảm thấy bình tĩnh (ví dụ: ảnh gia đình, bạn bè, những kỷ niệm đẹp).
Tạo dựng một không gian làm việc hấp dẫn, hiệu quả là một việc rất quan trọng đối với tư vấn viên. Bạn phải giúp cho khách hàng của bạn cảm thấy thoải mái khi họ đến phòng tư vấn của bạn. Bạn phải sắp xếp và trang trí nơi làm việc của bạn một cách chuyên nghiệp để bạn không phải mất thời gian vào việc tìm thứ này, thứ nọ khi tư vấn cho khách hàng. Đồng thời, bạn là một hình mẫu tốt cho khách hàng noi theo. Nếu bạn không thể quản lí thời gian tốt, bạn sẽ không thể dạy họ cách quản lí thời gian tốt.
Bạn cũng cần phải quan tâm đến những thay đổi về sinh lí có thể tác động tới hiệu quả công việc của bạn. Ví dụ, nếu bạn là người thường làm việc rất tập trung và năng nổ vào buổi sáng thì có lẽ bạn nên sắp xếp lịch tư vấn cho càng nhiều khách hàng càng tốt trong thời gian buổi sáng và dành thời gian còn lại vào buổi chiều cho những công việc hành chính. Bạn sẽ không bao giờ muốn xuất hiện với dáng vẻ mệt mỏi khi tiếp xúc với khách hàng vì họ có thể hiểu sai và cho rằng bạn không quan tâm tới tình huống của họ.

Bước 1: Tạo môi trường làm việc thuận lợi
Tạo môi trường khuyến khích làm việc
Theo dõi nhịp sinh học
- Giải quyết công việc trong khoảng thời gian bạn có thể làm việc tốt nhất
QUẢN LÍ THỜI GIAN: NGUYÊN TẮC CHUNG
Nói: Sau khi tạo dựng được một môi trường làm việc đạt được những kết quả đúng theo kế hoạch đã định, việc tiếp theo bạn cần phải làm là lập thứ tự ưu tiên các nhiệm vụ. Hãy nhớ là bạn không thể nào cùng một lúc làm tất cả mọi việc và càng không thể nào cùng một lúc có thể hoàn thành tất cả mọi việc. Như đã thảo luận ở phần trước, bạn cần phải lập một danh sách những việc cần làm chứ không nên chỉ nhớ trong đầu.
GHI NHỚ: Một danh sách tốt về những việc cần làm là một danh sách được cập nhật hàng ngày. Một điều quan trọng nữa là danh sách này cũng phải thực tế. Chỉ nên lập danh sách những dự án và hoạt động có thể thực hiện và hoàn thành được.
Hãy nhìn vào bảng ở trên bản chiếu. Có hai góc độ nhìn nhận về những công việc chúng ta cần làm, đó là mức độ khẩn cấp và mức độ quan trọng. Khi lập xong danh sách thì hãy sử dụng bảng chia mức độ ưu tiên ở bản chiếu này để quyết định mức độ khẩn cấp và mức độ quan trọng của từng nhiệm vụ. Hãy bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ được xếp vào ô số I. Khi hoàn thành xong thì chuyển sang các hoạt động ở ô số II và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi ngày làm việc kết thúc.
Cách phân loại các việc cần làm thành 4 nhóm sẽ không phải cứ cố định như vậy. Bạn cần xem lại bảng này sau mỗi ngày vì đôi khi, những việc nằm trong ô số IV đột nhiên lại phải được chuyển vào ô số I do tính quan trọng và khẩn cấp của nó thay đổi. Bạn có thể phải điều chỉnh danh sách này hàng ngày hoặc hàng tuần.

Hướng dẫn giảng dạy: Yêu cầu học viên suy nghĩ về những nhiệm vụ của họ trong tuần trước. Yêu cầu họ dành 1 phút và nhóm các nhiệm vụ đó thành một bảng giống như trên bản chiếu. Thảo luận xem họ đã sắp xếp như thế nào. Nói với học viên rằng, sau khi đã lập thứ tự ưu tiên những việc phải làm, cần phải bắt đầu xây dựng kế hoạch.
Bản chiếu 8
Bước 2: Lựa chọn ưu tiên
Lập danh sách những việc bạn cần thực hiện Sắp xếp các công việc đó theo bảng 2x2 và lựa chọn hoạt động trong ô I và II
QUẢN LÍ THỜI GIAN:
NGUYÊN TẮC CHUNG

Khẩn cấp Quan trọng Cao Thấp
Cao I II
Thấp III IV
Chương Vi – Bài 6.5 95
Bản chiếu 9
Nói: Lập kế hoạch rất quan trọng đối với cả bạn và khách hàng. Có ba loại kế hoạch: ngắn hạn (1 ngày/ 1 tuần), trung hạn (1 tháng/ 1 quý) và dài hạn (3-5 năm).
Với mục tiêu dài hạn, bạn cần:

‚ Quyết định mục tiêu cần phải đạt được
‚ Xác định các bước để đạt được mục tiêu đó
‚ Bắt đầu bằng những bước nhỏ ban đầu và hoàn thành những bước đó. Điều chỉnh hoặc bổ sung thêm các bước nếu cần. (Có thể bạn không biết được tất cả các hoạt động hoặc các bước cần thiết để đạt được mục tiêu cuối cùng).
Trong quá trình thực hiện các bước, có lúc bạn cần phải dừng lại để đánh giá kết quả đạt được và điều chỉnh kế hoạch, nếu cần. Cũng giống như khi bạn leo núi, có những vách núi rất khó vượt qua, bạn sẽ mất can đảm và quyết tâm để tiếp tục trèo lên nếu bạn luôn luôn chỉ nhìn thấy còn quá xa mới đến được đích. Vì vậy, hãy dành thời gian để nhìn lại những gì bạn đã thực hiện được và thấy rằng bạn đã rất thành công. Điều đó giúp bạn mạnh mẽ hơn, dũng cảm hơn và quyết tâm mạnh mẽ hơn trên con đường đi tới.
Đối với bất kỳ kế hoạch nào cũng cần phải có thời gian để đáp ứng những nhu cầu cá nhân như thư giãn, giải tỏa sự căng thẳng và thưởng thức. Bạn nên đưa vào kế hoạch này một chuyến đi nghỉ. Nhớ là ngay từ đầu, bạn không nên quá tham vọng.

Bước 3: Xây dựng kế hoạch
Lập thời gian biểu chi tiết cho mục tiêu dài hạn, bao gồm các bước để đạt được mục tiêu
Sau mỗi ngày, mỗi tuần cần nhìn lại và điều chỉnh kế hoạch
Đưa những hoạt động liên quan đến nhu cầu cá nhân, nghỉ ngơi, giải trí vào kế hoạch Đừng tạo ra một kế hoạch quá tham vọng.
QUẢN LÍ THỜI GIAN: NGUYÊN TẮC CHUNG
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Sử dụng thông tin dưới đây để nói về vai trò và trách nhiệm chính của tư vấn viên trong quản lí thời gian một buổi tư vấn.
Thông tin tham khảo: Vai trò của tư vấn viên là gì?
Vai trò chính của tư vấn viên là khích lệ và củng cố động cơ của khách hàng để hướng tới sự thay đổi. Vai trò này có thể bao gồm cả vai trò của một giáo dục viên và một cộng tác viên trong quá trình phục hồi của khách hàng. Phải giảm bớt vai trò của một chuyên gia/ cố vấn.
Ai là người nên nói nhiều hơn?
Khách hàng nên nói là chính, không tính phần thời gian làm đánh giá cá nhân và phản hồi bởi vì khi đó tư vấn viên phải nói rất nhiều để giải thích cho khách hàng.
Tư vấn viên nên giữ vai trò dẫn dắt ở mức độ nào?
Các buổi tư vấn là những buổi thảo luận tập trung vào khách hàng nhưng cũng cần phải được định hướng. Mục tiêu cụ thể mà tư vấn viên theo đuổi được dựa trên kết quả đánh giá khách hàng (và nhu cầu của khách hàng). Tuy nhiên, nó sẽ chỉ thành công khi khách hàng không cảm thấy là họ bị chỉ đạo, ép buộc, hoặc dạy bảo. Tư vấn viên nên hướng dẫn khách hàng thông qua việc đặt các câu hỏi mở và phản hồi có lựa chọn với những câu trả lời của khách hàng, chứ không nên áp dụng các chiến lược đối đầu và đưa ra lời khuyên. Hãy hình dung vai trò này giống như khi tư vấn viên và khách hàng cùng hợp tác với nhau để chơi trò ghép hình. Thay vì tư vấn viên một mình xếp hình trong khi khách hàng ngồi xem, tư vấn viên thực ra sẽ là người giúp khách hàng dựng khung, đặt từng hình lên trên bàn để tự tay khách hàng sẽ là người xếp từng hình vào đúng vị trí trong khung.
Bản chiếu 10
Tuân thủ trình tự của mỗi buổi tư vấn
Tập trung vào vấn đề quan trọng nhất của khách hàng
Liên kết các điểm quan trọng và chuyển chủ đề một cách hợp lí
Cần phải tập trung và sử dụng kĩ năng tóm tắt khi cần
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG MỘT BUỔI TƯ VẤN
Chương Vi – Bài 6.5 97
Tư vấn viên cần thiết lập một mối quan hệ trị liệu với khách hàng ngay từ đầu. Phương pháp trị liệu lấy khách hàng làm trung tâm cung cấp một nền tảng vững chắc cho việc xây dựng mối quan hệ này, với trọng tâm là đặt các câu hỏi mở và lắng nghe có phản hồi. Tư vấn viên nên sử dụng các chiến lược hỗ trợ và tạo dựng động cơ cho đến khi nào khách hàng không còn có thái độ phản kháng và thể hiện những dấu hiệu mong muốn thay đổi. Các buổi tư vấn phải có trọng tâm. Với vai trò là một tư vấn viên, bạn cần giúp khách hàng tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất trước và giúp họ nhìn nhận được sự liên quan giữa việc sử dụng chất gây nghiện và các hậu quả về sinh học - tâm lí - xã hội của họ. Bạn có thể làm việc này với khách hàng mà không khiến họ có cảm giác gấp gáp bằng cách kết nối các điểm quan trọng với nhau và thay đổi chủ đề nếu cần.
Luôn luôn hành động có định hướng và sử dụng kĩ năng tóm tắt khi cần.
Bản chiếu 10 (tiếp)
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Làm thế nào để tư vấn viên có thể giữ cho buổi tư vấn đi theo hướng tích cực mà không cảm thấy vội vã?
Bạn có thể làm được bằng cách phối kết hợp các kĩ năng tư vấn sau đây:

‚ Đặt câu hỏi mở/ câu hỏi đóng
‚ Khơi gợi
‚ Diễn giải
‚ Tóm tắt
‚ Phản hồi các trạng thái cảm xúc
‚ Thể hiện sự thấu cảm
Bạn cần biết khi nào thì nên đặt câu hỏi mở, khi nào thì nên đặt câu hỏi đóng. Sẽ rất khó cho bạn nếu từ đầu đến cuối bạn chỉ đặt một loại câu hỏi. Bạn luôn phải biết sử dụng cân bằng giữa hai loại câu hỏi này. Điều quan trọng là bạn phải phân biệt được điều gì bạn cần biết chi tiết, cụ thể, điều gì bạn chỉ cần biết thông tin chung chung. Bạn cũng có thể cần phải sử dụng tất cả những kĩ năng khác nữa mà chúng ta đã thảo luận. Những kĩ năng đó cũng giúp bạn quản lí thời gian tốt hơn.
Nếu bạn thực hiện thành công những kĩ năng này trong một buổi tư vấn thì khách hàng sẽ cảm thấy:

‚ Họ được lắng nghe
‚ Họ được tham gia vào trong một cuộc hội thoại chứ không phải là người chỉ nghe lời người khác nói
‚ Hành động và hành vi của họ cũng như những hậu quả của nó đều liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của họ.
Bản chiếu 11
Sử dụng lồng ghép các kĩ năng tư vấn
- Đặt câu hỏi mở/đóng
- Khơi gợi
- Diễn giải
- Tóm tắt
- Phản hồi các trạng thái cảm xúc
- Thể hiện sự thấu cảm
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG MỘT BUỔI TƯ VẤN
Chương Vi – Bài 6.5 99
Bản chiếu 11 (tiếp)
Sử dụng những kĩ năng này sẽ giúp khách hàng cảm thấy họ được chào đón, được thấu hiểu, được hỗ trợ, và quan trọng nhất là buổi tư vấn sẽ bắt đầu và kết thúc đúng giờ.
100 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Chúng ta đã thảo luận xong về quản lí thời gian, những hiểu biết không đúng về quản lí thời gian, và tầm quan trọng của quản lí thời gian trong cuộc sống và trong các buổi tư vấn.
Chúng ta cũng đã thảo luận những gì cần thực hiện trong một buổi tư vấn, kể cả các kĩ thuật quản lí thời gian.

Hướng dẫn giảng dạy: Chia lớp thành 3 nhóm và yêu cầu các nhóm cử người trình bày kết quả thảo luận với cả lớp
Nói: Tôi muốn mỗi nhóm dành 5 phút để thảo luận xem cần bao nhiêu thời gian cho mỗi bước của buổi tư vấn như trên bản chiếu. Hãy xác định xem tư vấn viên cần nói gì khi bắt đầu buổi tư vấn, trong buổi tư vấn và kết thúc buổi tư vấn.
Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để từng nhóm báo cáo kết quả thảo luận và góp ý khi cần. Sử dụng những thông tin dưới đây để bổ sung cho kết quả thảo luận nhóm.
Thông tin tham khảo:
Mở đầu

Bạn phải dành khoảng 5 phút để chào đón và định hướng cho khách hàng, để giúp họ không hiểu sai về mong đợi từ buổi tư vấn. Để thực hiện điều này một cách hiệu quả, trước khi gặp khách hàng, bạn cần đọc những thông tin ghi chép trước đó để nhớ lại những nội dung tư vấn buổi trước. Bạn có thể bắt đầu buổi tư vấn bằng cách nói: “Rất vui được gặp lại bạn, trong buổi tư vấn trước chúng ta đã nói về __________. Giờ chúng ta sẽ tiếp tục nhé. Bạn hãy cho tôi biết bạn đã thực hiện đến đâu.” Tư vấn viên luôn luôn phải làm như vậy vì rất hiếm khi khách hàng có thể nhắc bạn là buổi tư vấn trước hai bên đã làm gì. Làm như vậy cũng giúp bạn đặt ra cấu trúc và điểm bắt đầu cho những chủ đề sẽ được thảo luận trong buổi tư vấn này.
Mở đầu
Quá trình tư vấn
Kết thúc
TRÌNH TỰ CỦA MỘT BUỔI TƯ VẤN: 45 PHÚT
Thực hiện
Phần thứ hai của buổi tư vấn có tính tương tác cao hơn. Nó được phát triển dựa trên cơ sở của phần giới thiệu và có sử dụng các kĩ năng tư vấn. Hầu hết thời gian, bạn sẽ dành để nghe khách hàng nói, sau khi đặt những câu hỏi mở để giúp họ tìm hiểu những điều đang diễn ra. Giai đoạn này có thể kéo dài 30 phút.
Kết thúc buổi tư vấn
Tư vấn là một hành trình mà nó không có điểm đến cuối cùng. Trong hầu hết các trường hợp, kết thúc một buổi tư vấn chỉ là thời gian nghỉ trước khi tiếp tục buổi tư vấn tiếp theo. Đôi khi, bạn phải áp dụng cách sáng tạo nhất để kết thúc buổi tư vấn. Một cách để kết thúc buổi tư vấn là 10 phút trước khi hết giờ, bạn nên tóm tắt lại nội dung buổi tư vấn. Bạn cũng có thể sử dụng khoảng thời gian này để suy nghĩ về những bước tiếp theo phù hợp. Kiểm tra xem khách hàng đã thật sự hiểu những gì đã được thảo luận chưa. Phải chắc chắn là khách hàng đồng ý về những việc cần làm tiếp theo, kể cả trước, trong và sau buổi tư vấn tiếp theo. Bạn cũng cần có những phản hồi và góp ý cho khách hàng về những gì họ sẽ làm và những gì đã đạt được, để họ cảm thấy phấn khởi trước khi ra về. Chắc chắn rằng bạn ghi chép lại tất cả những điều quan trọng lại để phục vụ cho buổi tư vấn lần sau.
Nói: Giống như khi bạn cần phải quản lí thời gian trong cuộc sống của bạn và trong các buổi tư vấn mà bạn thực hiện, khách hàng cũng cần được hướng dẫn về cách quản lí thời gian. Một lí do tại sao quản lí thời gian lại cần thiết và quan trọng đối với khách hàng đang phục hồi là nó góp phần dự phòng tái nghiện. Một người nghiện ma túy sử dụng rất nhiều thời gian vào việc tìm kiếm, mua và sử dụng ma túy. Tuy nhiên, khi họ ngừng sử dụng ma túy và tham gia tư vấn, họ có rất nhiều thời gian rảnh rỗi.
Điều này gây ra 2 khó khăn. Quá nhiều thời gian rảnh sẽ gây buồn chán và buồn chán gây căng thẳng. Căng thẳng có thể làm tăng nguy cơ tái nghiện. Khó khăn thứ hai là làm sao giúp khách hàng lấp đầy khoảng thời gian rỗi theo cách mà họ cảm thấy hữu ích và hiệu quả. Sẽ rất khó khăn khi bắt đầu việc này vì khách hàng không quen nghĩ đến việc quản lí thời gian của họ.

Bản chiếu 13
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Chương Vi – Bài 6.5 103
Bản chiếu 14
Nói: Khi hỗ trợ cho khách hàng quản lí thời gian hiệu quả hơn, bạn cũng góp phần giúp họ dự phòng tái nghiện. Tư vấn viên nên giải thích cho khách hàng biết rằng, khi họ xây dựng kế hoạch là họ cũng đang giải quyết những vấn đề có thể liên quan đến nguy cơ tái nghiện. Bạn có thể nói thêm rằng:
‚ Việc phân bổ thời gian không hợp lí có thể gây ra sự nhàm chán làm tăng nguy cơ tái nghiện
‚ Thời gian không được quản lí có thể dẫn tới những quyết định vô tình xô đẩy họ tới những tình huống nguy cơ cao
‚ Khách hàng thường phàn nàn rằng họ không có việc gì để làm - một kế hoạch cá nhân chi tiết sẽ giúp họ rõ hơn về những việc họ nên làm
‚ Một kế hoạch cá nhân chi tiết có thể giúp khách hàng có được sự ủng hộ của gia đình và bạn bè vì họ có thể nhận thấy rằng khách hàng đang cố gắng nỗ lực để thay đổi cuộc sống.
Phân bổ thời gian không hợp lí
Không quản lí thời gian dẫn đến thiếu mục đích trong cuộc sống
Thiếu công việc để làm dẫn đến buồn chán
Khách hàng sẽ nhận được sự hỗ trợ hiệu quả hơn từ gia đình và người thân nếu họ có kế hoạch hành động
TẠI SAO CẦN QUẢN LÍ THỜI GIAN ĐỂ DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Nói: Nhiều khách hàng cần được hướng dẫn các kĩ năng để có thể học cách lập một kế hoạch cá nhân hữu ích cho cuộc sống hàng ngày của họ. Điều này sẽ giúp giảm đi sự căng thẳng và bảo đảm rằng khách hàng có thể hoàn thành công việc hàng ngày của họ. Vậy thì bạn làm thế nào để có thể giúp khách hàng học được những kĩ năng quý giá này.
Có thể giúp họ bằng các cách sau đây:

‚ Khuyến khích khách hàng tự lập một kế hoạch cá nhân, chỉ trợ giúp khi cần thiết.
‚ Kế hoạch càng chi tiết thì quyết tâm thực hiện càng lớn và khả năng thành công sẽ càng cao.
‚ Sau khi khách hàng xây dựng được một kế hoạch phác thảo thì dành riêng một buổi tư vấn cho họ để thảo luận về những điểm thuận lợi và khó khăn của kế hoạch.
‚ Giúp khách hàng nhận biết được những kết quả của từng thay đổi nhỏ họ đã thực hiện.
Trong quá trình thực hiện các buổi tư vấn, cần lồng ghép kế hoạch cá nhân của khách hàng vào kế hoạch phục hồi tổng thể của họ. Công nhận những thành công và mỗi thay đổi họ đã làm được. Bạn cũng có thể cần chỉ cho khách hàng thấy rằng trong quá trình này, họ cũng bắt đầu học được cách đối phó với những yếu tố cám dỗ thúc đẩy họ tới nguy cơ tái nghiện.

Bản chiếu 15
Khuyến khích khách hàng tự lập ra kế hoạch cá nhân, chỉ hỗ trợ khi cần thiết
Chuẩn bị kế hoạch càng kỹ thì càng có quyết tâm thực hiện và khả năng thành công càng cao
Thảo luận với khách hàng về những khó khăn, trở ngại và những yếu tố thuận lợi liên quan đến kế hoạch của khách hàng
Giúp khách hàng nhận biết được tầm quan trọng của mỗi thay đổi đạt được
LẬP KẾ HOẠCH CÁ NHÂN NHƯ THẾ NÀO
Nói: Hãy nhớ lại phần đầu của bài này chúng ta đã thảo luận về việc tư vấn viên cần phải xây dựng một kế hoạch quản lí thời gian cá nhân và trong các buổi tư vấn. Điều đó quan trọng đối với tư vấn viên như thế nào thì cũng quan trọng như vậy đối với khách hàng. Bạn có thể cần phải thảo luận kế hoạch của khách hàng và giao cho khách hàng bài tập về nhà (khách hàng phải về nhà tự xây dựng kế hoạch) để buổi tư vấn sau, khách hàng sẽ mang bản kế hoạch sơ bộ đến để thảo luận tiếp.
Khách hàng có thể làm những việc sau:

‚ Xây dựng một kế hoạch cá nhân phù hợp (đừng quá tham vọng và ưu tiên những việc dễ thực hiện)
‚ Hiểu rõ kế hoạch và hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu
‚ Lập kế hoạch chi tiết và liệt kê các hoạt động cần thực hiện theo từng giờ trong ngày
‚ Ưu tiên những hoạt động an toàn hoặc nguy cơ thấp
TẠI SAO ĐIỀU NÀY LẠI QUAN TRỌNG NHƯ VẬY? Bởi vì một kế hoạch thành công sẽ nhiều khả năng giúp khách hàng không bị tái nghiện. Ngược lại, kế hoạch không thành công có thể dẫn đến tái nghiện.
Khách hàng có thể làm như sau:
Lập kế hoạch cá nhân phù hợp: tránh kế hoạch quá tham vọng, ưu tiên các hoạt động dễ thực hiện trước
Hiểu rõ những kế hoạch và hoạt động nào cần thực hiện để đạt được mục tiêu
Lập kế hoạch chi tiết và liệt kê các hoạt động theo từng giờ trong ngày
Ưu tiên những hoạt động an toàn hoặc nguy cơ thấp
Thực hiện thành công kế hoạch = giảm nguy cơ tái nghiện;
Không thực hiện được = nguy cơ tái nghiện cao

HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG LẬP KẾ HOẠCH HÀNG NGÀY
Nói: Bạn cần phải hiểu rõ về trình độ học vấn và nền tảng kiến thức của khách hàng. Ví dụ, nếu họ không biết đọc biết viết thì việc xây dựng kế hoạch có thể sẽ khó khăn hơn đối với họ.
Bạn cần phải suy nghĩ về cách đối phó với tình huống này.
Nhiều khách hàng hay phàn nàn rằng họ không có việc gì để làm, không có gì để có thể đưa vào thời gian biểu.
Làm thế nào để lôi cuốn khách hàng tham gia vào việc lập thời gian biểu riêng cho họ trong những tình huống này?

Hướng dẫn giảng dạy: Dành thời gian để học viên trả lời câu hỏi.
Nói: Một giải pháp là đề nghị khách hàng ghi chép lại những việc họ làm trong ngày trước khi đến tư vấn (những việc họ thực sự đã làm trong ngày đó hoặc ngày trước đó). Sau đó nhân viên tư vấn có thể hỗ trợ khách hàng tự xây dựng thời gian biểu cho họ dựa trên các hoạt động của một ngày điển hình. Khách hàng cần đưa vào thời gian biểu giờ ngủ dậy, ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, đi ngủ… Kết quả là họ sẽ nhận thấy là họ có rất nhiều việc để làm trong một ngày.
Bản chiếu 17
Nhận biết được trình độ học vấn và nền tảng kiến thức của khách hàng:
- Họ có mù chữ không, nếu có thì sẽ khó khăn trong xây dựng kế hoạch
- Có thể cần các chiến lược bổ sung để xây dựng kế hoạch hàng ngày hiệu quả
Rào cản hay gặp:
- Nhiều khách hàng phàn nàn rằng họ chẳng có việc gì để làm, chẳng có gì để đưa vào thời gian biểu
QUẢN LÍ THỜI GIAN TRONG DỰ PHÒNG TÁI NGHIỆN
Chương Vi – Bài 6.5 107
Bản chiếu 18
Nói: Nếu bạn yêu cầu khách hàng của bạn tự xây dựng kế hoạch hàng ngày của họ theo bảng trên ngay từ buổi tư vấn đầu tiên, thường thì khách hàng của bạn sẽ rất bối rối và có thể họ sẽ nói: “Tôi chẳng có việc gì để làm cả”. Việc điền vào bảng kế hoạch như thế này là một việc hết sức bình thường đối với những người có đầu óc tổ chức và luôn bận rộn. Với khách hàng, những người cho rằng họ chẳng có việc để làm, thì bảng này sẽ khiến họ lúng túng. Bạn có thể giúp họ chia nhỏ một ngày ra thành 4 hàng và đặt tên: ngủ, ăn sáng, ăn trưa và ăn tối với những khoảng trống giữa chúng. khách hàng sau đó sẽ nghĩ ra các hoạt động hàng ngày để điền thêm các hoạt động vào các khoảng trống đó.
Để công việc này thêm phần thú vị, bạn có thể bắt đầu bằng các câu hỏi:

‚ Bạn đi ngủ lúc mấy giờ tối?
‚ Bạn dậy lúc mấy giờ sáng?
‚ Bạn ăn sáng lúc mấy giờ?
‚ Bạn ăn trưa lúc mấy giờ?
‚ Bạn ăn tối lúc mấy giờ?
‚ Bạn tắm lúc nào?
‚ Bạn có thể làm được những việc gì khác trong khoảng thời gian này?
Hãy giúp khách hàng điền vào những khoảng thời gian rỗi các hoạt động giúp họ đạt được mục tiêu ngắn hạn. Đảm bảo có thời gian để thư giãn nhưng không dành quá nhiều vì như vậy có thể họ lại buồn chán hoặc vướng vào những quyết định không liên quan. Cả hai khả năng này đều gây tái nghiện.
Sau khi hoàn thành kế hoạch ngày, bạn nên đưa cho khách hàng và yêu cầu họ thực hiện. Trong buổi tư vấn tiếp theo, bạn tiếp tục hướng dẫn họ lập kế hoạch theo cách này rồi dần dần, họ sẽ tự lập được kế hoạch của họ.

THỰC HÀNH: KẾ HOẠCH CHI TIẾT NGÀY

Thời điểm Hoạt động Ghi chú/Lời nhắc
7h sáng
8h sáng
9h sáng
10h sáng
11h trưa
12h trưa
1h chiều
2h chiều
3h chiều
4h chiều
5h chiều
6h chiều
7h tối
8h tối
9h tối
10h tối
11h đêm
108 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 19
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài.
Nói: Chúng ta hãy cùng tóm tắt lại những nội dung quan trọng nhất của bài này:
1. Thời gian là một nguồn lực hữu hạn và không thể quay ngược lại nên cần phải sử dụng một cách khôn ngoan
2. Cần xác định ưu tiên các hoạt động hàng ngày như một phần của kế hoạch cá nhân khả thi. Kế hoạch hoạt động giúp tư vấn viên làm việc chuyên nghiệp và có trọng tâm, giúp khách hàng giảm nguy cơ tái nghiện hiệu quả.
3. Tuân thủ trình tự các bước trong tư vấn và lồng ghép các kĩ năng là cách tốt nhất để đảm bảo buổi tư vấn ngắn gọn, hiệu quả

Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Thời gian là một nguồn lực hữu hạn và không thể quay ngược lại nên cần phải biết sử dụng một cách khôn ngoan
Cần xác định các hoạt động ưu tiên hàng ngày và lập kế hoạch khả thi để thực hiện
Tuân thủ trình tự các bước trong tư vấn và lồng ghép các kĩ năng trong các buổi tư vấn để tạo kết quả tích cực
Trợ giúp khách hàng lập kế hoạch chi tiết hàng ngày để giúp dự phòng tái nghiện
TÓM TẮT
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
110 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
giải thích từ ngữ 111
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
112 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
giải thích từ ngữ 113
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
114 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
giải thích từ ngữ 115
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
116 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài
 

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 7

TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY CHƯƠNG 7

Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
Tài liệu giảng dạy
VIETNAMESE AND AMERICANS IN PARTNERSHIP TO FIGHT HIV/AIDS

Tài liệu DÀNH CHO GIẢNG VIÊN
TÀI LIỆU TẬP HUẤN VỀ TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN MA TÚY
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
I MỤC LỤC
Phần I: Kiến thức cơ bản về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 1. Định hướng cho giảng viên
Chương 2. Tư vấn điều trị nghiện ma túy là gì?

2.1. Giới thiệu về tư vấn
2.2. Các khái niệm cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.3. Những nguyên tắc cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy
2.4. Các kĩ năng tư vấn
2.5. Các kĩ thuật tư vấn
2.6. Quy trình tư vấn điều trị nghiện ma túy
Chương 3. Ma túy, nghiện ma túy và Các phương pháp điều trị nghiện ma túy
3.1. Chất gây nghiện hướng thần, sử dụng và hậu quả
3.2. Các vấn đề liên quan đến rượu bia
3.3. Kiến thức cơ bản về nghiện
3.4. Các nguyên tắc cơ bản trong điều trị nghiện ma túy
3.5. Những yếu tố để điều trị thành công
3.6. Điều trị nghiện heroin
Chương 4. Phỏng vấn tạo động lực
4.1. Mô hình Các giai đoạn thay đổi hành vi và những khái niệm cơ bản trong phỏng vấn tạo động lực
4.2. Nguyên tắc và các bước tiến hành trong phỏng vấn tạo động lực
4.3. Gắn kết phỏng vấn tạo động lực và các giai đoạn thay đổi hành vi
Chương 5. Kĩ thuật và kĩ năng cơ bản trong tư vấn điều trị nghiện ma túy (minh họa bằng các hoạt động đóng vai)
5.1. Đánh giá khách hàng
5.2. Giải quyết vấn đề
5.3. Đặt mục tiêu
5.4. Giảm nguy cơ
Chương 6. Dự phòng tái nghiện
6.1. Liệu pháp dự phòng tái nghiện
6.2. Kỹ năng từ chối
6.3. Đối phó với cơn thèm nhớ
6.4. Quản lí căng thẳng
6.5. Quản lí thời gian
II Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
MỤC LỤC (tiếp)
Phần II: Các kĩ thuật nâng cao về tư vấn cá nhân điều trị nghiện ma túy
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
7.1. Quản lí sự nóng giận
7.2. Xử trí đối với những khách hàng hung hăng
7.3. Giải quyết mâu thuẫn
7.4. Làm việc với khách hàng đang phê/ say
Chương 8. Các nhóm khách hàng đặc biệt
8.1. Làm việc với gia đình để tăng cường hỗ trợ
8.2. Làm việc với thanh thiếu niên
8.3. Làm việc với phụ nữ
Chương 9. Giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.1. Khung giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.2. Nguyên tắc cơ bản khi giám sát hỗ trợ chuyên môn
9.3. Thảo luận trường hợp
9.4. Dự phòng và quản lý suy kiệt
Phần III: Phụ lục
Phụ lục I: Mẫu chương trình tập huấn
Phụ lục II: Mẫu phiếu đánh giá
Phụ lục III: Mẫu bài kiểm tra viết
Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
III LỜI CẢM ƠN
Giáo trình đào tạo tư vấn điều trị nghiện ma túy này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác trong suốt ba năm qua và chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. Chúng tôi đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Myat Htoo Razak, nguyên cố vấn kĩ thuật cao cấp của Văn phòng FHI khu vực châu Á – Thái Bình Dương và ông Umesh Sama, nguyên là chuyên gia của Hệ thống Giảm tác hại châu Á trong việc chuẩn bị và nghiên cứu tài liệu cho các phiên bản trước của tài liệu này. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các thành viên của Nhóm can thiệp đối với người tiêm chích ma túy và Nhóm Chiến lược thay đổi hành vi của Tổ chức FHI Việt Nam: Bác sĩ Phạm Huy Minh, Bùi Xuân Quỳnh, Lê Thị Ban, Đinh Thị Minh Thu, Nguyễn Thu Hạnh, Hoàng Thị Mơ, đã hỗ trợ và đóng góp ý kiến trong suốt quá trình phát triển tài liệu; và Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Tiến sĩ Nguyễn Tố Như và BS. Hoàng Nam Thái đã giúp hoàn thiện tài liệu. Chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn những ý kiến quí báu từ Tiến sĩ Stephen Jay Mills và Bác sĩ Rachel Burdon cho những bản thảo đầu tiên và Thạc sĩ Simon Baldwin với bản thảo cuối cùng. Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với Chương trình Hỗ trợ Khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kì cho phòng chống AIDS tại Việt Nam (PEPFAR), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kì (USAID) và Tổ chức Pact Việt Nam đã hỗ trợ tài chính và kĩ thuật cho việc thực hiện và nhân rộng chương trình tư vấn điều trị nghiện ma túy, cũng như cho việc phát triển và hoàn thiện giáo trình đào tạo này. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Karl D. White, nguyên Cố vấn về Lạm dụng chất gây nghiện, SAMSHA; Bà Ellen Lynch, Quyền Giám đốc Chương trình Y tế công cộng, USAID; Tiến sĩ John Eyres, Cố vấn kĩ thuật cao cấp về Điều trị nghiện ma túy và dự phòng HIV, USAID; và Bà Nguyễn Thị Minh Hương, chuyên gia về HIV và điều trị nghiện ma túy, USAID.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản không tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Các ý kiến của quý vị xin đề nghị gửi về:
Tổ chức Sức khỏe Gia đình Quốc tế (FHI/Vietnam).
Tầng 3, số 1 phố Bà Triệu, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
hoặc Email: fhi@fhi.org.vn
Xin chân thành cảm ơn.
IV Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TÁC GIẢ
Tiến sĩ Robert Ali, Giám đốc Trung tâm Hợp tác nghiên cứu của WHO về Điều trị nghiện ma túy và rượu, Đại học Adelaide, Australia
Thạc sĩ Vương Thị Hương Thu, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Tố Như, Quản lí chương trình, FHI Việt Nam
Thạc sĩ Phạm Thị Hương, nguyên Trưởng bộ phận Can thiệp trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao, Trung tâm Dự phòng và Kiểm soát bệnh tật Hoa Kì (CDC) tại Việt Nam
Tiến sĩ Kevin Mulvey, nguyên Cố vấn kĩ thuật cao cấp, FHI Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái, Cán bộ chương trình, FHI Việt Nam.
Hiệu đính: Thạc sĩ, Bác sĩ Hoàng Nam Thái
Chúng tôi cũng ghi nhận sự đóng góp của các thành viên trong Nhóm can thiệp cho người tiêm chích ma túy, FHI Việt Nam, các tư vấn viên tư vấn điều trị nghiện ma túy tại các địa phương, cũng như các học viên tham dự các khóa đào tạo từ năm 2006, trong việc hoàn thiện bộ tài liệu này.
Chương 7. Quản lí tình trạng say/ phê và hành vi đối đầu
Bài 7.1: Quản lí sự nóng giận
Bài 7.2: Xử trí hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực
Bài 7.3: Giải quyết mâu thuẫn
Bài 7.4: Làm việc với khách hàng đang say/phê
7.1 Quản lí sự nóng giận
Bài 4 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QUAN
I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên về quản lí sự nóng giận.
II. Thuyết trình 45 phút
Sử dụng các bản chiếu và hoạt động thảo luận nhóm để hướng dẫn cho học viên về cách quản lí sự nóng giận của bản thân.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại những điểm chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
  Bài 7.1: Quản lí sự nóng giận
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được các khái niệm cơ bản về quản lí sự nóng giận của bản thân.
Thời gian: 55 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Giải thích được sự khác nhau giữa nóng giận và hung hăng
‚ Nêu được những yếu tố kích thích gây nóng giận hoặc hung hăng
‚ Biết các chiến lược đối phó với sự nóng giận và hung hăng
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vii – Bài 7.1 5
Bản chiếu 1
Nói: Nóng giận là một biểu hiện bình thường trong cuộc sống con người và tất cả chúng ta cần phải biết cách quản lí sự nóng giận. Điều này đúng đối với tất cả mọi người. Những người sử dụng ma túy thường hành động hấp tấp, vội vàng, do ảnh hưởng của rượu bia hoặc ma túy. Họ thường không ý thức được về những hậu quả của những hành vi hấp tấp đó. Đồng thời, họ cũng thường sử dụng chính sự giận dữ của bản thân để lấn át người khác để có thể đạt được những gì họ muốn. Điều này có thể gây rắc rối cho những người đã cai nghiện vì họ không biết cách nào khác để xử trí với các mối quan hệ. Những người sử dụng chất gây nghiện cũng có thể không hiểu rõ những hậu quả do hành vi của họ gây ra cho những người khác. Những trạng thái tình cảm tiêu cực như nóng giận đều có khả năng làm tăng nguy cơ tái nghiện.
Bài học này sẽ giúp các bạn biết cách hướng dẫn cho khách hàng để họ có thể quản lí cơn nóng giận của bản thân và phân biệt giữa nóng giận và hung hăng.

QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN
6 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Giải thích được sự khác nhau giữa nóng giận và hung hăng
Nêu được những yếu tố kích thích sự nóng giận và hung hăng
Biết các biện pháp xử trí với nóng giận và hung hăng
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp các nội dung trên bản chiếu.
Chương Vii – Bài 7.1 7
Bản chiếu 3
Phân biệt được nóng giận hung hăng
Nóng giận là cảm xúc. Nóng giận có thể chấp nhận được.
Hung hăng là những hành động có chủ ý nhằm gây tổn thương cho một ai đó về thể chất hoặc tâm lí, và không chấp nhận được.
QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN
Nói: Để khách hàng có được các kĩ năng quản lí sự nóng giận của bản thân, bạn sẽ cần phải giúp họ:
‚ Phân biệt được sự khác nhau giữa tức giận và các cảm xúc khác
‚ Tự xác định được khi nào thì mình trở nên hung hăng, và sự khác biệt giữa hung hăng và nóng giận
‚ Hiểu được những hậu quả do hành vi hung hăng gây ra đối với người khác và đối với chính bản thân mình.
Thông tin tham khảo: Cả ba hợp phần này có ý nghĩa quan trọng giúp quản lí sự nóng giận một cách có hiệu quả. Tư vấn viên cần thảo luận với khách hàng và xác định những cảm xúc nội tâm khiến họ cảm thấy tức giận, và phân biệt giữa nóng giận và hung hăng. Chúng ta có thể chỉ cho họ cách kiểm soát nóng giận nhưng chúng ta cũng nhấn mạnh là cần phải tránh sự hung hăng.
Tức giận chỉ là một cảm xúc, nó thuộc nội tâm. Tư vấn viên có thể giúp khách hàng biết được cách kiểm soát cơn nóng giận. Ngược lại, hung hăng bao gồm những suy nghĩ hoặc hành vi có chủ ý gây hại về mặt thể chất hoặc tâm lí cho người khác. Tôi muốn nhấn mạnh từ “có chủ ý”. Đôi lúc chúng ta vô tình làm một việc gì đó và không có chủ ý. Việc đó không thực sự là hung hăng. Nhưng bất cứ khi nào chúng ta cố tình làm một việc để gây hại về thể chất hoặc tâm lí cho người khác thì đó là hung hăng.
Nóng giận có thể chấp nhận được vì đây là cách người ta muốn thể hiện cảm xúc nội tâm của mình để người khác hiểu được những gì mình đang cảm thấy trong lòng, nhưng hung hăng là không thể chấp nhận được.
8 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 3 (tiếp)
Khách hàng cần phải biết rằng tức giận là cảm xúc bình thường nhưng hành vi hung hăng lại là hành vi phá hoại và gây rắc rối, và không phải là giải pháp giải quyết sự nóng giận. Thông thường, khách hàng không biết khi nào họ chuyển từ nóng giận sang hung hăng. Vì vậy bạn cần làm việc cùng với họ để liệt kê lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ, phân tích các sự kiện đó để tìm ra những nguyên nhân sâu xa và những dấu hiệu cho biết trước là họ sắp có hành vi hung hăng. Biết được tường tận về những việc đã xảy ra trong quá khứ có thể giúp ngăn ngừa được những tình huống tương tự trong tương lai. Họ cũng cần phải biết cách thể hiện cảm xúc nóng giận một cách tích cực. Bài này sẽ mô tả cách thực hiện điều đó.
Khách hàng cũng cần nhận thức được sự khác nhau giữa nóng giận và hành vi hung hăng. Một số hành vi hung hăng có thể nhận biết được một cách rất rõ ràng và một số hành vi hung hăng khác lại khó nhận biết hơn. Quát tháo, đập phá là những hành động dễ nhận biết. Tuy nhiên, nhìn ai đó với một ánh mắt miệt thị cũng là một hành động hung hăng. Cố tình làm cho người khác cảm thấy khó chịu cũng là một hành động hung hăng. Đưa tin đồn nhảm về người khác cũng là một hành động hung hăng nhưng không phải ai cũng hiểu được điều đó. Nếu bạn mâu thuẫn với một ai đó và bạn không thèm nói chuyện với người đó với chủ ý là muốn làm cho họ cảm thấy khó chịu, đó cũng là một hành vi hung hăng.
Chương Vii – Bài 7.1 9
Bản chiếu 4
Nói: Khi chúng ta nóng giận thì tất cả những thay đổi trên đây sẽ xảy ra. Từ ngữ mà ta dùng, cách ta cư xử, suy nghĩ ta có và những cảm xúc ta cảm nhận được đều hòa quyện lại và gây tác động đối với người khác. Những người không phân biệt được sự khác nhau giữa nóng giận và hành vi hung hăng có thể không nhận ra được những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra khi người khác nhìn nhận và phản ứng lại những hành động của họ.
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem họ đã bao giờ ở trong tình huống bị người khác thể hiện hành vi hung hăng chưa. Phản ứng của họ khi đó như thế nào?
Nói: Khách hàng có thể không nhận biết được tất cả những cảm giác xuất hiện trong lòng khi họ nóng giận. Chúng ta cần giúp họ nhận biết những cảm giác này để họ có thể nhận ra được những dấu hiệu cho thấy họ đang tức giận. Bước tiếp theo là nhận biết được khi nào họ trở nên hung hăng. Hỏi khách hàng về lần gần đây nhất mà họ cảm thấy tức giận, và lúc ấy họ cảm thấy thế nào trong lòng.
Nhận thức - ý nghĩ của chúng ta
Cảm xúc - là diễn biến tâm lí do nóng giận gây nên
Giao tiếp - cách chúng ta thể hiện sự nóng giận với người khác
Hành vi - cách chúng ta hành động
Ảnh hưởng của sự giận dữ lên người khác - sợ hãi, thù địch
KHI NÓNG GIẬN, TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU SAU ĐÂY SẼ THAY ĐỔI
10 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 5
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm nhỏ và yêu cầu họ viết các câu hỏi sau lên giấy khổ lớn. Sau đó các nhóm sẽ thảo luận trong vòng 5 phút để trả lời các câu hỏi và ghi chép lại các câu trả lời:
Làm thế nào chúng ta có thể:
‚ kiểm soát cơn nóng giận?
‚ tránh tiến triển thành các hành vi hung hăng?
Sau khi các nhóm hoàn thành, yêu cầu mỗi nhóm cử một thành viên lên trình bày kết quả thảo luận trước lớp.
Xác định các bước trong quản lí sự nóng giận và tránh hành vi hung hăng.
BÀI TẬP NHÓM NHỎ
Chương Vii – Bài 7.1 11
Bản chiếu 6
Nói: Đây là 8 kĩ năng cần phải có để giúp chúng ta kiểm soát sự nóng giận của bản thân một cách tích cực. Những kĩ năng này sẽ giúp chúng ta ngăn ngừa không để cho sự nóng giận tiến triển thành hành vi hung hăng. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết về từng kĩ năng.
1. Xác định được các hành vi hung hăng bằng cách tự đánh giá và đánh giá với người khác
2. Xác định một loạt các cảm giác bao gồm cả sự nóng giận, và phân biệt nóng giận với các cảm giác khác
3. Xác định những hậu quả có thể xảy ra cho bản thân và cho người khác do các hành vi hung hăng gây ra
4. Xác định các hành vị tự hủy hoại
5. Xác định được những suy nghĩ xuất hiện trước khi có các hành vi hung hăng
6. Xác định các dấu hiệu cảm xúc nội tâm khi đang nóng giận
7. Xây dựng cơ chế đối phó với sự nóng giận
8. Thể hiện sự nóng giận một cách có kiểm soát
CÁC KĨ NĂNG CẦN CÓ ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI SỰ NÓNG GIẬN
12 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 7
Nói: Một số người lẫn lộn giữa nóng giận và hung hăng. Tất cả những hành động thể hiện trên bản chiếu này đều là hành vi hung hăng và không thể chấp nhận được. Như đã thảo luận trước đó, một số hành vi này rất rõ ràng, trong khi những hành vi khác thì khó nhận ra hơn.
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn học viên thảo luận về những hành vi được mô tả trên bản chiếu và hỏi xem họ có đồng ý đó là hành vi hung hăng hay không. Nếu như có những học viên cho rằng một số hành vi trong số đó không phải là hung hăng thì cũng là điều dễ hiểu. Sử dụng các thông tin tham khảo dưới đây để bổ sung và giải thích kĩ hơn cho học viên.
Thông tin tham khảo: Chìa khóa để nhận biết hành vi hung hăng là xác định xem người có hành vi đó có cố tình gây tổn thương về thể chất hoặc về tinh thần cho người khác hay không. Việc cố ý đó sẽ không xảy ra nếu người đang nóng giận biết cách kiểm soát sự nóng giận của bản thân.
Bạn cũng nên giúp khách hàng xác định hành vi bắt nạt và hung hăng. Những người hay bắt nạt thường cố tìm lí do thích đáng cho hành động của mình. Họ có thể tự nhủ: “Tao sẽ cho mày thấy. Tao hơn mày nhiều. Tao mạnh hơn mày. Tao thông minh hơn mày, mày đáng phải bị như vậy…”. Nếu khách hàng có những suy nghĩ như vậy thì bạn nên giúp họ nhận ra rằng những ý nghĩ đó là vô lí. Khi nhận thức được điều đó, họ sẽ thấy rằng không phải họ đang tức giận mà thực chất là đang hung hăng. Những người hay bắt nạt luôn tìm kiếm sự thừa nhận và chú ý.
Không may là một số khách hàng có thể đã tỏ ra hung hăng từ khi còn nhỏ tuổi. Những kẻ hay bắt nạt người khác thường nhận ra rằng, khi họ nổi xung lên thì họ sẽ có được điều họ muốn vì những người khác không biết làm thế nào để đối phó khi bị bắt nạt. Vì vậy, hành vi đó được củng cố thêm và tiếp tục diễn ra. Thực tế, bắt nạt người khác không thực sự có QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN
Tự xác định những hành vi hung hăng của mình và của người khác
Ném một vật gì đó
Đá một ai đó hoặc một vật gì đó
Tiến sát lại gần mặt người khác
Tóm lấy, xô đẩy, đánh
Đập vỡ một vật gì đó
Dùng từ miệt thị để chỉ người khác
Lườm nguýt
Im lặng, không nói năng gì
Kéo bè kéo cánh
Đưa tin nói xấu người khác
Chương Vii – Bài 7.1 13
Bản chiếu 7 (tiếp)
hiệu quả vì người đó không bao giờ nhận được điều họ muốn nhất, đó là sự tôn trọng của người khác. Kẻ bắt nạt có thể làm người khác sợ hãi nhưng cái họ thực sự muốn lại là sự tôn trọng. Hung hăng không bao giờ mang lại sự tôn trọng.
Mặc dù vậy, họ vẫn tiếp tục hành động hung hăng như thế vì họ không thể phân định được giữa nóng giận và hung hăng. Họ không biết cách kiểm soát sự nóng giận hay lựa chọn những giải pháp khác. Kết cục là bất cứ khi nào tức giận họ cũng đều hành xử như nhau: hung hăng.
Nhiều người trong số những khách hàng hung hăng mà bạn tư vấn có thể sẽ chia sẻ bí mật với bạn là thực sự họ cảm thấy hành vi của họ là sai trái. Nhưng họ cảm thấy rất khó trao đổi với bạn bè họ về vấn đề đó, vì mọi người đều mong đợi là họ sẽ cư xử như một kẻ hay bắt nạt người khác nên họ đã hành động như vậy mặc dù thâm tâm không muốn. Hiện tượng này được gọi là “tác động của sự mong đợi”: khi mọi người mong chờ bạn hành động theo một cách nào đó thì điều đó sẽ khiến bạn hành động đúng như vậy. Vì vậy, điều đầu tiên khách hàng cần biết là phân biệt giữa nóng giận và hung hăng. Họ đều phải hiểu là hung hăng về thể chất hay tâm lí đều là những hành vi không thể chấp nhận được và nóng giận không cần phải đi đôi với những hành động đó.
Để có thể kiểm soát được cơn nóng giận dễ dàng hơn thì khách hàng cần nhận ra khi nào họ đang tức giận. Trong bài học này, chúng ta sẽ thảo luận về các cảm xúc khác nhau mà thường dễ bị nhầm lẫn với nóng giận.
14 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Đây là những cảm xúc thông thường mà chúng ta vẫn trải qua. Tuy nhiên, một số người nhầm lẫn và cứ nghĩ rằng tất cả những cảm xúc này đều là giống nhau. Chính vì vậy chúng ta cần thảo luận chi tiết với khách hàng về từng cảm xúc để họ có thể hiểu rõ về sự khác nhau giữa chúng. Đối với một số người thì dường như cảm xúc nào cũng gắn liền với nóng giận và họ không có khả năng tách biệt những cảm giác khác nhau. Ví dụ: một số người lẫn lộn giữa ngượng và nóng giận, giữa ghen tị và nóng giận … Khách hàng cần hiểu rằng với mỗi cảm xúc lại có những cách khác nhau để đối phó, và cách đối phó với sự nóng giận cũng khác. Mỗi khi khách hàng có một trong các cảm giác trên thì họ cũng cảm thấy tức giận. Có nhiều nguyên nhân khác nhau của hiện tượng này nhưng xu hướng xuất hiện những cảm giác đó cùng với nhau là rất mạnh nên khách hàng rất khó để tách biệt chúng và hiểu rằng các cảm giác đó không nhất thiết phải đi kèm với nóng giận.
Hiển nhiên là chúng ta không thể kiểm soát được sự nóng giận nếu chúng ta không biết sự nóng giận là gì. Chúng ta đã phân biệt được giữa nóng giận và hung hăng. Chúng ta cũng đã tách biệt được những cảm xúc thông thường khác thường đi đôi với nóng giận. Bây giờ chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem tại sao cần phải suy nghĩ đến những hậu quả của hành vi hung hăng.

Bản chiếu 8
QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN (2)
Xác định một loạt các cảm xúc có thể dẫn đến nóng giận
Ngượng ngùng
Hồi hộp
Thất vọng
Ghen ghét
Sợ hãi
Vô dụng
Buồn chán
Bị bỏ rơi
Chương Vii – Bài 7.1 15
Bản chiếu 9
Nói: Thông thường những người có những hành vi hung hăng không suy nghĩ thấu đáo về những hậu quả trước mắt và lâu dài mà hành vi của họ có thể gây ra. Vì thế, tư vấn viên nên thảo luận với khách hàng về những hậu quả trước mắt và lâu dài của hành vi hung hăng, vì điều đó có thể có những tác động khả quan lên hành vi hung hăng. Danh sách những hành vi trên bản chiếu chỉ là ví dụ chứ chưa liệt kê được hết tất cả các hậu quả của hành vi hung hăng. Khi thảo luận với khách hàng, có thể tư vấn viên nên dùng bảng ra quyết định vì có thể khách hàng còn mơ hồ về việc có nên thay đổi hành vi hung hăng hay không. Họ có thể chưa từng nghĩ đến những hậu quả tiêu cực trước mắt và lâu dài của hành vi, vì những tác động tích cực trước mắt khi có được điều mình muốn có thể khiến họ không nhận ra được tác hại của hung hăng.
Bạn cũng cần giúp khách hàng xác định rõ những yếu tố có thể dẫn tới hung hăng. Can thiệp sớm vào những yếu tố này có thể giảm nguy cơ tăng căng thẳng và không kiểm soát được tình hình. Vì vậy, một trong những bước đầu tiên cần phải thực hiện là xác định rõ các suy nghĩ, hành vi và dấu hiệu bên trong xảy ra trước khi xuất hiện hành vi hung hăng. Tiếp theo chúng ta sẽ thảo luận kĩ hơn về các vấn đề này.

QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN (3)
Xác định những hậu quả có thể xảy ra do sự nóng giận của bạn đối với người khác và chính bản thân… điều đó có nghĩa gì đối với bạn?
Gây thương tích cho người khác hoặc chính bản thân mình
Phá hủy đồ vật
Mất bạn bè/người thân
Mất việc làm
Mất các quyền lợi xã hội
Vào tù
Mang tiếng xấu
16 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Một việc quan trọng là cần biết những dấu hiệu giúp đoán trước được hành vi hung hăng sắp xảy ra. Danh sách trên đây là những lí do phổ biến khiến người ta hay có những hành vi hung hăng.
‚ Cảm thấy bực bội về chính bản thân có thể dẫn đến thất vọng và giận dữ, rồi từ đó khiến người ta dễ nổi xung với người khác.
‚ Cảm giác mình luôn là nạn nhân và những người khác luôn chống lại mình cũng có thể gây ra một cảm giác thù hằn với người khác.
‚ Chuyện bé xé thành to hoặc coi mọi việc đều có liên quan đến mình cũng khiến gây ra cảm giác thù hận và cơn thịnh nộ.
‚ Suy diễn về chủ đích hành động, suy nghĩ và hành vi của người khác có thể dẫn đến hành vi hung hăng
‚ Say rượu bia hoặc phê chất gây nghiện khác làm ảnh hưởng đến cách chúng ta suy nghĩ nhưng đồng thời cũng làm cho người ta dễ có hành vi hung hăng, ngay cả khi chỉ mới chỉ bị người khác làm cho hơi khó chịu một chút.
‚ Cuối cùng, một số người ở trong một trạng thái gọi là "rối loạn nhân cách chống đối xã hội". Những người này thường ít có khả năng kiểm soát sự xung động của họ và chỉ cần hơi bị kích thích một chút là họ cũng có thể có những hành động rất bạo lực.
Hướng dẫn giảng dạy: Hướng dẫn cả lớp thảo luận về từng điểm trên đây. Tìm hiểu xem học viên có đồng ý với tất cả những nội dung đó không, có ai không đồng ý không.
Bản chiếu 10
QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN (4)
Xác định các hành vi tự hủy hoại bản thân, những hành vi có thể dẫn đến hung hăng
Độc thoại bi quan
Đổ lỗi cho người khác
Coi mọi việc đều liên quan đến mình
Suy diễn về chủ định của người khác
Uống bia rượu quá nhiều
Sử dụng ma túy
Tìm cơ hội gây lộn
Chương Vii – Bài 7.1 17
Bản chiếu 11
Nói: Bạn cũng cần phải giúp khách hàng xác định được những suy nghĩ xuất hiện trước khi xảy ra hành vi hung hăng. Các bạn có thể thấy rằng trong đa số những ví dụ nói trên, người ta thường tìm cách đổ trách nhiệm lên người khác cho hành vi hung hăng của mình. Xác định được những yếu tố kích thích về nhận thức là rất quan trọng để từ đó có thể điều chỉnh suy nghĩ và ngăn chặn không cho những suy nghĩ tiêu cực đó sẽ xảy ra nữa.
QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN (5)
Xác định những suy nghĩ trước khi có hành vi hung hăng
Mày chủ định làm điều đó…
Mày muốn làm tổn thương tao…
Mày xứng đáng phải nhận lấy…
Mày đã không thèm hỏi tao…
Mày thật không biết điều…
Mày nghĩ mày tốt thế à…
Tao sẽ cho mày thấy…
Mày gây sự trước…
Không có sự công bằng gì cả …
18 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Có hàng loạt những dấu hiệu thể chất bên trong cơ thể nói cho chúng ta biết rằng ta đang trở nên giận dữ. Nhận biết sớm những dấu hiệu cảnh báo này sẽ giúp kiểm soát sự nóng giận và tránh chuyển thành hành vi hung hăng. Thường thì những người có hành vi hung hăng không ý thức được sự liên quan của những dấu hiệu cảnh báo này, vì thế bạn nên thảo luận chi tiết với họ về từng dấu hiệu trong danh sách nói trên. Khi khách hàng đã nhận biết được những dấu hiệu này thì sẽ có cơ hội để thảo luận với khách hàng về những hành động thay thế mà khách hàng có thể cố gắng thực hiện khi những dấu hiệu này xuất hiện.
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên trong lớp xem liệu họ có nhận thấy được những triệu chứng này khi họ nóng giận không, và họ xử trí với những dấu hiệu đó như thế nào.
Bản chiếu 12
QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN (6)
Xác định dấu hiệu bên trong trước khi có cảm giác nóng giận
Bụng co thắt/ nôn nao
Tim đập nhanh hơn
Nắm chặt bàn tay
Cảm thấy bốc nóng mặt và đầu
Áp lực đè nặng lên thái dương
Lòng bàn tay ẩm ướt
Cắn chặt hàm, nghiến răng
Chương Vii – Bài 7.1 19
Bản chiếu 13
Nói: Một lối sống cân bằng có vai trò vô cùng quan trọng. Không phải tất cả các giải pháp nói trên đều thích hợp cho tất cả mọi người. Nội dung trong các bản chiếu này và bản chiếu tiếp theo nói về những cơ chế chung để đối phó với các vấn đề trong cuộc sống, nhằm giảm tần suất xuất hiện những cơn nóng giận và ngăn chặn sự nóng giận chuyển thành hành vi hung hăng.
‚ Tập thể dục là một cách giảm căng thẳng vô cùng hiệu quả. Những người không bị căng thẳng hiếm khi nóng giận.
‚ Dinh dưỡng và chế độ ăn uống cũng có vai trò rất quan trọng. Một chế độ ăn uống cân bằng hợp lí sẽ giúp giảm sự xuất hiện của những dấu hiệu cảnh báo kích thích trong cơ thể. Ví dụ: một số người khi nồng độ đường trong máu xuống thấp thường sẽ xuất hiện những cảm giác tương tự như những cảm giác xuất hiện khi nóng giận. Đó là một ví dụ về việc tại sao một số người lẫn lộn giữa những dấu hiệu cảnh báo này và tự nhiên nóng giận vô cớ.
‚ Những người quá mệt mỏi cũng dễ rơi vào trạng thái căng thẳng và đưa đến những quyết định sai lầm và dễ xuất hiện những dấu hiệu đến trước sự nóng giận.
Hướng dẫn giảng dạy: Còn có các cơ chế khác ở bản chiếu tiếp theo
1. Tập thể dục hàng ngày
2. Ăn uống hợp lí
3. Ngủ đủ giấc
4. Tìm kiếm các hoạt động giải trí để phân tán
5. Đưa ra các quyết định hợp lí về những gì bạn nhìn hoặc nghe thấy
6. Học cách thư giãn
Chậm rãi nhắc lại những từ hoặc cụm từ để bình tĩnh, ví dụ: “chuyện đâu có đó” Những bài tập dạng yoga nhẹ nhàng, chậm
7. Dành thời gian cho riêng mình
8. Chọn những người bạn giúp bạn vui vẻ
9. Học cách quên và tha thứ
10. Hiểu cảm giác của mình
11. Viết các cảm giác đó ra
CƠ CHẾ ĐỐI PHÓ CHUNG VỚI SỰ NÓNG GIẬN (2)
Chương Vii – Bài 7.1 21
Bản chiếu 15
Nói: Những cơ chế đối phó đặc biệt này phụ thuộc vào những dấu hiệu báo trước của cơn nóng giận. Tìm hiểu chi tiết về tiền sử những yếu tố kích thích thường gặp ở khách hàng sẽ giúp bạn xác định và phát triển các chiến lược cụ thể nhằm ngăn ngừa và can thiệp sớm. Hãy nhớ về các giai đoạn thay đổi hành vi để thấy rằng không phải ai cũng sẵn sàng hành động. Một vài khách hàng vẫn ở giai đoạn tiền dự định hoặc dự định.
Như chúng ta đã nói đến ở phần đầu, hung hăng là một hành vi giao tiếp không thể chấp nhận được. Bằng cách hướng dẫn khách hàng cách giao tiếp và đàm phán hiệu quả, bạn cũng có thể giúp họ ngăn ngừa được những hành vi hung hăng. Chúng ta sẽ có riêng một bài học về giải quyết mâu thuẫn và tính quyết đoán. Những người hung hăng thường lẫn lộn giữa cương quyết, hung hăng và tức giận.
Chúng ta sẽ thảo luận và thực hành đóng vai về kĩ năng từ chối. Từ chối là cách để chống lại một ai đó. Kĩ năng từ chối khác biệt hoàn toàn với giận dữ và hung hăng. Sự cương quyết không nhằm mục đích gây hại cho bất cứ ai, cả về thể chất và tâm lí.

Tìm ra những yếu tố kích hoạt sự nóng giận
- Xây dựng chiến lược đối phó với từng yếu tố kích hoạt đó
Nâng cao kĩ năng giao tiếp
Thừa nhận vấn đề và sẵn sàng thay đổi
Luyện tập tính quyết đoán
MỘT SỐ CƠ CHẾ CỤ THỂ ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI SỰ NÓNG GIẬN (1)
22 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16
Nói: Hãy nhìn vào khuôn mặt trên bản chiếu. Hiển nhiên là người này đang khó chịu. Khi nét mặt anh ta tức giận, nó có thể chuyển thành hung hăng bất kỳ lúc nào. Quản lí sự nóng giận không có nghĩa là chúng ta không được nóng giận. Các biện pháp quản lí sẽ giúp kiểm soát mức độ và biểu hiện nóng giận của bạn để bạn có thể giao tiếp với người khác một cách công bằng và an toàn. Đừng để bạn trở nên nóng giận quá mức. Việc giao tiếp với người khác một cách công bằng sẽ trở nên rất khó khăn khi bạn đang quá nóng giận. Thể hiện sự nóng giận theo cách có kiểm soát là một kĩ năng quan trọng. Điều này có nghĩa là cần phải xử sự với nhau một cách công bằng và không được chủ tâm làm tổn thương người khác về thể chất hoặc tinh thần. Lồng ghép những cảm giác cụ thể vào trong câu mẫu sau “tôi cảm thấy… khi anh…” sẽ giúp bạn thay đổi các hành vi và giao tiếp một cách hợp lí.
Thể hiện các cảm xúc giận dữ theo cách công bằng cho mọi người và cho chính bản thân Sử dụng những từ ngữ vừa phải, ví dụ “tôi cảm thấy. . . khi anh….”
MỘT SỐ CƠ CHẾ CỤ THỂ ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI NÓNG GIẬN (2)
Chương Vii – Bài 7.1 23
Nói: Đối phó với một tình huống nóng giận đòi hỏi phải có kế hoạch trước. Khách hàng có thể sử dụng các bước mô tả trên bản chiếu để đối phó với các tình huống khi họ cảm thấy nóng giận.
Hướng dẫn giảng dạy: Thảo luận chi tiết từng bước với học viên và đề nghị họ suy nghĩ về cách áp dụng từng bước cho hoàn cảnh của bản thân họ như thế nào. Sử dụng những thông tin dưới đây để bổ sung.
Thông tin tham khảo: Bước thứ nhất là phải để cảm xúc của bạn nguội bớt và bình tĩnh trở lại. Thể hiện sự tôn trọng đối với quan điểm của người khác cũng sẽ giúp chúng ta làm chủ được tình huống. Xác định rõ vấn đề sẽ giúp làm rõ nguyên nhân khiến chúng ta nóng giận vì người chúng ta đang tiếp xúc có thể không ý thức được điều đó. Động não tìm giải pháp và làm việc trên tinh thần hợp tác có thể giúp cả hai bên thấy rõ là cả hai đều muốn giải quyết vấn đề. Sau khi thoát ra được khỏi tình huống một cách thành công, bạn nên dành thời gian để chúc mừng bản thân về việc mình đã vượt qua được và đã đẩy lùi được hành vi hung hăng đã có thể xảy ra.
Bản chiếu 17
Bình tĩnh lại
Thể hiện tôn trọng từ 2 phía
Xác định vấn đề
Tìm ra các giải pháp
Lựa chọn giải pháp tốt nhất
Chúc mừng bản thân
Xem xét lại giải pháp vừa lựa chọn
CƠ CHẾ CỤ THỂ ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI NÓNG GIẬN (3)
CÁC BƯỚC QUẢN LÍ SỰ NÓNG GIẬN

24 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Giúp khách hàng kiểm soát nóng giận và phòng ngừa hung hăng:
Nhận biết được sự khác biệt giữa nóng giận và hung hăng
Phân biệt được nóng giận với các cảm giác khác mà người ta hay nhầm lẫn là nóng giận, hoặc cho là có liên quan
Xác định được hậu quả của hung hăng
Xác định các hành vi tự hủy hoại bản thân và các ý nghĩ xuất hiện trước khi hung hăng
Xác định được các dấu hiệu thể chất bên trong xuất hiện khi nóng giận.
Xác định cơ chế đối phó với nóng giận
Thể hiện nóng giận ở mức độ kiểm soát được
TÓM TẮT
Nói: Để tóm tắt lại, các bạn cần nhớ rằng có một số bước bạn có thể thực hiện để giúp khách hàng kiểm soát cơn giận dữ và ngăn ngừa các hành vi hung hăng xảy ra.
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày các bước kiểm soát cơn nóng giận theo nội dung trên bản chiếu.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
7.2 Xử trí hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực
Bài 26 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
NộI DuNG

I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên những khái niệm quan trọng
về xử trí các hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực.
II. Trình bày 110 phút
Sử dụng các bản chiếu và bài tập nhóm nhỏ để hướng dẫn cho học viên về cách xử trí
đối với hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực.
III. Kết luận 8 phút
Nhắc lại các ý chính của trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có)
Bài 7.2: Xử trí các hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực
Mục đích:
Giúp học viên biết được cách xử trí các hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực.
Thời gian: 120 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Xác định các hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực
‚ Xác định các biện pháp làm dịu bớt hoặc tránh các cuộc tranh cãi có thể dẫn tới bạo lực
‚ Lên kế hoạch quản lí hành vi gây gổ, chửi bới hoặc đe doạ
‚ Biết cách thoát ra khỏi tình huống đúng lúc
‚ Nhận biết các hành vi có thể dẫn tới bạo lực
‚ Xác định các biện pháp bảo vệ cá nhân cần thiết để tránh hoặc giảm nhẹ các tổn thương về thể chất
‚ Đánh giá và xử trí một loạt các tình huống nguy hiểm hoặc có nguy cơ.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vii – Bài 7.2 27
Bản chiếu 1
Nói: Trong bài này chúng ta sẽ cùng thảo luận về các phương pháp và kĩ năng để xử trí các hành vi hung hăng và có khả năng trở thành bạo lực. Các phương pháp và kĩ năng này không những rất có ích cho các bạn khi làm việc với khách hàng mà còn giúp các bạn có cách xử trí đối với những người nóng giận khác.
Có thể bạn ít khi gặp phải tình huống này, tuy nhiên các tư vấn viên nên dự đoán trước những khách hàng dễ có khả năng có hành vi bạo lực. Họ có thể hành hung bạn hoặc khiến cho bạn cảm thấy rất tức giận và sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm lí của bạn. Những khách hàng này có thể đe dọa những người khác hoặc những khách hàng đang chờ đến lượt tư vấn, và khiến gia tăng nguy cơ hung hăng hoặc bạo lực.

XỬ TRÍ VỚI CÁC HÀNH VI HUNG HĂNG VÀ CÓ KHẢ NĂNG TRỞ THÀNH BẠO LỰC
28 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Xác định các hành vi hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực
Xác định các biện pháp làm dịu bớt hoặc tránh các cuộc tranh cãi có thể dẫn tới bạo lực
Lên kế hoạch quản lí hành vi gây gổ, chửi bới hoặc đe doạ Biết cách thoát ra khỏi tình huống đúng lúc
Xác định các biện pháp bảo vệ cá nhân cần thiết để tránh hoặc giảm nhẹ các tổn thương về thể chất
Đánh giá và xử trí một loạt các tình huống nguy hiểm hoặc có nguy cơ.
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vii – Bài 7.2 29
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 5 người. Yêu cầu các nhóm viết các câu hỏi trên lên giấy khổ lớn và thảo luận về những câu hỏi đó. Dành cho họ 10 phút để thảo luận sau đó yêu cầu mỗi nhóm cử một người lên trình bày kết quả thảo luận.
Nói: Chúng ta cần phân biệt rõ giữa nóng giận và hung hăng. Trên thực tế, sẽ rất có lợi cho khách hàng khi họ hiểu được rằng nóng giận là cảm xúc rất bình thường, nhưng không được có những hành vi hung hăng. Hành vi hung hăng là không thể chấp nhận được.
Nóng giận là một cảm xúc bình thường, nhưng hung hăng là hành vi tiêu cực, gây ra nhiều rắc rối và không phải là cách để giải quyết vấn đề. Những người hung hăng có chủ ý gây hại về mặt thể chất hoặc tâm lí cho người khác. Một số hành vi hung hăng dễ nhận biết được và một số khác thì không dễ nhận thấy. Quát thét, đánh người khác là những hành vi dễ nhận thấy. Nhìn người khác một cách khinh miệt cũng là một hành vi hung hăng. Hung hăng bao gồm cả việc xâm phạm không gian riêng tư của người khác khiến họ khó chịu, và phát tán tin đồn xấu (mặc dù không phải ai cũng thừa nhận đây là hành vi hung hăng).
Khi chúng ta tức giận thì sự tức giận có thể thể hiện ở những khía cạnh sau:

‚ Nhận thức
‚ Cảm xúc
‚ Lời nói
‚ Hành vi
Sự tức giận thường tập trung vào một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, hung hăng thường không tập trung vào vấn đề mà thường hướng về việc gây hại cho người khác, cho hoàn cảnh hoặc cho chính bản thân.

Thảo luận nhóm nhỏ:
Theo bạn, thế nào là hành vi hung hăng?
Sự khác biệt giữa hành vi hung hăng và sự nóng giận là gì?
Hãy mô tả về một tình huống mà bạn gặp phải một người có hành vi hung hăng:
- Họ có những hành vi gì?
- Có dấu hiệu nào cảnh báo trước không? Nếu có thì đó là những dấu hiệu gì?
- Bạn ứng phó thế nào trong tình huống đó?
XÁC ĐỊNH CÁC HÀNH VI HUNG HĂNG VÀ CÓ KHẢ NĂNG TRỞ THÀNH BẠO LỰC
30 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Nói: Có 3 bước chính trong biện pháp quản lí sự hung hăng, được viết tắt theo chữ cái đầu tiên tên tiếng Anh của mỗi bước nhỏ là CENTRED, có nghĩa là Tập trung.
Hướng dẫn giảng dạy: Lần lượt trình bày các bước trên bản chiếu 5.
Bước 1: Xoa dịu hành vi hung hăng
C
- Giao tiếp rõ ràng và bình tĩnh
E - Lắng nghe, thấu cảm, ghi nhận và làm rõ
Bước 2: Kiềm chế hành vi hung hăng
N
- Thương thuyết rõ ràng và kiên quyết
T - Tạo tư thế an toàn, giữ khoảng cách và để ý xung quanh
Bước 3 – Chấm dứt xung đột
R
- Bỏ đi chỗ khác hoặc yêu cầu khách ra về
E - Tránh gây thương tích và gọi người khác đến hỗ trợ
D - Tự bảo vệ mình
3 BƯỚC QUẢN LÍ SỰ HUNG HĂNG
Chương Vii – Bài 7.2 31
Bản chiếu 5
Nói: Chúng ta sẽ thảo luận từng bước và các thành phần của mỗi bước để duy trì kiểm soát tình huống. Có thể bạn không thể hoàn toàn kiểm soát được tình huống và bạn cần phải bỏ đi, tuy nhiên nếu bạn làm theo từng bước được hướng dẫn thì có thể xoa dịu tình hình và ngăn ngừa xung đột gia tăng.
Luôn Tập trung (CENTERED) và Giữ kiểm soát (CONTROL) là những bước quan trọng nhất khi xử trí với các khách hàng hung hăng có nguy cơ trở thành bạo lực.
Cạnh tranh và/hoặc dấn sâu vào tình trạng hung hăng của khách hàng sẽ chỉ làm cho tình huống xấu đi
CÓ THỂ BẠN SẼ KHÓ DUY TRÌ ĐƯỢC KHẢ NĂNG KIỂM SOÁT TÌNH HUỐNG HOÀN TOÀN
32 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm nhỏ. Yêu cầu mỗi nhóm chọn và thảo luận một câu hỏi (trên bản chiếu 7). Yêu cầu các nhóm viết câu trả lời lên giấy khổ lớn và sau đó trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình trước cả lớp. Dành cho các nhóm 5 phút để thảo luận và khoảng 5 phút để báo cáo.
Yêu cầu một thành viên nhóm trình bày kết quả thảo luận.
Sử dụng các bản chiếu tiếp theo để phân tích rộng hơn về những điểm các nhóm đã thảo luận và làm rõ những ý kiến chưa chính xác.
Bài tập thảo luận nhóm nhỏ:
Những nguyên nhân nào khiến mọi người trở nên hung hăng: trong cuộc sống nói chung và trong công việc nói riêng?
Điều gì chúng ta làm có thể khiến cho tình huống trở nên tồi tệ hơn?
Chúng ta nên giao tiếp với những người hung hăng như thế nào: giọng nói, điệu bộ, từ ngữ?
Các bước quan trọng trong quá trình lắng nghe là gì?
Làm thế nào để mọi người biết rằng lúc đó bạn đang lắng nghe họ?
Bạn có thể sử dụng các kĩ thuật gì khác để giúp cho khách hàng bớt hung hăng?
BƯỚC 1- XOA DỊU HÀNH VI HUNG HĂNG
Chương Vii – Bài 7.2 33
Bản chiếu 7
Nói: Hãy giữ bình tĩnh và thể hiện phong thái chuyên nghiệp. Khi khách hàng tức giận, bạn nên hiểu đó là do họ đang gặp phải rắc rối. Bạn đừng nổi nóng với họ vì điều đó chỉ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn. Hãy nhắc nhở họ về các hành vi được phép tại cơ sở điều trị và những lần tư vấn trước đây. Hãy nhắc họ nhớ về mối quan hệ tốt đẹp mà hai bên đã cùng xây dựng. Hãy nhớ là luôn giữ bình tĩnh.
Cần giữ khoảng cách với khách hàng đang hung hăng. Bạn nên đứng ở vị trí an toàn và giải thích thật bình tĩnh. Nếu khách hàng có đem theo vũ khí, hãy gọi cảnh sát ngay. Luôn nhớ giữ khoảng cách hợp lí giữa tư vấn viên và khách hàng, không quá xa mà cũng không quá gần. Khoảng cách phù hợp thường là hơn một tầm tay với để đề phòng bị đánh mà không né tránh kịp.
Mặt hướng về phía khách hàng và chú ý sử dụng ngôn từ cẩn thận. Ngay cả khi khách hàng quát to thì bạn vẫn phải nhẹ nhàng. Không thể hiện các cử chỉ đe dọa (như xắn tay áo lên).

Biện pháp CENTRED
Giao tiếp rõ ràng và bình tĩnh
Giọng nói phải bình tĩnh và tự tin – hơi nhấn giọng
Nói rõ ràng và chậm rãi
Thể hiện tư thế tự tin, ôn hòa
Sử dụng các từ ngữ đơn giản và ngắn gọn – dễ hiểu
Không đổ lỗi hoặc nghi vấn – hãy tập trung vào vấn đề
BƯỚC 1: XOA DỊU HÀNH VI HUNG HĂNG
Bản chiếu 8
Nói: Hãy hỏi khách hàng xem tại sao họ lại tức giận? Tạo cơ hội để họ bày tỏ cảm xúc và những mối quan tâm. Một số khách hàng có thể nguôi giận khi được nói ra những điều khiến họ bực tức trong lòng.
Biện pháp CENTRED
Lắng nghe thấu cảm, ghi nhận và làm rõ
Kiên nhẫn để cho khách hàng kể hết câu chuyện-chú ý lắng nghe
Ghi nhận và theo dõi câu chuyện bằng lời nói, hoặc điệu bộ cử chỉ rõ ràng
Làm rõ vấn đề chính và những cảm xúc rõ ràng ở khách hàng khi phản ánh lại nội dung câu chuyện
Sử dụng ngôn từ ôn hòa, VD: “Tôi có thể thấy là anh/chị đang tức giận”
Đặt câu hỏi để làm rõ hoặc kiểm soát sự xung đột
Hãy cư xử với khách hàng theo cách mà bạn muốn được đối xử – hãy tôn trọng họ!
BƯỚC 1: XOA DỊU HÀNH VI HUNG HĂNG
Nói: Lời nói của chúng ta có thể ảnh hưởng đến mức độ nóng giận của khách hàng. Bạn có thể xoa dịu cơn nóng giận của họ bằng những cảnh báo nhẹ nhàng, ví dụ: “Tôi nhận thấy là bạn đang nóng giận nhưng điều đó không giúp ích gì đâu”. Tiếp tục giải quyết vấn đề bạn muốn tập trung vào. Bạn có thể tham khảo một số cách nói như trên bản chiếu. Những câu nói trong cột bên trái sẽ dễ khiến khách hàng giận dữ hơn, trong khi đó ngôn ngữ ôn hòa có thể làm họ bình tĩnh lại, hay ít nhất là họ cũng không tức giận thêm.
SỬ DỤNG NGÔN NGỮ ÔN HÒA
Hung hăng hơn
Anh/chị làm không đúng
Anh/chị sai rồi
Anh/chị làm chưa đúng cách lắm
Ôn hoà
Tôi nhận thấy có một số vấn đề chúng ta cần phải thảo luận thêm
Tôi thấy là hình như có sự hiểu lầm ở đâu đó
Rất nhiều người cũng có những vấn đề về vệc này
36 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 10
Nói: Nếu khách hàng vẫn tiếp tục hung hăng, tư vấn viên cần áp dụng các kĩ năng tư vấn đề cải thiện tình thế. Lưu ý rằng bạn không bắt buộc phải tư vấn cho khách hàng vào lúc đó và có thể ngừng buổi tư vấn lại nếu cần thiết.
Cố gắng đưa ra các giải pháp khác nhau để khách hàng tự lựa chọn cách phù hợp nhất cho mình.
Nếu khách hàng vẫn tiếp tục hung hăng, nhất là trước mặt những khách hàng khác, bạn phải đưa anh/chị ta đến nơi khác để bảo đảm anh/chị ta không thể làm hại được ai và bình tĩnh lại. Đưa khách hàng đang hung hăng tránh xa những người khác cũng có thể giúp xoa dịu tình hình.

Tránh sử dụng các câu mang tính tuyệt đối
Đồng ý phần nào với KH (nếu cần)
Đưa ra các lựa chọn
Phân tán hoặc thay đổi sự chú ý
Gợi ý là cả hai sẽ tạm dừng buổi tư vấn và sẽ nói chuyện lại khi nào cảm thấy bình tĩnh hơn
Mời uống nước
Xin phép được ghi chép
Lấy thêm ý kiến khác
Thay đổi không gian
CÁC KĨ NĂNG
Chương Vii – Bài 7.2 37
Bản chiếu 11
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành 4 nhóm nhỏ. Yêu cầu mỗi nhóm tập trung thảo luận một câu hỏi trên bản chiếu trong khoảng 5 phút. Các nhóm viết câu trả lời lên giấy khổ lớn và cử một thành viên trình bày trước lớp kết quả thảo luận của nhóm mình. Dành khoảng 10 - 12 phút để trình bày kết quả. Sử dụng các bản chiếu tiếp theo để phân tích rộng hơn về những điểm các nhóm đã thảo luận và làm rõ những ý kiến chưa chính xác.
Thảo luận nhóm nhỏ:
Bạn sẽ làm gì khi có ai đó chửi bới bạn?
Bạn sẽ làm gì khi ai đó đe dọa bạn?
Những điều gì cần phải tránh khi người khác đang hung hăng hoặc tức giận?
Những điều gì cần phải cân nhắc khi thương thuyết với những người hung hăng (VD: cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, từ ngữ, ….)?
BƯỚC 2: KIỀM CHẾ HÀNH VI HUNG HĂNG
38 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 12
Nói: Bạn có thể dự đoán trước một người đang tức giận có khả năng bạo lực hay không thông qua quan sát ngôn ngữ cơ thể của họ. Không có cách nào xác định chính xác hoàn toàn cả, nhưng bạn thường có thể nhận thấy khách hàng cao giọng, nói to hơn. Họ có thể tránh nhìn vào bạn và có thể thấy họ nắm chặt tay lại. Bạn cũng có thể quan sát thấy mặt và cổ họ đỏ ửng lên, và họ có thể hơi run nữa. Khi bạn có cảm giác khách hàng chuẩn bị có hành vi bạo lực, cảm giác đó thường là chính xác.
Không thể đoán đúng 100% các dấu hiệu bạo lực
Cao giọng, vai rung lên, nói nhanh, cánh mũi phập phồng, đe dọa, hơi thở mạnh, mắt đỏ, nắm chặt tay, thay đổi hành vi đột ngột, nhìn đi nơi khác
Hãy lắng nghe sự mách bảo từ trực giác của bạn
NHẬN BIẾT CÁC DẤU HIỆU BẠO LỰC: QUAN SÁT NGÔN NGỮ CƠ THỂ
Chương Vii – Bài 7.2 39
Bản chiếu 13
Nói: Sử dụng cử chỉ tự tin, ôn hòa. Đứng thẳng và tạo vẻ ngoài thật tự tin. Hãy sử dụng những biện pháp sau:
‚ Thể hiện rằng bạn quan tâm đến những điều bạn đang nói
‚ Sử dụng cử chỉ để nhấn mạnh thông điệp
‚ Sử dụng các thông điệp đơn giản, chính xác và tập trung vào kết quả
‚ Sử dụng từ “Tôi”, ví dụ: “Tôi sẽ phải dừng cuộc nói chuyện của chúng ta nếu anh cứ tiếp tục nói với tôi như vậy”.
‚ Lặp lại các lời nói, cử chỉ. Lặp lại là một biện pháp tốt giúp bạn giữ tập trung và cũng giúp những khách hàng đang mải để ý những điều họ nói lắng nghe bạn hơn.
‚ Đặt các giới hạn cho phép.
Cũng có thể bạn cần sử dụng đến các chiến lược giao tiếp trong tình huống xấu:

‚ Kiềm chế hung hăng: đưa ra lời cảnh báo chính thức, rõ ràng.
‚ Thương thuyết kiên quyết và rõ ràng: “Tôi sẽ phải yêu cầu anh rời khỏi đây nếu anh cứ tiếp tục quát tháo tôi như vậy”.
‚ Với những trường hợp quá hung hăng, bạn có thể phải có các hành động kiểm soát và không sử dụng các lời cảnh báo nhẹ nhàng nữa
‚ Thực hiện các biện pháp an toàn, giữ khoảng cách và quan sát xung quanh.
Biện pháp CENTRED
N - Thương thuyết kiên quyết và rõ ràng
Giữ tư thế bình tĩnh và bề ngoài thật tự tin
Điệu bộ cử chỉ tự tin, ôn hoà
Sử dụng cử chỉ để nhấn mạnh thông điệp
Sử dụng các thông điệp đơn giản, chính xác và tập trung vào kết quả
Sử dụng từ “TÔI”
Lặp lại lời nói hoặc điệu bộ, cử chỉ
Đặt các giới hạn cho phép
BƯỚC 2: KIỀM CHẾ HÀNH VI HUNG HĂNG
40 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 14
Nói: Di chuyển khéo léo quanh khách hàng. Trong khi mắt vẫn nhìn khách hàng, dần dần di chuyển tới gần phía cửa ra vào để có thể dễ dàng thoát đi. Không đứng thẳng trực diện với khách hàng mà hãy đứng nghiêng người về một bên để khách hàng khó đánh trúng bạn khi họ có hành động bạo lực. Luôn đứng gần lối ra vào.
Không để mình quá gần khách hàng, hãy giữ khoảng cách hơn 1 tầm tay với.
Để ý các chướng ngại vật ngăn lối thoát của bạn.

Biện pháp CENTRED
T – Thực hiện các biện pháp an toàn, giữ khoảng cách và quan sát xung quanh.
Có một số tình huống bạn phải bỏ đi ngay lập tức và tránh ở vào tình huống nguy cơ
Các kế hoạch khác
- Tìm kiếm sự giúp đỡ từ phía đồng nghiệp, người phụ trách, hoặc người quản lí
BƯỚC 2: KIỀM CHẾ HÀNH VI HUNG HĂNG
Chương Vii – Bài 7.2 41
Bản chiếu 15
Biện pháp CENTRED
R - Ra khỏi phòng hoặc đề nghị KH ra về
E - Tránh để bị thương và kêu gọi người đến giúp đỡ
D - Tự bảo vệ bản thân
BƯỚC 3: CHẤM DỨT XUNG ĐỘT
Nói: Bỏ ra khỏi phòng thật nhanh, chạy, và làm tất cả những gì cần thiết để tránh bị thương.
42 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16
Nói: Điều quan trọng là các nhân viên cơ sở tư vấn phải thảo luận trước với nhau về các giải pháp thoát lui trước những tình huống bạo lực tiềm tàng. Các bạn sẽ đối phó với tình huống dễ dàng hơn nếu có sẵn một kế hoạch cụ thể và ai cũng rõ về những việc cần làm. Nếu một nhân viên quyết định bỏ đi, tất cả các nhân viên khác cần phải bỏ đi cùng lúc đó. Không nên để bất cứ ai lại trong tình huống bị đe dọa.
Thống nhất trước với đồng nghiệp về thời điểm cần thoát lui trước khi đi gặp khách hàng
Lên kế hoạch trước và xác định trước các lối thoát
Tạo khoảng cách an toàn (khoảng 2 – 3 mét) trước khi bạn quay lưng lại và bỏ đi.
Luôn đứng nghiêng người sang một bên rồi mới quay lưng lại hoàn toàn và bỏ đi
Khi quyết định bỏ đi, hãy bỏ đi ngay lập tức.
Di chuyển một cách vững chãi.
THOÁT KHỎI TÌNH HUỐNG BỊ ĐE DỌA
Chương Vii – Bài 7.2 43
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những điểm quan trọng, sử dụng thông tin trên bản chiếu và thông tin dưới đây.
Thông tin tham khảo: Các biện pháp giao tiếp trong tình huống có xung đột
1. Xoa dịu sự hung hăng – cảnh báo nhẹ nhàng
‚ Kết thúc vấn đề bạn đang tập trung thảo luận
‚ Cảnh báo một cách nhẹ nhàng, ví dụ: “Tôi có thể thấy là anh đang tức giận, nhưng điều đó không giúp ích gì cả”
2. Kiềm chế sự hung hăng – cảnh báo chính thức
‚ Thương thuyết một cách rõ ràng và kiên quyết
‚ Cảnh báo rõ ràng, ví dụ: “Tôi sẽ phải yêu cầu anh ra về nếu anh cứ tiếp tục lăng mạ như thế”
‚ Trong trường hợp khách hàng quá kích động, bạn cần phải giữ kiểm soát và không dùng những lời nói nhẹ nhàng nữa
‚ Thực hiện các biện pháp an toàn, giữ khoảng cách và quan sát xung quanh
3. Chấm dứt xung đột – bỏ đi hoặc dừng cuộc nói chuyện
‚ Yêu cầu khách hàng ra về
‚ Cảnh báo mạnh, ví dụ: “Tôi không muốn phải gọi cảnh sát. Xin mời anh ra về.”
‚ Không dùng những từ ngữ đe dọa
‚ Yêu cầu trợ giúp nếu cần
Bản chiếu 17
1. Xoa dịu sự hung hăng – cảnh báo nhẹ nhàng
Giao tiếp rõ ràng, bình tĩnh
Lắng nghe, thấu cảm, ghi nhận và làm rõ
2. Kiểm soát sự hung hăng – cảnh báo chính thức
Thương thuyết rõ ràng và kiên quyết
Thực hiện các biện pháp an toàn, giữ khoảng cách và để ý xung quanh
3. Chấm dứt xung đột – bỏ đi hoặc dừng cuộc nói chuyện
Bỏ đi chỗ khác hoặc yêu cầu khách hàng ra về
Tránh gây thương tích và gọi người khác đến hỗ trợ
Tự bảo vệ
CÁC BIỆN PHÁP GIAO TIẾP TRONG TÌNH HUỐNG XUNG ĐỘT
44 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành 4 nhóm nhỏ, mỗi nhóm sẽ thảo luận về một trong bốn câu hỏi trên bản chiếu trong vòng 5 phút. Các nhóm viết câu trả lời lên giấy khổ lớn và cử một thành viên trình bày trước lớp về kết quả thảo luận của nhóm.
Mỗi nhóm sẽ có 10 – 12 phút trình bày kết quả.
Sử dụng các bản chiếu tiếp theo để phân tích rõ hơn những điểm được thảo luận và làm rõ những ý kiến chưa chính xác hoặc còn tranh cãi.
Thảo luận nhóm nhỏ:
Bạn sẽ làm gì nếu bạn cảm thấy bạn đang mất tự chủ/kiên nhẫn/sức chịu đựng và đúng lúc đó khách hàng tìm đến gặp bạn?
Bạn sẽ làm gì khi bạn cảm thấy rằng một thành viên trong nhóm của bạn đang có hành vi hung hăng với một khách hàng ?
Những biểu hiện về thể chất nào mọi người gặp phải ra khi sợ hãi?
Mọi người có thể làm những gì để giúp đối phó với sự sợ hãi?
TỰ KIỀM CHẾ BẢN THÂN
Chương Vii – Bài 7.2 45
Bản chiếu 19
Nói: Trong những tình huống mà bạn nghĩ bạn có thể hoặc mất kiểm soát, hãy làm theo các bước trên đây
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Hít thở sâu
Độc thoại
- Bình tĩnh
- Tập trung
- Tập trung vào những gì bạn nên làm, không nghĩ đến những việc bạn không nên làm
Dừng buổi tư vấn
- Bỏ đi
- Ghi chép lại
BẠN CẦN LÀM GÌ NẾU BẠN MẤT KIỂM SOÁT
46 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 20
Nói: Trong những tình huống mà một đồng nghiệp mất kiểm soát, hãy thực hiện các bước trên bản chiếu
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu Đưa họ thoát khỏi tình huống
- “Này, cậu có điện thoại đấy”
- Để họ đi mà không bị mất mặt
- Để khách hàng không có lí do chống lại đồng nghiệp hoặc cơ sở dịch vụ mà bạn cung cấp
Bạn có thể yêu cầu khách hàng đi ra nếu đồng nghiệp của bạn không chịu bỏ đi
Bạn có thể xen vào và yêu cầu khách hàng kể lại sự tình.
- Dành thời gian để đồng nghiệp tập trung trở lại
- Giữ bình tĩnh
- Luôn tập trung
- Tập trung vào những gì bạn NÊN làm chứ không phải những việc bạn KHÔNG NÊN làm
LÀM GÌ KHI MỘT ĐỒNG NGHIỆP MẤT KIỂM SOÁT
Chương Vii – Bài 7.2 47
Nói: Để vượt qua nỗi sợ hãi, bạn sẽ phải hình thành và duy trì tính tự chủ. Hãy nhớ phương pháp STOP:
S (Self-talk): Độc thoại
‚ Sử dụng những lời nói tích cực và kĩ thuật hít thở để lấy lại bình tĩnh
T (Think rationally): Suy nghĩ thấu đáo
‚ Tập trung vào sự việc đang xảy ra
‚ Không suy nghĩ nóng vội
O (One step at a time): Thực hiện từng bước một
‚ Tập trung vào những hành vi cụ thể
P (Problem solve actions): Hành động để giải quyết vấn đề
‚ Tôi cần làm gì bây giờ?
‚ Giải quyết vấn đề và tiếp tục suy nghĩ
Một người sợ hãi có thể cảm thấy tim đập nhanh, bụng nhói đau và đỏ mặt. Họ có thể nói lắp bắp. Có thể đối phó với sự sợ hãi bằng cách độc thoại và hít thở sâu. Có kế hoạch đối phó với các tình huống khó có thể xảy ra cũng giúp tạo cảm giác tự chủ. Tuy nhiên bạn cũng cần có sự hỗ trợ phòng khi mọi việc trở nên không thể kiểm soát được.

Bản chiếu 21
STOP – Dừng tình trạng mất tự chủ
S (Self-talk) – Độc thoại
T (Think rationally) – Suy nghĩ thấu đáo
O (One step at a time) – Thực hiện từng bước một
P (Problem solve actions) – Hành động để giải quyết vấn đề
VƯỢT QUA SỰ SỢ HÃI VÀ TỰ CHỦ TRỞ LẠI
48 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 22
Hướng dẫn giảng dậy: Ôn lại những nội dung chính của bài
Nói: Trong bài này, chúng ta đã cùng nhau thảo luận về các biện pháp kiểm soát sự hung hăng. Mỗi một bước trong 3 bước trên đều có các bước nhỏ riêng biệt, những bước này rất quan trọng để đo lường mức độ nguy hiểm và giúp làm dịu tình huống căng thẳng. Lời cảnh báo nhẹ nhàng trong bước 1 có mục đích nhắc nhở khách hàng về cách cư xử đúng mực. Lời cảnh báo chính thức trong bước 2 có mục đích xác định hậu quả của việc tiếp tục các hành vi hung hăng. Lời cảnh báo gay gắt trong bước 3 có mục đích nhằm chấm dứt xung đột và để đảm bảo an toàn cho bạn.
Đôi khi chúng ta phải thực hiện ngay bước 3 vì mức độ nguy hiểm của tình huống. Tuy nhiên, với việc lần lượt thực hiện từng bước một để kiểm soát tình hình, có thể bạn sẽ không bao giờ phải dùng đến bước 3.

Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Bước 1: Xoa dịu hành vi hung hăng
C
- Giao tiếp rõ ràng và bình tĩnh
E - Lắng nghe, thấu cảm, ghi nhận và làm rõ
Bước 2: Kiềm chế hành vi hung hăng
N
- Thương thuyết rõ ràng và kiên quyết
T - Tạo tư thế an toàn, giữ khoảng cách và để ý xung quanh
Bước 3 – Chấm dứt xung đột
R
- Bỏ đi chỗ khác hoặc yêu cầu khách ra về
E - Tránh gây thương tích và gọi người khác đến hỗ trợ
D - Tự bảo vệ mình
TÓM TẮT: 3 BƯỚC QUẢN LÍ SỰ HUNG HĂNG
7.3 Giải quyết mâu thuẫn
Bài 50 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TổNG QuAN

I. Giới thiệu 2 phút
Giải thích rằng trong bài này, bạn sẽ thảo luận với học viên các khái niệm quan trọng về
giải quyết mâu thuẫn.
II. Trình bày 80 phút
Sử dụng các bản chiếu, bài tập tình huống và hoạt động thảo luận nhóm để hướng dẫn
học viên cách giải quyết mâu thuẫn.
III. Kết luận 8 phút
Ôn lại những ý chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 7.3: Giải quyết mâu thuẫn
Mục đích:
Giúp học viên có được những kiến thức cơ bản về những công cụ giải quyết mâu thuẫn giữa hai người hoặc hai nhóm người.
Thời gian: 90 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
‚ Nêu được định nghĩa về mâu thuẫn
‚ Xác định được những cách đối phó với mâu thuẫn
‚ Xác định các bước giải quyết mâu thuẫn
‚ Thể hiện hiểu biết về những nguyên tắc trong giải quyết mâu thuẫn thông qua các bài tập thực hành và nêu giải pháp cho các mâu thuẫn có thể xảy ra.
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Bài tập tình huống
‚ Thảo luận nhóm nhỏ
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
‚ Tài liệu phát tay 7.1: Bài tập tình huống về giải quyết mâu thuẫn
‚ Bài tập tình huống: Giải pháp (sau tài liệu phát tay 7.1)
Chương Vii – Bài 7.3 51
Bản chiếu 1
Nói: Mâu thuẫn giữa các cá nhân với nhau hoặc giữa các nhóm với nhau có thể phá hủy những nỗ lực của bạn nhằm thay đổi hành vi của khách hàng, hoặc ít nhất thì cũng làm cho việc đó trở nên khó khăn hơn nhiều. Vì vậy, kĩ thuật giải quyết mâu thuẫn là vô cùng cần thiết và hữu ích cho bạn cả trong cuộc sống cá nhân và cả trong việc hỗ trợ khách hàng cải thiện các mối quan hệ của họ.
Giải quyết mâu thuẫn là một kĩ thuật có thể học được qua việc đọc sách, học lí thuyết và thực hành thật nhiều. Mục tiêu của giải quyết mâu thuẫn là nhằm chấm dứt mâu thuẫn với kết quả cả hai bên đều có lợi mỗi khi có thể - tuy nhiên, kết quả còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác.

GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
52 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày theo các nội dung trên bản chiếu.
Bản chiếu 2
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có thể:
Nêu được định nghĩa về mâu thuẫn
Xác định các cách giải quyết mâu thuẫn
Xác định được các bước giải quyết mâu thuẫn
Thể hiện hiểu biết về những nguyên tắc trong giải quyết mâu thuẫn thông qua các bài tập thực hành và đưa ra cách giải quyết các mâu thuẫn có thể xảy ra trong cuộc sống
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vii – Bài 7.3 53
Bản chiếu 3
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu tiêu đề của bản chiếu và trình bày theo những nội dung dưới đây.
Nói: Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta luôn luôn phải giải quyết các mẫu thuẫn khác nhau. Mặc dù mâu thuẫn là không thể tránh khỏi trong các mối quan hệ giữa người với người, nhưng nếu không biết xử trí mâu thuẫn theo hướng tích cực thì có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng đối với các mối quan hệ và sức khỏe.
Có rất nhiều chiến lược giải quyết mâu thuẫn khác nhau giúp xử lí những bất đồng ý kiến, và mỗi chiến lược cũng sẽ mang lại những kết quả khác nhau. Một số người thì chọn cách giải quyết một tình huống mâu thuẫn bằng ngôn ngữ cục cằn và gây gổ; những người khác chọn những cách lịch thiệp hơn, trong khi một số người khác lại thể hiện sự bất đồng một cách thụ động và cố gắng tiến tới một thỏa hiệp.
Trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ thế nào là mâu thuẫn.

Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem họ hiểu thế nào là mâu thuẫn. Ghi lại các ý kiến của học viên lên giấy khổ lớn, sau đó lần lượt trình chiếu nội dung của bản chiếu.
Nói: Mâu thuẫn được định nghĩa chung là những sự bất đồng quan điểm, tranh cãi hoặc đụng độ (kể cả bằng hành động và lời nói). Ngay cả bạn và bạn bè bạn cũng có thể có quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề. Tuy nhiên, điều này không coi là mâu thuẫn trừ khi sự khác biệt đó gây cản trở đến việc đạt được mục tiêu chung hoặc gây ảnh hưởng đến quyền lợi của nhau.
Mâu thuẫn
- Không đồng thuận, tranh cãi hoặc đụng độ.
Mâu thuẫn là không thể tránh khỏi trong quan hệ giữa con người với con người
- Mặc dù mâu thuẫn là một chuyện bình thường trong các mối quan hệ, nhưng nếu không biết cách giải quyết mâu thuẫn theo hướng tích cực thì có thể gây nên những vấn đề nghiêm trọng đối với các mối quan hệ và sức khỏe
MÂU THUẪN LÀ GÌ?
54 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Phát cho mỗi học viên một bản tài liệu phát tay số 7.1: Bài tập tình huống: Giải quyết mâu thuẫn (cuối bài này). Dành cho họ 10 phút để đọc và suy nghĩ xem mình sẽ ứng xử như thế nào khi gặp tình huống như mô tả trong tài liệu. Hướng dẫn học viên phân tích cụ thể về tình huống bằng cách đặt nhiều câu hỏi khác nhau. Hãy hỏi họ xem trong tình huống đó, điều gì đã xảy ra, và tại sao những điều đó lại xảy ra. Sau đó, dành cho họ 5 phút để viết lên giấy cách mà họ sẽ phản ứng trong tình huống đó.
Hỏi học viên về những cách phản ứng mà họ đưa ra và ghi lại lên giấy khổ lớn. Nhóm các phương án trả lời của họ thành các nhóm sau:
‚ Né tránh mâu thuẫn
‚ Đối đầu mâu thuẫn
‚ Giải quyết mâu thuẫn
Lưu ý: Những câu trả lời cho bài tập tình huống được liệt kê ngay sau tài liệu phát tay 7.1:
Bài tập tình huống về Giải quyết mâu thuẫn
Bản chiếu 4
Bạn sẽ phản ứng (về hành vi) như thế nào đối với tình huống này?
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG: CÁC CÁCH PHẢN ỨNG KHI CÓ MÂU THUẪN
Chương Vii – Bài 7.3 55
Bản chiếu 5
Nói: Khi bạn sử dụng cách né tránh mâu thuẫn, bạn né tránh không muốn nói ra những sự khác nhau về quan điểm của hai phía, hoặc thậm chí bạn còn không chịu thừa nhận là đang có mâu thuẫn xảy ra. Thường hai phía ít tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau hoặc tránh né tiếp xúc, và vấn đề sẽ không bao giờ được giải quyết. (Thua - Thua)
Khi bạn sử dụng cách
đối đầu mâu thuẫn, bạn chỉ nhằm mục đích đáp ứng những mong muốn và nhu cầu của bản thân chứ không quan tâm nhiều đến suy nghĩ và nhu cầu của đối tác. Đặc điểm của phong cách này thể hiện ở cách giao tiếp hung hăng và không dành thời gian để lắng nghe. (Thắng - Thua hoặc Thua - Thua)
Khi bạn sử dụng cách
hợp tác để giải quyết mâu thuẫn, bạn nói rõ và cụ thể về nhu cầu và những mong muốn của bản thân, trong khi vẫn lắng nghe và tôn trọng những nhu cầu và những mong muốn của đối tác. Bạn cố gắng tìm cách tốt nhất để nhìn bức tranh trên diện rộng và duy trì mối quan hệ. (Thắng - Thắng).
Không có cách nào là đúng và không có cách nào là sai. Mỗi cách xử trí tình huống có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Mục đích đơn giản là bạn phải biết sử dụng cách nào cho thích hợp đối với mỗi hoàn cảnh khác nhau.

Tránh né mâu thuẫn (thua – thua) - tôi không quan tâm đến vấn đề
- Tránh sự bất đồng bằng mọi giá
- Không nói cho người khác biết là bạn không đồng ý
- Không nói với người khác về cảm giác của bạn
Đối đầu mâu thuẫn (tình trạng thắng – thua)
- Thái độ thù địch, thách thức và hung hăng khi có sự bất đồng
- Đối đầu với người khác
- Chỉ có quan điểm của bạn mới đáng để xem xét, cân nhắc
Giải quyết mâu thuẫn (Tình huống thắng – thắng)
- Sử dụng các kỹ năng giải quyết sự mâu thuẫn
- Giải quyết mâu thuẫn theo hướng có trách nhiệm
- Bạn tự kiểm soát được hành động của bản thân
- Luôn hướng đến tình huống thắng – thắng
CÁC CÁCH PHẢN ỨNG KHI CÓ MÂU THUẪN
56 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên về nguyên nhân chính khiến có sự mâu thuẫn giữa hai anh em trong bài tập tình huống. Dành vài phút lắng nghe ý kiến trả lời của học viên.
Nói: Có rất nhiều lí do khiến mâu thuẫn xảy ra. Trong bản chiếu trên các bạn hãy để ý là dòng chữ “Giao tiếp không rõ ràng” được thể hiện với màu đỏ - bởi vì đây chính là lí do phổ biến nhất. Điều này là vì việc hiểu sai về thông tin, hay thiếu sự trao đổi thông tin, thường khiến cho chúng ta có những nhận định sai về sự thật. Giao tiếp trao đổi thông tin không phải là một chuyện dễ dàng, thậm chí cả giữa những người có cùng trình độ, hiểu biết, giá trị xã hội và kinh nghiệm. Những cặp vợ chồng sống với nhau 30 năm mà vẫn có thể hiểu lầm nhau.
Chính vì vậy cho nên việc ít trao đổi thông tin giữa những người không biết mấy về nhau, và cảm thấy thù địch hay nghi ngờ lẫn nhau là không có gì đáng ngạc nhiên. Cho dù bạn có nói điều gì đi chăng nữa thì bạn cũng nên lường trước rằng người phía bên kia có thể nghe và hiểu khác ý bạn muốn nói.

Bản chiếu 6
Quá lệ thuộc lẫn nhau
Khác nhau về niềm tin
Nguồn lực/ lợi ích khan hiếm
Căng thẳng
Không rõ ràng, không chắc chắn.
Giao tiếp không rõ ràng
MÂU THUẪN THƯỜNG XẢY RA KHI…
Chương Vii – Bài 7.3 57
Bản chiếu 7
Nói: Giải quyết mâu thuẫn có thể là một việc khó khăn. Có nhiều cách nhận thức về kết quả của giải quyết mâu thuẫn. Thông thường người ta hay nghĩ rằng mâu thuẫn sẽ kết thúc với một bên sẽ thắng và một bên sẽ thua (và trên thực tế đôi khi kết quả này có thể xảy ra). Ngoài ra, nhiều người còn nghĩ rằng đàm phán sẽ dẫn đến kết quả là không ai sẽ là người thắng cả, mà chỉ là mỗi bên được hài lòng phần nào mà thôi. Một số người có thể cảm thấy rằng tình hình của họ là không thể giải quyết được. Mặc dù những vấn đề này có thể xảy ra, điều quan trọng là chúng ta không nên giả định là những điều này chắc chắn sẽ xảy ra mà không trải qua quá trình tìm hiểu và hòa giải. Luôn cần phải thử tìm giải pháp.
Một số mâu thuẫn có thể mang lại kết quả có lợi cho tổ chức của bạn. Chúng ta thường làm việc chăm chỉ trong những môi trường có tính cạnh tranh. Đồng thời, đôi khi chúng ta không nói thẳng thắn suy nghĩ của mình cho đến khi có mâu thuẫn xảy ra. Mâu thuẫn thường cũng là động lực cho sự thay đổi, và đôi khi thay đổi là một việc cần thiết. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà chúng ta lại tìm cơ hội để gây mâu thuẫn! Nếu làm như vậy với hy vọng đạt được kết quả tốt thì có thể gây ra những rủi ro ngoài ý muốn.

Nhận thức về kết quả giải quyết mâu thuẫn
Thắng/thua
Cả hai đều tạm hài lòng
Không giải quyết được
NHƯNG, mâu thuẫn có thể có những tác động tích cực
- Tăng cường nỗ lực trong nhóm
- Giúp hai bên hiểu nhau rõ hơn
- Động lực cho sự thay đổi
CHÚ Ý: Nhưng không có nghĩa là chúng ta nên tìm cơ hội để gây mâu thuẫn!
GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN LÀ MỘT CÔNG VIỆC KHÓ KHĂN
58 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu và để học viên động não với câu hỏi về các bước mà theo họ là quan trọng để giải quyết mâu thuẫn thành công. Ghi lại các ý kiến của học viên lên bảng/giấy khổ lớn. Sau đó chiếu các nội dung trên bản chiếu và so sánh với câu trả lời học viên đưa ra. Tìm xem có sự khác biệt nào giữa hai danh sách không.
Thông tin tham khảo:
‚ Chuẩn bị: Cần chuẩn bị cả về thể chất và tinh thần, và dành thời gian suy nghĩ thấu đáo. Chọn một địa điểm thích hợp và sắp xếp chỗ ngồi sao cho tất cả các bên đều cảm thấy mình có vị thế ngang nhau. Đồng thời, chuẩn bị sẵn sàng về mặt tinh thần bằng cách nắm rõ các thông tin và sự kiện (đối tác có thể nhận biết được ngay là bạn có chuẩn bị trước hay không).
‚ Tách biệt giữa con người và vấn đề đang mâu thuẫn: Ai cũng biết là rất khó có thể giải quyết một vấn đề khi mà hai bên hiểu nhầm lẫn nhau, tức giận hoặc buồn bực, hay luôn coi mọi việc đều dính dáng tới mình. Điều cần thiết là các bên cần phải tập trung vào quá trình gây mâu thuẫn - chứ không phải tập trung vào người mà mình có mâu thuẫn. Điều này không có ý khẳng định là con người thì không bao giờ sai trái, nhưng chúng ta cần phải tập trung vào hành động và lời nói chứ không tập trung vào cá nhân con người đó. Chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ một cách chiến lược về điều này - kết quả sẽ như thế nào nếu chúng ta tách người này ra khỏi vấn đề? Liệu nếu là một người khác thì họ có làm điều tương tự như vậy hay không? Liệu có một biện pháp an toàn nào có thể đặt ra để người khác nếu ở vào vị trí này thì sẽ không lặp lại sai lầm đó? Cách suy nghĩ này tập trung vào việc sửa chữa cả một quá trình, không chỉ cho lợi ích của hiện tại mà cả cho lợi ích lâu dài.
1. Chuẩn bị: tinh thần/thể chất, thời gian và địa điểm: dành thời gian để suy nghĩ
2. Tách bạch giữa con người và vấn đề đang mâu thuẫn
3. Giải thích từ hai phía: xác định mâu thuẫn
4. Đặt mình vào hoàn cảnh của họ
5. Chia sẻ mối quan tâm và nhu cầu
6. Động não các giải pháp để đi đến thỏa hiệp: lắng nghe tích cực
7. Bắt đầu bằng những việc dễ làm
8. Xây dựng kĩ năng tha thứ
9. Cùng thống nhất với giải pháp có lợi cho cả đôi bên (win-win)
GIAO TIẾP VÀ TRAO ĐỔI THÔNG TIN
CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN
Bản chiếu 8
Chương Vii – Bài 7.3 59
Bản chiếu 8 (tiếp)
‚ Giải thích từ hai phía: Xác định mâu thuẫn. Đây cũng là cơ hội để thể hiện rằng bạn hiểu về những gì người kia suy nghĩ, và nếu bạn có hiểu nhầm thì họ cũng có cơ hội để giải thích.
‚ Đặt mình vào vị trí của họ: Khi cảm nhận được cảm xúc của đối phương sẽ giúp bạn thấu hiểu và dễ dàng đi đến biện pháp thỏa hiệp.
‚ Lập danh sách những mối quan tâm và nhu cầu chung: Việc này giúp họ hiểu được động cơ của bạn.
‚ Động não đưa ra các giải pháp thỏa hiệp: Luôn phải lắng nghe tích cực.
‚ Bắt đầu bằng những việc có thể thực hiện được: Thành công sẽ nối tiếp thành công và dẫn tới sự hợp tác trong tương lai.
‚ Phát triển kĩ năng tha thứ: Tất cả chúng ta đều có lúc mắc phải sai lầm trong cuộc sống. Biết tha thứ và biết quên đi là một dấu hiệu của sự trưởng thành.
‚ Hướng tới giải pháp có lợi cho cả đôi bên: Luôn luôn tìm mọi cách để đạt được một giải pháp có lợi cho cả đôi bên nếu có thể (thời gian, nguồn lực, và mức độ mâu thuẫn có thể gây nhiều trở ngại).
Nói: Cần nhấn mạnh rằng trong một bản chiếu trước chúng ta đã biết việc thiếu giao tiếp và trao đổi thông tin là một nguyên nhân phổ biến nhất gây ra mâu thuẫn. Vì vậy, chìa khóa thành công của giải quyết mâu thuẫn cũng tập trung ở việc giao tiếp và trao đổi thông tin.
60 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 9
Nói: Địa điểm được chọn để giải quyết mâu thuẫn cần phải xa nơi mâu thuẫn bắt đầu. Quân đội thường kí các hiệp ước ở những nơi xa chiến trường vì có quá nhiều cảm xúc ở đó. Bất cứ ai tham gia đụng độ cần phải đến một nơi khác để giải quyết mâu thuẫn. Nên chọn một địa điểm trung lập. Không nên khiến cho đối tác cảm thấy rằng bạn chọn địa điểm này vì bạn sẽ có nhiều lợi thế hơn họ.
Ví dụ: một số cặp vợ chồng khi cãi nhau thường đến một quán cà phê để thảo luận và gỡ rối những vấn đề bức xúc và hiểu lầm của họ vì đây là một địa điểm thư giãn. Họ cũng khó có thể lớn tiếng ở đây cho dù họ có muốn, vì họ ngại những người xung quanh sẽ để ý.

Quân đội thường kí thỏa ước ở địa điểm cách xa vùng chiến tranh
- Có quá nhiều cảm xúc phát sinh tại những nơi xảy ra mâu thuẫn
LỰA CHỌN ĐỊA ĐIỂM ĐỂ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN CÁCH XA NƠI PHÁT SINH MÂU THUẪN
Chương Vii – Bài 7.3 61
Nói: Bản chất của vấn đề mới là điều mấu chốt. Nhiều người hay quốc gia khi tham gia chiến tranh thường tự cho rằng “mình là đúng, kẻ thù là sai; mình là thiện còn phía bên kia là ác; mình là người khôn ngoan còn bên kia là ngu dốt; mình sẽ thắng còn nó sẽ thua”. Kể cả khi có một bên thắng thì phản ứng đầu tiên của bên thua sẽ là: "rồi sẽ gặp lại nhau, ta sẽ quay trở lại với những lời lẽ ghê gớm hơn, nắm đấm mạnh hơn và những quả bom to hơn. Rồi nhà ngươi sẽ biết tay, rồi nhà ngươi sẽ phải thay đổi rồi chúng ta sẽ có hòa bình vĩnh viễn". Đây là một ảo tưởng, nhưng hiếm người có thể tránh được. Bằng việc chỉ tập trung vào bản chất vấn đề mâu thuẫn chứ không phải người mà ta đang có mâu thuẫn, bạn sẽ dễ đạt tới một bầu không khí hợp tác.
Chúng ta cùng đối phó với vấn đề mâu thuẫn
Mâu thuẫn là mâu thuẫn
- Tập trung vào vấn đề mâu thuẫn, chứ không phải các cá nhân liên quan sẽ làm tăng sự hợp tác giữa hai bên
CHÚNG TA KHÔNG ĐỐI PHÓ VỚI NHAU
Bản chiếu 10
62 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 11
Nói: Nếu có thể xác định mâu thuẫn một cách khách quan, chứ không phải theo cách chủ quan (mà hầu hết chúng ra rơi vào), thì chắc chắn các bên sẽ đều nhận ra rằng họ cần giải quyết vấn đề theo một cách khác.
Các nhà xã hội học đã ghi nhận rằng trong khoảng 75% số những cuộc cãi vã đụng độ giữa các cặp vợ chồng thì chồng và vợ cãi nhau về hai vấn đề không liên quan gì đến nhau. Người chồng có thể lên cơn thịnh nộ về việc vợ nói hoặc làm sáng hôm đó. Người vợ lại rất tức giận vì một điều mà chồng nói hoặc làm cách đây đã 10 tuần. Họ không thể nào giải quyết được mâu thuẫn vì họ không biết thực ra mâu thuẫn đó là cái gì. “Đối với anh nó là cái này còn đối với chị nó là cái kia.”

Xác định mâu thuẫn một cách khách quan
- Nếu cả 2 bên có thể xác định họ đang mâu thuẫn về điều gì thì có nhiều khả năng họ sẽ giải quyết được mâu thuẫn vì họ có thể làm rõ được những điều hai bên còn chưa thống nhất
XÁC ĐỊNH MÂU THUẪN
Chương Vii – Bài 7.3 63
Nói: Lắng nghe một cách tích cực và ghi nhận những gì người kia đã nói. Nhu cầu cần phải lắng nghe đã quá rõ ràng, tuy nhiên lắng nghe tốt không phải là dễ dàng, nhất là khi chúng ta đang ở trong trạng thái căng thẳng vì cuộc đàm phán kéo dài. Lắng nghe sẽ giúp cho bạn hiểu được quan điểm của đối phương và cảm xúc của họ. Lắng nghe tích cực không chỉ cải thiện chất lượng những gì bạn nghe được mà còn cả những gì người kia nói. Nếu bạn tập trung lắng nghe và thỉnh thoảng dừng lại để nói một câu như, “Tôi hiểu điều anh nói nghĩa là như thế này có đúng không …?” thì đối phương sẽ nhận ra rằng bạn thực sự quan tâm đến những điều họ đang nói. Họ sẽ cảm thấy hài lòng vì ý kiến của họ được lắng nghe và được hiểu.
Mâu thuẫn sẽ gia tăng khi bạn cố gắng nói nhiều hơn lắng nghe
Lắng nghe tốt là một hành động biểu hiện sự quan tâm
Nếu bạn là người biết lắng nghe, bạn sẽ có nhiều bạn bè
Nếu bạn là người không biết lắng nghe, bạn sẽ có nhiều người quen
Về cấu tạo cơ thể, chúng ta có hai tai và chỉ một cái miệng vì thế chúng ta cần nghe nhiều hơn nói
LẮNG NGHE TÍCH CỰC, KHÔNG LẮNG NGHE THỤ ĐỘNG
Bản chiếu 12
64 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 13
Nói: Cách bạn nhìn nhận thế giới tùy thuộc vào vị trí của bạn. Thông thường chúng ta thường nhìn thấy những gì mà chúng ta mong muốn được nhìn thấy. Vậy nên, nhìn nhận sự việc từ góc nhìn của phía bên kia là vô cùng khó khăn. Nhưng nếu làm được thì đây là một kĩ năng quan trọng nhất các nhà đàm phán cần phải có. Vì vậy, bạn cần phải đặt mình vào vị trí của phía bên kia và cố hiểu xem họ hiểu vấn đề như thế nào, cảm giác và cảm xúc của họ ra sao, nhu cầu và mối quan tâm của họ là gì.
Cách bạn nhìn thế giới tùy thuộc vào vị trí của bạn.
Thông thường chúng ta thường nhìn thấy những gì mà chúng ta mong muốn được nhìn thấy.
Khả năng nhìn nhận sự việc từ góc nhìn của phía bên kia là vô cùng khó khăn. Nhưng nếu làm được thì đây là một kĩ năng quan trọng nhất các nhà đàm phán cần phải có.
ĐẶT MÌNH VÀO HOÀN CẢNH CỦA HỌ
Chương Vii – Bài 7.3 65
Bản chiếu 14
Nói: Cần nhận thức được rằng mỗi bên đều có thể có nhiều mối quan tâm và nhu cầu khác nhau. Điều này xuất hiện trong hầu hết các cuộc đàm phán. Mỗi bên có thể sẽ có nhiều mối quan tâm và nhu cầu khác bên còn lại. Đồng thời, nhu cầu của phía này có thể khác so với nhu cầu của phía kia. Vậy nên, việc quan trọng là 2 bên cần phải tìm hiểu cụ thể về mối quan tâm và nhu cầu của nhau để tìm xem họ có điểm gì chung hay không. Tinh thần hợp tác sẽ cao hơn nếu hai bên có nhiều nhu cầu giống nhau và dành nhiều thời gian cho những nhu cầu giống nhau hơn là những nhu cầu khác nhau.
Lập một danh sách để cụ thể hóa những mối quan tâm của mỗi bên. Làm như thế giúp ghi lại những mối quan tâm này trong quá trình tìm hiểu. Điều đó không những chỉ giúp bạn có thể nhớ được những nội dung đó mà nó còn giúp bạn đánh giá được chính xác hơn về những thông tin mới và sau đó sắp xếp ưu tiên cho các nhu cầu. Ngoài ra, khi viết ra như vậy cũng có thể kích thích bạn nghĩ ra các ý tưởng để đáp ứng những nhu cầu và mối quan tâm này.

Khả năng hai bên hợp tác sẽ cao hơn nếu cả hai bên cùng quan tâm đến sự bền vững của mối quan hệ nhiều hơn những yếu tố khác. Sự bền vững được thể hiện chính bằng những nhu cầu và mối quan tâm chung của cả hai bên
- Tập trung vào những điểm hai bên đã thống nhất
LẬP DANH SÁCH NHỮNG NHU CẦU VÀ MỐI QUAN TÂM CHUNG
Nói: Khôi phục lại hòa khí không thể thực hiện được trong một sớm một chiều. Khi mâu thuẫn xảy ra phải mất một quá trình dài thì khi giải quyết mâu thuẫn cũng phải mất một thời gian dài tương tự. Hãy bắt đầu bằng những điều nhỏ có thể thực hiện được, chứ không nên tập trung vào những việc lớn nhưng phức tạp và khó thực hiện.
Trong hầu hết các trường hợp, các mối quan hệ bị ảnh hưởng đầu tiên bởi những vấn đề nhỏ. Nhưng sau đó, việc phớt lờ vấn đề nhỏ đó sẽ làm tình hình ngày một xấu đi. Vấn đề sẽ trở nên lớn hơn nhiều so với bản chất của nó.

Khôi phục lại hòa khí không thể thực hiện được trong một sớm một chiều
Khi mâu thuẫn xảy ra phải mất một quá trình dài thì khi giải quyết mâu thuẫn cũng phải mất một thời gian dài tương tự
Hãy bắt đầu bằng những điều nhỏ có thể thực hiện được, chứ không nên tập trung vào những việc lớn nhưng khó làm
BẮT ĐẦU BẰNG NHỮNG VIỆC CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC
Bản chiếu 16
Nói: Rất nhiều người cảm thấy tức giận và hận thù sau khi có mâu thuẫn với người khác. Tha thứ để tiến về phía trước, hận thù chỉ làm chúng ta thụt lùi. Vì thế, hãy cố gắng nhìn về tương lai phía trước chứ không phải cứ đào xới mãi những hằn thù trong quá khứ.
Tha thứ để tiến về phía trước, hận thù chỉ làm chúng ta thụt lùi
PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG THA THỨ
Nói: Các bước giải quyết mâu thuẫn này không phải lúc nào cũng thành công vì đôi khi các đối tác bị tổn thương cảm xúc quá mạnh hoặc quá nhỏ nhen hẹp hòi nên không có cách gì để giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, hầu hết các mâu thuẫn có thể giải quyết được nếu cả hai bên đều biết cách sử dụng các chiến lược giải quyết mâu thuẫn một cách hợp lí.
Không!
Đôi khi các đối tác bị tổn thương cảm xúc quá mạnh hoặc quá nhỏ nhen hẹp hòi nên không có cách gì để giải quyết mâu thuẫn
Nhưng cũng rất nhiều mâu thuẫn đã giải quyết được là nhờ sử dụng các chiến lược giải quyết mà chúng ta đã học
LIỆU CÓ PHẢI CỨ THỰC HIỆN CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN NÀY THÌ CHẮC CHẮN SẼ THÀNH CÔNG?
Bản chiếu 17
Chương Vii – Bài 7.3 69
Bản chiếu 18
Hướng dẫn giảng dạy: Ôn lại những nội dung chính của bài
Nói: Bạn có thể thấy trong bài tập tình huống là giải quyết mâu thuẫn không phải là một công việc dễ dàng. Chúng ta đã cùng nhau đi một chặng đường trong bài học này từ việc tìm hiểu thế nào là mâu thuẫn cho đến thảo luận về ba cách thức phản ứng khi có mâu thuẫn và các bước giải quyết mâu thuẫn có hiệu quả. Chúng ta cũng nhận thấy một thực tế là không có cách tốt nhất cho mọi tình huống - chiến lược cần phải được điều chỉnh để phù hợp với mỗi tình huống khác nhau. Cuối cùng, chúng ta nối kết bài học này với một số nội dung liên quan khác trong khóa học (các kĩ năng tư vấn). Bài học này là bài mở đầu cho chủ đề giải quyết mâu thuẫn. Các bạn nên dành thời gian tìm hiểu thêm về chủ đề này, nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta cần phải áp dụng những kiến thức và kĩ năng này trong công việc và cuộc sống hàng ngày.
Hướng dẫn giảng dạy: Cảm ơn học viên vì đã chú ý lắng nghe và đặt các câu hỏi. Hỏi xem học viên có câu hỏi nào không và nếu có thì trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng, và đề nghị họ lưu lại những câu hỏi khác cho những bài giảng sau.
Xác định mâu thuẫn
- Các cách phản ứng phù hợp khi có mâu thuẫn
- Các bước giải quyết mâu thuẫn phù hợp
Thực hành
- Việc giải quyết mâu thuẫn tùy thuộc vào từng tình huống
- Có mối liên quan chặt chẽ giữa các kỹ năng tư vấn và giải quyết mâu thuẫn
TÓM TẮT
Tài liệu phát tay 7.1
Bài tập tình huống: Giải quyết mâu thuẫn
Bạn là con trai thứ hai của một gia đình có 3 anh em. Anh cả của bạn đã lập gia đình và có hai con. Do hoàn cảnh, gia đình của anh ở chung luôn một nhà với gia đình lớn, bao gồm: bố, mẹ, gia đình anh cả, bạn và cậu em út. Cả đại gia đình này đều sinh hoạt chung trong một mái nhà. Hai vợ chồng anh cả làm việc ở một công ty xuất nhập khẩu, bạn làm việc ở một khách sạn lớn, cậu em út thì đang đi học, còn bố mẹ thì đã già yếu. Cả nhà luôn sống rất thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Không may, khách sạn nơi bạn làm việc bị giải thể và hiện ban đang ở nhà chờ đợi 3 tháng nay nhưng vẫn chưa xin được việc làm mới. Kể từ khi sinh con, nhất là đến khi có cháu thứ hai, anh cả thỉnh thoảng yêu cầu bạn làm các công việc trong gia đình: giặt giũ quần áo, lau dọn nhà cửa, đi chợ, cơm nước - những việc mà bạn nghĩ rằng lẽ ra vợ của anh là người phải đảm nhiệm. Trong thời gian bạn đang chờ việc ở nhà, anh cả luôn có ý trông chờ bạn làm toàn bộ việc nhà. Đến một hôm, bạn có nhiều việc và cần phải đi vắng cả ngày và về nhà khi đã hơn 7 giờ tối. Gia đình anh trai cũng về muộn. Nhà cửa thì bừa bộn và bữa tối chưa có ai chuẩn bị. Anh trai bạn nổi cáu và to tiếng. Anh ấy nói hàm ý rằng bạn không đóng tiền sinh hoạt trong gia đình thì bù lại bạn phải sắp xếp thời gian hoàn thành các công việc nhà cho dù có bận việc khác. Bạn sẽ có những phản ứng về hành vi như thế nào đối với tình huống này? (chọn hành vi nào phản ánh đúng nhất và chân thật nhất đối với bạn).
Học viên sẽ viết các giải pháp của họ lên thẻ giấy.
Chương Vii – Bài 7.3 71
Bài tập tình huống: Cách giải quyết mâu thuẫn
Lưu ý: Nội dung sau đây chỉ dùng cho giảng viên tham khảo, không phát cho học viên. Sau khi học viên đưa ra những giải pháp của họ (viết lên thẻ giấy), yêu cầu họ dán lên bảng và giảng viên tiến hành sắp xếp những thẻ giấy đó theo 3 cột tương ứng với: đối đầu, né tránh và hợp tác.
A. Bạn nghĩ rằng bạn đã chịu đựng và hy sinh trong một thời gian quá dài và đã đến lúc cần phải lên tiếng với anh trai cả. Bạn nói “Việc gia đình nội trợ là phải do chị dâu đảm nhiệm chứ không phải là việc của em. Nếu anh chị không chịu đựng được thì có thể chuyển đi nơi khác để ở.”
Nếu bạn chọn cách phản ứng này thì nghĩa là bạn chọn giải pháp đối đầu. Bạn tập trung cho mục đích đạt được mong muốn và nhu cầu của bản thân chứ không quan tâm nhiều đến suy nghĩ và nhu cầu của đối tác. Đặc điểm của phong cách này thể hiện ở cách nói to, mạnh, hùng hổ và không dành thời gian để lắng nghe (Thắng/Thua).
B. Bạn lẳng lặng chuẩn bị bữa tối cho cả nhà. Tuy nhiên trong lòng bạn lại cảm thấy ấm ức khó chịu và ước giá như mình có thể đủ dũng khí để nói với anh trai rằng tất cả mọi người trong gia đình đều phải có đóng góp công sức làm việc nhà chứ không phải chỉ có một mình bạn. Sau đó, bạn về phòng của mình nằm nghỉ và bỏ bữa ăn tối hôm đó. Những ngày hôm sau, bạn thường tránh mặt anh trai.
Nếu bạn chọn cách phản ứng này thì nghĩa là bạn chọn giải pháp né tránh. Bạn né tránh không muốn nói ra những sự khác nhau về quan điểm của hai phía, hoặc thậm chí bạn còn không thừa nhận là đang có mâu thuẫn. Vì hai bên không hoặc ít tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau nên vấn đề sẽ không bao giờ được giải quyết (Thua/Thua).
C. Bạn bắt tay vào chuẩn bị bữa tối cho cả nhà. Ngày hôm sau, bạn nói chuyện riêng với anh trai và chị dâu với mong muốn xây dựng quan hệ thuận hòa giữa các anh em trong nhà trên tinh thần giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau. Bạn trao đổi với anh trai về những kế hoạch sắp tới của bạn trong việc tìm kiếm việc làm. Bạn lắng nghe suy nghĩ của anh trai và chị dâu. Bạn cũng nói rằng trong thời gian rảnh rỗi, bạn sẵn sàng giúp đỡ anh cả và chị dâu trong việc nhà và chăm sóc các cháu. Tuy nhiên, những lúc anh chị rảnh rỗi cũng cần phải chia sẻ trách nhiệm chung trong gia đình chứ không nên ỷ lại vào bạn. Cuối cùng, bạn đồng ý là sẽ cùng lập một thời gian biểu với chị dâu và anh trai về việc hỗ trợ nhau trong việc nhà theo từng tuần, kể cả khi sau này bạn đã tìm được một việc làm mới.
Nếu bạn chọn cách phản ứng này thì bạn là người giải quyết mâu thuẫn trên tinh thần hợp tác. Bạn nói rõ và cụ thể về nhu cầu và những mong muốn của bản thân, trong khi vẫn lắng nghe và tôn trọng những nhu cầu và những mong muốn của đối tác. Bạn cố gắng tìm cách tốt nhất để nhìn bức tranh trên diện rộng và mong muốn mối quan hệ giữa hai bên luôn tốt đẹp, mà vẫn giải quyết được vấn đề mấu chốt (Thắng/Thắng).

7.4 Làm việc với khách hàng đang say/phê
Bài 74 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
TỔNG QuAN
I. Giới thiệu 5 phút
Giải thích với học viên rằng trong bài này bạn sẽ thảo luận về cách làm việc với khách hàng
đang say/phê
II. Thuyết trình 65 phút
Sử dụng các bản chiếu và hoạt động đóng vai để hướng dẫn cho học viên các nội dung cơ
bản về xử trí với khách hàng có hành vi say/phê.
III. Kết luận 10 phút
Nhắc lại các điểm chính trong bài và trả lời câu hỏi của học viên (nếu có).
Bài 7.4: Làm việc với khách hàng đang say/phê
Mục đích:
Giúp học viên hiểu được các nội dung cơ bản về say/phê và hướng dẫn học viên cách nhận biết các mức độ say/phê và xử trí khi khách hàng có hành vi say/phê.
Thời gian: 80 phút
Mục tiêu:
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
‚ Định nghĩa được tình trạng say/phê và tác động của nó
‚ Nhận biết được các biểu hiện say/phê ở nhiều cấp độ khác nhau
‚ Nêu được các quy tắc làm việc với khách hàng đang say/phê
‚ Thực hành xử trí khi gặp khách hàng say/phê
Phương pháp:
‚ Thuyết trình
‚ Đóng vai
Dụng cụ trợ giảng:
‚ Các bản chiếu PowerPoint
‚ Máy chiếu và màn chiếu
‚ Bảng lật và giấy khổ lớn
‚ Bút dạ màu
Chương Vii – Bài 7.4 75
Bản chiếu 1
Hướng dẫn giảng dạy: Hỏi học viên xem có ai trong số họ đã từng làm việc với khách hàng đang say/phê không. Nếu có, hãy hỏi học viên đó xem đã làm gì trong tình huống đó. Dành thời gian cho học viên đưa ra ý kiến.
Nói: Bây giờ chúng ta sẽ cùng thảo luận về các biện pháp xử trí khi gặp khách hàng phê thuốc.
LÀM VIỆC VỚI KHÁCH HÀNG ĐANG SAY/PHÊ
76 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 2
Hướng dẫn giảng dạy: Trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu
Kết thúc bài học này, học viên sẽ có khả năng:
Định nghĩa được tình trạng say/phê và tác động của nó
Nhận biết được các biểu hiện say/phê ở nhiều cấp độ khác nhau
Nêu được các nguyên tắc làm việc với khách hàng đang say/phê
Thực hành xử trí khi gặp khách hàng say/phê
MỤC TIÊU BÀI HỌC
Chương Vii – Bài 7.4 77
Bản chiếu 3
Nói: Hiện tượng những người SDMT bị say/phê (sau đây gọi chung là phê) do sử dụng ma túy và/ hoặc rượu khi đến cơ sở tư vấn là khá phổ biến. Các triệu chứng phê gồm có: thay đổi nhận thức, hành vi, cảm giác, ý niệm, trạng thái tình cảm và/ hoặc suy nghĩ ở người SDMT. Vì thế, rất khó có thể trao đổi bất kỳ điều gì, đặc biệt là những nội dung phức tạp với những khách hàng đang phê.
Những tác động do tình trạng phê bao gồm:

‚ Thay đổi tình trạng tâm thần, có thể dẫn đến chấn thương hoặc tai nạn
‚ Thay đổi hành vi, tâm trạng và suy nghĩ
‚ Có thể gây nguy hiểm cho bản thân và những người xung quanh
‚ Không có khả năng đưa ra được quyết định logic và chính xác
Cố gắng thảo luận sâu về một điều nào đó có thể khiến tình huống trở nên tồi tệ hơn. Khách hàng phê có thể sẽ rất khó chịu nếu bạn cứ cố gắng nói chuyện với họ. Hãy nhớ lại xem khi bạn cố nói chuyện với một người đang say rượu: bạn đã thấy suy nghĩ của họ biến đổi thế nào khi đang say.
Tư vấn trong giai đoạn này có thể chỉ lãng phí thời gian. Vì vậy, bạn cần tìm hiểu xem khách hàng bị phê vì loại ma túy nào và mức độ phê để có những biện pháp xử lí phù hợp.

Những thay đổi tình trạng tâm thần do phê thuốc
có thể gây ra chấn thương hoặc tai nạn
Cũng ảnh hưởng đến hành vi, tâm trạng và suy nghĩ
Cố gắng thảo luận sâu về một điều gì đó có thể khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn
Một người trong trạng thái phê có thể không đưa ra được quyết định logic và chính xác
- Tư vấn trong giai đoạn này có thể chỉ lãng phí thời gian
TÌNH TRẠNG SAY/PHÊ
78 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 4
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu. Hỏi học viên xem đã ai từng tiếp đón một khách hàng đang trong tình trạng phê chưa. Yêu cầu học viên mô tả các dấu hiệu của một người phê ở mức độ trung bình. Ghi lại các ý kiến của học viên lên giấy khổ lớn, sau đó chiếu nội dung của bản chiếu.
Nói: Bạn có thể xác định mức độ phê của khách hàng qua quan sát hành vi của họ. Người đang phê có thể:
‚ Nói to hoặc ở trong tình trạng kích động
‚ Đòi hỏi/ra lệnh
‚ Đe dọa
‚ Xâm phạm không gian riêng tư (không gian riêng tư thường là khoảng không trong bán kính một cánh tay). Khi khách hàng phê, họ có xu hướng xâm phạm không gian riêng tư đó và làm cho bạn cảm thấy khó chịu.
‚ Không theo hoặc lờ đi những chỉ dẫn, bất kể bạn nhắc đi nhắc lại thật chậm rãi, rõ ràng đến đâu đi nữa
‚ Mắt lờ đờ
‚ Bắt đầu có biểu hiện bạo lực về thể chất
‚ Cố gắng tự tử hoặc đe dọa làm hại chính họ
Nói to hoặc ở trong tình trạng kích động
Đòi hỏi/ra lệnh
Chiếm chỗ của bạn
Không theo hoặc lờ đi những chỉ dẫn
Đe dọa
Xuất hiện các hành vi bạo lực
Cố gắng tự tử hoặc đe dọa làm hại chính họ
Mắt lờ đờ
NHỮNG BIỂU HIỆN PHÊ MỨC ĐỘ TRUNG BÌNH
Chương Vii – Bài 7.4 79
Hướng dẫn giảng dạy: Chỉ chiếu trước tiêu đề của bản chiếu 5. Hỏi học viên xem đã ai từng tiếp đón một khách hàng đang trong tình trạng phê rất nặng chưa. Yêu cầu học viên mô tả các dấu hiệu của một người phê ở mức độ nặng. Ghi lại các ý kiến của học viên lên giấy khổ lớn, sau đó chiếu nội dung của bản chiếu.
Nói: Bạn có thể thấy những hành vi phê mức độ nặng ở người say rượu:
‚ Lẫn lộn
‚ Mất phương hướng
‚ Nói líu lưỡi hoặc lảm nhảm
‚ Có những đáp ứng không phù hợp về mặt tình cảm và hành vi
‚ Thay đổi tình trạng nhận thức
‚ Phối hợp vận động kém
Một số vấn đề chính cần quan tâm khi tiếp xúc với những người phê ở mức độ cao là nguy cơ hung hăng, quá liều/ngộ độc, và sự an toàn và sức khỏe của khách hàng.
Sau đây là những triệu chứng phê của một số loại chất gây nghiện chính:

Phê rượu
‚ Có những hành vi không phù hợp hoặc thay đổi tâm lí:
- Kém kiểm soát hành vi tình dục
- Hung hăng
- Tranh luận không hợp lí

Bản chiếu 5
Lẫn lộn
Mất phương hướng
Nói nhịu/líu lưỡi hoặc lảm nhảm
Có những đáp ứng không phù hợp về cảm xúc và hành vi
Thay đổi trạng thái nhận thức
Kém phối hợp động tác
NHỮNG BIỂU HIỆN HÀNH VI PHÊ Ở MỨC ĐỘ NẶNG
80 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
‚ Các triệu chứng khác:
- Líu lưỡi
- Bước đi loạng choạng
- Kém tập trung
- Mắt lờ đờ hoặc bất tỉnh
- Có mùi rượu

Phê các dẫn chất thuốc phiện (bao gồm heroin)
‚ Gà gật
‚ Ngáy
‚ Sụp mi mắt
‚ Nói nhịu
‚ Các triệu chứng khác:
- Đồng tử thu nhỏ
- Buồn ngủ hoặc bất tỉnh
- Líu lưỡi
- Giảm khả năng tập trung
- Mất trí nhớ

Phê các chất kích thích dạng amphetamine
‚ Hành vi hung hăng
‚ Lo âu
‚ Hưng phấn thái quá
‚ Dễ xúc động
‚ Hoang tưởng
‚ Các triệu chứng khác:
- Tăng nhịp tim
- Tăng huyết áp
- Giãn đồng tử

Phê cần sa
‚ Hành vi không phù hợp hoặc suy nghĩ chậm
‚ Cảm giác sung sướng
‚ Lo lắng
‚ Cảm thấy thời gian trôi đi chậm hơn
‚ Các biểu hiện khác:
- Mắt đỏ

Bản chiếu 5 (tiếp)
Chương Vii – Bài 7.4 81
Bản chiếu 5 (tiếp)
Phê thuốc ngủ và các chất an thần khác
‚ Hành vi không phù hợp hoặc thay đổi nhân cách
‚ Đáp ứng tâm thần chậm
‚ Cảm xúc không ổn định
‚ Các biểu hiện khác:
- Giọng nói lè nhè
- Mất phối hợp động tác
- Kém tập trung

82 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 6
Nói: Rượu và ma túy không phải là những yếu tố duy nhất tác động đến hành vi của con người.
Trong khi tác động gây mất kiểm soát của rượu và các chất gây nghiện khác là rất mạnh, vẫn còn các yếu tố khác có thể ảnh hướng đến hành vi của khách hàng:

‚ Sợ hãi
‚ Tức giận
‚ Đau đớn về thể chất
‚ Tổn thương về cảm xúc
‚ Thái độ của bạn đối với họ
Hướng dẫn giảng dạy: Một số yếu tố khác sẽ được trình bày ở bản chiếu tiếp theo Ngoài tác động gây mất kiểm soát của rượu hoặc ma túy khác, các yếu tố ảnh hưởng khác bao gồm:
Sợ hãi
Tức giận
Đau đớn thể chất
Tổn thương về cảm xúc
Thái độ của bạn đối với họ
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI CỦA NGƯỜI PHÊ (1)
Chương Vii – Bài 7.4 83
Nói: Các yếu tố khác gồm:
‚ Gây chú ý
‚ Thiếu thuốc
‚ Loạn thần
‚ Mong đợi cá nhân và xã hội về hành vi khi phê
Bản chiếu 7
Gây chú ý
Loạn thần
Mong đợi cá nhân và xã hội về hành vi khi phê
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI CỦA NGƯỜI PHÊ (2)
84 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Khi bạn gặp khách hàng đang trong tình trạng phê, trước tiên hãy tự giới thiệu tên mình, rồi hỏi tên khách hàng.
Nói bằng giọng nói trầm đều, bình tĩnh. Người sử dụng ma túy trong khi phê dễ bị lẫn lộn, vì vậy tư vấn viên cần nói chậm rãi, bình tĩnh để họ cảm thấy an toàn. Nếu khách hàng nhận thấy tư vấn viên bối rối và lo lắng thì nhiều khả năng họ sẽ thể hiện những hành vi đe dọa.
Ngay cả khi bạn bị đe dọa thì cũng đừng tỏ ra sợ hãi.
Không dùng những từ ngữ mà khách hàng có thể không hiểu. Luôn sử dụng những từ ngữ đơn giản khi nói với người đang phê.
Nếu bạn lớn tiếng hoặc ra lệnh cho khách hàng, tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Bản chiếu 8
Tự giới thiệu tên bạn và hỏi tên khách hàng
Chủ động bắt tay họ
Nói bằng giọng nói trầm đều, bình tĩnh
Nếu bạn bị đe dọa, đừng tỏ ra lo lắng
Không dùng những từ mà người đó có thể không hiểu
Đừng lớn tiếng hoặc ra lệnh
XỬ TRÍ KHI KHÁCH HÀNG CÓ HÀNH VI PHÊ (1)
Chương Vii – Bài 7.4 85
Bản chiếu 9
Nói: Luôn nói với giọng thật trầm và ôn hòa. Nói chậm rãi và rõ ràng, Giữ bình tĩnh, thả lỏng cơ thể và tập trung. Không nên có các hành động mang tính hăm dọa, ví dụ như không đứng khi khách hàng đang ngồi. Luôn giữ khoảng cách an toàn giữa mình và khách hàng.
Bạn cũng cần để ý đến hình ảnh của mình trong con mắt của khách hàng. Điều quan trọng là bạn phải tỏ ra mình là người đáng tin cậy và thực sự quan tâm đến khách hàng và hoàn cảnh của họ. Điều đó có thể giúp cải thiện tình hình.
Trong trường hợp phòng tư vấn của bạn quá ồn, bạn có thể đề nghị khách hàng chuyển đến địa điểm yên tĩnh hơn để giảm tình trạng lẫn lộn của họ. Điều đó có thể giúp người phê bình tĩnh lại. Tuy nhiên, cần phải chú ý là luôn có người hỗ trợ bạn khi bạn đưa họ đến một nơi yên tĩnh, vắng vẻ.

Bình tĩnh, thư giãn và tập trung
Không có các động tác hăm dọa (VD: đứng khi họ đang ngồi)
Cần biết mình xuất hiện như thế nào trong con mắt của họ
- Cần khiến cho họ có cảm giác bạn là người đáng tin cậy và là người quan tâm đến họ
Nếu được, hãy gặp họ ở một nơi yên tĩnh
- Môi trường yên tĩnh có thể giúp người phê bình tĩnh trở lại
XỬ TRÍ KHI KHÁCH HÀNG CÓ HÀNH VI PHÊ (2)
86 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Không nên mời khách hàng đang phê uống đồ nóng như trà nóng, cà phê nóng vì họ có thể hắt nước đó vào người bạn hoặc đổ vào người họ.
Nếu người đó rất phê, bạn chỉ cần thu thập những thông tin cần thiết nhất.
Không phán xét hoặc rao giảng đạo đức khi làm việc với khách hàng phê, nếu không họ sẽ rất tức giận. Nếu bạn nhận thấy khách hàng đang phê rất nặng thì chỉ cần nói những điều cần thiết mà thôi. Nếu khách hàng có vẻ không hiểu thì bạn có thể phải nhắc đi nhắc lại thông tin nhiều lần với họ. Đừng ra vẻ bề trên và đối xử với họ như với kẻ thấp kém hơn.

Bản chiếu 10
Không mời họ các đồ uống nóng như cà phê
Nếu khách hàng rất phê, chỉ cần thu thập những thông tin cần thiết
Không phán xét hoặc lên lớp đạo đức khi làm việc với khách hàng phê
Thái độ lên mặt dạy đời cũng có thể làm họ tức giận
XỬ TRÍ KHI KHÁCH HÀNG CÓ HÀNH VI PHÊ (3)
Chương Vii – Bài 7.4 87
Bản chiếu 11
Nói: Cần đảm bảo tính thống nhất khi cung cấp thông tin cho khách hàng. Bạn có thể cần phải nhắc lại thông tin một vài lần. Cố gắng tránh đưa ra những lời khuyên trái ngược nhau và đừng hứa hẹn điều gi khi mà bạn không có ý định giữ lời hứa.
Bạn có thể yêu cầu họ quay lại vào buổi chiều hoặc sáng hôm sau khi họ đã bớt phê và sẵn sàng nhận dịch vụ tư vấn.

Cần thống nhất khi cung cấp thông tin
- Bạn có thể cần phải nhắc lại thông tin một vài lần
- Cố gắng tránh đưa ra những lời khuyên trái ngược nhau
Đừng hứa hẹn điều gì khi mà bạn không có ý định giữ lời hứa
XỬ TRÍ KHI KHÁCH HÀNG CÓ HÀNH VI PHÊ (4)
88 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Khách hàng đang phê có thể cảm thấy rối rắm, khó hiểu nếu bạn hỏi họ quá nhiều câu hỏi. Vì thế, bạn nên giải thích trước lí do vì sao bạn cần tìm hiểu những thông tin đó.
Một câu hỏi hay mà bạn có thể sử dụng là hỏi xem họ đã sử dụng bao nhiêu ma túy, vì nó giúp bạn đánh giá xem mức độ phê của khách hàng có tương ứng với lượng ma túy mà họ đã sử dụng hay không.
Giải thích lí do cần đánh giá tình trạng phê

‚ Đánh giá xem liệu mức độ phê/ say có phù hợp với lượng ma túy đã sử dụng không
‚ Tham khảo ý kiến bác sỹ nếu mức độ phê/say quá nặng so với mức độ sử dụng mà khách hàng thông báo.
Bản chiếu 12
Giải thích tại sao bạn cần phải hỏi một số câu hỏi
Giữ thái độ thấu cảm và không phán xét
Cung cấp thông tin đơn giản và trả lời trung thực, chính xác các câu hỏi
Xác định mức độ phê
- Ước tính lượng rượu/ma túy đã sử dụng
- Làm như vậy sẽ giúp họ điều chỉnh giảm dần lượng sử dụng
KĨ NĂNG PHỎNG VẤN (1)
Chương Vii – Bài 7.4 89
Bản chiếu 13
Nói: Nhớ là chỉ đặt các câu hỏi mở và sử dụng kĩ năng lắng nghe và phản hồi với khách hàng phê khi có thể. Trong một số trường hợp, bạn cần sử dụng câu hỏi đóng và nhanh chóng kết thúc buổi tư vấn.
Có thể phỏng vấn người nhà khách hàng để ước tính lượng ma túy họ đã sử dụng
Chỉ sử dụng kĩ năng lắng nghe có phản hồi và câu hỏi mở khi có thể
Tóm tắt nội dung bạn đã thảo luận với họ
Kiểm tra xem họ muốn làm gì hoặc chuẩn bị làm việc gì
Chỉ phỏng vấn ngắn nếu quá phê/say
Dành thời gian để gặp họ khi họ không phê/say
Thảo luận về hành vi của họ khi họ không phê/say
KĨ NĂNG PHỎNG VẤN (2)
90 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Nói: Những hành vi bạo lực là không thể chấp nhận được. Bạn cần tuyên bố rõ ràng điều này với khách hàng. Nếu một khách hàng đang phê đánh người khác, tư vấn viên phải nói ngay với họ rằng đánh người là không chấp nhận được, và nếu họ cứ tiếp tục thì các nhân viên sẽ gọi công an.
Có những người có biểu hiện phê nhưng không phải là do sử dụng ma túy. Những biểu hiện bên ngoài cho thấy là họ là người bị phê ma túy nhưng thực tế có thể họ có những vấn đề sức khỏe như chấn thương đầu, tổn thương tinh thần, hoặc đang sử dụng thuốc khác... Trong trường hợp này, tư vấn viên cần giới thiệu họ đi khám bệnh hoặc chuyển đến các trung tâm y tế để họ được điều trị.
Một cách để phân biệt là nhìn vào đồng tử mắt của họ để so sánh kích thước đồng tử có phù hợp với loại ma túy họ đã sử dụng không. Đồng tử có co nhỏ hay giãn rộng không? Nếu kích thước đồng tử ở hai mắt không đều thì có thể khách hàng đã bị chấn thương nặng ở đầu và cần phải chuyển đến cơ sở y tế.
Một điều các bạn cần ghi nhớ là cách làm việc với người phê cũng gần giống như cách làm việc với người hung hăng. Cần nói chậm rãi, rõ ràng, bình tĩnh, và giọng trầm để giúp họ hiểu.

Bản chiếu 14
Không tha thứ cho các hành vi bạo lực
- Mọi người phải chịu trách nhiệm với hành vi của họ, cho dù họ đang phê
- Gọi công an khi cần thiết
Xem xét những lí do khác dẫn đến tình trạng phê
- Xem xét khả năng bị chấn thương, chấn động tâm lí hay bị ốm
• Những vấn đề này có thể làm tình hình phức tạp hơn
NHỮNG ĐIỀU CẦN QUAN TÂM KHÁC
Chương Vii – Bài 7.4 91
Bản chiếu 15
Hướng dẫn giảng dạy: Chia học viên thành các nhóm 3 người. Đề nghị các nhóm phân công vai trò của từng thành viên theo hướng dẫn trên bản chiếu: một người đóng vai khách hàng đang phê, người thứ hai đóng vai tư vấn viên, còn người thứ ba quan sát. Người đóng vai khách hàng cần thể hiện mình đang trong tình trạng lẫn lộn và kích động trong khi được tư vấn viên đánh giá nhu cầu và lập kế hoạch hành động. Người quan sát sẽ ghi chép lại các hành vi và đáp ứng của cả hai người kia. Yêu cầu các nhóm thực hành đóng vai trong 5 phút, sau đó mỗi nhóm cử một thành viên chia sẻ với cả lớp về phần thực hành của nhóm mình. Nội dung này được thực hiện trong 10 phút.
Nhóm 3 người
Vai thứ 1: Khách hàng đang phê, lẫn lộn, kích động
Vai thứ 2: Tư vấn viên đánh giá nhu cầu và hành động tiếp theo
Vai thứ 3: Quan sát viên theo dõi hành vi và các đáp ứng
ĐÓNG VAI
92 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên
Bản chiếu 16
Hướng dẫn giảng dạy: Nhắc lại những nội dung quan trọng của bài bằng cách trình bày trực tiếp nội dung bản chiếu.
Cảm ơn học viên vì đã tham gia thảo luận tích cực và đặt các câu hỏi. Hỏi xem họ muốn hỏi điều gì nữa không. Trong trường hợp họ có câu hỏi, trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung bài giảng này. Những câu liên quan đến bài sau, đề nghị họ ghi lại câu hỏi để trả lời ở bài sau.
Phê/say ma túy ảnh hưởng đến khả năng hiểu và nhớ thông tin
Cố thảo luận chi tiết có thể làm cho tình huống xấu đi
Có các dấu hiệu và triệu chứng giúp xác định mức độ phê/say
Các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến hành vi (ngoài tình trạng phê/say)
- Cần cân nhắc và loại bỏ các yếu tố này
Có các biện pháp bằng lời và không lời giúp xoa dịu tình thế
- Giúp bạn thảo luận về các lựa chọn trong tương lai với khách hàng
Tư vấn viên nên mời khách hàng quay lại để được tư vấn vào một buổi khác nhằm tránh những phản ứng tiêu cực
Hành vi bạo lực không được tha thứ
TÓM TẮT
giải thích từ ngữ 93
Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ

THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Bảo mật Giữ bí mật có chủ định Chủ định giữ bí mật để bảo vệ và đảm bảo sự an toàn cho khách hàng
Bất đồng Thể hiện một ý kiến khác biệt
Can thiệp Hành động được thực hiện để cải thiện tình hình
Câu hỏi đóng Câu hỏi mà câu trả lời phải nằm trong giới hạn các phương án trả lời nhất định
Câu hỏi mở Câu hỏi mà câu trả lời của nó không nằm trong một giới hạn cụ thể nào
Chăm sóc liên tục Sự sẵn có đầy đủ các dịch vụ can thiệp về ma túy và rượu phù hợp với nhu cầu đặc thù của khách hàng trong suốt quá trình điều trị và phục hồi
Chất gây nghiện hướng thần Một chất có tính chất dược lý làm thay đổi tâm trạng, hành vi và nhận thức
Chỉnh khung Thay đổi hoặc thể hiện từ ngữ, khái niệm hoặc kế hoạch theo cách khác
Chú ý Lắng nghe nội dung bằng lời, quan sát cử chỉ không lời và cung cấp phản hồi để cho thấy rằng bạn đang lắng nghe
Diễn đạt Trình bày ý nghĩa của một điều gì đó mà một người đã viết/nói bằng ngôn từ khác, đặc biệt là làm rõ nghĩa hơn
Diễn giải Hiểu rõ ý nghĩa cụ thể hoặc tầm quan trọng một hành động, tâm trạng hoặc cách cư xử
Diễn giải quá mức Chú trọng quá nhiều vào một câu trả lời cụ thể của khách hàng
94 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Dự phòng Cung cấp lý thuyết và phương tiện để trì hoãn hoặc từ chối sử dụng ma túy cho một số nhóm người. Mục tiêu dự phòng là bảo vệ các cá nhân trước khi họ có những dấu hiệu, triệu chứng của những vấn đề do sử dụng ma túy; xác định một người nào đó còn ở giai đoạn sớm của quá trình sử dụng ma túy để can thiệp; và chấm dứt tình trạng buộc phải sử dụng ma túy thông qua điều trị
Đe dọa Khiến một người nào đó rơi vào trạng thái dễ có nguy cơ
Điều chỉnh hành vi Là việc áp dụng các kỹ thuật có điều kiện (khen thưởng hoặc trừng phạt) để giảm hoặc xóa bỏ hành vi có hại hoặc dạy cho người ta cách đáp ứng mới
Đồng cảm Đồng ý với một tình cảm hay ý kiến
Đồng lõa Sự hợp tác hoặc thông đồng bí mật hoặc bất hợp pháp Đồng lõa trong tư vấn: thông đồng với người khác để hạn chế lợi ích của khách hàng; giữ im lặng/ không can thiệp khi khách hàng nói hoặc làm một điều (tư vấn viên) biết là vi phạm đạo đức/vi phạm pháp luật
Đối kháng Thuyết phục (một người) đối mặt với hoặc xem xét lại một điều gì đó Mở rộng (hoặc thách thức) nhận thức của khách hàng qua các câu hỏi tập trung vào những mâu thuẫn thực sự hoặc tiềm ẩn trong cách suy nghĩ và giao tiếp không thống nhất, không lô-gíc của khách hàng
Độ tin cậy Mức độ chất lượng tốt hoặc thực hành tốt một cách thống nhất của một điều gì đó
Giám sát Quan sát và hướng dẫn thực hiện một nhiệm vụ, hoạt động Quá trình theo dõi, đánh giá và tăng cường chất lượng của tư vấn viên về lâm sàng, hành chính và lượng giá
Khách hàng Các cá nhân, những người quan trọng khác, nhân viên cộng đồng, những người nhận dịch vụ giáo dục, dự phòng, can thiệp, điều trị sử dụng ma túy, rượu và tham vấn
giải thích từ ngữ 95 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Khách hàng là trọng tâm Được thực hiện theo cách tương tác phù hợp với nhu cầu của khách hàng Một phương pháp tư vấn cho phép khách hàng làm chủ được những vấn đề cần trao đổi của họ và phát triển khả năng thay đổi hành vi của họ
Khả năng phục hồi cá nhân Khả năng tự đứng vững hoặc hồi phục từ những tình huống khó khăn họ gặp trước đó
Khen ngợi/ khẳng định Là hành động khẳng định một sự việc với bằng chứng; khẳng định mạnh mẽ Là đồng ý với những gì khách hàng chia sẻ theo cách tích cực
Không phán xét Tránh tranh cãi về các vấn đề liên quan đến đạo đức
Khơi gợi Hỏi thêm thông tin và/hoặc làm rõ thêm về một điểm mà bạn cho là quan trọng
Kiêng khem Chất lượng hay tình trạng kiêng sử dụng chất gây nghiện hướng thần
Kỹ năng Khả năng thực hiện tốt một việc gì đó; thành thạo
Kỹ thuật Một cách thực hiện một yêu cầu cụ thể
Lắng nghe có phản hồi Lắng nghe cẩn thận những gì khách hàng đã nói và nhắc lại những điều họ đã nói theo cách có định hướng
Lên mặt đạo đức Đối phó với sự phản kháng trước yêu cầu thay đổi của một khách hàng bằng cách lựa theo định hướng của khách hàng nhưng đưa ra những phản hồi để giảm bớt sự phản kháng của họ
Lý thuyết thay đổi hành vi Một lý thuyết cho rằng thay đổi hành vi không chỉ diễn ra theo một bước mà nó thường diễn ra qua nhiều giai đoạn trước khi thay đổi thành công; mỗi người thành công qua các giai đoạn thay đổi ở mức độ riêng của họ
96 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Mối quan hệ Một mối quan hệ gần gũi và hòa hợp trong đó một người hoặc nhóm người hiểu được lo lắng và cảm xúc hay suy nghĩ của nhau và giao tiếp tốt với nhau
Mối quan hệ trị liệu Mối quan hệ giữa chuyên gia sức khỏe tâm thần và một khách hàng, một phương tiện mà chuyên gia hy vọng có thể tham gia vào và tác động để khách hàng thay đổi
Mục đích Mục tiêu tham vọng hoặc nỗ lực của một người; một cái đích hoặc kết quả mong đợi
Năng lực bản thân Tin vào năng lực của chính khách hàng trong thực hiện một nhiệm vụ hoặc hoàn thành mục tiêu nào đó
Nghiện Là sự thèm muốn thôi thúc sử dụng rượu/ma túy mạnh mẽ cả về thể chất và cảm xúc bất chấp sự nhận thức rõ ràng về tác hại của nó; có sự gia tăng độ dung nạp đối với ma túy và sự xuất hiện của hội chứng cai nếu ngừng sử dụng ma túy đột ngột; và ma túy trở thành trọng tâm của cuộc sống.
Nguy cơ Một tình huống khiến bị rơi vào trạng thái nguy hiểm
Nguyên tắc Một nguồn lực cơ bản hoặc nền tảng thực hiện một điều gì đó
Những người quan trọng Bạn tình, người thân trong gia đình, hoặc những người mà khách hàng đó phụ thuộc vào họ để thỏa mãn nhu cầu cá nhân
Phán xét Hình thành một ý kiến hoặc kết luận về một điều gì đó Hình thành một ý kiến về một điều gì đó và quy chụp điều đó với những người khác
Phản hồi đơn Nhắc lại nguyên văn hoặc diễn đạt lại những gì khách hàng nói
Phản hồi hai chiều Phản hồi cả về hiện tại, câu nói mang tính phản kháng, và và trước đó, câu nói mâu thuẫn với những gì mà khách hàng đã nói
giải thích từ ngữ 97 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Phản hồi hiệu chỉnh Thông tin về phản ứng trước một hành vi/hoạt động của một người nhằm điều chỉnh hoặc cải thiện hành vi của họ
Phân biệt đối xử Cách cư xử bất công hoặc gây tổn hại cho những nhóm người nhất định, thường liên quan đến sự khác biệt như dân tộc, giới, …
Phỏng vấn tạo động lực Một phương pháp lấy khách hàng làm trung tâm, mang tính dẫn dắt nhằm tăng cường động lực bên trong để thay đổi hành vi bằng cách chỉ ra sự không nhất quán và tìm hiểu, giải quyết những điều còn mơ hồ đối với khách hàng
Phủ nhận/chối bỏ Hành động tuyên bố rằng một điều gì đó không đúng Không thừa nhận một sự thật hoặc cảm xúc hoặc thừa nhận một điều gì đó trong vô thức; sử dụng phủ nhận như cơ chế tự vệ
Quy trình Được thiết lập hoặc một cách chính thức để thực hiện một việc gì đó
Quyền tự quyết Không bị kiểm soát bởi các yếu tố bên ngoài; độc lập Tôn trọng khả năng tự suy nghĩ, hành động và ra quyết định của khách hàng
Ra lệnh Yêu cầu hoặc chỉ dẫn mang tính áp đặt
Rập khuôn Sử dụng quá nhiều một cụm từ hoặc thành ngữ. Điều đó cho thấy người nói hiểu biết hạn chế về lĩnh vực đó.
Suy kiệt Tình trạng suy sụp thể chất hoặc tinh thần do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần Giảm động lực, hứng thú và nhiệt huyết, giảm khả năng bền bỉ và thường là giảm hiệu quả ở tư vấn viên do làm việc quá sức hoặc căng thẳng tinh thần
98 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Suy nghĩ trừu tượng Là những suy nghĩ không dựa trên những dẫn chứng cụ thể mà dựa trên lý thuyết Là khả năng suy nghĩ về một điều gì đó theo nhiều góc độ khác nhau
Sự đồng cảm Sự hiểu biết giữa hai người; một cảm xúc chung do bạn đã từng trải nghiệm một sự kiện giống như vậy hoặc tương tự
Sử dụng chất gây nghiện Sử dụng liều thấp và/hoặc không liên tục các loại ma túy, rượu, đôi khi được gọi là “dùng thử,” “dùng chơi,” hoặc “dùng khi gặp bạn bè,” với những hình thức sử dụng này, hậu quả có hại có thể hiếm gặp hoặc không đáng kể
Sử dụng có hại Hình thái sử dụng rượu hoặc chất gây nghiện khác không vì mục đích chữa bệnh gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, và ở chừng mực nào đó, gây suy giảm chức năng xã hội, tâm lý, và nghề nghiệp của người sử dụng
Sự mơ hồ Tình trạng lẫn lộn về cảm xúc hoặc mâu thuẫn trong suy nghĩ về một người nào đó hoặc một điều gì đó
Sự phản kháng Từ chối chấp nhận hoặc không đồng ý một điều gì đó Bất kỳ cảm xúc, suy nghĩ hay cách giao tiếp nào của khách hàng mà nó cản trở sự tham gia hiệu quả của khách hàng vào quá trình tư vấn
Tác hại Tổn thương thể chất (đặc biệt là những điều gây tổn thương rõ rệt) Bất kỳ sự kiện hoặc yếu tố tác nhân nào gây ra những hậu quả bất lợi
Tài xoay xở Có khả năng tìm ra cách vượt qua khó khăn nhanh chóng và khôn ngoan
Tái nghiện/tái phát Chịu đựng sự thất bại sau một thời gian cải thiện Quay trở lại hình thái sử dụng chất gây nghiện trước đây, qua quá trình thấy các dấu hiệu chỉ điểm khách hàng quay trở lại trạng thái lạm dụng chất gây nghiện
Tái sử dụng/ lầm lẫn Sự mất tập trung, mất trí nhớ hoặc nhận định tạm thời Tái sử dụng ma túy sau một thời gian ngừng sử dụng
Tập trung vào mục tiêu Dựa trên mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và/hoặc dài hạn của một cá nhân hoặc nhóm Thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể rõ ràng hoặc tiềm ẩn trong tư vấn
giải thích từ ngữ 99 Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Thảo luận trường hợp Một buổi họp có cấu trúc giữa các tư vấn viên để thảo luận về các khía cạnh chuyên môn tư vấn liên quan đến khách hàng
Thấu cảm Khả năng hiểu và chia sẻ các cảm xúc với người khác
Thèm nhớ Sự thèm muốn mạnh mẽ về một điều gì đó
Thời điểm sâu lắng Thời điểm trong buổi tư vấn có tác động mạnh đến suy nghĩ của khách hàng và cam kết của họ trong việc thay đổi
Thuật ngữ chuyên môn Những từ hoặc thuật ngữ được sử dụng trong một chuyên ngành cụ thể hoặc một nhóm người nào đó mà người khác khó có thể hiểu được
Tìm hiểu Phân tích kỹ một chủ đề hoặc đề tài
Tính định hướng Bao gồm quản lý hoặc hướng dẫn về một điều gì đó
Tình trạng say/ phê Rượu hoặc ma túy, là tình trạng mất kiểm soát về hành vi/trí óc
Tóm tắt Trình bày ngắn gọn những điểm chính về (một điều gì đó)
Tôn trọng Một cảm xúc trân trọng sâu sắc đối với một người hay một điều gì đó xuất phát từ chất lượng, năng lực và thành quả của họ
Tranh cãi Trao đổi hoặc thể hiện quan điểm khác nhau hay trái ngược nhau, thường là theo cách nóng nảy hoặc tức giận
Trách nhiệm cá nhân (chịu trách nhiệm bản thân) – tình trạng hoặc thực tế về tự chịu trách nhiệm giải quyết vấn đề của mình
100 Tài liệu tập huấn về Tư vấn điều trị nghiện ma túy: Tài liệu dành cho giảng viên Tài liệu giảng dạy Tư vấn điều trị nghiện ma túy - Giải thích từ ngữ (tiếp)
THUẬT NGỮ ĐỊNH NGHĨA THEO TỪ ĐIỂN ĐỊNH NGHĨA THEO TƯ VẤN ĐIỀU TRỊ NGHIỆN
Tư vấn điều trị nghiện Là việc áp dụng một cách chuyên nghiệp và theo chuẩn mực đạo đức các nhiệm vụ và trách nhiệm cơ bản bao gồm đánh giá khách hàng; lập kế hoạch tư vấn điều trị; giới thiệu chuyển gửi; điều phối dịch vụ; giáo dục khách hàng, gia đình và cộng đồng; tư vấn cho khách hàng, gia đình và tư vấn nhóm; và ghi chép
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn Đưa ra những lời khuyên một cách chính thức Một cuộc trao đổi tương tác giữa tư vấn viên và khách hàng nhằm giúp khách hàng tìm hiểu về những vấn đề rắc rối của họ một cách bảo mật và nâng cao năng lực để họ tự giải quyết những vấn đề đó
Tư vấn nhận thức Phương pháp tư vấn dựa trên niềm tin là những suy nghĩ của người ta liên quan trực tiếp đến cảm xúc của họ như thế nào Một phương pháp tư vấn tập trung vào tăng cường khả năng của khách hàng để kiểm tra mức độ chính xác và thực tế về nhận thức/quan niệm của họ.
Tư vấn thay đổi hành vi Hình thức tư vấn dựa trên giả thuyết là người ta học hỏi chủ yếu qua kinh nghiệm Là một phương pháp coi tư vấn và điều trị là một quá trình học hỏi và tập trung vào thay đổi những hành vi cụ thể
Tư vấn viên Một người được đào tạo để cung cấp những hướng dẫn giải quyết các vấn đề cá nhân, xã hội hoặc tâm lý Tư vấn viên giống như cán bộ trị liệu vì họ sử dụng một loạt các kỹ thuật khác nhau để giúp khách hàng có được tình trạng sức khỏe tâm thần tốt hơn. (Một trong những phương pháp phổ biến nhất được biết là phương pháp tư vấn cá nhân để tìm hiểu niềm tin bên trong và nền tảng nhận thức (liệu pháp tâm lý) của khách hàng hoặc là một quá trình tương tự nhưng theo nhóm (tư vấn nhóm).
Tự nguyện Thực hiện hoặc hành động hoàn toàn theo mong muốn của một người nào đó
Yếu tố bên ngoài Không thuộc về bản chất của một người, một sự vật; đến hoặc được điều khiển từ bên ngoài Một điều gì đó đến từ bên ngoài, một cảm giác hoặc một quan điểm từ bên ngoài